Luận văn Vấn đề y đức của cán bộ y tế tỉnh Nam Định trong giai đoạn hiện nay

Tài liệu Luận văn Vấn đề y đức của cán bộ y tế tỉnh Nam Định trong giai đoạn hiện nay: LUẬN VĂN: Vấn đề y đức của cán bộ y tế tỉnh Nam Định trong giai đoạn hiên nay MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Từ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đang hàng ngày hàng giờ tác động đến mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội, trong đó có lĩnh vực y đức - đạo đức của người cán bộ y tế, bên cạnh những yếu tố tích cực đã và đang xuất hiện không ít những vấn đề tiêu cực. Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, nảy sinh từ tồn tại xã hội và có vai trò to lớn đối với đời sống con người. Một trong những, đặc trưng cơ bản nhất của hình thái ý thức đạo đức là sự quan tâm một cách tự nguyện, tự giác đến hạnh phúc của người khác, của xã hội chứ không phải cho mình và vì mình. Trong các chức năng của đạo đức, chức năng giáo dục và điều chỉnh hành vi có vị trí hết sức quan trọng, vì thông qua đó mà con người tự giác điều chỉnh hoạt động của mình sao cho phù hợp với lợi ích của toàn xã hội. Trong mọi ...

pdf72 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1381 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Vấn đề y đức của cán bộ y tế tỉnh Nam Định trong giai đoạn hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Vấn đề y đức của cán bộ y tế tỉnh Nam Định trong giai đoạn hiên nay MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Từ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đang hàng ngày hàng giờ tác động đến mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội, trong đó có lĩnh vực y đức - đạo đức của người cán bộ y tế, bên cạnh những yếu tố tích cực đã và đang xuất hiện không ít những vấn đề tiêu cực. Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, nảy sinh từ tồn tại xã hội và có vai trò to lớn đối với đời sống con người. Một trong những, đặc trưng cơ bản nhất của hình thái ý thức đạo đức là sự quan tâm một cách tự nguyện, tự giác đến hạnh phúc của người khác, của xã hội chứ không phải cho mình và vì mình. Trong các chức năng của đạo đức, chức năng giáo dục và điều chỉnh hành vi có vị trí hết sức quan trọng, vì thông qua đó mà con người tự giác điều chỉnh hoạt động của mình sao cho phù hợp với lợi ích của toàn xã hội. Trong mọi giai đoạn lịch sử, cán bộ công chức, viên chức nói chung, cán bộ công chức, viên chức ngành y tế nói riêng có một vai trò hết sức quan trọng. Đội ngũ này ngày càng tăng cả về số lượng và chất lượng, trong số đó có những người không chỉ giỏi về chuyên môn, mà còn là tấm gương sáng về đạo đức và lối sống. Họ luôn hăng hái tham gia vào các hoạt động của ngành, cũng như trong cộng đồng, xã hội. Tuy vậy, dưới tác động của kinh tế thị trường cũng xuất hiện một số cán bộ, công chức, viên chức y tế có những biểu hiện sự lệch lạc trong suy nghĩ và hành động. Một số có lối sống hưởng thụ, thực dụng, chạy theo đồng tiền, lười lao động, không nhiệt tình trong công việc,…tất cả đó đã và đang gây ảnh hưởng không tốt đến niềm tin của nhân dân, cũng như ảnh hưởng lớn đến ngành. Nam Định là một tỉnh có dân số đông, kinh tế tương đối phát triển. Trên địa bàn tỉnh có nhiều cơ sở khám chữa bệnh cũng như các trường đào tạo cán bộ ngành y tế. Bên cạnh những kết quả đạt được (cùng với những thành tựu chung của ngành y tế), thì mặt trái của nền kinh tế thị trường cũng tác động không nhỏ đến y đức của cán bộ ngành y tế tỉnh Nam Định làm xói mòn không ít những giá trị y đức truyền thống của dân tộc. Không ít những tấm gương phản diện trong y đức đang gây lên không ít bất bình cho xã hội, không ít "Những việc làm vi phạm đạo đức nghề nghiệp chậm được khắc phục" [20, tr. 174]. Thực tế nóng bỏng và bức bách đó cần phải được khắc phục. Vì vậy tác giả chọn: “Vấn đề y đức của cán bộ y tế tỉnh Nam Định trong giai đoạn hiên nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ triết học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Y đức - đạo đức của người thầy thuốc, không phải là vấn đề mới mẻ, từ xa xưa đã có rất nhiều người đề cập đến vấn đề này ở những mức độ khác nhau. Qua các giai đoạn của lịch sử, các triều đại, y đức được đề cập tới bằng những điều luật áp dụng cho nghề y, qua lời thề, qua các tuyên ngôn về y tế của tổ chức y tế thế giới. Đến nay vấn đề này đã được nhiều nước đưa vào nghĩa vụ luật thầy thuốc. Lịch sử y học phương Tây vẫn luôn luôn nhắc đến lời thề Hyppocrate (Thế kỷ thứ IV TCN) như một bài học y đức đầu tiên cho người thầy thuốc mới ra trường. Lời thề ấy cho đến nay vẫn được sử dụng rông rãi trên thế giới trong đó có Việt Nam. Ở nước ta, từ xưa tới nay đã không ít người thầy thuốc tiêu biểu cho lòng nhân đạo, tính bất vụ danh lợi của nghề y. Chu Văn An (1292 - 1370) có nói: “Chữ nhân là mấu chốt của người thầy thuốc, rồi mới đến chữ minh chữ tài”. Nghĩa là người thầy thuốc phải lấy lòng nhân đức làm đầu rồi mới đến sự thông minh, khôn khéo tài năng xử lý bệnh tật. Hải Thượng Lãn Ông (1720 - 1791), vị danh sư của của nước ta vào thế kỷ XVIII mà tài năng và đức độ được phong hàng “y thánh” đã để lại tấm gương sáng về đạo đức, y đức của mình qua chín quan điểm di huấn của ông, hay Nguyễn Đình Chiểu có “Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp”. Ngay khi cách mạng tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc biệt quan tâm đến giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ đảng viên nói chung và cán bộ ngành y tế nói riêng, Người đã để lại nhiều di huấn quý báu về y đức. Trong thư gửi trường Quân Y năm 1946, Hội nghị Quân Y năm 1948, Trường Y tá liên khu I năm 1949, Hội nghị y tế toàn quốc 1953... Người thường nhấn mạnh đến, tình thương, lòng bác ái, đức hi sinh, lòng tận tâm phục vụ, tinh thần đoàn kết học tập để tiến bộ, cũng như ý thức kỷ luật tinh thần trách nhiệm của cán bộ nhân viên ngành y tế. Hiện nay trong hầu hết các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đối với công tác y tế vấn đề y đức đều được đề cập đến. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư ban chấp hành Trung ương Đảng Khoá VII “Những vấn đề cấp bách của sự nghiệp chăm sóc sức khoẻ bảo vệ nhân dân” (ngày 14/01/1993). Ngày 06-11-1996 ngành y tế đã có quyết định của Bộ trưởng Bộ Y tế Đỗ Nguyên Phương về thực hiện 12 điều y đức cùng nhiều văn bản pháp quy khác có liên quan đến y đức. Trong cuốn “Phát triển sự nghiệp y tế ở nước ta trong giai đoạn hiện nay” (Nxb Y học, Hà Nội, 1996), Tác giả Đỗ Nguyên Phương nói về vấn đề y đức, y đạo và đòi hỏi cấp bách phải nâng cao y đức của người thầy thuốc trong giai đoạn hiện nay. Trong cuốn “Một số vấn đề xây dựng ngành y tế phát triển Việt Nam”- Nxb Y học, Hà Nội, 1998. Tác giả Đỗ Nguyên Phương đã dành một phần nội dung cuốn sách để làm rõ tư tưởng của Hồ Chí Minh về y tế và đạo đức của người thầy thuốc Việt Nam, bên cạnh đó tác giả còn bàn luận nhiều về tấm gương đạo đức của giáo sư Đặng Văn Ngữ, giáo sư Hoàng Đình Cầu và truyền thống đạo đức của nhiều thầy thuốc tiêu biểu khác. Trong cuốn “Y đức và đức sinh học-nguồn gốc và sự phát triển” (Nxb Y học, 1999) tác giả Ngô Gia Hy đã tổng kết kinh nghiệm thực tiễn trong công tác và qua các quy chế, văn bản pháp quy về y đức Trong những năm gần đây, tại Học viện chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh đã có một số học viên quan tâm, nghiên cứu tới vấn đề đạo đức của người cán bộ y tế như: “Đạo đức của người cán bộ y tế trong quá trình phát triến kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay - vấn đề và giải pháp” của tác giả Kim Thanh Hùng (Luận văn cử nhân chính trị); “Vấn đề y đức của cán bộ y tế trong giai đoạn hiện nay. Qua thực tế tại Nam Định” của tác giả Lê Thanh Thuỷ (Luận văn cao cấp lý luận chính trị). Ngoài ra có một số luận án tiến sĩ, của một số tác giả cũng quan tâm nghiên cứu về y đức, như: “Tư tưởng triết học về con người qua các tác phẩm y học của Hải Thưởng Lãn Ông” của Phạm Công Nhất. Trong luận án này, tác giả đã đánh giá một cách có hệ thống các giá trị trong tư tưởng triết học về con người của Hải Thượng Lãn Ông. Bên cạnh đó tác giả chỉ ra ý nghĩa của các giá trị tư tưởng đó đối với quá trình đổi mới và phát triển ngành y tế hiện nay ở nước ta. Hay luận án: “Phát huy vai trò của trí thức ngành y tế Việt Nam trong công cuộc đổi mới” đây là luận án tiến sĩ chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa học của Nguyễn Thị Hoà Bình. Trong bản luận án này tác giả đã làm rõ đặc điểm, vai trò và dự báo xu hướng phát triển của đội ngũ cán bộ y tế. Từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của trí thức ngành y tế Việt Nam trong công cuộc đổi mới. Ngày 23/2/2006 Bộ Y tế đã phát động phong trào: cán bộ viên chức trong ngành y tế thi đua học tập và noi gương anh hùng liệt sĩ Đặng Thuỳ Trâm. Cuộc vận động đã và đang thu hút đông đảo cán bộ, nhân viên ngành y tế tham gia và đã đem lại những kết quả tích cực. Tuy nhiên đó chỉ là những văn bản pháp quy mang tính định hướng không thể bao quát hết phạm vi hoạt động vô cùng rộng lớn của y đức. Hành vi đạo đức của cán bộ y tế nói riêng và của đội ngũ thầy thuốc đang diễn ra hàng ngày hàng giờ rất phức tạp trên mọi lĩnh vực hoạt động. Vì vậy nghiên cứu, điều tra, phân tích để đưa ra những nhận xét đánh giá về vấn đề y đức trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi phải đi sâu đi sát, thu thập thông tin thực tế, tìm ra những bất cập giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động của ngành y tế để bàn giải pháp khắc phục. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích của luận văn Trên cơ sở phân tích thực trạng y đức của đội ngũ cán bộ y tế tỉnh Nam Định trong thời gian qua cũng như tìm những nguyên nhân của nó, từ đó đưa ra phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hơn nữa y đức cho cán bộ y tế tỉnh Nam Định trong giai đoạn hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ của luận văn Làm rõ tầm quan trọng và yêu cầu của việc nâng cao y đức cho cán bộ ngành y tế trong giai đoạn hiện nay. Phân tích thực trạng y đức của cán bộ y tế tỉnh Nam Định trong giai đoạn hiện nay và tìm ra nguyên nhân của nó. Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao y đức cho cán bộ y tế tỉnh Nam Định trong giai đoạn hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu: Vấn đề y đức của cán bộ ngành y tế trong giai đoạn hiện nay. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của luận văn là cán bộ y tế trên địa bàn tỉnh Nam Định. 5 . Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lí luận Thực hiện bản luận văn này tác giả dựa trên cơ sở của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo đức và y đức. Ngoài ra, tác giả luận văn có tham khảo, kế thừa kết quả nghiên cứu đã đạt được của các công trình có liên quan trực tiếp đến đề tài. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Tác giả luận văn sử dụng phương pháp luận chung của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử kết hợp với phương pháp phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, điều tra xã hội học… nhằm thực hiện mục đích mà đề tài đặt ra. 6. Đóng góp khoa học và ý nghĩa của luận văn Góp phần làm sáng tỏ tầm quan trọng của y đức đối với cán bộ làm công tác y tế trong giai đoạn hiện nay. Trên cơ sở khái quát thực trạng y đức của đội ngũ cán bộ ngành y tế ở tỉnh Nam Định, bước đầu đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao y đức cho cán bộ ngành y tế ở Nam Định nói riêng, nước ta nói chung 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 2 chương, 4 tiết. Chương 1 TẦM QUAN TRỌNG VÀ YÊU CẦU Y ĐỨC CỦA CÁN BỘ NGÀNH Y TẾ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 1.1. Y ĐỨC VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA Y ĐỨC NGƯỜI CÁN BỘ Y TẾ VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 1.1.1. Khái niệm đạo đức và y đức - Về khái niệm đạo đức: Đạo đức là một trong những hình thái ý thức xã hội, là sản phẩm của quá trình phát triển lịch sử xã hội, phản ánh tồn tại xã hội về lĩnh vực đạo đức. Danh từ đạo đức bất nguồn từ tiếng Latinh là mos (mois) - lề thói (morialis nghĩa là có liên quan đến lề thói đạo nghĩa). Còn “luân lý” được xem như đồng nghĩa với “đạo đức” có gốc từ tiếng Hi Lạp là ethicos - lề thói, tập tục. Khi nói đến đạo đức, tức là nói đến lề thói và tập tục biểu hiện mối quan hệ giữa người với người trong sự giao tiếp hàng ngày. Ở phương đông, đạo đức là một trong những phạm trù quan trọng nhất của triết học Trung Hoa cổ đại. Đạo có nghĩa là con đường, đường, về sau khái niệm đạo đức được vận dụng trong triết học để chỉ con đường của tự nhiên. Đạo có nghĩa là con đường sống của con người trong xã hội. Khái niệm đạo đức lần đầu tiên xuất hiện trong Kim văn đời nhà Chu và từ đó trở đi được người Trung Quốc sử dụng nhiều. Đức dùng để nói đến nhân đức, đức tính và nhìn chung đức là biểu hiện của đạo, là đạo nghĩa, là nguyên tắc luân lý. Như vậy có thể nói đạo đức của người Trung Hoa cổ đại chính là những yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà mỗi người phải tuân theo. Ở phương Tây, từ lâu vấn đề đạo đức đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà tư tưởng. Cho đến nay người ta vẫn coi Xôcrát (469 - 399 tr.CN) là người đầu tiên đặt nền móng cho khoa học đạo đức. Còn Arixtốt (384 - 322 tr.CN) đã viết bộ sách Đạo đức học với 10 cuốn, trong đó ông đặc biệt quan tâm đến phẩm hạnh của con người. Nội dung phẩm hạnh chính là ở chỗ biết định hướng đúng, biết làm việc thiện. Ông nói: chúng ta bàn đến đạo đức không phải để biết đức hạnh là gì mà để trở thành con người có đức hạnh. Còn Êpiquya (341 - 271 tr.CN) người đầu tiên đưa phạm trù lẽ sống vào đạo đức học. Và là một trong những người có công luận giải về sự tự do của con người. Từ đó đến nay, với bao biến cố, thăng trầm của lịch sử, nhưng không bao giờ nhân loại không quan tâm, không bàn luận về vấn đề đạo đức Một trong những đặc trưng nổi bật nhất của đạo đức Tây Âu thời trung cổ là ở chỗ, những tư tưởng đạo đức thường xuất phát từ những tín điều tôn giáo (Thiên chúa giáo, Hồi giáo...). vào thời điểm này, giáo hội đóng góp vai trò thống trị độc tôn, chi phối mọi hoạt động của con người, trong đó có đời sống đạo đức, mà chúa là cội nguồn, là nơi hoà hợp, thống nhất của mọi giá trị đạo đức. Đúng như Lênin nói: “Đạo cơ đốc đã đem đạo đức làm thành thượng đế, đã sáng tạo ra thượng đế đạo đức” [33, tr.63]. Sau cái đêm trường trung cổ tối tăm ấy, nhân loại đột nhiên sống lại với sức mạnh không ngờ. Về phương diện văn hoá, tinh thần cũng có những bước tiến vượt bậc, nhằm tạo ra một nền văn hoá mới, thế tục, sẵn sàng đoạn tuyệt với nền văn hoá mang tính kinh viện, trong đó có văn hoá đạo đức. Giai cấp tư sản đã thẳng tay xoá bỏ quan hệ đạo đức phong kiến, từng bước thiết lập quan hệ đạo đức tư sản với đặc trưng nổi bật nhất là đề cao đến mức tuyệt đối hoá “chủ nghĩa cá nhân” mà cơ sở lý luận của nó là thừa nhận sự tự trị và quyền tự do tuyệt đối của các cá nhân trong xã hội. Chỉ có đạo đức cộng sản, một nền đạo đức “hiện nay đang tiêu biểu cho sự lật đổ hiện tại, biểu hiện cho lợi ích tương lai” [37, tr.136] mới thể hiện đạo đức có tính người mang tính nhân loại phổ biến. “Đạo đức” là một vấn đề phức tạp, có nhiều mặt, mỗi khi đối tượng được định nghĩa càng có nhiều mặt phải quan sát bao nhiêu, thì định nghĩa mà người ta đưa ra trên cơ sở các mặt ấy càng khác nhau bấy nhiêu [20, tr.256]. Với ý nghĩa đó, khó có thể có một định nghĩa đầy đủ, hoàn chỉnh về “đạo đức”. Ở mức độ khái quát nhất chúng ta có thể hiểu. Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh, đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội. Đạo đức với tư cách là hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, phản ánh hiện thực đời sống đạo đức xã hội. Đạo đức cũng như các quan điểm triết học, chính trị, nghệ thuật, tôn giáo, đều mang tính chất của kiến trúc thượng tầng. Cơ sở kinh tế là nguồn gốc của các quan điểm đạo đức. Các quan điểm này thay đổi khi cơ sở đã đẻ ra nó thay đổi. Ví dụ: thích ứng với chế độ phong kiến, dựa trên cơ sở bóc lột, những người nông nô bị cột chặt vào ruộng đất, là đạo đức xã hội phong kiến. Thích ứng với chế độ tư bản dựa trên cơ sở bóc lột người công nhân làm thuê, là đạo đức tư sản. Chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa tạo ra một nền đạo đức mới biểu hiện mối quan hệ hợp tác trên tình đồng chí và quan hệ tương trợ lẫn nhau của người lao động đã được giải phóng khỏi áp bước bóc lột. Tất cả đó đã chứng tỏ rằng, sự phát sinh phát triển của đạo đức, xét đến cùng là một quá trình do phương thức sản xuất quy định. Trong “Chống Duyrinh” Ph. Ăngghen viết rằng: chung quy lại thì mọi học thuyết đạo đức đã tồn tại từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình thực thực tế của xã hội lúc bấy giờ Đạo đức là một trong những phương thức dùng để điều chỉnh hành vi con người. Ngoài ra còn có phong tục, tập quán, tôn giáo pháp luật, đạo đức,... Đối với đạo đức, sự đánh giá hành vi của con người theo chuẩn mực và quy tắc đạo đức biểu hiện thành những khái niệm về thiện và ác, vinh và nhục, chính nghĩa và phi nghĩa. Bất kỳ trong thời đại lịch sử nào, đạo đức con người đều được đánh giá như vậy. Các khái niệm về thiện, ác, khuôn phép và quy tắc hành vi con người thay đổi từ thế kỷ này sang thế kỷ khác, từ dân tộc này sang dân tộc khác. Và trong xã hội có giai cấp thì bao giờ đạo đức cũng biểu hiện lợi ích giai cấp nhất định. Những khuôn phép và quy tắc đạo đức là yêu cầu của cả xã hội hoặc của một giai cấp nhất định đề ra cho mỗi hành vi cá nhân. Nó bao gồm hành vi cá nhân đối với xã hội và đối với người khác. Những chuẩn mực và quy tắc đạo đức nhất định được công luận của xã hội, hay của một giai cấp, dân tộc thừa nhận. Ở đây, quan niệm của cá nhân về nghĩa vụ của mình đối với xã hội và đối với người khác là tiền đề của hành vi đạo đức cá nhân. Đã là thành viên của xã hội, con người phải chịu một sự giáo dục nhất định về ý thức đạo đức, một sự đánh giá đối với hành vi của mình và trong những hoàn cảnh nào đó còn chịu sự điều khiển tránh nhiệm của lương tâm. Cá nhân phải có trách nhiệm chuyển những đòi hỏi của xã hội và những thể hiện của chúng thành nhu cầu, mục đích và hứng thú trong hoạt động của mình. Biểu hiện sự chuyển hoá này là hành vi cá nhân tuân thủ những ngăn cấm, những khuyến khích, những chuẩn mực cho phù hợp với đòi hỏi xã hội... Do vậy sự điều chỉnh đạo đức mang tính tự nguyện, xét về bản chất đạo đức là sự tự lựa chọn của con người. Đạo đức là hệ thống các giá trị. Hệ thống giá trị đạo đức chia thành giá trị chung (lương tâm, bổn phận,..); giá trị riêng (trách nhiệm cá nhân, tính liêm khiết,..). dưới góc độ tác động và tác dụng của giá trị người ta lại chia ra giá trị tích cực (thiện, tốt, hạnh phúc,...) và giá trị tiêu cực ( ác, xấu, bất hạnh,...). Đặc trưng của giá trị đạo đức là chỗ nó cấu tạo bởi tính có ích, tính tự giác, tính tự nguyện, và tính không vụ lợi của hành vi. Các hiện tượng đạo đức thường biểu hiện dưới hình thức khẳng định, hoặc phủ định một lợi ích chính đáng, hoặc không chính đáng nào đó. Nghĩa là nó bày tỏ sự tán thành hay phản đối trước thái độ hoặc hành vi ứng xử của các cá nhân, giữa cá nhân với cộng đồng xã hội nhất định. Vì vậy, đạo đức là nội dung hợp thành hệ thống giá trị xã hội. Sự hình thành, phát triển và hoàn chỉnh hệ thống giá trị đạo đức không tách rời sự phát triển và hoàn thiện của ý thức đạo đức và sự điều chỉnh của ý thức đạo đức. Nếu hệ thống giá trị đạo đức phù hợp với sự phát triển, tiến bộ xã hội, thì hệ thống ấy có tính tích cực, nhân đạo. Ngược lại hệ thống ấy mang tính tiêu cực, phản tiến bộ, phản nhân đạo. - Các quan điểm về y đức trong lịch sử: Trong lịch sử tư tưởng nhân loại nói chung, lịch sử tư tưởng đạo đức nói riêng, y đức luôn luôn trở thành đối tượng quan tâm của nhiều thế hệ, trong nhiều thời đại khác nhau. Ở Ấn Độ cổ đại, từ thế kỷ thứ V-III T.C.N trong tập thơ dân gian “Ana Vêda” đã đề cập đến tiêu chuẩn của người làm nghề y tế. Đó là những người: Phải hết lòng chăm lo chạy chữa cho bệnh nhân, và cả đến lúc phải hi sinh cuộc đời mình cũng không có quyền làm cho bệnh nhân đau đớn, không bao giờ nên có trong đầu ý nghĩa làm phật lòng vợ kẻ khác, cũng như chà đạp lên của cải của họ... Dù có tài cao học rộng, người thầy thuốc cũng không nên khoe khoang những điều hiểu biết của mình [15, tr.85]. Galen - Một trong những nhà y học nổi tiếng của La mã cổ đại, đã có những quan điểm đạo đức tiến bộ. Ông đã gay gắt chỉ trích, lên án sự dốt nát lòng tham lam đê tiện của một số thầy thuốc lúc bây giờ. “Chỉ săn sóc bọn giàu sang, kẻ quyền thế....những kẻ khác thì cố gắng che dấu sự bất tài của mình trước quần chúng bằng cái hào nhoáng của y phục, những kim cương đắt tiền và những đồ trang sức xa hoa” [15, tr.85]. Ở Hi lạp cổ đại, danh y Hyppocrat đã để lại cho chúng ta “lời thề” bất tử. Lời thề ấy chứa đựng yếu tố nhân đạo, nó là sự đòi hỏi, phải giữ gìn mình, là bổn phận thái độ ứng xử sao cho có lương tâm, có trách nhiệm của con người với đồng loại, với đồng nghiệp và với bệnh nhân. Tôi xin thề trước Apollon thần chữa bệnh, trước Esculape thần Y học, trước thần Hygic và Panacu và trước sự chứng giám của tất cả các nam nữ thiên thần là tôi sẽ đem hết sức lực và khả năng để làm trọn lời thề và lời cam kết sau đây. Tôi sẽ coi các thầy học của tôi ngang hàng với các bậc thân sinh ra tôi, khi cần tôi sẽ đáp ứng nhu cầu của các vị đó. Tôi sẽ coi con của thầy như anh em ruột thịt của tôi và nếu họ muốn học nghề y thì tôi sẽ dạy cho họ không lấy tiền công mà cũng không dấu nghề. Tôi sẽ truyền đạt cho họ những nguyên lý, những bài học truyền miệng và tất cả vốn hiểu biết của tôi cho con tôi, các con của thầy tôi và cho tất các môn đệ cùng gắn bó bởi một lời thề và lời cam kết đúng với y luật mà không truyền dạy cho ai khác. Tôi sẽ chỉ dẫn mọi chế độ có lợi cho người bệnh, tuỳ theo khả năng và sự phán đoán của tôi, tôi sẽ tránh mọi điều xấu và bất công. Tôi sẽ không trao thuốc độc cho bất kỳ ai, kể cả họ yêu cầu và cũng không tự mình gợi ý cho họ, cũng như vậy, tôi cũng không trao cho bất cứ người nào những thuốc gây sẩy thai. Tôi suốt đời hành nghề trong sự vô tư và thân thiết. Tôi sẽ không thực hiện những phẫu thuật mổ bàng quang mà dành công việc đó cho những người chuyên. Dù bất cứ giá nào tôi cũng chỉ vì lợi ích của người bệnh, tránh mọi hành vi xấu xa, cố ý và đồi bại, nhất là tránh cám dỗ phụ nữ và thiếu niên tự do hay nô lệ. Dù có nhìn hoặc nghe thấy gì trong xã hội, trong và ngoài lúc hành nghề của tôi. Tôi sẽ xin im lặng trước những điều không bao giờ để lộ ra và coi sự kín đáo trong trường hợp đó là một nghĩa vụ. Nếu tôi làm tròn lời thề này và không có gì vi phạm tôi sẽ hưởng một cuộc sống sung sướng và sẽ được hành nghề trong sự quý trọng mãi mãi của con người. Nếu tôi vi phạm lời thề này hay tôi tự phản bội thì tôi sẽ chịu một số phận khổ sở ngược lại. Như vậy ngay từ buổi bình minh của lịch sử y học phương Tây Hyppocrat đã đưa ra những quan điểm quan trọng, cốt lõi cho y đức của người thầy thuốc như chữa bệnh cho người nghèo, tận tâm, tận lực, hết lòng vì người bệnh. Ngoài lời thề của Hyppocrat ra, lời thề Y khoa (Amates Lusitanus) của Y sĩ Bồ Đào Nha gốc Do Thái năm 1568 cũng để lại nhiều giá trị y đức tốt đẹp: Nhân danh Chúa bất diệt và theo mười lời răn của thần thánh được truyền từ núi Siai, qua Mosie cho dân tộc Isarael đã thoát vòng nô lệ của Ai cập. Tôi xin thề là không có gì đã dẫn dắt tôi trong những điều tôi biết về y học ngoài sự truyền đạt trung thực những việc đã xảy ra. Tôi không che dấu thêm bớt thay đổi sự việc vì mục đích hoa mỹ. Tôi không khen chê bất cứ ai, hòng mưu cầu sự nhân nhượng hay vì thoả mãn cá nhân, mà đó chỉ là yêu cầu của sự thật. Nếu tôi nhầm lẫn tôi hãy chịu sự giận giữ muôn đời của giáo chúa và của tông đồ Raphael và sẽ không bao giờ thành đạt trong nghề như mong muốn. Riêng đối với thù lao mà người ta trả cho thầy thuốc tôi không bao giờ đòi hỏi quá đáng. Tôi chữa bệnh không những tận tình cho nhiều người mà còn thường không lấy tiền. Với lòng độ lượng và dũng cảm tôi đã từ chối thù lao của nhiều người đưa cho tôi. Tôi muốn trả lại cho người bệnh sức khoẻ mà họ đã mất chứ không phải vì tôi ham làm giàu bằng món tiền lớn nhỏ. Tôi đối xử với mọi người ngang nhau, bất kể tôn giáo của họ, dù riêng họ là người Hebrew, người công giáo hay theo đạo Arub. Tôi không để địa vị cao sang của bệnh nhân làm loá mắt. Tôi đã săn sóc người nghèo một cách tận tình giống những người sinh trưởng trong gia đình rất danh tiếng. Tôi không bao giờ gây ra hay kéo dài một bệnh, trong chuẩn đoán bao giờ tôi cũng bày tỏ những điều tôi thực sự cảm nhận thấy. Còn ở phương Đông, y đức có nguồn gốc từ quan niệm cái đức của người thầy thuốc phải rộng như biển cả, và tự mình phải minh. Nếu có cầu xin là cầu xin tất cả những gì có thể cứu được bệnh nhân từ nước, lửa, cây cỏ như Vêda: “Hãy cứu sống kẻ này như các mẹ hiền và khi đó các thầy thuốc sẽ được trọng vọng như bậc thần thánh”. Phật giáo và thuyết nhân - quả luân hồi khuyên người thầy thuốc giỏi phải có đức độ, vị tha như lời khuyên của phật “y đức là niết bàn”. Theo Lão học và Đạo học: Bản chất của y khoa là cứu người, cái đức của ông thầy thuốc là cứu người mà không thấy rằng mình cứu người, không nói rằng mình cứu người. Với lòng nhân ái cao cả “Thương người như thể thương thân” nhân dân ta rất quý trọng nghề y và tôn vinh những người thầy thuốc hết lòng vì người bệnh mà các bậc danh y như Tuệ Tĩnh (thế kỷ XIV), Hải Thượng Lãn Ông (1720 - 1791) đều hết sức chú trọng xây dựng và truyền đạt y đức tới người thầy thuốc. Hải Thượng Lãn Ông - Lê Hữu Trác. Là một trong những tấm gương sáng về y đức, y đạo, y thuật của y học cổ truyền Việt Nam. Ông đề cao y đức, đòi hỏi ở người thầy thuốc “Tôi đã hiến thân cho nghề thuốc nên lúc nào tôi cũng muốn dồn hết khả năng trí óc thật rộng rãi để dựng lên ngọn cờ đỏ thắm giữa y trường”. “Tôi thường thấm thía rằng: Thầy thuốc là người có nhiệm vụ bảo vệ sinh mạng của người ta, lẽ sống chết, điều phúc hoạ điều ở trong tay mình xoay chuyển. Lẽ nào người có trí thức không đầy đủ, hành động không chu đáo, tâm hồn không thoáng đạt, trí quả cảm không thật trọng mà giám theo đòi bắt trước nghề Y”. “Đạo làm thầy thuốc là nhân thuật, có nhiệm vụ là giữ gìn tính mạng cho con người, chỉ lấy việc giúp mình mà không cầu lợi kể công”. Vui cái vui của người bệnh, lo cái lo của người bệnh, làm hết những việc đáng là để giúp đỡ mọi người. Thế rồi lòng này không hổ thẹn với trời đất”. Từ những quan niệm đó ông đã đưa ra các chuẩn mực của người thầy thuốc cần phải có: nhân, minh, trí, đức, thành, lượng, khiêm, cần Nhân là sự nhân từ bác ái cộng hưởng mọi người và quan tâm đến người khác, không cá nhân ích kỷ. Minh là phải hiểu biết rộng, sáng suốt minh bạch, không nhầm lẫn. Trí là khôn khéo nhạy bén, để tâm lo nghĩ việc làm, không cẩu thả tuỳ tiện. Đức là phải có đạo đức nhân hậu, cốt làm điều lành để của đức về sau, chống điều ác. Thành là thành thật, ngay thẳng, trung thực vô tư, không dối trá không thiên lệch. Lượng là phải độ lượng, hoà nhã, đúng mức vừa phải. Khiêm là phải chuyên cần học hỏi và phải thực sự cầu thị, không tự phụ chủ quan. Cần là phải chuyên cần nhẫn nại và cần cù chịu khó. Ông khuyên rằng: “không nên thấy người giàu sang quyền quý thì hết lòng phục vụ, thấy người khổ tàn tật thì thờ ơ”. “Chớ nên vì giàu sang hay nghèo hèn mà nơi đến trước, chỗ tới sau hoặc bốc thuốc lại phân biệt hơn kém. Khi lòng mình không thành thật thì khó lòng thu được hiệu quả”. Theo ông, người thầy thuốc phải có “lòng nhân”, lòng nhân này là nhân ái vị tha, phải có lương tâm nghề nghiệp. “Khi người thầy thuốc khoanh tay trước một bệnh hiểm nghèo thì đó là thầy thuốc chỉ nghĩ đến danh tiếng cá nhân. Chính vì sợ chết mà bệnh nhân tìm đến thầy thuốc, bây giờ đứng trước tình trạng vô vọng mà người thầy thuốc lại khoanh tay, thì thầy thuốc để làm gì”. Người thầy thuốc phải có trí tuệ đầy đủ, đó là yêu cầu của nghề nghiệp, vì trí là cơ sở để thực hiện điều nhân. “Đạo làm thầy thuốc là một nhân thuật chuyên bảo vệ sinh mạng con người, phải lo cái lo của người và phải vui cái vui của người, phải lấy việc cứu mạng người làm cái vui của mình, không nên cầu lợi, không kể công, tuy không có báo ứng ngay nhưng để lại ân đức cho đời sau. Người thầy thuốc là “nơi để người ta gửi gắm tính mạng” nên phải “nhiệt tình khám chữa bệnh, không phân biệt sang hèn, không cầu lợi kể công, không đem nhân thuật làm chước lừa dối, đem lòng nhân ra đổi lòng mua bán”. Những đức tính của người thầy thuốc là yêu nghề, yêu người, nhân từ, khiêm tốn lạc quan, thận trọng, biết cách đối xử. Hải Thượng Lãn Ông cho rằng. Khi chữa cho ai khỏi bệnh rồi, chớ có mưu cầu quà cáp vì những người nhận của người khác cho thường hay sinh ra nể nang, huống chi đối với những kẻ giàu sang, tính khí thất thường, mà minh cầu cạnh hay sinh ra khinh rẻ. Còn việc tâng bốc người ta để cầu lợi, thường hay sinh chuyện cho nên nghề thuốc là nghề thanh cao, ta càng phải giữ khí tiết cho trong sạch. Đồng thời ông cũng đưa ra tám tội của người thầy thuốc mà theo ông đó là biểu hiện “suy đồi” về đạo đức. Tội lười: là chẩn đoán qua loa đại khái, ngại vất vả không chịu đế nơi khám bệnh cho cẩn thận mà vội kê đơn, bốc thuốc cho xong Tội keo kiệt: Bủn xỉn, sợ bệnh nhân không có đủ tiển trả cho mình đủ vốn mà không cho thuốc tốt, cần thiết. Tội thâm: Là trường hợp bệnh nhân đã chết rõ ràng mà không báo thật với gia đình mà nói lờ mờ để làm tiền. Tội lừa dối: Là khi thấy người bệnh đã nói ngay là bệnh khó, bệnh nặng, làm cho người bệnh sợ để lấy nhiều tiền. Tội bất nhân: Là khi thấy bệnh khó, đáng lý nói thật rồi hết lòng cứu chữa, nhưng sợ thất bại, không được lợi lộc gì nên từ chối cứu chữa để người bệnh phải bó tay chịu chết. Tội hẹp hòi: Là gặp trường hợp người bệnh ngày thường có chuyện xích mích với mình, khi mắc bệnh phải nhờ cậy, vì nảy sinh thù oán mà không chạy chữa bệnh hoặc chạy chữa không hết lòng. Tội thất đức: Gặp người bệnh mồ côi, nghèo hèn, tàn tật không nơi nương tựa từ chối chữa bệnh hoặc chữa bệnh không hết lòng. Tội dốt: Là kiến thức còn non kém, kinh nghiệm ít, chẩn đoán bệnh lờ mờ đã dùng thuốc, có khi dùng thuốc nhầm làm nguy hại cho người bệnh. Đối với đồng nghiệp Hải Thượng Lãn Ông luôn thể hiện đức tính của mình trong việc kết thừa cũng như học hỏi giúp đỡ lẫn nhau. “Khi gặp bạn đồng nghiệp cần nên khiêm tốn hoà nhã, giữ gìn thái độ kính cẩn không khinh nhờn. Người hơn tuổi mình thì kính trọng, người học giỏi thì coi như bậc thầy, người kiêu ngạo thì nên nhân nhượng, người kém mình thì dìu dắt họ. Giữ được lòng đức hậu như thế sẽ đem lại nhiều hạnh phúc cho mình” Như vậy, có thể thấy rằng Hải Thượng Lãn Ông là một trong những danh y nối tiếng trong lịch sử y học dân tộc ta, ông đã nêu ra những chuẩn mực sâu sách về đạo nghề nghiệp mặc dù có những hạn chế về mặt lịch sử nhưng những giá trị chung mà ông để lại là rất to lớn. Đó chính là đạo đức nghề nghiệp - y đức có giá trị cho muôn đời sau. - Khái niệm về y đức: Kế thừa truyền thống y đức của ông cha, tiếp thu y đức của nhân loại, trên cương vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc và một nhà văn hoá lớn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc trau dồi và rèn luyện y đức. Người đã nhiều lần gửi thư, trực tiếp gặp, thăm các cơ sở y tế và nói rõ quan điểm của Đảng và Chính phủ ta về phẩm chất đạo đức của người thầy thuốc Trong Thư gửi Hội nghị quân y tháng 8/1948, Bác viết: “Người thầy thuốc chẳng những có nhiệm vụ cứu chữa bệnh tật mà còn phải nâng đỡ tinh thần cho những người ốm yếu…”. “Người ta có câu “Lương y kiêm từ mẫu” nghĩa là người thầy thuốc phải là người mẹ hiền” [42, tr.395]. Trong thư gửi Hội nghị cán bộ y tế toàn quốc (tháng 6/1953) Người đã chỉ ra những việc cán bộ y tế cần làm: Về chuyên môn; luôn luôn học tập, nghiên cứu để luôn luôn tiến bộ, nhưng phải chú trọng cái gì thiết thực và thích hợp với hoàn cảnh kháng chiến của ta hiện nay. Về chính trị; cần trau dồi tư tưởng và đạo đức của người cán bộ trong chế độ dân chủ: yêu nước, yêu dân, yêu nghề, đoàn kết nội bộ, thi đua học tập, thi đua công tác [42, tr.88]. Còn trong Thư gửi cán bộ y tế ngày 27/2/1955 một lần nữa người nhắc nhở: Người bệnh phó thác tính mệnh nơi các cô, các chú, Chính phủ phó thác cho các cô các chú việc chữa bệnh tật và sức khoẻ cho đồng bào. Đó là nhiệm vụ vẻ vang, vì vậy, cán bộ phải thương yêu chăm sóc mgười bệnh như anh em ruột thịt mình, coi họ đau đớn cũng như mình đau đớn, lương y phải như từ mẫu [42, tr.478]. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nghề thầy thuốc là một nghề đặc biệt, nó trực tiếp quan hệ đế sức khoẻ, đến tính mệnh của con người. “Người thầy thuốc phải như mẹ hiền” là một đòi hỏi khách quan trong việc thực hành y nghiệp. Thầy thuốc phải giàu lòng nhân ái, chẳng những có nhiệm vụ chữa bệnh mà còn phải nâng cao tinh thần của người bệnh, thương yêu người bệnh chăm sóc họ như anh em ruột thịt của mình, coi họ đau đớn như mình đau đớn. Theo Hồ Chí Minh y đức của người thầy thuốc là lương tâm đạo đức, là tránh nhiệm bổn phận của người thầy thuốc. Người dặn dò các “y tá chẳng những là một nghề nghiệp, mà còn là nghĩa vụ. Người y tá chẳng những chữa bệnh mà còn phổ biến vệ sinh. Việc giữ gìn, bồi dưỡng sức khoẻ của dân tộc, người y tá phải gánh một phần quan trọng”. Như vậy, Hồ Chí Minh đã nâng nội dung y đức lên một bước: “Muốn hồng phải chuyên sâu” , tức là đòi hỏi phải thương yêu bệnh nhân và không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Lời dạy của Người có sức thuyết phục và sức cảm hoá mạnh là vì Người đã nêu một tấm gương sáng về lòng thương yêu vô hạn đối với nhân dân, với đức hi sinh cao cả, về lối sống giản dị, mẫu mực và trong sáng Những quan điểm trên đây cho ta thấy rằng: y đức ở các thời đại khác nhau, dù ở phương Đông hay phương Tây, nhân loại luôn luôn đề cao trách nhiệm và bổn phận ở mỗi người thầy thuốc dù nó đã được ghi hay không được ghi trong văn bản luật lệ thì nó vẫn có sức nặng hơn cả một công lý. Bởi vì, khác với tiêu chuẩn của luật pháp, những tiêu chuẩn đạo đức nói chung tiêu chuẩn y đức nói riêng khó có thể miêu tả rõ ràng bằng điều luật mà chỉ là những quy ước thuộc phạm trù luân lý, đạo đức ràng buộc người thầy thuốc phải thực hiện trong khi hành nghề, vì danh dự của tập thể, bản thân và quyền lợi của bệnh nhân. Nội dung của y đức được nêu trong lời thề của Hypprocrat hay trong các lời thề tương tự của thầy thuốc và cán bộ y tế mới tốt nghiệp ở các nước. Các quy định của y đức thay đổi theo không gian và thời gian, tùy theo các yếu tố tâm lý, tín ngưỡng, phong tục, tập quán sống của mỗi cộng đồng xã hội. Trong xã hội hiện đại, các tiến bộ khoa học và công nghệ y học nêu lên một loạt vấn đề mới đang gây ra nhiều tranh luận chưa được kết luận thống nhất, nhưng đã làm thay đổi một phần các quan niệm thông thường về y đức như nạo phá thai, ghép cơ quan nội tạng, khả năng kéo dài cuộc sống trong khi bệnh nhân không còn ý thức, vv….? Ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát nội dung của y đức trong câu "lương y phải như từ mẫu". Từ sự phân tích trên, bước đầu ta có thể hiểu: y đức là những tiêu chuẩn, quy tắc trong đời sống xã hội đặt ra nhằm điều chỉnh các hành vi ứng xử và quan hệ của người thầy thuốc có liên quan đến nghề nghiệp của mình. Đó là thước đo lương tâm, trách nhiệm, bốn phận của người thầy thuốc. 1.1.2. Tầm quan trọng của y đức người cán bộ y tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay - Y đức - yếu tố nền tảng trong nhân cách người cán bộ y tế: Trong cấu trúc nhân cách, “đức” bao giờ cũng giữ vai trò nền tảng. Tài năng chỉ phát huy tác dụng, mang lại hạnh phúc cho nhân loại, khi được nảy sinh trên nền tảng đạo đức hướng thiện. Hồ Chí Minh từng nói: “Có tài mà không có đức... thì chẳng những không làm được gì có lợi cho xã hội, mà còn có hại cho xã hội nữa”. Chân lý ấy ấp dụng cho mọi đối tượng, trong đó có cả những người hoạt động trong lĩnh vực y tế. Y đức là đạo đức của người cán bộ y tế. Đó là những tiêu chuẩn, những nguyên tắc được xã hội thừa nhận, nó quy định hành vi trong mối quan hệ giữa thầy thuốc với bệnh nhân, với đồng nghiệp. Cũng như nghề thầy giáo, nghề thầy thuốc lấy con người là đối tượng công tác, nhưng đặc điểm nghề nghiệp của người thầy thuốc theo đuổi còn nghiệt ngã, nhạy cảm hơn nhiều. Thiên chức của nghề nghiệp tạo ra, ngành y tế chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cho con người, đó là vốn quý nhất của con người và xã hội. Con người là một sinh vật sống, mỗi cá nhân là một cá thể người trong đời sống cộng đồng xã hội. Trên thực tế có rất nhiều nguyên nhân làm ảnh hưởng đến sức khoẻ, đến tính mạng của con người. Trong ngành y tế nói chung và những người làm y tế nói riêng, từ xa xưa cho đến tận ngày nay rất quan tâm, chú trọng đến vấn đề y đức và coi đó là một mặt không thể thiếu của cán bộ hoạt động trong lĩnh vực y tế. Như Tuệ Tĩnh, Hải Thượng Lãn Ông, Nguyễn Đình Chiểu đều rất quan tâm đến y đức. Các ông đều là những tấm gương lớn về y đức trong cả lời nói lẫn việc làm. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành cho ngành y tế sự quan tâm đặc biệt. Từ năm 1947 đến 1967, Bác đã gửi 25 bức thư với những lời lẽ mộc mạc, dễ hiểu để vừa định hướng cho sự phát triển của ngành, vừa xây dựng con người làm công tác y tế, lấy đức làm gốc. Bác căn dặn “Người thầy thuốc giỏi đồng thời phải là như người mẹ hiền". Lời dạy đó của Bác cho thấy tầm quan trọng của y đức. Trên thực tế, một người thầy thuốc giỏi, có năng lực...nhưng tinh thần, thái độ phục vụ bệnh nhân không tốt, hành vi thiếu hướng thiện, làm việc vì nghĩa vụ pháp lý chứ không vì nghĩa vụ đạo đức...thì khó hoàn thành nhiệm vụ khó trở thành người “mẹ hiền” của bệnh nhân. Xuất phát từ vị trí tầm quan trọng của y đức - với tư cách là yếu tố nền tảng của nhân cách người cán bộ y tế. Trong nhiều bài viết bài nói của các đồng chí lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta, vấn đề y đức luôn luôn được coi trọng. Nhân ngày thầy thuốc Việt Nam năm 1958, nguyên cố Thủ Tướng Phạm Văn Đồng căn dặn cán bộ và nhân viên ngành y tế: Đội ngũ cán bộ mà chúng ta dày công đào tạo và rèn luyện vừa phải có những phẩm chất, vừa phải có tài năng... Phải có tâm hồn người mẹ hiền thì mới là người nhân viên cán bộ y tế tốt. Ít có nghề nghiệp nào mà xã hội đòi hỏi về phẩm chất và tài năng cao như đối với người làm công tác y tế. Đó là một nghề nghiệp đặc biệt, đòi hỏi phải biết hiểu sâu rộng, tấm lòng nhân ái, sự từng trải và kinh nghiệm, một nghề mà mọi công việc dù là nhỏ, đều có liên quan đến tính mạng con người [56, tr.140]. Trong buổi lễ kỷ niệm ngày thầy thuốc Việt Nam 27/2/1996 và đón nhận huân chương sao vàng, nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười đã chỉ thị cho ngành y phải “phát huy hơn nữa truyền thống vẻ vang của ngành, không ngừng nâng cao trình độ ngang tầm nhiệm vụ, rèn luyện phẩm chất, đặc biệt là nâng cao y đức, hết lòng chăm lo người bệnh, thực hiện lời dạy của Bác Hồ “thầy thuốc như mẹ hiền”” Trong thư gửi báo “Sức khoẻ và đời sống” , nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đã căn dặn cán bộ ngành y tế: Công việc của người thầy thuốc được ví như công việc của Người Mẹ, chăm lo cho con cái, cho gia đình, cho nòi giống, con người, từ thủa chưa lọt lòng đến phút giây thanh thản từ giã cuộc đời; giúp cho bà con vượt qua số phận hẩm hiu, những đau đớn quằn quại của bệnh tật, sinh nở được mẹ tròn con vuông, giúp cho lứa đôi hạnh phúc, các cụ trường thọ”. Đồng chí dặn dò mỗi cán bộ y tế: “Đem tình thương vĩnh cửu của Người Mẹ để làm công việc cao quý của mình [22, tr.271]. Nhân ngày Thầy thuốc Việt Nam 27/2/2002, Đồng chí Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh viết: “Chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân là một công việc đặc biệt liên quan đến tài tài sản vô giá là sinh mệnh con người. Cán bộ y tế không ngừng rèn luyện, gắn “đức và tài”, phải có “cái tâm trong sáng” mới làm được nghề cao quý này” và đồng chí đã nhắc nhở cán bộ y tế: “Phải tiếp tục nâng cao y đức của cán bộ y tế, thể hiện bằng hành động cụ thể từ đón tiếp người bệnh, khám bệnh, chuẩn đoán và điều trị và chăm sóc tại các cơ sở y tế" [22, tr.155]. Thủ Tướng chính phủ rất quan tâm chỉ đạo ngành y nâng cao y đức. Nghị quyết số 37/CP của Chính phủ ngày 20 tháng 6 năm 1996 về định hướng chiến lược chăm sóc sức khoẻ và bảo vệ nhân dân trong thời gian 1996 - 2000 và chính sách quốc gia về thuốc của Việt Nam đã ghi rất rõ “coi y đức là phẩm chất quan trọng ngang với chất lượng chuyên môn của người thầy thuốc. Ban hành chế độ chính sách thích đáng để khuyến kích lao động sáng tạo và tận tình phục vụ người bệnh của nghười cán bộ y tế”. Những năm gần đây, Bộ y tế đặc biệt chú ý thể chế hoá nội dung y đức để cán bộ trong ngành phấn đấu thực hiện. Đó là chỉ thị 04/BYT - CT của Bộ trưởng Bộ Y tế về vấn đề Y đức và quyết định số 2088/BYT - QĐ ngày 06/11/1996 của Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành quy định về y đức bao gồm 12 điều về tiêu chuẩn đạo đức của người làm công tác y tế. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, trước thực trạng đạo đức nghề nghiệp của một bộ phận ngành y xuống cấp, thì việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là hết sức cấp thiết. Phấn đấu trở thành người thầy thuốc cách mạng có đức độ bao dung, gần gũi, thương yêu người bệnh như người mẹ hiền, vừa là mục tiêu phấn đấu của chiến sĩ quân y và cũng vừa là yêu cầu, mong muốn của người bệnh. Xác định rõ trách nhiệm, các tổ chức Đảng, lãnh đạo, chỉ huy các cơ sở y tế xây dựng kế hoạch, chương trình hành động cụ thể để thực hiện, tập trung vào nâng cao đạo đức của người thầy thuốc cánh mạng; người chiến si quân y - Bộ đội Cụ Hồ, bằng những biện pháp cụ thể như kết hợp giữa xây và chống, đẩy lùi sự suy thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống, phê phán lối sống thực dụng, vô cảm, đặc biệt là nghiêm cấm những biểu hiện sách nhiễu bệnh nhân và người nhà bệnh nhân… Đồng thời, xây dựng các mối quan hệ giữa người với người, giữa thầy thuốc và bệnh nhân thực sự có văn hóa, chú trọng cả các mối quan hệ công tác và các mối quan hệ giao tiếp, tạo nên bầu không khí ấm cúng, mọi người thương yêu, đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau trong tình cảm giữa con người với con người, giữa đồng chí đồng đội với nhau làm cơ sở để xây dựng y đức. Đó là mục tiêu quan trong nhất của ngành y tế trong việc thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Từ những quan điểm trong lịch sử cũng như sự chỉ đạo của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay về vấn đề y đức của cán bộ y tế cho ta nhận thấy y đức của người cán bộ ngành y tế có vai trò quan trọng, là yếu tố nền tảng không thể thiếu đối với bất kỳ cán bộ y tế nào. - Y đức góp phần nhân đạo hoá người cán bộ y tế: Y đức là tiêu chuẩn là, quy tắc đạo đức đặt ra nhằm điều chỉnh hành vi xử sự và quan hệ của người thầy thuốc có liên quan tới nghề nghiệp của mình. Đó là thước đo lương tâm, trách nhiệm, bổn phận cùng hạnh phúc của người thầy thuốc. Y đức của thầy thuốc thể hiện ở sự trung thực trong chuyên môn, không man trá trong học tập, nghiên cứu khoa học, không biến công lao động của người khác thành của mình, giám nhận sai sót để sử chữa; trung thực với chính mình và đồng nghiệp, thầy thuốc không mang lòng kiêu ngạo, luôn tự học hỏi, tự bồi dưỡng kiến thức và sự giúp đỡ của đồng nghiệp người thầy thuốc với bệnh nhân mang đầy tính nhân đạo cao cả thể hiện “thầy thuốc như mẹ hiền”. Thầy thuốc luôn đặt lợi ích người bệnh lên trên hết, phục vụ người bệnh vô điều kiện, thương yêu chăm sóc người bệnh như anh em ruột thịt, với tình thương như mẹ hiền. Người thầy thuốc luôn lấy tâm làm gốc, không phân biệt đối xử thân, sơ, giầu, nghèo, quyền thế, nhân kỷ niệm 50 năm Đại học Y khoa Hà Nội, Phó giáo sư, Viện sĩ Tôn thất Bách đã viết: “Người thầy thuốc còn phải xử sự bằng y đức với người bệnh, phải thể hiện lương tâm, lòng nhân từ, coi người bệnh như chính anh em ruột thịt của mình. Nhìn lại lịch sử ta đều thấy người xưa vẫn quan niệm ngành y học là ngành nhân đạo, y học được thành lập và phát triển cốt để phục vụ xã hội, chứ đâu có đặc quyền đặc lợi của riêng người thầy thuốc”. Cán bộ y tế không được coi kinh người nghèo khó, với thái độ ban ơn hách dịch cửa quyền...hiểu một cách sâu sắc chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân vừa là nghĩa vụ đạo đức, là hạnh phúc người thầy thuốc. Y học là một khoa học mang tính nghệ thuật: nghệ thuật ứng xử, nghệ thuật tiếp xúc, cho nên trong quá trình tiếp xúc phải cảm hoá được người bệnh và nhân thân của họ, phải biết làm dịu nỗi lo lắng của người bệnh. Trong giai đoạn hiện nay người thầy thuốc là một chiến sỹ trên mặt trận y tế, thầy thuốc luôn gắn hoạt động của mình với sức khoẻ nhân dân, người thầy thuốc không được rời thực tế, không được dao động trước thử thách, khó khăn; tránh thái độ thờ ơ, bàng quan trước cuộc sống, trước diễn biến của xã hội, tích cực phát huy tinh thần làm chủ tập thể, đấu tranh chống mọi biểu hiện tiêu cực trong và ngoài ngành y. Đạo đức nghề nghiệp đòi hỏi người thầy thuốc phải có lòng độ lượng, bao dung không được xem nhẹ nguyên tắc điều trị bệnh, không nóng nảy, tự ái, xúc phạm người khác, phải quan tâm đến nguyện vọng, tình cảm, sự lo âu của người bệnh. Đạo đức nghề nghiệp sẽ hun đúc nên tình thần nhân đạo cao cả, phẩm chất nhân cách tốt đẹp của người cán bộ y tế. Đạo đức nghề nghiệp góp phần xác định bổn phận, lương tâm, dạnh dự, hạnh phúc của người cán bộ y tế xã hội chủ nghĩa. Công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã thu được những thành tựu vô cùng to lớn, có tác động tích cực đến mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Chính điều đó đã ảnh hưởng tích cực đến sức khoẻ của nhân dân, cải thiện đời sống như: ăn, ở, học hành và chăm sóc sức khoẻ. Người thầy thuốc trong giai đoạn hiện nay phải có nhân sinh quan cách mạng vững vàng, trung thành tuyệt đối với chế độ xã hội chủ nghĩa, vì nhân dân lao động, chấp nhận sự phân công của tổ chức. Phải là người hoạt động xã hội tích cực trong lĩnh vực giáo dục, y tế, vệ sinh phòng bệnh, xây dựng nếp sống văn minh. Phải quán triệt quan điểm nghề nghiệp của mình trong đời sống xã hội. Trong hoạt động hàng ngày, người thầy thuốc phải tiếp xúc với nhiều loại đối tượng khác nhau với những tình trạng thể chất và trạng thái tâm lý không giống nhau, do đó người thầy thuốc phải có lòng thông cảm và tình thương yêu con người hơn ai hết. Điều này thể hiện ở tính vị tha, lòng khoan dung, quan tâm đến nguyện vọng, sự lo âu của bệnh nhân, luôn luôn cổ vũ, phát huy tình cảm tích cực đẩy lùi tình cảm tiêu cực của người bệnh. Tóm lại tinh thần nhân đạo của người thầy thuốc phải mang tính giai cấp, trước hết là giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Sự hoạt động của người thầy thuốc rất phức tạp, đòi hỏi phải có lương tâm nghề nghiệp, vì tính mạng của người bệnh nằm trong tay mình, có quyền chi phối đến sức khoẻ và hạnh phúc của con người. Phạm vi hoạt động của người thầy thuốc rất đa dạng đòi hỏi phải có tính tự giác, trách nhiệm cao, công minh và trung thực. Ngoài ra với thầy thuốc phải có kiến thức pháp luật để bảo vệ nhân dân tránh mọi sự lạm dụng quyền hạn, tránh nhiệm của nghề nghiệp làm tổn thương đến sức khoẻ và nhân phẩm của con người và cũng tự bảo vệ chính mình trước pháp luật khi có khiếu kiện của bệnh nhân Phải thực hiện lời dạy của Bác Hồ “Lương y như từ mẫu” thầy thuốc phải đặt lợi ích của bệnh nhân lên trên hết, phục vụ bệnh nhân vô điều kiện. Khi gặp việc đòi hỏi mọi cán bộ y tế phải làm ngay không chờ bất cứ một điều kiện nào, có như thế mới cứu được tính mạng của của bệnh nhân trong cơn nguy kịch. Phải thương yêu chăm sóc bệnh nhân như người ruột thịt của mình, với tình thương yêu vĩnh cửu của người mẹ để làm công việc cao quý của mình. Thầy thuốc phải có tâm trong sáng tài cao vì thể phải trau dồi y đức, học tập thường xuyên, phải làm sao “Hữu xạ tự nhiên hương” có uy tín được bệnh nhân tin yêu kính trọng. Phải có tâm lý tiếp xúc tốt, có ý thức bí mật nghề nghiệp, biết an ủi bệnh nhân, tạo niềm tin tưởng lạc quan cho tới giây phút cuối cùng. - Y đức góp phần to lớn trong việc ngăn chặn sự xuống cấp về mặt đạo đức của một bộ phận cán bộ y tế trong giai đoạn hiện nay: Đất nước ta từ khi chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nề kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã kéo theo sự biến đổi của ý thức xã hội, trong đó có ý thức đạo đức. Nhiều quan niệm đạo đức khác nhau với những quy phạm đạo đức khác nhau xuất hiện tồn tại đan xen cùng với đạo đức xã hội chủ nghĩa. Khi nói đến mặt trái của kinh tế thị trường Các Mác đã chỉ ra rằng đó là một thứ mậu dịch không có lương tâm, nó là một quan hệ giữa người với người “chìm ngập trong băng giá của sự tính toán lợi kỷ” bởi vì: “Ngoài quan hệ lợi hại trần truồng, ngoài sự giao dịch tiền mặt lạnh lùng vô tình sẽ chẳng còn có một mối liên hệ nào khác” Kinh tế thị trường lấy lợi ích cá nhân làm động lực của sự phát triển. Nhân tố này tuy có mặt tích cực là khơi dậy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người lao động. Đồng thời nó cũng khiến người ta chạy theo lợi ích “vị kỷ”, một “chất men” kích thích làm nhiều cán bộ trong đó có cán bộ y tế lao vào mà bất chấp hậu quả, bất chấp pháp luật, bất chấp lương tâm nghề nghiệp. Chủ nghĩa cá nhân với triết lý “sống chết mặc bay” ăn mòn đạo lý sống được xây dựng trên nền tảng của cái thiện, trái ngược với “Đạo đức đích thực” của con người. Nguy hiểm hơn đối với cán bộ nói chung đó là tình trang rơi vào tha hoá biến chất, lợi dụng chức quyền, quyền lực để thường xuyên mưu cầu lợi ích cá nhân. Còn trong ngành y đó là tình trạng lợi dụng nghề nghiệp và lòng tin của nhân dân để trục lợi. Là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức - y đức không thể không thay đổi trước sự thay đổi của tồn tại xã hội. Vì vậy, trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội tất yêu sẽ làm thay đổi thang giá trị đạo đức. Nếu trước đây dư luận xã hội kỳ thị với những người giàu lên bằng sản xuất kinh doanh cá thể, thì nay xã hội lại khuyến khích làm giàu chính đáng. Từ thực trạng của đời sống xã hội hiện nay nhiều giá trị truyền thống tốt đẹp bị xói mòn, người ta đề cao quá mức nhiều giá trị mới cá nhân như tính năng động, sự khôn ngoan, tính sáng tạo... mà quên mất những giá trị chung, cho dù đó vẫn là giá trị đạo đức cao nhất trong thước đo phẩm giá con người. Biểu hiện tiêu cực về đạo đức trong cán bộ y tế hiện nay, đó là một số thầy thuốc cố tình làm giầu trên sức khoẻ người bệnh, tính tiền cao cho mỗi lần khám và điều trị, đòi hỏi thù lao cho mỗi lần phẫu thuật... Một trong những điều đáng lo ngại hiện nay là từ chỗ coi trọng các giá trị chính trị xã hội chuyển sang coi trọng các giá trị vật chất kinh tế; từ chỗ lấy con người tập thể, con người xã hội làm mẫu mực sang coi trọng con người cá nhân, thậm chí là cá nhân ích kỷ, cá nhân chủ nghĩa. Từ chỗ lấy lý tưởng đạo đức làm mẫu chuyển sang coi nhẹ đạo đức, phẩm giá, mà coi trọng giá trị thực dụng, đời sống tiện nghi vật chất tôn sùng đồng tiền. Đứng trước thực trạng đó, vấn đề nâng cao y đức trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Chính những giá trị, những phẩm chất đạo đức tốt đẹp sẽ là sức đề kháng, giúp cho người cán bộ y tế chống lại các loại “bệnh”, như: chủ nghĩa cá nhân, bệnh tham lam, bệnh bè phái... - Nâng cao y đức là đòi hỏi khách quan để người cán bộ y tế hoàn thành nhiệm vụ: Trong bài: “Đạo đức cách mạng” Hồ Chí Minh cho rằng: cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”. Trong điều kện hiện nay, đứng trước sự suy thoái về phẩm chất đạo đức ở một bộ phận cán bộ cán bộ, đảng viên trong các cấp các ngành, việc học tập làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh có ý nghĩa lý luận và thực tiễn vô cùng to lớn, nó giúp ngăn chặn để đi đến đẩy lùi thực trạng trên, với ý nghĩa đó, xây dựng y đức, nâng cao y đức trong giai đoạn hiện nay là yêu cầu cấp bách để người cán bộ y tế hoàn thành nhiệm vụ được giao vì: Con người là vốn quý nhất, trong đó cái vốn quý nhất của con người là sức khoẻ. Do đó, nhiệm vụ chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân là nhiệm vụ hết sức vẻ vang nhưng cũng vô cùng nặng nề đối với người cán bộ y tế. Do vị trí vai trò, nhiệm vụ của ngành y xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn cách mạng, thực tiễn công cuộc đổi mới đất nước đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ y tế có đủ đức đủ tài đáp ứng nhiệm vụ cách mạng đặt ra. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” khi nói về vai trò, tầm quan trọng của đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh viết rằng: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo thì thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lành đạo được nhân dân”. Chân lý ấy là sự khái quát, sự tổng kết một bình diện lớn lao của hoạt động thực tiễn cách mạng mà ngành y tế không là ngoại lệ. Trong giai đoạn hiện nay trước những biến động của đời sống kinh tế, xã hội, ngành y cũng phải trải qua những bước thăng trầm, thậm trí có lúc suy thoái, xuống cấp. Những năm gần đây với tinh thần phát huy nội lực, với ý chí quyết tâm cao, với những tấm lòng nhiệt huyết mới, ngành y đã đã từng bước vượt qua khó khăn thử thách tạo nên những chuyển biến quan trọng đánh dấu một thời kỳ ổn định và phát triển, làm đẹp thêm lá cờ truyền thống của ngành. Một trong những nhiệm vụ quan trọng bậc nhất giai đoạn hiện nay là phải phát triển sự nghiệp chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân, đẩy lùi bệnh tật, làm tăng tuổi thọ, làm cho giống nòi ngày càng tốt hơn, tạo ra lực lượng lao động có thể lực dồi dào, trí tuệ minh mẫn, đủ năng lực tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá. Như vậy ngành y có một nhiệm vụ quan trọng và nặng nề là bảo vệ tính mạng và sức khoẻ của nhân dân, cho nên nâng cao y đức truyền thống cho cán bộ ngành y tế là việc làm cần thiết và cấp bách. Muốn vậy trước hết phải chú ý đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ y tế vừa hồng, vừa chuyên mang đạo đức xã hội chủ nghĩa, giỏi chuyên môn nghiệp vụ, luôn chủ động sáng tạo trong công tác và học hỏi đồng nghiệp để không ngừng nâng cao mọi mặt, tận tuỵ phục người bệnh ngày một tốt hơn và góp phần vào việc xây dựng và nâng cao y đức của người cán bộ y tế trong xã hội chủ nghĩa. 1.2. YÊU CẦU Y ĐỨC CỦA CÁN BỘ NGÀNH Y TẾ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY - Có lòng yêu ngành, yêu nghề, coi việc chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân là niềm vui, là hạnh phúc của người cán bộ y tế: Trong “Thư gửi hội nghị quân y” (Tháng 3- 1948), Bác Hồ viết: người thầy thuốc chẳng những có nhiệm vụ cứu chữa bệnh tật mà còn phải nâng đỡ tinh thần những người ốm yếu” [56, tr.395]. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ cao cả vừa “cứu chữa bệnh” vừa “nâng đỡ tinh thần những người ốm yếu” đòi hỏi người cán bộ y tế phải có lòng yêu ngành yêu nghề, coi việc chăm sóc sức khoẻ của nhân dân là lẽ sống, là niềm vui, là hạnh phúc của chính mình. Hơn lúc nào hết ở đây đạo đức nghề nghiệp phải được đề cao và thực hiện một cách hoàn toàn tự nguyện, tự giác, không vụ lợi coi hạnh phúc của người bệnh là hạnh phúc của chính mình. Muốn vậy, người cán bộ y tế trước hết phải tình nguyện trở thành “môn đồ” của nghề y, phải hun đúc trong bản thân mình lòng yêu ngành yêu nghề, ham mê trong công việc, không ngừng phấn đấu, rèn luyện, nâng cao trình độ chuyên môn, không trở nên lạc hậu trước sự phát triển của y học hiện đại. Hải Thượng Lãn Ông đã từng nói: “Thầy thuốc phải coi nghề là đầu mối của đạo đức chân chính”. Y đức của người thầy thuốc luôn thể hiện ở trình độ chuyên môn giỏi và tinh thần trách nhiệm cao trong công việc. Non kém về trình độ chuyên môn, chẩn đoán sai lệch, điều trị không chính xác để xảy ra hậu quả đáng tiếc thì dù có tận tình ngày đêm, dù có thể hiện lòng yêu thương người bệnh thế nào đi chăng nữa thì vẫn thiếu y đức. Lao động của người cán bộ y tế là hình thức hoạt động đặc biệt một lao động rất cao thượng, tiêu biểu của chủ nghĩa nhân đạo cách mạng. Hàng ngày, người thầy thuốc phải tiếp xúc với nhiều đối tượng khác nhau, hơn ai hết người làm cán bộ y tế phải có lòng thông cảm và tình thương yêu con người. Phải có tác phong gần gũi quần chúng, lòng khoan dung độ lượng, quan tâm đến tâm tư tình cảm nguyện vọng của bệnh nhân, luôn luôn động viên và cổ vũ người bệnh, phát huy tình cảm tích cực, đẩy lùi tình cảm tiêu cực của con người. - Tôn trọng quyền được khám và chữa bệnh của nhân dân: Cả lý luận lẫn thực tiễn đều chứng minh một cách không thể bác bỏ được rằng, quần chúng nhân dân là người sáng tạo chân chính ra lịch sử. Để phát huy vai trò ngày càng to lớn của quần chúng nhân dân trong tiến trình cách mạng, một trong những công tác quan trọng, không được xem thường đó là việc bảo vệ chăm sóc sức khoẻ của nhân dân. Người trực tiếp thực hiện nhiệm vụ trọng đại này chính là đội ngũ những người cán bộ y tế. Trong Thư gửi cán bộ y tế đầu năm 1955 Bác Hồ căn dặn cán bộ y tế phải: Thương yêu người bệnh. Người bệnh phó thác tính mạng của họ cho các cô, các chú. Chính phủ phó thác cho các cô, các chú việc chữa bệnh tật và giữ gìn sức khoẻ cho đồng bào. Đó là nhiệm vụ rất vẻ vang. Vì vậy, các cán bộ cần phải chăm sóc thương yêu người bệnh như anh em ruột thịt của mình, coi họ đau đớn cũng như mình đau đớn, Điều 3 của 12 điều y đức do Bộ Y tế quy định có ghi: Tôn trọng quyền khám bệnh, chữa bệnh của nhân dân. Tôn trọng những bí mật riêng tư của người bệnh; khi thăm khám, chăm sóc cần đảm bảo kín đáo và lịch sự. Quan tâm đến người bệnh trong diện chính sách ưu đãi xã hội. Không được phân biệt đối xử với người bệnh. Không được có thái độ ban ơn, lạm dụng nghề nghiệp gây phiền hà cho người bệnh. Phải trung thực khi thanh toán các chi phí khám bệnh, chữa bệnh. Thầy thuốc phải có tâm trong sáng trau dồi nghệ thuật chinh phục bệnh nhân, phải biết tâm lý tiếp xúc người bệnh; phải thận trọng và chu đáo khi tiếp xúc với các tầng lớp bệnh nhân, thầy thuốc nam giới phải giữ quan hệ đúng đắn với bệnh nhân nữ; phải có ý thức đầy đủ về bí mật y tế, bí mật nghề nghiệp. “Bí mật y tế là những bí mật thuộc về tình hình sức khoẻ, đời sống cá nhân và gia đình bệnh nhân, do nghề nghiệp và lòng tin đặc biệt của thầy thuốc đối với bệnh nhân mà biết được”. Thầy thuốc phải hiểu người bệnh không chỉ đau đớn về thể xác mà còn có các đặc điểm về tính nết và có cả những cảm xúc không chỉ do bệnh tật gây ra mà còn do cả cuộc đời tác động. Mối quan hệ giữa thầy thuốc và bệnh nhân là nghĩa vụ đạo đức, tình thương chứ không phải là nghiệp vụ pháp lý một cách đơn thuần. Thầy thuốc phải có cái tâm trong sáng tài cao vì thế phải trau dồi y đức, học tập thường xuyên nâng cao tay nghề tiếp thu những tinh hoa y học hiện đại cũng như kế thừa nền y học cổ truyền của dân tộc để ngày càng phục vụ bệnh nhân tốt hơn, phải làm sao “Hữu xạ tự nhiên hương” có uy tín được bệnh nhân tin yêu và kính trọng. Người cán bộ y tế là người phải có lương y có bộ óc thông minh, những trái tim nhân ái, những bàn tay từ mẫu để người bệnh yên tâm mà giao phó tính mạng cho mình. Trong những năm qua ngành y tế nước ta phải đối mặt với không biết bao nhiêu khó khăn, thách thức, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, với quyết tâm cao của đội ngũ cán bộ y tế, công tác bảo vệ chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân đạt được những thành tích hết sức to lớn. Tại Đại hội lần X, Đảng ta đánh giá. Hoạt động y tế dự phòng được đẩy mạnh hơn, một số dạng bệnh mới như dịch viêm phổi cấp (SARS) được ngăn chặn, khắc phục nhanh. Mạng lưới y tế, đặc biệt là y tế cơ sở được củng cố và phát triển...Một số cơ sở y tế chuyên ngành được cung cấp, ứng dụng công nghệ tiên tiến...tuổi thọ bình quân của dân số nước ta tăng từ 67,8 tuổi vào năm 2000 lên 71,5 tuổi vào năm 2005 [25, tr.158]. Có được kết quả đáng khích lệ đó không thể không nói đến tinh thần, thái độ tôn trọng quyền được khám và chữa bệnh của nhân dân của đội ngũ những người làm công tác y tế ở nước ta trong thời gian qua. - Đoàn kết tôn trọng đồng nghiệp: Xuất phát từ quan hệ biện chứng giữa cá nhân với tập thể, với cộng đồng xã hội, đòi hỏi người cán bộ y tế nói chung phải đoàn kết tôn trọng đồng nghiệp phải học tập kinh nghiệm lẫn nhau, đạo đức của đội ngũ cán bộ cách mạng nói chung, cán bộ y tế nói riêng xa lạ với tính tự cao, tự đại hay tính ích kỷ, hẹp hòi. Thầy thuốc trước hết phải chân thành với chính bản thân mình, có như vậy mới thực sự chân thành với đồng nghiệp, phải có ý thức tập thể cao, phải xây dựng uy tín cho tập thể. Do tính mạng của người bệnh nằm trong tay mình, nên gặp khó khăn bắt buộc phải hội chẩn. Trong trường hợp này trí tuệ của tập thể bao giờ cũng sáng suất và đáng tin cậy. Thầy thuốc phải tin vào chính mình cũng như phải tin vào đồng nghiệp. Sự cân nhắc nhiều khi phải nhanh, khẩn cấp, do vậy thầy thuốc phải thực sự am hiểu chuyên môn thì mới có quyết đoán đúng. Ngành y là một lĩnh vực hoạt động mang tính xã hội cao, mọi hoạt động của nó luôn luôn đòi hỏi tính tập thể chặt chẽ, sản phẩm của ngành bao giờ cũng mang dấu ấn xã hội. Chẳng hạn một kết quả xét nghiệm, một ca cấp cứu được điều trị kịp thời, một cuộc phẫu thuật thành công đều là sản phẩm của nhiều người, chứ không phải của bất cứ một ai. Do hoạt động của ngành y có tính tập thể như vậy, cho nên muốn thành công, muốn có kết quả trong điều trị, trong nghiên cứu khoa học phải đoàn kết, hiệp đồng, hợp tác trao đổi với nhau. Sự đoàn kết hiệp đồng, hợp tác trước hết xuất phát từ sự sống còn của người bệnh, ở sự thành công trong hoạt động của ngành, của tập thể chứ không phải từ chỗ ai phụ thuộc ai, ai chi phối ai, hay vì thanh danh, uy tín của những cá nhân. Để đạt được sự đoàn kết hiệp đồng phải có sự phân công rõ ràng, tỉ mỉ, hợp tác chuẩn xác, chứ không phải đoàn kết hiệp đồng mà không có tổ chức, chỉ dựa vào lòng tự giác thiếu tổ chức chặt chẽ thì tập thể đó không có sức mạnh. Một người thầy thuốc mà không ý thức được sự cần thiết phải hiệp đồng với đồng nghiệp, thiếu đoàn kết, không chân thành trong công việc thì hoạt động của họ bị hạn chế cả về tính xã hội cũng như hiệu quả công tác và y đức. Vì vậy người thầy thuốc xã hội chủ nghĩa phải là người có tinh thần đoàn kết, hiệp đồng, hợp tác trong hoạt động nghề nghiệp, có khả năng tổ chức sự đoàn kết, hợp đồng và hợp tác để đạt hiệu quả ngày một cao hơn. Một tập thể tốt thì người bệnh mới thực sự yên tâm và tin tưởng. Do vậy quan hệ của thầy thuốc với các đồng nghiệp phải tuân theo lời dạy của Bác Hồ “Trước hết là phải đoàn kết, đoàn kết là sức mạnh của chúng ta, đoàn kết thì vượt qua mọi khó khăn, giành được nhiều thành tích. Đoàn kết giữa các Cán bộ cũ và mới, đoàn kết tất cả các người trong ngành y tế, từ các Thứ trưởng, Bộ trưởng, bác sĩ, dược sĩ cho đến các anh em giúp việc. Bởi vì, công việc và địa vị tuy có khác nhau nhưng người nào cũng là một bộ phận cần thiết trong ngành y tế, trong việc phục vụ nhân dân” Cách cư xử chân thành, tế nhị, đoàn kết xây dựng giữa những người làm công tác y tế với nhau sẽ tạo nên tập thể vững mạnh và càng tăng thêm sự tin tưởng của bệnh nhân vào người cán bộ y tế - Kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực trong hoạt động y tế: Ngành y là một ngành đặc biệt, vì nó liên quan đến sức khoẻ, tính mạng con người trong cuộc sống hàng ngày cũng như những lúc ốm đau, bệnh tật. Là nghề “đi tìm cái sống từ cõi chết”, chính vì thế, nghề y là nghề luôn luôn được xã hội đề cao, trân trọng, đồng thời nó cũng luôn luôn bị rủi ro nghề nghiệp rình rập. Trong những năm qua bên cạnh những thành tựu mà ngành y tế đã đạt được, cũng còn không ít những yếu kém trong hoạt động y tế. Như hiện tượng thiếu tinh thần trách nhiệm của cán bộ y tế khi làm nhiệm vụ, gây tác hại đến tính mạng sức khoẻ của người bệnh. Hay hiện tượng bất công bằng trong khám và chữa bệnh, phân biệt đối xử với bệnh nhân, người giàu thì được quan tâm, chăm sóc chu đáo, được ưu tiên trong công tác điều trị, phòng nằm tốt, thầy thuốc giỏi, được mổ trước, tiêm chuyền trước, được chăm sóc ân cần, chu đáo. Ngược lại người nghèo thì phân biệt đối xử, mọi thứ thiệt thòi, săn sóc vô trách nhiệm, dễ cáu gắt, lời nói bất nhã, vẻ lạnh lùng thậm chí còn bị tiêm đau hơn. Hiện tượng tiêu cực khá phổ biến khác đó chính là đối với bệnh nhân dùng thẻ bảo hiểm y tế, do quy định trần điều trị trong ngày, nên khi cho thuốc, vật tư dạng thuốc, cán bộ y tế tính toán để khỏi vượt quá 70% để còn hưởng 30% làm quỹ khen thưởng cho mình, cố gắng chỉ chi thuốc thiết yếu, thuốc nội, thuốc rẻ tiền trong danh mục thuốc thiết yếu do Bộ Y tế quy định. Bên cạnh đó còn rất nhiều phiền hà đối với bệnh nhân có bảo hiểm y tế như bệnh nặng muốn được chuyển viện thì cũng cần phải có quan hệ với bác sỹ mới được viết giấy chuyển, hay cùng là bệnh nhân bệnh tình như nhau nhưng người khám dịch vụ được khám trước còn người có bảo hiểm phải khám sau, bệnh nhân phải biếu quà cho thầy thuốc để được chăm sóc tốt hơn.v.v.. Hay hiện tượng vì lợi nhuận cá nhân mà liên kết với các hiệu thuốc tư nhân kê đơn bán thuốc cho bệnh nhân nặng hơn, thuốc đắt tiền cho bệnh nhân để kiếm lời... Chủ nghĩa thực dụng, lối sống vô đạo đức, không cần tình nghĩa, nguội lạnh lương tâm, chôn vùi danh dự. Lối sống chỉ có mục đích duy nhất là thoả mãn tham vọng cá nhân mà họ có thể sử dụng mọi phương tiện xấu xa tàn bạo để đạt được mục đích đó của mình, đó là giàu có, giàu có nữa và luôn luôn giàu có thêm, nhưng đó không phải là sự giàu có của xã hội, mà đó là sự giàu có của cá nhân riêng lẻ, nhỏ nhen. Bên cạnh đó có một số cán bộ y tế lại có thái độ “vị khoa học”, chỉ trọng tài mà giảm sự rèn luyện đạo đức, thờ ơ với các chính sách của Đảng và Nhà nước. Chỉ chú ý đến chuyên môn, khoa học kỹ thuật, chưa quan tâm, đến đời sống chính trị xã hội, pháp luật, nội dung của y tế xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra còn có những cán bộ y tế bị lôi cuốn bởi các công ty nước ngoài, bỏ cơ quan nhà nước đi làm ở những nơi có thu nhập cao hơn. Tất cả các hiện tượng sai trái trên đây đều đi ngược lại những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp, vi phạm những chuẩn mực đạo đức của người cán bộ y tế xã hội chủ nghĩa là trái với lời căn dặn của Bác Hồ kính yêu: “Lương y phải như từ mẫu”. Do đó chúng ta phải kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn và khắc phục chúng, đem lại môi trường xã hội trong sạch, làm lành mạnh trong việc bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ của nhân dân. - Không ngừng học tập, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ: Trong cấu trúc nhân cách, đạo đức luôn luôn giữ vai trò quyết định, nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta xem nhẹ tài năng. Tài năng chỉ được hình thành và phát triển đúng hướng phục vụ cho lợi ích chân chính của con người trên nền tảng đạo đức hướng thiện. Ngược lại, đạo đức hướng thiện cũng phải dựa trên cơ sở tài năng, năng lực chuyên môn. Đạo đức không phải là những thuyết giáo sáo mòn “đạo cao, đức trọng”, xa rời cuộc sống. Sự thống nhất giữa lời nói với việc làm, giữa ý thức đạo đức với thực tiễn đạo đức trở thành một trong những nguyên tắc căn bản của đạo đức mới - đạo đức xã hội chủ nghĩa. Người cán bộ y tế trong bất cứ xã hội nào cũng được xã hội đánh giá rất cao. Bởi trong hoạt động nghề nghiệp của mình, họ đã “cải tử hoàn sinh” cho nhiều người, họ đã đem lại niềm vui hạnh phúc cho nhiều gia đình. Phần lớn họ là những người có sự hiểu biết sâu rộng, nhiều người thực sự là tấm gương, là niềm mơ ước của thế hệ trẻ. Thực tế đó nhiều khi làm cho không ít cán bộ y tế ngộ nhận, dẫn đến nảy sinh tư tưởng coi thường người khác, đề cao quá mức vai trò của bản thân mình đối với xã hội. Để khắc phục tình trạng trên, đòi hỏi người cán bộ y tế phải có đức tính khiêm tốn trong giao tiếp, trong hoạt động nghề nghiệp. Tính khiêm tốn của người thầy thuốc trước hết là biết trân trọng con người, dù cho đối tượng phục vụ của mình là ai, họ là người như thế nào. Ở đây, cần phải trở lại quan niệm của Protago: “Con người là thước đo của mọi vật” là giá trị của mọi giá trị... để có thái độ phục vụ người bệnh ngày càng tốt hơn. Thực tế cho thấy rằng, trong số lao động phải qua đào tạo, chưa một nghề nào đào tạo một cán bộ, một chuyên gia lại đòi hỏi lâu như nghề y, nhưng điều đó không có nghĩa là tất cả, những tri thức mà họ thu nhận được ở nhà trường đã đủ cho cả cuộc đời hoạt động của người thầy thuốc, khi ra trường còn biết bao điều họ cần phải học thêm. Không có một chuyên gia nào, một thầy thuốc nào dám khẳng định không phải học nữa, mà vẫn tiếp tục phát triển được. Thực tế cho thấy những thầy thuốc tiếp tục phát triển tốt nghề nghiệp chuyên môn của mình là những người không ngừng say mê học tập Lênin từng dạy chúng ta: “Học, học nữa, học mãi”. Xã hội chúng ta đang sống hiện nay đó là “xã hội học tập” hay “học tập suốt đời”. Đào tạo phải gắn kết hợp với đào tạo lại, không đào tạo lại sẽ không tiếp cận được với những tri thức khoa học, kỹ thuật mới, tiên tiến. Thông tin phải được “cập nhật” nếu không sẽ trở nên lạc hậu trước xã hội đầy biến động. Đối với người thầy thuốc, công việc học tập nâng cao trình độ không chỉ ở nhà trường mà còn có thể học tập thông qua đồng nghiệp, qua thực tế, qua các hình thức hoạt động nghề nghiệp. Kết luận chương 1 Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là phạm trù có tính nhân văn và tính xã hội sâu sắc chính vì vậy nên nó luôn luôn có sự thay đổi tuỳ theo sự thay đổi của tồn tại xã hội. Hơn nữa việc đánh giá nó chỉ có thể định tính, chứ không thể định lượng được, vì vậy việc xác định cái xấu cái tốt, cái thiện cái ác nhiều khi rất khó xá khăn. Cái đó còn, tuỳ theo thời điểm lịch sử xã hội khác nhau. Đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước; thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh”. Trước những vận hội của đất nước, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân ta phải đồng tâm, hiệp lực, đoàn kết, tập trung trí tuệ sáng tạo, nhân tài vật lực để phát triển kinh tế xã hội. muốn đủ sức mạnh và trí tuệ để lãnh đạo thì Đảng ta phải thực sự trong sạch vững mạnh. Người cán bộ đảng viên phải là người đầu tàu gương mẫu, có đức có tài để nhân dân tin tưởng noi theo. Ngành y tế cũng vậy là ngành khoa học ngành chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân. Đòi hỏi mỗi cán bộ ngành y tế, đặc biệt là đội ngũ thầy thuốc, đội ngũ trí thức xẫ hội chủ nghĩa được Đảng và Nhà nước đào tạo rèn luyện có trình độ chuyên môn cao để phục vụ nhân dân phải có phẩm chất đạo đức tốt đẹp, xứng đáng với lời dạy của Bác Hồ “Lương y như từ mẫu” Tuy nhiên, trong sự phát triển hiện nay của đất nước mặt tiêu cực của xã hội đã và đang len lỏi gặm nhấm dần những bản chất tốt đẹp cũng như huỷ hoại dần bộ phận đội ngũ cán bộ y tế. Thể hiện cán bộ y tế thiếu ý thức trách nhiệm đối với sức khoẻ bệnh nhân, thể hiện từ tuyến trung ương đến địa phương. Một hiên tượng suy thoái về đạo đức của người cán bộ y tế, nguy hiểm hơn đó là “kinh doanh trên người bệnh”, người cán bộ y tế đã mờ mắt trước đồng tiền coi đồng tiền hơn tính mạng người bệnh, sức khoẻ người bệnh, nhiều tiền thì chăn sóc chu đáo điều trị đến nơi đến chốn; cá biệt có những trường hợp bệnh tật được thầy thuốc mặc cả gia cữa trị. Chính những điều đó đã và đang bị xã hội lên án. Thực trạng phổ biến hiện nay đang diễn ra không ai có thể phủ nhận được. Y đức của cán bộ y tế nói chung, đang bị đánh mất dần. Họ từ bỏ lối sống lành mạnh, trung thực, trong sạch, đang lúi sâu vào lối sống thực dụng dối trá, ích kỷ. Những hiện tượng đó đang làm giảm lòng tin trong nhân dân và xa hơn là giảm lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, giảm lòng tin vào chế độ xã hội. Chính vì lẽ đó cho nên cần phải có những công trình nghiên cứu đánh giá một cách đúng đắn những thực trạng xã hội đó và đề ra những giải pháp để khắc phục. Chương 2 Y ĐỨC CỦA CÁN BỘ NGÀNH Y TẾ TỈNH NAM ĐỊNH HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 2.1. THỰC TRẠNG Y ĐỨC CỦA CÁN BỘ Y TẾ TỈNH NAM ĐỊNH HIỆN NAY 2.1.1. Đặc điểm tình hình kinh tế, văn hoá, xã hội ở tỉnh Nam Định hiện nay và ảnh hưởng của nó đối với hoạt động y tế trên địa bàn tỉnh Nam Định Nam Định là một tỉnh ở trung tâm đồng bằng Bắc bộ, phía bắc giáp Hà Nam, phía nam giáp Ninh Bình, phía Đông giáp Thái Bình, Hưng Yên. Có diện tích 1676.3 km2, bờ biển dài 72km. Toàn tỉnh có 9 huyện, 1 thành phố, 229 xã, phường, thị trấn. Khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới, hàng năm chia thành bốn mùa rõ rệt, sự biến đổi của khí hâu có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động y tế của tỉnh. Dân số khoảng 2 triệu người (đứng thứ 6 so với toàn quốc). Nguồn thu của tỉnh chủ yếu dựa vào nông nghiệp với 80% dân số làm nông nghiệp, bình quân đất canh tác cho một lao động thấp, giá nông sản thu nhập bình quân đầu người khoảng 400 USD/ người trong năm. Đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, các dịch vụ văn hoá phục vụ cho nông dân, nông thôn còn nhiều thiếu thốn. Do đời sống kinh tế khó khăn nên tình trạng sức khoẻ của nhân dân trong vùng bị ảnh hưởng, mô hình bệnh tật thể hiện đầy đủ mô hình của một nước đang phát triển: Nhiễm khuẩn, ký sinh trùng, truyền nhiễm, bên cạnh đó cũng có những bệnh tật của các nước phát triển như: tim mạch, nội tiết, tiết niệu, và nhất là tai nạn giao thông....Ngân sách Nhà nước cấp cho công tác y tế của tỉnh còn hạn hẹp. Năm 2007 là 30.000đồng/người/năm. chính vì vậy ngành y tế của tỉnh đã gặp rất nhiều khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ chăm sóc sức khoẻ nhân dân. Lực lượng lao động khoa học kỹ thuật y tế của tỉnh tương đối dồi dào, có năng lực, có truyền thống ham học, vươn lên nắm bắt khoa học kỹ thuật. Nam Định có hàng chục trường cao đẳng và đại học. Trong đó riêng lĩnh vực y tế có trường Đại học Điều dưỡng Nam Định và trường Trung cấp y Nam Định, bao gồm hệ thống y tế nhà nước và hệ thống y tế tỉnh nhà. Hệ thống y tế tỉnh Nam Định. Hệ thống y tế nhà nước. Tuyến tỉnh: gồm có 1310 giường bệnh. - 2 bệnh viện đa khoa. - 4 bệnh viện chuyên khoa. - 1 bệnh viện điều dưỡng. - 9 trung tâm, trạm chuyên khoa. Tuyến huyện: - 10 trung tâm y tế, trong đó có 8 bệnh viện và 1 cơ sở điều trị, tổng số 1220 giường bệnh. - 10 đội y tế dự phòng và 10 đội bảo vệ sức khoẻ bà mẹ trẻ em. Tuyến xã 225 trạm y tế xã với 1125 giường lưu: - 10 giường bệnh/10.0000 dân. - 10 cán bộ y tế/10.0000 dân. - 10 bác sĩ/10.0000 dân. Các đơn vị cung ứng thuốc, thiết bị y tế gồm có: - 1 Công ty cổ phần Dược Nam Hà. - 5 Công ty cổ phần dược huyện. - 1 Công ty cổ phần thiết bị - Dược phẩm và dịch vụ y tế. Hệ thống tư nhân: - 81 phòng khám đa khoa. - 1 phòng Xquang. - 23 cơ sở tiêm chích thay băng. - 268 phòng chuẩn trị y học cổ truyền. - 46 cơ sở kinh doanh thuốc cổ truyền. - 47 phòng khám chuyên khoa. - 7 cơ sở làm răng giả. - 1 phòng xét nghiệm. - 213 đại lý bán thuốc. - 42 nhà thuốc. 2.1.2. Những ưu điểm trong lĩnh vực y đức của cán bộ ngành y tế ở tỉnh Nam Định và nguyên nhân của nó Ngành y tế tỉnh Nam Định đã tổ chức mạng lưới từ tỉnh tới các xã cả về cơ sở vật chất lẫn chuyên môn kỹ thuật. Công tác khám chữa bệnh có nhiều cải tiến, áp dụng những tiến bộ kỹ thuật mới trong chẩn đoán và điều trị, giải quyết được nhiều bệnh tật hiểm nghèo. Đặc biệt là làm tốt công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu. Ngành y tế tỉnh Nam Định đã quan tâm tới việc nâng cao trình độ chuyên môn cho y bức sỹ, để cán bộ y tế có cái “trí” thực hiện cái “nhân”. Cán bộ y tế của tỉnh hiện có: 4 tiến sỹ y khoa; 20 thạc sĩ y khoa; 15 bác sỹ chuyên khoa cấp II, nhiều bác sỹ dược sỹ chuyên khoa I. Thực hiện công văn số 314/BYT-PC ngày 17/1/2000 của bộ y tế hướng dẫn về việc đánh giá kết quả thực hiện quy định về y đức cho tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến trong việc thực hiện quy định về y đức. Sở y tế tỉnh Nam Định đã tổ chức đánh giá kết quả thực hiện 12 điều quy định về y đức của Bộ trưởng Bộ Y tế trên các lĩnh vực công tác, và đã chọn ra được nhiều đơn vị và cá nhân xuất sắc. Công tác Y học dự phòng triển khai chủ động, tích cực nhiều năm không có dịch lớn xảy ra, đặc biệt là phòng chống tốt bệnh SARS không để dịch xảy ra trong địa bàn tỉnh, dịch cúm gà nhanh chóng được khống chế và dập tắt. Đội ngũ thầy thuốc là công tác y tế dự phòng không quản ngại khó khăn nguy hiểm, luôn có mặt kịp thời, đúng lúc tại địa bàn có dịch bệnh Thực hiện Chỉ thị số 06/CT-TW về củng cố và hoàn thiện màng lưới y tế cơ sở của Ban Chấp hành trung ương và Quyết định 370/BYT của Bộ Y tế chuẩn Quốc gia về y tế xã. Năm 2006 có 20 xã đạt chuẩn quốc gia về y tế. Năm 2007 có 75 xã đạt Chuẩn Quốc gia về y tế lên 90, chiếm 42,8%, đứng đầu trong toàn quốc. Khám bảo hiểm y tế và khám chữa bệnh cho người nghèo được đưa về các trạm y tế xã tạo điều kiện để người dân gần với dịch vụ y tế, có điều kiện để người dân được chăm sóc sức khoẻ thường xuyên và không phải đi lại chi phí tốn kém. Công tác khám chữa bệnh, giáo dục y đức đổi mới cơ chế quản lý, giám sát triển khai thực hiện các quy chế, chế độ chuyên môn, ứng dụng kỹ thuật mới đã được triển khai trong bệnh viện phát triển chuyên môn sâu ở các bệnh viện chuyên khoa: Bệnh viện Phụ sản, Trung tâm Mắt, và bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định. Việc học tập và kiểm tra thực hiện y đức tại các bệnh viện luôn được quan tâm và công khai trên lịch hàng thánh thường xuyên cho toàn ngành. Triển khai thực hiện tốt Quyết định 139/2003QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về khám chữa bệnh cho người nghèo, đảm bảo cho người nghèo được tiếp cận với các dịnh vụ y tế. Năm 2007 xây dựng quỹ “khám chữa bệnh cho người nghèo” là 4,8 tỉ đồng và cấp 175.772 thẻ cho người nghèo, người nghèo được hưởng thụ dịch vụ y tế như người không nghèo, đây là việc làm mang tính nhân văn sâu sắc. Việc khám chữa bệnh cho người nghèo được triển khai tốt đem lại sự công bằng cho chăm sóc y tế, thực hiện lời dạy của của Hypocrat: “Chăm sóc miễn phí cho người nghèo”. Các Chương trình Mục tiêu Quốc gia đạt và vượt chỉ tiêu, đặc biệt là chương trình Phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em < 5 tuổi hạ xuống còn 25,5% trong khi đó tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em < 5 tuổi toàn quốc là 28,4%. Hàng năm ngành y tế tỉnh Nam Định chi phí khám và chữa bệnh miễn phí cho trẻ em < 6 tuổi với kinh phí hàng tỷ đồng. Sản xuất dược phẩm vượt chỉ tiêu kế hoạch, đang phát triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá để trở thành ngành kinh tế kỹ thuật mũi nhọn của địa phương. Ngành dược Nam Định được Bộ Y tế đánh gia cao là một trong những tỉnh là tốt công tác quản lý nhà nước về dược góp phầm ổn định thị trường thuốc tại tỉnh nhà. Chính sách Quốc gia về thuốc được triển khai đồng bộ từ sản xuất, cung ứng thuốc đến quản lý chất lượng. Đảm bảo đủ thuốc có chất lượng cho nhu cầu y tế Cơ sở hạ tầng tuy còn nhiều thiếu thốn, nhưng về cơ bản đã có một hệ thống cơ sở y tế từ tỉnh đến xã khá vững chắc, khang trang, tạo điều kiện cho bệnh nhân được chăm sóc chu đáo hơn, đàng hoàng hơn. Nhiều bệnh viện được công nhận là đơn vị có nếp sống văn hoá và bệnh viện tiên tiến xuất sắc. Cơ sở hạ tầng các đơn vị y tế tuyến cơ sở được cải tạo nâng cấp, vượt rất xa so với nhiều năm trước. Phong trào thi đua trong topàn ngành được duy trì, nhiều đơn vị mới nổi bật như; Y tế huyện Nghĩa Hưng, y tế huyện Giao Thuỷ, y tế huyện Xuân Trường, y tế huyện Trực Ninh, Bệnh viện đa khoa tỉnh bắt đầu khởi sắc trong cuộc vận động y đức và quản lý góp phần nâng cao chất lượng khám chữa bệnh và giữ gìn trật tự, kỷ cương nơi khám chữa bệnh. Việc đa dạng hoá các loại hình dịch vụ tạo điều kiện cho nhân dân được chăm sóc sức khoẻ ban đầu tốt hơn, ngành y tế tỉnh đã và đang hướng tới xây dựng bệnh viện tư nhân để huy động nguồn nhân lực nhân tài của toàn xã hội cho công tác y tế, đồng thời cạnh tranh lành mạnh để nâng cao chất lượng khám chữa bệnh và nâng cao y đức của người thầy thuốc. Giảm tình trạng quá tải các cơ sở điều trị của nhà nước nhằm thực hiện tốt hơn y đức. Cùng với nó sẽ giải quyết được một phần khó khăn của đời sống cán bộ y tế Trong thời gian qua dưới sự tác động của cơ chế thị trường đã kích thích tiềm năng về kinh tế, huy động mọi nguồn lực xã hội đầu tư cho sự phát triển cơ sở vật chất của ngành y tế tỉnh Nam Định. Các đơn vị y tế đã chủ động liên doanh, hợp tác với các tổ chức, cá nhân hiện đại hoá trang bị, máy móc, tiếp cận các kỹ thuật hiện đại y tế. Cơ chế thị trường đã góp phần vào việc tuyển lựa những bác sỹ tài năng, phát huy trí tuệ, tính sáng tạo, tránh nhiệm cá nhân trong công việc, nó tạo ra môi trường làm việc thuận lợi cho các cán bộ y tế có trình độ khoa học cao, ham học hỏi tiếp thu thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến, tạo ra đội ngũ thầy thuốc có tinh thần phục vụ tận tuỵ, niềm nở nhiệt tình, khẩn trương và chính xác. Đồng thời nó cũng đào thải những cán bộ y tế yếu kém. Chính sự đòi hỏi của cơ chế thị trường, công tác tổ chức quản lý ngành y tế có những thay đổi. Ngành đã xây dựng chế độ, chức trách và quy chế chuyên môn của bệnh viện là vấn đề cốt lõi của việc củng cố tổ chức, xây dựng bộ máy đồng thời giải quyết tốt mối quan hệ giữa thầy thuốc với bệnh nhân và mối quan hệ giữa bệnh nhân với thầy thuốc. Mối quan hệ này phản ánh nhiệm vụ của người thầy thuốc với bệnh nhân, đồng thời quy định rõ nhiệm vụ, quyền lợi của người đi khám chữa bệnh. 2.1.3. Những hạn chế về y đức của cán bộ ngành y ở tỉnh Nam Định và nguyên nhân của nó Bên cạnh những mặt tích cực của ngành y tế tỉnh Nam Định cũng còn xuất hiện không ít những biểu hiện trong việc chăm sóc sức khoẻ nhân dân. Đó là những hiện tượng thiếu tinh thần trách nhiệm của các y bác sỹ khi làm nhiệm vụ, gây tác hại đến sức khoẻ của người bệnh. Đó là hiện tượng bệnh nhân phải biếu tiền cho thầy thuốc để được chăm sóc tốt hơn. Đó là hiện tượng vì lợi nhuận của mình mà liên kết với trình dược viên bán thuốc nặng hơn, đắt tiền cho bệnh nhân để kiếm lời. Trong những năm gần đây có nhiều đơn thư tố cáo khiếu nại đã và đang được thanh tra sở y tế giải quyết: Năm 2006 số đơn thư khiếu nại tố cáo về y đức là 9 vụ trên tổng số 45 vụ tố cáo khiếu nại. Năm 2007 số đơn thư khiếu nại tố cáo về y đức là 7 vụ trên tổng số 41 vụ khiếu nại tố cáo. Năm 2008 số đơn thư khiếu nại tố cáo về y đức là 6 vụ trên tổng số 41 vụ tố cáo khiếu nại. Nội dung chủ yếu của các đơn thư trên là những hiện tượng thiếu tinh thần trách nhiệm các y bác sỹ khi làm nhiệm vụ gây tác hại đến sức khoẻ của người bệnh, hiện tượng bệnh nhân phải biếu tiền cho thầy thuốc để được chăm sóc tốt hơn như thay băng, tiêm chế độ thuốc... là những nguyên nhân chính gây ra sự phản ứng của nhân dân với cán bộ y tế. Hiện tượng vì lợi nhuận của mình mà bán thuốc nặng hơn, bán thuốc đắt tiền để kiếm lời... làm suy giảm tình cảm của nhân dân của bệnh nhân đối với cán bộ y tế. Những hiện tượng thiếu công bằng trong khám và điều trị bệnh, một phần do tác động,cơ chế thị trường phần nữa do điều kiện kinh tế kém phát triển, sự đầu tư của nhà nước cho y tế còn rất khiêm tốn, rất thấp so với nhu cầu chăm sóc sức khoẻ ngày càng cao của nhân dân và sự phát triển rất nhanh của y học hiện đại. Nhưng nguyên nhân chính vẫn là ở con người, các cán bộ ngành y tế, những người có ảnh hưởng trực tiếp đến việc chăm lo sức khoẻ cho nhân dân Những hiện tượng tiêu cực phần lớn thể hiện sự thiếu y đức của người thầy thuốc mà chưa có biện pháp nào ngăn chặn một cách có hiệu quả. Điều này đang gây bất bình trong xã hội. 2.1.4. Những vấn đề đặt ra đối với y đức của cán bộ y tế tỉnh Nam Định trong giai đoạn hiện nay - Mâu thuẫn giữa yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cao của xã hội về y đức với những tác động tiêu cực từ mặt trái của kinh tế thị trường đến hoạt động y tế: Trong nền kinh tế tập trung bao cấp, công tác khám chữa bệnh cho nhân dân hoàn toàn miễn phí. Người bệnh không phải đóng góp bất cứ một khoản tiền nào. Do điều kiện kinh tế thấp kém, ngân sách dành cho y tế thấp, không huy động được sức người, sức của của toàn xã hội nên luôn xảy ra tình trạng thuốc men thiếu thốn, trang bị ngày càng xuống cấp và lạc hậu, việc đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị, nhất là các thiết bị mới không đầy đủ, không kịp thời và kém hiệu quả. Vốn đầu tư cho xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật hầu như không có, các khoản viện trợ trong chiến tranh hầu như bị cắt giảm. Cùng với tình hình chung của đất nước ngành y tế không phát triển, cơ sở vật chất, trang bị và cả đội ngũ y bác sỹ không đủ về số lượng và chất lượng đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân. Trong giai đoạn hiện nay, nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước, quá trình chuyển đổi này có ảnh hưởng trực tiếp đến ngành y tế tạo ra mâu thuẫn giữa yêu cầu ngày càng cao về mặt y đức với mặt trái của cơ chế thị trường cùng những nguyệ vọng được chăm sóc sức khoẻ có chất lượng cao. Cơ chế thị trường luôn kích thích tăng trưởng kinh tế và đi liền với nó là giải quyết các vấn đề xã hội. Kinh tế thị trường càng văn minh thì tính nhân đạo của nó càng tăng lên, sự phục vụ lợi ích của con người càng có điều kiện thực hiện. Nước ta hiện nay, kinh tế thị trường đang kích thích mọi tiềm năng của đất nước, huy động mọi nguồn lực xã hội đầu tư, mở mang mọi lĩnh vực của cuộc sống và xã hội trong đó có ngành y tế. Nhiều nguồn lực được khởi động và khai thác kể cả về mặt trí tuệ khoa học cũng như nguồn vốn, cả lao động trí óc cũng như lao động chân tay. Nó đã tạo được lớp người mới có khả năng nghiên cứu khoa học, có khả năng đưa những thành tựu khoa học mới vào cuộc sống một cách cụ thể hữu ích và hiệu quả kinh tế hơn. Chính cơ chế thị trường tạo ra một lớp người lao động trẻ có năng lực, có kiến thức, nhạy bén và có quyết tâm làm giàu cho mình, làm lợi cho đất nước bằng chính tài năng của mình. ở đây có sự thống nhất về lợi ích nhà nước, tập thể và cá nhân Cơ chế thị trường cũng đòi hỏi phải hội nhập mở cửa với thế giới, phải có quan hệ giao lưu mở cửa trong nước và quốc tế, phải có sự hợp tác quốc tế và phân công lao động quốc tế. Nền kinh tế thị trường toàn cầu hoá dựa trên những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, công nghệ thông tin vừa là điều kiện, vừa là công cụ quan trọng đã và đang làm cho nền kinh tế phát triển theo hướng kinh tế tri thức. Cũng chính cơ chế thị trường là một yếu tố khách quan thử thách toàn diện bản lĩnh và tài trí của cong người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Trong cuộc cạnh tranh khốc liệt này ai năng động sáng tạo, có kiến thức và nắm được thời cơ phát triển đi lên sẽ tồn tại, còn ai bản thủ trì trệ, kém thông minh, kém nhạy cảm với biến động trong nước và quốc tế thì sẽ bị loại bỏ khỏi cuộc chơi. Đồng thời cơ chế thị trường cũng đã tạo ra môi trường cho những kẻ cơ hội lợi dụng kẽ hở của cơ chế để tham ô, lãng phí, quan liêu....Đây chính là môi trường bộc lộ những ưu nhược điểm của mỗi con người. Dưới sự tác động của cơ chế thị trường bên cạnh những mặt tích cực thúc đẩy sự phát triển toàn diện nền kinh tế xã hội, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh cũng còn có tác động tiêu cực khá lớn. Nếu như mặt tích cực của nó là lợi nhuận là động lực và tự nó tạo ra động lực kích thích các chủ thể kinh tế nói chung và từng cá nhân hoạt động có hiệu quả. Nhưng không có cơ chế quản lý thích hợp nhằm hạn chế tiêu cực của nó như tuyệt đối hoá lợi nhuận thì sẽ xuất hiện hiện tượng lừa đảo, hám lợi bằng mọi giá, chạy theo đồng tiền bất chấp pháp luật, bất chấp kỷ cương, bất chấp cả tình người và đạo lý. Đó là mặt trái, nhược điểm lớn nhất của cơ chế thị trường. Như vậy nó mâu thuẫn với tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội. Trong vòng quay của cơ chế thị trường, Đảng cộng sản Việt Nam phải đề phòng nguy cơ suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lý tưởng cao cả của người đảng viên, đề phòng sự bảo thủ trì trệ, sự quan liêu tham nhũng của những người thay mặt nhân dân điều hành xã hội. Đề phòng nguy cơ “độc đoán”của một Đảng cầm quyền. Cơ chế thị trường, tài năng của mỗi con người có cơ hội để phát triển, nhưng đồng thời cũng có những con người không có điều kiện và năng lực, không có cơ hội, những người khuyết tật gặp rất nhiều khó khăn, như vậy cơ chế thị trường thúc đảy nhanh sự phân hoá giàu nghèo cả về mặt nhịp độ cũng như biên độ. Sự phân biệt giàu nghèo ở mức độ nhất định là động lực thúc đẩy phát triển, đó là sự phân công lao động xã hội, đó là sự phân phối theo lao động. Tuy nhiên, nếu sự phân hoá giàu nghèo qúa lớn sẽ gây mất công bằng xã hội, ảnh hưởng tới sự ổn định phát triển xã hội Cơ chế thị trường còn gia tăng những tệ nạn xã hội, đây là một thực tế. Ngân sách nhà nước dành cho y tế, giáo dục và phúc lợi xã hội còn thiếu rất nhiều so với nhu cầu thực tế cuộc sống đặt ra. Một hiện tượng đáng ngại là tình trạng trẻ em lang thang đường phố ngày một tăng, tệ nạn mại dâm ma tuý chưa giảm, sự thoái hoá về phẩm chất đạo đức của một bộ phận đảng viên dùng tiền nhà nước ăn chơi sa đoạ, làm lung lay lòng tin của nhân dân với Đảng. Là một lĩnh vực hoạt động của xã hội ngành y tế cũng không nằm ngoài sự vận hành của cơ chế thị trường cả mặt tích cực lẫn mặt tiêu cực. Những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường ảnh hưởng không nhỏ đến vấn đề giữ gìn đạo đức, phẩm chất của người thầy thuốc. Khi mà đồng tiền được đặt ra giữa thầy thuốc và bệnh nhân thì mọi tính toán chỉ làm giảm sự kính trọng của nhân dân với thầy thuốc. Người bệnh khi đến bệnh viện ngoài lo lắng bệnh tật còn phải lo tiền khám chữa bệnh thuốc men, còn phải lo tiền quà cáp cho thầy thuốc. Đội ngũ thầy thuốc thì đời sống khó khăn, lương của thầy thuốc không đủ để chi phí tối thiểu cho cuộc sống, không đủ tiền để nuôi con ăn học. Vì vậy cơ chế thị trường đã làm không ít thầy thuốc bị xói mòn lương tâm, chạy theo lợi nhuận mà quên mất đạo đức của người thầy thuốc. Đồng tiền, quà cáp đã làm thay đổi tình cảm, sự kính trọng của bệnh nhân với thầy thuốc. Cụ thể là trong ngành y tế vì chạy theo lợi nhuận mà xảy ra hiện tượng sản xuất thuốc kém chất lượng, buôn bán thuốc giả, vì lợi nhuận mà kê đơn thuốc không phù hợp với bệnh, kê thuốc đắt tiền không cần thiết, hoặc vì chút quyền lợi mà tạo nên sự khan hiếm giả tạo trên thị trường hay tạo ra sự độc quyền trong nhập khẩu thuốc. Kinh tế thị trường thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nhưng mặt khác nó gây ra sự phân tầng trong xã hội, phân hoá giàu nghèo, làm sao để người thầy thuốc giữ được thái độ “điều trị theo bệnh chứ không theo bệnh nhân giàu hay nghèo”, làm sao để không nói dối “bệnh khó chữa để lấy tiền”. Một hiện tượng làm suy đồi y đức nữa là nạn “phí ngầm” tuy không phổ biến nhưng đã có bệnh nhân phải trả tiền để được chăm sóc tốt hơn. Có thầy thuốc chỉ vui vẻ khi được tiền biếu, còn không thì lạnh nhạt, thờ ơ, thậm chí lảng tránh. Có trường hợp bệnh nhân chưa cần dùng thuốc loại này nhưng vì lợi nhuận của mình mà bán thuốc nặng hơn, đắt tiền cho bệnh nhân để thu chênh lệch. Y đức giảm sút là vấn đề nhức nhối của toàn ngành y tế dư luận xã hội không đồng tình, nhất là ở một số bệnh viện. Đó là hiện tượng móc nối lập đường dây ngầm để lôi kéo bệnh nhân, moi tiền của người bệnh. Có đường dây được người gác cổng dẫn dắt và kết thúc ở phòng mổ, phòng điều trị. Hoặc người bệnh chỉ ra phòng khám tư của các bác sỹ, dược sỹ đã ăn cánh với nhau. Người bệnh cần bất cứ dịch vụ gì cũng phải bỏ tiền, như thay ga giường, thay quần áo, mỗi lần thay băng, tiêm thuốc tất cả đều phải chi phí. Trong sự điều tiết của cơ chế thị trường, khi thầy thuốc không giữ được lương tâm nghề nghiệp, không giữ được lời thề trước khi tốt nghiệp ra trường y thì họ xử sự với bệnh nhân theo kiểu trao đổi mua bán. Họ coi đồng tiền là mục tiêu của công việc, cao hơn tất cả, bán rẻ lương tâm nghề nghiệp. Không thiếu những trường hợp vô trách nhiệm với người bệnh đã dẫn đến những hậu quả khôn lường. - Mâu thuẫn giữa yêu cầu cao của xã hội về đạo đức người cán bộ y tế với những bất cập trong chính sách, đầu tư: Chính sách đãi ngộ cho cán bộ y tế còn nhiều vấn đề chưa phù hợp, chưa đảm bảo được công bằng xã hội, người thầy thuốc trực chuyên môn 24/24 giờ, liên tục giải quyết các tình huống xảy ra trong ca trực, những tình huống liên quan đến cuộc sống, đến sinh mạng và sức khoẻ của con người. Đứng trước sự sống và cái chết chỉ là một ranh giới mỏng manh, người thầy thuốc nhiều khi chỉ có một mình, phải nhanh chóng giải quyết phương án tối ưu để cứu sống người bệnh. Công việc thì nặng nề và quan trọng như vậy nhưng sự đãi ngộ của nhà nước chưa tương xứng với cống hiến và đóng góp của họ. Chẳng hạn như một đêm ca trực bệnh viện Phụ sản tuyến tỉnh trung bình mổ cấp cứu, mổ đẻ từ 10 - 15 ca nhưng tiền bồi dưỡng một ngày đêm trực là 25.000 đồng đối với tuyến huyện, 35.000 đồng đối với tuyến tỉnh. Năm 2007, chế độ phụ cấp đã thay đổi nhưng vẫn chưa bù lại đủ sức lao động của người cán bộ y tế. Là con người cho nên cán bộ y tế cũng có lúc buồn lúc vui, lúc thuận lợi và lúc gặp khó khăn trong cuộc sống. Nhưng khi tiếp xúc với bệnh nhân bắt buộc người thầy thuốc vẫn phải ân cần niềm nở, nếu không thì bệnh nhân sẽ hiểu lầm. Có những lúc, những nơi bệnh nhân đã hành hung, thoá mạ thầy thuốc một cách vô lý. Chưa có một hành lang phát lý đầy đủ để bảo vệ người thầy thuốc khi làm việc, điều đó đã gây ra tâm lý lo ngại thực sự cho cán bộ y tế. Thực tế cuộc sống cho thấy, đồng lương và phụ cấp của cán bộ y tế quá thấp so với sức lao động và trí tuệ của họ bỏ ra. Nếu so sánh thu nhập của công nhân lao động trong xí nghiệp và thu nhập của cán bộ y tế, nhất là của các bác sỹ thì ta thấy quá nhiều bất cập. Lương trung bình của công nhân Công ty cổ phần Nam dược là ba triệu đồng một tháng trong khi đó lương khởi điểm của một bác sỹ là: 2,34 x 540.000đ = 1.263.600đ; lương của bác sỹ sau 20 năm công tác là: 4,44 x 540.000đ = 2.397.600đ. Mức thu nhập này không đủ để người bác sỹ nuôi bản thân mình chứ chưa kể đến nuôi con cái. Trong khi công việc của cán bộ y tế mang tính đặc thù, luôn luôn căng thẳng và trách nhiệm lại rất nặng nề. Môi trường làm việc là tiếp xúc với người bệnh đầy lo âu, đớn đau, nhiều người còn tuyệt vọng vì bệnh hiểm nghèo. Công việc của cán bộ y tế thường xuyên liên quan đến cuộc sống, đến sinh mạng và sức khoẻ của con người. Những ca bệnh hiểm nghèo khó chẩn đoán, khả năng thì có hạn làm cho thầy thuốc lo toan mất ăn mất ngủ. Nhiều người đã tự dằn vặt lương tâm vì sự bất lực của mình trước một bệnh nhân nào đó. Hiện nay lực lượng bác sỹ cho vùng sâu, vùng xa, nông thôn, miền núi thiếu rất nhiều. Nhà nước chưa có chính sách đãi ngộ phù hợp cho cán bộ y tế công tác trên địa bàn này. Đặc biệt là các nội dung giáo dục về y đức ở các trường y, dược còn nghèo nàn và chưa quan tâm đúng mức. Nhà nước chưa có quy định giới hạn trách nhiệm của người thầy thuốc cũng như chưa có luật bảo vệ quyền lợi và danh dự cho họ Trong giai đoạn hiện nay để nâng cao y đức chúng ta không chỉ hô hào chung chung mà phải xem xét nguyên nhân đưa đến sự sa sút về đạo đức của người thầy thuốc nhằm tìm biện pháp khắc phục kịp thời, có hiệu quả. Trong các nguyên nhân ảnh hưởng đến y đức có nguyên nhân quản lý của nhà nước về y tế, cơ chế của dịch vụ khám chữa bệnh, vấn đề tự quản của các hội nghề nghiệp, vai trò giáo dục của nhà trường. Ngoài ra phải kể đến nguyên nhân dư luận xã hội hướng dẫn và điều chỉnh hành vi của người thầy thuốc và bệnh nhân, sự tăng trưởng kinh tế và mức thu nhập, điều kiện làm việc của người thầy thuốc Ngoài ra còn phải kể đến mức đầu tư cho y tế. Trong thời gian gần đây đầu tư vào lĩnh vực y tế năm sau thường cao hơn năm trước, nhưng sự đầu tư này chủ yếu tập trung ở thành phố, các bệnh viện chuyên khoa đầu ngành, còn ở tuyến huyện, tuyến xã thì thiết bị cũ kỹ lạc hậu và rất thiếu, chưa đáp ứng được yêu cầu khám bệnh của nhân dân địa phương, trong đó nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân ngày một tăng không chỉ về số lượng mà đáng quan tâm hơn là yêu cầu của người dân về chất lượng khám chữa bệnh và điều trị. Trong hoàn cảnh hiện nay, nhiều gia đình có khả năng kinh tế, khi người thân bị bệnh tật hay tai nạn, nhu cầu chất lượng khám, chữa bệnh của họ vượt quá mức trung bình của xã hội. Với chính sách và mức đầu tư cho y tế như hiện nay không đáp ứng đòi hỏi ngày một nâng cao của các đối tượng này. Chính nguyên nhân khách quan đó làm cho nhiều gia đình đã hiểu nhầm về tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ y tế. Ngược lại chính bản thân các thầy thuốc cũng gặp không ít khó khăn trong việc giải quyết các trường hợp này. - Mâu thuẫn giữa yêu cầu cao của y đức với sự suy thoái đạo đức trong một bộ phận cán bộ ngành y ở Nam Định hiện nay: Những năm gần đấy nhờ có chính sách đổi mới toàn diện sâu sắc của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế nước ta đã đạt được tốc độ tăng trưởng khá cao và tương đối ổn định tuy nhiên về mặt đạo đức lại “có vấn đề”. Trong sự chuyển đổi đó, đã xuất hiện một bộ phận đội ngũ thầy thuốc đã không giữ vững được phẩm chất đạo đức cách mạng của người thầy thuốc xã hội chủ nghĩa. Một số thầy thuốc giảm sút về ý chí phấn đấu, phai nhạt lý tưởng, hoang mang, dao động, mất lòng tin vào Đảng và cũng chính họ đã làm mất lòng tin ở quần chúng nhân dân. Họ sống xa rời mục tiêu lý tưởng của Đảng, của chủ nghĩa Mác - Lênin, đi ngược lại lợi ích, của nhân dân, đầu hàng trước sự cám dỗ của đồng tiền. Trong quá trình khám chữa bệnh, một số cán bộ y tế tỏ ra lạnh nhạt, thiếu trách nhiệm hay vô trách nhiệm với ngươi bệnh. Những hành vi này của thầy thuốc thường biểu hiện khi gặp bệnh nhân cấp cứu không khẩn trương cứu chữa, gặp bệnh khó không chịu suy nghĩ tìm ra phương án tối ưu để cứu chữa, không tập trung trí tuệ tập thể, điều trị ẩu, không xử lý kịp thời diễn biến bệnh tật, không tìm cách động viên an ủi bệnh nhân, không cảm thấy thương xót khi bệnh nhân đau đớn, không có mặt khi bệnh nhân cần, không hướng dẫn tỉ mỉ chu đáo cho bệnh nhân những điều cần thiết trong điều trị. Lợi dụng nghề nghiệp của mình, không ít thầy thuốc đã coi trọng đồng tiền hơn tính mạng của người bệnh. Bệnh nhân nào có quà cáp biếu xén, hoặc có tiền lót tay thầy thuốc thì được quan tâm chăm sóc chu đáo, hoặc thầy thuốc đặt điều kiện với người nhà bệnh nhân trước khi phẫu thuật, coi tính mạng con người như một món hàng, người thầy thuốc được quyền phát giá. Đây là một hiện tượng thực sự đau lòng nhức nhối của với ngành y tế tỉnh Nam Định hiện nay. Ngoài ra tình trạng móc ngoặc giữa bác sỹ khám bệnh với các quầy thuốc, nhà thuốc, kê đơn cho bệnh nhân đến mua để được nhận “hoa hồng” bệnh nhân mua phải chịu giá đắt mà không dám kêu. Trong thời gian qua dư luận xã hội trong tỉnh đã lên tiếng nhưng ngành y tế tỉnh vẫn chưa tìm được cách xử lý. Để tăng cường màng lưới chăm sóc sức khoẻ tại cộng đồng: Pháp lệnh hành nghề y dược tư nhân đã cho phép thầy thuốc được mở những phòng khám chữa bệnh tư theo đúng ngành nghề chuyên môn của mình. Nhưng, nhiều thầy thuốc đã không thực hiện theo đúng giấy phép hành nghề. Vì lợi nhuận, các thầy thuốc vừa kê đơn vừa bán thuốc với giá “cắt cổ” đối với bệnh nhân, một số thầy thuốc đã hành nghề vượt qua phạm vi cho phép đã dẫn đến gây tai biến đáng tiếc cho bệnh nhân, hậu quả bệnh nhân vẫn mất tiền mà tật vẫn mang. Không ít thầy thuốc đã “lôi kéo” bệnh nhân từ bệnh viện nơi mình công tác về nhà để điều trị ngoài, nhằm bắt bí bệnh nhân thu lợi bất chính. Chúng ta sống trong thời đại bùng nổ thông tin. Nghề y là nghề khoa học kỹ thuật, các tiến bộ về y học luôn luôn phát triển, đòi hỏi người thầy thuốc phải không ngừng học tập, tiếp cận áp dụng những thành tựu khoa học mới để phục vụ công tác của mình. Tuy nhiên trong đội ngũ thầy thuốc ở tỉnh Nam Định còn nhiều người, nhất là ở tuyến huyện, tuyến xã không chịu vươn lên học tập để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kiến thức không cập nhật, bị rơi vãi; hậu quả là thiệt thòi cho người bệnh. Một số thầy thuốc còn có biểu hiện đầu cơ kỹ thuật, giấu nghề không chịu trao đổi truyền thụ kinh nghiệm của mình với đồng nghiệp, nhằm mục đích vụ lợi cá nhân trong việc chữa bệnh kiếm tiền. Trong hoạt động còn tình trạng đố kỵ nghề, có những thầy thuốc cho mình là giỏi hơn cả. Coi đồng nghiệp dưới con mắt của mình, tự kiêu tự đại, bảo thủ, không tiếp thu ý kiến đóng góp của người khác. Những tồn tại trên là những vi phạm về y đức, vi phạm đạo đức của người thầy thuốc xã hội chủ nghĩa, gây thiệt hại sức khoẻ cho nhân dân một tài sản vô giá của xã hội, gây thiệt hại về tài sản nhà nước, tiền bạc của nhân dân. Những sai phạm trên, làm mất đi cái lớn nhất của người thầy thuốc là uy tín, là lòng tin của nhân dân đối với ngành y tế 2.2. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO Y ĐỨC CHO CÁN BỘ Y TẾ TỈNH NAM ĐỊNH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 2.2.1. Phương hướng chủ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Vấn đề y đức của cán bộ y tế tỉnh Nam Định trong giai đoạn hiên nay.pdf
Tài liệu liên quan