Một số đặc điểm từ ngữ biểu đạt không gian và thời gian trong ngôn ngữ lời bình “MêKông ký sự”

Tài liệu Một số đặc điểm từ ngữ biểu đạt không gian và thời gian trong ngôn ngữ lời bình “MêKông ký sự”: 107 Một số đặc điểm . . . Nghiên cứu – Trao đổi MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM TỪ NGỮ BIỂU ĐẠT KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN TRONG NGÔN NGỮ LỜI BÌNH “MÊKÔNG KÝ SỰ” Huỳnh Thị Hồng Hạnh*, Lê Thị Mỹ Phương** TÓM TẮT Ký sự truyền hình (journalese sketch) là một thể loại báo chí khá mới mẻ ở nước ta. Việc nghiên cứu ngôn ngữ lời bình ký sự truyền hình ở góc độ ngôn ngữ học là một việc làm cần thiết để đóng góp các nghiên cứu chuyên sâu về thể loại này, giúp các biên tập, người viết lời bình nâng cao chất lượng bài viết, phục vụ tốt nhu cầu của khán giả xem đài. Một trong những điểm nổi bật của ngôn ngữ lời bình của ký sự truyền hình thể hiện ở các từ ngữ biểu đạt không gian và thời gian trong tác phẩm Mêkông ký sự (MKKS). Ngôn ngữ biểu đạt không gian, thời gian trong MKKS luôn xuất phát từ điểm nhìn trần thuật bên trong. Từ góc độ nghiên cứu của ngôn ngữ học tri nhận, nhiều từ ngữ biểu đạt không gian chuyển thành từ ngữ thời gian, thể hiện lối tư duy, thói quen sử dụng n...

pdf12 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 278 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số đặc điểm từ ngữ biểu đạt không gian và thời gian trong ngôn ngữ lời bình “MêKông ký sự”, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
107 Một số đặc điểm . . . Nghiên cứu – Trao đổi MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM TỪ NGỮ BIỂU ĐẠT KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN TRONG NGÔN NGỮ LỜI BÌNH “MÊKÔNG KÝ SỰ” Huỳnh Thị Hồng Hạnh*, Lê Thị Mỹ Phương** TÓM TẮT Ký sự truyền hình (journalese sketch) là một thể loại báo chí khá mới mẻ ở nước ta. Việc nghiên cứu ngôn ngữ lời bình ký sự truyền hình ở góc độ ngôn ngữ học là một việc làm cần thiết để đóng góp các nghiên cứu chuyên sâu về thể loại này, giúp các biên tập, người viết lời bình nâng cao chất lượng bài viết, phục vụ tốt nhu cầu của khán giả xem đài. Một trong những điểm nổi bật của ngôn ngữ lời bình của ký sự truyền hình thể hiện ở các từ ngữ biểu đạt không gian và thời gian trong tác phẩm Mêkông ký sự (MKKS). Ngôn ngữ biểu đạt không gian, thời gian trong MKKS luôn xuất phát từ điểm nhìn trần thuật bên trong. Từ góc độ nghiên cứu của ngôn ngữ học tri nhận, nhiều từ ngữ biểu đạt không gian chuyển thành từ ngữ thời gian, thể hiện lối tư duy, thói quen sử dụng ngôn ngữ của người bản ngữ. Ngôn ngữ lời bình biểu đạt thời gian, không gian trong MKKS được nhà văn Trần Đức Tuấn sử dụng khá đặc sắc, cuốn hút người xem mặc dù ai cũng biết câu chuyện của tác giả kể là câu chuyện của quá khứ chứ không phải câu chuyện đang đồng thời xảy ra lúc tác giả đang kể. Từ khóa: ký sự truyền hình, Mêkông ký sự, ngôn ngữ lời bình LANGUAGE OF THE JOURNALESE SKETCH IS SHOWN IN WORDS THAT EXPRESS SPACE AND TIME IN A PIECE OF WORK ENTITLED “MEKONG CATALOG RECORD” ABSTRACT Journalese sketch is a rather new kind of press in our nation. It is necessary to study commentary language of journalese sketch from the point of view of linguistics in order to contribute intensive researches about this genre. It helps editors and writers of comments improve their articles’ quality and well meet television views’ demand. One of striking points of the commentary language of the journalese sketch is shown in words that express space and time in a piece of work entitled: “Mekong Catalog Record”. The language expressing space and time in the Mekong Catalog Record always comes from the internal narrative * TS. Khoa Văn học và Ngôn ngữ trường Đại học KHXH và NV, Đại học Quốc gia Tp. HCM. ** HVCH. trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh. 108 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật viewpoint. From the point of view of studying Cognitive Linguistics, many words expressing space are turned into time words, that demonstrates the way of thinking and language using habit of vernacular people. The commentary language expressing space and time in the Mekong Catalog Record is used rather excellently by author Tran Duc Tuan which attracts viewers although everyone knows the story that he tells is the story of the past, not the one that happens at the same time when the author is telling. Keywords: Journalese sketch, Mekong Catalog Record, the commentary language. 1. Giới thiệu chung Đã từ lâu, ở nhiều nước trên thế giới, ký sự truyền hình (journalese sketch) luôn được xem là một thể loại hấp dẫn, thu hút người xem. Tại Việt Nam, các tác phẩm thuộc thể loại này cũng chỉ thu hút sự chú ý, thực sự được quan tâm, sản xuất hàng loạt trong khoảng 20 năm trở lại đây. Bên cạnh những đặc điểm cơ bản của thể loại ký sự truyền hình quốc tế, ký sự truyền hình Việt Nam có những nét riêng, phù hợp với nhu cầu, thị hiếu của khán giả Việt, đi sâu khai thác vẻ đẹp trong văn hóa, phong tục tập quán, khơi gợi cảm xúc thẩm mỹ nơi người xem. Đi đầu trong việc đầu tư, sản xuất các tác phẩm ký sự truyền hình ở Việt Nam có thể nhắc đến Hãng phim tài liệu – Đài truyền hình TP. HCM (TFS). Có thể kể ra một số ký sự truyền hình nổi bật do hãng phim TFS thực hiện trong thời gian gần đây như: Trung Hoa du ký, Mêkông ký sự, Ký sự Amazôn, Ký sự Hỏa xa, Ký sự hành trình theo chân Bác, Ký sự 54 dân tộc... Cũng thuộc loại hình ký sự nhưng hầu hết các sản phẩm truyền hình này được viết dưới dạng ký sự hành trình hay còn gọi là du ký; nhằm ghi lại các chuyến đi trong và ngoài nước. Hầu hết các sản phẩm này được giới chuyên môn cũng như khán giả đánh giá cao về giá trị nghệ thuật, giá trị văn hóa. Với đặc thù là một thể loại khó trong báo chí, đòi hỏi sự đầu tư công phu cả về chủ đề, kịch bản, bối cảnh, hình ảnh, âm thanh, ánh sáng, ngôn từ, chất giọng thể hiện lời bình... ký sự hành trình qua nhiều quốc gia là những hành trình chuyên chở cảm xúc văn hóa, thẩm mỹ đến cho người xem qua từng vùng đất, lãnh thổ, từng phong tục tập quán, từng nét văn hóa, từng hình tượng nhân vật điển hình trong hành trình ký sự. Bên cạnh ngôn ngữ hình ảnh, ngôn ngữ lời bình của ký sự truyền hình đã chuyển tải những nét đẹp ngoài hình ảnh, chuyển tải cảm xúc sống động của chính người viết qua ký sự. Với những giá trị đặc sắc về thể loại, khả năng chuyển tải cảm xúc, văn hóa, sự am hiểu sâu sắc về lịch sử, văn hóa, tập tục...của những cư dân đông đúc cùng chung sống trên cùng một dòng sông vĩ đại, Mêkông ký sự (MKKS) của nhà văn Trần Đức Tuấn mang đầy đủ đặc điểm của ký sự truyền hình và thể hiện nhiều điểm đặc sắc về ngôn ngữ lời bình của ký sự truyền hình. Tác giả này cũng cho rằng trong ký sự truyền hình không dùng các biện pháp điển hình hóa, nhân cách hóa của văn học hoặc các thủ pháp dàn dựng, diễn xuất của điện ảnh. Ký sự truyền hình phản ảnh con người, sự kiện điển hình bằng các chi tiết có thật, thông qua sự chọn lọc của nhà báo làm cho tác phẩm có sức truyền cảm. Con người, sự kiện trong ký sự không phải là sự tổng hợp của chi tiết từ nhiều hoàn cảnh khác nhau, mà sự lấp lánh của nó xuất phát từ chính sự kiện, con người. Việc chọn con người, sự kiện điển hình thông 109 Một số đặc điểm . . . qua chi tiết có thật làm cho tác phẩm trở nên sâu sắc, có tính giáo dục cao. Trong tác phẩm ký sự truyền hình, năng lực thông tin không nằm ở sự kiện, nhưng sự kiện vẫn là cái gốc, là cơ sở để nhà báo trăn trở, suy ngẫm hướng tới một tình cảm cao đẹp và đánh thức ở con người tình cảm cao đẹp. Ký sự truyền hình và các thể loại khác của truyền hình như: phóng sự, phim tài liệu thường hay bị đóng gói chung là phóng sự hoặc phim tài liệu, ít người gọi đúng tên thể loại này. Có lẽ bởi vì giữa chúng có khá nhiều điểm tương đồng về thủ pháp sáng tạo, về quy trình sáng tác thông thường. Tuy nhiên, ở ngay cả những điểm chung thông thường này cũng vẫn tồn tại sự khác biệt trong đó. Trước hết, có thể xem xét những khác biệt này giữa phóng sự và ký sự như sau: Thể loại Điểm khác biệt PHÓNG SỰ KÝ SỰ TRUYỀN HÌNH Về người viết lời bình Có vai trò kể lại sự kiện, sự việc. Không dừng lại ở kể mà còn suy ngẫm về sự kiện, sự việc, bày tỏ quan điểm, suy nghĩ, tâm tư, tình cảm của mình. Về chi tiết Chi tiết là bộ phận của sự kiện, nó làm cho khán giả hiểu về sự kiện; trong ký sự. Chi tiết hướng tới việc trở thành hình tượng có sức tác động vào khán giả. Việc chi tiết có trở thành hình tượng hay không còn phụ thuộc vào khả năng tìm tòi, lựa chọn và sử dụng chi tiết trong tác phẩm, nhưng việc tạo ra khả năng này của chi tiết trong ký sự đã làm cho tầm quan trọng của ký sự tăng lên. Về bố cục Bố cục thường tuân theo trình tự của các sự kiện, các vấn đề được trình bày theo trình tự nhất định. Bố cục theo dòng suy nghĩ, sự liên tưởng và cảm xúc của tác giả. Về trọng tâm Trọng tâm là sự việc, sự kiện với các chi tiết bản chất. Trọng tâm là các nhân vật với đời sống tinh thần ở dạng điển hình khác nhau Về thông tin Thông tin luôn hướng tới bản chất sự kiện, sự việc, cùng với nó là thông tin về bản chất sự kiện, sự việc. Thông tin tới việc làm toát ra từ sự kiện, sự việc đó các mối liên quan với sự kiện khác, hoặc một chủ đề khác mang tính nhân văn sâu sắc. Về ngôn ngữ Thường sử dụng ngôn ngữ tường thuật cộng với sự phân tích để làm rõ sự kiện. Bên cạnh ngôn ngữ tường thuật, phân tích còn sử dụng ngôn ngữ hình tượng, ẩn dụ hướng tới phản ánh nội tâm nhân vật. 2. Thời gian, không gian trong lời bình Mêkông ký sự nhìn từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận: Trước nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về phạm trù thời gian - không gian trong Việt ngữ học từ góc nhìn ngôn ngữ học tri nhận. Có nhiều quan điểm khác nhau, nhưng tựu trung có 2 quan điểm là thừa nhận hoặc bác bỏ trong Tiếng Việt có phạm trù thời/ thì (tense). Đại diện quan niệm bác bỏ trong tiếng Việt có phạm trù thời có thể nhắc đến Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Phạm Duy Nghiêm, Hoàng Tuệ, Nguyễn Kim Thản, Đái Xuân Ninh, Nguyễn 110 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật Đức Dân, Phan Thị Minh Thúy. Đặc biệt là GS Cao Xuân Hạo đã có rất nhiều công trình nghiên cứu chứng minh Tiếng Việt không có phạm trù thời, chỉ có phạm trù thể. Ngược lại, quan niệm thừa nhận tiếng Việt có phạm trù thời/thì (tense) có các tác giả: Bùi Đức Tịnh, Nguyễn Bạt Tụy, Phan Khôi, Trương Văn Chình- Nguyễn Hiến Lê , Lê Văn Lý, Diệp Quang Ban- Hoàng Văn Thung... Trong khuôn khổ đề tài này người viết theo quan điểm cho rằng trong tiếng Việt không có phạm trù thời. Chúng tôi không trình bày quan điểm về thời gian- không gian nói chung theo tri nhận của Người Việt mà xét riêng trong lời bình tác phẩm Mêkông ký sự. Với đặc thù của thể loại báo hình, bắt buộc trả lời lời cho câu hỏi 5W thông thường là “Who”, “What”,”Where”, “When”, “Why”, Tứ 5 câu hỏi Ai? Việc gì?, Ở đâu? Khi nào? Như thế nào? Thì câu trả lời cho yếu tố thời gian, không gian là vô cùng quan trọng. Với lối viết lời bình cho tác phẩm “Mêkông ký sự” xuất phát từ lối tri nhận thời gian của người Việt, chúng tôi vận dụng lý thuyết này để làm rõ một số đặc điểm từ ngữ biểu đạt thời gian và không gian trong lời bình ký sự truyền hình qua MêKông ký sự. 3. Không gian- thời gian trong lời bình “Mêkông ký sự” từ điểm nhìn trần thuật bên trong 3.1. Điểm nhìn trần thuật bên trong “Ký là một thể loại văn xuôi mà người thật việc thật được trình bày theo quan sát điểm của ngôi thứ 1”. [6,22] Thể hiện đúng đặc điểm thể loại đó, toàn bộ lời bình của MKKS được thể hiện qua lời kể của nhân vật xưng “tôi” hoặc “chúng tôi”- người viết lời bình. “Tôi” là nhân vật trực tiếp tham gia vào MKKS, vào các sự kiện, các biến cố xảy ra của câu chuyện, vừa là người dẫn chuyện, kể lại câu chuyện đó qua lăng kính cảm nhận của mình. Điểm nhìn của chủ thể ở ngôi thứ nhất này là trung tâm cố định thu hút khán giả. Trong vai trò đặc biệt quan trọng đó, câu chuyện được tác giả kể ra không tách rời ý thức của người kể. Như vậy qua sự trần thuật của “tôi”, câu chuyện không chỉ hấp dẫn, giàu tính thuyết phục mà từ đây “tôi” có thể kể mọi chuyện về những gì xảy ra xung quanh, về các nhân vật trong câu chuyện, vai trò, ý nghĩa sự xuất hiện của họ, lý giải về nguyên nhân các sự kiện, sự việc, và kể về cảm nhận của bản thân “tôi” về mọi sự kiện, sự việc xảy ra. Điểm khác biệt có thể dễ dàng nhận thấy trong thể loại ký sự truyền hình là chỉ tồn tại điểm nhìn trần thuật bên trong chứ không tồn tại điểm nhìn trần thuật bên ngoài, tất cả thu gọn trong sự cảm nhận, qua sự tường thuật của nhân vật xưng “tôi” là tác giả, và điểm nhìn trần thuật bên trong tồn tại xuyên suốt, không có sự thay đổi điểm nhìn sang góc độ nào khác. Ví dụ: “Chúng tôi đang vượt sông Hàm Luông để đến với “Kinh đô dừa” của chính xứ dừa Bến Tre là huyện Mỏ Cày”. (tập 75) Hoặc: “Chúng tôi đang có mặt ở huyện Cờ Đỏ, một miền đất trù phú”. (tập 82) “Chúng tôi đang ngược quốc lộ 91 men theo bờ Tây sông Hậu tiến về phía thượng nguồn để khảo sát miền đất biên cương An Giang...”. (tập 67) Điểm nhìn trần thuật bên trong là yếu tố cực kỳ quan trọng, chi phối toàn bộ thời gian, không gian trong MKKS. 3.2. Không gian và từ ngữ biểu đạt không gian trong MKKS Không gian trong MKKS không phải là không gian đơn thuần mà đó là không gian thực mà thể hiện qua lăng kính cảm nhận của 111 Một số đặc điểm . . . tác giả đó là sự hòa trộn của nhiều yếu tố, vừa là không gian thực, vừa nhuốm màu không gian nghệ thuật. “Không gian nghệ thuật gắn với cảm thụ về không gian nên mang tính chủ quan, ngoài không gian vật thể, có không gian tâm tưởng. Do vậy, không gian nghệ thuật có tính độc lập tương đối không quy được vào không gian địa lý”. [5,109]. Không gian và thời gian là những yếu tố đi liền nhau. Theo Nguyễn Thái Hòa, không gian bao gồm: không gian bối cảnh, không gian sự kiện, không gian tâm lý và không gian kể chuyện. Không gian kể chuyện khác với các không gian kể trên vì tuy ta không tìm thấy được trên bề mặt ngôn từ của lời bình ký sự nhưng đóng vai trò hết sức quan trọng trong nghệ thuật kể chuyện. Vì người kể lại câu chuyện phải nhập trở lại không gian sự kiện để kể nên không gian được chuyển từ không gian bối cảnh- không gian tâm lý, không gian sự kiện đến không gian kể chuyện. Như vậy không gian của ký sự truyền hình không hoàn toàn là không gian thực. Mặc dù trong mỗi tập phim, mỗi trường đoạn, mỗi điểm đến, tác giả luôn cho người xem thưởng lãm một không gian, bối cảnh thật chi tiết: địa điểm đó thuộc kinh độ, vĩ đạo nào, độ cao địa hình bao nhiêu, vực sâu bao nhiêu so với mực nước biển...nhưng qua lăng lính, điểm nhìn trần thuật của tác giả, không gian khán giả cảm nhận là không gian của sự hồi tưởng, qua sự cảm nhận của tác giả. Như Lại Nguyên Ân khẳng định “Muốn thể hiện được không gian này, nhà văn phải dùng cơ chế của sự hồi tưởng, thể hiện không gian như một yếu tố liên quan đến ký ức của nhân vật... Không gian tuy có rộng lớn bao nhiêu nhưng cũng không thể thoát ra được cách xử lý của tư duy nhân vật người kể chuyện”. [1, 250]. Không gian là yếu tố vô cùng quan trọng trong một tác phẩm nghệ thuật, đặc biệt là ký sự truyền hình. Không gian ký sự là sự hòa quyện giữa không gian thực tế, không gian được phản ánh, là không gian kể chuyện đã được thể hiện qua lăng kính cảm nhận của tác giả, trở thành không gian nghệ thuật. Không gian trong MKKS là không gian hiện hữu trong tâm tưởng của tác giả, câu chuyện thực tế trong quá khứ được tác giả kể lại, không gian của câu chuyện được tái hiện rất linh hoạt, khi thì ở hiện tại, khi ngược về quá khứ, có khi xuôi về tương lai, nhưng tất cả vẫn diễn ra và hoàn tất trong không gian kể chuyện hiện tại. Không gian trong ký sự được mở rộng độ cao, độ rộng về địa lý, được thể hiện bằng hình ảnh chi tiết, bằng màu sắc, âm thanh, mùi vị, không gian đó được mở rộng bằng điểm nhìn của tác giả và được tường thuật lại bằng sự hồi tưởng của tác giả. Không gian ký sự thể hiện bằng các chiều: “ở trên”, “ở dưới”, “bên này”, “bên kia”, “bên đó”, “trên này”, dưới kia», “phía trước”, “đằng sau»...trong đó tác giả là chủ thể, là trung tâm, và không gian ký sự thể hiện qua sự cảm nhận của tác giả, lấy điểm nhìn của tác giả làm mốc. Trong MKKS, những người thực hiện ký sự dùng nhiều phương tiện di chuyển phục vụ cho việc ghi hình. Tác giả rất chú ý việc thể hiện không gian, định vị cụ thể nơi chốn.Vì vậy không gian kể chuyện cũng khá đa dạng. Ví dụ: “Trên cao nhìn xuống, Bến Tre có hình rẽ quạt, mà đầu nhọn nằm ở thượng nguồn...” (tập 75) “Cả thế gian được thể hiện trên tường đá, cả vũ trụ quy tụ trong một ngôi đền”. (tập 57) 112 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật Thật tài tình cái cách mà tác giả thể hiện không gian sự kiện, nơi sự vật sự việc tồn tại, không gian cụ thể đó được bao bọc trong một không gian rộng lớn hơn, cụ thể hơn, đó là không gian nghệ thuật qua lời kể của tác giả. Tác giả hướng điển nhìn của khán giả theo điểm nhìn của mình, mở rộng không gian một cách linh hoạt, đặc biệt điểm nhìn “ở trên” và “ở dưới”,”ở giữa”, “trước” và “sau”... luôn được tác giả thể hiện rõ nét “Khi ở dưới đất chúng tôi chưa hình dung hết được phạm vi đô thị của thành phố. Không ngờ dưới cánh bay nó lại trải rộng đến thế...”. (tập 81) “Từ trên cao chúng tôi thật sự ngẩn ngơ trước vẻ đẹp mô hồn của Mêkông...”. (tập 70) “MKKS đã nhiều lần khiến chúng tôi lênh đênh trên mặt nước bằng đủ phương tiện giữa mọi cạnh quan quen thuộc xa gần”. (tập 64) Hay “Thông Thiên Hà là điểm giữa đoạn đường 400km từ Hoàng Hà (tại đỉnh đèo Ban Nhan Khách Lạp tới Mêkông (tại huyện Nang Liêm). (tập 3) “Trước đình Phú Tự của xã Phú Hưng, thị xã Bến Tre có một cây Bạch mai cổ thụ...”. (tập 76) Tác giả tạo ra một không gian tâm tưởng đầy cảm xúc, đó không chỉ là không gian hùng vĩ, gây cảm giác choáng ngợp trước cảnh vật thiên nhiên hùng vĩ, diễm lệ, nhưng cô cùng trắc trở, nguy hiểm mà còn là không gian của những suy tưởng, cảm nhận về sự kiện, sự việc, con người...của người kể chuyện. “Phía trước là thị trấn Kết Cổ, huyện lỵ của huyện Ngọc Thụ nằm phía Đông Nam của Châu tự trị dân tộc Tạng tỉnh Thanh Hải, ven một nhánh của Thông Thiên Hà, cách Tây Ninh 872 km và cách điểm đầu quốc lộ 214 hơn 816km. Từ đây tới thị trấn thượng nguồn Mêkông chỉ còn 168km” (tập 3) - Từ ngữ biểu đạt không gian chuyển thành từ ngữ thời gian Theo GS Nguyễn Đức Dân trong tri nhận và thói quen sử dụng của người Việt thì việc chuyển từ thời gian sang không gian khá phổ biến. Với đặc điểm ngôn ngữ ký sự thể hiện qua thói quen tri nhận, sử dụng gần với lời ăn tiếng nói và cảm nhận thời gian, không gian của người Việt, tác giả Trần Đức Tuấn sử dụng khá nhiều từ biểu đạt không gian chuyển thành từ ngữ thời gian. Xuất phát từ điển nhìn trần thuật bên trong, có 3 từ không gian tiêu biểu thể hiện vị trí- khoảng cách so sánh với người nói là từ "đây", "kia" và "đấy". Thông thường từ “đây” - một từ trực chỉ, trỏ, chỉ vị trí không gian, ngay nơi người nói- không điểm.Thông thường từ “đây” được nói ra khi người phát ngôn chỉ, trỏ vào một nơi chốn, một điểm cụ thể trên đồ vật ở gần (VD như bản đồ, màn hình máy tính...). Còn trong trường hợp người phát ngôn không thể chỉ trỏ cụ thể, người phát ngôn phải tạo ra không gian tâm thức để người nghe biết rõ, thấy rõ. Xuất phát từ điểm nhìn trần thuật bên trong, không gian là nơi đoàn làm phim MMKS đang đứng, phóng tầm mắt ra xa, tác giả thể hiện được không gian rộng lớn xung quanh: “Từ đây ngược lên điểm xuất phát dài khoảng 1300km được gọi là Thông Thiên Hà. Từ đây ra tới biển dài 5000km gồm cả 2 đoạn, đoạn đầu là Kim Xa Giang, đoạn cuối là Trường Giang”. (tập 3) Từ “kia” - là “trỏ không điểm có vị trí xa nơi người nói, nhưng có thấy và do vậy, đó là vị trí xác định” “Đấy” là “trỏ không điểm có vị trí xa nơi người nói, nhưng có thể không còn nhìn thấy và do vậy có thể là vị trí không xác định. Biến thể của “Đấy” là “đó”. VD: “Cách đấy chừng 200 mét là khu mộ Võ Trường Toản, một Chu văn An của đất phương Nam...”. (tập 76) - Không gian trong MKKS không bao giờ là không gian một chiều, không có quan hệ không gian đặc trưng bằng khoảng cách xa - gần vô hướng như tri nhận thông thường, không gian thực hay không gian tâm tưởng mà tác giả tạo ra trong MKKS để người xem cảm nhận là không gian 2 chiều, thậm chí 3 chiều , thể hiện ở các từ như như : mép, mé, cạnh, rìa, chéo, xéo... 113 Một số đặc điểm . . . VD: mép vực, vách núi, rìa sông, mé sông, mạn thuyền... Ba từ không gian cơ bản “đây”, “kia”, “đấy” cùng một số biến thể của nó được chuyển thành bộ ba từ dùng trong miêu tả thời gian hiện tại, quá khứ và tương lai Đây -> giờ đây “Này” là từ trực chỉ không điểm xác định ở ngay tại chỗ người nói hoặc rất gần người nói, người nói có thể nhìn thấy được. Khi từ “này” làm định ngữ cho một từ chiếm một không gian thì nó chỉ ngay cái không gian mà người nói nhìn rất rõ . Chuyển sang nghĩa thời gian , khi “này” làm định ngữ cho một từ thời gian thì nó chỉ ngay thời điểm, thời đoạn người ta đang nói tới. Khi làm định ngữ cho một sự tình thì nó chỉ ngay cái sự tình được nói tới”. Như vậy từ “đây”, “này” được chuyển thành từ được dùng để tạo thành những từ trỏ thời điểm và thời đoạn hiện tại. Này -> Lúc này, giờ này, ngày này, tuần lễ này, hồi này, dạo này, tháng này, thời này, đời này... “Này” chuyển thành “nay” cũng dùng trỏ thời gian hiện tại, thời điểm người nói phát ngôn. Ví dụ: Hiện nay, ngày nay, hôm nay... Các từ “ấy”, “đó”, “kia” thì dùng chỉ thời gian trong quá khứ, tuy nhiên mức độ có khác nhau, quá khứ gần hơn hay xa hơn, xác định hoặc không xác định VD: lúc ấy, ngày ấy, năm tháng ấy, thời ấy Hoặc: ngày đó, lúc đó, hồi đó, tuần đó, tháng đó... Hay: Ngày kia, năm kia, xưa kia, trước kia Danh từ không gian -> danh từ thời gian: VD: Quanh vùng, quanh năm, quanh khu vực... Từ “suốt” có nghĩa “liền một mạch trong không gian” được chuyển sang dùng với ý nghĩa “liền một mạch trong thời gian”. VD: Suốt tuyến, suốt 30km, suốt hành trình ...-> suốt ngày, suốt buổi, suốt tuần Tính từ trỏ độ lớn không gian trở thành tính từ trỏ độ lớn thời gian VD: thời gian eo hẹp, thời gian quá ngắn... - Động từ chuyển động trong không gian trở thành động từ chuyển động trong thời gian. Bản thân từ “rồi” chỉ sự kết thúc một hoạt động, từ là hoạt động đã xảy ra trong quá khứ. VD: ăn rồi, làm rồi, xây nhà rồi, sinh con rồi ... Từ ý nghĩa này, từ “rồi” được dùng để trỏ thời gian quá khứ VD: tuần rồi, tháng rồi, vừa rồi... Từ thời gian có nguồn gốc không gian: đây, nay,này, nãy, ấy, đó, nọ , kia - các từ thời gian có nguồn gốc từ ẩn dụ thời gian chuyển động : qua, tới, trước, sau - Các từ chỉ thời đoạn: ban, buổi, hồi, lúc, nãy lát, độ, cữ, chập... - Từ thời gian có nguồn gốc từ những từ chứa một tiền giả định về thời gian: rồi, mai, mốt, ngay, liền, mới, vừa, định, toan, chực... Tạo ý nghĩa thời gian qua biện pháp tổ hợp từ ngữ thời gian Từ trỏ không điểm gần : này, đây, nay, nãy Từ trỏ không điểm xa: đấy, ấy, đó, nọ, kia... VD: “Cách đây một tuần...” Dùng từ “sau” để tạo ra ý nghĩa tương lai: hôm sau, tuần sau, mai sau... Xuôi theo chiều dài lộ trình MKKS, tuần tự qua các cột mốc địa lý, tác giả mở rộng không gian ký sự theo chiều dọc, vừa thể hiện tầm vóc của ký sự vừa tạo chuỗi liên kết các phần, các tập ký sự: “Sau này chúng tôi còn gặp một “Thông Thiên Hà Đại kiều” nữa về phía thượng nguồn cách đây 1100km đường sông”. (tập 3) Điểm nhìn của “sau” đặt ở quá khứ thì chúng trở thành thời gian quá khứ xảy ra trước hiện tại và sau lúc sự kiện được nhắc. Điểm nhìn của tác giả ở hiện tại thì chúng trỏ thời gian trong tương lai. Nhưng trong bối cảnh toàn bộ câu chuyện MKKS được tường thuật lại, tức là toàn bộ ký sự đã kết thúc thì tương lai trong câu chuyện là thời điểm hiện tại khi ta nhìn sự kiện ấy trong quá khứ. Kết hợp “đây” với “sau” để tạo tương lai gần nhất, ngay sau thời điển hiện tại người nói phát ngôn. 114 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật VD: Sau đây, ngay sau đây Từ thời gian kết hợp với từ “qua” hoặc từ “nãy” để tạo thời điểm liền trước hiện tại, tức quá khứ liền kề với hiện tại. VD: 5 phút vừa qua, tiếng đồng hồ qua, sáng qua, ngày hôm qua... Hoặc lúc nãy, hồi nãy, vừa nãy, khi nãy, ban nãy... Dùng từ “nữa” để chỉ tương lai gần. VD: lát nữa, chốc nữa, chốc lát nữa... Thời gian trong tương lai: Tương lai gần VD: Nay mai, mai kia, mai này, mai sau... Tương lai xa VD: sau này, một ngày kia, kiếp sau... VD: “Những bữa ăn tự nấu, những ly rượu phảng phất vị giang hồ không ít lần làm chúng tôi chìm vào cảm xúc lãng du, để rồi sau này còn mãi nổi bâng khuâng khi nhớ lại những quán vắng bên đường, những đỉnh đèo heo hút, hoặc những bến nước cô liêu...”. (tập 15) 3.3. Thời gian và từ ngữ chỉ thời gian trong MKKS Khác với các thể loại truyện, tiểu thuyết với thời gian trong tác phẩm là thời gian nghệ thuật, không cần chính xác, chẳng cần cụ thể... Như Trần Đình Sử có viết: “Nếu như mọi hiện tượng của thế giới khách quan được soi sáng bằng tư tưởng và tình cảm, được nhào nặn và sáng tạo để trở thành một hiện tượng nghệ thuật phù hợp với một thế giới quan, phương pháp sáng tác, phong cách truyền thống và thể loại nghệ thuật nhất định thì thời gian nghệ thuật cũng thế... Nó vừa là phương tiện của đề tài và là một trong những nguyên tắc cơ bản để tố chức tác phẩm”. [8, 390]. 3.3.1.Thời gian kể chuyện “Thời gian kể chuyện là thời gian vận động theo dòng vận động tuyến tính một chiều của văn bản ngôn từ...là thời gian của người kể, của sự kiện luôn mang thời hiện tại”. [8,120] Như vậy mặc dù có những điểm giống nhau về thời gian của người kể chuyện, tức là thời gian vận động tuyến tính, thời gian theo câu chuyện của người kể chuyện, có mở đầu, có nối tiếp, có kết thúc từng chặng hành trình, thời gian có nhịp diệu và tốc độ khác nhau... có những chuyện trong quá khứ xảy ra trước nhưng kể sau, có những chuyện xảy ra sau nhưng kể trước để tăng tính hấp dẫn cho câu chuyện nhưng thời gian kể chuyện thì luôn ở thì hiện tại. Trong khi thời gian kể chuyện là thời gian các sự kiện đã xảy ra, tác giả làm nhiệm vụ kể lại thật chi tiết các sự kiện thì thời gian trong tác phẩm đã trở thành thời gian quá khứ. Mang nhiều đặc điểm về thời gian của truyện, tiểu thuyết chương hồi nhưng thời gian trong ký sự truyền hình được thể hiện linh hoạt hơn, tức là có thời gian tuyến tính, có thời gian phi tuyến tính. Thời gian của ký sự -một thể loại báo chí coi trọng tính chân thực luôn trung thành với thời gian cụ thể, có ngày- giờ- giây - phút, có mùa nắng- mùa mưa, có xuân- hạ - thu- đông, có mốc thời gian chính xác. Tính chính xác đó có thể kiểm chứng qua hình ảnh, qua sự kiện, sự việc, con người...nhưng đặc biệt ở chỗ thời gian trong ký sự có khi thể hiện ở trật tự phi tuyến tính, trong nhiều hoàn cảnh, trong chuỗi liên tưởng của mình, tác giả có thể ngược về sự kiện lịch sử, liên tưởng đến nhân vật tồn tại hàng ngàn năm trước, dẫn dắt những sự kiện, câu chuyện về nhân vật đó hàng thế kỷ trước... Tuy nhiên, sự vận động phi tuyến tính đó chỉ chiếm một dung lượng hữu hạn, trong mạch câu chuyện kể của mình tác giả vẫn sẽ đong đo liều lượng vừa đủ để trật tự tuyến tính của câu chuyện được đảm bảo để đảm báo tính mạch lạc của của chuyện mà mình kể cho khán giả. Thông thường mở đầu hoặc kết thúc mỗi tập phim, tác giả luôn đứng ở ví trí hiện tại của người kể chuyện kể về một hành trình thực tế. Từ tọa độ hiện tại, tác giả kể lại câu chuyện trong quá khứ mà mình là một phần trong câu chuyện đó với sự đan xen mốc thời gian: quá khứ- hiện tại- tương lai một cách tài tình. Dẫn dắt người đọc khám phá hành trình thực tế đó một cách hồi hộp, hấp dẫn mang đầy tính khám phá về những điều bí ẩn mà tác giả giấu kín cho đến cuối hành trình. “Thời gian kể chuyện không còn là thời 115 Một số đặc điểm . . . gian mà tác giả kể lại hành trình có thật mình đã trải qua mà trở thành “một hiện tượng nghệ thuật chỉ có trong sáng tác nghệ thuật, bởi nó nhằm tạo ra cảm giác thời gian và dòng thời gian trong tâm hồn người đọc. Nó như được đồn nén vào trong đó biết bao biến cố sự kiện, bao cảm xúc, tậm trạng của nhân vật”. [8,244]. 3.3.2.Thời gian sự kiện Thời gian xảy ra các sự kiện, sự việc trong quá khứ có liên quan chặt chẽ với thời gian kể chuyện. Nhịp thời gian của sự kiện, nhận vật trong ký sự truyền hình là mốc thời gian, khoảng thời gian cụ thể... Yếu tố này đóng vai trò quyết định, có thời gian, có sự kiện thì mới có câu chuyện thực tế mà tác giả kể lại cho khán giả bằng ngôn từ, hình ảnh. Và đặc biệt với thể loại ký sự truyền hình, hình ảnh chiếm vai trò đặc biệt quan trọng, khi hình ảnh nói lên thời gian thì ngôn ngữ chỉ góp phần làm sáng tỏ thời gian, không gian cụ thể ấy. Thời gian sự kiện có liên quan đặc biệt với thời gian nhân vật. Trong suốt hành trình MKKS, trừ các thành viên của đoàn làm phim gần như là những nhân vật chính xuyên suốt ký sự, các nhân vật mà đoàn làm phim gặp gỡ chỉ xuất hiện trong một vài lăng hình hoặc một vài tập phim. Thông qua phát biểu của các nhân vật, thời gian cụ thể được khẳng định, chân thực hơn. Trong câu chuyện thực tế của tác giả, 3 mảng hiện tại- quá khứ- tương lai được lồng ghép vào nhau, có khi xuôi theo vận động tuyến tính, có khi lại đan xen cả thời gian, không gian một cách linh hoạt, hấp dẫn, lôi cuốn người xem theo cảm nhận, cảm xúc, sự liên tưởng phong phú, tài tình của tác giả. Trong MKKS tác giả sử dụng khá nhiều từ ngữ chỉ thời gian, đó có thể là thời điểm cụ thể, cũng có thể là khoảng thời gian. - Thời gian cụ thể được thể hiện theo trình tự ngày- đêm, ngày – tháng - năm, mùa: xuân - hạ thu- đông, mùa mưa - mùa khô... Vì thời gian trong MKKS được thể hiện bằng hình ảnh trong phim khá rõ nét nên yếu tố thời gian ngày - đêm trong MKKS được nói ít hơn - Có thể nói trong suốt hành trình MKKS, phần bị áp lực về thời gian, phần do khó khăn vì sự hiểm trở của địa hình mà thời gian ban ngày ít được đề cập hơn đêm. Thời gian nghỉ ngơi ban đêm chính là thời gian mà cảm xúc của tác giả dâng trào. VD: “Đoàn làm phim lên đường lúc 2 giờ sáng để chứng kiến phiên chợ đêm náo nhiệt”. (tập 53) “Đền Trung Điện trời rất lạnh”. tập 4) “Trời đêm cuối thu dịu mát tạo cảm giác khoan khoái êm đềm...”. (tập 56) “Chiều Đakbla êm ả khởi đầu cho một đêm cao nguyên huyền bí...”. (tập 63) “Trời đêm biên giới cho ta một cảm giác mơ màng...”. (tập 68) Khác với các đoạn phim quay ban ngày, mọi cảnh vật có thể đặc tả bằng hình ảnh chi tiết, cảnh quay đêm bị hạn chế khá nhiều. Về kỹ thuật là do thiếu sáng, về hình ảnh bị hạn chế nên nghèo nàn hơn. Vì vậy trong thời gian ban đêm, đó là lúc ngôn ngữ đặc tả thể hiện nhiều nhất. “Châu đốc về đêm như một chòm sao rực sáng giữa dãy ngân hà Mêkông tráng lệ”. (tập 68) “Trên đường tìm kiếm Mêkông chúng tôi đã đi qua biết bao thị thành tráng lệ nhưng cái đêm lung linh kỳ điệu như thế này chỉ có ở Lệ Giang. Những ngôi nhà cổ lộng lẫy soi mình bên dòng suối chỉ thấy ở đây. Suối mơ bên rừng thu vắng thì nhiều nhưng bên những lâu đài cổ kính không có bao nhiêu. Dòng nước linh thiêng từ trong núi tuyết chảy về nâng niu ước mơ bồng bềnh của con người trên những đóa hoa đăng mong manh khuất dần trong đêm tối là kỷ niệm đẹp nhất về thành cổ Lệ Giang...”. (tập 12) - Các mùa trong năm cũng được tác giả nhắc đến rất nhiều lần vì thời gian trong năm có ảnh hưởng đặc biệt quan trọng tới thời tiết, khí hậu, sự phát triển của thảm thực vật, mùa vụ canh tác của nông dân. VD: “Lúc này là giữa mùa xuân nên phần lớn các đỉnh núi đều có tuyết.”(tập 2) “Một cơn mưa xuân bất chợ ào tới, kèm 116 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật theo dông nhiệt chẳng khác gì mùa hè, làm chúng tôi thật sự lúng túng. Vì đang trong mùa khô nên đây cũng được coi là hiện tượng quý hiếm ...” ( tập 16). “... Từ những năm 70 của thế kỷ trước, người ta đã trồng thành công loại tiểu mạch mùa đông, năng suất và sản lượng cao hơn hẳn tiểu mạch mùa xuân và thanh khỏa”. (tập 6) “Cuối cùng, đoàn làm phim được lệnh lên đường hướng về phía Côn Minh trong một ngày xuân ấm áp... Vậy là từ giờ phút này, Mêkông ký sự tiếp nhận những người bạn mới...”. (tập 8). “Thà Khẹc mơ màng trong sương sớm. Nó vừa tỉnh giấc bên dòng chảy êm đềm sau một đêm dài đầu hạ.”(tập 41) “Lúc này đang là giữa mùa khô, nước Mêkông khá trong”. (tập 67) “Nhìn cảnh tượng thật ngao ngán nhưng đó là cách duy nhất để con người không phải bỏ xứ đi xa vào mùa mưa lũ”. (tập 67) Đề cập nhiều tới thời gian, đặc biệt là các mùa trong năm, tác giả cho thấy có những vùng miền có sự biến đổi khí hậu mạnh mẽ theo các mùa trong năm, cũng như cho thấy sự chênh lệch nhiệt độ khá lớn của các khu vực gần như trùng vĩ độ. “... Cuối tháng 3 rồi, khi những nơi khác cùng vĩ độ như Triết Giang, Phúc Kiến trời đã nóng nực mà tại nơi đây vẫn có thể vui đùa với tuyết lạnh..., chẳng khác gì mùa đông đẹp đẽ của nước Nga”. (tập 4) Đó là những điều kiện ảnh hưởng trực tiếp đến sinh hoạt, canh tác, sản xuất, các hoạt động văn hóa, lễ hội... Chẳng hạn như khí hậu khu vực sông Lan Thương: “Trời lạnh gần như quanh năm nên việc bảo quản thực phẩm hết sức thuận lợi... Đã cuối tháng 3 nhưng các loài cây rụng lá mùa đông vẫn chưa thể đâm chồi vì trời còn quá lạnh”. ( tập 11) “... Nếu tới đây vào mùa thu, thời gian cư trú của chúng, bạn sẽ được chứng kiến một cảnh tượng hiếm có...” “Buổi sáng cuối tháng ba ở Đại Lý trời lạnh khoảng 3 độ C, rét hơn mùa đông ở Hà Nội”. ( tập 14) - Tác giả cũng sử dụng thường xuyên sử dụng các từ chỉ khoảng thời gian như: thập niên, thập kỷ, nửa thế kỷ, nhiều thế kỷ qua, các thế kỷ, nhiều năm sau mùa lũ, những năm gần đây, thời kỳ này Việc dùng các từ chỉ thời gian trong quá khứ cũng là một trong các yếu tố tạo màu sắc cổ xưa cho các sự kiện, các cột mốc lịch sử quan trọng. Ví dụ: “Đã có thời kỳ người ta kêu gọi “cải tạo thiên nhiên”, “chế ngự dòng chảy” nhưng rồi cũng nhanh chóng nhận ra đó chỉ là sự động viên ý chí”. (tập 1) “Sangrila chủ yếu nằm trong lãnh thổ châu Địch Khánh nơi mà người đời đã dốc công tìn kiếm suốt nửa thế kỷ”. (tập 4) “Trung Điện là thủ phủ của châu tự trị ...của nhà văn Anh Hiltơn vào những năm 30 của thế kỷ trước”. (tập 2) “... Từ những năm 70 của thế kỷ trước, người ta đã trồng thành công loại tiểu mạch mùa đông...”. (tập 6) “... như một cánh chim lạ cô đơn, cảm xúc lữ khách đường chiều trào dâng mạnh mẽ, sẽ giúp cho cảm giác và tư duy của bạn thêm sức thẩm thấu, phát hiện ra nhiều điều trầm ẩn đằng sau những thế kỷ, những dáng vẻ huy hoàng của phố phường cổ kính, bởi đó chính là bản lĩnh, là tài năng, là khát vọng và cũng là số phận của dân tộc này...”. (tập 12) “Ngay từ thế kỷ 12 Hồng Giáo và Bạch Giáo đã được truyền vào địa phận phía Bắc, tiếp theo là Hoa Giáo...Tới thế kỷ 17... Vào các thế kỷ 18,19... Tuy nhiên hiện nay Phật giáo Tạng truyền vẫn là tôn giáo lớn nhất”. (tập 6) “...các thế kỷ chậm chạp trôi đi, tự lự, u ẩn trước một thiên nhiên bao la diễm lệ, buồn tẻ đến mơ màng”. (tập 63) - Tác giả cũng sử dụng nhiều mốc thời gian cụ thể khi kể về các sự kiện lịch sử: “Từ năm 1866 đến trước năm 1994 đã có một chục công trình nghiên cứu về Mêkông nhưng chẳng chút thành công. Phải chờ đến 117 Một số đặc điểm . . . ngày 17/9/1994 người ta mới tới được cao điểm 4.975m ...”. (tập 1) Hoặc sử dụng mốc thời gian chính xác theo năm như: “Năm 1373, nhà cải cách Tông Khách Ba..., năm 1437, một đệ tử ông đã dựng ngôi chùa đồ sộ này...”. (tập 6) Khi cần, người kể chuyện có thể nhắc lại hoặc trích dẫn các thông tin quan trọng có ý nghĩa lịch sử bằng các số liệu cụ thể. Ví dụ: “... Đây là khu di chỉ Ca Nhược... được phát hiện năm 1977. Tháng 5 năm 1978 người ta đào thử và tìm ra 26 di tích... Năm 1979 khai quật chính thức và phát hiện thêm 31 di tích...”. (tập 6) Không thừa nhận có thời/thì (tense) trong Tiếng Việt nhưng hầu hết các tác giả đều thừa nhận sự tồn tại của các hư từ biểu thị ý nghĩa thời gian như: đã, từng, vừa, đang, sẽ, sắp. Theo đó từ “đã” biểu thị ý nghĩa quá khứ chung. Từ “từng” biểu thị quá khứ xa, cho biết hành động kết thúc trước thời điểm phát ngôn. Từ “vừa”, “mới”, “mới vừa” biểu thị quá khứ gần, đồng thời cho biết hành động có thể vẫn tiếp tục trong thời điểm phát ngôn.Từ “đang” biểu thị ý nghĩa hiện tại. Từ “sẽ” biểu thị ý nghĩa tương lai chung. Từ “sắp” biểu thị ý nghĩa tương lai gần, đồng thời cho biết hành động chắc chắn sẽ diễn ra. Tuy nhiên vì trong tiếng Việt không có thời (tense), động từ có thể đi kèm hoặc không cần đi kèm với các hư từ này nên vai trò của các hư từ không mang tính chất quan trọng. Trong ngôn ngữ nói, trong ngữ cảnh cụ thể rất ít khi người Việt sử dụng các hư từ này. Ví dụ khi nói “ Tôi học bài” thì hiển nhiên không cần nói “Tôi đang học bài”, người nghe cũng có thể hiểu rằng hiện tại người nói đang học bài. Hoặc nói: Hôm qua tôi và cô ấy đi xem phim” Không cần thiết phải nói “Hôm qua tôi và cô ấy đã đi xem phim”. Chỉ riêng từ “hôm qua” người nghe đã biết sự việc diễn ra trong quá khứ. Tương tự, thời gian trong MKKS là thời gian quá khứ, được tác giả kể lại, nên mọi sự việc đều hoàn tất trong quá khứ, vì vậy các từ “đã”, “đã từng”, "đang", "sẽ" , “sắp” ...chỉ có giá trị tương đối trong tường thuật sự tình. Thực chất tất cả đã hoàn thnàh trong quá khứ. Hầu hết lời bình của MKKS được viết dưới dạng trần thuật, tự sự, vì vậy việc tác giả chú trọng sử dụng các hư từ mang ý nghĩa rất lớn, nó giúp tạo ra một không gian tâm tưởng, thời gian luôn ở hiện tại để khán giả có thể cảm nhận các sự kiện với tất cả tính mới mẻ, bất ngờ. Ngay thời điểm câu chuyện được tác giả kể lại đều sử dụng từ chỉ thời điểm hiện tại: VD: “Chiếc trực thăng của chúng tôi đang bay ngược sông Tiền đoạn nó ăn thông với Vàm Nao...”. (tập 70) Hoặc “Chúng tôi đang đi vào một trong hai vùng đạo Thiên Chúa xưa nhất của đất Bến Tre”. (tập 76) “...chặng đường thiên lý gian nan đã đưa chúng tôi tới được điểm xa nhất có thể về phía thượng nguồn dòng sông vĩ đại”. (tập 3) “Vậy là chúng tôi đã có mặt trên phần đất nằm giữa hai dòng chảy lớn nhất của MêKông...”. (tập 70) “Trên đường đi chúng sẽ tiếp nhận thêm hàng ngàn dòng chảy nữa để đến vùng đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên...”. (tập 3) “Chúng ta sẽ phải dừng lại dăm ba phút để làm việc với xuống cao tốc của các nhà chức trách...”. (tập 68 ) “Vậy là chúng tôi đã sắp tới dòng chính, nơi rất gần đầu nguồn của Tử Khúc”. (tập 22) Thời gian trong MKKS là thời gian được thể hiện linh hoạt, phong phú theo cảm xúc của tác giá với cách sắp xếp có chủ ý, chẳng hạn như để thể hiện sự hồi tưởng, tác giả viết: “Nhớ lại những khoảnh khắc đầu tiên nhìn thấy chiếc cầu thượng lưu Hồng Hà bắc ngang thành phố, những giây phút trò chuyện với gia đình người Di chất phác...Đài truyền hình Nam Giang đã cử hai quan chức lãnh đạo tiễn chúng tôi...”. (tập 16) 118 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật Trung thành với ngôn ngữ trần thuật từ đầu đến cuối, thời gian hiện tại trong MKKS khiến người nghe, người xem cảm nhận được dòng sự kiện đang diễn ra liên tục ngay trong thời điểm tác giả kể, nó tương tự như việc tường thuật trực tiếp trong một chương trình trực tiếp truyền hình nhưng thực chất là sự kiện cũ, xét đến thời điểm tác giả kể lại câu chuyện. Ví dụ: “Lúc này đang giữa tháng 2 âm lịch...”. (tập 2) “Lúc này là 30 tháng 3 dương lịch, vừa qua tiết Xuân phân”. ( tập 13) “Điểm tới lúc này là phần nóc của ngôi nhà rông, tức phần đầu cù lao về phía thượng nguồn” (tập 84) “...đêm nay có ý nghĩa hết sức đặc biệt vì Trung Điện được đón tiếp đoàn làm phim từ phương Nam xa xôi đến tìm hiểu và quay phim về Mêkông...”. (tập 4) Không chỉ thổi không khí hiện thực vào câu chuyện, tác giả còn sử dụng thời gian như một phương tiện hữu dụng để bày tỏ cảm xúc xuôi theo chiều thời gian tuyến tính của sự kiện. Ví dụ: “Tới tận sau này, khi sống giữa Sài Gòn náo nhiệt, mỗi khi hồi tưởng lòng còn mãi bâng khuâng ...”(tập )* “Khu du lịch này có tên là “Nhà Mát” ...lúc này mới chỉ là đất bồi song 500 năm sau ai dám chắc cảnh vật sẽ còn đậm chất hải dương như thế này...”. (tập 85) 4. Kết luận Có thể nói, đối với thể loại ký sự truyền hình, việc tạo ra một không gian hòa quyện giữa không gian thực, không gian sự kiện, không gian kể chuyện và không gian nghệ thuật đã thể hiện tài năng của tác giả. Không gian đi liền với thời gian được khai thác theo nhiều chiều đã làm cho câu chuyện thực tế trong hành trình MKKS được mở rộng ra nhiều lần, vừa phản ánh được chiều sâu của thời gian, không gian sự kiện vừa mở ra được không gian cảm xúc của người xem. Sự đan xen các mốc thời gian lịch sử, các diễn biến theo trật tự thời gian trong quá trình thực hiện ký sự đã làm cho câu chuyện thực của tác giả sống động, có lượng thông tin dồi dào, có điều kiện để tác giả khai thác, phân tích, tìm lời giải thích thỏa đáng cho các vấn đề đặt ra. Không những vậy, việc kết hợp tài tình yếu tố thời gian, không gian xuất phát từ điểm nhìn trần thuật bên trong đã làm cho bố cục của hành trình MKKS tránh được sự khuôn sáo, nhàm chán, sự gượng ép, khiêng cưỡng khi lồng ghép các thông tin kinh tế, văn hóa, lịch sử... Việc thể hiện câu chuyện trên chuỗi thời gian tuyến tính làm cho câu chuyện thực tế trong MKKS không quá sa đà vào các chi tiết khác, làm loãng nội dung chính của ký sự. Mặc dù lồng ghép nhiều yếu tố thời gian, không gian, khai thác thời gian, không gian ở nhiều phương diện nhưng tác giả vẫn giữ nhịp thời gian theo trật tự tuyến tính, chính điều này làm cho các phần, các tập, các trường đoạn của MKKS có tính liên kết theo trật tự thời gian. Có thể nói việc khai thác thời gian, không gian trong MKKS là một trong những yếu tố quan trọng làm nên thành công của MKKS./. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Lại Nguyên Ân, 150 thuật ngữ văn học, NXB ĐHQG Hà Nội,1999. [2] Nguyễn Đức Dân, Ngôn ngữ báo chí- những vấn đề cơ bản, Nxb Giáo dục, 2007. [3] Nguyễn Đức Dân, Tri nhận thời gian trong Tiếng Việt, Tạp chí ngôn ngữ số 12 năm 2009 [4] Đức Dũng, Các thể loại báo chí, NXB Văn hóa thông tin, HN,1996. [5] Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên),Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia, HN,1992. [6] Tầm Dương, Về thể ký, Tạp chí văn học, (2), HN,1967. [7] Dương Xuân Sơn, Các thể loại báo chí chính luận nghệ thuật, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội,2004. [8] Trần Đình Sử (chủ biên), Tự sự học- một số vấn đề lý luận và lịch sử, NXB ĐH Sư Phạm Hà Nội,2007. [9] Trần Đình Sử, Giáo trình dẫn luận thi pháp học, NXB Giáo dục, Hà Nội,1998.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf14_1592_2121790.pdf