Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Dược 655
MÔ PHỎNG MÔ HÌNH GÂY KHỐI U BẰNG 
7,12-DIMETHYLBENZ[A]ANTHRACEN TRÊN CHUỘT NHẮT 
Nguyễn Thị Kim Oanh*, Đỗ Thị Hồng Tươi* 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Các mô hình gây khối u trên chuột nhắt cần thiết cho thử nghiệm tiền lâm sàng trong nghiên cứu 
thuốc điều trị ung thư. Đề tài được tiến hành với mục tiêu xây dựng mô hình gây khối u trên chuột nhắt bằng 
7,12-dimethylbenz[a]anthracen (DMBA) và đánh giá đáp ứng của mô hình với thuốc paclitaxel (PTX). 
Phương pháp nghiên cứu: Chuột nhắt cái Swiss albino được cho uống DMBA pha trong dầu bắp liều 50 
mg/kg, 1 lần/tuần × 5 tuần liên tiếp. Lô sinh lý được cho uống dầu bắp. Vào tuần 20, chuột uống DMBA được 
tiêm tĩnh mạch NaCl 0,9% ở lô gây khối u hoặc PTX liều 10 mg/kg ở lô điều trị; 1 lần mỗi 3 ngày × 5 lần. Vào 
tuần 24, tiến hành mổ chuột, quan sát đại thể, khảo sát tình trạng tạo khối u trên các cơ quan, nhuộm HE để phân 
tích vi thể các khối u. 
Kết quả: Sau 20 tuần, tỷ lệ tử vong ở lô uống DMBA là 33,3%. Trọng lượng chuột uống DMBA tăng thấp 
hơn có ý nghĩa thống kê so với lô sinh lý. Các khối u trên da bắt đầu xuất hiện vào tuần thứ 12. Về hiệu suất tạo 
khối u, 100% chuột uống DMBA lên u. Trong đó, 65% chuột lên u da, u vú; 75% chuột lên u phổi và 100% 
chuột lên u dạ dày. Về hiệu suất tạo carcinom, 25% chuột có carcinoma tế bào gai (ung thư da) và 50% chuột 
carcinoma tuyến biệt hóa vừa (ung thư phổi). Mô hình đáp ứng với điều trị bằng PTX tiêm tĩnh mạch 1 lần mỗi 3 
ngày × 5 lần: PTX hạn chế sự tăng kích thước các khối u ngoài da; giảm hình thành khối u phổi, giảm tổng kích 
thước các khối u phổi và thay đổi cấu trúc vi thể các khối u da và u phổi theo hướng làm các tế bào xung quanh bị 
hoại tử. 
Kết luận: Mô hình gây khối u trên chuột nhắt bằng cách cho uống DMBA liều 50 mg/kg/tuần × 5 
tuần liên tiếp có hiệu quả tạo khối u là 100% gồm u da, phổi, dạ dày và buồng trứng. Mô hình gây 
được carcinoma tế bào gai và carcinoma phổi tuyến biệt hóa vừa đáp ứng với thuốc hóa trị paclitaxel 
tiêm tĩnh mạch 1 lần mỗi 3 ngày × 5 lần. 
Từ khóa: 7,12-dimethybenz[a]anthracen, paclitaxel, khối u, chuột Swiss albino 
ABSTRACT 
ESTABLISH A MOUSE MODEL OF TUMOR 
BY 7,12-DIMETHYLBENZ[A]ANTHRACENE (DMBA) 
Nguyen Thi Kim Oanh, Do Thi Hong Tuoi 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 2- 2019: 655 – 661 
Objectives: Precinical mouse tumor models are indispensable for research of anti-cancer drugs. The aim of 
this work was to establish a mouse model of 7,12-dimethyl-benz[a]anthracene (DMBA) induced tumor and to 
evaluate its response to paclitaxel. 
Methods: Female Swiss albino mice were received intragastrically DMBA in corn oil (50 mg/kg body 
weight, once per week in 5 continuous weeks). Physiological control group was received corn oil only. After 20 
weeks, DMBA-induced cancer mice were received intravenously NaCl 0.9% (10 ml/kg) in pathological group or 
five dose of 10 mg/kg paclitaxel in treatment group, once every three days. After 24 weeks, all animals were 
*Khoa Dược, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: PGS. TS. Đỗ Thị Hồng Tươi ĐT: 0908683080 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Dược 656
sacrificed, observed macroscolic changes and monitored for tumor incidence, tumor growth. Tumors were 
characterized by HE staining for histopathological analysis. 
Results: After 20 weeks, the mortality in mice group received DMBA was 33.3%. Body weight of mice 
treated with DMBA was increased; but it was significant lower than those of physiological control group. Skin 
tumors appeared since the week 12. After 24 weeks, all DMBA treated mice (100%) were observed to bear at least 
one tumor including 65% mice bearing skin tumors, 75% mice bearing lung tumors and 100% mice bearing 
gastric tumors. Histological analysis revealed that 25% DMBA treated mice had squamous cell carcinomas (skin 
cancer) and 50% mice had adenocarcinoma (lung cancer). The DMBA-induced cancer model in mice responded to 
paclitaxel treatment at the dose of 10 mg/kg, once every 3 days x 5 times. This antineoplastic agent limited the 
growth of skin tumors, reduced the number and the total volume of lung tumors. Paclitaxel changed the 
microscopic structure of skin and lung tumors by causing the necrosis of surrounding cancer cells. 
Conclusion: Mouse tumor model established by providing orally 50 mg/kg of DMBA in corn oil, once a 
week for 5 continuous weeks induced skin, lung, and gastric tumors in 100% animals. Some tumors were 
squamous cell carcinomas or adenocarcinoma. This model responded to paclitaxel treatment. 
Key words: 7,12-dimethylbenz[a]anthracen, paclitaxel, tumor, Swiss albino mice 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Ung thư là một trong những nguyên 
nhân hàng đầu gây tử vong trên toàn thế 
giới, với khoảng 14 triệu trường hợp mới mắc 
và 8,2 triệu ca tử vong liên quan đến ung thư 
trong năm 2012(15). Tình hình ung thư tại Việt 
Nam tương tự như các nước đang phát triển 
khác với tỷ lệ mắc cao nhất là ung thư phổi, 
vú, dạ dày, cổ tử cung, gan, trực tràng(14). Do 
đó, nghiên cứu về thuốc điều trị ung thư 
luôn được chú trọng trên toàn thế giới nói 
chung và Việt Nam nói riêng. 
Các mô hình gây khối u trên chuột rất cần 
thiết trong nghiên cứu và phát triển thuốc trị 
ung thư, góp phần tìm hiểu cơ sở di truyền của 
sự phát triển khối u và tiến triển ung thư, kiểm 
tra hiệu quả của thuốc trị ung thư, nghiên cứu 
biện pháp chẩn đoán và điều trị ung thư. Hiện 
nay, có ba loại mô hình tạo khối u trên chuột: mô 
hình ghép dị loài hoặc đồng loài, mô hình cảm 
ứng bằng hóa chất và mô hình dùng chuột biến 
đổi gen. Trong đó, mô hình cảm ứng bằng hóa 
chất là một trong những mô hình tiền lâm sàng 
lâu đời và đa dạng nhất được sử dụng trong 
nghiên cứu về ung thư(3,6,13). 7,12-
dimethylbenz[a]anthracen (DMBA) là 
hydrocarbon thơm đa vòng có tác dụng gây ung 
thư và ức chế miễn dịch ở các loài khác nhau, 
được ứng dụng rộng rãi để gây khối u ở vú, da, 
phổi và nhiều cơ quan khác trên động vật gặm 
nhấm(3,5,7,8). Đề tài thực hiện với mục tiêu mô 
phỏng mô hình gây khối u bằng 7,12-dimethyl-
benz[a]anthracen trên chuột nhắt, đánh giá đáp 
ứng của mô hình với paclitaxel (PTX). 
VẬT LIỆU - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Động vật thí nghiệm 
Chuột nhắt cái, chủng Swiss albino, 7-8 tuần 
tuổi, trọng lượng 20-30 g, được cung cấp bởi 
Viện vaccin và sinh phẩm y tế Nha Trang, được 
cung cấp thức ăn, nước uống đầy đủ trong suốt 
thời gian thử nghiệm. 
Hóa chất 
7,12-dimethylbenz[a]anthracen (Sigma-
Aldrich, Mỹ); Paclitaxel (Anzatax®, Mayne 
Pharm Pty., Ltd, Úc); Dầu bắp Mazola Codaa 
(Switzerland AG, Malaysia); NaCl 0,9% 
(Bidiphar, Việt Nam); formalin (Guangdong 
Guanghua, Trung Quốc). 
Mô hình gây khối u trên chuột nhắt bằng 
7,12-dimethylbenz[a]-anthracen (DMBA) 
Tham khảo một số mô hình gây khối u trên 
chuột nhắt bằng DMBA(1,2,5,8,10,11), xây dựng mô 
hình gây khối u trên chuột nhắt bằng DMBA và 
đánh giá đáp ứng của mô hình với thuốc hóa trị 
paclitaxel như sau: 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Dược 657
Chuột (40 con) được cho uống dầu bắp (lô 
sinh lý) hoặc DMBA trong dầu bắp (0,1 ml/10 g) 
liều 50 mg/kg, 1 lần/tuần (thứ 2) × 5 tuần liên 
tiếp. Chuột được theo dõi sự xuất hiện của các 
khối u; vị trí, kích thước các khối u đến tuần thứ 
20. Sau đó, chuột uống DMBA được chia thành 2 
lô theo trọng lượng cơ thể và kích thước khối u 
da gồm lô gây khối u và lô điều trị được tiêm lần 
lượt dung dịch NaCl 0,9% hoặc paclitaxel (PTX) 
dạng dung dịch (Anzatax®) liều 10 mg/kg, 1 lần 
mỗi 3 ngày x 5 lần (ký hiệu: ngày 1, 4, 7, 10, 13). 
Liều paclitaxel sử dụng trong đề tài được tham 
khảo từ một số nghiên cứu để cân bằng tác dụng 
kháng khối u và giảm độc tính của hoạt chất, 
giảm tỷ lệ chuột chết(4,9). Sau khi tiêm NaCl hoặc 
PTX liều cuối 2 tuần, tiến hành giết chuột để 
đánh giá hiệu quả gây khối u và đáp ứng của mô 
hình với PTX. 
Theo dõi trọng lượng cơ thể của chuột thử 
nghiệm 
Trọng lượng cơ thể của chuột thí nghiệm 
được ghi nhận 1 lần/tuần vào ngày thứ 2. Trong 
2 tuần tiêm NaCl hoặc PTX, chuột được cân mỗi 
3 ngày trước khi tiêm. 
Đánh giá hiệu quả của mô hình gây khối u 
Khối u da được đo kích thước hàng tuần từ 
khi xuất hiện đến tuần thứ 20. Từ tuần 20 đến 
tuần 24, khối u da được đo kích thước mỗi 3 
ngày trước khi tiêm NaCl hoặc PTX. Tính kích 
thước khối u theo công thức: Kích thước khối u: 
V (mm3) = 1/2 × a × b2 
Trong đó a, b lần lượt là đường kính lớn nhất 
và nhỏ nhất (mm)(12). 
Phần trăm khác biệt về kích thước khối u 
được tính theo công thức: 
Phần trăm khác biệt (% KB) = (Vx-Vt)/Vt × 100 
Trong đó Vt: kích thước khối u vào tuần 17 
hoặc ngày 1 trước khi tiêm NaCl hoặc PTX và Vx: 
kích thước khối u vào tuần 18, 19, 20 hoặc thời 
điểm sau khi tiêm NaCl hoặc PTX. 
Ở tuần 24, chuột được gây mê bằng đá CO2, 
mở khoang bụng và quan sát đại thể các cơ quan 
(ghi nhận các đặc điểm về màu sắc (hồng, nhạt 
màu), tình trạng bề mặt (nhẵn, không nhẵn), 
tổn thương (phù nề, sung huyết). Tách lấy các 
khối u da, các cơ quan tim, gan, phổi, dạ dày, 
buồng trứng; rửa sạch bằng NaCl 0,9% lạnh và 
ngâm trong formalin 10%. Sau 48 giờ, quan sát 
các cơ quan, đếm số khối u trên phổi, dạ dày, 
buồng trứng từ đó tính: 
Hiệu suất tạo khối u (%) = [Số chuột có ít 
nhất một khối u/Số chuột còn sống] × 100% 
Số khối u trung bình trên chuột có khối u = 
Tổng số khối u trong lô/số chuột có khối u 
Kích thước khối u trung bình: Vtb = Tổng kích 
thước khối u trong lô/Tổng số khối u trong lô 
Tiến hành xét nghiệm vi thể bằng phương 
pháp nhuộm hematoxylin-eosin (HE) tại khoa 
Giải phẫu bệnh, Bệnh viện Quận 2, Thành phố 
Hồ Chí Minh. Cấu trúc mô, hình thái tế bào phổi, 
da, dạ dày được quan sát dưới kính hiển vi để 
đánh giá mức độ tổn thương. 
Tính hiệu suất tạo ung thư (carcinom) theo 
công thức: 
Hiệu suất tạo carinom (%) = Số chuột có 
carcinom/Số chuột còn sống × 100% 
Xử lý kết quả và thống kê 
Kết quả được xử lý bằng phần mềm 
Microsoft Excel, trình bày dưới dạng trung bình 
± sai số chuẩn của giá trị trung bình (Mean ± 
SEM) và được phân tích thống kê bằng phần 
mềm SPSS 20.0. Do các biến số không phân phối 
chuẩn, sử dụng phép kiểm Mann - Whitney để 
kiểm định sự khác nhau có ý nghĩa. Sự khác 
nhau có ý nghĩa khi giá trị p < 0,05. 
KẾT QUẢ 
Tỉ lệ sống/chết của chuột thử nghiệm 
Trong suốt 24 tuần thử nghiệm, chuột ở lô 
sinh lý vẫn khỏe mạnh, không có chuột nào chết. 
Đối với chuột được cho uống DMBA, trong 6 
tuần đầu, chuột có thể trạng yếu, di chuyển 
chậm, 4/30 chuột (13%) chết; trong 5 tuần tiếp 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Dược 658
theo, không có chuột nào chết; từ tuần 12, một số 
chuột xuất hiện khối u da kèm hiện tượng chết 
rải rác đến tuần 20. 
Sau 20 tuần, tổng cộng có 10/30 chuột uống 
DMBA chết và ở lô sinh lý không có chuột nào 
chết. Từ tuần 20 đến 24, 1/10 chuột ở lô gây khối 
u và 2/10 chuột ở lô điều trị tiếp tục chết. 
Sự thay đổi trọng lượng cơ thể của chuột thử 
nghiệm 
Trọng lượng trung bình của chuột sinh lý và 
chuột cho uống DMBA ở đầu thử nghiệm khác 
biệt không đáng kể, lần lượt 26,23 g và 24,88 g (p 
> 0,05). Trong 24 tuần thử nghiệm, chuột ở lô 
sinh lý tăng cân đều. Trong 20 tuần đầu, chuột 
uống DMBA tăng cân nhưng trọng lượng cơ thể 
thấp hơn lô sinh lý (p < 0,01); trong đó trọng 
lượng không tăng, giảm nhẹ trong khoảng tuần 
4 đến tuần 6 và tuần 12 đến tuần 13. Kết quả này 
phù hợp với hiện tượng chuột suy giảm thể 
trạng rõ rệt sau 5 lần uống DMBA và thời điểm 
xuất hiện khối u da. Từ tuần 20 đến tuần 24, 
chuột ở lô gây khối u tăng cân không đáng kể 
trong khi chuột ở lô điều trị giảm cân. Điều này 
có thể giải thích do tác dụng phụ của paclitaxel 
làm suy giảm thể trạng chuột(4,9). 
Khả năng gây khối u da 
Chuột sinh lý khỏe mạnh, không xuất hiện 
khối u da trong thời gian thử nghiệm. Ở chuột 
uống DMBA, khối u da bắt đầu xuất hiện từ tuần 
12. Sau 13 tuần, 20,8% chuột xuất hiện khối u 
nhỏ ở vùng bụng và ngực, nhiều nhất ở vùng 
gần vú. Tỷ lệ chuột có khối u tăng dần theo thời 
gian: 50,0% sau 17 tuần, 65% sau 20 tuần (13/20 
chuột). Một số khối u xuất hiện ở đầu, chân, 
đuôi. Khối u cứng, có kích thước không đều, gây 
đau khi chạm vào. Một số chuột có nhiều hơn 
một khối u. 
Kích thước các khối u tăng dần theo thời 
gian, kích thước trung bình khoảng 6 mm3 vào 
tuần 20. Phần trăm khác biệt về kích thước khối 
u da của tuần 18, 19 và 20 so với tuần 17 lần lượt 
là 94,1%; 230,4% và 293,5%. Kích thước khối u da 
ở lô gây và lô điều trị paclitaxel từ khi bắt đầu 
điều trị (ngày 1) được trình bày trong Bảng 1. 
Bảng 1: Kích thước khối u da chuột từ khi điều trị 
(ngày 1) 
Ngày 
Kích thước khối u da (Trung bình ± SEM) 
(mm
3
) 
Lô gây khối u 
(n = 6 - 7) 
Lô điều trị paclitaxel 
(n = 4 - 6) 
Ngày 1 5,55 ± 2,83 5,73 ± 1,69 
Ngày 4 7,41 ± 3,84 5,29 ± 1,47 
Ngày 7 9,43 ± 4,98 6,15 ± 2,10 
Ngày 10 14,21 ± 8,09 6,43 ± 2,45 
Ngày 13 15,59 ± 8,88 6,44 ± 2,76 
Ngày 16 19,78 ± 12,35 6,29 ± 3,35 
Ngày 19 22,17 ± 14,23 5,87 ± 3,66 
Ngày 22 24,92 ± 16,51 5,68 ± 4,05 
Ngày 25 26,96 ± 18,22 5,54 ± 4,29 
Kết quả cho thấy sự thay đổi kích thước khối 
u giữa lô gây khối u và lô điều trị PTX khác biệt 
đáng kể. So với ngày 1, kích thước khối u của cả 
hai lô đều tăng. Ở lô gây khối u, kích thước khối 
u tăng mạnh từ ngày 4 đến 13; sau ngày 13, kích 
thước khối u tăng 30-50% so với ngày 13. Trong 
khi đó, sau ngày 7, ở lô điều trị, kích thước khối 
u gần như không thay đổi. 
Kết quả phân tích vi thể cho thấy ở lô gây 
khối u, 100% (6/6) khối u da ở tình trạng 
carcinom, trong khi tỷ lệ này ở lô điều trị với 
paclitaxel là 50% (2/4). Đa số là carcinom tế 
bào gai (mô đệm bên dưới thấm nhập nhiều 
lympho bào, lớp thượng bì rải rác vài ổ vi áp 
xe, lớp sừng dày, nhiều đám tế bào gai ung 
thư). Ở lô gây khối u, carcinom tế bào gai kèm 
mô đệm thấm nhập nhiều bạch cầu nhân múi, 
tăng sản nhiều vi mạch, hiện tượng sung 
huyết, xuất huyết trong khi ở lô điều trị, tình 
trạng tăng sản vi mạch, sung huyết, xuất 
huyết không được ghi nhận, đặc biệt vài vùng 
tế bào gai ung thư có hiện tượng hoại tử khu 
trú. Kết quả phân tích vi thể cùng với kết quả 
về sự thay đổi kích thước khối u cho thấy cho 
chuột uống DMBA liều 50 mg/kg, 1 lần/tuần x 
5 tuần liên tiếp đã gây được khối u da đáp 
ứng với điều trị bằng paclitaxel. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Dược 659
Hình 1: Vi thể carcinoma tế bào gai ở lô gây khối u 
(trái) và lô điều trị PTX (phải) 
Khả năng gây khối u phổi 
Sau 24 tuần, kết quả cho thấy bên trong cơ 
thể tất cả chuột thử nghiệm có tim, gan bình 
thường. Một số chuột ở lô gây khối u và điều 
trị có phổi nhạt màu và có khối u; dạ dày có 
một số vị trí lồi lên; có khối u buồng trứng, 
quan sát rõ mạch máu tăng sinh đến nuôi khối 
u. Sau 48 giờ ngâm trong formalin 10%, quan 
sát thấy chuột sinh lý không có khối u trên các 
cơ quan khảo sát, chuột uống DMBA có tim và 
gan bình thường, không có khối u. 
Kết quả quan sát thấy 8/9 chuột ở lô gây 
khối u và 6/8 chuột ở lô điều trị có khối u phổi 
hình tròn hoặc bầu dục, màu trắng đục, cứng 
(Hình 2). Kết quả về số lượng và tổng kích 
thước trung bình của các khối u phổi trên mỗi 
chuột có khối u ở 2 lô được trình bày ở Bảng 2. 
Hình 2: Các khối u phổi sau khi ngâm formalin 
10% ở lô gây khối u (trái) và lô điều trị (phải) 
Bảng 2: Số khối u phổi, tổng kích thước các khối u 
phổi trung bình của mỗi chuột có khối u 
Lô gây khối u 
(n = 8) 
Lô điều trị 
paclitaxel (n = 6) 
Số khối u trung bình 4,25 ± 1,10 1,67 ± 0,33 
Tổng kích thước trung 
bình của các khối u ở mỗi 
chuột (mm
3
) 
5,70 ± 1,58 2,12 ± 1,01 
Ở lô gây khối u, mỗi chuột mang khối u có 
trung bình 4,25 khối u phổi trong khi chuột ở lô 
điều trị có 1,67 khối u trên mỗi chuột; khác biệt 
này không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Tương 
tự, tổng kích thước khối u phổi trung bình ở mỗi 
chuột của lô gây khối u cao gấp 2,5 lần so với lô 
điều trị (5,70 mm3 vs 2,12 mm3, p > 0,05). Sự khác 
biệt giữa lô gây khối u và lô điều trị của cả hai 
thông số này không có ý nghĩa vì chuột được 
phân lô ngẫu nhiên, không xác định được các 
thông số trước khi mổ. Tuy nhiên kết quả bước 
đầu cho thấy điều trị paclitaxel có thể giúp 
không làm tăng thêm khối u phổi mới. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Dược 660
Phân tích vi thể cho thấy đa số khối u phổi 
của chuột ở lô gây khối u và lô điều trị có tình 
trạng carcinom tuyến biệt hóa vừa (một hoặc 
nhiều ổ ung thư) kèm hiện tượng viêm phế quản 
mạn (thấm nhập nhiều lympho bào, tương bào). 
Ở lô điều trị, tế bào lympho phân bố khắp khối 
u, mật độ tế bào xung quanh khối u giảm; hiện 
tượng hoại tử xung quanh khối u. Điều này có 
thể giải thích do khối u đáp ứng với paclitaxel. 
Các tế bào bên ngoài của khối u được tiếp xúc 
với thuốc, chịu tác động của thuốc, tạo vùng hoại 
tử kèm theo hiện tượng viêm (Hình 3). 
Hình 3: Vi thể carcinoma phổi của chuột ở các lô 
gây khối u (trái) và lô điều trị PTX (B) 
Khả năng gây khối u dạ dày 
Sau 24 tuần, 100% chuột ở 2 lô có khối u dạ 
dày, tập trung chủ yếu ở mặt trong dạ dày trước, 
dạng cục hoặc u nhú. Tuy nhiên, kết quả phân 
tích vi thể cho thấy các khối u dạ dày ở tình 
trạng viêm mạn tính kèm tăng sản tế bào sừng, 
do đó đề tài không báo cáo kết quả về số lượng 
và tổng kích thước trung bình của các khối u 
dạ dày. 
Khả năng gây khối u buồng trứng 
Sau 24 tuần, ở mỗi lô gây khối u và lô điều trị 
có 1 chuột có khối u buồng trứng, đường kính 
lần lượt 20 mm và 5 mm. Vi thể cho thấy khối u 
buồng trứng ở tình trạng carcinom; tuy nhiên lô 
điều trị có tình trạng hoại tử tế bào ung thư; 
chứng tỏ mô hình đáp ứng với paclitaxel. 
BÀN LUẬN 
Đề tài cho chuột nhắt cái uống DMBA liều 50 
mg/kg/tuần × 5 tuần liên tiếp tạo khối u (da, 
phổi, dạ dày) ở 100% chuột còn sống sau 24 tuần. 
Tỷ lệ này cao hơn mô hình 1 mg/chuột/tuần × 5 
tuần với 50-70% chuột có khối u và tương đương 
mô hình liều 1 mg/chuột/tuần × 6 tuần có 100% 
chuột lên u sau 20 tuần(2,7). Kết quả có thể giải 
thích do liều DMBA tính theo trọng lượng cơ thể 
chuột, phù hợp hơn với tình trạng chuột tăng 
trọng lượng theo thời gian. 
Sau 20 tuần, tỷ lệ chuột sống 66,7% tương 
đương với các báo cáo trước đây(2,10). Chuột chết 
chủ yếu vào giai đoạn uống DMBA và giai đoạn 
xuất hiện khối u. Điều này có thể giải thích do 
DMBA vừa thể hiện độc tính cấp, gây chết chuột 
trong thời gian sử dụng, vừa có độc tính lâu dài, 
vừa là tác nhân gây ung thư vừa thúc đẩy ung 
thư phát triển(1,10,11). 
Tỷ lệ gây khối u da 61,9%, phổi 75%, dạ dày 
100%. Vị trí gây khối u đa dạng do DMBA là tác 
nhân gây độc toàn thân, được sử dụng theo 
đường uống. Tỷ lệ gây khối u cao hơn các báo 
cáo trước do liều DMBA được tính theo trọng 
lượng (50 mg/kg/tuần so với 1 mg/chuột/tuần) 
phù hợp với tình trạng trọng lượng cơ thể chuột 
tăng theo thời gian. Về tỷ lệ tạo carcinom, mô 
hình gây được carcinom ở da và phổi với tỷ lệ 
trên 30%; chưa tạo được carcinom dạ dày, chỉ ở 
giai đoạn viêm mạn (tiền carcinoma) mặc dù tỷ 
lệ gây khối u dạ dày là 100%. 
Mô hình đáp ứng với paclitaxel, thể hiện qua 
những thay đổi về đại thể và vi thể của khối u. Ở 
lô điều trị paclitaxel, các khối u da có kích thước 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Dược 661
không tăng so với thời điểm bắt đầu điều trị 
trong khi ở lô chứng bệnh, kích thước các khối u 
da tăng nhiều. Đáp ứng của khối u phổi với 
paclitaxel có thể thấy qua kết quả phân tích vi 
thể: ổ ung thư có mật độ tế bào giảm ở xung 
quanh do khối u đáp ứng với thuốc nên bị hoại 
tử những tế bào ở vùng tiếp xúc với thuốc, đồng 
thời có hiện tượng viêm, hiện diện nhiều 
lympho bào khắp ổ ung thư. Từ đó có thể ứng 
dụng mô hình gây khối u trên chuột nhắt bằng 
DMBA để khảo sát tác động phòng ngừa 
và/hoặc điều trị ung thư của các chất/dược liệu 
có tiềm năng. 
KẾT LUẬN 
Đề tài mô phỏng được mô hình gây khối u 
trên chuột nhắt bằng cách cho uống DMBA liều 
50 mg/kg/tuần × 5 tuần liên tiếp với hiệu suất 
100% chuột có khối u ở da, phổi, dạ dày, buồng 
trứng sau 24 tuần; hiệu suất tạo ung thư là 100% 
carcinom tế bào gai, 75% carcinom phổi. Mô 
hình đáp ứng với paclitaxel 10 mg/kg, tiêm tĩnh 
mạch 1 lần mỗi 3 ngày x 5 lần giúp hạn chế sự 
tăng kích thước khối u, giảm hình thành khối u 
mới và gây hoại tử tế bào ung thư. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Aldaz CM, et al. (1996). "Medroxyprogesterone acetate 
accelerates the development and increases the incidence of 
mouse mammary tumors induced by 
dimethylbenzanthracene". Carcinogenesis, 17(9): pp.2069-2072. 
2. Blanco-Aparicio C, et al. (2006). "Mice expressing myrAKT1 in 
the mammary gland develop carcinogen-induced ER-positive 
mammary tumors that mimic human breast cancer". 
Carcinogenesis, 28(3): pp.84-594. 
3. Cekanova M, et al. (2014). "Animal models and therapeutic 
molecular targets of cancer: utility and limitations". Drug 
Design, Development and Therapy, 8: pp.1911-1922. 
4. Cirstoiu-Hapca A, et al. (2010). “Benefit of anti-HER2-coated 
paclitaxel-loaded immuno-nanoparticles in the treatment of 
disseminated ovarian cancer: Therapeutic efficacy and 
biodistribution in mice”. J Control Release, 144 (3): pp.324-31. 
5. Currier N. et al. (2005). "Oncogenic signaling pathways 
activated in DMBA-induced mouse mammary tumors". Toxicol 
Pathol, 33 (6): pp.726-737. 
6. Datta A. et al. (2014). Development of mouse models for cancer 
research. In: Ashish S. Verma, Anchal Singh. Animal 
Biotechnology, 1st edition, pp 73-94. Academic Press, San 
Diego. 
7. Đỗ Thị Thảo và cộng sự (2009). "Gây u thực nghiệm trên chuột 
bằng DMBA (7,12 dimethyl benz[a]anthracene)". Khoa học 
ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ. 25: tr.107-111. 
8. Marcello VTKDO, et al. (2013). "Chemical carcinogenesis by 
7,12- dimethylbenz-anthracene in Balb/c mice". BMC 
Proceedings, 7(2): pp.46. 
9. Munk JM, et al. (2013). “Imaging of treatment response to the 
combination of carboplatin and paclitaxel in human ovarian 
cancer xenograft tumors in mice using FDG and FLT PET”. Plos 
One 8(12): pp.e85126. 
10. Nicol C, et al. (2004). "PPARg influences susceptibility to 
DMBA-induced mammary, ovarian and skin carcinogenesis". 
Carcinogenesis, 25: pp.1747- 1755. 
11. Oliveira KD, et al. (2013). "Higher incidence of lung 
adenocarcinomas induced by DMBA in connexin 43 
heterozygous knockout mice". BioMed Research International, 
2013: pp.618475-618481. 
12. Pham VP, Chi JH, Nguyen TMN, Duong TT, Le VD, Truong 
DK, Phan KN (2011). “Effects of breast cancer stem cell extract 
primed dendritic cell transplantation on breast cancer tumor 
murine models”. Annual Review & Research in Biology, 1(1): 
pp.1-13. 
13. Ruggeri BA, et al. (2014). "Animal models of disease: Pre-
clinical animal models of cancer and their applications and 
utility in drug discovery". Biochemical Pharmacology. 87(1): 
pp.150-161. 
14. Trần Thị Thu Nga và cộng sự (2013). "Dịch tễ học và giám sát 
bệnh ung thư trên thế giới và ở Việt Nam". Y học dự phòng. 
10(146): tr.308-313. 
15. WHO (update feb 2015). Fact sheet N°297. Cancer 
Ngày nhận bài báo: 18/10/2018 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 01/11/2018 
Ngày bài báo được đăng: 15/03/2019