Một số nét nổi bật trong phương thức thể hiện tình yêu và hạnh phúc gia đình của truyện ngắn các nhà văn nữ Việt Nam đương đại

Tài liệu Một số nét nổi bật trong phương thức thể hiện tình yêu và hạnh phúc gia đình của truyện ngắn các nhà văn nữ Việt Nam đương đại: TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 26 (51) - Thaùng 03/2017 165 Một số nét nổi bật trong phương thức thể hiện tình yêu và hạnh phúc gia đình của truyện ngắn các nhà văn nữ Việt Nam đương đại Some highlights of the way of expressing love and family happiness in the short stories by contemporary Vietnamese female writers ThS. Trần Thị Hồng Nhung Trường Đại học Sài Gòn Tran Thi Hong Nhung M.A., Saigon University Tóm tắt Tình yêu và hạnh phúc gia đình là một trong những dòng mạch cảm hứng và là chủ đề lớn của truyện ngắn các nhà văn nữ Việt Nam đương đại. Viết về nó, bằng thể loại truyện ngắn, các tác giả nữ đã chứng tỏ được khả năng, ưu thế của mình không chỉ trên phương diện nội dung nhận thức mà còn cả trên phương diện nghệ thuật thể hiện (dĩ nhiên là giữa hai phương diện có sự thống nhất, tương hợp). Bài viết chỉ ra một số nét nổi bật trong phương thức thể hiện tình yêu và hạnh phúc gia đình của truyện ngắn các nhà văn nữ Việt Nam đương đại trê...

pdf10 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 263 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số nét nổi bật trong phương thức thể hiện tình yêu và hạnh phúc gia đình của truyện ngắn các nhà văn nữ Việt Nam đương đại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 26 (51) - Thaùng 03/2017 165 Một số nét nổi bật trong phương thức thể hiện tình yêu và hạnh phúc gia đình của truyện ngắn các nhà văn nữ Việt Nam đương đại Some highlights of the way of expressing love and family happiness in the short stories by contemporary Vietnamese female writers ThS. Trần Thị Hồng Nhung Trường Đại học Sài Gòn Tran Thi Hong Nhung M.A., Saigon University Tóm tắt Tình yêu và hạnh phúc gia đình là một trong những dòng mạch cảm hứng và là chủ đề lớn của truyện ngắn các nhà văn nữ Việt Nam đương đại. Viết về nó, bằng thể loại truyện ngắn, các tác giả nữ đã chứng tỏ được khả năng, ưu thế của mình không chỉ trên phương diện nội dung nhận thức mà còn cả trên phương diện nghệ thuật thể hiện (dĩ nhiên là giữa hai phương diện có sự thống nhất, tương hợp). Bài viết chỉ ra một số nét nổi bật trong phương thức thể hiện tình yêu và hạnh phúc gia đình của truyện ngắn các nhà văn nữ Việt Nam đương đại trên các thành tố: kết cấu, nhân vật, giọng điệu và ngôn ngữ; qua đây, nhằm khẳng định những đóng góp khó có thể thay thế của các nhà văn nữ trong chiếm lĩnh những vấn đề/ hiện tượng đang nóng hổi tính thời sự và nhân văn của đời sống đương đại... Từ khóa: tình yêu, hạnh phúc, gia đình, các nhà văn nữ Việt Nam đương đại. Abstract Love and family happiness is one of the inspirational lines and a great topic of contemporary Vietnamese female writers. Writing about the topic in the short story genre, female authors have shown their abilities and advantages not only in terms of cognitive content but also in terms of artistic expression (of course, the two aspects are in unity and compatibility). The article points out some of the highlights of the way of expressing love and family happiness in the short stories by contemporary Vietnamese female writers via the components such as texture, character, tone and language; as a result, they aim to confirm their hard-to-replace contributions in occupying the issues and phenomena of the hot news and humanities of the contemporary life ... Keywords: love, happiness, family, contemporary Vietnamese female writers. 1. Tình yêu và hạnh phúc gia đình – một trong những chủ đề lớn của truyện ngắn các nhà văn nữ Việt Nam đương đại. Có thể thấy cách nhìn của các nhà văn nữ về chủ đề này so với văn chương thời kỳ trước và văn chương của các nhà văn nam XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN KẾT CẤU HẠ TẦNG THÀNH PHỐ VĨNH LONG: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 166 giới cùng thời có nhiều điểm khác biệt. Cũng là tình yêu của con người, nhưng do bị chí phối bởi cái nhìn lãng mạn – cách mạng, tình yêu trong văn học trước 1975 thường dẫn đến hôn nhân và đem lại hạnh phúc trọn vẹn. Trong truyện ngắn của các nhà văn nữ hiện nay, câu chuyện tình yêu không còn “thuần khiết”, lãng mạn... như thế nữa; trái lại, quá đa đoan, đầy phức tạp, nhiều phiền muộn, lắm khổ đau, bất hạnh, đổ vỡ. Có phải vì thế mà phần lớn truyện ngắn của các nhà văn nữ có kiểu kết cấu mở, giành quyền phán xét cho người đọc? Cái chết của cô gái điếm hết thời trong Biển cứu rỗi (Võ Thị Hảo) tưởng như khép lại câu chuyện của người lính gác đảo đèn. Tưởng như anh trở về với cuộc sống đời thường, song không thể. Cái chết ấy đã khiến người lính thức tỉnh, nên thu xếp đồ đạc lên tàu về quê hay lại đến một nơi nào khác để tiếp tục gặm nhấm nỗi căm phẫn đồng loại, ghẻ lạnh loài người? Hoặc nếu về quê, liệu anh có thể tha thứ cho người vợ, có chấp nhận những đứa trẻ không mang gương mặt của mình? Cô gái trong Dây neo trần gian (Võ Thị Hảo) sẵn sàng làm tất cả để người lính trở về từ chiến trường được neo lại chốn trần gian, song khi đạt được rồi cô gái ấy lại đau khổ vì “anh ấy không phải là của tôi” (1). Những ngày sau đó mối quan hệ sẽ thế nào? Cô gái tiếp tục quan tâm đến người lính như trước đây đã từng quan tâm hay chỉ âm thầm, lặng lẽ đi bên lề của cuộc đời anh? Sải trong Con dại của đá tự rơi vào bi kịch tình yêu do chính nàng tạo ra. Yêu Hùng De - chàng lính biên phòng, người con trai mà tất cả các cô gái bản đều ao ước, nhưng Sải không cưỡng lại được sự mê hoặc bởi vị mặn mang mùi của biển từ Cáo Tờ Quẩy - một gã đàn ông buôn chuyến. Thất thân với người chồng chưa cưới, ân hận từ những lỗi lầm không thể tha thứ của mình, Sải đã bỏ chạy. Người ta chỉ tìm thấy “dấu máu rõ từ nhà Giằng Gau tới miệng vực thì mất hút. Vực sâu thăm thẳm không ai xuống nổi. Không biết nàng đã nhảy xuống vực hay bỏ đi biệt tích” ? (2)... Câu hỏi để ngỏ này khiến truyện kết thúc mà người đọc vẫn còn day dứt về số phận của Sải. Dạo đó thời chiến tranh của Lê Minh Khuê dừng lại nhưng câu chuyện chưa kết thúc vì cuối truyện khi chia tay người đồng đội, Cúc như sắp khóc nhưng rồi lại quay đi, “chạy vào cái cối xay đã xay nát tình yêu của họ Một ngày lại sắp qua đi” (3). Bế tắc, cùng quẫn đã giết chết tình yêu của Thắng và Cúc, nhưng họ không có cách nào vùng vẫy để cứu vãn cuộc hôn nhân từng là mơ ước và sự ghen tị của biết bao người. Hôm nay cũng như hôm qua, ngày mai rồi lại cũng giống hôm nay, cuộc sống quẩn quanh trong những cái chuồng được gọi là nhà với chuột bọ, rác rưởi đeo đẳng mãi; có vùng vẫy họ cũng không thể nào thoát ra được. Ở đâu đó, xa tít trong những cơn mưa Trường Sơn, giọng hát và nụ cười trong trẻo của Cúc vọng về như một nghịch lý, như một nỗi đau, như một niềm day dứt... Dễ nhận thấy trong truyện ngắn của các nhà văn nữ là loại kết cấu tâm lý, truyện không có cốt truyện. Loại kết cấu này phổ biến trong những truyện viết về những chuyện vặt vãnh đời thường thiên về sự thăng trầm trong cảm xúc và nội tâm nhân vật. Trong mỗi truyện, ẩn giấu sau mỗi số phận, mỗi cảnh đời là sự gửi gắm của các nhà văn về cuộc đời, về nhân sinh. Các sự kiện và hành động của nhân vật mất vai trò thúc đẩy sự phát triển của câu chuyện, chỉ còn biểu hiện những trạng thái tình cảm, tâm lý thuần tuý; mạch truyện LÊ PHƯỚC THÀNH 167 không đi theo quy luật nhân quả. Trong truyện Người đàn bà và những giấc mơ (Y Ban), người đàn bà phát ngán trước những quen thuộc đến bình yên, nhàm chán trong gia đình, trong quan hệ vợ chồng. Ông cậu trong Nước mắt đàn ông (Nguyễn Thị Thu Huệ) dù có tài kiếm tiền nhưng lại cô độc ngay trong chính ngôi nhà dư thừa vật chất của mình. Giấc mơ được yêu thương che chở bởi một người đàn ông có bàn tay ấm áp lạ thường luôn ám ảnh cô gái điếm trong Người đàn bà sinh ra từ bóng đêm (Y Ban). Ở Vườn yêu, Võ Thị Hảo dựa trên tâm trạng của một cô gái mới lớn, lần đầu tiên bước chân vào chốn vườn yêu. Khi thì tràn trề háo hức, lúc lại sợ sệt chối từ. Từ tình huống tâm lý đặc biệt này, truyện muốn khái quát những ý nghĩ, những suy tư của người con gái tuổi mới lớn khi bước vào tình yêu. Cô bé cũng như những người khác tự ru ngủ mình bằng chính những bi kịch của sự nhẹ dạ và đức hy sinh được tô vẽ, phóng đại lên nhiều lần. Chỉ có bất hạnh vẫn trần trụi thế. Vườn yêu không phải bao giờ cũng đầy hương thơm mật ngọt, ở đó có thể có cả những đau đớn, mất mát, hy sinh. Mong manh như là tia nắng (Lê Minh Khuê) là tâm trạng của người đàn bà dù đã có cuộc sống bình yên, làm tròn trách nhiệm của một người mẹ, người vợ nhưng vẫn luôn thổn thức vì kỷ niệm, vì khao khát thầm kín với người yêu xưa. Người đàn bà nuôi con riêng cho chồng khi người tình của chồng qua đời trong Chuông vọng cuối chiều (Võ Thị Hảo) hay một cô gái lầm lỡ đánh mất tình yêu vì trót thất thân với một gã họ Sở trong Con dại của đá (Võ Thị Hảo), tất cả tưởng như chuyện rất thường ngày nhưng lại luôn xoay quanh số phận đời tư của mỗi con người. Truyện không có cao trào, biến cố hay xung đột dữ dội; trầm lặng đều đều, nhưng để lại nhiều dư ba, ám ảnh... 2. Nhân vật trong tác phẩm văn chương có vai trò như để triển khai cốt truyện, được coi là phương tiện để nhà văn khái quát đời sống. Những điều nhà văn muốn nói đều gửi gắm qua hình tượng nhân vật... Thế giới nhân vật trong truyện ngắn của các cây bút nữ cũng phong phú, đa dạng với những số phận khác nhau trên con đường đi tìm tình yêu và hạnh phúc. Có nhiều cách phân loại nhân vật theo những tiêu chí khác nhau Ở đây, trong quan hệ với việc thể hiện nội dung tình yêu và hạnh phúc gia đình, thiết nghĩ chọn tiêu chí giới tính là phù hợp hơn cả vì trong rất nhiều nguyên nhân dẫn đến bất hạnh, bi kịch của tình yêu và hạnh phúc gia đình, theo các nhà văn nữ, nguyên nhân chính là ở thế giới đàn ông. Trong con mắt của họ, quan hệ giữa hai giới (đàn ông – đàn bà/ nam – nữ) không lấy gì làm êm thấm, đẹp đẽ. Có thể thấy, các nhà văn nữ thể hiện rõ trên trang viết của mình những suy tư, những dòng chảy cảm xúc chân thực, riết róng, nồng cháy đang trỗi dậy trong họ. Người đàn ông dĩ nhiên là một thành tố không thể thiếu trong thế giới nhân vật của tác phẩm mà họ tạo ra. Các cây bút nữ thường đi tìm căn nguyên từ phía những người đàn ông, dù là đàn ông thuộc loại xấu xa, ti tiện hay loại tử tế, “hoàn thiện”. Bi kịch mà phụ nữ gặp phải chưa hẳn là do những người đàn ông gây ra nhưng dù ít, dù nhiều, đàn ông không thể là “vô tội”. Nhân vật anh trong Sơ ri đắng, Biển ấm, Cát đợi của Nguyễn Thị Thu Huệ là như thế. Đứng trước một phụ nữ đẹp, gợi cảm, người đàn ông thường nảy sinh những cảm xúc nhục thể... Song, không phải vì thế mà mọi đàn ông đều trở nên xấu xa. Người đàn XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN KẾT CẤU HẠ TẦNG THÀNH PHỐ VĨNH LONG: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 168 ông này đã biết yêu, đã biết cảm thông, chia sẻ, giữ gìn, chở che và tôn trọng người mình yêu: “Em trắng trong, trinh nguyên như nụ hoa mới nở buổi sớm. Mà tôi, thằng đàn ông đã có vợ con và nhiều bồ cũng không dám nghĩ tới một điều gì xấu ngoài việc là ngắm em Em trong trắng quá, thanh sạch đến nỗi tôi cảm thấy ngay cả nghĩ đến điều đó thôi cũng đã là có tội” (4). Người đàn ông này đã biết đấu tranh với chính mình bởi anh hiểu dù yêu em nhưng với hoàn cảnh của mình, anh không thể đem lại hạnh phúc trọn vẹn cho em. Tuy nhiên, người đàn ông biết nâng niu phụ nữ trên đôi cánh của tình yêu như thế trong truyện của các cây bút nữ vẫn là “của hiếm”. Phổ biến trong tác phẩm của các chị là hình ảnh những người đàn ông phản bội, quên ơn nghĩa, ích kỷ, ti tiện, giả dối, thờ ơ, vô trách nhiệm trong tình yêu, trong gia đình Anh chàng trong Một chiều mưa (Nguyễn Thị Thu Huệ) vui vầy với một cô gái khác trong ngôi nhà tràn ngập tiếng cười để người yêu chờ đợi dưới cơn mưa ở gốc cây dâu gia gầy với những day dứt, hối lỗi, lo lắng... Người con gái xem tình yêu, người yêu là tất cả cuộc sống, bỗng chốc sụp đổ mọi niềm tin, phải hứng chịu nỗi đau của tình yêu đầu khi người con trai thiếu tôn trọng tình yêu và không chung thuỷ. Chàng trai trong Nàng tiên xanh xao đắm mình trong vòng tay hò hẹn mới, quên đi ân nghĩa người đã hi sinh một nửa máu trong huyết quản để cứu sống mình. Các nhân vật người đàn ông trong Ôn lột tử, Biển và người đàn bà xấu xí của Y Ban chỉ tìm đến những người phụ nữ khi bản thân mình ốm yếu bệnh tật, bị ruồng bỏ; còn khi đã trở nên khoẻ mạnh và thành đạt thì họ ra đi, bỏ rơi những người phụ nữ đã từng cưu mang mình. Có kẻ xảo trá, phản bội người tình một cách không thương tiếc như người đàn ông trong Đêm dịu dàng (Nguyễn Thị Thu Huệ). Anh ta mượn tay thủ trưởng của mình dựng lên một màn kịch để đẩy một cô gái vừa bước vào đời đã gặp phải tình huống vừa xấu hổ, vừa nhục nhã vì bị xâm phạm, tổn thương... Cuối cùng cô đã nhận ra được bản chất thật của người yêu cô khi thấy anh ta đang sung sướng và hạnh phúc chúc tụng, cảm ơn ông thủ trưởng. Lúc này cô mới nhận ra rằng: “Tôi cứ tưởng cái gì tôi cũng biết, nhưng có một cái tôi không hề biết là người ta có nhiều cách thay đổi lòng dạ, nhiều kiểu bỏ người tình ngon lành lắm”. Khánh trong Sơ ri đắng còn tàn nhẫn đến táng tận lương tâm khi bỏ Phượng để gây ra cái chết thảm thương cho người thiếu nữ chưa kịp làm mẹ... Vậy mà hắn vẫn thản nhiên triết lý: “đàn bà là đàn bà. Thế thôi” (5). Có những đàn ông, trong thực chất là người không chung thuỷ với vợ song vẫn cố giữ vẻ bề ngoài của một người chồng tử tế, đứng đắn. Với ngòi bút miêu tả tâm lý tinh tế, Nguyễn Thị Thu Huệ trong Cầu thang đã để cho người đàn ông tâm sự: “Tôi có sẵn một tập phong bì trong đó có 50.000 đồng, cứ tối nào đi em út, tôi phải thủ vài cái để đêm về đưa cho mụ béo, bảo là đi họp được tiền” (6). Chẳng cần bình luận gì thêm bởi người đàn ông này đã tự lột mặt. Có những người đàn ông núp danh những người có học thức cao để lừa gạt con gái. Phá hoại cuộc đời các cô gái, rồi thì cao chạy xa bay, hoặc tìm đủ lý do để hắt hủi. Đáng sợ hơn có kẻ như Vỹ trong Khi người ta trẻ của Phan Thị Vàng Anh còn vô trách nhiệm, vô lương tâm trước hậu quả của chính mình: “Than ôi, ngày đám tang cô, Vỹ ta tắm biển. Vui lắm và nắng lắm” (7). Người đàn ông trong Hậu LÊ PHƯỚC THÀNH 169 thiên đường của Nguyễn Thị Thu Huệ đã lợi dụng và lừa gạt một cô bé mới 16 tuổi đầu đang háo hức bước vào đời với bao vẻ sáng trong. Hắn “đã có một vợ hai con lại còn bòn rút từng nghìn của một đứa bé con. Hắn vừa được con bé, vừa được năm xu một hào, còn bản thân chẳng mất gì cả” (8). Chẳng những lừa lọc mà hắn còn ti tiện, bủn xỉn “Mua xà phòng chỉ thích loại to, rẻ, bền” (9), còn đi ăn sáng thì chỉ “ăn xôi cho chắc dạ” (10) Với tất cả những cái xấu xa đó, người đàn ông này đã mang khuôn mặt thiếu nữ của một cô bé 16 tuổi ra đi và trả lại cho cô khuôn mặt của một người đàn bà. Có một kiểu đàn ông tưởng chừng không có lỗi lầm trong cuộc sống, không trực tiếp gây bất hạnh cho phụ nữ, nhưng thực chất họ là những kẻ tẻ nhạt, vô vị, đơn điệu, có lỗi với hạnh phúc gia đình. Với những người phụ nữ nhạy cảm, tinh tế, sống trong xã hội hiện đại với rất nhiều nhu cầu, tình yêu và hạnh phúc gia đình đối với họ phải là sự hoà hợp của tâm hồn và thể xác, tinh thần và vật chất. Lan trong một nửa cuộc đời của Nguyễn Thị Thu Huệ từng nhận xét về chồng: “anh ấy tròn trịa như một hòn bi ve () Hải đơn giản tốt bụng đến phát ghét” (11). Nhiều người phụ nữ cũng thấy “chồng nàng thuộc tuýp người chắc chắn không ưa xê dịch” nên “nàng cứ làm những gì như nàng muốn” (Người đàn bà đứng trước gương - Y Ban); “cuộc sống của gia đình nàng trôi qua êm đềm, bằng lòng, ít trăn trở” (Người đàn bà và những giấc mơ - Y Ban) (12), nên nàng đã ngoại tình mà chồng không hay biết. Đặc biệt đối với những mong ước được thỏa mãn về thể xác, người chồng càng không có đủ sự tinh tế để hiểu được: “Anh không nghe thấy tiếng thở dài tức ngực của người đàn bà chưa đến 40 tuổi, da thịt mát lạnh, thơm tho của sự đầy đủ, nhàn hạ, đang cần sự yêu chiều ve vuốt” (Chỉ còn một ngày - Nguyễn Thị Thu Huệ)... Khoảng cách giữa vợ - chồng ngày càng xa, hạnh phúc dần dần trở nên gượng gạo, giả tạo. Người phụ nữ dễ rơi vào trụy lạc ái tình, xem đây như một giải pháp để thoát khỏi sự tẻ nhạt, vô vị, để được sống với con người cá nhân của mình. Điều này, có nên cảm thông, tha thứ? Không hiếm những đàn ông đã không xứng đáng làm cây cổ thụ để cho những dây leo yếu ớt, mỏng mảnh bám tựa. Bằng cách này hay cách khác, hữu ý hay vô tình, người đàn ông đã làm tổn thương phụ nữ, thậm chí gây ra những bất hạnh, khổ đau cho họ. Truyện ngắn của các nhà văn nữ gửi đi một thông điệp tế nhị nhưng đầy nghiêm khắc: “hỡi thế giới đàn ông, các ngươi phải nhìn lại mình, phải thấu hiểu phụ nữ, phải sống xứng đáng hơn với phụ nữ”... 3. Trong thế giới nhân vật của truyện ngắn các nhà văn nữ, so với nhân vật đàn ông, nhân vật phụ nữ xuất hiện ít hơn nhưng lại thường giữ vai trò chính của cấu trúc tác phẩm. Không thể không thấy rằng các tác giả dành cho phái nữ một sự ưu ái đặc biệt. Là phụ nữ nên các nhà văn rất quan tâm đến số phận những người cùng giới và đặc biệt nhạy cảm với những bi kịch, những nỗi đau của người phụ nữ trong cuộc đời có quá nhiều biến động. Bằng những trang văn đầy nữ tính, họ muốn chia sẻ, muốn cảm thông, bênh vực, bảo vệ chị em. Nguyễn Thị Thu Huệ từng tâm sự: “tôi luôn quan tâm đến số phận của những người phụ nữ vì không chỉ họ làm nên cuộc sống, bảo vệ và phát triển cuộc sống mà tôi hiểu họ, dù có thể chưa đầy đủ. Và rất quan trọng, rất cần thiết khi một nhà XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN KẾT CẤU HẠ TẦNG THÀNH PHỐ VĨNH LONG: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 170 văn viết về những gì mà họ hiểu rõ. Tôi đồng cảm với số phận của nữ giới. Tôi thực sự hiểu rõ và muốn chia sẻ với họ niềm vui, nỗi buồn” (13). Thế giới nhân vật phụ nữ trong truyện ngắn của các cây bút nữ thật đa dang, phong phú với nhiều cảnh ngộ khác nhau. Nhìn chung, họ có nhiều bi kịch, nhiều bất hạnh trong tình yêu và hạnh phúc gia đình. Họ luôn khát khao hạnh phúc, có những ước mơ cao đẹp và chính đáng nhưng cuộc đời vốn đa sự, đời người vốn đa đoan nên cuộc sống gia đình họ luôn bị đe doạ. Họ cô đơn, khắc khoải, trống rỗng, bế tắc, thất vọng, bẽ bàng. Luôn khát khao hạnh phúc vì thế họ sẵn sàng hi sinh mình nhưng số phận vẫn không mỉm cười với họ. Bi kịch của họ là ở đó. Quyên trong Tình yêu ơi ở đâu? (Nguyễn Thị Thu Huệ) từng bộc lộ: “nàng muốn cuộc sống của mình phải như nàng nghĩ. Sẽ lấy một người chồng lý tưởng biết yêu và chiều nàng. Một cuộc sống đầy đủ” (14). Vậy mà trải qua bao nhiêu lần tìm kiếm nàng vẫn thất bại. Nàng từ bỏ chàng thi sĩ khi nhận ra “chàng không và sẽ không bao giờ có sức làm trụ cột gia đình” (15). Vậy là tình yêu lãng mạn đầu đời cũng kết thúc khi chính chàng thi sĩ làm sụp đổ thần tượng thi ca trong lòng nàng bởi sự bệ rạc, yếu đuối và quá thiếu thực tế. Sau một thời gian, nàng yêu anh chàng kế toán với ý thức xác định về một cuộc hôn nhân. Nhưng rồi sự kỳ vọng đó cũng sụp đổ khi nàng nhận ra hắn là kẻ thô bỉ và tính toán. Rồi thêm một lần nữa nàng gắn bó với anh lính phục viên từng một lần có vợ nhưng cái hạnh phúc đơn sơ mà nàng mong bấu víu cho yên thân cũng không ở trong tầm tay nàng. Hai đứa trẻ không muốn bố chúng chia sẻ tình cảm với ai nữa, chúng sợ nàng sẽ cướp mất người bố, chiếm căn nhà và tống chúng ra đường. Nàng không chấp nhận và trở thành người thừa trong ngôi nhà vốn đã chật chội ấy. Giữa đô thị ồn ào, náo nhiệt nàng vẫn thấy cô đơn. Thêm một lần yêu là thêm một lần chấp nhận, nhưng mỗi lần chấp nhận nàng như càng lún sâu hơn vào con đường không lối thoát. Tình yêu và hạnh phúc đời thường bình dị, sao mà khó khăn đến thế. Câu hỏi tình yêu ơi ở đâu? vẫn văng vẳng vang lên ngậm ngùi và khắc khoải. Hằng trong Tiếng thở dài của đêm (Trần Thị Trường), Tuy trong Một cuộc đời (Lê Minh Khuê), đều như vậy, đều là những con người đau đớn và thất vọng trên con đường đi tìm tình yêu và hạnh phúc... Thực tế cuộc sống của con người luôn song hành hai mặt trái ngược nhau: thực và mộng. Một mặt người phụ nữ bị trói buộc bởi muôn vàn yếu tố của một gia đình (chồng con, nội ngoại, dòng họ, công việc nội trợ). Nhưng mặt khác, còn có một con người khác trong họ, nó mơ hồ, mong manh, lúc le lói, lúc bùng phát dữ dội, nhưng cũng thường ẩn mình trong yên lặng... Là người cùng giới nên các nhà văn nữ rất nhạy bén trong việc khám phá chiều sâu tâm hồn và chiếu rọi ánh sáng tới những miền khuất lấp trong tâm hồn nhân vật nữ. Họ hiểu được những khao khát rất đời, rất người trong sâu thẳm tâm hồn nhân vật. Đó là cô gái trong Cát đợi và Biển ấm của Nguyễn Thị Thu Huệ, là nhân vật tôi trong Gà ấp bóng, Sau chớp là bão giông của Y Ban, là nàng trong Hoa mưa của Trần Thị Trường,... Nhân vật trong Biển ấm sau bao nhiêu năm trở về bến phà xưa với ký ức về mối tình đầu vẫn còn xốn xang kỷ niệm: “Anh ở đâu? Sao tôi nhớ anh thế này. Bao nhiêu năm. Tôi sống và hiểu rằng chẳng bao giờ tôi gặp được LÊ PHƯỚC THÀNH 171 người đàn ông thay thế được anh trong tâm linh” (16), “Người con gái đến tuổi dậy thì có những đụng chạm đầu tiên với một người đàn ông, thường bị xúc phạm ghê gớm và không bao giờ quên” (17). Nhân vật trong Còn lại một vầng trăng của Nguyễn Thị Thu Huệ thì: “tình yêu đầu tiên, những va chạm đầu tiên luôn làm tôi run rẩy, hồi hộp. Anh gần tôi, khuôn mặt thân yêu như chính máu thịt của mình” (18). Ngay cả người phụ nữ đứng tuổi cũng sống thành thực với con người tự nhiên của mình: “Tôi đã cố quên, thế nhưng không thể nào quên được. Tôi đã biết tôi sẽ bị trừng phạt cả ở trên đời lẫn dưới địa ngục nhưng tôi bất chấp. Tôi chưa bao giờ yêu và được yêu. Bây giờ tôi mới biết thế nào là được yêu” (Một lần và mãi mãi - Y Ban). Cuộc sống đầy biến động hôm nay có vô số những cạm bẫy giăng sẵn trên bước đường vào đời đầy háo hức của các cô gái non nớt. Các nhà văn nữ hồi hộp, lo lắng dõi theo từng bước chân của họ. Ta đồng cảm với sự xót xa đau dớn và sự lo âu của các chị khi viết về sự sa sẩy vào cạm bẫy cuộc đời của các nhân vật này như Thêu trong Ngỗng non (Lê Minh Khuê), Phượng trong Sơ ri đắng (Nguyễn Thị Thu Huệ), cô gái trong Thư gửi mẹ Âu Cơ (Y Ban), v.v... Nhân vật nữ trong sáng tác của các nhà văn nữ còn là những người con gái đã hy sinh sắc đẹp, tuổi xuân, và cả mạng sống của mình cho ngày độc lập (Người sót lại của rừng cười - Võ Thị Hảo), là những người phụ nữ vọng phu trong cô đơn, thầm lặng hy sinh không có ngày đoàn tụ (Trận gió màu xanh rêu - Lê Minh Khuê), là người vợ vừa tần tảo chờ đợi chồng đi chiến đấu, vừa chia sẻ cùng anh những vết thương nhức nhối khi người lính ấy trở về từ cuộc chiến (Bản lý lịch - Y Ban), là những người tật nguyền, những kẻ xấu xí, có kẻ bị xem như điên loạn vẫn vươn lên kiếm tìm tình yêu, hạnh phúc như Hằng - cô gái tật nguyền hứng những giọt mưa để kỳ vọng vào hạnh phúc trong Làn môi đồng trinh (Võ Thị Hảo). Cuộc sống của Hằng qua ánh mắt chỉ là một màn sương nhưng tâm hồn cô vẫn ánh lên sự trong sáng, lương thiện, ánh lên niềm mong ước được yêu thương và che chở bởi một người đàn ông với một tình yêu vị tha và gắn bó. Tâm trong Máu của lá (Võ Thị Hảo) cũng khát khao sự thông cảm, thấu hiểu và yêu thương. Người anh đã tự viết thư mạo nhận là người yêu để em gái được an ủi. Khi chết anh đã trăng trối lại với đồng đội: “Cậu không có em gái tàn tật, không hiểu được. Mắt con bé rưng rưng. Nó cần những lời yêu ngọt ngào như cần nước”. Người bạn của anh trai Tâm đã tiếp tục viết thư để an ủi. Chính tấm lòng vị tha, những cánh tay chìa ra cho một kẻ sắp chìm đã khiến Tâm tin rằng “phía chân trời có thể có một chú lùn. Nếu có, chú sinh ra là để cho em”. Trong Cõi mê, Nguyễn Thị Thu Huệ viết về một cô gái bị mọi người xem như là một người điên nhưng cô vẫn hồn nhiên, vô tư, say sưa sống trong tình yêu và tận hưởng tình yêu. Nếu không có một sự đồng cảm, một sự hiểu biết sâu sắc và nhu cầu chia sẻ thì các nhà văn nữ không thể vẽ nên được bức tranh về thế giới nhân vật nữ như thế. Qua bức tranh đối lập giữa thế giới đàn ông và thế giới phụ nữ trong tác phẩm, các cây bút nữ đã lý giải một phần nguyên nhân nỗi bất hạnh của người phụ nữ trong tình yêu và hạnh phúc gia đình. 4. Văn học là loại hình của nghệ thuật ngôn từ bởi ngôn ngữ là chất liệu cơ bản, là yếu tố thứ nhất của văn học. Ngôn ngữ văn học là hình thái hoạt động của ngôn ngữ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN KẾT CẤU HẠ TẦNG THÀNH PHỐ VĨNH LONG: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 172 mang ý nghĩa thẩm mỹ, giúp nhà văn xây dựng hình tượng, tái hiện lời nói và thế giới tư tưởng của con người. Ngôn ngữ ở mỗi thể loại mang những sắc thái biểu cảm khác nhau. Ngôn ngữ truyện ngắn hiện đại nói chung là ngôn ngữ đa thanh, gần gũi với đời sống. Ở giai đoạn văn học trước, vấn đề tình yêu và hạnh phúc gia đình được nhà văn nhìn bằng cái nhìn đơn giản một chiều, lãng mạn: tình yêu thì mãnh liệt, trong sáng và gắn liền với hôn nhân, tình yêu đem lại hạnh phúc cho con người; ngôn ngữ ở đây đơn thanh, một giọng (lãng mạn, lạc quan, ngợi ca). Sau 1975, nhất là từ 1986 trở lại đây, các nhà văn đã có sự thay đổi lớn trong cách nhìn về hiện thực, có quan niệm mới về con người. Cuộc sống với sự đa dạng, phong phú, phức tạp, bề bộn, con người được nhìn nhận từ nhiều chiều, nhiều phương diện. Trong sáng tác của các nhà văn đã có sự chuyển biến từ ngôn ngữ một giọng sang ngôn ngữ nhiều giọng, đối thoại; có sự tác động, hoà trộn giữa ngôn ngữ tác giả, ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật. Chính sự hòa trộn giữa các loại ngôn ngữ ấy đã tạo nên sự thay đổi giọng điệu của tác giả khi trần thuật. Giọng điệu là yếu tố hàng đầu của phong cách nhà văn, là phương tiện biểu hiện quan trọng trong tác phẩm và là yếu tố có vai trò thống nhất các yếu tố khác của hình thức tác phẩm vào một chỉnh thể. Giọng điệu tác phẩm thể hiện quan hệ thẩm mỹ của nhà văn với hiện thực được mô tả. Cái nhìn của nhà văn đối với đời sống sẽ quy định giọng điệu của tác phẩm. Sự thay đổi cái nhìn của nhà văn sẽ dẫn tới sự thay đổi giọng điệu. Giọng điệu truyện ngắn của các nhà văn nữ Việt Nam đương đại thực sự giàu sức lôi cuốn. Các nhà văn nữ đã tìm đến con người trong bề sâu hiện thực ẩn kín và khám phá họ trong mối quan hệ giữa ý thức và vô thức, giữa cao cả và thấp hèn. Các chị đã chọn chỗ đứng bình đẳng với nhân vật, để cho nhân vật nói thật tiếng nói của mình. Thật khó phân biệt được đâu là giọng tác giả, đâu là giọng nhân vật, giọng người kể chuyện, với nhiều sắc thái, âm điệu khác nhau, hoà trộn, đan xen, khi thì mỉa mai giễu cợt, khi thì tư biện triết lý, khi thì đanh thép, khi thì khắc khoải âm thầm Họ đã tạo nên một lối trần thuật đa thanh hiện đại. Mỗi nhà văn lựa chọn cho mình một giọng điệu, một tiếng nói riêng. Tuy nhiên, nói như M.Khrapchenko: “giọng điệu chủ yếu không loại trừ mà còn cho phép tồn tại trong tác phẩm văn học những sắc điệu khác nhau. Những sắc điệu này diễn đạt sự phong phú của những bối cảnh, cảm xúc trong việc lý giải những hiện tượng, những khía cạnh khác nhau và giống nhau của đối tượng sáng tác” (19). Truyện ngắn của các nhà văn nữ Việt Nam đương đại viết về tình yêu và hạnh phúc gia đình cho thấy có không ít những cây bút có giọng văn trần thuật táo bạo, mạnh mẽ với các sắc điệu chua chát, sắc lạnh, đanh đá, nhưng nhìn chung vẫn trên nền của dòng mạch cảm xúc trữ tình đằm thắm pha chút thâm trầm triết lý... Phần lớn các truyện đều da diết sự khắc khoải, day dứt, âu lo về nhân cách, nhân tính đang có chiều hướng giảm sút trong bối cảnh sống của xã hội đương đại. Đấy là sự xót xa, cay đắng, đau đớn của người viết về những khổ đau, bất hạnh của con người, đặc biệt là người phụ nữ trước câu chuyện tình yêu và hạnh phúc gia đình; về số phận những cô gái nông thôn quê mùa, chất phác trước sự giả dối, lừa lọc của những kẻ mang danh trí thức (Ngỗng non - Lê Minh Khuê) (20); về LÊ PHƯỚC THÀNH 173 sự sa bẫy của những cô gái mới lớn mang đầy khao khát yêu đương (Hậu thiên đường - Nguyễn Thị Thu Huệ); về sự hoài nghi, mất niềm tin của người con gái ngay trước cha đẻ của mình (Kịch câm - Phan Thị Vàng Anh) (21), v.v... Không ảo tưởng, không triết lý suông, các nhà văn nữ đã nói những điều cần nói về cái rất thực của đời sống hôm nay: “Đời người bạc bẽo” (Nguyễn Thị Thu Huệ - Người xưa) (22); về thiên chức - thân phận – và tình yêu của người phụ nữ: “phụ nữ chúng tôi có những giai đoạn chẳng khác nào con gà ấp bóng... Còn lại là một tình yêu đích thực” (Y Ban - Gà ấp bóng) (23); về tình yêu – hôn nhân: “cái gì làm thước đo? tình yêu hay hôn nhân? con sẽ không lạc loài nếu như không bao giờ xảy ra chuyện này. Hài nhi của con sẽ không lạc loài nếu như con và anh ấy đã cưới nhau” (Y Ban - Bức thư gửi mẹ Âu Cơ)... Dù ở cung bặc, sắc thái nào (ngọt ngào, dịu nhẹ hay đay đả, dằn vặt,...), giọng điệu của các chị luôn tràn đầy nữ tính, chân thành, mong được cảm thông, thấu hiểu, chia xẻ. Để chuyển tải bao sự trăn trở, day dứt, khắc khoải về tình yêu và hạnh phúc gia đình trong cuộc sống hiện đại, các nhà văn nữ đã có nhiều đổi mới, sáng tạo trong tìm kiếm những phương thức thể hiện sao cho hữu hiệu. Dẫu còn những hạn chế nhất định, nhưng những đóng góp của truyện ngắn các nhà văn nữ cho văn xuôi hiện đại nước nhà là không nhỏ, không thể thay thế. Viết về tình yêu – hôn nhân – và hạnh phúc gia đình, dám chắc – đây là thế mạnh nổi trội của các cây bút nữ... Chú thích: (1) Nhiều tác giả, Truyện ngắn 4 cây bút nữ, Nxb Văn học, Hà Nội, 2002, tr.122. (2) Võ Thị Hảo, Goá phụ đen, Nxb Phụ nữ, Hà Nội, 2005, tr.205. (3) Lê Minh Khuê, Những dòng sông - Buổi chiều - Cơn mưa, Nxb Phụ nữ, Hà Nội, 2002, tr.153. (4) Nguyễn Thị Thu Huệ, 37 truyện ngắn, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2004, tr.283. (5) Nguyễn Thị Thu Huệ, 37 truyện ngắn, sđd (sách đã dẫn), tr.289. (6) Nguyễn Thị Thu Huệ, 37 truyện ngắn, sđd, tr.342. (7) Nhiều tác giả, Truyện ngắn 4 cây bút nữ, Nxb Văn học, Hà Nội, 2002, tr.49. (8) Nhiều tác giả, Truyện ngắn 4 cây bút nữ, Nxb Văn học, Hà Nội, 2002, tr.314. (9) Nhiều tác giả, Truyện ngắn 4 cây bút nữ, Nxb Văn học, Hà Nội, 2002, tr.312. (10) Nhiều tác giả , Truyện ngắn 4 cây bút nữ, Nxb Văn học, Hà Nội, 2002,tr.313. (11) Nguyễn Thị Thu Huệ, 37 truyện ngắn, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2004, tr.485. (12) Nhiều tác giả, Truyện ngắn hay các tác giả nữ, Nxb Văn học, Hà Nội, 2006, tr.13. (13) Báo Thanh niên, số 248 tháng 9/ 2002. (14) Nguyễn Thị Thu Huệ, 37 truyện ngắn, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2004, tr.141. (15) Nguyễn Thị Thu Huệ, 37 truyện ngắn, sđd, tr.141. (16) Nguyễn Thị Thu Huệ, 37 truyện ngắn, sđd, tr.168. (17) Nguyễn Thị Thu Huệ, 37 truyện ngắn, sđd, tr.160. (18) Nguyễn Thị Thu Huệ, 37 truyện ngắn, sđd, tr.59. (19) M.Khrapchenko, Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội, 1978, tr.169. (20) Lê Minh Khuê, Trong làn gió heo may, Nxb Văn học, Hà Nội, 1999, tr.34. (21) Nhiều tác giả, Truyện ngắn 4 cây bút nữ, Nxb Văn học, Hà Nội, 2002, tr.22. (22) Nguyễn Thị Thu Huệ, 37 truyện ngắn, sđd, tr.350. (23) Y Ban, Người đàn bà có ma lực, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2003, tr.141. XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN KẾT CẤU HẠ TẦNG THÀNH PHỐ VĨNH LONG: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 174 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Y Ban (2003), Người đàn bà có ma lực, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 2. Báo Thanh niên, số 248 tháng 9/ 2002. 3. Võ Thị Hảo (2005), Goá phụ đen, Nxb Phụ nữ, Hà Nội. 4. Nguyễn Thị Thu Huệ (2004), 37 truyện ngắn, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 5. Lê Minh Khuê (1999), Trong làn gió heo may, Nxb Văn học, Hà Nội. 6. Lê Minh Khuê (2002), Những dòng sông - Buổi chiều - Cơn mưa, Nxb Phụ nữ, Hà Nội. 7. M.Khrapchenko (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 8. Nhiều tác giả (2002), Truyện ngắn 4 cây bút nữ, Nxb Văn học, Hà Nội. 9. Nhiều tác giả (2006), Truyện ngắn hay các tác giả nữ, Nxb Văn học, Hà Nội. Ngày nhận bài: 19/02/2017 Biên tập xong: 15/3/2017 Duyệt đăng: 20/3/2017

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf114_8575_2215166.pdf