Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ giảng viên Đại học ở Việt Nam hiện nay - Đỗ Khánh Năm

Tài liệu Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ giảng viên Đại học ở Việt Nam hiện nay - Đỗ Khánh Năm: VJE Tạp chí Giáo dục, Số 446 (Kì 2 - 1/2019), tr 9-13; 8 9 Email: dokhanhnampgdbt@gmail.com MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG LAO ĐỘNG CỦA ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Đỗ Khánh Năm - Trường Đại học Nội vụ Hà Nội Ngày nhận bài: 20/09/2018; ngày sửa chữa: 20/10/2018; ngày duyệt đăng: 17/12/2018. Abstract: The Party and State have indicated the need for fundamental and comprehensive reform of Vietnamese education in the direction of standardization, modernization, socialization and international integration. In which, improving the labor quality of university lecturers and management staffs is a key factor, because university lecturers are factors that determine the quality and effectiveness of education. The article mentions some basic solutions to improve the labor quality of university lecturers, contributing to improving the quality of training to meet the needs of the society. Keywords: Quality, labor quality, lecturer, universit...

pdf6 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 325 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ giảng viên Đại học ở Việt Nam hiện nay - Đỗ Khánh Năm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 446 (Kì 2 - 1/2019), tr 9-13; 8 9 Email: dokhanhnampgdbt@gmail.com MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG LAO ĐỘNG CỦA ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Đỗ Khánh Năm - Trường Đại học Nội vụ Hà Nội Ngày nhận bài: 20/09/2018; ngày sửa chữa: 20/10/2018; ngày duyệt đăng: 17/12/2018. Abstract: The Party and State have indicated the need for fundamental and comprehensive reform of Vietnamese education in the direction of standardization, modernization, socialization and international integration. In which, improving the labor quality of university lecturers and management staffs is a key factor, because university lecturers are factors that determine the quality and effectiveness of education. The article mentions some basic solutions to improve the labor quality of university lecturers, contributing to improving the quality of training to meet the needs of the society. Keywords: Quality, labor quality, lecturer, university. 1. Mở đầu Hiện nay, Việt Nam đã bước vào một giai đoạn hội nhập quốc tế sâu sắc và toàn diện hơn bao giờ hết. Điều này đã mở ra những triển vọng, điều kiện thuận lợi cho Việt Nam, đồng thời cũng đặt nước ta trước nhiều nguy cơ, thách thức trong tiến trình hội nhập. Để vượt qua lực cản và thách thức, cần phải đổi mới giáo dục đại học (GDĐH), bắt đầu từ những cải biến trong chất lượng lao động của đội ngũ cán bộ quản lí cũng như các thế hệ giảng viên (GV) đại học, góp phần thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam. Bài viết đề cập một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ GV đại học góp phần nâng cao chất lượng đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Một số khái niệm cơ bản 2.1.1. Chất lượng nguồn nhân lực Theo tác giả Nguyễn Kim Định, “chất lượng” là “Sự thỏa mãn nhu cầu hoặc hơn nữa nhưng với những phí tổn là thấp nhất” [1; tr 64]. Tác giả Nguyễn Tiệp cho rằng: “Chất lượng nguồn nhân lực là trạng thái nhất định của nguồn nhân lực, là tố chất, là bản chất bên trong của nguồn nhân lực, luôn có sự vận động và phản ánh trình độ phát triển KT-XH” [2; tr 10]. Tác giả Trần Xuân Cầu và Mai Quốc Chánh quan niệm: “Chất lượng nguồn nhân lực thể hiện mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành nên bản chất bên trong của nguồn nhân lực, được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu: sức khỏe, trình độ học vấn, trình độ chuyên môn/lành nghề” [3; tr 56]. Tác giả Vũ Bá Thể xác định: “Chất lượng nguồn nhân lực là giá trị con người, cả giá trị vật chất và giá trị tinh thần, cả trí tuệ lẫn tâm hồn cũng như kĩ năng nghề nghiệp, làm cho con người trở thành người lao động có những năng lực và phẩm chất đạo đức, đáp ứng được những yêu cầu to lớn và ngày càng tăng của sự phát triển KT-XH” [4; tr 24]. Như vậy, có thể hiểu một cách khái quát: chất lượng nguồn nhân lực là những yếu tố cấu thành quyết định nhất đến năng lực lao động của mỗi con người; được cụ thể hóa thành các yếu tố về sức khỏe, trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kĩ thuật, phẩm chất đạo đức và văn hóa nghề nghiệp, khả năng đảm nhiệm và hoàn thành công việc của mỗi người lao động. 2.1.2. Chất lượng lao động của đội ngũ giảng viên đại học - Chất lượng là một phạm trù phức tạp và trừu tượng. Có nhiều định nghĩa, quan niệm khác nhau về chất lượng. Theo tác giả Phạm Ngọc Trung, có thể xem chất lượng thể hiện thông qua “Tổng thể những thuộc tính của sản phẩm được xác định bằng những thông số có thể đo được hoặc so sánh được, phù hợp với những điều kiện hiện có và có khả năng thỏa mãn những nhu cầu của xã hội và của cá nhân” [5; tr 38]. Ở góc độ quản lí, Nguyễn Kim Định cho rằng, chất lượng là “Sự thỏa mãn nhu cầu hoặc hơn nữa nhưng với những phí tổn là thấp nhất” [1; tr 64]. - Chất lượng lao động là một tổng hòa, một phức hợp các quan hệ KT-XH và tư tưởng, biểu hiện không chỉ trong ý thức, nhận thức, tình cảm mà điều quan trọng hơn là được chứng thực trong hành vi, trong những kết quả cụ thể, trong hiệu quả công tác và năng suất lao động. Với tư cách là một hiện tượng lịch sử - xã hội, chất lượng lao động chứa đựng trong bản thân nó những mối quan hệ khác nhau, những yếu tố, thành phần đa dạng khác nhau. Nó được biểu hiện trong thực tiễn lao động của con người cũng như trong những mối liên hệ, tác động lẫn nhau của các nhân tố kinh tế, tư tưởng, đạo đức, thẩm mĩ và văn hóa nhằm đạt được những mục tiêu định sẵn và những tiêu chuẩn xác định. VJE Tạp chí Giáo dục, Số 446 (Kì 2 - 1/2019), tr 9-13; 8 10 Đây là một khái niệm đa chiều, bao trùm chức trách, nhiệm vụ của nhà giáo ở bậc đại học, biểu hiện kết quả tổng hợp các mặt hoạt động nghề nghiệp của người GV. Chất lượng lao động của GV đại học không chỉ biểu hiện ở việc đảm trách số lượng công việc mà còn phản ánh qua chất lượng các công trình khoa học hay những công việc kiêm nhiệm được giao trong quản lí giáo dục hoặc “kết quả (đầu ra) của quá trình đào tạo và được thể hiện qua các phẩm chất, giá trị nhân cách, giá trị sức lao động hay năng lực hành nghề của người tốt nghiệp tương ứng với mục tiêu đào tạo” [6; tr 184]. Trong đó, tỉ lệ việc làm của sinh viên sau tốt nghiệp, mức độ đáp ứng yêu cầu tại các vị trí làm việc cụ thể, khả năng phát triển nghề nghiệp, vai trò của nguồn nhân lực được đào tạo đối với sự phát triển KT-XH được xem là thước đo quan trọng để đánh giá chất lượng lao động của GV đại học. 2.1.3. Tính đặc thù của lao động giảng viên đại học Lao động của GV đại học trước hết là lao động trí óc. Đặc thù trong lao động của họ biểu hiện ở việc thường xuyên phải phát huy sức sáng tạo của tư duy, ở hàm lượng chất xám kết tinh trong sản phẩm. Lao động hao phí của GV không chỉ được tính đến sức lực cơ bắp mà chủ yếu nhất vẫn là yếu tố trí tuệ, tình cảm. Hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa học (NCKH), tổ chức, quản lí giáo dục ở bậc đại học là lao động phức tạp và bao hàm cả những căng thẳng đặc thù do thường xuyên phải suy ngẫm, tìm tòi, nghiên cứu. Dạng thức lao động ấy đòi hỏi nhiều chi phí năng lượng thần kinh trung ương, tạo ra những sản phẩm trí tuệ, những phát minh, sáng chế, sáng kiến, là nhân cách người học, là trình độ, kĩ năng lao động của nguồn nhân lực. Chính vì vậy, lao động của GV đại là lao động trí óc. Lao động của GV đại học là lao động sư phạm bậc cao. Mục đích cuối cùng trong lao động của GV đại học không phải là truyền thụ tri thức mà là GD-ĐT người học thành những nhân cách tích cực. Nhân cách ấy phải có đầy đủ năng lực và bản lĩnh tự khẳng định mình trước những đòi hỏi của thực tiễn đất nước, trước những yêu cầu của thời đại. Bằng phương pháp giảng dạy khoa học của mình, có thể chuyển hóa từ giáo dục sang tự giáo dục, từ đào tạo sang tự đào tạo, thông qua ảnh hưởng và tác động từ nhân cách của người thầy tới nhân cách của trò. Đó là yêu cầu sư phạm rất cao mà không phải bất kì GV hay nhà giáo ở bậc học nào cũng làm chủ và đảm bảo được giá trị ấy. Giảng dạy và NCKH là hai nhiệm vụ song hành của GV đại học. Giảng dạy với NCKH là để thực hiện yêu cầu có kiến thức và biết truyền thụ kiến thức của GV. Suy đến cùng, GV bồi dưỡng cho sinh viên năng lực tư duy, năng lực tự học, tự nghiên cứu và đó chính là bồi dưỡng phương pháp NCKH. Đây là điểm khác biệt căn bản của GV đại học so với các bậc học khác, đồng thời cũng là yêu cầu rất cao mà chỉ những GV am hiểu sâu, đạt được một số kết quả trong NCKH mới có nhiều khả năng làm việc đó. Tính cập nhật, hiện đại, khoa học trong nội dung giảng dạy của mỗi GV chỉ có thể được hình thành và đảm bảo nếu họ có năng lực nghiên cứu và thường xuyên NCKH một cách hiệu quả. Vì vậy, giảng dạy và NCKH luôn là hai nhiệm vụ chủ yếu, có mối quan hệ tương hỗ trong lao động chuyên môn của GV đại học. 2.2. Thực trạng đội ngũ giảng viên đại học Việt Nam Theo thống kê của Bộ GD-ĐT, năm học 2016-2017, tổng số GV trong các trường đại học là 72.792 người, trong đó GV có trình độ tiến sĩ là 16.514, chiếm tỉ lệ 22,6% (trong đó có 574 giáo sư; 4.113 phó giáo sư); thạc sĩ là 43.065, chiếm tỉ lệ 59,1%; đại học là 13.213, chiếm tỉ lệ 18,3% [7]. Về chất lượng, trình độ đội ngũ GV có xu hướng nâng cao, tuy nhiên, trước yêu cầu đổi mới và hội nhập quốc tế, đây là vấn đề cần giải quyết. Cụ thể: - Trình độ, năng lực của đội ngũ GV chưa theo kịp với sự vận động của đời sống KT-XH. Nghị quyết Trung ương 8 (khoá XI) cũng đã chỉ rõ, một bộ phận chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới, thiếu tâm huyết, thậm chí vi phạm đạo đức nghề nghiệp. Kết quả cho thấy, nhìn chung, chất lượng GV trong trường đại học nước ta hiện nay còn yếu. Tỉ lệ tiến sĩ/GV còn thấp (12,4%), mặt khác, hoạt động NCKH của GV còn ít, số lượng bài báo công bố trên tạp chí chuyên ngành trong nước và quốc tế chưa nhiều. NCKH là yếu tố nền tảng khoa học của kiến thức và trình độ của GV, nhưng chưa trở thành nhu cầu thực sự của GV. Đề tài và các nội dung NCKH vẫn còn nặng về hình thức, chưa gắn với yêu cầu của thực tiễn. - Hiện nay, nhiều GV vẫn còn duy trì phương pháp giảng dạy cũ, lỗi thời; chủ yếu là “độc thoại” hay là “thầy đọc, trò chép”... Việc áp dụng phương pháp giảng dạy như vậy sẽ không phát huy được tính chủ động, tích cực của sinh viên trong quá trình dạy học. Chính vì vậy, sinh viên sau khi ra trường không có kĩ năng nghề nghiệp đáp ứng với yêu cầu của thực tiễn. - Việc tuyển dụng GV có trình độ chuyên môn giỏi ở trong và ngoài nước tham gia giảng dạy tại các cơ sở đào tạo còn nhiều khó khăn do chính sách thu hút chưa đủ mạnh. Cơ chế quản lí và sử dụng cán bộ chưa tạo động lực để thu hút cán bộ giỏi về làm việc. - Công tác bồi dưỡng, quy hoạch và phát triển đội ngũ GV và cán bộ quản lí chưa được quan tâm đồng đều trong toàn hệ thống, trình độ ngoại ngữ còn hạn chế,... - Phân bố GV có trình độ cao lại không đồng đều ở các trường, các khu vực và giữa các khối ngành đào tạo. Phần lớn GV có học hàm, học vị cao đều tập trung ở VJE Tạp chí Giáo dục, Số 446 (Kì 2 - 1/2019), tr 9-13; 8 11 những thành phố với các đại học quy mô lớn. Tình trạng thiếu lực lượng GV đại học trình độ cao chủ yếu thuộc vùng miền núi phía Bắc, vùng Tây Nguyên, Đồng bằng Nam bộ, ở các trường mới hoặc các trường ngoài công lập. Đặc biệt, ở các ngành văn hóa nghệ thuật thì tỉ lệ cán bộ giảng dạy có học vị tiến sĩ rất thấp. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng thiếu hụt cán bộ giảng dạy “đầu ngành” nhưng nguyên nhân chủ yếu là do công tác quy hoạch đội ngũ GV đại học chưa tốt, còn thiếu tính chiến lược lâu dài. Hơn nữa, có một thời gian tương đối dài, đời sống của GV rất khó khăn; đến nay tuy đã được cải thiện đáng kể nhưng chế độ đãi ngộ đối với GV ở thời điểm hiện tại còn kém hấp dẫn, việc đào tạo nâng cao trình độ chưa trở thành nhu cầu nội tại, thiết yếu của mỗi cán bộ giảng dạy. 2.3. Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ giảng viên đại học ở Việt Nam 2.3.1. Nâng cao nhận thức của toàn xã hội về chất lượng lao động của đội ngũ giảng viên đại học - Đảng và Nhà nước cần xây dựng một triết lí về chất lượng lao động của đội ngũ GV đại học trong thời kì mới hướng tới việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, thích ứng với những yêu cầu, đòi hỏi của nền kinh tế thị trường trong bối cảnh hội nhập. Triết lí ấy phải mô tả được những yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn đất nước, thời đại đối với lao động nghề nghiệp của đội ngũ GV đại học, đồng thời phải quán triệt quan điểm coi đầu tư cho chất lượng lao động của đội ngũ GV đại học là đầu tư cho vấn đề có ý nghĩa lớn đối với sự thành bại của nền giáo dục và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước. Trên cơ sở đó, tuyên truyền rộng rãi đến quần chúng nhân dân lao động nói chung, nhất là đội ngũ cán bộ quản lí, lãnh đạo ở các trường đại học, đội ngũ GV, sinh viên sao cho mỗi chủ thể nêu trên đều thấm nhuần, thấu hiểu sâu sắc triết lí về chất lượng lao động của GV đại học trong thời kì đổi mới, đưa đất nước ngày càng phát triển. - Bộ GD-ĐT cần khẩn trương hoàn thiện và công khai tiêu chí đánh giá chất lượng lao động của đội ngũ GV đại học theo hướng chuẩn hóa, đảm bảo tính khoa học, tính thực tiễn và định lượng được trong công tác kiểm định. Tiêu chí đánh giá cần đứng trên quan điểm xem GV đại học là dịch vụ trong thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vì thế người dạy cũng chịu sức ép từ “khách hàng” trong vấn đề đảm bảo chất lượng và cung ứng nguồn nhân lực phục vụ mục tiêu phát triển đất nước. Trên cơ sở các tiêu chí đó, toàn xã hội có thể kiểm tra, giám sát về chất lượng lao động của đội ngũ GV của các trường đại học. - Các trường đại học cần dựa trên nhận thức sâu sắc, toàn diện, thấu đáo về lao động của đội ngũ GV đại học, về ý nghĩa chính trị, kinh tế, văn hóa của việc nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ này để từ đó có thái độ tôn trọng, có cách ứng xử văn hóa thể hiện sự đãi ngộ và tôn vinh lao động trí óc, sáng tạo của đội ngũ GV đại học. Mỗi GV phải tự giác nhận lấy trách nhiệm về mình trong việc đảm bảo hiệu quả đào tạo để cung ứng cho xã hội nguồn nhân lực chất lượng cao và những sản phẩm khoa học có giá trị. 2.3.2. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và trách nhiệm của các cơ sở đào tạo đối với chất lượng lao động của đội ngũ giảng viên đại học - Đảng cần quán triệt đầy đủ, sâu sắc và cụ thể hóa các quan điểm, đường lối, nghị quyết để chỉ đạo nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ GV đại học trong hệ thống chính trị, ngành GD-ĐT và trong toàn xã hội. Trong đó, đổi mới công tác thông tin và truyền thông để thống nhất về nhận thức, tạo sự đồng thuận và huy động sự tham gia đánh giá, giám sát, phản biện của toàn xã hội đối với chất lượng lao động của đội ngũ GV đại học ở nước ta hiện nay là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng và thiết thực. - Nhà nước phải tập trung vào các chức năng cơ bản: “Chỉ đạo chính sách chung, giám sát, quy định và kiểm soát chất lượng hệ thống; thông tin chính xác, kịp thời về tình hình cung cầu và giá trị của những kĩ năng và trình độ cụ thể để kết nối giữa các trường đại học và các ngành nghề’’ [6; tr 36], đảm bảo hiệu quả kinh tế khi cấp kinh phí cho các trường đại học theo những tiêu chí minh bạch, dựa trên kết quả thực hiện và chất lượng đào tạo của từng trường, khắc phục tình trạng phân bổ kinh phí bình quân dựa trên chỉ tiêu tuyển sinh đầu vào như hiện nay. - Vai trò của Chính phủ là xác định nhiệm vụ của GDĐH, lập kế hoạch chiến lược, đánh giá chương trình đào tạo, đảm bảo chất lượng, đánh giá chuẩn, giám sát và điều tiết, lập và phân bổ ngân sách nhà nước cho các cơ sở. Trong khi duy trì vai trò của trung ương trong việc chỉ đạo chính sách chung về chất lượng GDĐH, Nhà nước cần chuyển giao quyền tự quyết định chuyên môn cho các cơ sở đào tạo với sự phân công vai trò rõ ràng giữa các đối tượng tham gia. Mặt khác, Nhà nước cần tập trung xây dựng một chiến lược toàn diện giữa các cơ sở đào tạo đại học, Tổng cục Thống kê, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội để có thể hình thành và sử dụng tốt hơn các thông tin về thay đổi và yêu cầu của thị trường lao động về nguồn nhân lực. Vấn đề này có ý nghĩa thiết thực đối với các trường đại học, nhất là đội ngũ GV, nhà quản lí giáo dục trong việc xác định mục tiêu đào tạo theo nhu cầu và định hướng nghề nghiệp, khắc phục tình trạng VJE Tạp chí Giáo dục, Số 446 (Kì 2 - 1/2019), tr 9-13; 8 12 “lệch chuẩn” giữa đào tạo và nhu cầu sử dụng nguồn nhân lực. Để đảm bảo chất lượng lao động của đội ngũ GV đại học ở nước ta hiện nay, yêu cầu nâng cao trách nhiệm của các cơ sở đào tạo tất yếu được đặt ra. Cụ thể: - Nhà trường phải thực hiện chế độ tự chủ về tổ chức bộ máy, biên chế, nhân sự, tài chính và tăng cường thanh tra, kiểm tra công tác giảng dạy, thi cử, hoạt động chuyên môn của các Khoa. - Về nguyên tắc, quyền tự chủ phải gắn với hệ thống trách nhiệm của nhà trường, của đội ngũ GV đại học về chất lượng đào tạo. Nó đòi hỏi Ban Giám hiệu Nhà trường, đội ngũ GV và cán bộ quản lí ở các phòng, ban phải xác định rõ sứ mệnh, nhiệm vụ, mục tiêu đào tạo của Nhà trường. - Nhà trường phải chủ động đưa ra những cam kết về đảm bảo chất lượng GD-ĐT đối với người học, các cấp quản lí và trực tiếp nhất là các chủ thể sử dụng sản phẩm của GDĐH. - Mỗi GV, mỗi cán bộ lãnh đạo quản lí ở các cơ sở GDĐH phải có trách nhiệm thực hiện các giải pháp để thực hiện những cam kết về chất lượng đào tạo đã đề ra. 2.3.3. Hiện đại hóa giáo dục đại học là khâu đột phá để nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ giảng viên đại học ở Việt Nam Hiện đại hóa GDĐH thực chất là nhằm nâng cao chất lượng khoa học của việc dạy, nghiên cứu, quản lí, “khắc phục tình trạng thương mại hóa GDĐH, hình thức hóa NCKH gây lãng phí các nguồn lực và tầm thường hóa các giá trị” [8; tr 32], trong đó, khắc phục sự yếu kém không ngang tầm quốc tế của chất lượng GDĐH là điều mấu chốt. Để hiện thực hóa yêu cầu này, cần tập trung giải quyết những vấn đề sau đây: - Hiện đại hóa mục tiêu GDĐH. Đây là vấn đề cần thiết được làm sáng tỏ trên cơ sở tính đến những đòi hỏi được đặt ra từ bối cảnh của thời đại, trước những biến đổi của tình hình thế giới và trong nước. Đây là vấn đề hệ trọng cần được Bộ GD-ĐT, nhất là các trường đại học quan tâm đúng mức. Không xác định rõ mục tiêu, chuẩn đầu ra của từng chuyên ngành đào tạo thì sẽ không có những định hướng giá trị quy định toàn bộ quá trình lao động chuyên môn của đội ngũ GV đại học. - Hiện đại hóa chương trình và nội dung giáo dục trình độ đại học. Trọng tâm trong khâu này là việc tinh giản và sàng lọc, làm mới những tri thức đảm bảo tính hiện đại, tránh tình trạng ôm đồm, quá tải, trùng lặp đã được đặt ra như một đòi hỏi khoa học trong quy trình hiện đại hóa nội dung giảng dạy. Đặc biệt, phải quan tâm, chú trọng đến chất lượng giảng dạy ngoại ngữ và tin học theo hướng chuẩn hóa, thiết thực, bảo đảm năng lực sử dụng của người học. - Hiện đại hóa phương pháp GD-ĐT ở bậc đại học, trước hết là phương pháp dạy và học. Đây là khâu then chốt để vượt qua tình trạng lạc hậu của GDĐH ở nước ta. Xét về thực chất, nhiều nhà khoa học thống nhất rằng, hiện đại hóa phương pháp dạy và học bao hàm hai nhiệm vụ: “thanh toán” tình trạng lạc hậu của các phương pháp giáo dục cũ; khoa học hóa, trí tuệ hóa phương pháp mới, lấy học trò làm trung tâm, thầy là chủ đạo định hướng, dẫn dắt người học trong việc tiếp nhận, tái tạo, xử lí tri thức, qua đó hình thành kĩ năng nghề nghiệp tương ứng. Muốn đổi mới phương pháp dạy và học có hiệu quả, mỗi cơ sở GDĐH cần trang bị đầy đủ những thiết bị hiện đại phục vụ hoạt giảng dạy, học tập của SV. - Hiện đại hóa GDĐH còn bao hàm đổi mới và nâng cao chất lượng, trình độ của các thiết chế giáo dục. Trách nhiệm này trước hết thuộc về Bộ GD-ĐT trong việc kịp thời định hướng cho các cơ sở đào tạo xây dựng thiết chế “GDĐH mở”, tăng cường hoạt động hợp tác quốc tế. Đây vừa là môi trường để GV đại học Việt Nam trao đổi chuyên môn, học thuật với GV của các trường đại học danh tiếng, vừa là hệ quy chiếu để GV đại học nước ta tự soi mình vào thế giới và tự hoàn thiện mình trước những đòi hỏi của đất nước cũng như xu thế chung của thời đại. 2.3.4. Tạo chuyển biến căn bản trong công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên đại học đáp ứng chuẩn nghề nghiệp Đào tạo, bồi dưỡng là con đường trực tiếp nhất, là hình thức cơ bản để phát triển đội ngũ GV đại học đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của đặc thù nghề nghiệp. Trước hết, mỗi GV đại học cần phải hình thành thói quen tự học, tự nghiên cứu, tìm tòi, tự làm mới, làm giàu tri thức. Không có năng lực, nhu cầu và thói quen tự làm mới kiến thức, học vấn của mình, GV sẽ rơi vào tình trạng lạc hậu không theo kịp xu thế phát triển chung của toàn thế giới. Các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ GV đại học cần tạo ra được những áp lực để mỗi GV chuyên tâm vào việc học, nghiên cứu bằng việc đặt ra yêu cầu cao trong quá trình đào tạo và bồi dưỡng. Áp lực ấy không phải do những thủ tục hành chính đem lại mà phải được tạo ra từ yêu cầu cao của việc tìm tòi, nghiên cứu, sáng tạo buộc mỗi GV phải thật sự tận tâm, tận lực gắn bó và cống hiến mới có thể hoàn thành. Nếu không đảm bảo được điều đó thì dù xét ở khía cạnh nào cũng khó có thể khắc phục được tính hình thức của chương trình đào tạo, bồi dưỡng. Bộ GD-ĐT cần cải tiến phương thức đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ GVĐH theo hướng đa dạng hóa các loại hình: tập huấn cập nhật kiến thức, hội thảo chuyên đề, VJE Tạp chí Giáo dục, Số 446 (Kì 2 - 1/2019), tr 9-13; 8 13 đào tạo tập trung và không tập trung, chính quy và không chính quy, bồi dưỡng dài hạn và ngắn hạn, đào tạo trong nước kết hợp với đào tạo ở các cơ sở đại học danh tiếng trên thế giới. Trong đó, đào tạo và bồi dưỡng phải được gắn kết với nhau thành một quy trình liên tục, thống nhất; cần có chế độ, chính sách tu nghiệp thường xuyên đối với đội ngũ GV đại học ở nước ngoài, trao đổi chuyên gia, học giả với các nước, sớm hình thành các chuyên gia đầu ngành và cán bộ khoa học có trình độ cao cho đất nước. 2.3.5. Đổi mới chính sách trọng dụng, đảm bảo đãi ngộ xứng đáng đối với lao động của đội ngũ giảng viên đại học Đây được xem là biện pháp có tính đột phá nhằm nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ GV đại học ở Việt Nam hiện nay. Để làm được điều này, trước hết, cần có chính sách thu hút và trọng dụng nhân tài. Cần phải đổi mới cơ chế tri trả lương hàng tháng cho đội ngũ GV đại học theo hướng: Ngạch, bậc lương được tính theo trình độ đào tạo, chức danh khoa học kết hợp với việc tăng lương tối thiểu theo lộ trình chung. Phần phụ cấp được tính đối với đội ngũ GV đại học tham gia giảng dạy, cộng với phụ cấp theo thâm niên công tác và chức vụ đảm nhiệm. Nhà nước và mỗi cơ sở đào tạo cần chú ý đảm bảo hệ thống cơ sở vật chất, các thiết bị, công nghệ cho giảng dạy, NCKH và quản lí đào tạo, xây dựng các trường đại học trọng điểm, các cơ sở phục vụ nghiên cứu và thực nghiệm, mở rộng hợp tác quốc tế, tạo ra nhiều khả năng cho đội ngũ đội ngũ GV đại học học tập, nâng cao trình độ và cống hiến. Cần coi trọng công tác thi đua, khen thưởng, Nhà trường cần tạo cơ hội thăng tiến và phát triển nghề nghiệp cho GV. Xây dựng môi trường dân chủ, đoàn kết và nêu cao ý thức trách nhiệm trong giảng dạy và NCKH, quản lí giáo dục, khuyến khích, trân trọng những tìm tòi khoa học, phát huy tư duy sáng tạo của đội ngũ GV đại học. Đây là biện pháp kích thích tinh thần mạnh mẽ để đội ngũ GV đại học tích cực nâng cao hiệu quả lao động một cách tự giác. 2.3.6. Đổi mới căn bản công tác quản lí, coi trọng kiểm định chất lượng lao động của đội giảng viên đại học Đổi mới, nâng cao hiệu quả quản lí chất lượng lao động của đội ngũ GV đại học cần tập trung vào hai vấn đề chính: Quản lí đội ngũ GV đại học và quản lí hoạt động lao động của họ. Quản lí đội ngũ GV đại học bao gồm các vấn đề: đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng một cách hợp lí giữa yêu cầu của thực tiễn với thực trạng đội ngũ GV đại học, khắc phục nhanh chóng sự hẫng hụt đội ngũ cán bộ trình độ cao và tình trạng “chảy chất xám” đồng thời phải có chính sách đãi ngộ thỏa đáng theo cống hiến của đội ngũ GV đại học. Quản lí lao động của đội ngũ GV đại học bao gồm tổ chức giao nhiệm vụ, đảm bảo quá trình thực hiện nhiệm vụ và đánh giá kết quả thực hiện theo hướng dân chủ, khách quan, công bằng. Quản lí chất lượng lao động của đội ngũ GV đại học cần gắn liền với việc đẩy mạnh công tác đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực làm phương hại đến kết quả hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ GV, góp phần tạo lập môi trường dân chủ, công bằng, kỉ cương cho lao động sáng tạo của đội ngũ GV đại học. Thực chất kiểm định chất lượng lao động của đội ngũ GV đại học là đo lường mức độ đáp ứng mục tiêu giáo dục của GV và cán bộ quản lí. Do vậy, các biện pháp quan trọng hiện nay cần tập trung tiến hành là: - Bộ GD-ĐT cần ban hành chuẩn chất lượng lao động của đội ngũ GV đại học bổ sung và thực hiện nghiêm túc tiêu chí đánh giá ngoài thông qua tổ chức đánh giá độc lập, có tư cách pháp nhân và chuyên sâu về đo lường, đánh giá, kiểm định chất lượng lao động của đội ngũ GV đại học nhằm đảm bảo tính khách quan, trung thực, tin cậy. Tổ chức đó gồm các cơ quan doanh nghiệp, công ty sử dụng sản phẩm của GDĐH, các đơn vị đánh giá độc lập, những cơ sở đào tạo khác ở trong nước và quốc tế. Kết quả đánh giá cần thiết phải lượng hóa bằng con số hay thứ hạng để phản ánh một cách tường minh chất lượng lao động của đội ngũ GV đại học. - Các trường đại học có trách nhiệm xây dựng và thực hiện kế hoạch bảo đảm chất lượng; định kì đăng kí kiểm định; tự đánh giá, công khai các điều kiện bảo đảm chất lượng và kết quả kiểm định chất lượng. 3. Kết luận Chất lượng lao động của đội ngũ GV đại học là vấn đề có ý nghĩa quyết định đến sự tồn vong và phát triển của các trường đại học ở nước ta hiện nay. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ GV đại học được xác định là trách nhiệm lớn lao của toàn xã hội. Trong mức độ đầy đủ, chất lượng lao động của đội ngũ GV đại học chỉ được đảm bảo trên cơ sở định hướng từ những chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước, của Bộ GD-ĐT; từ cơ chế tổ chức, quản lí kết hợp với việc kiểm tra, giám sát chất lượng lao động đến hoạt động tự giác, trách nhiệm, sáng tạo của đội ngũ GV đại học. Vì vậy, cần thiết phải có những tác động đồng bộ, tổng hợp nhằm khuyến khích họ nhiệt tình, tâm huyết, phát triển tính sáng tạo trong lĩnh vực nghề nghiệp của mình để đào tạo, tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao góp phần đổi mới và phát triển đất nước. (Xem tiếp trang 8) VJE Tạp chí Giáo dục, Số 446 (Kì 2 - 1/2019), tr 1-8 8 độ đạt các mục tiêu phát triển ĐNHT trường THCS qua từng giai đoạn thực hiện chính sách; để qua đó sửa đổi chính sách cho phù hợp với chính sách chung của nhà nước và phù hợp với điều kiện phát triển KT-XH của TP. Hồ Chí Minh theo từng giai đoạn cụ thể. 2.7.3. Điều kiện thực hiện - Thành ủy, HĐND, UBND phải xem đây là một trong những giải pháp để nhằm nâng cao chất lượng giáo dục THCS trên địa bàn Thành phố một cách hiệu quả và toàn diện. - Sở GD-ĐT phải đề xuất chủ trương xây dựng và ban hành các chính sách riêng đối với HT trường THCS với Thành ủy, HĐND, UBND thành phố để các tổ chức và cơ quan này nhất trí ủng hộ, phê duyệt ban hành, dành kinh phí cho việc triển khai các chính sách của địa phương. - Sở GD-ĐT phải huy động được một đội ngũ chuyên gia về xây dựng chính sách giáo dục để nghiên cứu, soạn thảo các chính sách riêng và góp ý chỉnh sửa các chính sách trước khi trình lên các cấp có thẩm quyền phê duyệt và ra quyết định ban hành. 3. Kết luận Các giải pháp phát triển ĐNHT trường THCS TP. Hồ Chí Minh được đề xuất có quan hệ mật thiết với nhau và hỗ trợ cho nhau để đạt tới mục tiêu của từng giải pháp, đồng thời cùng góp phần nhằm đạt mục tiêu phát triển ĐNHT trường THCS của Thành phố. Mỗi giải pháp đều có ý nghĩa mang tính kế thừa, hệ thống, khoa học và mang tính định hướng hoặc tạo điều kiện, hoặc làm căn cứ để triển khai giải pháp còn lại. Cụ thể: Giải pháp 1 là phải thực hiện đầu tiên. Kết quả thực hiện giải pháp 1 là mục tiêu của phát triển ĐNHT trường THCS mà các giải pháp khác đều phải thực hiện để hỗ trợ và bổ sung nhằm đạt được mục tiêu đó; Giải pháp 2 mang tính tiền đề và là căn cứ để thực hiện các giải pháp giải pháp 4, 5 và 6; Giải pháp 3 mang tính tiền đề và mang tính quyết định để thực hiện các giải pháp còn lại, trong đó giải pháp 4 chịu ảnh hưởng nhiều nhất; Giải pháp 6 làm cơ sở để thực hiện giải pháp 4 và 5; Giải pháp 7 có tác động đến 6 giải pháp còn lại. Tài liệu tham khảo [1] Ban Chấp hành Trung ương (2013). Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. [2] Bộ GD-ĐT (2015). Chương trình giáo dục phổ thông - Chương trình tổng thể. [3] Quốc hội (2005). Luật Giáo dục. [4] Thủ tướng Chính phủ (2012). Quyết định số 711/QĐ-TTg ngày 13/6/2012 của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt “Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020”. [5] Nguyễn Huy Hoàng (2011). Phát triển đội ngũ hiệu trưởng trường trung học phổ thông các tỉnh vùng Tây Bắc theo hướng chuẩn hóa. Luận án tiến sĩ Quản lí giáo dục, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam. [6] Trần Hữu Hoan (2017). Phát triển năng lực quản lí cho Hiệu trưởng trường trung học phổ thông Việt Nam đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay. Đề tài Khoa học công nghệ cấp Bộ, Học viện Quản lí giáo dục, mã số: 82016-HVQ-02. [7] Bộ GD-ĐT (2018). Thông tư số 14/2018/TT-BGDĐ ngày 20/7/2018 của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT về Ban hành Quy định chuẩn hiệu trưởng cơ sở giáo dục phổ thông. MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO... (Tiếp theo trang 13) Tài liệu tham khảo [1] Nguyễn Kim Định (2010). Quản trị chất lượng. NXB Tài chính. [2] Nguyễn Tiệp (2005). Giáo trình Nguồn nhân lực. NXB Lao động - Xã hội. [3] Trần Xuân Cầu - Mai Quốc Chánh (2009). Giáo trình Kinh tế nguồn nhân lực. NXB Đại học Kinh tế quốc dân. [4] Vũ Bá Thể (2005). Phát huy nguồn lực con người để phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa - kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt Nam. NXB Lao động - Xã hội. [5] Phạm Ngọc Trung (2011). Chất lượng giáo dục trong các trường đại học ở nước ta hiện nay. Tạp chí Lí luận chính trị và Truyền thông, số 8, tr 38-42. [6] Trung tâm Thông tin khoa học (2004). Nhân lực Việt Nam trong chiến lược kinh tế 2001-2010. NXB Hà Nội. [7] Vụ Giáo dục Đại học - Bộ GD-ĐT (2017). Báo cáo tổng kết năm học 2016-2017 và triển khai nhiệm vụ năm học mới khối các trường đại học, cao đẳng. [8] Hoàng Chí Bảo (2008). Thái độ và trách nhiệm của đội ngũ trí thức Việt Nam trong sự nghiệp phát triển đất nước. Tạp chí Mặt trận, số 58 (tháng 8/2008), tr 30-36.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf02do_khanh_nam_1307_2130811.pdf
Tài liệu liên quan