Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Nội Khoa 
214
MỘT TRƯỜNG HỢP HUYẾT KHỐI TĨNH MẠCH SÂU TÁI PHÁT 
DO HỘI CHỨNG KHÁNG PHOSPHOLIPID 
Nguyễn Trường Duy * 
TÓM TẮT 
Huyết khối tĩnh mạch sâu là một bệnh cảnh thường gặp, việc điều trị tương đối lâu dài, tỉ lệ tử vong cao nếu 
gây ra thuyên tắc động mạch phổi cấp. Huyết khối tĩnh mạch sâu dễ tái phát nếu nguyên nhân gây huyết khối 
không được tìm ra hoặc nguyên nhân này không thể được giải quyết triệt để cũng như việc bệnh nhân không 
được điều trị kháng đông một cách tích cực. Chúng tôi báo cáo một trường hợp huyết khối tĩnh mạch sâu tái phát 
do hội chứng antiphospholipid. 
Từ khóa: huyết khối tĩnh mạch sâu, kháng đông, kháng phospholipid 
ABTRACT 
RECURRENT DEEP VENOUS THROMBOSIS DUE TO ANTIPHOSPHOLIPID SYNDROME: 
A CASE REPORT 
Nguyen Truong Duy 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 2- 2019: 214-219 
Deep venous thrombosis is a common disease which requires long time treatment with high mortality if 
complicating acute pulmonary embolism. Deep venous thrombosis usually relapses once its etiology is not found 
or enable to be completely solved as well as that the patient is not intensively anticoagulated. We hereby report a 
case of recurrent deep venous thrombosis due to antiphospholipid syndrome. 
Keywords: deep venous thrombosis, anticoagulation, antiphospholipid 
GIỚI THIỆU BỆNH ÁN 
Bệnh nhân Phạm Thị H., sinh năm 1990 (27 
tuổi). Nghề nghiệp: nội trợ. 
Nhập viện ngày 07/06/2017. Số hồ sơ: 54470. 
Lý do nhập viện 
Đau chân trái. 
Cách nhập Bệnh viện Chợ Rẫy 1 ngày: bệnh 
nhân (BN) đột ngột sưng và đau chân trái từ đùi 
đến bàn chân, hạn chế vận động. BN nhập bệnh 
viện tỉnh, ∆: tắc tĩnh mạch nông, sâu chân trái do 
huyết khối; điều trị giảm đau với paracetamol 
chuyển BV Chợ Rẫy. 
Tiền căn 
Bệnh nhân không bị chấn thương, không 
nằm bất động hoặc sử dụng thuốc gì trong thời 
gian gần đây. 
Năm 2001: bệnh nhân đã được chẩn đoán 
huyết khối tĩnh mạch sâu chân trái (không ghi 
nhận chẩn đoán nguyên nhân vào thời điểm đó), 
được điều trị với thuốc kháng đông không rõ 
loại trong 6 tháng, sau đó ngưng điều trị. 
Sẩy thai 2 lần: lần 1 với thai #20 tuần, lần 2 
với thai #14 tuần. 
Rụng tóc nhiều trong thời gian gần đây. 
Thường hay sưng, đau các khớp liên đốt 
ngón tay, tự hết. 
Ghi nhận tại Bệnh viện Chợ Rẫy 
BN tỉnh, tiếp xúc tốt. Không đau ngực hoặc 
khó thở. 
Mạch: 85 l/ph Huyết áp: 120/80 mmHg. 
Nhiệt độ: 370C Nhịp thở: 20 lần/phút. 
Tim: T1, T2 đều rõ. Phổi: trong, không rale. 
Không ghi nhận hồng ban ngoài da, 
không lở miệng. 
*Bộ môn Nội - Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh, khoa Nội Tim Mạch – Bệnh viện. Chợ Rẫy 
Tác giả liên lạc: ThS. Nguyễn Trường Duy ĐT: 0907021198 Email: 
[email protected] 
.* Bộ môn Nội, ĐH Y Dược TP. Hồ Chí Minh 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Nội Khoa 
215 
Chân trái: phù từ vùng đùi đến bàn chân, ấn 
lõm, không nóng, không dấu hiệu viêm mô tế bào. 
Đầu chi hồng, cử động các ngón chân bình 
thường, không dị cảm. 
Hạch: không sờ thấy. 
Siêu âm mạch máu chi dưới: 
Siêu âm động mạch 2 chân không phát hiện 
tắc hẹp. 
Tắc gần hoàn toàn hệ tĩnh mạch chậu-đùi 
sâu chân trái do huyết khối. 
Siêu âm tim: không ghi nhận huyết khối 
trong buồng tim và tĩnh mạch chủ dưới. 
Các xét nghiệm căn bản 
Bảng 1. Công thức máu 
RBC Hb. MCV MCH MCHC WBC Neu. Lym. PLT 
3,75 
T/L 
110 
g/L 
91,9 
fL 
29,3 
pg 
319 
g/L 
12,99 
G/L 
69,3% 19,1% 33 
G/L 
Thiếu máu đẳng sắc đẳng bào, giảm tiểu cầu, 
tăng số lượng bạch cầu. 
Bảng 2. Xét nghiệm sinh hóa 
Glucose BUN Creatinine ALT AST TPTNT 
76 mg/dL 17 mg/dL 0,8 mg/dL 47 U/L 29 U/L Bình 
thường 
Protein: (-) 
Blood (-) 
BN được làm các xét nghiệm tầm soát bệnh 
tự miễn 
Bảng 3. Các xét nghiệm tự miễn 
ANA Anti-
dsDNA 
C3 C4 Anti-CCP RF 
Dương 
tính 
Âm tính 66 mg/dL 5,3 
mg/dL 
3,2 IU/mL 11,8 
IU/mL 
Có tình trạng giảm bổ thể C3 + C4 và ANA (+). 
BN được khảo sát các yếu tố tăng đông và 
kháng đông: 
Bảng 4. Các xét nghiệm yếu tố tăng đông và kháng đông 
Xét nghiệm Kết quả Giá trị bình thường 
Protein S 68,3% 62 - 145 
Protein C 70,1% 70-135 
Anti-thrombin 70,6% 80 - 130 
Homocystein 12,1 µmol/L 3,36 – 20,4 
Có tính trạng giảm Anti-thrombin phù 
hợp với bệnh cảnh hội chứng kháng 
phospholipid. 
Với bệnh cảnh hướng đến bệnh tự miễn, về 
tiền căn bệnh nhân có sẩy thai tái phát nhiều 
lần, chúng tôi tầm soát hội chứng kháng 
phospholipid. 
Bảng 5. Xét nghiệm tầm soát hội chứng 
kháng phospholipid 
Xét nghiệm Kết quả Giá trị bình 
thường 
Anti-cardiolipin IgG 158 U/mL < 20 U/mL 
Anti-cardiolipin IgM 253 U/mL < 15 U/mL 
Lupus Anticoagulant confirm 43 giây 30 – 38 giây 
Lupus Anticoagulant confirm ratio 1,37 R 0,9 – 1,1 
Các xét nghiệm đều phù hợp với hội chứng 
kháng phospholipid. 
Chẩn đoán 
Huyết khối tĩnh mạch sâu chân trái tái phát 
chưa biến chứng – hội chứng kháng phospholid 
thứ phát – lupus ban đỏ hệ thống biến chứng 
huyết học. 
Điều trị 
Ức chế miễn dịch: methylprednisolone 
1mg/kg/ngày tiêm tĩnh mạch. 
Kháng đông: rivaroxaban 15 mg x 2/ngày (uống). 
Điều trị hỗ trợ: calcium + viatmin D3. 
KẾT QUẢ 
Lâm sàng 
BN giảm sưng và đau chân trái sau 3 ngày. 
Đến ngày 5: hết phù chân, hết đau. 
Huyết học 
Bảng 6. Thay đổi thông số xét nghiệm huyết học sau 
điều trị 
 Ngày nhập 
viện 
Ngày 2 Ngày 4 Ngày 
8 
Hb (g/L) 110 108 105 107 
PLT (G/L) 33 40 96 101 
BN đáp ứng tốt với điều trị trên cả phương 
diện lâm sàng (giảm đau + phù chân) và cận lâm 
sàng (tình trạng giảm tiểu cầu cải thiện rõ rệt). 
BÀN LUẬN 
Huyết khối tĩnh mạch sâu là một bệnh cảnh 
thường gặp, có thể gây biến chứng nguy hiểm 
đe dọa tính mạng như thuyên tắc động mạch 
phổi cấp, hoặc về lâu dài có thể gây tổn thương 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Nội Khoa 
216
van tĩnh mạch không hồi phục – hội chứng hậu 
huyết khối. Nếu không được điều trị, 50% bệnh 
nhân sẽ tái phát huyết khối tĩnh mạch sâu có 
triệu chứng trong vòng 3 tháng. Nếu điều trị 
không đầy đủ, nguy cơ tử vong do thuyên tắc 
phổi là 3%. Sau ngưng điều trị kháng đông, tỉ lệ 
tái phát là 5 -15% mỗi năm. Huyết khối tĩnh 
mạch sâu có thể tái phát nếu bệnh nhân không 
được điều trị kháng đông đúng và đủ (đủ liều, 
đủ thời gian) hoặc nguyên nhân khởi kích tình 
trạng tạo lập huyết khối không được tìm thấy. 
Chính vì vậy, trên những bệnh nhân bị huyết 
khối tĩnh mạch sâu, việc truy tìm nguyên nhân, 
yếu tố khởi kích rất quan nếu bệnh cảnh huyết 
khối tĩnh mạch tái phát nhiều lần và tuổi thai của 
những lần bị sẩy càng nhỏ dần thì hội chứng 
kháng phospholipid là bệnh cảnh nên được nghĩ 
đến. Theo nghiên cứu của Cervera R. và cộng sự 
trên 1000 bệnh nhân có hội chứng kháng 
phospholipid thì biểu hiện bằng huyết khối tĩnh 
mạch sâu chiếm 39%, giảm tiểu cầu: 30%, sẩy 
thai sớm (<10 tuần): 35%, sẩy thai muộn (≥10 
tuần): 17%(8). 
Hội chứng kháng phospholipid đặc trưng 
bởi tình trạng huyết khối động mạch hoặc tĩnh 
mạch và/hoặc gây sẩy thai nhiều lần cùng với sự 
hiện diện của kháng thể kháng phospholipid. 
Tiêu chuẩn chẩn đoán hội chứng kháng 
phospholipid đã có nhiều thay đổi trong những 
năm vừa qua. Kể từ năm 1999, tiêu chuẩn 
Sapporo được sử dụng rộng rãi trong chẩn đoán 
hội chứng kháng phospholipid do có độ nhạy và 
độ đặc hiệu cao(4). Theo tiêu chuẩn này, để chẩn 
đoán hội chứng kháng phospholipid cần ít nhất 
1 tiêu chuẩn lâm sàng và 1 tiêu chuẩn cận lâm 
sàng. Tuy nhiên, tiêu chuẩn này khó áp dụng 
trên những bệnh nhân lớn tuổi, không định 
nghĩa rõ ràng về ngưỡng cắt “trung bình – cao” 
của hiệu giá kháng thể anticardiolipin IgM và 
IgG. Để khắc phục những nhược điểm đó, tiêu 
chuẩn Sapporo cải biên 2006 (tiêu chuẩn Sydney) 
đã được đề xuất để chẩn đoán hội chứng kháng 
phospholipid như sau: chẩn đoán xác định cần ít 
nhất 1 tiêu chuẩn lâm sàng và 1 tiêu chuẩn cận 
lâm sàng(4). 
Tiêu chuẩn lâm sàng 
Huyết khối mạch máu: có ≥1 biến cố tắc 
động mạch, tĩnh mạch hoặc mạch máu nhỏ xảy 
ra tại bất kỳ mô hay cơ quan nào, được xác định 
bằng hình ảnh học hoặc mô học (huyết khối tĩnh 
mạch nông không nằm trong tiêu chuẩn này). 
Biến chứng trên thai kỳ 
Có ≥3 lần sẩy thai liên tiếp nhau trước tuần 
thứ 10 của thai kỳ, không giải thích được bằng 
các bất thường nhiễm sắc thể của cha/mẹ hoặc 
các bất thường về giải phẫu, nội tiết của người mẹ. 
Có ≥1 lần sẩy thai không giải thích được khi 
thai ≥10 tuần tuổi. 
Có ≥1 lần sinh non khi thai ≤34 tuần do tiền 
sản giật năng, sản giật hoặc suy nhau thai. 
Tiêu chuẩn cận lâm sàng 
Lupus anticoagulant (+). 
Kháng thể anticardiolipin IgG và/hoặc IgM 
(+) với nồng độ trung bình hoặc cao (>40 GPL 
hoặc MPL hoặc trên bách phân vị thứ 99) bằng 
kỹ thuật ELISA chuẩn hóa. 
Kháng thể Anti-2-GP1 IgG và/hoặc IgM (+) 
với nồng độ trên bách phân vị thứ 99 bằng kỹ 
thuật ELISA chuẩn hóa. 
Bệnh nhân nữ trong trường hợp lâm sàng 
này bị huyết khối tĩnh mạch sâu tái phát nên 
việc truy tìm nguyên nhân rất quan trọng. Trong 
lần bị huyết khối tĩnh mạch đầu tiên, bệnh nhân 
đã không được chẩn đoán nguyên nhân gây 
huyết khối. BN có thêm dữ kiện lâm sàng gợi ý 
hội chứng kháng phospholipid là sẩy thai liên 
tiếp 2 lần và tuổi thai khi bị sẩy nhỏ dần (lần 1 
khi thai #20 tuần, lần 2 khi thai #14 tuần) nên 
chúng tôi quyết định làm các xét nghiệm tự miễn 
cho hội chứng kháng phospholipid (Bảng 5). Đối 
chiếu theo tiêu chuẩn Sydney 2006 thì bệnh nhân 
đủ tiêu chuẩn chẩn đoán hội chứng kháng 
phospholipid với 1 tiêu chuẩn lâm sàng (huyết 
khối tĩnh mạch chi dưới) và có đến 2 tiêu chuẩn 
cận lâm sàng đều thỏa: lupus anticoagulant (+), 
anticardiolipin IgM và IgG đều (+). 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Nội Khoa 
217 
Hội chứng kháng phospholipid có thể 
nguyên phát hoặc thứ phát; và một khi là thứ 
phát thì thường nằm trong bệnh cảnh của lupus 
ban đỏ hệ thống. Theo nghiên cứu của 
McMahon MA. Và cộng sự, tần suất hội chứng 
kháng phospholipid trên bệnh nhân được chẩn 
đoán lupus ban đỏ hệ thống là 27%. Tỉ lệ này lên 
đến 61% theo nghiên cứu của nhóm tác giả 
Laisvyde Statkute(8). Chúng tôi sử dụng bảng 
tiêu chuẩn chẩn đoán lupus ban đỏ hệ thống của 
SLICC 2012 (Systemic Lupus International 
Collaborating Clinics classification criteria for 
systemic lupus erythematosus)(8), bệnh nhân này 
đã thỏa tiêu chuẩn chẩn đoán lupus khi có đủ 4 
tiêu chuẩn: giảm tiểu cầu, ANA (+), giảm bổ thể 
C3 + C4, Lupus anticoagulant (+). 
Ngay sau khi đã có chẩn đoán xác định, 
chúng tôi tiến hành điều trị ngay cho bệnh nhân 
bằng thuốc kháng đông và corticoid liều ức chế 
miễn dịch vì bệnh nhân có đồng thời ANA (+) 
kết hợp với giảm bộ thể nên chúng tôi nghĩ 
nhiều khả năng bệnh cảnh lupus đang tiến triển. 
Theo khuyến cáo của Trường môn tim mạch 
Hoa Kỳ, kháng vitamin K là thuốc kháng đông 
được lựa chọn hàng đầu cho bệnh nhân có biến 
chứng huyết khối do hội chứng kháng 
phospholipid(8). Tuy nhiên, điều trị huyết khối 
bằng thuốc kháng vitamin K cần “bắc cầu” với 
heparin. Bệnh nhân này lúc nhập viện có giảm 
tiểu cầu (PLT = 33 G/L) nên chúng tôi không thể 
sử dụng heparin vì có thể làm nặng thêm tình 
trạng giảm tiểu cầu (giảm tiểu cầu do heparin). 
Do đó, chúng tôi cũng không thể khởi trị bằng 
kháng vitamin K đơn độc do hiện tượng tăng 
đông nghịch thường xảy ra trong 72 giờ đầu sau 
dùng kháng vitamin K (gây giảm protein S, 
protein C), có thể làm phát triển kích thước 
huyết khối hiện có và tạo lập huyết khối tại cái vị 
trí khác. Mặt khác, điều trị với kháng vitamin K 
bắt buộc phải theo dõi thường xuyên hiệu lực 
kháng đông thông qua xét nghiệm INR và INR 
có mức dao động nhiều. Trong trường hợp này, 
thuốc kháng đông đường uống không phải 
kháng vitamin K (NOAC) làm một lựa chọn 
thay thế hợp lý(5). Đã có nhiều nghiên cứu chứng 
minh hiệu quả của NOAC trong phòng ngừa đột 
quỵ trong rung nhĩ, phòng ngừa huyết khối tĩnh 
mạch sâu tái phát trên bệnh nhân có bệnh cảnh 
huyết khối thuyên tắc tĩnh mạch, cũng như 
phòng ngừa tiên phát huyết khối tĩnh mạch sâu 
trên những bệnh nhân nguy cơ cao(5). Tuy nhiên, 
nghiên cứu chứng minh hiệu quả phòng ngừa 
huyết khối tái phát trên bệnh nhân có hội chứng 
kháng phospholipid vẫn còn một số hạn chế. Dữ 
liệu về hiệu quả của rivaroxaban nói riêng và 
NOAC nói chung trong bệnh cảnh hội chứng 
kháng phospholipid qua các nghiên cứu vẫn còn 
cho các kết quả trái ngược nhau(1). Nghiên cứu 
của Schafer, Signorelli, Win và Rogers cho thấy 
NOAC không hiệu quả(6,11). Tuy nhiên, phần lớn 
những bệnh nhân thất bại với điều trị NOAC 
trong các nghiên cứu này đều thuộc nhóm nguy 
cơ rất cao (huyết khối tái phát, có huyết khối 
động mạch, bộ ba kháng thể đều dương tính). 
Nghiên cứu của nhóm tác giả Sciascia cho thấy 
rivaroxaban hiệu quả và an toàn cho những 
bệnh nhân kháng phospholipid có huyết khối 
tĩnh mạch sâu và không dung nạp với thuốc 
kháng vitamin K(10). 
Nghiên cứu RAPS (Rivaroxaban versus 
warfarin to treat patients with thrombotic 
antiphospholipid syndrome) thực hiện trên 116 
bệnh nhân thỏa tiêu chuẩn chẩn đoán hội chứng 
kháng phospholipid, được phân nhóm ngẫu 
nhiên dùng warfarin hoặc rivaroxaban 20 
mg/ngày nhằm đánh giá hoạt lực thrombin nội 
sinh giữa 2 nhóm. Hoạt lực thrombin nội sinh 
(Endogenous Thrombin Potential - ETP) là một 
chỉ dấu đánh giá sự cân bằng giữa yếu tố tăng 
đông và kháng đông của cơ thể. ETP càng cao, 
nguy cơ tạo lập huyết khối càng cao(12). Kết quả 
của nghiên cứu RAPS cho thấy rivaroxaban có 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Nội Khoa 
218
hiệu quả tương đương với warfarin trong việc 
giảm hình thành huyết khối tái phát, tuy nhóm 
sử dụng rivaroxaban có ETP cao hơn có ý nghĩa 
so với nhóm sử dụng warfarin(3). 
Nghiên cứu của tác giả Hannah Cohen và 
cộng sự trên 110 bệnh nhân mắc hội chứng 
kháng phospholipid được phân nhóm sử dụng 
rivaroxaban và warfarin(10). Kết quả: tỉ lệ huyết 
khối tái phát và tỉ lệ biến chứng xuất huyết nặng 
sau 6 tháng điều trị giữa hai nhóm khác biệt 
không có ý nghĩa thống kê(2,3). 
Phân tích gộp của 2 tác giả Houry Leblebjian 
và Aric Parnes trên 360 bệnh nhân có huyết khối 
động hoặc tĩnh mạch sâu đang được điều trị với 
kháng đông được xét nghiệm tìm hội chứng 
kháng phospholipid. 41 trường hợp (11,3%) thỏa 
tiêu chuẩn chẩn đoán kháng phospholipid theo 
Sapporo. Kết quả cho thấy: NOAC có hiệu quả 
và biến chứng xuất huyết tương đương với 
warfarin. Trong nghiên cứu này, tỉ lệ bệnh nhân 
sử dụng rivaroxaban trong nhóm NOAC chiếm 
71%(7). Nghiên cứu của tác giả Noel N. trên 26 
bệnh nhân có hội chứng kháng phospholipid 
bằng thuốc kháng trực tiếp thrombin (thuộc 
nhóm NOAC) chỉ ghi nhận duy nhất 1 trường 
hợp huyết khối tái phát(9). 
Từ kết quả của các nghiên cứu trên, chúng 
tôi có cơ sở cho việc điều trị huyết khối trong 
bệnh cảnh hội chứng kháng phospholipid bằng 
thuống kháng đông NOAC, cụ thể là 
rivaroxaban với liều khởi đầu là 15 mg x 2 
lần/ngày (tương tự liều sử dụng trong nghiên 
cứu EINSTEIN DVT)(5), song song với điều trị 
lupus ban đỏ hệ thống. Kết quả cho thấy bệnh 
nhân có cải thiện rõ rệt về triệu chứng lâm sàng 
(giảm đau và phù chân, đi lại được), đồng thời 
không ghi nhận biến chứng xuất huyết xảy ra 
trong suốt quá trình điều trị. 
KẾT LUẬN 
Huyết khối tĩnh mạch sâu là một bệnh lý dễ 
tái phát, việc tìm nguyên nhân gây huyết khối có 
ý nghĩa trong việc tiên lượng và điều trị nhằm 
ngăn ngừa tái phát. Hội chứng kháng 
phospholipid nên được nghĩ đến trên bệnh nhân 
nữ có huyết khối tĩnh mạch sâu tái phát kèm sẩy 
thai nhiều lần. Hơn 50% hội chứng kháng 
phospholipid là thứ phát do lupus ban đỏ hệ 
thống. Tiêu chuẩn Sydney có thể được sử dụng 
để chẩn đoán hội chứng kháng phospholipid. 
Việc điều trị huyết khối bằng warfarin hoặc 
thuốc kháng đông đường uống thế hệ mới 
rivaroxaban cho hiệu quả tương đương nhau 
qua một số công trình nghiên cứu. Cần có những 
nghiên cứu sâu hơn về hiệu quả cũng như tính 
an toàn của rivaroxaban trong điều trị phòng 
ngừa huyết khối tái phát trên bệnh nhân có hội 
chứng kháng phospholipid. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Braham S, Bucciarelli P, Moia M (2015). “Treatment of 
Thrombosis in Antiphospholipid Syndrome. In: Pier L”. 
Antiphospholipid Antibody Syndrome: From Bench to Bedside, pp 
185-192. Springer, Switzerland. 
2. Cohen H, Hunt BJ, Efthymiou M et al (2017). “Direct Oral 
Anticoagulants Use in Antiphospholipid Syndrome: Are These 
Drugs an Effective and Safe Alternative to Warfarin? A 
Systematic Review of the Literature: Comment”. Curr Rheumatol 
Rep, 19(8): 50. 
3. Cohen H, Hunt BJ, Efthymiou M, Arachchillage DR et al (2016). 
“Rivaroxaban versus warfarin to treat patients with thrombotic 
antiphospholipid syndrome, with or without systemic lupus 
erythematosus (RAPS): a randomised, controlled, open-label, 
phase 2/3, non-inferiority trial”. Lancet Haematol, Sep; 3(9):426–436. 
4. Edwin S, Troy S (2019). “Antiphospholipid Antibody 
Syndrome.”. The 5-Minute Clinical Consult 27th edition, pp.627-
636. Wolters Kluwer, Philadelphia. 
5. EINSTEIN Investigators, Bauersachs R, Berkowitz SD et al 
(2010). “Oral Rivaroxaban for Symptomatic Venous 
Thromboembolism”. N Engl J Med, 363:2499-2510. 
6. Haładyj E, Olesińska M (2016). “Rivaroxaban – A Safe 
Therapeutic Option In Patients With Antiphospholipid 
Syndrome? Our experience in 23 cases”. Reumatologia, 
54(3): 146–149. 
7. Houry L, Aric P (2017). “Direct Oral Anticoagulants in Anti-
Phospholipid Syndrome”. Blood, 130:2145. 
8. Moutsopoulos HM, Vlachoyiannopoulos PG (2018). 
“Antiphospholipid Syndrome. In Jameson, Fausi, Kasper (eds)”. 
Harrison’s Principles of Internal Medicine 20th edition, pp 2256-2257. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Nội Khoa 
219 
The McGraw-Hill, New York. 
9. Noel N, Dutasta F, Bienvenu B et al (2015). “Safety and efficacy 
of oral direct inhibitors of thrombin and factor Xa in 
antiphospholipid syndrome”. Autoimmun Rev, Aug;14(8):680-5. 
10. Sciascia S, Breen K, Hunt BJ (2015). “Rivaroxaban use in patients 
with antiphospholipid syndrome and previousvenous 
thromboembolism”. Blood Coagulation and Fibrinolysis, 26:476–478. 
11. Signorelli F, Nogueira F, Domingues V et al (2016). “Thrombotic 
events in patients with antiphospholipid syndrome treated with 
rivaroxaban: a series of eight cases”. Clin Rheumatol, 
Mar,35(3):801-5. 
12. Urbanus RT (2016). “Rivaroxaban to treat thrombotic 
antiphospholipid syndrome”. www.thelancet.com/haematology, 
Vol 3 September 2016. 
Ngày nhận bài báo: 08/11/2018 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 10/12/2018 
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2019