Một số giải pháp thực hiện chức năng thẩm định các chương trình, kế hoạch, đề án, dự án, chính sách phát triển kinh tế - Xã hội ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi của ủy ban dân tộc - Phan Văn Cương

Tài liệu Một số giải pháp thực hiện chức năng thẩm định các chương trình, kế hoạch, đề án, dự án, chính sách phát triển kinh tế - Xã hội ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi của ủy ban dân tộc - Phan Văn Cương: Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC Ngày nhận bài: 7/12/2017; Ngày phản biện: 10/12/2017; Ngày duyệt đăng: 15/12/2017 (1) Học viện Dân tộc, e-mail: phanvancuong@cema.gov.vn (1) Học viện Dân tộc, e-mail: nguyenthinhien@cema.gov.vn Số 20 - Tháng 12 năm 2017 Trong những năm qua, Nghị định của Chính phủ quy đinh chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ủy ban Dân tộc luôn ghi rõ nhiệm vụ “thẩm định hoặc tham gia thẩm định” các chương trình, kế hoạch, đề án, dự án, chính sách phát triển kinh tế-xã hội chính sách dân tộc (CSDT) ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi1. Đây là văn bản pháp lý cao nhất của Chính phủ giao trọng trách cho Ủy ban Dân tộc nhiệm vụ “thẩm định, tham gia thẩm định các CSDT” ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Với nhiệm vụ được giao, Ủy ban Dân tộc phải chủ trì, tham gia thẩm định các CSDT do tất cả các Bộ, ngành địa phương xây dựng trước khi trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Kết quả thẩm ...

pdf4 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 315 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số giải pháp thực hiện chức năng thẩm định các chương trình, kế hoạch, đề án, dự án, chính sách phát triển kinh tế - Xã hội ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi của ủy ban dân tộc - Phan Văn Cương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC Ngày nhận bài: 7/12/2017; Ngày phản biện: 10/12/2017; Ngày duyệt đăng: 15/12/2017 (1) Học viện Dân tộc, e-mail: phanvancuong@cema.gov.vn (1) Học viện Dân tộc, e-mail: nguyenthinhien@cema.gov.vn Số 20 - Tháng 12 năm 2017 Trong những năm qua, Nghị định của Chính phủ quy đinh chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ủy ban Dân tộc luôn ghi rõ nhiệm vụ “thẩm định hoặc tham gia thẩm định” các chương trình, kế hoạch, đề án, dự án, chính sách phát triển kinh tế-xã hội chính sách dân tộc (CSDT) ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi1. Đây là văn bản pháp lý cao nhất của Chính phủ giao trọng trách cho Ủy ban Dân tộc nhiệm vụ “thẩm định, tham gia thẩm định các CSDT” ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Với nhiệm vụ được giao, Ủy ban Dân tộc phải chủ trì, tham gia thẩm định các CSDT do tất cả các Bộ, ngành địa phương xây dựng trước khi trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Kết quả thẩm định là căn cứ bắt buộc, quan trọng để Chính phủ xem xét ban hành CSDT. 1. Nghị định của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban Dân tộc, có giao nhiệm vụ “thẩm đinh CSDT” gồm: Nghị định số 51/2003/NĐ-CP ngày 16/5/2003; Nghị định số 60/2008/NĐ-CP, ngày 09/5/2008; Nghị định số 84/2012/NĐ-CP ngày 12/10/2012; Nghị định số 13/2017/ NĐ-CP, ngày 10/02/2017. Nghị định số Nghị định số 05/2011/NĐ-CP, Nghị định của Chính phủ về Công tác Dân tộc; Xác định vai trò quan trọng của việc “thẩm định các CSDT” liên quan đến phát triển kinh tế-xã hội ở vùng dân tộc thiểu số (DTTS), ngoài nhiệm vụ được giao trong các Nghị định quy định Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức, Ủy ban Dân tộc còn được Chính phủ tiếp tục giao nhiệm vụ trong các văn bản quan trọng khác. Tại khoản 9, điều 21 chương III của Nghị định số 05/2011/NĐ-CP, Nghị định của Chính phủ về Công tác Dân tộc đã xác định rõ: “Ủy ban Dân tộc có vai trò, trách nhiệm trong việc thẩm định các chương trình, dự án, đề án, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số”. Mới đây nhất, tại điểm d khoản 1 Mục IV Điều 1 Quyết định số 1557/QĐ-TTg, ngày 10/9/2015, về việc phê duyệt một số chỉ tiêu thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ đối với đồng bào dân tộc thiểu số gắn với mục tiêu phát triển bền vững sau năm 2015, Thủ tướng Chính phủ đã giao Ủy ban Dân tộc: “Thực hiện nhiệm vụ thẩm định các chương trình, dự án, chính sách thực hiện trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi để đảm bảo các chương trình, dự án, chính sách có đóng góp cụ thể và đo lường hiệu quả đối MỘT SỐ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CHỨC NĂNG THẨM ĐỊNH CÁC CHƯƠNG TRÌNH, KẾ HOẠCH, ĐỀ ÁN, DỰ ÁN, CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ MIỀN NÚI CỦA ỦY BAN DÂN TỘC* Phan Văn Cương(1) Nguyễn Thị Nhiên(2) Từ năm 2003, Chính phủ đã giao cho Ủy ban Dân tộc thực hiện nhiệm vụ thẩm định hoặc tham gia thẩm định các chương trình, dự án, đề án, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số. Tuy nhiên đến nay chưa có văn bản quy định cụ thể về phạm vi thẩm quyền, trình tự, thủ tục, thời gian thẩm định và trách nhiệm của Bộ, ngành có liên quan trong việc gửi văn bản đến Ủy ban Dân tộc để thẩm định. Do đó kết quả thực hiện nhiệm vụ này ở Ủy ban Dân tộc còn có nhiều hạn chế nhất định. Bài viết nhằm đề xuất một số giải pháp góp phần thực hiện chức năng thẩm định các chương trình, dự án, đề án, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số. Từ khóa: Dân tộc thiểu số; chính sách dân tộc; thẩm định, tham gia thẩm định chính sách dân tộc. Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC 27Số 20 - Tháng 12 năm 2017 với vùng và đồng bào DTTS trước khi trình Thủ tướng Chính phủ”. Cho đến nay, Nghị định và Quyết định của Thủ tướng là cơ sở pháp lý cao nhất của Chính phủ đã ghi rõ và giao nhiệm vụ cho Ủy ban Dân tộc thực hiện chức năng “thẩm định hoặc tham gia thẩm định các CSDT ở vùng dân tộc thiểu số”. Thực tế từ năm 2003 đến nay, Ủy ban Dân tộc đã có nhiều ý kiến góp ý vào các dự thảo CSDT của Bộ, ngành Trung ương và địa phương. Hình thức “thẩm định” cũng rất đa dạng, góp ý bằng văn bản hoặc tham gia ý kiến trực tiếp với vai trò là thành viên Hội đồng thẩm định có liên quan đến phát triển kinh tế- xã hội ở vùng DTTS. Tuy nhiên với vị trí “tham gia” nên có ý kiến của Ủy ban Dân tộc được cơ quan soạn thảo CSDT tiếp thu, nhưng nhiều ý kiến không được tiếp thu, chỉnh sửa. Dẫn đến một số chính sách hiệu quả chưa cao; có chính sách bị chồng chéo về nội dung, cơ chế quản lý, tổ chức thực hiện Như vậy việc thực hiện chức năng “thẩm định CSDT” ở Ủy ban Dân tộc thời gian qua còn có hạn chế nhất định. Trong thời gian tới, để triển khai tốt nhiêm vụ này Ủy ban Dân tôc nên thực hiện một số giải pháp: Thứ nhất, xây dựng các văn bản pháp quy để triển khai nhiệm vụ: Mặc dù, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các văn bản có nội dung quy định cụ thể giao Ủy ban Dân tộc thực hiện chức năng, nhiệm vụ thẩm định các chương trình, kế hoạch, đề án, dự án, chính sách phát triển kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc thiểu số, tuy nhiên để chức năng nhiệm vụ này được triển khai thực hiện cần thiết phải tiếp tục ban hành một số văn bản sau: 1. Xây dựng Thông tư quy định về thẩm định CSDT ở vùng DTTS và miền núi. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã có quy định giao Ủy ban Dân tộc thực hiện chức năng, nhiệm vụ thẩm định các CSDT ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Tuy nhiên, để có điều kiện thực thi các quy định này, trước mắt Ủy ban Dân tộc xây dựng và ban hành Thông tư để thực hiện. Trong Thông tư cần phải thể hiện được một số nội dung căn bản về nguyên tắc, phạm vi, nội dung, hình thức, quy trình, phương pháp thực hiện. Trong đó đề nghị các Bộ, ngành, địa phương có liên quan trước khi trình cấp có thẩm quyền quyết định các CSDT vùng dân tộc thiểu số và miền núi cần xin ý kiến thẩm định của Ủy ban Dân tộc và coi đây là một thành phần trong hồ sơ trình phê duyệt (riêng văn bản trình Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ Văn phòng Chính phủ đôn đốc, theo dõi và thực hiện đúng quy định này) 2. Tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị về việc giao Ủy ban Dân tộc thực hiện chức năng, nhiệm vụ thẩm định các chương trình, kế hoạch, đề án, dự án, chính sách phát triển kinh tế - xã hội ở vùng DTTS và miền núi. Để các Bộ, ngành, địa phương nâng cao nhận thức, trách nhiệm trong việc thực hiện chỉ đạo của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đối với việc thực hiện thẩm định các CSDT vùng DTTS và miền núi cần thiết ban hành Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, với tiêu đề: Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác thẩm định CSDT vùng DTTS và miền núi. Trong Chỉ thị yêu cầu các bộ, ngành, địa phương khi xây dựng CSDT ở vùng DTTS trình Chính phủ phải có ý kiến thẩm định của Ủy ban Dân tộc. 3. Luật hóa các quy định liên quan đến công tác thẩm định CSDT vùng DTTS và miền núi. Về lâu dài và để có đủ tính hiệu lực hành chính, việc nghiên cứu vừa đưa các nội dung quy định liên quan đến công tác thẩm định CSDT vùng DTTS và miền núi cần phải được luật hóa. Trước mắt, xem xét bổ sung, sửa đổi Nghị định số 34/2016/ NĐ-CP ngày 14 tháng 5 năm 2016 của Chính phủ Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, trong đó quy định rõ đối với các văn bản quy phạm pháp luật ban hành kèm theo các CSDT vùng DTTS và miền núi thuộc thẩm quyền ban hành của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ; Ủy ban Dân tộc là thành viên chính thức của các Hội đồng thẩm định. Còn đối với các văn bản chính sách thông thường, hành chính, Ủy ban Dân tộc giữ vai trò Chủ trì thẩm định. Về lâu dài và để có pháp luật điều chỉnh, Ủy ban Dân tộc tiếp tục soạn thảo xây dựng và ban hành Luật liên quan đến Dân tộc, công tác dân tộc, trong đó có nội dung quy định cụ thể nhằm điều chỉnh các mối quan hệ liên quan đến công tác thẩm định CSDT vùng DTTS và miền núi. Thứ hai, giải pháp về các điều kiện đối với Ủy ban Dân tộc thực hiện nhiệm vụ thẩm định CSDT vùng dân tộc thiểu số và miền núi Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC 28 Số 20 - Tháng 12 năm 2017 Để có thể thực hiện được nhiệm vụ này, Ủy ban Dân tộc cần phải ban hành văn bản quy định về quy chế, trình tự thủ tục để tiến hành thẩm định; quy định về hồ sơ trình thẩm định; các yêu cầu nội dung thẩm định; quy định về báo cáo thẩm định Đồng thời để có cứ liệu phục vụ cho công tác thẩm định, cần phải tiếp tục rà soát và xây dựng cơ sở dữ liệu về các DTTS, chính sách dân tộc và các văn bản liên quan khác đảm bảo khoa học, chính xác, cập nhật và toàn diện để phục vụ cho thực hiện nhiệm vụ thẩm định CSDT vùng DTTS; xây dựng cơ sở dữ liệu về các chuyên gia là các nhà khoa học, quản lý đầu ngành trong các lĩnh vực liên quan đến DTTS để có thể huy động được các chuyên gia này giúp cho Ủy ban Dân tộc có đủ năng lực thực hiện việc thẩm định các CSDT vùng DTTS. Rà soát và chuẩn hóa về mặt tổ chức, bộ máy và nhân sự của cơ quan, đơn vị giúp Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban theo dõi, quản lý và thực hiện nhiệm vụ thẩm định các CSDT vùng DTTS; chuẩn bị phương án và triển khai thực hiện các điều kiện về phương tiện, trang thiết bị làm việc để công tác thẩm định các CSDT vùng DTTS có thể thực hiện được nhanh chóng và hiệu quả nhất. Thứ ba, giải pháp tăng cường phối hợp với các Bộ, ngành liên quan trong triển khai thực hiện thẩm định các CSDT vùng dân tộc thiểu số Để Ủy ban Dân tộc có thể triển khai thực hiện được nhiệm vụ thẩm định các CSDT vùng DTTS, việc chủ động, tăng cường phối hợp với các Bộ, ngành trung ương là một giải pháp quan trọng cần được quan tâm chú ý. Phối hợp với Bộ Tư pháp, trước mắt thông qua 2 hình thức: Một là, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc ban hành công văn gửi Bộ Tư pháp, trong đó nhấn mạnh về yêu cầu cần phải thẩm định các CSDT vùng DTTS, trong đó có các văn bản quy phạm pháp luật và đề nghị trong thẩm quyền của mình, Bộ Tư pháp cân nhắc và chủ động đề nghị Ủy ban Dân tộc tham gia các Hội đồng thẩm định có liên quan. Hai là, cần thiết phải tổ chức một buổi làm việc chính thức cấp Bộ trưởng giữa 2 cơ quan để trao đổi, thống nhất và ban hành thông báo kết luận chung về sự tham gia của Ủy ban Dân tộc trong các hội đồng thẩm định các CSDT vùng DTTS được ban hành dưới dạng văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ký ban hành. Phối hợp với Văn phòng Chính phủ, xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của Văn phòng Chính phủ trong quy trình ban hành văn bản thuộc thẩm quyền của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ. Ủy ban Dân tộc cần chủ động phối hợp chặt chẽ với Văn phòng Chính phủ trong việc kiểm soát các văn bản trước khi trình Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ thông qua. Thống nhất với Văn phòng Chính phủ, tất cả các CSDT vùng DTTS (ngoại trừ được ban hành dưới dạng các văn bản quy phạm pháp luật, do Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm) trong hồ sơ trình đều phải có ý kiến thẩm định của Ủy ban Dân tộc theo quy định của pháp luật. Để thực hiện yêu cầu này, Ủy ban Dân tộc nên lựa chọn 02 hình thức, cách làm như đã trình bày trong đề xuất phối hợp với Bộ Tư pháp. Việc thực hiện chức năng thẩm định CSDT là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp đỏi hỏi phải có sự phối hợp của nhiều Bộ, ngành, cơ quan chức năng. Đồng thời trong quá trình vừa làm, vừa rút kinh nghiệm để bổ sung hoàn thiện. Trong công tác tiến hành triển khai thẩm định, cần xác định nội dung, phạm vi thẩm định. Trong đó phải thẩm định tính hợp hiến, hợp pháp của dự thảo CSDT vùng DTTS với các chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, hệ thống pháp luật của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã quy định liên quan đến vấn đề dân tộc và công tác dân tộc; thẩm định tính tương thích với điều ước, công ước quốc tế có liên quan đến DTTS mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang tham gia với tư cách là thành viên; thẩm định về sự bảo đảm bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, hài hòa quan hệ giữa các dân tộc của dự thảo các CSDT vùng DTTS; thẩm định sự phù hợp của nội dung dự thảo các CSDT vùng DTTS với đặc điểm, điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường của các đối tượng chịu tác động đặc biệt là các DTTS và vùng DTTS và miền núi. Đồng thời trong quá trình triển khai thẩm định phải đảm bảo các nguyên tắc: Không chồng chéo, trùng lặp với chức năng, nhiệm vụ, nội dung thẩm định của các Bộ, ngành; phối hợp chặt chẽ, hiệu quả với các Bộ, ngành khác trong thẩm định và phù hợp và phát triển bền vững. Tài liệu tham khảo [1] Nguyễn Đức Chung (2017), Báo cáo chuyên đề, Thực trạng công tác thẩm định các chương trình, dự án, đề án, kế hoạch phát triển Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC 29Số 20 - Tháng 12 năm 2017 kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số [2] Phan Văn Hùng, Hoàng Hữu Bình (chủ biên) và các tác giả (2013), Một số vấn đề về đổi mới xây dựng và thực hiện chính sách dân tộc, NXB. Chính trị Hành chính. [3] Đặng Kim Sơn, Thái Thị Minh, Phạm Thị Hồng Vân (2012), Nghiên cứu rà soát, phân tích các chính sách dân tộc thiểu số và hỗ trợ xây dựng hệ thống chính sách cho Ủy ban Dân tộc đến năm 2020. [4] Lê Ngọc Thắng (2012), Báo cáo kết quả đề tài nghiên cứu cấp nhà nước Nghiên cứu, đánh giá chính sách đối với các dân tộc thiểu số thuộc địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn ở nước ta. [5] Nguyễn Cao Thịnh và cộng sự (2014), Nghiên cứu đề xuất xây dựng Kế hoạch hành động thúc đẩy thực hiện các Mục tiêu Thiên niên kỷ cho vùng DTTS tại Việt Nam. [6] Nguyễn Thành Vinh (2009), Báo cáo kết quả đề tài cấp bộ, Đổi mới chính sách dân tộc đến năm 2015 – 2020. [7] Ủy ban Dân tộc (2013), Quy trình xây dựng chính sách công áp dụng cho lĩnh vực dân tộc. [8] Ủy ban Dân tộc (2014), Thông tư số 02/2014/TT-UBDT ngày 01/8/2014 của Ủy ban Dân tộc về Quy định trình tự, thủ tục soạn thảo, thẩm định,ban hành văn bản quy phạm pháp luật thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Ủy ban Dân tộc [9] Glenn P.Jeckin, Almold C. Harberge (Quý Tâm dịch), Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright, Vai trò của thẩm định dự án. * Bài viết là kết quả nghiên cứu của đề tài khoa học cấp Bộ: “Nghiên cứu luận cứ khoa học phục vụ chức năng, nhiệm vụ của Ủy ban Dân tộc trong thẩm định các chương trình, kế hoạch, dự án, đề án, chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số”, Ủy ban Dân tộc, năm 2017. A NUMBER OF SOLUTIONS TO CARRY OUT VERIFICATION FUNCTION OF PROGRAMS, PLANS, SCHEMES, PROJECTS AND SOCIO-ECONOMIC DEVELOPMENT POLICIES IN ETHNIC MINORITY AREAS AND MOUNTAINOUS AREAS OF COMMITTEE OF ETHNIC MINORITY AFFAIRS Abstract: Since 2003, the Government has assigned the Committee for Ethnic Minority Affairs to chair or participate in appraisal process of programs, projects, schemes and plans for ethnic minority socio-economic development. However, there has not been any specific regulation on the scope of authority, procedures, timing and responsibilities of relevant ministries and branches in sending documents to the Committee for Ethnic Minority Affairs for appraisal so far. Therefore, the performance of this task of the Committee for Ethnic Minority Affairs is still limited. This paper aims to propose some solutions to improve the appraisal capacity of programs, projects, schemes and plans for socio-economic development in ethnic minority areas. Keywords: EM, EMP, Appraisal, participate in EMP appraisal

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf166_722_1_pb_0478_2151972.pdf