Một số kinh nghiệm thực tiễn trong công tác đào tạo theo học chế tín chỉ tại các trường đại học, cao đẳng

Tài liệu Một số kinh nghiệm thực tiễn trong công tác đào tạo theo học chế tín chỉ tại các trường đại học, cao đẳng: TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 26 (51) - Thaùng 03/2017 33 Một số kinh nghiệm thực tiễn trong công tác đào tạo theo học chế tín chỉ tại các trường đại học, cao đẳng Practice of credit-based training system in higher institutions TS. Nguyễn Thị Tứ Trường Đại học Sư phạm TP.HCM Nguyen Thi Tu, Ph.D. Ho Chi Minh City University of Pedagogy Tóm tắt Nội dung bài viết tổng hợp một số kinh nghiệm thực tiễn trong công tác đào tạo theo học chế tín chỉ tại các trường đại học, cao đẳng tại Thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở phân tích thực trạng, thuận lợi và khó khăn, tác giả đề xuất một số biện pháp nhằm khắc phục những hạn chế trong công tác đào tạo theo học chế tín chỉ hiện nay. Từ khóa: giáo dục đại học, đào tạo theo học chế tín chỉ. Abstract The article summarizes some practical experiences of credit-based training system in higher institutions in Ho Chi Minh City. Analyzing achievements and shortcomings, advantages and disadvantages, the author ...

pdf5 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 429 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số kinh nghiệm thực tiễn trong công tác đào tạo theo học chế tín chỉ tại các trường đại học, cao đẳng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 26 (51) - Thaùng 03/2017 33 Một số kinh nghiệm thực tiễn trong công tác đào tạo theo học chế tín chỉ tại các trường đại học, cao đẳng Practice of credit-based training system in higher institutions TS. Nguyễn Thị Tứ Trường Đại học Sư phạm TP.HCM Nguyen Thi Tu, Ph.D. Ho Chi Minh City University of Pedagogy Tóm tắt Nội dung bài viết tổng hợp một số kinh nghiệm thực tiễn trong công tác đào tạo theo học chế tín chỉ tại các trường đại học, cao đẳng tại Thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở phân tích thực trạng, thuận lợi và khó khăn, tác giả đề xuất một số biện pháp nhằm khắc phục những hạn chế trong công tác đào tạo theo học chế tín chỉ hiện nay. Từ khóa: giáo dục đại học, đào tạo theo học chế tín chỉ. Abstract The article summarizes some practical experiences of credit-based training system in higher institutions in Ho Chi Minh City. Analyzing achievements and shortcomings, advantages and disadvantages, the author proposed some solutions to improve the application of credit-based training today. Keywords: higher education, credit-based training system. 1. Đặt vấn đề Đào tạo đại học, cao đẳng theo hệ thống tín chỉ đã được áp dụng từ lâu ở các đại học danh tiếng trên thế giới. Năm 2007, Bộ Giáo dục và Đào tạo nước ta đã ban hành Quy chế Đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ, và năm 2011 là hạn cuối cùng để các trường Đại học và Cao đẳng trên toàn quốc phải chuyển đổi sang hệ thống đào tạo mới này. Như vậy, đòi hỏi các cấp quản lý, giảng viên, sinh viên phải thay đổi rất nhiều về nội dung, phương pháp và các hình thức hoạt động sao cho phù hợp với loại hình đào tạo mới. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện gần 10 năm qua bên cạnh những thành quả đạt được vẫn còn tồn tại khá nhiều bất cập. Vậy trên thực tế hiện nay việc đào tạo theo hệ thống tín chỉ này đang diễn ra như thế nào? Đâu là những thuận lợi và khó khăn? Và cách khắc phục ra sao? Bài viết dưới đây đề cập đến những vấn đề này. 2. Giải quyết vấn đề 2.1. Thực trạng công tác đào tạo theo học chế tín chỉ Đào tạo theo hệ thống tín chỉ được thực hiện lần đầu tiên ở Trường Đại học Bách khoa TP.HCM vào năm học 1993- 1994 và thực hiện rộng rãi ở các trường đại học, cao đẳng từ năm 2007. Đây là phương thức đào tạo mà người học được cấp bằng M T SỐ KINH NGHI M THỰC TIỄN TRONG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO THEO HỌC CHẾ TÍN CHỈ 34 sau khi tích lũy đủ khối lượng kiến thức (số tín chỉ) theo yêu cầu của chương trình đào tạo. Các hình thức tích lũy tín chỉ là học trên lớp, thực hành, thực tập và tự học. Kiến thức trong hệ thống tín chỉ được cấu trúc thành các học phần, mỗi học phần từ 2,3 thậm chí đến 5 tín chỉ. Chương trình đào tạo gồm các học phần bắt buộc và học phần tự chọn. Sinh viên được lựa chọn và đăng ký học các học phần phù hợp với năng lực, điều kiện và hoàn cảnh của mình. Đào tạo theo tín chỉ không tổ chức theo năm học mà theo học kỳ. Một năm học có thể tổ chức đào tạo từ 2 đến 3 học kỳ, mỗi chương trình đào tạo của một ngành học nhất định không tính theo năm mà tính theo sự tích lũy kiến thức của sinh viên, sinh viên tích lũy đủ số tín chỉ quy định thì được cấp bằng trong thời gian quy định. Đánh giá thực trạng công tác đào tạo theo học chế tín chỉ cần thiết phải được xem xét từ 3 góc độ chính: người học, người dạy và các nhà quản lý đào tạo. 2.1.1. Đối với người học (sinh viên) Đào tạo theo học chế tín chỉ đòi hỏi sinh viên phải có kỹ năng tự học và tự nghiên cứu. Nhưng thực tế, sinh viên còn xa lạ với việc tự hoạch định nội dung học tập và quản lý quá trình tự học của mình. Nhiều sinh viên sử dụng không đúng mục đích thời gian tự học đã được thiết kế trong chương trình. Việc kiểm soát tự học và tự nghiên cứu của sinh viên cũng chưa được tiến hành có quy củ và đều đặn, khiến xảy ra nguy cơ khoán trắng việc tự học cho tinh thần tự giác của sinh viên. Giảng viên cũng chưa có nhiều biện pháp thực sự hiệu quả để kiểm tra đánh giá việc tự học và tự nghiên cứu của sinh viên, nên thời lượng dành cho tự học và tự nghiên cứu của sinh viên vô hình chung đã trở thành thời gian rảnh rỗi của nhiều sinh viên và họ đã sử dụng quỹ thời gian đó để đi làm thêm hoặc học thêm lĩnh vực khác, thậm chí không loại trừ những trường hợp xấu khác như tụ tập hội hè, vui chơi, cà phêdẫn tới tình trạng sinh viên bỏ học gia tăng. Trong học tập, nhiều sinh viên cũng đã phát huy được tính chủ động, tích cực và sáng tạo của mình, chủ động phát biểu ý kiến cá nhân, chủ động đặt câu hỏi cho giảng viên và đặc biệt một số sinh viên còn rất mạnh dạn trong việc trình bày các ý kiến, quan điểm đối nghịch với các quan điểm truyền thống. Và chính điều này sẽ thúc đẩy sự sáng tạo ra các kiến thức mới - một vấn đề rất quan trọng trong thời đại ngày nay. Tuy nhiên, một số sinh viên còn tồn tại thói quen học thuộc lòng, và chỉ học theo giáo trình hoặc bài vở của thầy cô theo thói quen học phổ thông, điều đó đã khiến những sinh viên này gặp nhiều khó khăn trong học tập, thậm chí cảm thấy mất phương hướng do không còn sự kiểm soát chặt chẽ của người dạy. 2.1.2. Đối với người dạy (giảng viên) Đội ngũ giảng viên chưa được nghiên cứu và huấn luyện đầy đủ về phương pháp dạy học tích cực. Vì hiểu một cách cứng nhắc về phương pháp dạy học tích cực nên có hiện tượng đi từ thái cực này sang thái cực khác về phương pháp dạy học, có không ít giảng viên còn thiên về phương pháp đọc – chép hoặc diễn giảng, nhưng cũng có giảng viên quá coi trọng các phương pháp dạy học tích cực dẫn đến việc phủ định sạch trơn các phương pháp và thủ thuật dạy học truyền thống. Còn nhiều giảng viên quá coi trọng việc truyền bá lý thuyết mà không gắn kết với thực hành, ngược lại cũng nhiều giảng viên quá coi trọng thực hành dẫn tới việc xem nhẹ phần lý luận. Đặc biệt, nhiều giảng viên trẻ khi sử dụng các phương pháp dạy học tích cực lại sử dụng quá nhiều trò chơi để tạo không khí sôi động NGUYỄN THỊ TỨ 35 mà chưa gắn kết nội dung các trò chơi với các nội dung khoa học trong bài giảng một cách hợp lý khiến cho sinh viên tiếp nhận kiến thức một cách rời rạc, tản mạn, không hệ thống. Giờ học trên lớp được quan niệm là nơi cọ xát giữa những kiến thức mà người học có được từ nhiều nguồn khác nhau (từ sách vở, từ thầy cô, từ internet). Phương châm tự chủ trong học tập đã trở thành một chìa khóa then chốt trong phương pháp dạy học tích cực. Quyền tự chủ đó được thể hiện trong từng môn học thông qua việc thảo luận về kế hoạch giảng dạy và đề cương chi tiết của mỗi học phần mà giảng viên thường cung cấp cho sinh viên ngay trong buổi học đầu tiên. Tuy nhiên, việc biên soạn đề cương bài giảng hiện đang là công việc mạnh ai nấy làm và phụ thuộc rất nhiều vào tâm huyết của mỗi giảng viên. Trong khi đó, giảng viên hiện đang quá tải do phải cáng đáng nhiều giờ giảng, không có thời gian tự nghiên cứu lại còn bỡ ngỡ với hình thức đào tạo tín chỉ nên không tránh khỏi lúng túng. Nhiều giảng viên có soạn đề cương nhưng còn quá sơ lược, đơn giản nên sinh viên không biết phải làm gì trong môn học. Nhiều giảng viên không chuyển cho sinh viên đề cương môn học chi tiết và hướng dẫn sinh viên tự học nên thói quen học theo kiểu thời niên chế vẫn còn tiếp diễn. 2.1.3. Đối với các nhà quản lý đào tạo Tại những nước khác áp dụng hình thức đào tạo tín chỉ, số tiết lên lớp của sinh viên đại học chỉ chiếm 1/3, còn lại 2/3 là thời gian tự học. Trong khi đó, ở Việt Nam, theo Quy chế 43 (Quy chế đào tạo tín chỉ) một sinh viên trung bình dành ít nhất 2 giờ chuẩn bị tự học cho 1 giờ học trên lớp, nhưng thực tế thì tỷ lệ thời gian đến lớp và tự học ở nhà là 1:1. Phương châm của những nhà thiết kế chương trình đào tạo theo học chế tín chỉ là giảm số lượng giờ dạy nhưng không cắt xén chương trình. Nhiệm vụ này không dễ thực hiện, nhất là khi giảng viên phải tự mò mẫm để thích nghi với hệ thống đào tạo mới. Vì thế, không ít giảng viên chọn cách làm dễ nhất là dạy đến hết giờ trên lớp, phần chương trình còn lại giao cho sinh viên tự học. Vì thế, đối với nhiều giảng viên, việc tinh giản chương trình đào tạo chỉ còn mang ý nghĩa thuần túy là cắt giảm giờ dạy một cách máy móc. 2.2. Những thuận lợi và khó khăn khi đào tạo theo học chế tín chỉ 2.2.1. Thuận lợi Qua gần 10 năm triển khai rộng ở tất cả các trường đại học, cao đẳng ở Việt Nam, phương thức đào tạo này có nhiều ưu điểm như: sinh viên được chủ động lên kế hoạch học tập, lựa chọn môn học tự chọn phù hợp, lựa chọn giảng viên và thời gian học. Quá trình tự học, tự nghiên cứu của sinh viên được coi trọng, được tính vào nội dung và thời lượng chương trình, đã phát huy được tính chủ động, sáng tạo của sinh viên trong quá trình học tập. Sinh viên được quyền quyết định tiến độ đào tạo và thời gian ra trường của mình, tùy vào khả năng và điều kiện của bản thân sinh viên. Lợi thế lớn nhất mà khi sinh viên được học theo tín chỉ là sinh viên được tự do lựa chọn những chuyên ngành mình thích và chọn thầy cô, cũng như là chọn giờ học, ca học của mình, được tự do trong việc cân bằng giữa học tập và các hoạt động khác. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, việc thực hiện đào tạo theo học chế tín chỉ còn gặp nhiều khó khăn. 2.2.2. Khó khăn Đào tạo theo học chế tín chỉ đòi hỏi người dạy lẫn người học cần phát huy tính tích cực, chủ động. Trong khi đó, một bộ phận lớn sinh viên, nhất là những sinh viên M T SỐ KINH NGHI M THỰC TIỄN TRONG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO THEO HỌC CHẾ TÍN CHỈ 36 có nguốn gốc xuất thân từ nông thôn hoặc những thành phố nhỏ, họ đã quen với cách học truyền thống ở bậc phổ thông nên khi bước vào môi trường học tập ở bậc cao đẳng, đại học đã gặp nhiều khó khăn. Tình trạng thiếu hụt giảng viên có trình độ chuyên môn sâu và phương pháp giảng dạy thu hút sinh viên là rất lớn, khiến cho sinh viên chưa thể chủ động lựa chọn giảng viên để theo học. Thậm chí nhiều môn học tự chọn không đủ số lượng sinh viên đăng ký cũng không thể mở lớp khiến cho sinh viên buộc phải theo học những môn tự chọn không theo nguyện vọng sở thích. Chương trình đào tạo chưa có tính mềm dẻo và linh hoạt để giúp sinh viên không bị mất đi kiến thức và kỹ năng đã tích lũy nếu như việc học của họ bị gián đoạn. Sinh viên chưa được tạo điều kiện thuận lợi để chuyển đổi từ khóa học này sang khóa học khác trong cùng một trường hay khác trường. Cơ sở vật chất, trang thiết bị chưa đáp ứng việc đào tạo theo học chế tín chỉ. Lớp học còn bố trí sĩ số khá đông và trang thiết bị dạy học cũng còn nhiều thiếu thốn, cũng như việc bố trí các dạng bàn học cũng khó di chuyển dẫn đến việc tổ chức các hoạt động nhóm trên lớp gặp nhiều khó khăn. Đặc biệt việc đăng ký môn học đã trở thành nỗi ám ảnh của nhiều sinh viên do hệ thống phần mềm hay mắc lỗi và quá tải khiến nhiều em không đăng ký được đành chờ “lớp sau”. 2.3. Một số biện pháp khắc phục Vì bản chất của đào tạo theo học chế tín chỉ là cá thể hóa giáo dục và dân chủ hoá cả quá trình đào tạo, nghĩa là phải đáp ứng càng nhiều càng tốt nhu cầu và điều kiện học tập của cá nhân, nhất là phải tạo điều kiện cho các bên liên quan có một môi trường làm việc dân chủ nên đòi hỏi phải có sự hợp tác tích cực từ nhiều phía: người học và người dạy cũng như các nhà quản lý đào tạo. 2.3.1. Về phía sinh viên: sinh viên phải có sự tham gia tích cực vào nhiều phương diện của quá trình đào tạo Vì mục tiêu của đào tạo theo tinh thần mới là rèn luyện các kỹ năng cao cấp như quan sát, phân tích, so sánh, phê phán, nên hình thức học vẹt, học nhồi nhét kiến thức không còn phù hợp nữa. Đào tạo theo hướng sư phạm tích cực đồng nghĩa với việc tự học và tự nghiên cứu. Vì thế, sinh viên phải được làm quen dần với tinh thần làm việc độc lập tự chủ ngay từ phổ thông. 2.3.2. Về phía giảng viên: giảng viên phải chú trọng nâng cao chất lượng giảng dạy Học chế tín chỉ coi các giảng viên như những học giả. Với tư cách là học giả, các giảng viên cần được đào tạo và thực hành để thực hiện giảng dạy giỏi và đào tạo lại sinh viên từ chỗ học vẹt đến chỗ học cách giải quyết vấn đề và có tinh thần dám nghĩ dám làm, chấp nhận rủi ro và thử thách. Vì thế, giảng viên cần phải được chuẩn bị đầy đủ về nghiệp vụ sư phạm đặc biệt là phương pháp dạy học tích cực của bộ môn với nhiều khâu như: - Tích cực tìm hiểu về các vấn đề của giáo dục hiện đại. - Tập huấn về các phương pháp dạy học tích cực. - Thiết kế chương trình và biên soạn bài giảng theo hướng phát huy tính tích cực của người học (phương pháp dạy học tích cực). - Tích cực nâng cao trình độ chuyên môn và rèn luyện nghiệp vụ để ngày càng hoàn thiện. Đội ngũ giảng viên phải đủ về số lượng và mạnh về chất lượng để ngày càng đáp ứng nhiều hơn nhu cầu học tập của sinh viên. Cụ thể là: - Giảng viên phải có năng lực biên soạn và giảng dạy nhiều học phần kiến NGUYỄN THỊ TỨ 37 thức mới để tăng dần số lượng các môn tự chọn giúp sinh viên ngày càng có nhiều sự chọn lựa các môn học. - Phải cập nhật và thay đổi định kỳ giáo trình cho phù hợp với tình hình mới. - Phải có năng lực biên soạn nhiều tài liệu tham khảo để sinh viên tự nghiên cứu. - Phải đầu tư nhiều thời gian để kiểm soát việc tự học, tự nghiên cứu của sinh viên. 2.3.3. Về phía các nhà quản lý: cơ chế quản lý phải mềm dẻo Dân chủ hoá trong đào tạo và giáo dục lấy người học làm trung tâm đòi hỏi các nhà quản lý phải có cơ chế quản lý mềm dẻo trong việc tổ chức dạy và học. Tính mềm dẻo đó được thể hiện qua các phương diện sau đây: - Về quản lý học vụ: Phải mềm hóa các thủ tục quản lý học vụ, sao cho người học được lợi nhất, thuận tiện nhất. Cách tổ chức quản lý phải khoa học, chặt chẽ; năng lực quản lý phải đủ giỏi để giải quyết mọi tình huống đa dạng do nhu cầu học tập phát sinh. Để thực hiện được điều đó, cần phải đơn giản hóa các thủ tục hành chính, phải phân cấp quản lý sao cho không gây phiền hà cho người học và hơn thế nữa, khích lệ việc học tập của sinh viên. - Về cơ sở vật chất: Đào tạo theo hệ thống tín chỉ phát sinh nhu cầu về trang thiết bị như phòng học, máy móc, tài liệu nghiên cứu, chỗ ngồi trong thư viện rất lớn. Vì thế nhà trường phải có khả năng cung cấp các trang thiết bị đủ để đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ. 3. Kết luận Đào tạo theo học chế tín chỉ là tăng cường ý thức trách nhiệm của người học đối với việc đào tạo của bản thân mình, là thực hiện dân chủ hóa trong giáo dục: người học tham gia vào tất cả các khâu trong tiến trình đào tạo của mình, từ việc cơ cấu các môn học dựa trên hệ thống tự chọn, đến việc quy hoạch lộ trình thực hiện tiến trình đào tạo đó tùy theo điều kiện và năng lực về tài chính về quỹ thời gian của mình. Đòi hỏi của đào tạo theo học chế tín chỉ buộc trường phải đưa ra nhiều lộ trình đào tạo càng ngày càng phù hợp hơn. Tóm lại, sinh viên và nhà trường cần thiết khắc phục những hạn chế còn tồn tại trên một số mặt chính như: - Sinh viên còn yếu kém về việc lập kế hoạch học tập và quản lý quá trình tự học của mình theo học chế tín chỉ. - Tình trạng thiếu hụt giảng viên có trình độ chuyên môn cao và tay nghề thành thạo cả về chất lẫn lượng còn rất lớn do vậy sinh viên chưa đáp ứng được hết mong đợi của sinh viên và họ vẫn chưa thể chủ động lựa chọn giảng viên và những môn học mà mình yêu thích thực sự. - Các nhà quản lý đào tạo chưa đủ tính mềm dẻo và linh hoạt trong quản lý và ứng dụng công nghệ thông tin khiến việc đăng ký hay chuyển đổi từ lớp này sang lớp khác, khóa học này sang khóa học khác trong cùng một trường học hay khác trường học còn gặp nhiều khó khăn. - Nhà trường chưa đáp ứng đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị cho việc đào tạo theo học chế tín chỉ, việc thiếu phòng ốc khiến cho việc xếp lịch dạy và học của giảng viên và sinh viên còn nhiều bất cập. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Quy chế đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ, Hà Nội. Ngày nhận bài: 01/01/2017 Biên tập xong: 15/3/2017 Duyệt đăng: 20/3/2017

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf101_3164_2215153.pdf
Tài liệu liên quan