T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 9-2018 
 25 
NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA TINH TRÙNG ÍT, YẾU, 
DỊ DẠNG ĐẾN KẾT QUẢ THỤ TINH TRONG ỐNG NGHIỆM 
 Nguyễn Thanh Tùng1; Nguyễn Thị Thứ2 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: đánh giá mối liên quan giữa tinh trùng ít, yếu, dị dạng với kết quả thụ tinh, hình 
thái phôi và kết quả lâm sàng. Đối tượng và phương pháp: 168 cặp vợ chồng hiếm muộn 
nguyên nhân do chồng được chia làm hai nhóm: tinh trùng ít, yếu, dị dạng và tinh trùng ít, yếu, 
dị dạng nặng theo phân loại của WHO (2010) và so sánh với nhóm chứng gồm 53 cặp vợ 
chồng hiếm muộn có tinh trùng bình thường được thụ tinh bằng phương pháp ICSI. Kết quả: tỷ lệ 
thụ tinh của nhóm bệnh nhân tinh trùng ít, yếu, dị dạng và tinh trùng ít, yếu, dị dạng nặng lần 
lượt 67,4 ± 21,2% và 58,7 ± 24,4%, thấp hơn so với nhóm tinh dịch đồ bình thường (77,5 ± 16,5%) 
với p < 0,05. Tỷ lệ phôi loại I và II của nhóm tinh trùng ít, yếu, dị dạng và tinh trùng ít, yếu, dị dạng 
nặng tương đương nhau, nhưng thấp hơn so với nhóm tinh dịch đồ bình thường có ý nghĩa 
thống kê (p < 0,05). Tỷ lệ thai lâm sàng ở nhóm tinh trùng ít, yếu, dị dạng (25,7%) cao hơn 
nhóm tinh trùng ít, yếu, dị dạng nặng (17,5%), cả hai nhóm này thấp hơn nhóm có tinh dịch đồ 
bình thường (42,6%). Kết luận: cặp vợ chồng hiếm muộn do nguyên nhân tinh trùng ít, yếu và 
dị dạng ảnh hưởng đến tỷ lệ thụ tinh, số phôi tạo ra cũng như chất lượng phôi, tỷ lệ thai lâm sàng. 
* Từ khóa: Tinh trùng ít, yếu, dị dạng; Tiêm tinh trùng vào bào tương noãn. 
Study Influence of Oligo-Astheno-tetratozoospermia on the Results 
of In Vitro Fertilization 
Summary 
Objectives: To evalutate correlation between oligo-astheno-tetratozoospermia semen and 
fertility, embryo morphology and the clinical result. Subjects and methods: 168 couples with 
male factor infertillity. The patients were divided into oligo-astheno-tetratozoospermia and 
severe oligo-astheno-tetratozoospermia according to WHO (2010), which were compared with 
53 infertility couples with normal semen. All couples underwent fertilization following intracytoplasmic 
sperm injection. Results: Fertilization rate of oligo-astheno-tetratozoospermia and severe 
oligo-astheno-tetratozoospermia (67.4 ± 21.2% and 58.7 ± 24.4%, respectively) were significantly 
lower than normal semen (77.5 ± 16.5%) with p < 0.05. The number of I, II class embryo quality 
of oligo-astheno-tetratozoospermia and severe oligo-astheno-tetratozoospermia were similar, 
but were lower than normal semen. Clinical pregnancy rate of oligo-astheno-tetratozoospermia 
(25.7%) was significantly higher than severe oligo-astheno-tetratozoospermia (17.5%), but both 
were significantly lower than normal semen (42.6%). Conclusions: Infertility couples with 
oligo-astheno-tetratozoospermia sperm had impact on fertilization, embryo quantity, quality and 
clinical pregnancy rate. 
* Keywords: Oligo-astheno-teratozoospermia; Intracytoplasmic sperm injection. 
1. Học viện Quân y 
2. Bệnh viện Bưu điện 
Người phản hồi (Corresponding): Nguyễn Thanh Tùng (
[email protected]) 
Ngày nhận bài: 10/09/2018; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 26/10/2018 
 Ngày bài báo được đăng: 12/11/2018 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 9-2018 
 26 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Vô sinh nam do tinh trùng ít, yếu, 
dị dạng (OAT) ngày càng xuất hiện nhiều. 
Hầu hết những người đàn ông này đều 
khỏe mạnh và nguyên nhân do bất thường 
quá trình sinh tinh. Kỹ thuật tiêm tinh trùng 
vào bào tương noãn (ICSI) xuất hiện 
những năm đầu 1990 đã mang lại niềm 
hy vọng và cơ hội lớn cho các cặp vợ chồng 
hiếm muộn nguyên nhân do người chồng 
tinh trùng OAT. Tuy nhiên, việc lựa chọn 
tinh trùng chỉ dựa trên hình thái, tính chất 
di động không phải là chọn lọc tự nhiên 
có thể ảnh hưởng đến kết quả điều trị. 
Đã có nhiều nghiên cứu đưa ra kết quả 
trái chiều về mối liên quan giữa tinh trùng 
với tỷ lệ thụ tinh, chất lượng phôi và kết 
quả có thai khi thực hiện kỹ thuật ICSI 
trên bệnh nhân (BN) hiếm muộn con do 
yếu tố tinh trùng. Do vậy nghiên cứu này 
có mục tiêu: Đánh giá ảnh hưởng của tinh 
trùng ít, yếu, dị dạng đến kết quả thụ tinh, 
hình thái phôi và kết quả lâm sàng. 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU 
1. Đối tượng nghiên cứu. 
168 cặp vợ chồng hiếm muộn nguyên 
nhân do tinh trùng được đánh giá là ít, 
yếu, dị dạng theo tiêu chuẩn WHO (2010) 
được điều trị bằng phương pháp ICSI tại 
Trung tâm Hỗ trợ Sinh sản, Bệnh viện 
Bưu điện từ tháng 4 - 2017 đến 2 - 2018. 
* Tiêu chuẩn lựa chọn: 
- Tuổi vợ < 35, dự trữ trứng bình thường. 
- Chồng có tinh dịch đồ OAT theo tiêu 
chuẩn của WHO (2010) [1]. 
* Tiêu chuẩn loại trừ: 
- Suy buồng trứng. 
- Hội trứng buồng trứng đa nang. 
- Bất thường tử cung: polýp, dính buồng 
tử cung, dị dạng tử cung. 
- Quá kích buồng trứng. 
2. Phương pháp nghiên cứu. 
* Thiết kế nghiên cứu: 
Nghiên cứu theo phương pháp mô tả, 
so sánh có nhóm chứng. Căn cứ vào tính 
chất mẫu tinh trùng theo tiêu chuẩn WHO 
(2010) [1], chia làm ba nhóm: 
- Nhóm 1 (nhóm chứng): tinh trùng được 
đánh giá là bình thường (53 cặp vợ chồng). 
- Nhóm 2 (OAT): tinh trùng được đánh 
giá là bất thường cả ba chỉ số (số lượng, 
độ di động, hình dạng) (116 cặp vợ chồng). 
- Nhóm 3 (OAT nặng): tinh trùng được 
đánh giá bất thường ba chỉ số ở thể nặng 
(số lượng < 1 triệu/ml, tinh trùng di động 
< 5%, hình thái bình thường < 4%) (52 cặp 
vợ chồng). 
* Kích thích buồng trứng, thực hiện kỹ 
thuật ICSI và nuôi cấy phôi: 
Kích thích buồng trứng có kiểm soát, 
sử dụng phác đồ GnRH đối đồng vận. 
BN được kích trứng vào ngày 2 của chu 
kỳ bằng liều FSH phù hợp với đáp ứng 
của từng BN. GnRH đối đồng vận 0,25 mg 
(orgalutran hoặc cetrotide) bắt đầu vào 
ngày thứ 6 của FSH. Khi có ít nhất 3 nang 
> 17 mm sẽ gây trưởng thành noãn bằng 
hCG 5.000 IU. Chọc hút noãn qua ngả 
âm đạo sau 35 giờ dùng hCG. 
Sau 4 giờ chọc hút noãn, thực hiện kỹ 
thuật ICSI. Sau 16 - 18 giờ thụ tinh bằng 
kỹ thuật ICSI, đánh giá noãn thụ tinh, 
những noãn thụ tinh bình thường được 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 9-2018 
 27 
nuôi cấy đến ngày 2. Hệ thống môi trường 
nuôi cấy của Hãng Vitrolife (Thụy Điển). 
Phân loại phôi ngày 2 dựa trên đánh giá 
đồng thuận Alpha của Hiệp hội ESHRE 
(2011) [2]. 
* Phương pháp đánh giá kết quả lâm sàng: 
- Đánh giá có thai sinh hóa: sau 2 tuần 
chuyển phôi, định lượng nồng độ βhCG 
> 30 mIU/ml. 
- Đánh giá có thai lâm sàng: sau 5 - 6 
tuần chuyển phôi, siêu âm kiểm tra thấy 
có túi ối. 
* Xử lý số liệu: 
Số liệu được xử lý theo chương trình 
SPSS 20, được dùng test X 2, test t-student 
để so sánh kết quả giá trị trung bình, tỷ lệ %, 
sự khác biệt với p < 0,05 được coi có 
ý nghĩa thống kê. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Bảng 1: Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng các nhóm nghiên cứu. 
Chỉ tiêu Nhóm chứng (n = 53) 
Nhóm OAT 
(n = 116) 
Nhóm OAT 
nặng (n = 52) 
Tuổi 31,4 ± 2,8 30,4 ± 3,5 30,1 ± 3,3 > 0,05 
AFC (nang trứng thứ cấp)
13,7 ± 4,4 12,40 ± 3,9 12,3 ± 3,9 > 0,05 
Liều FSH khởi đầu (mIU/ngày) 220,2 ± 58,6 238,3 ± 57,9 230,9 ± 47,9 > 0,05 
E2 ngày tiêm hCG (pg/ml) 4.272,3 ± 2.561,5 3.944,3 ± 2.102,8 4.150,3 ± 1.907,1 > 0,05 
Số ngày dùng FSH 9,7 ± 0,8 9,7 ± 0,7 9,8 ± 0,7 > 0,05 
Độ dày niêm mạc tử cung (mm) 11,1 ± 1,4 11,1 ± 1,7 11,7 ± 1,7 > 0,05 
Tuổi trung bình, số lượng nang thứ cấp, liều FSH khởi đầu và nồng độ E2 ngày 
tiêm hCG, số ngày dùng FSH và độ dày niêm mạc tử cung của cả ba nhóm tương 
đồng nhau, không có sự khác biệt (p > 0,05). 
Bảng 2: Kết quả xét nghiệm các nhóm nghiên cứu. 
Chỉ tiêu 
Nhóm chứng 
(n = 53) (1) 
Nhóm OAT 
(n = 116) (2) 
Nhóm OAT nặng 
(n = 52) (3) p 
Số noãn chọc hút được 14 ± 6,4 14 ± 5,5 15,3 ± 8,1 > 0,05 
Số noãn trưởng thành 12,7 ± 5,9 11,5 ± 5,4 12,1 ± 7,9 > 0,05 
Tỷ lệ thụ tinh (%) 77,5 ± 16,5 67,4 ± 21,2 58,7 ± 24,4 
p1,2 < 0,05 
p1,3 < 0,01 
p2,3 > 0,05 
Số phôi tạo được 10,2 ± 4,6 7,7 ± 4,3 7,1 ± 5,7 
p1,2 < 0,05 
p1,3 < 0,05 
p2,3 > 0,05 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 9-2018 
 28 
Số phôi loại I 51/543 (9,4%) 72/902 (7,9%) 20/372 (5,4%) 
p1,2 < 0,05 
p1,3 < 0,05 
p2,3 > 0,05 
Số phôi loại II 261/543 (48,1%) 
367/902 (40,7%) 
154/372 (41,4%) 
p1,2 < 0,05 
p1,3 < 0,05 
p2,3 > 0,05 
Số phôi loại III 231/543 (42,5%) 462/902 (51,2%) 197/372 52,9%) 
p1,2 < 0,05 
p1,3 < 0,05 
p2,3 > 0,05 
(Nhóm OAT có 2/116 trường hợp không có noãn thụ tinh nào; nhóm OAT nặng: 
3/52 trường hợp không có noãn thụ tinh nào) 
Số noãn thu được trung bình cũng như số noãn trưởng thành ở nhóm chứng và 
nhóm nghiên cứu tương đương nhau, khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). 
Tuy nhiên, tỷ lệ thụ tinh của hai nhóm tinh trùng OAT giảm hơn so với nhóm tinh trùng 
bình thường, với tỷ lệ thụ tinh lần lượt các nhóm là 67,4 ± 21,2%; 58,7 ± 24,4% và 
77,5 ± 16,5%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Nhóm OAT có 2 trường hợp 
không có noãn thụ tinh và nhóm OAT nặng có 3 trường hợp không có noãn thụ tinh. 
So sánh giữa hai nhóm OAT, tỷ lệ thụ tinh của nhóm OAT nặng thấp hơn nhóm OAT, 
nhưng khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). 
Tỷ lệ phôi loại I và II của nhóm tinh dịch đồ bình thường (9,4%; 48,1%) cao hơn 
nhóm OAT (7,9%; 40,7%) và nhóm OAT nặng (5,4%; 41,4%), sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê với p < 0,05. Số phôi loại I và II tương đương nhau ở hai nhóm OAT và OAT 
nặng, khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. Tuy nhiên, số phôi loại III của 
nhóm OAT và OAT nặng lần lượt là 51,2%; 52,9% cao hơn nhóm tinh dịch đồ bình thường 
(42,5%), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. 
Bảng 3: Kết quả lâm sàng của các nhóm nghiên cứu. 
Chỉ tiêu nghiên cứu Nhóm tinh dịch đồ bình thường (n = 53) (1) 
Nhóm OAT 
(n = 114) (2) 
Nhóm OAT 
nặng (n = 49) (3) 
p 
Số phôi trung bình chuyển 2,06 ± 0,8 1,98 ± 0,6 1,99 ± 0,7 > 0,05 
Tỷ lệ thai lâm sàng 42,6% 25,7% 17,5% p1,2 < 0,01 
p1,3 < 0,01 
p2,3 < 0,05 
Số phôi chuyển trung bình của 3 nhóm tương đương nhau, nhưng tỷ lệ có thai 
lâm sàng ở nhóm có tinh dịch đồ bình thường (42,6%) cao hơn nhóm OAT và OAT 
nặng có tỷ lệ có thai lần lượt là 25,7% và 17,5%, khác biệt có ý nghĩa thống kê với 
p < 0,05. Khi so sánh tỷ lệ thai lâm sàng, nhóm OAT cao hơn nhóm OAT nặng có ý nghĩa 
thống kê (p < 0,05). 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 9-2018 
 29 
BÀN LUẬN 
Vấn đề chính của tinh trùng OAT nặng 
là giảm cơ hội cho việc lựa chọn hình thái 
tinh trùng. Tỷ lệ thụ tinh của bất thường 
hình thái tinh trùng liên quan đến tỷ lệ làm 
tổ [3, 4]. Nagvenkar và CS (2005) tìm 
thấy mối liên quan giữa lỗi phân bào và 
số lượng tinh trùng thấp, tỷ lệ lệch bội của 
nhiễm sắc thể giới tính cao hơn đối với 
OAT nặng khi so với OAT nhẹ [5]. 
 Kết quả của chúng tôi tương tự một 
số tác giả khác nghiên cứu về ICSI trên 
BN OAT. Theo Lu Y.H (2012), tỷ lệ thụ 
tinh trung bình nhóm tinh dịch đồ bình 
thường sau ICSI là 73,6 ± 20,2%, nhóm 
OAT là 67,7 ± 24,5%, nhóm OAT nặng 
65,9 ± 21,5% [6]. Theo Kim H.J (2014), 
nhóm OAT có tỷ lệ thụ tinh 65,0 ± 21,1%, 
nhóm OAT nặng 67,7 ± 19,9%, không có 
sự khác biệt giữa hai nhóm [7]. 
Đánh giá hình thái tinh trùng đóng vai 
trò quyết định trong chẩn đoán khả năng 
sinh sản của nam giới và được chứng 
minh có giá trị dự đoán. Cohen-Bacrie và 
CS (2009) thấy bất thường hình thái tinh 
trùng có thể liên quan đến đứt gãy ADN, 
bất thường nhiễm sắc thể và thiếu hụt 
trung thể [8]. Nghiên cứu của Knez và CS 
(2011) cho rằng lựa chọn hình thái tinh 
trùng bằng độ phóng đại lớn đã cải thiện 
sự phát triển của phôi, tỷ lệ làm tổ, tỷ lệ 
sảy thai mà trước đó kết quả có thai và 
thất bại làm tổ liên tiếp trên tinh trùng bất 
thường về hình thái được thực hiện bằng 
kỹ thuật ICSI thông thường [9]. 
Tỷ lệ có thai phụ thuộc vào nhiều yếu 
tố như chất lượng phôi, số lượng phôi 
chuyển, tuổi người phụ nữ, trong đó chất 
lượng phôi là yếu tố quyết định. Trong 
nghiên cứu của chúng tôi, nhóm tinh dịch 
đồ bình thường có tỷ lệ có thai cao nhất, 
tương đồng với số phôi loại I và II cao 
hơn hai nhóm OAT và OAT nặng. Kết quả 
của chúng tôi tương tự một số tác giả 
khác nghiên cứu về vấn đề này như 
Loutradi K.E (2006), tỷ lệ có thai lâm sàng 
ở nhóm tinh dịch đồ bình thường là 26,0%, 
nhóm OAT là 17,2%, nhóm cryptozoospermia 
12,1% [10]. 
KẾT LUẬN 
Cặp vợ chồng hiếm muộn do nguyên 
nhân tinh trùng ít, yếu và dị dạng ảnh 
hưởng đến tỷ lệ thụ tinh, số phôi tạo 
ra cũng như chất lượng phôi, tỷ lệ thai 
lâm sàng. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Organisation W.H. WHO laboratory 
manual for the examination of human semen 
and sperm-cervical mucus interaction. Cambridge 
University Press. 2010. 
2. Alpha Scientists in Reproductive 
Medicine and ESHRE Special Interest Group 
of Embryo. The Istabul consensus workshop 
on embryo assessment proceedings of an 
expert meeting. Human Reproduction. 2011, 
26 (6), pp.1270-1283. 
3. De Vos A, Van De Velde H, Joris H, 
Verheyen G, Devroey P, Van Steirteghem A. 
Influence of individual sperm morphology on 
fertilization, embryo morphology, and pregnancy 
outcome of intracytoplasmic sperm injection. 
Fertil Steril. 2003, 79, pp.42-48. 
4. Verza SJr, Esteves S.C. Sperm defect 
severity rather than sperm source is 
associated with lower fertilization rates after 
intracytoplasmic sperm injection. Braz J Urol. 
2008, 34, pp.49-56. 
5. Nagvenkar P, Zaveri K, Hinduja I. 
Comparision of the sperm aneuploidy rate in 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 9-2018 
 30 
severe oligozoospermic and oligozoospermic 
men and its relation to intracytoplasmic sperm 
injection outcome. Fertil Steril. 2005, 84, 
pp.925-931. 
6. Lu Y.H, Gao H.J, Li B.J et al. Different 
sperm sources and parameters can influence 
intracytoplasmic sperm injection outcomes 
before embryo implantation. Journal of 
Zhejiang University Science. 2012, 13 (1), 
pp.1-10. 
7. Kim H.J, Yoon H.J, Jang J.M et al. 
Comparison between intracytoplasmic sperm 
injection and intracytoplasmic morphologically 
selected sperm injection in oligo-astheno-
teratozoospermia patients. Clinical and 
Experimental Reproductive Medicine. 2014, 
41 (1), pp.9-14. 
8. Cohen-Bacrie P, Belloc S, Ménézo Y.J, 
Clement P, Hamid, J, Benkhalifa M. 
Correlation between DNA damage and sperm 
parameters: A prospective study of 1,633 
patients. Fertil Steril. 2009, 91, pp.1801-1805. 
9. Knez K, Zorn B, Tomazevic T, Vrtacnik-
Bokal E, Virant-Klun I. The IMSI procedure 
improves poor embryo development in the 
same infertile couples with poor semen 
quality: A comparative prospective 
randomized study. Repro Biol Endocrinol. 
2011, 9, p.123. 
10. Loutradi K.E, Tarlatzis B.C, Goulis D.G 
et al. The effects of sperm quality on embryo 
development after intracytoplasmic sperm 
injection. Journal of Assisted Reproduction 
and Genetics. 2006, 23 (2), pp.69-74.