Mối liên quan của các vấn đề học tập và hành vi hút thuốc, uống rượu bia ở học sinh Trung học Phổ thông tại Tây Ninh

Tài liệu Mối liên quan của các vấn đề học tập và hành vi hút thuốc, uống rượu bia ở học sinh Trung học Phổ thông tại Tây Ninh: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016 Nghiên cứu Y học Y tế Công cộng 155 MỐI LIÊN QUAN CỦA CÁC VẤN ĐỀ HỌC TẬP VÀ HÀNH VI HÚT THUỐC, UỐNG RƯỢU BIA Ở HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TẠI TÂY NINH Thái Thanh Trúc*, Trần Phước Đoàn** TÓM TẮT Đặt vấn đề và mục tiêu nghiên cứu: Hút thuốc, uống rượu bia ở vị thành niên ngày càng thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Nghiên cứu này được thực hiện tại tỉnh Tây Ninh nhằm xác định mối liên quan giữa các vấn đề học tập đến các hành vi nguy hại sức khỏe này. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện tại tỉnh Tây Ninh với phương pháp chọn mẫu nhiều bậc. Tất cả các trường trung học phổ thông đều được chọn vào nghiên cứu.Các lớp được chọn ngẫu nhiên từ danh sách lớp của từng khối tại mỗi trường. Trong 1882 bộ câu hỏi thu về có 1844 hợp lệ và được đưa vào phân tích.Các vấn đề học tập và hành vi nguy hại được đánh giá bằng các thang đo tự điền mà hầu hết đã được dùng và chu...

pdf8 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 275 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mối liên quan của các vấn đề học tập và hành vi hút thuốc, uống rượu bia ở học sinh Trung học Phổ thông tại Tây Ninh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016 Nghiên cứu Y học Y tế Công cộng 155 MỐI LIÊN QUAN CỦA CÁC VẤN ĐỀ HỌC TẬP VÀ HÀNH VI HÚT THUỐC, UỐNG RƯỢU BIA Ở HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TẠI TÂY NINH Thái Thanh Trúc*, Trần Phước Đoàn** TÓM TẮT Đặt vấn đề và mục tiêu nghiên cứu: Hút thuốc, uống rượu bia ở vị thành niên ngày càng thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Nghiên cứu này được thực hiện tại tỉnh Tây Ninh nhằm xác định mối liên quan giữa các vấn đề học tập đến các hành vi nguy hại sức khỏe này. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện tại tỉnh Tây Ninh với phương pháp chọn mẫu nhiều bậc. Tất cả các trường trung học phổ thông đều được chọn vào nghiên cứu.Các lớp được chọn ngẫu nhiên từ danh sách lớp của từng khối tại mỗi trường. Trong 1882 bộ câu hỏi thu về có 1844 hợp lệ và được đưa vào phân tích.Các vấn đề học tập và hành vi nguy hại được đánh giá bằng các thang đo tự điền mà hầu hết đã được dùng và chuẩn hóa tại Việt Nam. Kết quả: Mô hình đa biến cho thấy học sinh nam, có tranh cãi gay gắt với thầy cô hoặc bị phạt về thể chất có tỉ lệ hút thuốc lá và uống rượu bia cao hơn (p < 0,05). Học sinh học thêm nhiều thời gian hơn thì có tỉ lệ hành vi nguy hại thấp hơn. Trong khi hút thuốc lá bị ảnh hưởng bởi sự chán nản học tập thì tỉ lệ uống rượu bia khác nhau theo nơi cư ngụ, bị thầy cô la mắng, học thêm tại nhà với gia sư, cảm giác đối xử công bằng và áp lực học tập. Kết luận: Có sự giống nhau về tác động của các vấn đề liên quan học tập ảnh hưởng đến hút thuốc và uống rượu bia (nam, tranh cải với thầy cô, bị phạt về thể chất). Tuy nhiên, hút thuốc và uống rượu bia cũng bị ảnh hưởng bởi các yếu tố riêng biệt. Chương trình can thiệp cần đánh giá các yếu tố liên quan để chọn nhóm đối tượng đích. Từ khóa: stress do học tập, hút thuốc, uống rượu bia, học sinh, trung học phổ thông, Tây Ninh ABSTRACT THE ASSOCIATION BETWEEN EDUCATIONAL ISSUES AND SMOKING, ALCOHOL USE AMONG HIGH SCHOOL STUDENTS IN TAY NINH Thai Thanh Truc, Tran Phuoc Doan * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 20 - Supplement of No 1 - 2016: 155 - 162 Background and objectives: Smoking and alcohol use among adolescent received an increasing attention from researchers. This study was conducted in Tay Ninh province to investigate the association between educational issues and these health risk behaviours. Materials and methods: A cross-sectional study was conducted in Tay Ninh province using multi-stage cluster sampling technique. All high schools were selected. Classes were randomly selected from lists for each grade at each school. Among 1882 questionnaires returned, 1844 were eligible and were used in analysis. Educational issues and risky behaviours were evaluated by self-reported scales which have been used and standardized in Vietnam. Results: Results from multivariable model showed that males who had serious quarrel with teachers or was punished by teachers had higher prevalence of smoking and alcohol use (p < 0.05). Students spending more time *Khoa Y tế công cộng – ĐH Y Dược TP.HCM **Trung tâm kiểm dịch y tế quốc tế tại Tây Ninh Địa chỉ liên hệ : BS. Thái Thanh Trúc ĐT: 0908381266 Email: thaithanhtruc@gmail.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016 Chuyên Đề Khoa học Cơ bản – Y tế Công cộng 156 for extra studying after school had lower prevalence of risky behaviours. While smoking was affected by studying despondency, prevalence of alcohol use was different by residence location, been scolded by teachers, study with personal tutor at home, feeling this school treat students fairly and study pressure. Conclusion: There was similarity about educational issues affecting smoking and alcohol use (males, had quarrel with teachers, been punished by teacher). However, smoking and alcohol use were influenced by different factors. Intervention program should take into account associated factors to choose target population. Key words: educational stress, smoking, alcohol use, student, high school, Tay Ninh. ĐẶT VẤN ĐỀ Nhờ vào sự phát triển kinh tế xã hội, mặc dù các vấn đề về bệnh truyền nhiễm vẫn là một trong những khó khăn của Việt Nam nhưng trong những năm gần đây, các nhà nghiên cứu đã bắt đầu có sự quan tâm đặc biệt đến sức khỏe tâm thần, các vấn đề áp lực do học tập và hành vi nguy hại ở vị thành niên. Ví dụ vào năm 2007, Trần Bích Phương và cộng sự thực hiện một nghiên cứu tại Hà Nội trên 972 học sinh có độ tuổi từ 13 đến 16 nhằm tìm hiểu về các yếu tố ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần và hành vi nguy hại sức khỏe ở vị thành niên(8). Kết quả cho thấy tỉ lệ các hành vi nguy hại sức khỏe cũng tương đối cao bao gồm lái xe khi không đủ tuổi (8%), uống rượu bia (15%). Nghiên cứu cũng cho thấy sự gắn kết với nhà trường là một trong những yếu tố bảo vệ ngoài hai yếu tố là sự quan tâm của cha và sự quan tâm của mẹ. Trong khi đó bị bắt nạt bởi các bạn bè cùng trang lứa là một trong những yếu tố nguy cơ của các rối loạn tâm thần và hành vi nguy hại sức khỏe. Tại miền Nam, năm 2009, Huỳnh Hồ Ngọc Quỳnh và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu tương tự trên 401 sinh viên đại học năm đầu tại thành phố Hồ Chí Minh(3). Trong cùng thời điểm, Nguyễn Tấn Đạt và cộng sự tiến hành một nghiên cứu tương tự tại Cần Thơ trên 570 đối tượng(4). Những kiểm định thống kê một lần nữa khẳng định sự tác động của một số đặc điểm dân số xã hội, những trải nghiệm bất lợi thời thơ ấu, xung đột với gia đình, thầy cô giáo, bạn bè cùng trang lứa đến sức khỏe tâm thần và hành vi nguy hại sức khỏe ở nhóm đối tượng này. Để tìm hiểu sâu hơn về chủ đề này, năm 2010 tác giả Thái Thanh Trúc, Kim Xuân Loan và cộng sự đã kết hợp tiến hành một nghiên cứu qui mô hơn và tập trung chuyên biệt vào nhóm vị thành niên trong đó bao gồm 1226 học sinh từ lớp 8 đến lớp 12 tại 30 lớp học của 6 trường trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh(6). Kết quả cho thấy, học sinh tham gia trong nghiên cứu có nhiều gánh nặng trong học tập, không chỉ về điểm số, khối lượng bài vở mà còn là việc học thêm sau giờ học ở trường. Về sức khỏe tâm thần, tỉ lệ stress do học tập, trầm cảm, lo âu, buồn phiền về tâm lý lần lượt là 34,4%, 26,3%, 16,2% và 36,0%. Tỉ lệ hành vi nguy hại sức khỏe như hút thuốc, uống rượu bia là 4% và 31%. Kết quả này một lần nữa xác nhận những báo cáo từ các nghiên cứu trước nhưng đồng thời cũng vạch ra một hướng nghiên cứu khác liên quan đến học sinh khi cho thấy stress do học tập là một trong những vấn đề quan trọng nhất trong lứa tuổi vị thành niên. Ngoài ra, cho đến thời điểm năm 2011, tác giả Thái Thanh Trúc và cộng sự đã sử dụng cùng một công cụ, với cùng một thiết kế nghiên cứu để tiến hành nghiên cứu tại một tỉnh khác của miền Nam là Long An(6,7). Nghiên cứu được thực hiện trên 1108 học sinh từ lớp 8 đến lớp 12 tại 30 lớp của 6 trường trên địa bàn các huyện Bến Lức, Cần Đước và Đức Huệ. Kết quả cho thấy ngoài tỉ lệ stress do học tập cao 31,8%, 30,8% buồn phiền về tâm lý, thì tỉ lệ một số hành vi nguy hại cho sức khỏe cũng phổ biến như uống rượu bia (20,0%) hay lái xe không an toàn (6,2%). Nghiên cứu này được thực hiện tại tỉnh Tây Ninh năm 2014 nhằm góp bằng chứng về mối liên hệ giữa các vấn đề liên quan học tập và hành vi nguy hại sức khỏe ở vị thành niên trong bối cảnh mới; đó là một tỉnh biên giới giáp với quốc gia Campuchia với những đặc thù riêng. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016 Nghiên cứu Y học Y tế Công cộng 157 ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Một nghiên cứu cắt ngang được tiến hành ở học sinh trung học phổ thông tại Tây Ninh vào tháng 1/2014. Phương pháp chọn mẫu cụm nhiều bậc được dùng cho việc chọn mẫu. Đầu tiên, tại 9 huyện, thành phố của Tây Ninh, chọn ngẫu nhiên hai trường cấp 3 ở mỗi huyện từ danh sách các trường có được từ Sở giáo dục Tây Ninh. Các trường được chọn được thông báo về nghiên cứu bao gồm các thông tin về mục tiêu nghiên cứu, thời gian thu thập dữ liệu và số lớp cần cho nghiên cứu. Những trường này sau đó được mời tham gia nghiên cứu. Tại mỗi trường, một lớp của mỗi khối bao gồm khối 10, 11, 12 được chọn ngẫu nhiên, tổng cộng được 54 lớp trên toàn tỉnh Tây Ninh. Có 1882 học sinh tham gia bằng cách trả lời bộ câu hỏi tự điền. Ngoài các thông tin về đặc điểm dân số xã hội, bộ câu hỏi cũng bao gồm các vấn đề liên quan đến học tập, ví dụ trải nghiệm với thầy cô giáo và sự gắn kết với nhà trường cũng như mối quan hệ với bạn bè cùng trang lứa và hoạt động học tập.Điểm số đánh giá trải nghiệm với thầy cô giáo gồm 4 yếu tố trong đó có tranh cãi gay gắt với thầy cô hoặc nhân viên nhà trường, bị thầy cô la mắng, hăm dọa, bị thầy cô phạt về thể chất. Sự gắn kết với nhà trường được đo lường bằng thang đo School Connectedness gồm 5 câu. Mối quan hệ của học sinh với bạn bè cùng trang lứa bao gồm việc bị ức hiếp về thể chất hoặc tinh thần. Ngoài ra, thông tin về stress do học tập cũng được thu thập bằng thang đo Stress do học tập cho vị thành niên (ESSA) được phát triển bởi Sun (2011) gồm 16 câu hỏi sử dụng thang 5 điểm từ 1 (rất không đồng ý) đến 5 (rất đồng ý), điểm số cao hơn cho thấy nhiều stress hơn(5). Thang đo ESSA đánh giá 5 khía cạnh: áp lực học tập, lo lắng về điểm số, chán nản học tập, tự kỳ vọng cao và khối lượng học. Điểm càng cao càng thể hiện học sinh có nhiều đặc điểm stress do học tập hoặc mức độ stress do học tập cao hơn. Về hành vi hút thuốc lá và uống rượu bia, các câu hỏi đánh giá được chuyển thể từ bộ câu hỏi của Khảo sát hành vi nguy cơ thanh niên (YRBS) được phát triển bởi Trung tâm kiểm soát dịch bệnh ở Hoa Kỳ năm 1990(1). Dữ liệu sau khi được nhập và kiểm tra thì được phân tích bằng phần mềm Stata 13. Với phân tích đơn biến, các kiểm định Chi bình phương, Fisher hoặc t được dùng khi phù hợp. Các yếu tố có liên quan ở mức p = 0,20 trong phân tích đơn biến được sử dụng trong mô hình hồi qui logistic đa biến để xác định các yếu tố liên quan đến hút thuốc và uống rượu bia. Qui trình xây dựng mô hình đa biến được thực hiện theo các bước gợi ý bởi Hosmer, Lemeshow và Sturdivant(2). Sau khi kiểm tra mức dộ phù hợp mô hình thì kết quả được báo cáo dưới dạng tỉ số số chênh (OR # Odds Ratio) kèm theo khoảng tin cậy 95%. KẾT QUẢ Có 1882 học sinh trả lời và gửi lại bộ câu hỏi. Sau khi lọc lại các phiếu đủ điều kiện đưa vào phân tích (thiếu hơn 80% thông tin), còn 1844 bộ câu hỏi hợp lệ trong kết quả phân tích này. Bảng 1: Mối liên quan đơn biến giữa đặc điểm của đối tượng nghiên cứu và hút thuốc uống rượu bia ở học sinh trung học phổ thông Đặc điểm Chung N=1844 n (%) Hút thuốc (N=113, 6,1%) Uống rượu bia (N=686, 37,2%) Có n % p Có n % p Giới tính Nữ 996 (54,0) 11 (1,1) <0,001 302(30,3) <0,001 Nam 848 (46,0) 102 (12,0) 384(45,3) Nơi cư ngụ (n = 1818) Thị xã 189 (10,4) 15 (7,9) 0,169 65 (34,4) 0,015 Huyện 1348 (74,1) 85 (6,3) 530(39,3) Huyện biên giới 281 (15,5) 11 (3,9) 86 (30,6) Tình trạng hôn nhân của cha mẹ (n = 1835) Sống chung 1556 (84,8) 96 (6,2) 0,780 584(37,5) 0,444 Ly dị/Ly thân/Đã qua đời 279 (15,2) 16 (5,7) 98(35,1) Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016 Chuyên Đề Khoa học Cơ bản – Y tế Công cộng 158 Đặc điểm Chung N=1844 n (%) Hút thuốc (N=113, 6,1%) Uống rượu bia (N=686, 37,2%) Có n % p Có n % p Sống chung với Cha mẹ 1429 (77,5) 89 (6,2) 0,539 520(36,4) 0,301 Cha hoặc mẹ 198 (10,7) 8 (4,0) 73 (36,9) Người thân 114 (6,2) 8 (7,0) 47 (41,2) Khác 103 (5,6) 8 (7,8) 46 (44,7) Nghề nghiệp cha Nhân viên nhà nước 192 (10,4) 12 (6,3) 0,019¢ 71 (37,0) 0,004 Tự làm chủ 287 (15,6) 24 (8,4) 129 (44,9) Nông dân 902 (48,9) 41 (4,5) 310 (34,4) Nội trợ 15 (0,8) 2 (13,3) 9 (60,0) Thất nghiệp 26 (1,4) 4 (15,4) 14 (53,8) Khác 422 (22,9) 30 (7,1) 153 (36,3) Nghề nghiệp mẹ Nhân viên nhà nước 113 (6,1) 8 (7,1) 0,037¢ 43 (38,1) 0,009¢ Tự làm chủ 210 (11,4) 14 (6,7) 99 (47,1) Nông dân 524 (28,4) 27 (5,2) 168 (32,1) Nội trợ 717 (38,9) 41 (5,7) 271 (37,8) Thất nghiệp 7 (0,4) 3 (42,9) 3 (42,9) Khác 273 (14,8) 20 (7,3) 102 (37,4) Trình độ học vấn cha ≤ Cấp 1 384 (20,8) 17 (4,4) 0,335 124 (32,3) 0,151 Cấp 2-3 892 (48,4) 60 (6,7) 348 (39,0) > Cấp 3 167 (9,1) 13 (7,8) 62 (37,1) Không biết/Không trả lời 401 (21,7) 23 (5,7) 152 (37,9) Trình độ học vấn mẹ ≤ Cấp 1 461 (25) 23 (5,0) 0,159 158 (34,3) 0,447 Cấp 2-3 909 (49,3) 55 (6,1) 342 (37,6) > Cấp 3 112 (6,1) 12 (10,7) 45 (40,2) Không biết/Không trả lời 362 (19,6) 23 (6,4) 141 (39,0) Số anh chị em Không có 155 (8,4) 14 (9,0) 0,436 64 (41,3) 0,013 1 689(37,4) 38 (5,5) 235 (34,1) 2 620(33,6) 38 (6,1) 258 (41,6) ≥ 3 380(20,6) 23 (6,1) 129 (33,9) Thứ tự trong gia đình (n = 1706) Con cả/lớn 799(46,8) 47 (5,9) 0,869 291 (36,4) 0,141 Con thứ nhì 545(31,9) 31 (5,7) 196 (36,0) Con thứ ba 201(11,8) 12 (6,0) 88 (43,8) Con thứ tư hoặc hơn 161 (9,4) 12 (7,5) 53 (32,9) ¢Kiểm định chính xác Fisher Kết quả cho thấy nữ sinh chiếm nhiều hơn nam sinh (54% so với 46%).Về tình trạng hôn nhân của cha mẹ, 84,8% học sinh có cha mẹ đang sống chung với nhau.Đa số học sinh tham gia nghiên cứu đều sống chung với cha mẹ (77,5%). Về người cha, nghề nghiệp chiếm phần lớn là nông dân (48,9%) và gần ½ cha của học sinh có trình độ học vấn cấp 2 và cấp 3 (48,4%). Về người mẹ, nội trợ và nông dân là hai công việc chính chiếm đa số trong nghiên cứu này (38,9% và 28,4%), và trình độ học vấn cấp 2 và cấp 3 cũng chiếm gần ½ dân số nghiên cứu (49,3%). Tỉ lệ học sinh hút thuốc, uống rượu bia lần lượt là 6,1% (KTC 95% 5,0% – 7,2%) và 37,2% (KTC 95% 35,0% – 39,4%). Một số đặc điểm dân số học có liên quan đến hành vi hút thuốc lá trong 30 ngày qua, như: giới, nghề nghiệp cha, mẹ với p<0,05. Cụ thể, tỉ lệ nam sinh hút thuốc cao hơn nữ sinh, ngoài ra, học sinh có cha làm nội trợ hoặc mẹ bị thất nghiệp có tỉ lệ hút thuốc cao hơn các học sinh còn lại. Giới tính, nơi cư ngụ, nghề nghiệp cha, nghề nghiệp mẹ, số anh chị em trong gia đình có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với hành vi uống rượu bia (p<0,05). Giống như mối liên quan với hút thuốc, nam sinh cũng uống rượu bia cao hơn nữ sinh. Nhóm học sinh mà cha là nội trợ hoặc mẹ bị thất nghiệp có tỉ lệ uống rượu cao hơn các học sinh có cha mẹ làm nghề khác. Bảng 2: Mối liên quan đơn biến giữa các vấn đề học tập và hút thuốc uống rượu bia ở học sinh trung học phổ thông Đặc điểm Chung N=1844 n % Hút thuốc (N=113, 6,1%) Uống rượu bia (N=686, 37,2%) Có n (%) p Có n (%) p Mối quan hệ bạn bè đồng trang lứa Bị bạn bè bắt nạt về tinh thần Có 594 (32,2) 42 (7,1) 0,245 238(40,1) 0,079 Không 1250 (67,8) 71 (5,7) 448(35,8) Bị bạn bè bắt nạt về thể chất Có 190 (10,3) 10 (5,3) 0,600 76 (40,0) 0,399 Không 1654 (89,7) 103 (6,2) 610(36,9) Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016 Nghiên cứu Y học Y tế Công cộng 159 Đặc điểm Chung N=1844 n % Hút thuốc (N=113, 6,1%) Uống rượu bia (N=686, 37,2%) Có n (%) p Có n (%) p Mối quan hệ với thầy, cô và nhân viên nhà trường Tranh cãi gay gắt với thầy cô hoặc nhân viên nhà trường Có 226 (12,3) 32 (14,2) <0,001 133 (58,8) <0,001 Không 1618 (87,7) 81 (5,0) 553 (34,2) Bị thầy cô hoặc nhân viên nhà trường la mắng, hăm dọa hay sỉ nhục Có 407 (22,1) 44 (10,8) <0,001 204 (50,1) <0,001 Không 1437 (77,9) 69 (4,8) 482 (33,5) Bị thầy cô hoặc nhân viên nhà trường phạt về thể chất Có 489 (26,5) 58 (11,9) <0,001 234 (47,9) <0,001 Không 1355 (73,5) 55 (4,1) 452 (33,4) Hoạt động và kết quả học tập Kết quả học tập <Trung bình 496 (26,9) 49 (9,9) 0,001¢ 207 (41,7) 0,004 Trung bình 924 (50,1) 49 (5,3) 351 (38,0) Khá 376 (20,4) 14 (3,7) 113 (30,1) Giỏi/Xuất sắc 48 (2,6) 1 (2,1) 15 (31,3) Thời gian học thêm sau giờ ở trường <1 giờ 295 (16,0) 41 (13,9) <0,001 147 (49,8) <0,001 1-2 giờ 662 (35,9) 39 (5,9) 258 (39,0) 2-3 giờ 506 (27,4) 23 (4,5) 168 (33,2) >3 giờ 381 (20,7) 10 (2,6) 113 (29,7) Học thêm tại nhà với gia sư Có 673 (36,5) 46 (6,8) 0,337 293 (43,5) <0,001 Không 1171 (63,5) 67 (5,7) 393 (33,6) Có 1238 (67,1) 67 (5,4) 0,067 481 (38,9) 0,036 Không 606 (32,9) 46 (7,6) 205 (33,8) Cảm nhận về sự gắn kết với trường lớp Cảm thấy an toàn ở trường Có 1142 (61,9) 61 (5,3) 0,072 386 (33,8) <0,001 Không 702 (38,1) 52 (7,4) 300 (42,7) Có 939 (50,9) 49 (5,2) 0,097 294 (31,3) <0,001 Không 905 (49,1) 64 (7,1) 392 (43,3) Cảm thấy vui khi học tại trường Có 1456 (79,0) 82 (5,6) 0,085 531 (36,5) 0,208 Không 388 (21,0) 31 (8,0) 155 (39,9) Cảm thấy thích là học sinh của trường Có 1330 (72,1) 73 (5,5) 0,066 470 (35,3) 0,008 Không 514 (27,9) 40 (7,8) 216 (42,0) Có 1118 (60,6) 67 (6,0) 0,764 408 (36,5) 0,435 Không 726 (39,4) 46 (6,3) 278 (38,3) Điểm số thể hiện stress do học tập Áp lực học tập¥ 12,2 (3,4) 12,6(3,1) 0,202 12,7 (3,2) <0,001 Lo lắng về điểm số¥ 11,6 (2,5) 11,5(2,5) 0,377 11,7 (2,4) 0,614 Chán nản học tập¥ 9,9 (2,6) 10,5(2,7) 0,016 10,2 (2,5) <0,001 Tự kỳ vọng cao¥ 10,2 (2,6) 10 (2,7) 0,563 10,4 (2,5) 0,001 Khối lượng học quá nhiều¥ 10 (2,7) 9,8 (2,7) 0,558 10,2 (2,7) 0,001 ¥Trung bình và độ lệch chuẩn; ¢Kiểm định chính xác Fisher Về mối quan hệ với bạn bè đồng trang lứa, có đến 32,2% học sinh bị bạn bè bắt nạt về tinh thần trong khi chỉ có10,3% học sinh bị bạn bè bắt nạt về thể chất. Không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa mối quan hệ bạn bè đồng trang lứa với hành vi hút thuốc và uống rượu. Về mối liên hệ với thầy cô, nhân viên nhà trường, 22,1% học sinh bị hăm dọa hay sỉ nhục về tinh thần, ngoài ra họ còn bị phạt về thể chất (26,5%). Cả hai hành vi hút thuốc và uống rượu bia đều có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với mối quan hệ với thầy, cô và nhân viên nhà trường (p<0,05). Khi học sinh có tranh cãi hoặc bị thầy cô la mắng hoặc bị phạt về thể chất đều có tỉ lệ hút thuốc và uống rượu cao hơn các học sinh khác. Về hoạt động và kết quả học tập, 50,1% học sinh có học lực trung bình. Học sinh có học lực càng cao, học càng giỏi thì ít có tỉ lệ uống rượu bia và hút thuốc các học sinh có học lực kém. Học sinh học thêm sau giờ ở trường 1-2 giờ chiếm tỉ lệ cao (35,9%). Một tỉ lệ khá lớn học sinh có gia sư dạy kèm riêng (36,5%). Tỉ lệ học sinh phải đi học thêm vào dịp cuối tuần hoặc trong các kì nghỉ chiếm tỉ lệ khá cao (67,1%). Hầu hết các yếu tố này đều có liên quan đến hút thuốc và uống rượu bia (p<0,05). Về mức độ gắn kết với trường lớp, phần lớn học sinh đều cảm thấy an toàn ở trường (51,9%) và thấy vui khi học tại trường (79%). Họ cảm thấy giáo viên đối xử công bằng với học sinh (50,9%) và cảm thấy gần gũi với mọi người trong trường (60,6%). Các cảm nhận về gắn kết với trường lớp không có liên quan đến hành vi hút thuốc nhưng có liên quan đến uống rượu bia trong đó học sinh không cảm thấy an toàn khi ở trường học sinh không cảm thấy giáo viên đối xử công bằng và học sinh không thấy thích là học sinh của trường thì có tỉ lệ uống rượu bia cao hơn (p<0,05). Kết quả từ phân tích đa biến cho thấy học sinh nam có tỉ lệ hút thuốc lá cao gấp 10,08 lần so với nữ học sinh (KTC 95% 5,31–19,10), và có hành vi uống rượu bia cao gấp 1,78 lần so với nữ học sinh (KTC 95% 1,44 – 2,19). Mối quan hệ với thầy cô/nhân viên nhà trường ảnh hưởng tiêu cực đến hành vi hút thuốc lá của học sinh (p<0,05). Nhóm học sinh hay tranh cãi gay gắt với thầy cô có tỉ lệ hút thuốc cao gấp 1,91 lần, và Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016 Chuyên Đề Khoa học Cơ bản – Y tế Công cộng 160 gấp 1,87 lần so với đối tượng khác. Nhóm học sinh bị thầy cô la mắng, ham dọa hoặc sỉ nhục có tỉ lệ uống rượu bia nhiều gấp 1,40 lần so với đối tượng không bị. Ngoài ra, nếu học sinh bị thầy cô/nhân viên nhà trường phạt về thể chất cótỉ lệ hút thuốc lá cao gấp 2,13 lần, và uống rượu bia cao gấp 1,36 lần so với đối tượng không bị. Bảng 3: Mối liên quan đa biến giữa vấn đề học tập và hút thuốc, uống rượu bia ở học sinh trung học phổ thông Đặc điểm Hút thuốc Uống rượu bia OR (KTC 95%) p OR (KTC 95%) p Đặc điểm dân số xã hội Giới (Nam) 10,08 (5,31–19,10) <0,001 1,78 (1,44–2,19) <0,001 Nơi cư ngụ Thị xã 1,11 (0,73–1,68) 0,626 Huyện 1,47 (1,10–1,97) 0,009 Huyện biên giới 1 Mối quan hệ bạn bè đồng trang lứa - - - - Tranh cãi gay gắt với thầy cô hoặc nhân viên nhà trường 1,91 (1,19 – 3,06) 0,007 1,87 (1,37–2,55) <0,001 Bị thầy cô hoặc nhân viên nhà trường la mắng, hăm dọa hay sỉ nhục 1,40 (1,09–1,80) 0,009 Bị thầy cô hoặc nhân viên nhà trường phạt về thể chất 2,13 (1,42 – 3,21) <0,001 1,36 (1,07–1,72) 0,011 Hoạt động và kết quả học tập Thời gian học thêm sau giờ ở trường <1 giờ 1 1 1-2 giờ 0,49 (0,30 – 0,80) 0,004 0,69 (0,51–0,92) 0,012 2-3 giờ 0,48 (0,27 – 0,85) 0,012 0,59 (0,43-0,81) 0,001 >3 giờ 0,30 (0,15 – 0,64) 0,002 0,50 (0,35–0,70) <0,001 Học thêm tại nhà với gia sư 1,62 (1,31–1,99) <0,001 Cảm thấy giáo viên đối xử công bằng với học sinh 1,43 (1,15–1,77) 0,001 Áp lực học tập 1,05 (1,02–1,09) 0,001 Chán nản học tập 1,09 (1,01 – 1,19) 0,034 Kết quả bảng 3 cũng cho thấy, áp lực học tập có ảnh hưởng không tốt đến hành vi uống rượu bia, cụ thể nếu học sinh có điểm số ESSA thể hiện áp lực học tập cao hơn một điểm thì có hành vi uống rượu bia cao gấp 1,05 lần so với học sinh không bị áp lực do học tập mang lại. Và nếu học sinh chán nản trong học tập sẽ hút thuốc cao hơn gấp 1,09 lần so với học sinh khác. BÀN LUẬN Đây là nghiên cứu đầu tiên được thực hiện trên số lượng lớn học sinh tại tất cả các huyện, thành phố tại Tây Ninh. Kết quả cho thấy khác biệt giới tính ảnh hưởng đến hành vi hút thuốc và uống rượu bia, cụ thể học sinh nam có tỉ lệ hút thuốc và uống rượu bia nhiều hơn nữ. Trong đó, tỉ lệ nam sinh hút thuốc cao gấp 10,08 lần, và uống rượu bia cao gấp 1,78 lần so với nữ. Kết quả này trùng hợp với kết quả nghiên cứu khác trước đây(4,6,7) và cũng một lần nữa khẳng định vai trò quan trọng của yếu tố giới tính đến việc giảm tỉ lệ các hành vi không tốt này. Về trải nghiệm bạn bè cùng trang lứa, kết quả cho thấy tỉ lệ cao khi học sinh cho biết thỉnh thoảng hoặc thường xuyên bị bạn bè bắt nạt về tinh thần (32,2%) và về thể chất (10,3%). Các con số này cao hơn so với nghiên cứu tại TP.HCM (25,3% và 9,6%)(6) và nghiên cứu tại Long An (25,6% và 9,5%)(7). Ngoài ra, tỉ lệ có xung đột với thầy cô giáo hoặc nhân viên nhà trường cũng cao và dao động từ 12,3% (tranh cãi gay gắt với thầy cô hoặc nhân viên nhà trường) đến 26,5% (bị thầy cô hoặc nhân viên nhà trường phạt về thể chất). Kết quả cũng cho thấy có 22,1% bị thầy cô hoặc nhân viên nhà trường la mắng, hăm dọa. Các tỉ lệ này trong nghiên cứu TP.HCM lần lượt là 15,2%, 22,3% và 29,6%(6) trong khi tại Long An các tỉ lệ lần lượt là 9,8%, 14,2% và 19,3%(7). Như vậy, những xung đột với thầy cô giáo trong nghiên cứu này cao hơn Long An nhưng thấp hơn TP.HCM. Một trong những khả năng để giải thích cho sự khác biệt này là môi trường học tập và cách tương tác giữa học viên và giáo viên tại TP.HCM, một trong những trung tâm kinh tế tài chính của Việt Nam, có tính cởi mở hơn qua tỉ lệ tranh cãi gay gắt cao hơn. Mặc dù vậy, việc phạt về thể chất với mục đích giáo dục, rèn luyện học sinh tốt hơn, nhưng với tỉ lệ cao học sinh bị phạt Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016 Nghiên cứu Y học Y tế Công cộng 161 về thể chất hoặc hăm dọa, la mắng ở cả 3 nghiên cứu cũng khó được chấp nhận trong giáo dục hiện đại. Mối quan hệ giữa thầy, cô và nhân viên nhà trường ảnh hưởng đến hành vi hút thuốc lá và uống rượu bia. Mối quan hệ giữa thầy, cô và nhân viên nhà trường được đánh giá qua các yếu tố như tranh cãi gay gắt với thầy, cô, hoặc bị thầy, cô la mắng, phạt về thể chất đều là các yếu tố nguy cơ dẫn đến các hành vi không tốt. Từ xưa đến nay, tại Việt Nam, nét đẹp văn hóa “tôn sư trọng đạo” luôn được giữ gìn, cho thấy mối quan hệ tình cảm giữa thầy và trò. Trong đó, học trò luôn làm theo hướng dẫn của thầy cô, chỉ có thầy đặt câu hỏi, trò không bao giờ được cãi lại. Tuy nhiên, ở thời đại ngày nay, có một số thay đổi lớn trong mối quan hệ này, đó là khuyến khích học sinh phát biểu, tăng khả năng sáng tạo, khám phá ở trường. Nhưng điều này lại có thể dẫn đến tình trạng tiêu cực như nói năng ngang ngược, cãi lại thầy cô. Điều này trong nghiên cứu cũng đã khẳng định mối quan hệ thầy trò hiện tại có sự thay đổi rất lớn và có ảnh hưởng không tốt đến lối sống của học sinh, đặc biệt ở độ tuổi vị thành niên đang trong giai đoạn muốn chứng tỏ bản thân. Nếu học sinh cảm thấy mình được đối xử công bằng, gần gũi với thầy cô khi ở trường, không bị phạt về thể chất, không bị la mắng thì các em sẽ có các hành vi tích cực hơn. Điều này cho thấy, ngành y tế và ngành giáo dục cần phải có cách tiếp cận đúng đắn hơn, giao thoa giữa giáo dục truyền thống “tôn sư trọng đạo” và giáo dục hiện đại kích thích sự sáng tạo và tôn trọng học sinh hơn. Các nghiên cứu đã thực hiện trước đây thường đánh giá stress do học tập một cách tổng quát và ảnh hưởng của nó đến sức khỏe tâm thần và hành vi nguy hại sức khỏe(5,6). Nghiên cứu này đánh giá năm khía cạnh cụ thể hơn gồm áp lực học tập, lo lắng về điểm số, chán nản học tập, tự kỳ vọng cao và khối lượng học tập. Kết quả cho thấy học sinh có cảm nhận về áp lực học tập càng nhiều thì càng có khả năng có hành vi uống rượu bia nhiều hơn. Trong khi đó, học sinh có cảm nhận chán nản học tập càng nhiều thì càng có hành vi hút thuốc nhiều hơn. Mặc dù điểm thang đo ESSA đánh giá khối lượng học tập không ảnh hưởng đến hành vi nguy hại sức khỏe, nhưng kết quả qua đánh giá khác cho thấy học sinh học thêm tại nhà với gia sư sau giờ học ở trường có tỉ lệ uống rượu bia cao hơn (OR = 1,62, KTC 95% 1,31 – 1,99). Tuy nhiên, điểm phát hiện khá đặc biệt trong nghiên cứu này là học sinh mất càng nhiều thời gian học thêm trong ngày thì càng ít có hành vi nguy hại sức khỏe. KẾT LUẬN & KIẾN NGHỊ Có mối liên quan giữa các yếu tố dân số, yếu tố gia đình, yếu tố gắn kết với nhà trường, thầy cô và nhân viên trong trường, đặc biệt là stress do học tập với các hành vi hút thuốc và uống rượu bia tại tỉnh Tây Ninh. Có sự giống nhau về tác động của các vấn đề liên quan học tập ảnh hưởng đến cả hai hành vihút thuốc và uống rượu bia (nam, tranh cải với thầy cô, bị phạt về thể chất). Tuy nhiên, hút thuốc và uống rượu bia cũng bị ảnh hưởng bởi các yếu tố riêng biệt.Chương trình can thiệp cần đánh giá các yếu tố liên quan để chọn nhóm đối tượng đích. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Brener ND, et al (1995). Reliability of the Youth Risk Behavior Survey Questionnaire.Am J Epidemiol. 141(6): p. 575-80. 2. Hosmer DW, Lemeshow S, and Sturdivant RX (2013). Applied logistic regression. Third edition / ed. Wiley series in probability and statistics. Hoboken, New Jersey: Wiley. xvi, 500 pages. 3. Huynh Ho Ngoc Quynh (2009). Exploring the mental health of public health and nursing students in Ho Chi Minh City, Vietnam. Master Thesis, Queensland University of Technology, Australia. 4. Nguyen Tan Dat (2009). Child maltreatment and mental health among first year students in Cantho university of medicine and pharmacy, Vietnam. 2009, Master Thesis, Queensland University of Technology, Australia. 5. Sun Jiandong, et al (2011). Educational Stress Scale for Adolescents: Development, Validity, and Reliability With Chinese Students.Journal of Psychoeducational Assessment. 29(6): p. 534-546. 6. Thai Thanh Truc (2010). Educational stress and mental health among secondary and high school students in Ho Chi Minh city, Vietnam.Master Thesis, Queensland University of Technology, Australia. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016 Chuyên Đề Khoa học Cơ bản – Y tế Công cộng 162 7. Thái Thanh Trúc và Bùi Thị Hy Hân (2012). Những trải nghiệm bất lợi thời thơ ấu và sức khỏe tâm thần ở học sinh trung học cơ sở và phổ thông trung học tại Long An.Tạp chí y học Tp.Hồ Chí Minh. 16: p. 35-41. 8. Tran Bich Phuong (2007). Improving knowledge of factors that influence the mental health of school children in Viet Nam. Master Thesis, Queensland University of Technology, Australia. Ngày nhận bài báo: 20/11/2015 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 25/11/2015 Ngày bài báo được đăng: 15/02/2016

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf155_2523_2175456.pdf
Tài liệu liên quan