Một số vấn đề phương pháp luận nghiên cứu và phát triển văn hóa - Con người - Nguồn nhân lực trong điều kiện kinh tế thị trường, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế

Tài liệu Một số vấn đề phương pháp luận nghiên cứu và phát triển văn hóa - Con người - Nguồn nhân lực trong điều kiện kinh tế thị trường, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế: Tạp chí thông tin KHXH 2007 Một số vấn đề ph−ơng pháp luận nghiên cứu và phát triển văn hóa - con ng−ời - nguồn nhân lực trong điều kiện kinh tế thị tr−ờng, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế (về kết quả nghiên cứu của đề tài kh-cn cấp nhà n−ớc kx.05.010) Hồ Sĩ Quý* Ngày 7/4/2007 tại Viện Thông tin KHXH, đề tài KH-CN cấp nhà n−ớc KX.05.01 “Cơ sở ph−ơng pháp luận nghiên cứu và phát triển văn hóa - con ng−ời - nguồn nhân lực trong điều kiện kinh tế thị tr−ờng, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế” do PGS.TS. Hồ Sĩ Quý làm chủ nhiệm đã đ−ợc nghiệm thu cấp Nhà n−ớc. Đây là đề tài thuộc Ch−ơng trình KH-CN cấp Nhà n−ớc KX.05: “Nghiên cứu và phát triển văn hóa - con ng−ời - nguồn nhân lực trong điều kiện kinh tế thị tr−ờng, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế”; Ch−ơng trình do GS.VS.TSKH. Phạm Minh Hạc làm chủ nhiệm. Sau khi nghiệm thu, đề tài đã đ−ợc đăng ký tại Bộ KHCN với Giấy chứng nhận số 6381/KQ-TTKHCN. Để kết quả nghiên cứu của đề tài có thể nhanh chóng đến với bạn...

pdf24 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 345 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Một số vấn đề phương pháp luận nghiên cứu và phát triển văn hóa - Con người - Nguồn nhân lực trong điều kiện kinh tế thị trường, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí thông tin KHXH 2007 Một số vấn đề ph−ơng pháp luận nghiên cứu và phát triển văn hóa - con ng−ời - nguồn nhân lực trong điều kiện kinh tế thị tr−ờng, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế (về kết quả nghiên cứu của đề tài kh-cn cấp nhà n−ớc kx.05.010) Hồ Sĩ Quý* Ngày 7/4/2007 tại Viện Thông tin KHXH, đề tài KH-CN cấp nhà n−ớc KX.05.01 “Cơ sở ph−ơng pháp luận nghiên cứu và phát triển văn hóa - con ng−ời - nguồn nhân lực trong điều kiện kinh tế thị tr−ờng, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế” do PGS.TS. Hồ Sĩ Quý làm chủ nhiệm đã đ−ợc nghiệm thu cấp Nhà n−ớc. Đây là đề tài thuộc Ch−ơng trình KH-CN cấp Nhà n−ớc KX.05: “Nghiên cứu và phát triển văn hóa - con ng−ời - nguồn nhân lực trong điều kiện kinh tế thị tr−ờng, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế”; Ch−ơng trình do GS.VS.TSKH. Phạm Minh Hạc làm chủ nhiệm. Sau khi nghiệm thu, đề tài đã đ−ợc đăng ký tại Bộ KHCN với Giấy chứng nhận số 6381/KQ-TTKHCN. Để kết quả nghiên cứu của đề tài có thể nhanh chóng đến với bạn đọc, tạp chí Thông tin KHXH xin giới thiệu bài viết của Chủ nhiệm đề tài. * PGS.TS., Chủ nhiệm đề tài KX.05.01. August 07 Hosiquy@fpt.vn 1 Tạp chí thông tin KHXH 2007 I. Khách thể nghiên cứu của đề tài là ph−ơng pháp luận - cơ sở ph−ơng pháp luận và những vấn đề ph−ơng pháp luận của việc nghiên cứu và phát triển văn hóa - con ng−ời - nguồn nhân lực trong điều kiện của xã hội Việt Nam ngày nay - một xã hội chấp nhận toàn cầu hóa nh− bối cảnh khách quan của những cơ hội và thách thức đang đặt ra cho sự phát triển; một xã hội hiểu và năng động sử dụng các ph−ơng thức của kinh tế thị tr−ờng để xây dựng đất n−ớc; một xã hội chủ động và tích cực hội nhập quốc tế và trên thực tế, đó là xã hội thay đổi từng ngày với tốc độ tăng tr−ởng kinh tế khoảng 7- 8%/năm. Vấn đề là ở chỗ, ph−ơng pháp luận nghiên cứu với các phạm vi ứng dụng và trình độ khái quát rộng hẹp khác nhau, x−a nay luôn đ−ợc quan tâm trong hầu hết các công công trình, thậm chí trong từng công đoạn nghiên cứu văn hóa - con ng−ời - nguồn nhân lực. Dù ý thức hay (vô tình/cố ý) không ý thức, không có nghiên cứu nào lại thoát ly đ−ợc các định h−ớng, chỉ dẫn ph−ơng pháp luận. Sự thật này đã đ−ợc xác nhận trong suốt chiều dài của lịch sử khoa học, cả trên thế giới cũng nh− ở Việt Nam. Tuy thế, đối với sự tìm tòi khoa học, ph−ơng pháp luận đã có ch−a bao giờ đ−ợc coi là đã tuyệt đối đầy đủ, hoàn thiện hoặc vạn năng đối với hầu hết các quy trình nghiên cứu. Bởi thế các nghiên cứu về ph−ơng pháp luận luôn đ−ợc chú ý bổ sung, cải tạo hoặc xây dựng theo những ý t−ởng mới. Các nhà nghiên cứu đều ít nhiều hy vọng rằng, có thể có một ph−ơng pháp luận tốt hơn, có hiệu quả hơn hoặc đỡ phiến diện hơn cho các công trình nghiên cứu của mình. Đề tài đã triển khai theo h−ớng vừa chú trọng nghiên cứu định tính, vừa chú trọng nghiên cứu định l−ợng, nhằm tìm hiểu (từ hai phía có vẻ nh− ng−ợc nhau) những ph−ơng pháp luận đã có về nghiên cứu và phát triển văn hoá - con ng−ời – nguồn nhân lực và xác định những vấn đề có ý nghĩa ph−ơng pháp luận mới. • Cách thức triển khai đề tài: - Một lần nữa, đề tài chú trọng rà soát lại các tác phẩm của C. Mác và Ph. Ăngghen, những t− t−ởng cơ bản của Hồ Chí Minh, những văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà n−ớc về lĩnh vực văn hóa - con ng−ời - nguồn nhân lực; nghiên cứu làm rõ một số khái niệm cơ bản, nhấn mạnh hoặc bổ sung cho những cách tiếp cận, những chỉ dẫn ph−ơng pháp luận mà lâu nay, do điều kiện nào đó, các nhà nghiên cứu và hoạt động xã hội đã lãng quên hoặc không chú ý thỏa đáng. - Tìm hiểu những vấn đề mới đặt ra cho sự nghiên cứu và phát triển của văn hóa - con ng−ời - nguồn nhân lực trong điều kiện hiện nay: tiến bộ khoa học - công nghệ ở thế kỷ XXI, kinh tế thị tr−ờng ở trình độ toàn cầu hóa, những đòi hỏi về t− duy phức hợp về con ng−ời, vấn đề giá trị và giá trị châu á, vấn đề sử dụng bộ công cụ HDI để xác định những định h−ớng và những chỉ dẫn ph−ơng pháp luận cần thiết, phù hợp cho sự nghiên cứu và phát triển văn hóa - con ng−ời - nguồn nhân lực ở Việt Nam giai đọan hiện nay. - Đề tài đã tổ chức điều tra xã hội học với tiêu đề Ng−ời Việt Nam trong quan niệm của các tầng lớp c− dân tiêu biểu để khảo sát quan niệm của chính ng−ời Việt August 07 Hosiquy@fpt.vn 2 Tạp chí thông tin KHXH 2007 Nam (các tầng lớp c− dân tiêu biểu) về ng−ời Việt Nam (theo mẫu đ−ợc lựa chọn t−ơng ứng với dân số của 6 tỉnh/thành gồm Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hà Tĩnh, Lạng Sơn và Cần Thơ; tổng số nghiệm thể là 1043). Tìm hiểu thái độ (từ cảm nhận đến các trình độ nhận thức sâu sắc hơn) và sự đánh giá của các tầng lớp c− dân tiêu biểu về những nét đặc thù, những phẩm chất tích cực, thế mạnh và những hạn chế của ng−ời Việt Nam tr−ớc đòi hỏi mới của xã hội trong điều kiện kinh tế thị tr−ờng, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Trên cơ sở đó (từ thực tế) xác định những vấn đề có ý nghĩa về mặt ph−ơng pháp luận đối với công tác nghiên cứu và phát triển con ng−ời trong quan hệ với văn hóa và nguồn nhân lực. • Tổ chức lực l−ợng nghiên cứu - Nhóm các cộng sự (có sự tham gia của nhiều sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh) tại ĐH Khoa học xã hội và nhân văn, ĐHQG Hà Nội, do TS. L−u Minh Văn, Phó Chủ nhiệm Bộ môn Chính trị học và TS. Nguyễn Anh Tuấn, khoa Triết học chủ trì: Đọc lại toàn bộ các tác phẩm của C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập V.I. Lênin, những t− t−ởng cơ bản của Hồ Chí Minh, những văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà n−ớc về lĩnh vực văn hóa - con ng−ời - nguồn nhân lực. Nghiên cứu các vấn đề về di sản kinh điển, về Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh. Tổ chức bản thảo một số ấn phẩm. - Nhóm các cộng sự Viện nghiên cứu con ng−ời, do TSKH. Trịnh Thị Kim Ngọc chủ trì: Nghiên cứu các lý thuyết hiện đại về văn hóa - con ng−ời - nguồn nhân lực, mối quan hệ hữu cơ, nhân quả của quan hệ văn hóa - con ng−ời - nguồn nhân lực. - Nhóm các cộng sự ĐH Mỏ Địa chất, do TS. Nguyễn Bình Yên chủ trì: Nghiên cứu Vấn đề về quan hệ văn hoá - con ng−ời - nguồn nhân lực trong t− t−ởng truyền thống; khai thác di sản t− t−ởng của một số danh nhân dân tộc. - Nhóm các cộng sự Viện Triết học, do PGS. TSKH. L−ơng Việt Hải, Phó Viện tr−ởng Viện Triết học chủ trì: Nghiên cứu tiến bộ khoa học - công nghệ trong thế kỷ XXI và những vấn đề đặt ra đối với nghiên cứu và phát triển văn hóa - con ng−ời - nguồn nhân lực ở Việt Nam và trên thế giới. - Nhóm các cộng sự Viện Triết học, do PGS. TS. Phạm Văn Đức, Viện tr−ởng Viện Triết học chủ trì: Nghiên cứu vai trò nguồn nhân lực trong sự phát triển xã hội hiện đại; kinh nghiệm quốc tế và kinh nghiệm Việt Nam trong việc xây dựng và phát triển nguồn nhân lực sao cho thích ứng với nhu cầu của thời đại ngày nay. - Nhóm các cộng sự ĐH Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, ĐH Khoa học xã hội và nhân văn tp Hồ Chí Minh, Cao đẳng S− phạm Hà tĩnh, ĐH S− phạm Hà Nội II do PGS. TS. Vũ Hào Quang, chủ nhiệm khoa Xã hội học, ĐH Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội, TS. D−ơng Bạch Kim,Viện nghiên cứu Con ng−ời và TS. Nguyễn Hữu V−ợng, khoa Xã hội học ĐH Khoa học xã hội và nhân văn tp Hồ Chí Minh chủ trì: Thiết kế và tổ chức điều tra xã hội học tại các tỉnh/thành trong cả n−ớc; xử lý kết quả điều tra theo phần mềm SPSS, làm báo cáo kết quả điều tra. August 07 Hosiquy@fpt.vn 3 Tạp chí thông tin KHXH 2007 - Nhóm các cộng sự Viện nghiên cứu con ng−ời, một số viện thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam, ĐH Khoa học xã hội và nhân văn tp Hồ Chí Minh do PGS. TS. Hồ Sĩ Quý chủ nhiệm Đề tài chủ trì: Nghiên cứu các vấn đề về t− duy phức hợp, về giá trị và giá trị châu á, về sử dụng bộ công cụ HDI, về những kết luận chung và các báo cáo của Đề tài. - Th− ký đề tài: ThS. Nguyễn Hoài Sanh, Cao đẳng S− phạm Hà tĩnh; CN. Nguyễn Đình Tuấn, Viện nghiên cứu con ng−ời. • Ngoài Báo cáo tóm tắt và Bản kiến nghị, kết quả nghiên cứu phong phú của đề tài đ−ợc trình bày trong Báo cáo tổng hợp (hơn 400 trang khổ A4) gồm 4 phần: - Phần thứ nhất: Nghiên cứu và phát triển văn hoá - con ng−ời - nguồn nhân lực: từ lý luận đến thực tiễn Kinh nghiệm thế giới và Kinh nghiệm việt nam. - Phần thứ hai: Chủ nghĩa Mác, di sản t− t−ởng truyền thống và t− t−ởng Hồ Chí Minh: những chỉ dẫn trong nghiên cứu và phát triển văn hoá, con ng−ời và nguồn nhân lực trong điều kiện kinh tế thị tr−ờng,toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. - Phần thứ ba: Ng−ời Việt Nam trong quan niệm của các tầng lớp dân c− tiêu biểu (Kết quả Điều tra xã hội học). - Phần thứ t−: Kết luận. Sau đây là một số kết quả đáng l−u ý của đề tài về mặt ph−ơng pháp luận đối với sự nghiên cứu và phát triển văn hóa - con ng−ời - nguồn nhân lực trong điều kiện kinh tế thị tr−ờng, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. II. 1. Vấn đề sử dụng thành quả của tiến bộ khoa học - công nghệ Từ vài thập niên tr−ớc, tiến bộ KH-CN đã đ−ợc nhận định là có ý nghĩa cách mạng đối với sự phát triển của xã hội loài ng−ời; sự tác động mạnh và sâu của KH-CN đã hiển nhiên đến mức không còn là vấn đề phải bàn cãi. Đến nay, d−ới góc độ ph−ơng pháp luận, nếu phải nói đến những vấn đề đặt ra từ tiến bộ KH-CN, ít nhất, có hai điều cần đ−ợc l−u ý: Thứ nhất, ngày nay KH-CN đã đem lại “những kết quả có lợi ở mức cao nhất” cho con ng−ời - tính chất “vị nhân sinh” của KH-CN ch−a bao giờ đạt tới trình độ nh− hiện nay. Mỗi thế hệ ng−ời ngày nay đều đ−ợc h−ởng “một phổ các sản phẩm công nghệ và công nghiệp” lớn hơn so với cha anh họ; nếu tr−ớc đây phải một vài thế hệ, thì nay chỉ trong khoảng 7-10 năm, sản phẩm KH-CN đã phải chuyển sang một thế hệ mới. August 07 Hosiquy@fpt.vn 4 Tạp chí thông tin KHXH 2007 Trên thực tế, KH-CN “đã tác động sâu sắc tới hành vi và triển vọng” của chính con ng−ời 1. Thứ hai, nh−ng KH-CN thế giới lại đang vận động với tốc độ “v−ợt quá khả năng tiếp nhận của phần lớn c− dân” 2: ng−ời có mức sống thấp, ng−ời nghèo cũng đ−ợc h−ởng thành quả KH-CN, nh−ng quá ít, trong khi số ng−ời nghèo lại chiếm phần lớn nhân loại. Đây là bài toán hóc búa nhất về mặt văn hóa - con ng−ời - nguồn nhân lực đặt ra cho mọi chiến l−ợc phát triển. 2. Toàn cầu hoá, kinh tế thị tr−ờng và hội nhập quốc tế: vấn đề về t− duy toàn cầu, hành động địa ph−ơng Trong khi tại các khu vực khác trên thế giới, TCH bị tẩy chay và chống đối rất mạnh, thì ở Đông á, Đông nam á, trong đó có Việt Nam, TCH đ−ợc đón nhận khá nồng nhiệt. ở khu vực này, tất cả các chính phủ đều chủ tr−ơng chấp nhận và tham gia TCH (ngay cả Malaysia, nơi lên án trực diện nhất và gay gắt nhất TCH, cũng không tẩy chay TCH theo kiểu ở Italy, Pháp, Mỹ Latinh hay Nam Phi...). Ng−ời ta th−ờng giải thích điều này rằng, đây là khu vực đ−ợc h−ởng lợi nhiều hơn từ TCH. Tuy nhiên, nguyên nhân không chỉ là kinh tế, mà sâu xa hơn, hiện t−ợng này còn do những nguyên nhân thuộc về văn hóa và con ng−ời. Không thể giải thích thấu đáo bất cứ hoạt động nào nếu ng−ời ta tách kinh tế ra khỏi nhân tố con ng−ời và văn hóa. Mấu chốt của vấn đề là, TCH mở ra cơ hội và đặt ra thách thức đối với mọi quốc gia, mọi khu vực, nh−ng nắm bắt đ−ợc cơ hội và khống chế đ−ợc thách thức đến mức nào lại là điều phụ thuộc đáng kể vào nội lực của từng quốc gia và của từng chủ thể. Nhân tố văn hóa và con ng−ời có vai trò rất lớn ở đây. 3 Cùng với TCH, là kinh tế thị tr−ờng ở trình độ toàn cầu. Từ hơn 20 năm nay, nền kinh tế thế giới đã từng b−ớc thiết lập đ−ợc những quan hệ và thể chế đa quốc gia, xuyên quốc gia. Ngày nay, bất cứ nền kinh tế nào cũng phải tự đặt mình trong xu thế toàn cầu để hoạch định các kế hoạch phát triển. Các nhân tố chung của sự phát triển kinh tế trong thời đại TCH 4 mà các quốc gia đều buộc phải chú ý là: - Trình độ dân trí của c− dân. Vị thế của tiếng Anh trong đời sống xã hội. 1 Xem: Khoa học và công nghệ thế giới: Thách thức và vận hội mới. TT Thông tin KH & CN QG xuất bản. Hà Nội, 2005 (Ch−ơng 3).// Tuyên bố của Hội nghị thế giới “khoa học cho thế kỷ XXI: Những trách nhiệm mới”. Tạp chí Thông tin KHXH số 5, 2000. 2 Xem: Nh− chú thích trên. 3 Xem Bản tin TTXVN số 150/TKNB-QT ngày 9/8/2005: Tại Hội nghị Bộ tr−ởng châu á -Thái Bình D−ơng, Jacarta, 8/8/2005, Rodrik so sánh Việt Nam với Mehico và cho rằng, đ−ợc h−ởng lợi từ TCH thì không n−ớc nào có điều kiện nh− Mehico, còn chịu thiệt thòi vì TCH, thì không n−ớc nào rơi vào hoàn cảnh nh− Việt Nam. Vậy mà kết quả phát triển lại trái ng−ợc nhau. 4 Xem: Asian Week. Volume 26. No. 48. November 2006. August 07 Hosiquy@fpt.vn 5 Tạp chí thông tin KHXH 2007 - Sự chuẩn bị các nguồn lực của sự phát triển, đặc biệt là nguồn lực lao động trí tụê. Thị tr−ờng lao động sẽ ngày càng đ−ợc quốc tế hóa. Đội ngũ các nhà doanh nghiệp buộc phải có trình độ ngày càng cao hơn, năng động hơn. - Thông tin ngày càng chiếm tỷ trọng cao hơn trong tăng tr−ởng kinh tế. - Hệ thống tài chính bị chi phối từ bên ngoài nhiều hơn. Thị tr−ờng tiền tệ trở thành thị tr−ờng quốc tế. - Các chế định quốc gia ngày càng thích nghi với các chế định quốc tế. Hệ thống pháp chế trở thành hệ thống pháp chế toàn cầu. - Các công ty đa quốc gia - xuyên quốc gia sẽ ngày càng chi phối cả bốn thị tr−ờng: hàng hóa, dịch vụ, tiền tệ và lao động. - Các mục tiêu của nhân loại sẽ ngày càng nhất trí hoặc thỏa hiệp với nhau. Tất cả đều là những bài toán về mặt ph−ơng pháp luận: Ngày nay, nếu mỗi quốc gia muốn phát triển theo các chiến l−ợc của mình, thì bản thân các chiến l−ợc đó phải đ−ợc hoạch định ở tầm t− duy toàn cầu, phải giải quyết đ−ợc các quan hệ về chủ quyền quốc gia - thể chế quốc tế, khống chế đ−ợc các nguồn nội lực và nguồn lực bên ngoài T− duy toàn cầu, hành động địa ph−ơng là một đòi hỏi thực tế đối với mỗi hoạt động cụ thể, dù là hoạt động chỉ diễn ra ở phạm vi cục bộ địa ph−ơng. 3. Phát triển nguồn nhân lực: kinh nghiệm Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan Quy hoạch, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là một nhiệm vụ mới đối với sự phát triển ở Việt Nam. Kinh nghiệm về lĩnh vực này, thế giới, đặc biệt khu vực Đông á, có những bài học rất quý. Vấn đề là làm thế nào để Việt Nam sử dụng đ−ợc những kinh nghiệm đó. Sau chiến tranh thế giới II, số ng−ời không có việc làm ở Nhật Bản lên tới 13,1 triệu ng−ời, chiếm 17,5% dân số và 37,4% lực l−ợng lao động. Nhờ một loạt chính sách kịp thời, trong đó về lao động là giảm tốc độ tăng dân số, phát triển cơ cấu kinh tế phù hợp, cải cách quản lý ở các công ty, chú trọng chăm sóc sức khỏe và phát triển giáo dục, nên chỉ sau một thời gian ngắn, Nhật Bản đã trở thành c−ờng quốc có nền kinh tế đứng thứ hai trên thế giới và về ph−ơng diện phát triển con ng−ời, Nhật Bản cũng trở thành n−ớc có chỉ số phát triển ng−ời cao (2005: HDI 0,943; xếp thứ 11/177 n−ớc). Đáng l−u ý là, lúc đầu (khoảng những năm 1946-1952) ở Nhật Bản cũng đã có những quan điểm ảo t−ởng về sức mạnh của KH-CN, mà cụ thể là quá đặt niềm tin vào tác dụng của tự động hóa. Nh−ng chỉ sau vài năm, ng−ời ta sớm nhận ra cái quyết định sự phát triển là con ng−ời, nhân tố con ng−ời rồi mới đến các nhân tố khác. Đề cao con ng−ời không phải chỉ là một khẩu hiệu suông. Sự tỉnh táo này là bài học rất đáng l−u ý cho các quốc gia đi sau. Bên cạnh Nhật Bản, Hàn Quốc trong ba thập kỷ (1961-1991), cũng từ một n−ớc nghèo, bị chiến tranh tàn phá trở thành một trong những con hổ châu á (NICs), có nền August 07 Hosiquy@fpt.vn 6 Tạp chí thông tin KHXH 2007 kinh tế mạnh nhất trong thế giới thứ ba. Từ 1963 - 1978, GNP thực tế của Hàn Quốc tăng gần 10%/năm và trong suốt những năm 1973 - 1978, tăng hơn 11%/năm. Từ 100 USD/ng−ời năm 1963 (t−ơng đ−ơng với Việt Nam lúc đó), đến 1988 Hàn Quốc đã v−ợt quá 3500 USD, và nay (2005) là 17.971 USD/ng−ời. Theo đánh giá của một số học giả, Hàn Quốc là tấm g−ơng nổi bật nhất về phát triển kinh tế dài hạn 5. Bài học chung về sự phát triển của Hàn Quốc là sự kết hợp một cách hữu cơ các nhân tố kinh tế với các nhân tố xã hội: 1/ tỉ lệ cao về biết chữ và sự cần cù của dân chúng, 2/ chính sách cải cách kinh tế đầu những năm 60 nhằm phát triển các ngành cần nhiều lao động và sản phẩm nhằm xuất khẩu, 3/ tính linh hoạt rất cao trong quản lý (luôn luôn sẵn sàng phản ứng đối với những tín hiệu phát sinh từ nền kinh tế), 4/ sự phối hợp hợp lý giữa kinh tế khu vực nhà n−ớc và khu vực t− nhân,v.v...6. Về nhân tố con ng−ời, bài học của Hàn Quốc là đánh thức đ−ợc “tâm thế phát triển” của cả một dân tộc: Tinh thần tự nguyện làm thêm giờ với đồng l−ơng thấp, thái độ sẵn sàng hy sinh vì xí nghiệp, vì đất n−ớc những lúc khó khăn (đặc biệt, khi khủng hoảng tài chính những năm 90), chia sẻ với chính phủ trong những quyết sách lớn đã bù đắp đáng kể cho sự thiếu hụt về vốn và nguồn lực tự nhiên. Còn ở Đài Loan, cần l−u ý rằng đầu những năm 60, chính phủ “không hề biết đ−ợc mình đang có nguồn nhân lực nh− thế nào, và nghiêm trọng hơn, chính phủ cũng hoàn toàn không biết gì về nhu cầu nguồn nhân lực trong vòng 5 năm hay 10 năm tiếp”7. Năm 1964, Đài Loan đã thành lập tổ chức “Nhân lực t− nguyên tiểu tổ” (cơ quan quốc gia về phát triển nguồn nhân lực) với nhiệm vụ giúp chính phủ quy hoạch nguồn nhân lực quốc gia, điều chỉnh ngành nghề, phối hợp và thúc đẩy kế hoạch định kỳ phát triển quốc gia. Từ năm 1966, căn cứ vào nhu cầu phát triển định kỳ, tổ chức này đã đề xuất “Kế hoạch phát triển nhân lực” mỗi năm, căn cứ theo đó mà kiểm tra, điều phối quy hoạch phát triển nguồn nhân lực quốc gia. Trải qua 40 năm, tổ chức này đã đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phồn vinh kinh tế cũng nh− ổn định xã hội tại Đài Loan. Sau 20 năm thực hiện chính sách phát triển nhân lực, nền giáo dục Đài Loan đã đi theo h−ớng từ mục tiêu dân trí chuyển mạnh sang mục tiêu h−ớng nghiệp, phổ cập giáo dục phổ thông rồi chuyển ngay sang h−ớng nghiệp. Điều đó t−ơng ứng với kết cấu kinh tế đã chuyển từ nền kinh tế xã hội có tính truyền thống sang nền công nghiệp tập trung nhân công cao rồi đến công nghệ cao có đầu t− t− bản lớn. Bài học của hòn đảo Đài Loan đất chật ng−ời đông, tài nguyên ít ỏi, trong nửa thế kỷ qua đã tạo nên “kỳ tích kinh tế” là bài học về cơ chế chỉnh thể điều chỉnh nguồn nhân lực quốc gia với một sách l−ợc “liền mạch lâu dài”. Nguồn nhân lực là nhân tố 5 Xem: HDR 2005.// Michael P. Todaro (1998). Kinh tế học cho thế giới thứ ba. Nxb. Giáo dục, tr. 165. 6 Xem: Michael P. Todaro (1998). Sđd., tr.165. 7 Nhân lực t− nguyên tiểu tổ, ủy ban hợp tác phát triển kinh tế quốc tế chính phủ Đài Loan (1996). Nhân lực t− nguyên quy hoạch, Đài Bắc, tr.3. August 07 Hosiquy@fpt.vn 7 Tạp chí thông tin KHXH 2007 đặc biệt cần có sự bồi d−ỡng và huấn luyện không ngừng. Tài nguyên nhân lực là cái buộc phải sử dụng chứ không thể để “thừa” (lãng phí) hoặc vứt bỏ nh− các tài nguyên khác. Kinh nghiệm Nhật Bản, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc và các n−ớc công nghiệp đều chỉ ra rằng, không một quốc gia nào, một dân tộc nào trên thế giới có thể trở nên giàu có và có tỷ lệ tăng tr−ởng kinh tế cao tr−ớc khi hoàn thành phổ cập giáo dục phổ thông. Các n−ớc NICs có tốc độ tăng tr−ởng kinh tế nhanh trong những thập kỷ 70, 80 đều đạt đ−ợc mức độ phổ cập giáo dục tiểu học tr−ớc khi nền kinh tế đó cất cánh. Mặt khác, các nghiên cứu trắc nghiệm lâu nay cũng đã chỉ ra rằng những đầu t− về vốn chỉ góp một phần nhỏ vào sự tăng tr−ởng kinh tế. Phần lớn giá trị của sản phẩm thặng d− là do chất l−ợng lực l−ợng lao động quyết định. Thêm vào đó, trong thời đại của cách mạng KH & CN, yếu tố thông tin và tri thức trở thành thành phần cốt lõi của cả hệ thống kinh tế hiện đại. Các số liệu thống kê chỉ ra rằng, phần đóng góp của thông tin, tri thức trong thu nhập quốc dân của Mỹ là 47,4%, Anh là 45,8%, Đức là 40% 8. Vì thế, không phải ngẫu nhiên mà Gary Becker, ng−ời đ−ợc giải th−ởng Noben về kinh tế năm 1992, đã khẳng định rằng “không có đầu t− nào mang lại nguồn lợi lớn nh− đầu t− vào nguồn lực con ng−ời, đặc biệt là đầu t− cho giáo dục" 9. 4. Nghiên cứu phức hợp về con ng−ời - vấn đề của khoa học hiện đại và của xã hội hiện đại Con ng−ời là nguồn lực quyết định, là mục tiêu và động lực của sự phát triển; con ng−ời ngày nay giữ vị trí trung tâm trong sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Những mệnh đề này đã khá quen thuộc và đ−ợc thừa nhận rộng rãi. Nh−ng con ng−ời là gì? Câu hỏi này lại cần đến khoa học, nhất là khoa học hiện đại - những khoa học chủ tr−ơng nghiên cứu phức hợp - liên ngành về con ng−ời. Từ những năm 70 (thế kỷ XX), xu h−ớng nghiên cứu phức hợp - liên ngành về con ng−ời xuất hiện. Xu h−ớng này đ−ợc nảy sinh từ thực tiễn phát triển khoa học và sâu xa hơn, từ bản thân đối t−ợng nghiên cứu – con ng−ời với đặc tr−ng độc đáo, bí ẩn và phong phú của nó. Khoa học hiện đại nhận ra những bất cập khi quá đề cao nghiên cứu chuyên sâu đối với con ng−ời - một thực thể vừa tự nhiên, vừa xã hội, vừa tinh thần: "Các đặc tr−ng sinh học của loài ng−ời bị cắt rời từng mảng cho các khoa sinh học và y học. Các đặc tr−ng tâm lý, văn hoá và xã hội bị phân chia thành nhiều mảng bố trí trong nhiều bộ môn riêng biệt của của khoa học nhân văn và xã hội, đến nỗi xã hội hoá mất hết khả năng nhìn vào xã hội, sử học tự thu mình lại trong bản thân, và kinh tế học thì cố khai thác từ Homo sapien demens (ng−ời khôn/điên rồ) cái phần cặn bã đã vắt kiệt 8 Xem: Trần Văn Tùng, Lê ái Lâm (1996). Phát triển nguồn nhân lực: kinh nghiệm thế giới và thực tiễn n−ớc ta. Nxb CTQG, Hà Nội. tr. 24. 9 Xem: Về giải th−ởng Nobel kinh tế năm 1992. The Economist, ngày 17 tháng 10 năm 1992. August 07 Hosiquy@fpt.vn 8 Tạp chí thông tin KHXH 2007 máu của con "ng−ời kinh tế" (homo economicus). Tồi tệ hơn thế, ý t−ởng về loài ng−ời, tình ng−ời đã bị đập nát vụn thành những mẩu nhỏ... "10. Trải qua hơn nửa thế kỷ nếu tính từ M. Scheler, hoặc trải qua hơn 30 năm nếu tính từ E. Morin và I.T. Frolov, nhu cầu nghiên cứu phức hợp về con ng−ời và sự triển khai cách tiếp cận phức hợp - liên ngành trong nghiên cứu con ng−ời đã tỏ rõ là một đòi hỏi khách quan của sự tiến triển khoa học. Hiện nay, bên cạnh các chuyên gia nhẫn nại triển khai ph−ơng thức nghiên cứu này trong các công trình cụ thể của mình, đã có một số trung tâm khoa học trực tiếp điều phối và khuyến khích ng−ời nghiên cứu đi vào theo cách tiếp cận này 11. Vấn đề là ở chỗ, nhận thức về con ng−ời sẽ rất khó đi xa hơn nếu không biết ứng dụng cách tiếp cận phức hợp - liên ngành. Trong khi đó, ở Việt Nam, ngoài Viện nghiên cứu con ng−ời, gần nh− không mấy ai quan tâm nhiều đến xu h−ớng phát triển này của khoa học. Bởi vậy, cần có kế hoạch nghiên cứu triển khai cách tiếp cận này để việc nghiên cứu con ng−ời và xã hội trong các khoa học xã hội và nhân văn trở nên sâu sắc hơn. 5. Vấn đề giá trị quan châu á Khoảng 15 năm nay, thế giới nói nhiều đến giá trị châu á và coi đó là một trong những nguyên nhân văn hóa giải thích sự h−ng vong của khu vực này, trong đó có Việt Nam. Ngày nay, trong đối thoại Đông Tây về các vấn đề nhân quyền, các vấn đề trách nhiệm xã hội và tự do cá nhân, các vấn đề về dân tộc, tôn giáo đảng phái hay lối sống các nhà nghiên cứu và các chính khách á Đông khó có thể có đ−ợc lập luận vững vàng nếu lãng quên vấn đề giá trị châu á. Mặc dù ở từng nhà nghiên cứu, bức tranh cụ thể về các giá trị châu á có thể là không giống nhau, song nếu chọn ra những điểm giống nhau có trong mọi quan niệm, thì ở tất cả những ng−ời đã từng suy nghĩ về sự khác biệt giá trị giữa châu á và ph−ơng Tây ít nhất đều có những ý t−ởng chung là: 1/ ở các xã hội châu á chắc chắn có những giá trị đặc thù so với ph−ơng Tây. 2/ Trong xã hội hiện đại, những giá trị này có thể −u trội hơn so với các giá trị ph−ơng Tây. 3/ Cần phải đề cao giá trị châu á trong sự phát triển của xã hội hiện đại. Theo thống kê của chúng tôi, những giá trị −u trội của văn hóa 10 E. Morin, A.B. Kern (2002). Trái đất - tổ quốc chung: tuyên ngôn cho thiên niên kỷ mới. Nxb KHXH. Hà Nội. tr. 143. 11 Chẳng hạn, Institute for Human Studies, Hoa Kỳ; Maison des sciences de l'homme, Pháp; Отдел Человека, ИФ, Nga. Xem thêm thông tin tại các website: www.theihs.org Institute for Human Studies, thuộc George Mason University, Hoa Kỳ; Maison des sciences de l'homme, thuộc Centre national de la recherche scientifique (CNRS Pháp; Отдел Человека, РАН Nga. August 07 Hosiquy@fpt.vn 9 Tạp chí thông tin KHXH 2007 á Đông đ−ợc đông đảo các học giả Đông và Tây thừa nhận là 12: 1/ Hiếu học, đề cao giáo dục. 2/ Cần cù, yêu lao động. 3/ Đề cao trách nhiệm cá nhân đối với cộng đồng. 4/ Đề cao quan hệ gia đình, huyết tộc. vấn đề là ở chỗ, lâu nay, khi bàn tới các giá trị −u trội châu á, nhà nghiên cứu nào cũng bị phản bác bởi lập luận: chẳng có giá trị nào là của “riêng” châu á; điều gì châu á tôn vinh thì về đại thể ở nơi khác ng−ời ta cũng tôn vinh. Cần cù, hiếu học, tôn trọng gia đình, đề cao trách nhiệm cộng đồng là những đức tính chung của toàn nhân loại. Chẳng lẽ chỉ có ng−ời châu á là hiếu học và yêu lao động còn ở những nơi khác tính cách con ng−ời lại kém cỏi hơn hay sao. Lập luận trên là xác đáng. Và, sự khác biệt đáng phải bàn luận, ở đây, hóa ra là khác biệt về giá trị quan chứ không phải là khác biệt giữa các giá trị cụ thể. Nói đến giá trị đặc thù châu á, thực chất, là nói tới sự khác biệt về giá trị quan, thể hiện trong việc đánh giá, xếp loại (đề cao, tôn vinh hay coi th−ờng) các giá trị cụ thể trong bảng giá trị hoặc trong hệ thống giá trị. Nghĩa là, với các nền văn hóa khác nhau, thông th−ờng, bảng giá trị hay hệ thống giá trị cũng khác nhau. Tuy nhiên, các giá trị cụ thể trong mỗi hệ thống giá trị đó phần nhiều lại th−ờng giống nhau. Rất hiếm có giá trị đặc thù về tính cách con ng−ời chỉ thuộc về riêng một dân tộc nào đó. Nh− vậy, cái khác nhau giữa các bảng giá trị, tr−ớc hết là khác nhau về vị trí của từng giá trị. Ng−ời châu á coi cần cù, yêu lao động là giá trị hàng đầu của sự làm ng−ời. Nh−ng ng−ời Mỹ lại coi tinh thần tự lực cánh sinh mới là giá trị đáng quý nhất, cần cù cũng đ−ợc coi trọng nh−ng chỉ đứng thứ ba sau tự lực cánh sinh và thành đạt cá nhân. Nói rằng ng−ời Đông á cần cù, ng−ời Do thái khôn ngoan, hay ng−ời Đức −a chính xác... nếu đúng, cũng chỉ có nghĩa là các giá trị đó đ−ợc tôn trọng hơn, đ−ợc xếp vào vị trí −u tiên hơn so với các giá trị khác. Tuyệt nhiên không có nghĩa là chỉ có ng−ời Đông á mới cần cù còn ng−ời nơi khác l−ời biếng, chỉ có ng−ời Do thái là khôn ngoan còn lại là ngốc nghếch hay kém thông minh... Với quan niệm nh− trên, chúng tôi cho rằng, mặc dù giá trị truyền thống châu á không phải “chỉ toàn là những điều tốt đẹp khiến cho ph−ơng Tây phải thán phục, ng−ỡng mộ”, nh− một vài tác giả vì quá yêu châu á đã nhấn mạnh một cách c−ờng điệu. Song những nét −u trội của giá trị quan châu á là có thật. Sẽ là sai lầm nếu không chú ý thỏa đáng đến sự khác biệt này trong nghiên cứu so sánh giữa các nền văn hóa, đặc biệt, trong việc hoạch định các kế hoạch phát triển tiếp theo của các xã hội châu á, trong đó có Việt Nam. 6. Những vấn đề về phát triển con ng−ời và bộ công cụ HDI 12 Xem: Hồ Sĩ Quý (2005). Về giá trị và giá trị châu á. Nxb CTQG. Hà Nội. //Phan Ngọc (2002). Bản sắc văn hóa Việt Nam. Nxb Văn học. Hà Nội. tr.191-195. August 07 Hosiquy@fpt.vn 10 Tạp chí thông tin KHXH 2007 Triết lý con ng−ời là trung tâm của UNDP có phạm trù hạt nhân là phát triển con ng−ời, đ−ợc đ−a ra năm 1990 trong Báo cáo đầu tiên về phát triển con ng−ời với tuyên ngôn đầy ấn t−ợng của nó: “Của cải đích thực của một quốc gia là con ng−ời của quốc gia đó. Và mục đích của phát triển là để tạo ra một môi tr−ờng thuận lợi cho phép con ng−ời đ−ợc h−ởng cuộc sống dài lâu, khoẻ mạnh và sáng tạo. Chân lý giản đơn nh−ng đầy sức mạnh này rất hay bị ng−ời ta quên mất trong lúc theo đuổi của cải vật chất và tài chính” 13. Nội dung chủ yếu của khái niệm phát triển con ng−ời gồm: 1/Phát triển con ng−ời là quá trình mở rộng cơ hội lựa chọn của từng ng−ời và của từng cộng đồng: ở đâu con ng−ời có nhiều cơ hội hơn để lựa chọn, thì ở đó điều kiện phát triển con ng−ời sẽ tốt hơn. 2/Phát triển con ng−ời là quá trình tăng c−ờng các năng lực lựa chọn cho từng ng−ời và từng cộng đồng: ở đâu con ng−ời có năng lực lựa chọn cao hơn, thì ở đó trình độ phát triển con ng−ời cũng cao hơn. 3/ Quá trình mở rộng cơ hội và tăng c−ờng năng lực lựa chọn chính là môi tr−ờng làm cho khả năng sáng tạo, sống khỏe mạnh, đ−ợc học hành và tr−ờng thọ... của con ng−ời tăng lên. Nh− vậy, t− t−ởng về sự mở rộng các lựa chọn cho mọi ng−ời có hạt nhân hợp lý của nó. Phát triển con ng−ời không phải là ph−ơng tiện mà là mục tiêu của sự phát triển. Nhằm mục tiêu đó, chất l−ợng sống của con ng−ời (cái không hề trừu t−ợng mà có thể đo đếm đ−ợc) đ−ợc xem nh− t−ơng đ−ơng với hạnh phúc hay cũng chính là hạnh phúc. Con ng−ời trong quan niệm này chiếm vị thế trung tâm của sự phát triển kinh tế - xã hội. Vị thế trung tâm của sự phát triển ở đây đ−ợc hiểu rất cụ thể. Trung tâm, nghĩa là con ng−ời đóng vai trò quyết định ở cả “đầu vào”, ở cả “đầu ra” và trong toàn bộ quá trình phát triển. ở “đầu vào” nhân tố quyết định sự phát triển là vốn con ng−ời, tiềm năng con ng−ời. ở “đầu ra”, mục tiêu của sự phát triển là chất l−ợng sống, phát triển con ng−ời, hạnh phúc con ng−ời. Trong suốt quá trình phát triển, nhân tố quyết định là nguồn nhân lực, là nguồn lao động, con ng−ời là động lực của sự phát triển. Vấn đề là ở chỗ, do tính chất vĩ mô của quan điểm này nên trong hoạt động thực tiễn, không ít ng−ời đã chỉ coi “con ng−ời là trung tâm” nh− là một lời hiệu triệu hoa mỹ. Các thành tố vốn con ng−ời, vốn xã hội, tiềm năng con ng−ời, nguồn lao động, nguồn nhân lực, chất l−ợng sống, v.v... (tức là các khái niệm cần đ−ợc hiểu với hàm luợng t− duy kinh tế rất cao) th−ờng đã bị bỏ qua hoặc không tính đến khi ứng dụng quan điểm này. Do vậy, cần phải nhấn mạnh rằng, sẽ là sai lầm nếu coi “Con ng−ời là trung tâm của sự phát triển kinh tế - xã hội” chỉ là một t− t−ởng thuần túy trừu t−ợng, hay là một lời hiệu triệu có tính chất hoa mỹ. Quan điểm này là một định h−ớng hoạt động cụ thể, cần phải đ−ợc nhận thức và ứng dụng với hàm luợng t− duy kinh tế cao nhất. Gắn liền với lý thuyết phát triển con ng−ời của UNDP là bộ công cụ chỉ số phát triển con ng−ời (HDI) để đo đạc những khía cạnh cơ bản của năng lực con ng−ời. Báo 13 UNDP. HDR, 1990. August 07 Hosiquy@fpt.vn 11 Tạp chí thông tin KHXH 2007 cáo 2005 và 2006 đã xuất hiện gần 100 chỉ số, song khi tính toán, ng−ời ta vẫn quy về ba chỉ số cơ bản (điều kiện sống, năng lực sinh thể và năng lực tinh thần), phản ánh ba mặt cơ bản của sự phát triển con ng−ời. Các chỉ số khác, trên thực tế, chỉ là bổ sung nhằm làm rõ những khía cạnh, những sắc thái khác nhau của ba chỉ số cơ bản đó. Các chỉ số HDI có giá trị từ 0 (thấp nhất) đến 1 (cao nhất). Với Báo cáo năm 2006, chỉ số giáo dục đ−ợc coi là có giá trị bằng 1 khi 100% ng−ời lớn (trên 15 tuổi) biết đọc, biết viết; bằng 0 khi 0% ng−ời lớn (trên 15 tuổi) biết đọc, biết viết. Chỉ số tuổi thọ đ−ợc coi là có giá trị bằng 1 khi tuổi thọ bình quân là 85 tuổi; bằng 0 khi tuổi thọ bình quân chỉ đạt 25 tuổi. Chỉ số kinh tế đ−ợc coi là có giá trị bằng 1 khi GDP bình quân đầu ng−ời đạt 40.000 US$ (tính theo sức mua ngang giá - PPP); bằng 0 khi GDP bình quân đầu ng−ời chỉ đạt 100 US$ (tính theo PPP). Khi đo bằng khoảng cách từ 0 đến 1, mỗi n−ớc sẽ thấy đ−ợc tiến bộ của mình so với các năm tr−ớc và so với giá trị lý t−ởng là 1. Vị trí xếp hạng của mỗi n−ớc trong bảng những n−ớc đ−ợc tính HDI cho phép mỗi n−ớc thấy đ−ợc tiến bộ mà mình đã đạt so với các n−ớc khác. Hai đại l−ợng này (độ chênh lệch HDI giữa các n−ớc và khoảng cách giữa chỉ số mà mỗi n−ớc đã đạt đ−ợc so với chỉ số lý t−ởng) chính là căn cứ rất cụ thể cho phép mỗi n−ớc hình dung đ−ợc cái đích (t−ơng đối) của sự tiến bộ còn ở phía tr−ớc bao xa. Những năm gần đây, giá trị tuyệt đối của chỉ số HDI của Việt Nam liên tục tăng đều, phản ánh đời sống toàn dân đ−ợc cải thiện cả về thu nhập bình quân đầu ng−ời, tuổi thọ và giáo dục. Năm 2001: HDI của Việt Nam là 0,682; năm 2003: 0,688; năm 2004: 0,691; năm 2005: 0,704; năm 2006: 0,709. Dĩ nhiên, tốc độ tăng này ch−a phải là cao, song để tăng đ−ợc chỉ số phát triển con ng−ời, thì cả ba chỉ số đều phải có tiến bộ, mà ta biết rằng, để tuổi thọ bình quân cả n−ớc tăng lên đ−ợc chút ít thì đòi hỏi tất cả mọi mặt của đời sống xã hội đều phải tốt lên, từ y tế, chăm sóc sức khoẻ, đến thu nhập, chế độ ăn uống, thể dục thể thao và còn phải không có dịch bệnh nữa. Điều này rõ ràng không đơn giản. Tuy nhiên, chỉ số HDI không phải là không có mặt trái của nó. Với tính khái quát và phép quy giản để tìm ra các đại l−ợng t−ơng đối phản ánh đời sống vật chất, năng lực sinh thể và năng lực tinh thần của c− dân, bộ công cụ HDI có thể che giấu những hạn chế trong phát triển kinh tế, những yếu kém trong chất l−ợng giáo dục, những tiêu cực trong thực trạng trật tự an toàn xã hội, những hiện t−ợng tham nhũng trong bộ máy công quyền, hay những bất ổn trong đảm bảo an toàn giao thông công cộng Chẳng hạn, nếu so sánh Việt Nam năm 2005 với Nam Phi, một n−ớc khá phát triển, thì Việt Nam có vị trí xếp hạng HDI là 108, đứng tr−ớc Nam Phi 12 bậc, vì Nam Phi xếp hạng HDI thứ 120. Nh−ng thực ra, Nam Phi là n−ớc có nhiều mặt khá phát triển, thu nhập quốc dân đầu ng−ời khá cao: 10.346 US$, trong khi GDP Việt Nam là 2.490 US$ tính theo PPP). Hay nếu so sánh về chỉ số giáo dục, Việt Nam (0,82) có vị thế t−ơng đ−ơng với Malaysia (0,83) và Trung Quốc (0,84), cao hơn Thổ Nhĩ Kỳ (0,82) và thậm chí cao hơn rất nhiều so với ấn Độ (0,61). Nh−ng thực ra, nhiều ng−ời biết rằng August 07 Hosiquy@fpt.vn 12 Tạp chí thông tin KHXH 2007 nền giáo dục của Malaysia, Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ và ấn Độ đều là những nền giáo dục mà Việt Nam còn phải học hỏi rất nhiều. Ng−ời đứng tr−ớc có quyền tự hào, nh−ng vẫn cần thiết phải tỉnh táo. Với chỉ số giáo dục là 0,82 = 90,3% ng−ời lớn biết đọc biết viết và 64% số ng−ời ghi danh đi học các cấp; con số này còn che giấu những hạn chế trong chất l−ợng giáo dục, trình độ đào tạo nguồn nhân lực. Chúng ta tự hào về thành tựu đã đạt đ−ợc trong nền giáo dục, song không nên quên rằng, hai số liệu này ch−a nói lên khả năng của giáo dục có thể đáp ứng yêu cầu của sự phát triển đất n−ớc đến mức nào, ng−ời tài, nguồn nhân lực chất l−ợng cao đ−ợc đào tạo từ nền giáo dục có trình độ ra sao so với các nền giáo dục khác... Trên thực tế, thực trạng giáo dục của ta còn có nhiều vấn đề bức xúc, thậm chí có cả những ung nhọt. Đ−ơng nhiên, với những ung nhọt thì cần phải giải phẫu để Việt Nam không ngừng cải thiện chỉ số phát triển con ng−ời nh− Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã đòi hỏi. Điều đáng l−u ý là, đặc tr−ng lý thuyết phát triển con ng−ời của UNDP là chú ý đến số đông, h−ớng tới cộng đồng. Đây là quan điểm thuộc về thế giới quan của UNDP: chỉ số HDI là chỉ số đánh giá thành tựu của cả một cộng đồng, chứ không chú ý nhiều đến chất l−ợng của một số cá nhân đỉnh cao của cộng đồng đó. Ng−ời ta đề cao chỉ số kinh tế, chỉ số giáo dục và chỉ số sức khỏe của cả một cộng đồng hơn là đề cao số ng−ời giàu có, sống lâu và có học vấn cao của cộng đồng đó. Đặc điểm này cần đ−ợc chú ý thỏa đáng khi triển khai đo chỉ số phát triển con ng−ời ở phạm vi nhỏ hơn cấp tỉnh/thành. Một xã hoặc một huyện có chỉ số HDI rất cao cũng chẳng mấy ý nghĩa nếu mặt bằng chỉ số HDI của cả n−ớc vẫn thấp hoặc không thay đổi do các nơi khác chỉ số HDI kém hơn. 7. Vấn đề khai thác di sản kinh điển của C. Mác về con ng−ời Một số tr−ờng phái lý luận th−ờng định kiến cho rằng, chủ nghĩa Mác bỏ quên con ng−ời. ý kiến này gần đây ít đ−ợc quan tâm hơn so với hồi đầu những năm 90 (thế kỷ XX). Tuy nhiên, khi khai thác di sản của Mác về con ng−ời trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày nay, điều chúng tôi thấy cần thiết phải l−u ý là, trong di sản kinh điển của C. Mác, có không ít t− t−ởng về con ng−ời rất phù hợp với xã hội hiện đại, thậm chí có những t− t−ởng còn có thể là công cụ lý luận sắc bén để cắt nghĩa những vấn đề của xã hội ngày nay; đặc biệt, chúng tôi muốn l−u ý đến những t− t−ởng của Mác thời trẻ - những t− t−ởng nảy sinh qua đối thoại với Feurbach, Hegel thời kỳ đầu hình thành chủ nghĩa Mác: 1).Về khái niệm con ng−ời - con ng−ời là một thực thể tự nhiên có tính chất ng−ời. 2). Về tính loài của con ng−ời - con ng−ời cá nhân và con ng−ời xã hội đều là thực thể loài. 3). Về bản chất con ng−ời - bản chất tự nhiên của con ng−ời tồn tại thông qua bản chất xã hội của con ng−ời. 4).Về quan hệ con ng−ời với tự nhiên - giới tự nhiên là thân thể vô cơ của con ng−ời. 5). Về tha hoá - lao động bị tha hoá và sự tha hoá của con ng−ời. 6). Về nghiên cứu con ng−ời - về sau khoa học tự August 07 Hosiquy@fpt.vn 13 Tạp chí thông tin KHXH 2007 nhiên sẽ bao hàm trong nó khoa học về con ng−ời và khoa học về con ng−ời sẽ bao hàm trong nó khoa học về tự nhiên. Nếu đ−ợc khai thác một cách khách quan, những t− t−ởng đó đủ để khẳng định, chẳng những chủ nghĩa Mác không bỏ quên con ng−ời, mà ng−ợc lại còn rất sâu sắc về bản chất tự nhiên và bản chất xã hội của sự tồn tại ng−ời. Các sắc thái phức tạp, bí ẩn mà khoa học hiện đại th−ờng đề cập nh− con ng−ời cá nhân - con ng−ời xã hội, những hiện t−ợng xã hội và “hiện t−ợng tự nhiên tồn tại d−ới dạng tha hóa”, thân thể vô cơ - thân thể hữu cơ của tồn tại ng−ời đều có thể tìm thấy ở Mác thời trẻ. Theo chúng tôi, một trong những t− t−ởng độc đáo về con ng−ời của Mác mà tới nay ch−a đ−ợc quan tâm ở mức cần thiết là t− t−ởng cho rằng giới tự nhiên là thân thể vô cơ của con ng−ời. Là độc đáo, vì từ thời cổ đại cho đến ngày nay, ngoài Mác, chẳng ai coi giới tự nhiên là thân thể của con ng−ời. Hiện thời, ngay cả quan niệm phát triển bền vững cũng không xem tự nhiên là một cái gì đó lớn đến mức là thân thể vô cơ của con ng−ời nh− Mác. Hiện nay, khi khoa học tuyên bố đã lập đ−ợc bản đồ gen ng−ời, con ng−ời vẫn không khỏi lúng túng tr−ớc những bí ẩn của căn bệnh HIV/AIDS và SARS, vấn đề mang bản chất tự nhiên nảy sinh ở trình độ cao của tồn tại ng−ời. Chính vì thế mới cần suy ngẫm, tại sao hơn một trăm năm tr−ớc, Mác lại đề cao yếu tố tự nhiên trong sự tồn tại của con ng−ời đến thế, và ngày nay, liệu có cần phải chú ý đến điều mà Mác gọi là “hiện t−ợng tự nhiên tồn tại d−ới dạng tha hóa” hay không. 8. Vấn đề quan hệ văn hoá - con ng−ời - nguồn nhân lực trong t− t−ởng của một số danh nhân dân tộc So với một số n−ớc có nền văn minh phát triển sớm nh− Trung Quốc, ấn Độ hay một số n−ớc Tây Âu thì Việt Nam không có những học thuyết lớn, có ảnh h−ởng lớn tới sự phát triển xã hội nh− Nho gia, Đạo gia, Phật giáo Theo nhà nghiên cứu Trần Đình H−ợu, ng−ời Việt Nam “không say mê tranh biện triết học”, “không cuồng tín tôn giáo”, và do vậy nên cũng “không đủ điên rồ” để đẩy t− t−ởng, thơ ca, nghệ thuật của mình thành những biểu tr−ng, “đài danh dự” của cả một nền văn hóa 14. Đây là một vấn đề ph−ơng pháp luận lớn, cần phải đ−ợc dày công nghiên cứu sâu hơn. Tuy nhiên, dân tộc Việt Nam cũng có những nhà t− t−ởng tiêu biểu của mình. T− t−ởng của cha ông dù ch−a đ−ợc trình bày, phát triển thành những học thuyết có hệ thống nh−ng lại chứa đựng không ít những giá trị sâu sắc. Những giá trị đó không những đã là cơ sở cho t− duy dân tộc trong một thời gian dài mà còn có những giá trị tích cực trong thời đại ngày nay. Trong khuôn khổ mối quan hệ con ng−ời – văn hóa – nguồn nhân lực, nh− nhiều học giả đã thừa nhận, ít nhất phải kể đến những ng−ời nh− Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Tr−ờng Tộ... Các ông sống trong những giai đoạn lịch sử khác nhau vì thế mà có những quan điểm cũng rất khác nhau. Nh−ng có một điểm chung - các ông đều là 14 Xem: Trần Đình H−ợu. Đến hiện đại từ truyền thống. KX.07 xuất bản. Hà Nội 1994. tr. 150- 164. August 07 Hosiquy@fpt.vn 14 Tạp chí thông tin KHXH 2007 những ng−ời hội tụ đ−ợc “tâm thế phát triển” của thời đại của mình, là đại biểu cho trí tuệ và tinh thần Việt Nam ở mỗi thời đại đó. Có nhiều vấn đề đ−ợc các ông đặt ra từ mấy thế kỷ tr−ớc, nh−ng hiện vẫn là những chỉ dẫn lớn mà hậu thế cần học hỏi, đặc biệt trong giai đoạn kinh tế thị tr−ờng, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay. 9. Về phẩm chất thông minh của ng−ời Việt Nam Khi xử lý các kết quả nghiên cứu định l−ợng qua điều tra xã hội học ở 6 tỉnh thành trong cả n−ớc, chúng tôi đã kiểm tra một số giả thiết về tính cách ng−ời Việt qua phiếu phỏng vấn 1043 ng−ời đ−ợc hỏi, đại diện cho một số tầng lớp c− dân tiều biểu. Những ng−ời đ−ợc hỏi đã tự đánh giá về các phẩm chất −u trội của mình. Với giả thiết: hình nh− trong quá trình hội nhập, ng−ời Việt càng ngày càng ngại tự nhận mình là ng−ời thông minh, các số liệu cho thấy, thực tế không phải nh− vậy. Phẩm chất thông minh của ng−ời Việt Nam hiện nay vẫn đ−ợc thừa nhận rộng rãi và không có một chút gì là tự ty. Mọi nhóm tuổi, mọi trình độ học vấn, mọi nghề nghiệp... đều thừa nhận khả năng trí tuệ của ng−ời Việt, không nghi ngờ gì những đánh giá tích cực của ng−ời bên ngoài cũng nh− của ng−ời đi tr−ớc về độ thông minh của ng−ời Việt. Trong số 1043 ng−ời đ−ợc hỏi, 94,8% "hoàn toàn đồng ý" và "đồng ý" với ý kiến “thông minh là phẩm chất nổi trội của ng−ời Việt Nam”. Số ng−ời "không đồng ý" và "khó trả lời" chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ, 2,0% và 3,2%. Đáng l−u ý là, với những ng−ời đã sống ở n−ớc ngoài, điều này càng đ−ợc khẳng định mạnh hơn. Nghĩa là sự so sánh, đối chiếu (dĩ nhiên là cảm tính) với ng−ời n−ớc ngoài càng khiến ng−ời Việt tự tin thấy phẩm chất thông minh của mình là có cơ sở. Phân bố ý kiến về phẩm chất thông minh ng−ời Việt theo thời gian sống ở n−ớc ngoài nh− sau: Mức độ (%) Thời gian sống ở n−ớc ngoài Hoàn toàn đồng ý Đồng ý Không đồng ý Khó trả lời Ch−a bao giờ 39,3 55,4 2,1 3,3 D−ới 1 năm 43,0 51,2 2,3 3,5 Từ một năm trở lên 37,5 60,0 1,3 1,3 Mặc dù hiện nay không ít ng−ời vẫn ch−a hài lòng với tác dụng thực tế của tiềm năng thông minh vốn có; nhiều ng−ời cho rằng trí thông minh ng−ời Việt mới chỉ đ−ợc thể hiện qua khả năng bắt ch−ớc, khả năng thích nghi nhanh với hoàn cảnh, khả năng khôn khéo, lựa chiều để tồn tại và phát triển. Kiểu thông minh đó dĩ nhiên ch−a phải là thuận chiều với bản chất của những sáng tạo, phát kiến, phát minh. Mặc dầu vậy, trong bầu không khí tích cực của tâm thức phát triển của cả Dân tộc trong vận hội mới của đất n−ớc ở giai đoạn hiện nay, sẽ là nguy hiểm và thiệt thòi nếu chúng ta quá thận trọng hay khiêm tốn đến mức chỉ biết gieo nghi ngờ về khả năng trí tuệ của ng−ời Việt. August 07 Hosiquy@fpt.vn 15 Tạp chí thông tin KHXH 2007 Nh− vậy, cần phải có định h−ớng sáng suốt để nghiên cứu và phát triển khả năng trí tuệ của ng−ời Việt Nam: không nên ảo t−ởng hay tự huyễn hoặc để dẫn đến thái độ c−ờng điệu trí thông minh ng−ời Việt, nh−ng cũng không nên thái quá hay tự ty làm thui chột tiềm năng trí tuệ ở ng−ời Việt Nam mà thực tế giao tiếp quốc tế đã ít nhiều chứng minh. 10. Về phẩm chất cần cù, yêu lao động của ng−ời Việt Nam Cần cù, yêu lao động là một giá trị của ng−ời Việt. Giá trị này đã từng đ−ợc đánh giá cao nh−ng nay, trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, có ý kiến bắt đầu hoài nghi: hình nh− "thời bây giờ, ng−ời l−ời biếng nhiều hơn tr−ớc kia". Chúng tôi đã kiểm tra giả thiết này và kết quả là: 4.7 27.9 52.9 14.4 0 10 20 30 40 50 60 Hoàn toàn đồng ý Đồng ý Không đồng ý Khó trả lời Thời bây giờ ng−ời l−ời biếng nhiều hơn tr−ớc kia Cần cù, yêu lao động vẫn là giá trị đ−ợc thừa nhận cao. Hầu nh− không có sự hoài nghi về phẩm chất này của con ng−ời Việt Nam (98,1% khẳng định). Hơn thế nữa, cần cù, yêu lao động còn đ−ợc xem là một trong những phẩm chất th−ờng có của những ng−ời thành công, thành đạt trong cuộc sống. Tuyệt đại đa số (91,4%) nhận thấy muốn thành đạt, thành công trong cuộc sống, tr−ớc hết mỗi cá nhân phải có đức tính cần cù, yêu lao động. Vấn đề là ở chỗ, ngày nay trong điều kiện xã hội thông tin, có những ý kiến đã nghi ngờ hiệu quả của sự cần cù; ng−ời ta cho rằng, ở phạm vi dân tộc mà đề cao cần cù là một chiến l−ợc thấp, ng−ợc lại cần phải chú trọng khả năng sáng tạo, thông minh chứ không phải tinh thần nhẫn nại, cần cù. ý kiến này có khía cạnh hợp lý của nó. Song khi tính đến thái độ thiếu tôn trọng lao động có xu h−ớng tăng lên trong thời gian gẫn đây, chúng tôi vẫn lập luận rằng, cần cù không trái ng−ợc hay làm thui chột trí thông minh, sáng tạo, nếu không muốn nhấn mạnh là, cần cù - yêu lao động mới là cơ sở đích thực, là chất kích thích hiện thực cho khả năng sáng tạo. Vả lại, chẳng có sự sáng tạo nào nằm ngoài quỹ đạo của tinh thần cần cù - yêu lao động. Trong thực tế, nhiều dấu hiệu cho thấy, chính sự đòi hỏi nhanh nhạy, năng động của cuộc sống hôm nay còn làm cho phẩm chất cần cù, yêu lao động đ−ợc đề cao hơn. August 07 Hosiquy@fpt.vn 16 Tạp chí thông tin KHXH 2007 Tính đến ý kiến cho rằng không phải ở tất cả mọi cộng đồng, mức độ/trình độ cần cù - yêu lao động đều t−ơng đ−ơng nhau, bao hàm cả với nghĩa là không phải cộng đồng nào cũng sẵn sàng chịu khó, chịu khổ, nhẫn nại cho sự phát triển của mình, chúng tôi thấy rằng cần có định h−ớng giá trị đúng đắn để phát huy phẩm chất cần cù - yêu lao động của ng−ời Việt Nam. Nếu thừa nhận đây là một phẩm chất quý báu vốn có ở ng−ời Việt, thì việc định h−ớng giá trị khéo léo để khai thác có hiệu quả nguồn lực này, nhằm bổ sung, tạo điều kiện, kích thích cho nguồn lực trí tuệ đi tới những phát kiến, phát minh và sáng tạo... hẳn là một định h−ớng sáng suốt. 11. Về giá trị hiếu học của ng−ời Việt Trong số những hoài nghi thì sự hoài nghi đức tính hiếu học của ng−ời Việt là thái độ rõ nhất mấy năm gần đây 15. Sự hoài nghi có khía cạnh hợp lý của nó. Tuy nhiên, số liệu khảo sát cho thấy: khi đ−ợc hỏi về mức độ "đồng ý" hay "không đồng ý" quan điểm coi “hiếu học là một phẩm chất nổi trội của ng−ời Việt Nam”, có đến 1009/1043 ng−ời trả lời phỏng vấn, chiếm 96,9%, “đồng ý” với quan điểm này, trong đó có 58,4% "hoàn toàn đồng ý". Số ng−ời “không đồng ý” chỉ chiếm 0,6% và số cảm thấy "băn khoăn" chỉ là 1,3%. Điều thú vị là số ng−ời có thái độ “hoàn toàn đồng ý” với quan niệm tích cực về tính hiếu học của ng−ời Việt Nam ở những ng−ời đã từng sống ở n−ớc ngoài trong thời gian trên một năm lại cao hơn ở những ng−ời ch−a bao giờ sống ở n−ớc ngoài (51,3% so với 46,5%). Về nguyên tắc, hiếu học cần phải đ−ợc xem xét trong t−ơng quan với quan niệm về mục đích của việc học. Khi đ−ợc hỏi về “Mục đích của việc lo cho con cái học hành”, nghiên cứu thu đ−ợc kết quả: 70.4 51.1 15.4 11.7 16.3 0 10 20 30 40 50 60 70 80 Có địa vị, chức vụ trong xã hội Để kiếm tiền Thoát khỏi lao động chân tay Có nghề nghiệp ổn định Trở thành ng−ời có ích cho xã hội Nhìn chung, số đông mong muốn cho con cái “trở thành ng−ời có ích cho xã hội” và “có nghề nghiệp ổn định” chứ không nhất thiết phải thoát khỏi lao động chân tay hay kiếm tiền hoặc trở thành ng−ời có địa vị, chức vụ. Việc 16,3% số ng−ời đ−ợc hỏi coi học là để “thoát khỏi lao động chân tay”, 15,4% là để kiếm tiền” và 11,7% là để “thành 15 Xem: Cao Xuân Hạo. Tiếng Việt, văn Việt, ng−ời Việt. Nxb Trẻ. Tp Hồ Chí Minh, 2001. August 07 Hosiquy@fpt.vn 17 Tạp chí thông tin KHXH 2007 ng−ời có địa vị, chức vụ trong xã hội”, theo chúng tôi, là hoàn toàn bình th−ờng. Trong xã hội hiện đại, thái độ thực tế, không viển vông đối với mọi việc chứ không riêng gì việc xác định mục đích học tập nên đ−ợc nhìn nhận với con mắt không định kiến. Nhằm tìm hiểu sâu hơn việc xác định mục đích học hành, chúng tôi quan tâm đến mong muốn của các bậc cha mẹ ở ba khía cạnh tri thức, tiền bạc và địa vị. Với câu hỏi "Có mong muốn cho con sau này trở thành trí thức hay không?”, 73,5% số ng−ời đ−ợc hỏi (chiếm tỷ lệ cao nhất) trả lời "muốn con sau này trở thành trí thức." Số ng−ời trả lời "trở thành trí thức cũng đ−ợc mà không cũng chẳng sao" chiếm 25,2% và chỉ 1,3% “không có ý kiến”. Trong khi đó, hai câu hỏi còn lại có kết quả khác hẳn. Chỉ 26,6% “muốn cho con trở thành ng−ời có chức có quyền” và 23,7% “muốn cho con trở thành ng−ời giàu có”. ở hai câu hỏi này, đa số ng−ời đ−ợc hỏi tỏ thái độ "trung lập", nghĩa là con cái họ sau này trở thành ng−ời có chức quyền hay ng−ời giàu có cũng tốt mà nếu không thì cũng chẳng sao với tỷ lệ t−ơng ứng là 69,5% và 48,6%. Dĩ nhiên, không thể nói ng−ời đ−ợc hỏi không thích con cái họ sau này trở thành ng−ời giàu có hoặc có địa vị. Nh−ng có tới 73,5% số ng−ời đ−ợc hỏi muốn con mình trở thành trí thức, điều này thật đáng nguy ngẫm. Trong số liệu điều tra, chỉ 1,3 % số ng−ời đ−ợc hỏi "không muốn con trở thành trí thức", trong khi đó số ng−ời "không thích chức quyền, không muốn con cái trở thành ng−ời có chức có quyền" nhiều hơn (3,9%) và không mong −ớc trở thành ng−ời giàu có còn nhiều hơn nữa (29,5%). Để tìm hiểu kỹ hơn những biểu hiện có tính bản chất của đức tính hiếu học, những biểu hiện xuất phát từ tầng sâu của văn hoá, trong bảng phỏng vấn, nghiên cứu còn kiểm tra thêm giả thiết về mối t−ơng quan giữa nghèo đói và hiếu học bằng câu hỏi con nhà giàu hay con nhà nghèo hiếu học hơn. Kết quả là, trong quan niệm của số đông ng−ời đ−ợc hỏi, hiếu học không tăng lên tỷ lệ thuận theo sự giàu có. Giàu có hơn không đi liền với hiếu học hơn. Thậm chí, ng−ợc lại: 66,7% ng−ời đ−ợc hỏi cho rằng, con nhà nghèo th−ờng hiếu học hơn con nhà giàu. Số ng−ời tin t−ởng tuyệt đối vào quan niệm này là 19,2%. Số ng−ời phản đối chiếm 23,7%. Số ng−ời cảm thấy băn khoăn chiếm 9,6%. Một trong những câu hỏi bổ sung của chúng tôi nhằm vào cảm giác xấu hổ của các bậc cha mẹ khi con cái họ học hành thua kém và so sánh với cảm giác xấu hổ khi họ nghèo hơn ng−ời khác. Kết quả là: Những ng−ời cảm thấy rất xấu hổ khi con mình học hành kém con ng−ời khác cao gần gấp 3 lần so với rất xấu hổ khi mình nghèo hơn ng−ời khác (25,7% so với 8,7%). Những ng−ời cảm thấy xấu hổ khi con mình học hành kém con ng−ời khác cũng cao hơn xấu hổ khi nghèo hơn ng−ời khác (52,8% so với 33,8%). Ng−ợc lại, rất ít ng−ời không xấu hổ khi con mình học hành kém con ng−ời khác so với không xấu hổ khi mình nghèo hơn ng−ời khác” (16,7% so với 51,3%). August 07 Hosiquy@fpt.vn 18 Tạp chí thông tin KHXH 2007 25.7 52.8 16.7 4.8 8.7 33.8 51.3 6.2 0 10 20 30 40 50 60 Rất xấu hổ Xấu hổ Không Băn khoăn Xấu hổ vì con mình học không bằng con ng−ời khác Xấu hổ vì mình nghèo hơn ng−ời khác Nh− vậy, thái độ của những ng−ời đ−ợc hỏi về hai phản giá trị nghèo và dốt là rất rõ ràng. Trong số 534 ng−ời không xấu hổ khi mình nghèo hơn ng−ời khác chỉ 26,8% không xấu hổ khi con mình học kém con ng−ời khác, nghĩa là phần lớn những ng−ời không xấu hổ vì nghèo vẫn thấy xấu hổ vì con mình dốt hơn so với ng−ời khác. Số này chiếm tới 35,9%. Không thấy xấu hổ vì nghèo - thái độ này ngày nay có thể bị phê phán; song trong khi không thấy xấu hổ vì nghèo lại thấy xấu hổ vì con cái học hành thua kém ng−ời khác, thì rõ ràng, chi phối điều này là một thứ giá trị tinh thần tốt đẹp - giá trị hiếu học. Các số liệu điều tra còn cho thấy rằng, ở Việt Nam, hiếu học và nghèo đói không phải là hai đại l−ợng quá phụ thuộc vào nhau. Giàu có không đi liền với tinh thần ham học và ng−ợc lại, nghèo khó tuy có ảnh h−ởng đến điều kiện học tập song không cản trở nổi, không làm thui chột đ−ợc đức tính hiếu học. Thậm chí trong nhiều tr−ờng hợp, chính nghèo đói lại hun đúc tinh thần khát khao học tập. Nh− vậy, sẽ là quá vội vàng nếu nói đức tính hiếu học ngày nay chỉ còn lại trong những gia đình trí thức; trên thực tế, hiếu học đang là động lực tinh thần của mọi tầng lớp xã hội trên con đ−ờng phát triển. Trong điều kiện ngày nay, nên chấp nhận động cơ của việc học tập có thể đổi khác theo h−ớng thực tế hơn, thậm chí thực dụng hơn. Tuy nhiên, ở Việt Nam, hiếu học và nghèo đói không phải là hai đại l−ợng quá phụ thuộc vào nhau; giàu có không đi liền với tinh thần ham học và ng−ợc lại. 12. Về vai trò của gia đình trong xã hội hiện đại Kết quả điều tra xã hội học của Đề tài xác nhận rằng, ngày nay, giao tiếp giữa các thành viên gia đình đã ít nhiều hạn chế hơn so với tr−ớc kia. Số l−ợng gia đình nhiều thế hệ cũng ít dần. Sự khác biệt giữa các thế hệ về thị hiếu, về quan niệm sống, về các giá trị... tăng lên. Rõ ràng, có sự lỏng lẻo hơn trong thiết chế gia đình khi xã hội ở vào giai đoạn kinh tế thị truờng và hội nhập quốc tế. Tuy vậy, không nên coi sự lỏng lẻo hơn của thiết chế gia đình trong xã hội này nay thuần túy chỉ là tiêu cực. August 07 Hosiquy@fpt.vn 19 Tạp chí thông tin KHXH 2007 Bởi lẽ, số liệu cũng cho thấy, việc tôn trọng gia đình, đề cao giá trị gia đình trong số các thiết chế xã hội trực tiếp gắn với hạnh phúc con ng−ời vẫn là một phẩm chất truyền thống đ−ợc xã hội Việt Nam ngày nay tôn trọng. Các nghiên cứu mới đây của Dự án Điều tra giá trị thế giới (WVS) cũng khẳng định nh− vậy: ở Việt Nam, vai trò của gia đình đ−ợc 82% những ng−ời trả lời phỏng vấn coi là “rất quan trọng” và 88% những ng−ời trả lời phỏng vấn nghĩ rằng quan tâm hơn nữa đến cuộc sống gia đình là một điều tốt. Theo các tác giả WVS, "khi so sánh với các n−ớc Đông á khác trong Điều tra giá trị thế giới 1995-1998, Việt Nam xếp ở vị trí cao nhất về lòng tôn trọng đối với cha mẹ" 16. Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế thị tr−ờng, TCH và hội nhập quốc tế, cơ cấu quyền lực của các quan hệ gia đình đang dần dần bị xói mòn, và điều đó làm cho các khía cạnh xã hội và chính trị liên quan tới quyền lực gia đình cũng thay đổi theo, mặc dù vai trò xã hội của gia đình có thể vẫn đ−ợc duy trì ở mức cao . Những năm gần đây, về ph−ơng diện xã hội, các quan hệ xã hội có liên quan tới quyền lực gia đình cũng bắt đầu thay đổi. Kinh doanh, hợp tác theo các quan hệ huyết tộc không còn chiếm −u thế nh− thời kỳ xã hội mới bắt đầu tập làm quen với cơ chế thị tr−ờng. Về ph−ơng diện kinh tế, việc kinh doanh, hợp tác... có xu h−ớng nghiêng về mở rộng các quan hệ ngoài huyết tộc, trong đó có cả các quan hệ xuyên quốc gia, quốc tế. Và điều này phải đ−ợc coi là một sự biến đổi tích cực. 13. Nghiên cứu con ng−ời Việt Nam và vấn đề kế thừa các học giả đi tr−ớc Con ng−ời vốn đ−ợc coi là một thực thể bí ẩn. I. Kant là ng−ời đầu tiên của nền triết học châu Âu khẳng định rằng, con ng−ời “là khách thể bí ẩn và hấp dẫn tột cùng của sự t− biện triết học. Để khám phá bí ẩn của con ng−ời, cần phải có những công cụ không tầm th−ờng và độc lập. Nhận thức về con ng−ời đối lập với khu vực tri thức triết học truyền thống - bản thể luận (học thuyết về tồn tại), logic học, lý luận nhận thức, lịch sử triết học, đạo đức học, thầm mỹ học, triết học tự nhiên, triết học xã hội, triết học lịch sử” 17 . Vấn đề là ở chỗ, nếu con ng−ời nói chung vốn đã là một bí ẩn, thì con ng−ời ph−ơng Đông và con ng−ời Việt Nam chắc còn là một đối t−ợng nhận thức bí ẩn hơn. Điều thú vị là, sự bí ẩn này làm cho việc nghiên cứu con ng−ời Việt Nam luôn luôn là vấn đề có sức cuốn hút đối với nhiều tầng lớp xã hội, đặc biệt, các nhà khoa học - cả khoa học xã hội và khoa học tự nhiên, các nhà hoạt động chính trị - xã hội, và gần đây, cả báo giới và các doanh nhân cũng cảm thấy cần phải khám phá sâu hơn nữa về ng−ời Việt: Tại sao ng−ời Việt Nam đa phần là thông minh, năng động, sáng tạo, nh−ng lại hiếm những phát kiến lớn? Tại sao tiềm năng trí tuệ ở ng−ời Việt đ−ợc khẳng định từ lâu đến nay vẫn chỉ là tiềm năng? Tại sao không ít cái hay, cái tốt tiếp thu từ bên ngoài lại trở thành vô dụng hoặc méo mó khi triển khai trong thực tế? Tại sao có những giai 1. Russell J. Dalton, Phạm Minh Hạc, Phạm Thành Nghị & Ông Thuỵ Nh− Ngọc. Quan hệ Xã hội và Nguồn vốn Xã hội ở Việt Nam: WVS 2001. Tạp chí Nghiên cứu Con ng−ời số 2/2002. August 07 Hosiquy@fpt.vn 20 Tạp chí thông tin KHXH 2007 ? Thực ra, đầu thế kỷ XX, với phong trào Duy tân, Đông du, con ng−ời Việt Nam đã đ−ợc so sánh với ng−ời ph−ơng Tây và ng−ời Đông á 18 . Kể từ đó, cùng với sự tiếp thu và phát triển các khoa học chuyên ngành, tri thức về con ng−ời nói chung và về con ng−ời Việt Nam nói riêng đã đ−ợc tích lũy ngày một phong phú hơn, đầy đủ hơn và về một số ph−ơng diện đã chuyên sâu hơn. Tuy nhiên, trong khi thế giới đã đạt tới những nhận thức rất sâu về con ng−ời về ph−ơng diện sinh thể (qua thành tựu của các khoa học nh− y học, sinh học ng−ời, tâm lý học, nhân trắc học) và về ph−ơng diện xã hội (qua thành tựu của các khoa học nh− dân tộc học, xã hội học, đạo đức học, văn hóa học, nhân học triết học); con ng−ời d−ới con mắt nhận thức luận ph−ơng Tây đã đ−ợc chú ý khám phá theo đặc tr−ng của nhiều vùng văn hoá khác nhau, theo tính quy định của lịch sử hình thành và phát triển khác nhau của các dân tộc, thì tri thức về con ng−ời Việt Nam, có thể nói, vẫn còn khá đơn giản, nặng về mô tả và có phần cảm tính trong nhiều ấn phẩm. Cho đến nay, những tác phẩm thực sự đi vào lĩnh vực nghiên cứu con ng−ời Việt Nam còn ch−a nhiều, nhất là các tác phẩm có giá trị. Những kiến thức cơ bản về con ng−ời trong các khoa học y, sinh, tâm lý hoặc xã hội và nhân văn... trên thực tế, vẫn là những kiến thức nền, ch−a đủ để xác định đặc tr−ng ng−ời Việt. Hình ảnh con ng−ời Việt Nam trong các khoa học xã hội và nhân văn của các thế hệ học giả đi tr−ớc nh− Đào Duy Anh, Nguyễn Văn Huyên, Hoàng Xuân Hãn, Từ Chi nhìn chung ch−a đ−ợc chú ý một cách thỏa đáng để kế thừa (hay bổ sung, phát triển). Mặc dù các ch−ơng trình nghiên cứu cấp Nhà n−ớc về văn hóa và con ng−ời từ năm 1991 đến nay đã khắc phục đ−ợc một phần những hạn chế này, song khoa học xã hội trong mấy thập kỷ qua, trên thực tế, vẫn ch−a đi sâu hơn đ−ợc bao nhiêu vào khám phá đặc tr−ng của ng−ời Việt với t− cách là những thực thể sinh học - xã hội, chủ thể của một nền văn hóa phong phú, đặc thù. Quả thực, khoa học về con ng−ời ở Việt Nam, trên thực tế, còn là một mảnh đất t−ơng đối hoang dã, ch−a đ−ợc cày xới. Việc trả lời câu hỏi con ng−ời Việt Nam là gì và đặc tr−ng riêng biệt của con ng−ời Việt Nam ra sao rõ ràng vẫn ch−a có câu trả lời. Những kết quả trong nghiên cứu ng−ời Việt (kể cả ở các nhà Việt Nam học n−ớc ngoài) cũng còn rất khiêm tốn. Có lý do để nói chúng ta thực sự hiểu biết quá ít về ng−ời Việt Nam. Bởi vậy, cần thiết phải có kế hoạch tổng thể khai thác di sản và thành tựu nghiên cứu con ng−ời Việt Nam của các nhà khoa học đi tr−ớc, trong đó, đặc biệt chú ý những tác phẩm về con ng−ời Việt Nam của các học giả thời Pháp – các tác phẩm tiếng Pháp 17 Trích lại theo: Гурович П.С (1999). Философия человека. Nota Bene. Mocквa. tr. 84. 18 Xem: Đào Duy Anh (2000). Việt Nam văn hoá sử c−ơng. Nxb Hội nhà văn. August 07 Hosiquy@fpt.vn 21 Tạp chí thông tin KHXH 2007 ở mức cần thiết 19 . Vấn đề là ở chỗ, nếu không chú ý khai thác các tài liệu này, tiếng nói của khoa học ngày nay về ng−ời Việt trong quá khứ sẽ mất đi một chỗ dựa có sức thuyết phục. Việc tán đồng hay phản đối các nhận định đã có từ thời tr−ớc, hiển nhiên sẽ là một cứ liệu đối sánh làm tăng thêm giá trị cho việc nghiên cứu con ng−ời ở thời điểm hiện nay. 14. Niềm tin: thái độ đối với t−ơng lai - vấn đề tâm thế phát triển Trong đời sống tinh thần của các tầng lớp dân c− nói chung, niềm tin, tinh thần lạc quan đối với tuơng lai, mấy năm gần đây, rất có thể là một trong những giai đoạn đ−ợc thể hiện đặc biệt tích cực so với nhiều thời kỳ đã qua. Nếu nhìn qua lăng kính tâm thế phát triển của đa số c− dân, qua đánh giá tích cực và có thiện cảm của những chuyên gia n−ớc ngoài, hay qua chỉ số hạnh phúc của Việt Nam mà thế giới đã đo đạc và công bố, thì phải thừa nhận, đời sống tinh thần của các tầng lớp dân c− nói chung hiện đang có nhiều nhân tố tốt đẹp và lành mạnh, có nhịp điệu năng động và tích cực, chứa đựng nhiều cơ hội thuận lợi cho hoạt động của mọi cá nhân và cộng đồng vì sự phát triển chung của xã hội. Nếu nhìn qua lăng kính tâm thế phát triển 20 của đa số c− dân, qua đánh giá tích cực và có thiện cảm của những chuyên gia n−ớc ngoài, hay qua chỉ số hạnh phúc của Việt Nam mà thế giới đã đo đạc và công bố, thì phải thừa nhận đời sống tinh thần của các tầng lớp dân c− hiện đang có nhiều nhân tố tốt đẹp và lành mạnh, có nhịp điệu năng động và tích cực, chứa đựng nhiều cơ hội thuận lợi cho hoạt động của mọi cá nhân và cộng đồng vì sự phát triển chung của xã hội. Trên các ph−ơng tiện thông tin đại chúng, khắp nơi đều nói đến cơ hội, thậm chí “cơ hội vàng” của sự phát triển. Đã có những cuộc thảo luận ở quy mô lớn về việc nhìn nhận “n−ớc Việt Nam nhỏ hay không nhỏ” 21. Sau khi đã trải qua những gian nan của thời kỳ khủng hoảng, thành tựu của hơn 20 năm đổi mới đã tạo đ−ợc những tiền đề quan trọng để toàn xã hội và mỗi ng−ời nhìn về t−ơng lai bằng con mắt lạc quan hơn. 76,6% số ng−ời đ−ợc hỏi đánh giá xã hội trong 10-15 năm tới sẽ tốt đẹp hơn. Trong đó, có 91,3% những ng−ời đ−ợc hỏi là quân nhân và 78,1% những ng−ời đ−ợc hỏi là trí thức (91,3% số quân nhân đ−ợc hỏi và 78,1% số trí thức đ−ợc hỏi). Có thể thấy cách nhìn 19 Chẳng hạn, các tác phẩm của Par.L. Cadier, Paul Giran, Đào Duy Anh, Nguyễn Văn Huyên, Hoàng Xuân Hãn, a.Pazzi, Leon Ch. Martin Saint, Vũ Tam Tập,... 20 Có thể hiểu “Tâm thế phát triển” t−ơng đ−ơng với khái niệm “Tâm quyển” (Psychosphere) của Alvin Toffler, dùng để chỉ trạng thái tâm lý - tinh thần chung của xã hội, trạng thái phổ biến nhất, thuộc về số đông, có sức chi phối, cuốn hút toàn bộ sự vận động của đời sống tinh thần xã hội, ứng với mỗi giai đoạn lịch sử nhất định. 21 Xem: Nhiều tác giả. Tranh luận để đồng thuận. Nxb Tri thức. Hà Nội, 2006.// Việt Nam 20 năm đổi mới. Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội, 2006. August 07 Hosiquy@fpt.vn 22 Tạp chí thông tin KHXH 2007 này là có cơ sở, có lý do khách quan thuộc về sự phát triển thực tế của nền kinh tế – xã hội. Không ít các chính khách, các nhà nghiên cứu n−ớc ngoài cũng nhìn thấy triển vọng phát triển của Việt Nam với con mắt lạc quan nh− vậy 22. Vấn đề là ở chỗ, ch−a bao giờ bầu không khí xã hội ở Việt Nam chứa đựng nhiều nét tích cực và lạc quan nh− hiện nay. Mức độ tích cực và lạc quan của môi tr−ờng văn hóa Việt Nam hiện đã đủ để nuôi d−ỡng mọi ý t−ởng tốt đẹp, khích lệ mọi lợi thế trong phát kiến, sáng tạo. Sẽ là cực kỳ nguy hiểm nếu nhìn sự phát triển của xã hội Việt Nam ngày nay với con mắt lạc quan đến mức mất cảnh giác cho rằng, không nhân tố tiêu cực nào có thể cản trở hoặc làm hỏng sự phát triển xã hội. Thế giới ngày nay rất dễ bị th−ơng tổn, đổ vỡ, hoặc bùng nổ vì những nguyên nhân đôi khi bất ngờ và không tất yếu 23 và Việt Nam không nằm ngoài trật tự chung đó. Nh−ng cũng sẽ là thiếu sáng suốt nếu nhìn sự phát triển của xã hội Việt Nam ngày nay với con mắt thiên về bi quan. Môi tr−ờng văn hóa ở Việt Nam hiện có không ít nhân tố tiêu cực và không bình th−ờng, thậm chí rất không bình th−ờng. Nh−ng lôgic khách quan của đời sống xã hội hiện nay là tích cực và hứa hẹn chứ không phải ng−ợc lại. Và, đó là nét chủ đạo của tâm thế phát triển ở Việt Nam. Tài liệu trích dẫn: 1. Đào Duy Anh (2000). Việt Nam văn hoá sử c−ơng. Nxb Hội nhà văn. 2. Asian Week. Volume 26. No. 48. November 2006. 3. Chỉ số màn hình phẳng và câu chuyện phát triển ở Việt Nam. VietNamNet, 3/8/2006. 22 Xem: Minh Huy. Ng−ời Việt Nam lạc quan nhất thế giới. Kết quả khảo sát của tổ chức Gallup international (Gia) tại 53 n−ớc. VietNamNet, 2/1/2007 // Vietnam: Good morning at last. www.economic.com. Chỉ số màn hình phẳng và câu chuyện phát triển ở Việt Nam. VietNamNet, 3/8/2006.// Richard Quest. Việt Nam có thể thành con rồng châu á. 23/08/2005 // Rakesh Nangia. Việt Nam đang nổi lên nh− một con hổ châu á. VietNamNet, 16/08/2005. Việt Nam đang tăng tốc. VietNamNet, 21/11/2005. Thanyathip Seriphama. Việt Nam sớm bắt kip Thái Lan. VietNamNet, 10/02/2006. 23 Chẳng hạn, hai năm nay, thế giới đã chứng kiến những rắc rối chính trị, những xung đột xã hội, thậm chí cả đe dọa trừng phạt kinh tế và tiến hành chiến tranh do nguyên cớ chỉ là suy diễn hay kích động từ một hành vi thiếu tính toán của Thủ t−ớng italia Silvio Beclusconi, một lời nói bất cẩn của Thủ t−ớng anh Tony Blair, một trích dẫn nhạy cảm của Giáo Hoàng Benedict XVi, một thái độ thái quá của Tổng thống Grudia Mikhail Saakashivili, hay một bức tranh biếm họa về Hồi giáo... August 07 Hosiquy@fpt.vn 23 Tạp chí thông tin KHXH 2007 4. Dalton, Russell J., Phạm Minh Hạc, Phạm Thành Nghị & Ông Thuỵ Nh− Ngọc. Quan hệ Xã hội và Nguồn vốn Xã hội ở Việt Nam: WVS 2001. Tạp chí Nghiên cứu Con ng−ời số 2/2002. 5. Гурович П.С (1999). Философия человека. Nota Bene. Mocквa. 6. Cao Xuân Hạo. Tiếng Việt, văn Việt, ng−ời Việt. Nxb Trẻ. Tp Hồ Chí Minh, 2001. 7. Minh Huy. Ng−ời Việt Nam lạc quan nhất thế giới. 2/01/2007. 8. Trần Đình H−ợu. Đến hiện đại từ truyền thống. KX.07 xuất bản. Hà Nội 1994. 9. Kết quả khảo sát của tổ chức Gallup international (Gia) tại 53 n−ớc. VietNamNet, 2/1/2007. 10. Khoa học và công nghệ thế giới: Thách thức và vận hội mới (2005). TT Thông tin KH & CN QG xuất bản. Hà Nội. 11. E. Morin, A.B. Kern (2002). Trái đất - tổ quốc chung: tuyên ngôn cho thiên niên kỷ mới. Nxb KHXH. Hà Nội. 12. Nangia, Rakesh. Việt Nam đang nổi lên nh− một con hổ châu á. VietNamNet, 16/08/2005. 13. Nhân lực t− nguyên tiểu tổ, ủy ban hợp tác phát triển kinh tế quốc tế chính phủ Đài Loan (1996). Nhân lực t− nguyên quy hoạch, Đài Bắc. 14. Phan Ngọc (2002). Bản sắc văn hóa Việt Nam. Nxb Văn học. Hà Nội. 15. Nhiều tác giả (2006). Tranh luận để đồng thuận. Nxb Tri thức. Hà Nội. 16. Quest, Richard. Việt Nam có thể thành con rồng châu á. 23/08/2005. 17. Hồ Sĩ Quý (2006). Về giá trị và giá trị châu á. Nxb CTQG. Hà Nội. 18. Seriphama, Thanyathip. Việt Nam sớm bắt kip Thái Lan. VietNamNet, 10/02/2006. 19. Todaro, Michael P. (1998). Kinh tế học cho thế giới thứ ba. Nxb. Giáo dục. 20. Trần Văn Tùng, Lê ái Lâm (1996). Phát triển nguồn nhân lực: kinh nghiệm thế giới và thực tiễn n−ớc ta. Nxb CTQG, Hà Nội. 21. Tuyên bố của Hội nghị thế giới “khoa học cho thế kỷ XXI: Những trách nhiệm mới”. Tạp chí Thông tin KHXH số 5, 2000. 22. UNDP. HDR, 1990. 23. UNDP. HDR, 2005. 24. Về giải th−ởng Nobel kinh tế năm 1992. The Economist, ngày 17 tháng 10 năm 1992. 25. Vietnam: Good morning at last. www.economic.com. 26. Việt Nam 20 năm đổi mới. Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội, 2006. 27. Việt Nam đang tăng tốc. VietNamNet, 21/11/2005. August 07 Hosiquy@fpt.vn 24

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdt_kh_cn_nn_kx_05_010_6648.pdf
Tài liệu liên quan