Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Nội Tiết 7
MỐI LIÊN QUAN GIỮA KHOẢNG TRỐNG GLYCAT HÓA 
VÀ MỘT SỐ BIẾN CHỨNG MẠCH MÁU NHỎ 
TRÊN BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG 
Lê Quốc Tuấn*, Nguyễn Thị Lệ* 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Khảo sát mối liên quan giữa khoảng trống glycat hóa với vận tốc dẫn truyền thần kinh ngoại biên, 
mức độ đạm niệu, và độ lọc cầu thận trên bệnh nhân đái tháo đường tại Phòng khám Thận và Nội tiết – Bệnh viện 
Đại học Y Dược Tp.Hồ Chí Minh. 
Phương pháp: nghiên cứu cắt ngang phân tích. 
Kết quả: Qua khảo sát trên nhóm bệnh nhân đái tháo đường điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Đại học Y 
Dược Tp.HCM, chúng tôi nhận thấy có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa khoảng trống glycat hóa với sự 
gia tăng mức đạm niệu và suy giảm độ lọc cầu thận, cũng như vận tốc dẫn truyền thần kinh ngoại biên (P < 
0,05). 
Kết luận: Khoảng trống glycat hóa là một chỉ số có giá trị trong việc theo dõi biến chứng thận và thần kinh 
ngoại biên do đái tháo đường. 
Từ khóa: khoảng trống glycat hóa (GG), đái tháo đường (ĐTĐ), vi đạm niệu, độ lọc cầu thận. 
ABSTRACT 
THE CORRELATION BETWEEN GLYCATION GAP 
AND THE MICROVASCULAR COMPLICATIONS IN DIABETIC PATIENTS 
Le Quoc Tuan, Nguyen Thi Le 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 21 - No 2 - 2017: 7 - 12 
Objective: To investigate of the correlation between glycation gap and peripheral nerve conduction velocity, 
level of proteinuria, glomerular filtration rate (GFR) in diabetic outpatients at the Nephrology and Endocrinology 
department of HCMC University Medical Center. 
Method: analysis cross-sectional study. 
Results: The study found the significant strong correlation between glycation gap and level of proteinuria, 
glomerular filtration rate, peripheral nerve conduction velocity (P <0.05). 
Conclusion: The glycation gap is a valuable indicator to monitor diabetic nephropathy and neuropathy. 
Key words: glycation gap (GG), diabetes mellitus, microalbuminuria, glomerular filtration rate (GFR). 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Tại Việt Nam, theo điều tra quốc gia của Tạ 
Văn Bình thực hiện vào năm 2008 thì ĐTĐ chiếm 
khoảng 5.7% dân số, được xếp vào nhóm quốc 
gia có tốc độ phát triển bệnh nhanh trong khu 
vực(9). Theo đó, tỷ lệ các biến chứng mạn tính gây 
nên bởi ĐTĐ cũng tăng đáng kể, trong đó hai 
biến chứng thường gặp nhất là biến chứng thận 
và biến chứng thần kinh ngoại biên. Tỷ lệ mới 
mắc của suy thận mạn giai đoạn cuối do ĐTĐ đã 
tăng gấp đôi trong vòng một thập kỷ qua, chiếm 
45% các trường hợp cần phải điều trị thay thế 
thận tại Hoa Kỳ. Chính những điều này đã đặt ra 
* Bộ môn Sinh lý học, Đại Học Y Dược TP.HCM 
Tác giả liên lạc: ThS. Lê Quốc Tuấn, ĐT: 01696929792 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Nội Khoa 8
vấn đề cần thiết phải theo dõi chặt chẽ các biến 
chứng mạn tính ĐTĐ, đưa ra quyết định điều trị 
kịp thời, hiệu quả nhằm cải thiện chất lượng 
cuộc sống, kéo dài tuổi thọ cho người bệnh. 
Nhiều nghiên cứu đã cho thấy khoảng trống 
glycat hóa có sự tương quan chặt chẽ với sự xuất 
hiện của các biến chứng mạch máu nhỏ trên 
bệnh nhân ĐTĐ(1,3). Tuy nhiên, tại Việt Nam, 
chưa có nghiên cứu nào làm rõ vấn đề này một 
cách sâu sắc, vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên 
cứu nhằm khảo sát mối liên quan giữa khoảng 
trống glycat hóa với vận tốc dẫn truyền thần 
kinh ngoại biên, mức độ đạm niệu, và độ lọc cầu 
thận trên bệnh nhân ĐTĐ. 
Chìa khóa trong sự tiến triển của các biến 
chứng ĐTĐ chính là tình trạng tăng đường 
huyết mạn tính, tác động thông qua nhiều con 
đường trung gian khác nhau. Đầu tiên, nồng 
độ glucose cao có thể gây độc trực tiếp cho tế 
bào, thay đổi sự phát triển tế bào, sự biểu hiện 
của gen và protein, do đó làm tăng chất nền 
ngoại bào và tăng sản xuất yếu tố tăng trưởng. 
Bên cạnh đó, tăng đường huyết có thể gián 
tiếp gây nên những hậu quả bất lợi bằng cách 
tạo nên các sản phẩm chuyển hóa cuối cùng 
như các gốc oxy hóa và glycat hóa. 
Fructosamine thể hiện sự tạo thành các sản 
phẩm glycat hóa cuối cùng (AGEs) của các 
protein trong huyết tương, trong khi đó 
HbA1c thể hiện sự tạo thành các sản phẩm 
glycat hóa cuối cùng trong tế bào. Vì vậy giữa 
hai giá trị này luôn có sự chênh lệch. Biến 
chứng mạch máu nhỏ phụ thuộc nhiều hơn 
vào sự tạo thành các sản phẩm glycat hóa nội 
bào(4,5). Do đó, tốc độ tạo thành các sản phẩm 
glycat hóa nội bào rất quan trọng trong diễn 
tiến của bệnh đái tháo đường. Nếu số lượng 
sản phẩm glycat hóa nội bào tạo ra nhiều hơn, 
nhanh hơn so với sản phẩm glycat hóa ngoại 
bào thì các biến chứng mạch máu nhỏ càng 
diễn ra sớm hơn. Chính vì vậy, trên lý thuyết, 
tính toán được sự chênh lệch giữa hai thành 
phần glycat hóa nội bào và ngoại bào, hay 
chính là khoảng trống glycat hóa sẽ hứa hẹn 
mang đến cho các bác sĩ lâm sàng nhiều hữu 
ích trong vấn đề tiên lượng bệnh nhân 
 đái tháo đường(2). 
Khoảng trống glycat hóa (GG) được định 
nghĩa là hiệu số giữa HbA1c thực tế và HbA1c 
dự đoán. HbA1c dự đoán được tính dựa trên 
phương trình hồi quy tương quan với nồng độ 
fructosamine: HbA1c dự đoán = a x 
Fructosamine + b, GG = HbA1c thực tế - 
HbA1c dự đoán. 
Nghiên cứu của Emmanuel Cosson và cs 
về mối liên quan giữa khoảng trống GG và 
tình trạng tiểu đạm đại thể trên bệnh nhân đái 
tháo đường típ 2 đã ghi nhận(3): HbA1c dự 
đoán = 0.020 x Fructosamine + 2.05 (r = 0.731, p 
< 0.0001). Khoảng trống glycat hóa (GG) ít chịu 
ảnh hưởng bởi tuổi và chủng tộc, tuy nhiên 
chưa có công thức chung quy định cho các BN 
ĐTĐ trên toàn thế giới. Khoảng trống GG có 
mối liên quan chặt chẽ với các mức độ đạm 
niệu, bệnh lý võng mạc, bệnh thần kinh ngoại 
biên độc lập với HbA1c. Nghiên cứu của tác 
giả Robert M. Cohen trên 65 bệnh nhân ĐTĐ 
cho thấy khoảng trống GG có khoảng phân bố 
khá rộng (từ -3,2% đến 5,5%), và có mối liên 
quan chặt chẽ với biến chứng thận ĐTĐ. 
Khoảng trống GG tăng 1% sẽ kết hợp với tăng 
tần số bệnh thận ĐTĐ gấp 2,9 lần (P = 0,0014). 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Tất cả bệnh nhân được chẩn đoán đái tháo 
đường tại phòng khám Thận và Nội tiết – Bệnh 
viện Đại học Y Dược TP.HCM từ tháng 05/2014 
đến 09/2014. 
Tiêu chuẩn chọn vào 
Bệnh nhân được chẩn đoán ĐTĐ theo tiêu 
chí của Hiệp hội ĐTĐ Hoa Kỳ 2013: 
HbA1C ≥ 6,5 %. 
Đường huyết đói ≥ 126 mg/dL (7,8mmol/L). 
Đường huyết 2 giờ sau nghiệm pháp dung 
nạp glucose ≥ 200 mg/dL (11,1mmol/L). 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Nội Tiết 9
Đường huyết bất kỳ ≥ 200 mg/dL 
(11,1mmol/L) kết hợp với triệu chứng điển 
hình của tăng đường huyết (tiểu nhiều, khát 
nhiều, gầy nhiều). 
Trong trường hợp bệnh cảnh không cấp tính 
hoặc không có mất bù chuyển hóa, cần lặp lại các 
tiêu chí (1), (2), (3) vào một ngày khác để xác 
định chẩn đoán. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Đang có bệnh hemoglobin đã được chẩn 
đoán, thiếu máu (Hb < 11.8 g/dL). 
BN không đồng ý tham gia nghiên cứu. 
Thiết kế nghiên cứu 
Cắt ngang phân tích. 
Kỹ thuật chọn mẫu 
Liên tục không xác suất. 
Phương pháp thu thập số liệu 
Định lượng HbA1c theo phương pháp sắc ký 
lỏng cao áp HPLC bằng máy D10 của hãng 
BioRad; đo dẫn truyền thần kinh ngoại biên 
(gồm thời gian tiềm, biên độ điện thế, vận tốc 
dẫn truyền) ở các dây quay, giữa, trụ, chày, mác 
bằng máy đo điện cơ Neuro-MEP-Micro; đánh 
giá vi đạm niệu qua tỉ số ACR (albumin / 
creatinine) bằng máy Acon Mission U500; đánh 
giá độ lọc cầu thận dựa trên nồng độ creatinine 
huyết thanh theo 2 công thức MDRD 
(Modification of Diet in Renal Disease Study) và 
CKD-EPI (Chronic Kidney Disease 
Epidemiology Collaboration Study). 
Công thức MDRD 
eGFR (mL/ph/1,73m2 da) = 186 × (creatinine 
huyết thanh)-1.154 × (tuổi)-0.203. 
(Nhân với 0,742 nếu là nữ, nhân với 1,21 nếu là người da 
đen) 
Công thức CKD-EPI(3): 
eGFR = 141 x min(Cr/κ, 1)α x max (Cr/κ, 1)-1.209 x 
0,993Tuổi. 
(Trong đó, κ là 0,7 cho nữ và 0,9 cho nam, α là -0,329 cho 
nữ và -0,411cho nam, min là giá trị nhỏ hơn giữa Cr/κ và 
1, and max là giá trị lớn hơn giữa Cr/κ or 1. Nhân với 
0,018 nếu là nữ, nhân với 1,59 nếu là người da đen) 
Xử lý số liệu 
Phần mềm STATA 10.0. 
KẾT QUẢ - BÀN LUẬN 
Nghiên cứu của chúng tôi thực hiện tại 
phòng khám Thận – BV Đại học Y Dược 
TP.HCM từ tháng 05/2014 đến tháng 09/2014, số 
liệu ghi nhận trên 50 bệnh nhân được chẩn đoán 
và điều trị ĐTĐ. 
Khoảng trống glycat hóa trung bình trong 
nhóm nghiên cứu là 0,004 ± 0,714%, trong đó BN 
có khoảng trống glycat hóa thấp nhất là -1,8% và 
cao nhất là 1,4%. Phương trình hồi quy tuyến 
tính giữa HbA1c và fructosamin ở nhóm nghiên 
cứu: HbA1c (%) = 0,0083 x fructosamine 
(µmol/L) + 5,17 (r = 0,612; P < 0,0001). Kết quả của 
chúng tôi có hệ số tương quan Pearson (r) giữa 
HbA1c và fructosamine khá phù hợp với nghiên 
cứu của các tác giả Emmanuel Cosson (r= 0,731)(3) 
và Santiago Rodriguez-Segade (r = 755)(7). Tuy 
nhiên, phương trình hối quy tuyến tính giữa hai 
biến số này có sự khác biệt qua các nghiên cứu. 
Điều này có thể do số lượng BN tham gia vào các 
nghiên cứu khác nhau. Do giới hạn về thời gian 
và kính phí, chúng tôi dựa trên tiêu chí tính toán 
cỡ mẫu để lựa chọn 50 BN đồng ý tham gia, thấp 
hơn so với hai tác giả trên khá nhiều. Chính vì 
vậy, để xây dựng được một phương trình ước 
lượng HbA1c theo fructosamine chuẩn xác cho 
cộng đồng, chúng tôi đề nghị sẽ tiếp tục phát 
triển mở rộng vấn đề trên ở cả 2 nhóm bệnh 
nhân có và không có bệnh ĐTĐ trong các nghiên 
cứu tiếp theo. 
Chúng tôi ghi nhận khoảng trống GG và tỷ 
lệ GG/HbA1c khác biệt có ý nghĩa giữa 2 
nhóm có và không có tiểu đạm đại thể (P < 
0,0001), trong khi đường huyết đói và HbA1c 
lại không có sự khác biệt giữa 2 nhóm này. 
Nghiên cứu của tác giả Emmanuel Cosson 
cũng cho thấy kết quả tương tự về sự khác biệt 
khoảng trống GG giữa 2 nhóm BN có và 
không có tiểu đạm đại thể(3). 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Nội Khoa 10
Bảng 1. Liên quan giữa khoảng trống glycat hóa và các đặc điểm về biến chứng thận ĐTĐ ở nhóm nghiên cứu 
Đặc điểm 
Khoảng trống GG 
P 
< +1 ≥ +1 
Số ca 45 (90%) 5 (10%) 
Creatinine huyết thanh (mg/dl) 1,4 ± 1,0 4,4 ± 5,0 < 0,001 
GFR theo MDRD (mL/phút/1,73m
2
 da) 63,2 ± 32,5 27,0 ± 19,5 < 0,05 
GFR theo CKD-EPI (mL/phút/1,73m
2
 da) 61,2 ± 28,2 26,4 ± 20,0 < 0,05 
Tỷ số ACR albumin/creatinine (mg/g) 427,5 ± 881,8 3272,2 ± 1100,3 < 0,0001 
Tiểu đạm đại thể (ACR ≥ 300 mg/g) 10/45 (22,2%) 5/5 (100%) < 0,01 
Suy thận mạn (GFR < 60 mL/phút) 21/45 (46,7%) 5/5 (100%) < 0,05 
Trong nhiên cứu của chúng tôi, nhóm BN 
ĐTĐ không có tiểu đạm đại thể có khoảng trống 
GG trung bình là giá trị âm (-0,262 ± 0,577), còn 
nhóm BN ĐTĐ có tiểu đạm đại thể lại có khoảng 
trống GG trung bình là giá trị dương (0,627 ± 
0,617). Điều này chứng tỏ các protein nội bào bị 
glycat hóa rất rõ trên các BN ĐTĐ có mức đạm 
niệu cao, và ủng hộ cho lý thuyết màng lọc cầu 
thận bị phá hủy bởi các sản phẩm glycat hóa cuối 
cùng (AGEs). Khi khoảng trống GG càng dương 
cao thì sự tạo thành AGEs càng nhiều, lỗ lọc bị 
dãn rộng và mức đạm niệu trên BN càng lớn(7). 
Để có sự so sánh rõ ràng hơn về giá trị của 
khoảng trống GG so với đường huyết đói, 
fructosamine, và HbA1c, chúng tôi thực hiện 
phép toán tính hệ số tương quan giữa các chỉ số 
đánh giá tình trạng glycat hóa với mức đạm 
niệu. Do biến số mức độ đạm niệu (dựa theo tỷ 
số ACR) có phân phối không bình thường nên 
chúng tôi tính hệ số Spearman (R) để thể hiện mối 
tương quan. Kết quả ghi nhận khoảng trống GG 
và tỷ lệ GG/HbA1c có sự tương quan thuận với 
đạm niệu ở mức độ trung bình (R = 0,562 và 
0,558; P < 0,0001), so với đường huyết đói và 
HbA1c không thấy có sự tương quan này (R = 
0,03 và R = 236; P > 0,05). 
Dựa trên chỉ số creatinine huyết thanh của 
BN, chúng tôi tính được hệ số thanh lọc 
creatinine theo công thức Cockcroft Gault, ước 
đoán độ lọc cầu thận theo 2 công thức MDRD và 
CKD-EPI. Kết quả chúng tôi ghi nhận sự khác 
biệt có ý nghĩa giữa 2 nhóm GG +1 
về creatinine huyết thanh, hệ số thanh lọc 
creaatinine theo Cockcroft Gault, độ lọc cầu thận 
ước đoán theo cả MDRD và CKD-EPI. Tác giả 
Ananth U. Nayak cũng ghi nhận sự khác biệt về 
creatinine và độ lọc cầu thận ước đoán (eGFR) ở 
các nhóm GG khác nhau; cụ thể như sau: nhóm 
GG âm tính có eGFR = 80 ± 27 mL/phút, nhóm 
GG trung tính có eGFR = 76 ± 26 mL/phút, nhóm 
GG dương tính có eGFR = 79 ± 27 mL/phút. Tuy 
vậy, trong nghiên cứu của mình, Ananth U. 
Nayak vẫn chưa ghi nhận sự giảm độ lọc cầu 
thận đi song hành với mức tăng khoảng trống 
GG, vì các BN thuộc nhóm GG trung tính lại có 
eGFR trung bình thấp hơn các BN thuộc nhóm 
GG dương tính. Điều này có thể lý giải một phần 
là do sự ảnh hưởng của vấn đề đa chủng tộc 
trong nghiên cứu của tác giả Ananth U. Nayak 
và cộng sự (1). 
Do đa số BN trong nghiên cứu của chúng 
tôi đều có mức eGFR cao (> 60 ml/phút/1,73m2 
da), vì vậy chúng tôi quyết định chọn công 
thức CKD-EPI để tính độ lọc cầu thận ước 
đoán theo kết luận của tác giả Jorien Willems 
và phân loại giai đoạn bệnh thận mạn theo 
KDOQI 2002(8). Chúng tôi tiến hành khảo sát 
trên 2 nhóm BN có GG +1. Kết 
quả chúng tôi ghi nhận sự khác biệt có ý nghĩa 
giữa 2 nhóm: nhóm GG < +1 có eGFR trung 
bình là 61,2 ± 28,2 mL/phút/1,73m2 da và nhóm 
GG > +1 có eGFR trung bình là 26,4 ± 20,0 
mL/phút/1,73m2 da (P < 0,05). Như vậy, đa số 
BN thuộc nhóm GG < +1 đang mắc bệnh thận 
mạn ở giai đoạn 2, trong khi các BN thuộc 
nhóm GG > +1 thường bệnh thận mạn đã diễn 
tiến đến giai đoạn 4. Theo thống kê, tỷ lệ BN 
được chẩn đoán suy thận mạn (khi eGFR < 
60mL/phút/1,73m2 da) cũng khác biệt rất rõ 
giữa 2 nhóm BN có GG < +1 (46,7%) và nhóm 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Nội Tiết 11
có GG > +1 (100%). Như vậy, bệnh thận mạn 
tiến triển đến giai đoạn càng muộn (từ giai 
đoạn 1 đến giai đoạn 5), thì tỷ lệ bệnh nhân có 
khoảng trống GG dương tính (GG > +1) càng 
tăng so với nhóm có GG < +1. Chúng tôi ghi 
nhận các BN đang ở giai đoạn 1 của bệnh thận 
mạn có khoảng trống GG trung bình là giá trị 
âm -0,880 ± 0, 442, tăng dần đến các BN ở giai 
đoạn 5 là giá trị dương cao 0,744 ± 0,503. Điều 
này cho thấy khoảng trống GG có mối liên 
quan rất chặt chẽ với sự xuất hiện và tốc độ 
diễn tiến của bệnh thận ĐTĐ. 
Bảng 2. Hệ số tương quan giữa các chỉ số dẫn truyền 
thần kinh vận động ngoại biên với khoảng trống GG 
Dây thần kinh Chỉ số Bên R P 
TK giữa 
vận động 
Thời gian 
tiềm 
T 0,006 > 0,05 
P -0,206 > 0,05 
Biên độ 
T -0,083 > 0,05 
P -0,127 > 0,05 
Vận tốc 
T -0,345 < 0,05 
P -0,237 > 0,05 
TK trụ 
vận động 
Thời gian 
tiềm 
T 0,324 < 0,05 
P 0,215 > 0,05 
Biên độ 
T 0,08 > 0,05 
P 0,164 > 0,05 
Vận tốc 
T -0,349 < 0,05 
P -0,343 < 0,05 
TK chày 
Thời gian 
tiềm 
T 0,03 > 0,05 
P 0,265 > 0,05 
Biên độ 
T -0,173 > 0,05 
P -0,304 < 0,05 
Vận tốc 
T -0,411 < 0,01 
P -0,281 < 0,05 
TK mác sâu 
Thời gian 
tiềm 
T 0,383 < 0,01 
P 0,528 < 0,001 
Biên độ 
T -0,119 > 0,05 
P -0,327 < 0,05 
Vận tốc 
T -0,491 < 0,001 
P -0,400 <0,01 
Do các biến số thời gian tiềm, biên độ, và 
vận tốc dẫn truyền của các dây TK đều có 
phân phối bình thường nên chúng tôi tính hệ 
số Pearson (r) để thể hiện mối tương quan giữa 
các chỉ số dẫn truyền thần kinh ngoại biên với 
khoảng trống GG(6,10). 
Với nhóm các dây TK vận động, chúng tôi 
ghi nhận sự tương quan nghịch có ý nghĩa ở 
mức trung bình giữa khoảng trống GG với vận 
tốc dẫn truyền của đa số các dây TK vận động 
ngoại biên, trừ TK giữa-vận động bên phải. Sự 
tương quan thể hiện rõ nhất ở dây TK mác sâu 
trái (r = -0,491; P < 0,05) và phải (r = -0,400; P < 
0,05). Trong khi đó, sự tương quan có ý nghĩa 
giữa khoảng trống GG với thời gian tiềm và biên 
độ điện thế chỉ ghi nhận rải rác ngẫu nhiên ở 
một vài dây TK vận động. 
Bảng 3. Hệ số tương quan giữa các chỉ số dẫn truyền 
thần kinh cảm giác ngoại biên với khoảng trống GG 
Dây thần kinh Chỉ số Bên r P 
TK giữa 
cảm giác 
Thời gian 
tiềm 
T 0,094 > 0,05 
P -0,079 > 0,05 
Biên độ 
T -0,150 > 0,05 
P -0,014 > 0,05 
Vận tốc 
T -0,184 > 0,05 
P -0,034 > 0,05 
TK trụ 
cảm giác 
Thời gian 
tiềm 
T 0,262 > 0,05 
P 0,308 < 0,05 
Biên độ 
T -0,119 > 0,05 
P -0,168 < 0,05 
Vận tốc 
T -0,312 < 0,05 
P -0,345 < 0,05 
TK quay 
cảm giác 
Thời gian 
tiềm 
T 0,389 < 0,01 
P 0,386 < 0,01 
Biên độ 
T -0,082 > 0,05 
P -0,098 > 0,05 
Vận tốc 
T -0,329 < 0,05 
P -0,277 < 0,05 
TK mác nông 
Thời gian 
tiềm 
T 0,231 > 0,05 
P 0,411 < 0,01 
Biên độ 
T 0,044 > 0,05 
P -0,108 > 0,05 
Vận tốc 
T -0,227 > 0,05 
P -0,411 < 0,01 
Với nhóm các dây TK cảm giác, chúng tôi ghi 
nhận sự tương quan thuận có ý nghĩa giữa 
khoảng trống GG với thời gian tiềm và tương 
quan nghịch có ý nghĩa với vận tốc dẫn truyền ở 
hầu hết các các dây TK cảm giác ngoại biên. 
Chúng tôi không ghi nhận sự tương quan có ý 
nghĩa thống kê giữa khoảng trống GG với biên 
độ điện thế của các dây thần kinh cảm giác ngoại 
biên. Như vậy, khoảng trống GG càng tăng thì 
thời gian tiếm càng kéo dài và vận tốc dẫn 
truyền càng giảm. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Nội Khoa 12
Qua kết quả khảo sát các bất thường điện 
sinh ký về vận động và cảm giác ngoại biên, 
chúng tôi đều ghi nhận sự tương quan có ý 
nghĩa giữa vận tốc dẫn truyền và khoảng 
trống GG. So sánh giữa các dây cảm giác và 
vận động, chúng tôi nhận thấy khoảng trống 
GG có mối tương quan chặt hơn với vận tốc 
dẫn truyền vận động. 
Như vậy, khá nhiều những bằng chứng 
cho thấy có mối liên hệ chặt chẽ giữa khoảng 
trống glycat hóa (GG) với các biến chứng 
mạch máu nhỏ của ĐTĐ như biến chứng thận 
với biểu hiện là tình trạng tiểu đạm và suy 
giảm độ lọc cầu thận, biến chứng thần kinh 
với biểu hiện là tình trạng rối loạn các chỉ số 
dẫn truyền thần kinh ngoại biên ở các dây 
giữa, trụ, quay, chày, mác nông, mác sâu. 
KẾT LUẬN 
Qua khảo chỉ số HbA1c trên 50 bệnh nhân 
ĐTĐ điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Đại học Y 
Dƣợc Tp.HCM, chúng tôi rút ra những kết 
luận sau: 
1. Khoảng trống glycat hoá trung bình trong 
nhóm nghiên cứu là 0,004 ± 0,714%, dao động từ 
-1,8 đến 1,4%. Phương trình hồi quy tuyến tính 
giữa HbA1c và fructosamin ở nhóm nghiên cứu: 
HbA1c (%) = 0,0083 x fructosamine (µmol/L) + 
5,17 (r = 0,612; P < 0,0001). 
2. Ghi nhận mối liên quan có ý nghĩa giữa 
khoảng trống glycat hóa với mức độ tiểu đạm, 
sự suy giảm độ lọc cầu thận (eGFR tính theo 
công thức CKD-EPI), và vận tốc dẫn truyền thần 
kinh ngoại biên ở đa số các dây giữa, trụ, quay, 
chày, mác nông, mác sâu. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Ananth UN, Martin RH, David RM, Alan N, Baldev MS (2011). 
Evidence for Consistency of the Glycation Gap in Diabetes. 
Diabetes Care, 34, 1712-1716. 
2. Anath UN, Paul B, Baldev M.S (2013). Association of Glycation 
Gap With Mortality and Vascular Complications in Diabetes. 
Diabetes Care, 39, 1-7. 
3. Emmanuel C, Isabela B, Camille Cussac P, Qinda C, Sabrina C, 
Yaha J, Minh TN, Nathalie C, Paul V (2013). Glycation Gap Is 
Associated With Macroproteinuria but Not With Other 
Complications in Patients With Type 2 Diabetes. Diabetes Care, 
36, 2070-2076. 
4. Lê Quang Cường. (1997). Tốc độ dẫn truyền thần kinh ở người 
Việt Nam trưởng thành bị Đái tháo đường. Tạp chí Y học thực 
hành, 4, 9-11. 
5. Nguyễn Mai Hoà. (2008). Khảo sát điện cơ trên bệnh nhân Đái 
tháo đường mãn tính. Tạp chí Y học TPHCM, 12(1), 352-358. 
6. Partanen J, et al. (1995). Natural history of peripheral 
neuropathy in patients with non-insulin-dependent diabetes 
mellitus. New England Journal Medicine, 89-94. 
7. Santiago RS, Javier R, Jose MC, Felipe FC, Felix C (2011). 
Progression of Nephropathy in Type 2 Diabetes: The Glycation 
Gap Is a Significant Predictor after Adjustment for 
Glycohemoglobin (Hb A1c). Clinical Chemistry, 57(2), 264-271. 
8. Santiago RS, Javier R, Jose MG, Felipe FC (2012). Estimation of 
the Glycation Gap in Diabetic Patients With Stable Glycemic 
Control. Diabetes Care, 35, 2447-2450. 
9. Trần Văn Bình (2009), “Điều tra dịch tễ học bệnh Đái tháo 
đường và hội chứng chuyển hoá tại một số vùng sinh thái của 
Việt Nam”, Hà Nội: Báo cáo kết quả đề tài nghiên cứu cấp bộ 2009 
10. Valensi P, et al. (1997). Diabetic peripheral neuropathy: effects 
of age, duration of diabetes, glycemic control, and vascular 
factors. Journal of Diabetes Complications, 11, 27-34. 
Ngày nhận bài báo: 18/11/2016 
Ngày phản biện bài báo: 27/12/2016 
Ngày bài báo được đăng: 01/03/2017