Tài liệu Luận văn Vấn đề triển vọng và những giải pháp nhằm thúc đẩy quan hệ kinh tế - thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc: Luận văn 
Triển vọng và những giải 
pháp nhằm thúc đẩy quan 
hệ kinh tế - thương mại 
giữa Việt Nam và Trung 
Quốc 
 1
MỤC LỤC 
 Trang 
 Lời nói đầu 1 
 Chương 1: TIỀM NĂNG VÀ VAI TRÒ CỦA MỐI QUAN 
HỆ KINH TẾ - THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT 
NAM - TRUNG QUỐC 
2 
I. Tiềm năng của mối quan hệ kinh tế - thương mại Việt Nam 
- Trung Quốc 
2 
1. Về mặt chính trị 2 
2. Về mối quan hệ giữa các ngành, các địa phương 3 
3. Về việc giải quyết các vấn đề biên giới lãnh thổ 3 
4. Tiềm năng xuất phát từ hai bên 4 
5. Lợi thế so sánh trong trao đổi hàng hóa qua biên giới Việt 
Nam - Trung Quốc 
7 
6. Các hiệp định và thỏa thuận 8 
 Chương 2: THỰC TRẠNG QUAN HỆ KINH TẾ - 
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - TRUNG QUỐC 
14 
I. Quan hệ thương mại 14 
1. Những đặc điểm trong quan hệ thương mại Việt Nam - 
Trung Quốc 
14 
2. Cơ sở phát triển thương mại Việt Nam - Trung Quốc 18 
3. Diễn biến của trao đổi mậu dịch song phong 19 
4. Tình hình buôn bán qua biên giới Việt Nam - Trung Quốc 21 
5. N...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
46 trang | 
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1062 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Vấn đề triển vọng và những giải pháp nhằm thúc đẩy quan hệ kinh tế - thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn 
Triển vọng và những giải 
pháp nhằm thúc đẩy quan 
hệ kinh tế - thương mại 
giữa Việt Nam và Trung 
Quốc 
 1
MỤC LỤC 
 Trang 
 Lời nói đầu 1 
 Chương 1: TIỀM NĂNG VÀ VAI TRÒ CỦA MỐI QUAN 
HỆ KINH TẾ - THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT 
NAM - TRUNG QUỐC 
2 
I. Tiềm năng của mối quan hệ kinh tế - thương mại Việt Nam 
- Trung Quốc 
2 
1. Về mặt chính trị 2 
2. Về mối quan hệ giữa các ngành, các địa phương 3 
3. Về việc giải quyết các vấn đề biên giới lãnh thổ 3 
4. Tiềm năng xuất phát từ hai bên 4 
5. Lợi thế so sánh trong trao đổi hàng hóa qua biên giới Việt 
Nam - Trung Quốc 
7 
6. Các hiệp định và thỏa thuận 8 
 Chương 2: THỰC TRẠNG QUAN HỆ KINH TẾ - 
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - TRUNG QUỐC 
14 
I. Quan hệ thương mại 14 
1. Những đặc điểm trong quan hệ thương mại Việt Nam - 
Trung Quốc 
14 
2. Cơ sở phát triển thương mại Việt Nam - Trung Quốc 18 
3. Diễn biến của trao đổi mậu dịch song phong 19 
4. Tình hình buôn bán qua biên giới Việt Nam - Trung Quốc 21 
5. Những kết quả chủ yếu 26 
6. Những vấn đề tồn tại 
II. Quan hệ đầu tư 30 
1. Hạng mục và cơ cấu đầu tư 30 
2. Những đặc điểm trong quan hệ đầu tư Việt Nam - Trung Quốc 31 
3. Đầu tư trực tiếp của Trung Quốc tại Việt Nam 31 
4. Viện trợ phát triển 35 
III. Đánh giá tổng quát 36 
 Chương 3: TRIỂN VỌNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP 
NHẰM THÚC ĐẨY QUAN HỆ KINH TẾ - 
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - TRUNG QUỐC 
38 
I. Triển vọng 38 
II. Những giải pháp 39 
 Kết luận 42 
 2
LỜI NÓI ĐẦU 
Trung Quốc và Việt Nam là hai nước láng giềng núi sông liền một dải, 
nhân dân hai nước vốn có tình hữu nghị truyền thống lâu đời, 50 năm trước đây, 
ngày 18 tháng 1 năm 1950, Trung Quốc đã thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt 
Nam, là một nước thiết lập quan hệ ngoại giao đầu tiên với Việt Nam. Nửa thế 
kỷ qua, trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và chống Mỹ cứu nước của 
Việt Nam cũng như trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa của mỗi nước, 
nhân dân hai nước đã kề vai sát cánh, nhường cơm sẻ áo, chia ngọt sẻ bùi. Đúng 
như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Mối tình thắm thiết Việt Hoa, vừa là đồng 
chí, vừa là anh em". Sau một thời gian dài gián đoạn từ năm 1991, Việt Nam - 
Trung Quốc chính thức bình thường hóa quan hệ, mở cửa biên giới cho nhân 
dân và các doanh nghiệp hai nước thông thương. Đồng thời với sự phát triển 
quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trên nhiều lĩnh vực đã nảy sinh nhiều vấn đề 
buộc chúng ta cần phải nhìn nhận và đánh giá lại một cách đúng đắn hơn trong 
tình hình mới. 
Chúng tôi đã lựa chọn đề tài này với mục đích xem xét những tiềm năng 
có thể khai thác được và vai trò của quan hệ Việt Nam - Trung Quốc đối với nền 
kinh tế hai nước, đồng thời đưa ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy triển vọng 
của mối quan hệ này. Trong khuôn khổ hạn hẹp của một bài tiểu luận, đề tài chỉ 
giới hạn trong phạm vi nghiên cứu mối quan hệ kinh tế - thương mại Việt Nam 
- Trung Quốc đặc biệt từ sau khi bình thường hóa quan hệ (1991). 
Nội dung của tiểu luận sẽ gồm 3 chương: 
Chương 1: Tiềm năng và vai trò của mối quan hệ kinh tế - thương mại 
Việt Nam - Trung Quốc. 
Chương 2: Thực trạng quan hệ kinh tế - thương mại Việt Nam - Trung 
Quốc. 
Chương 3: Triển vọng và những giải pháp nhằm thúc đẩy quan hệ kinh 
tế - thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc. 
 3
Chương 1 
TIỀM NĂNG VÀ VAI TRÒ CỦA MỐI QUAN HỆ 
KINH TẾ - THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC 
I. TIỀM NĂNG CỦA MỐI QUAN HỆ KINH TẾ - THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT 
NAM - TRUNG QUỐC 
Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng "núi liền núi, sông liền sông". 
Do điều kiện địa lý tự nhiên đó và một số nhân tố khác nữa, cho nên 
ngay từ trước công nguyên giữa Việt Nam và Trung Quốc đã có mối quan hệ 
lịch sử và chính trị, giao lưu kinh tế và văn hóa với nhau. Cùng với thời gian, 
mối quan hệ trên nhiều lĩnh vực đó không ngừng được duy trì củng cố và phát 
triển. Chúng ta có thể tìm được không mấy khó khăn những ghi chép trong sử 
cũ của cả Trung Quốc lẫn Việt Nam nói về giao lưu kinh tế và văn hóa giữa hai 
nước trong thời kỳ cổ trung đại. Đến thời kỳ cận đại, mối quan hệ kinh tế đó 
được mở rộng và phát triển thêm một bước. Đặc biệt, từ khi hai nước bình 
thường hóa trở lại tháng 11/1991, mối quan hệ đó ngày một có những biểu hiện 
tốt đẹp hơn. 
Để duy trì và củng cố mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc, 
chúng ta phải phân tích để thấy rõ tiềm năng của mối quan hệ này. 
1. Về mặt chính trị 
Việt Nam và Trung Quốc có nhiều nét tương đồng nổi bật- đó là: cùng 
do Đảng Cộg sản lãnh đạo, đang xây dựng CNXH theo đặc điểm và tình hình 
mỗi nước, đều xúc tiến công cuộc cải cách và đổi mới, thực hiện mở cửa với thế 
giới. Từ những nét tương đồng đó, hai nước càng có điều kiện trao đổi và học 
tập kinh nghiệm lẫn nhau trong xây dựng và phát triển đất nước. Đó là thuận lợi 
cơ bản mà hai nước cần phát huy vì lợi ích mỗi dân tộc. 
Hơn nữa, trong thời gian gần đây, các cồng chí lãnh đạo cấp cao thường 
xuyên thăm viếng lẫn nhau. Tổng bí thư, Chủ tịch nước Giang Trạch Dân, Thủ 
tướng Lý Bằng, Chủ tịch Hội nghị Hiệp thương chính trị Lý Thụy Hoàn, Ủy 
viên trưởng Ủy ban Thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc Kiều 
Thạch, đã lần lượt sang thăm Việt Nam. Các đồng chí ủy viên thường vụ Bộ 
Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa 7, khóa 8 
cũng đã sang thăm Trung Quốc. Riêng kế từ năm 1998 đến nay, các đồng chí 
lãnh đạo Đảng và Nhà nước Việt Nam như Tổng bí thư Lê Khả Phiêu, Thủ 
tướng Phan Văn Khải, ủy viên thường vụ, thường trực Bộ Chính trị Phan Thế 
Duyệt và Phó thủ tướng thường trực Nguyễn Tấn Dũng cũng đã lần lượt sang 
thăm Trung Quốc. Về phía Trung Quốc, đồng chí ủy viên thường vụ Bộ Chính 
trị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Phó chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào và 
thủ tướng Chu Dung Cơ đã sang thăm Việt Nam. Các đồng chí lãnh đạo Đảng 
và Nhà nước hai nước đã trao đổi ý kiến một cách sâu rộng về các vấn đề trọng 
đại quan hệ song phương và đi đến nhiều nhận thức chung, đã phát huy tác 
dụng hết sức to lớn đối với việc tăng cường sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau, 
thúc đẩy sự hợp tác hữu nghị cũng như giải quyết các vấn đề tồn tại giữa hai 
nước do lịch sử để lại. Đặc biệt tháng 2 năm 1999 tại Bắc Kinh, Tổng bí thư 
 4
Giang Trạch Dân và Tổng bí thư Lê Khả Phiêu đã tiến hành cuộc gặp mang tính 
chất lịch sử, hai bên công bố "Tuyên bố chung", cùng xác định khuôn khổ về 
quan hệ hai Đảng, hai nước bằng 16 chữ vàng là láng giềng hữu nghị, hợp tác 
toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai, đánh dấu quan hệ Trung - Việt 
đã bước sang một giai đoạn phát triển mới. 
2. Về mối quan hệ giữa các ngành, các địa phương 
Thời gian qua, các đoàn đại biểu Đảng, chính quyền, bộ đội, đoàn thể 
nhân dân cũng như các tỉnh, thành phố giữa hai nước đi lại nhộn nhịp, lĩnh vực 
hợp tác không ngừng được mở rộng. Hàng năm đều có hơn 100 đoàn chính 
thức thăm viếng lẫn nhau. Theo thống kê chưa đầy đủ, riêng năm 1999, hai bên 
đã trao đổi 146 đoàn chính thức ở cấp bậc khác nhau, trong đó gần 80 đoàn 
thuộc cấp từ thứ trưởng trở lên. Bộ trưởng Quốc phòng hai nước và tổng tham 
mưu trưởng, chủ nhiệm Tổng cục Chính trị và Tổng cục Hậu cần cũng như các 
tướng lĩnh lục, hải, không quân của quân đội hai nước đều thăm viếng lẫn nhau. 
Sự trao đổi giữa các quân khu vùng biên giới hai nước cũng đã được từng bước 
triển khai. Đến nay, bưu chính viễn thông... đã toàn bộ được khai thông. Hai 
nước đã ký kết hơn 30 văn kiện hợp tác gồm các lĩnh vực kinh tế thương mại, 
khoa học kỹ thuật, văn hóa giáo dục, giao thông vận tải, lãnh sự, tư pháp, hải 
quan, du lịch... Thủ đô Bắc Kinh đã kết nghĩa với thủ đô Hà Nội. Thành phố 
Thượng Hải đã kết nghĩa với thành phố Hồ Chí Minh. Mười mấy tỉnh của Trung 
Quốc như: tỉnh Hà Bắc, Giang Tô, Sơn Đông, Tứ Xuyên... và các tỉnh hữu quan 
của Việt Nam đã cử đoàn thăm viếng lẫn nhau, trao đổi kinh nghiệm xây dựng 
kinh tế và triển khai hợp tác kinh tế với các hình thức khác nhau. Chúng tôi 
nghĩa rằng, Trung Quốc và Việt Nam đều đang thực hiện sự chuyển đổi từ kinh 
tế kế hoạch sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cải cách 
mở cửa của Trung Quốc và đổi mới ở Việt Nam có nhiều nét tương đồng và 
tương tự về mục tiêu cũng như về cách là việc bước đi. Việc trao đổi kinh 
nghiệm giữa hai nước trong nhiều lĩnh vực là điều rất cần thiết và bổ ích cho cả 
hai bên, đã và sẽ góp phần quan trọng vào việc bổ sung cho nhau, cùng nhau 
phát triển. 
3. Về giải quyết các vấn đề biên giới lãnh thổ 
Nhờ sự quan tâm đích thân và chỉ đạo trực tiếp của các đồng chí lãnh 
đạo cấp cao hai nước, đặc biệt là hai đồng chí Tổng Bí thư của hai Đảng, nhờ sự 
cố gắng chung và hợp tác chặt chẽ giữa các chuyên gia hai nước trong vòng 8 
năm, ngày 30 tháng 12 năm 1999, trước thềm năm mới và thiên niên kỷ mới, 
thay mặt nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và nước Cộng hòa xã hội chủ 
nghĩa Việt Nam, đồng chí Bộ trưởng Ngoại giao Đường Gia Triền và đồng chí 
Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm đã chính thức 
Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa hai nước. Đây là một sự kiện lớn có ý 
nghĩa lịch sử. Sẽ tạo điều kiện thuận lợi để hai nước cùng nhau xây dựng đường 
biên giới vĩnh viễn hòa bình, ổn định và hữu nghị. Thành công của cuộc đàm 
phán biên giới trên đất liền đã tăng thêm sự tin cậy giữa hai bên, đồng thời cũng 
đã cung cấp những kinh nghiệm bổ ích để hai bên giải quyết các vấn đề tồn tại 
khác. Việc hai nước Trung - Việt giải quyết thỏa đáng các tranh chấp về biên 
 5
giới trên đất liền và ký Hiệp ước cũng góp phần tích cực vào việc củng cố hòa 
bình, ổn định trong khu vực cũng như trên thế giới. 
Năm nay, hai nước sẽ tập trung giải quyết vấn đề phân định vịnh Bắc 
Bộ. Hai bên cho rằng, với tinh thần "Đại cục làm trọng, nhân nhượng lẫn nhau, 
công bằng hợp lý về hiệp thương hữu nghị", tận dụng những kinh nghiệm bổ 
ích rút ra từ cuộc đàm phán biên giới trên đất liền, nhất định sẽ hoàn toàn thành 
nhiệm vụ mà hai đồng chí Tổng bí thư giao phó, đi đến một giải pháp thỏa đáng 
mà hai bên đều có thể chấp nhận. Và quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa hai nước 
nhất định được phát triển lành mạnh, tốt đẹp hơn. 
4. Tiềm năng xuất phát từ hai bên 
a. Từ phía Việt Nam 
+ Vị trí địa lý 
Việt Nam là một dải đất hình cong chữ S, chạy dọc phía đông bán đảo 
Đông Dương, vừa gắn liền với lục địa châu Á rộng lớn, vừa thông ra Thái Bình 
Dương bao la. 
Việt Nam có biên giới đất liền dài 3.730km. Phía Bắc giáp nước Cộng 
hòa nhân dân Trung Hoa với chiều dài biên giới 1.150km. Phía Tây giáp với 
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào trên chiều dài biên giới 1.650km và với vương 
quốc Campuchia 930km. Phía đông, phía nam và phía tây nam giáp biển. Qua 
biển đông và vịnh Thái Lan là Cộng hòa Philipin, Cộng hòa Indonexia, Cộng 
hòa Singapore, Cộng hòa Brunei và Liên bang Malaysia. 
Lãnh thổ toàn vẹn của Việt Nam bao gồm diện tích đất liền 330.991km2 
và vùng biển rộng bao la. Vùng lãnh hải Việt Nam rộng 12 hải lý và vùng đặc 
quyền kinh tế rộng 200 hải lý với diện tích khoảng 1 triêụ km2. 
Hơn nữa, Việt Nam lại nằm trong khu vực Đông Nam Á - vùng đang có 
tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất thế giới, có sức hấp dẫn lớn nhất trên thế 
giới. Việt Nam tiếp giáp với Trung Quốc - một quốc gia có nền kinh tế đối 
ngoại rất năng động, phong phú. 
Thêm vào đó, chúng ta có chiều dài bờ biển 3.250km mà vận tải đường 
biển hiện nay vẫn là một trong những hình thức vận tải chủ yếu nhất của thế 
giới, tải trọng khoảng 80% khối lượng hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu của thế 
giới. Những nước láng giềng trong khu vực Đông Nam Á cũng đều sử dụng vận 
tải biển là chủ yếu. Đây là một lợi thế rất lớn của chúng ta so với Lào và 
Campuchia và nhiều nước khác. Ngày nay, quá trình vận tải biển bằng container 
có xu hướng phát triển lên càng cao làm cho quá trình vận chuyển hàng hóa 
ngoại thương tăng lên nhanh. Trong khi chúng ta có nhiều cảng biển như Sài 
Gòn, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cửa Lò, Cần Thơ... Đồng thời ven biển, nhất là từ 
Phan Thiết trở vào, có nhiều cảng nước sâu đảm bảo các tiêu chuẩn quốc tế để 
tàu trở container có thể cập bến an toàn quanh năm. Singapore đã giàu lên, trở 
thành "con rồng" châu Á là nhờ có lợi thế vào vị trí cảng biển. 
Trên trục đường sắt, đường bộ chúng ta đã xây dựng lâu đời đi sang 
châu Á qua Trung Quốc... 
+ Tài nguyên thiên nhiên: 
 6
Cho đến nay Việt Nam chưa đánh giá hết được tiềm năng khoáng sản 
của mình trên cả hai mặt: số lượng lại cũng như trữ lượng của từng loại. Căn cứ 
vào kết quả điều tra địa chất cũng có thể khẳng định: Ít ra Việt Nam cũng là 
quốc gia có tiềm năng khoáng sản cỡ trung bình thế giới. 
- Dầu mỏ: dầu mỏ hiện nay là nguồn tài nguyên mang lại cho nước ta nhiều 
hy vọng nhất, với số lượng khai thác hàng năm gia tăng, mang lại nhiều ngoại tệ, 
năm 1999 vừa qua kim ngạch xuất khẩu dầu mỏ khoảng 2 tỷ USD. 
Theo ước lượng ban đầu, trữ lượng dầu mỏ Việt Nam có thể đạt 3-4 tỷ 
thùng và trữ lượng khí khoảng 50-70 tỷ m3. Dầu mỏ có thể được khai thác ở vịnh 
Bắc Bộ, thềm lục địa khu vực Quảng Trị - Thừa Thiên và vùng thềm lục địa phía 
nam... 
- Tài nguyên khoáng sản đứng thứ hai là than đá với trữ lượng khoảng 
36 tỷ tấn và mức khai thác xấp xỉ 10 triệu tấn/năm thì với tài nguyên đó cho 
chúng ta khai thác còn lâu mới hết. 
- Khoáng sản kim loại: khoáng sản kim loại tương đối đa dạng. Quặng 
sắt được phát hiện ở nhiều nơi nhưng chủ yếu tập trung vào 3 khu vực: Tây Bắc, 
Đông Bắc và khu bốn cũ. Khu vực Tây Bắc gồm các mỏ dọc sông Hồng trữ 
lượng 125 triệu tấn. Khu vực Đông Bắc có 5 mỏ với tổng trữ lượng là 50 triệu 
tấn. Khu bốn cũ đã tìm thấy sắt ở các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, trong 
đó quan trọng nhất là mỏ Thạch Khê với trữ lượng dự báo 554 triệu tấn. Trong 
số các khoáng sản kim loại màu, kim loại quý và hiếm trước hết phải kể đến 
boxit. Việt Nam được đánh giá là một trong 6 quốc gia có trữ lượng bôxit lớn 
nhất thế giới. Trữ lượng bôxit ở Tây Nguyên khoảng 6 tỷ tấn. Ngoài ra, chúng ta 
còn có hàng chục loại kháng sản kim loại quý như vàng, kẽm, thiếc, đồng, chì, 
đám hiếm... 
- Về đất đai: diện tích đất cả nước khoảng 330.991km2 trong đó có tới 
50% là đất dùng vào nông nghiệp và ngư nghiệp, cộng thêm khí hậu nhiệt đới 
mưa nắng điều hòa cho phép chúng ta phát triển nông sản và lâm sản xuất khẩu 
có hiệu quả kinh tế cao như: gạo, cao su, các nông sản nhiệt đới. Giá đất, nhà 
hiện nay tại Việt Nam đã tăng 4-10 lần so với 3-4 năm về trước. Tuy nhiên so 
với ngoại quốc, 1 căn hộ 4 x 20m có lầu tại San fransico (Hoa Kỳ) khoảng 200.000 
USD, tại Nhật Bản khoảng 500-700.000 USD thì còn rất rẻ. Các nhà đầu tư nước 
ngoài đến Việt Nam đã tìm được những mặt bằng với tiền thuê đất quá rẻ so với các 
nước trên thế giới. Giá hàng nông sản rẻ như gạo xuất khẩu khoảng 180-200 
USD/tấn, trong khi Nhật Bản đảm bảo cho nông dân họ là 500USD và Mỹ là 300 
USD. 
b. Từ phía Trung Quốc 
Để đánh giá tiềm năng xuất phát từ phía Trung Quốc, ta hay xem xét sự 
phát triển kinh tế của Trung Quốc và vị trí của nó trong nền kinh tế thế giới và 
khu vực trong những năm gần đây: 
Khi thế giới hiện đại đã bước vào thời kỳ công nghiệp và chuyển sang 
thời kỳ hậu công nghiệp. Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa mới thực hiện mở cửa 
(từ cuối năm 1978), song đã đặt được kỳ tích, mức tăng trưởng kinh tế hàng 
năm gần 10%, ngoại thương tăng trên 10% kéo dài liên tiếp hai thập kỷ vừa 
 7
qua. Đó là những mức tăng trưởng lớn hơn cả nước NIEs trước đây đã từng 
làm thế giới kinh ngạc. 
Trên cơ sở tiềm năng cho sự phát triển như tiềm lực thị trường to lớn; 
nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú; nguồn tài nguyên con người dồi dào; 
giá đất đai thấp... và sự khởi sắc nhờ chính sách cải cách mở cửa của Trung 
Quốc sẽ tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng cao liên tục trong vài thập kỷ nữa và 
cùng với sự tăng trưởng này, địa vị của nó trong nền kinh tế thế giới và khu vực 
sẽ có những thay đổi lớn. 
Theo một số dự tính từ năm 1991 đến 2010 nếu Trung Quốc có thể duy 
trì tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm 8,25% thì GDP năm 2010 là 8600 tỷ 
nguyên; đến năm 2000 dân Trung Quốc sẽ là 1,3 tỷ người, năm 2010 sẽ là 1,46 
tỷ người, do vậy GDP tính teo đầu người sẽ là 6000 nguyên. Dù tính theo 
phương pháp PPP (bình quân sức mua) hay theo tỷ giá năm 1990 (1USD = 4,7 
nguyên) thì GDP của Trung Quốc lúc đó cũng đứng vào các nước hàng đầu thế 
giới chỉ kém Mỹ và Nhật Bản. 
Nếu từ 2010 đến 2020, kinh tế Trung Quốc duy trì được tốc độ tăng 
trưởng bình quân hàng năm 6,8% thì GDP năm 2020 sẽ đạt 16.655,9 tỷ nguyên, 
đứng hàng ba nước đứng đầu thế giới. 
Hoặc theo cách tính của Kissinger ngoại trưởng Mỹ thì "Trung Quốc sẽ 
xuất hiện với tư cách là một siêu cường non trẻ khi thu nhập bình quân đầu 
người ở Trung Quốc đạt mức Hàn Quốc hiện nay, tổng sản phẩm quốc dân này 
sẽ gấp hai lần Mỹ...". 
Cùng với sự tăng trưởng nhanh, kết cấu kinh tế Trung Quốc từ 1996 
đến 2010 sẽ có những biến đổi lớn. Nổi bật là sự phát triển nhanh của công 
nghiệp, đặc biệt là ngành chế tạo, tiếp đến là các ngành công nghiệp sản xuất 
hàng tiêu dùng, công nghiệp hóa nặng. Tiến trình công nghiệp hóa, thị trường 
hóa mạnh mẽ sẽ dẫn đến sự tăng tiến liên tục tỷ trọng của khu vực dịch vụ. 
Điều có thể thấy là Trung Quốc sẽ tiếp tục chính sách mở cửa, mối liên 
hệ giữa Trung Quốc với thế giới và khu vực sẽ ngày càng mật thiết. Nhiều dự án 
cho rằng tốc độ bình quân hàng năm của ngoại thương sẽ tiếp tục cao ngang tốc 
độ tăng GNP, dự kiến đến năm 2010 quy mô xuất khẩu sẽ đạt khoảng 400 tỷ 
USD. Cơ cấu hàng xuất khẩu sẽ có những thay đổi lớn, chuyển từ các mặt hàng 
giá trị gia tăng thấp sang các mặt hàng giá trị gia tăng cao, hàm lượng khoa học 
công nghệ cao là chủ yếu vào năm 2010. 
Chính sách quan trọng của Trung Quốc trong thời gian qua là tích cực 
thu hút đầu tư nước ngoài. Thời kỳ từ 1980 đến 1994 Trung Quốc đã thu hút 
được 200 tỷ USD vốn nước ngoài, trong đó khoảng một nửa là tiền vay và một 
nửa là FDI. Dự kiến thời gian tới vẫn tiếp tục thu hút vốn nước ngoài song có sự 
điều chỉnh nhất định về hướng đầu tư. 
Quy mô của nền kinh tế Trung Quốc trong thế kỷ tới càng hùng vĩ hơn 
khi ta xem xét Hồng Kông, Ma Cao trở về Trung Quốc, và quan hệ kinh tế mật 
thiết giữa Trung Quốc và Đài Loan trong chiến lược "một quốc gia hai chế độ". 
Trên mọi phương diện đều cho thấy hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình 
Dương đã không thể thiếu sự tham gia của Trung Quốc. Trước hết, dân số 
 8
Trung Quốc chiếm gần 70% dân số khu vực này, GDP đứng thứ ba, chỉ sau Mỹ, 
Nhật Bản, xuất khẩu đứng thứ tư sau Mỹ, Nhật Bản, Canada. Mặt khác, 70% 
ngoại thương Trung Quốc được thực hiện với các nước châu Á - Thái Bình 
Dương. Phần lớn các bạn hàng quan trọng của Trung Quốc đều là các nước 
châu Á - Thái Bình Dương. Trong gần 100 tỷ USD FDI đổ vào Trung Quốc thời 
gian qua từ hơn 60% đến từ các nước châu Á - Thái Bình Dương. Thứ hai, ưu 
thế nổi bật của thị trường Trung Quốc với các bạn hàng châu Á -Thái Bình 
Dương là khả năng bổ sung cho nhau về các mặt tài nguyên, nhân lực, tiền vốn 
kỹ thuật để cùng phát triển. Trong hợp tác, mọi phía đều phát huy được lợi thế 
so sánh của mình trong thời gian tương đối dài, do đó đều có thể trở thành bạn 
hàng chiến lược của nhau. Ba là, cùng với sự đẩy mạnh thu hút vốn nước ngoài 
và sự phát triển nhanh các xí nghiệp "ba nguồn vốn" tỷ trọng xuất khẩu của xí 
nghiệp "ba nguồn vốn" trong tổng ngạch xuất khẩu của Trung Quốc đã chiếm 
gần một nửa. Điều này cho thấy kinh tế Trung Quốc đã cuốn sâu vào phân công 
lao động quốc tế. Sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế ở các nước châu Á 
-Thái Bình Dương đã tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyển dịch nâng 
cấp kết cấu kinh tế ở Trung Quốc, mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa Trung 
Quốc với các nước châu Á - Thái Bình Dương ngày càng chặt chẽ. Nó phản ánh 
một hiện thực khách quan là Trung Quốc cần các nước châu Á - Thái Bình 
Dương và các nước châu Á - Thái Bình Dương cũng cần Trung Quốc. 
5. Lợi thế so sánh trong trao đổi hàng hóa qua biên giới Việt - Trung 
Buôn bán qua biên giới Việt - Trung từ chỗ chỉ chiếm 2% tổng buông 
bán của Việt Nam, năm 1990 đã tăng lên 4%, đến năm 1991 - 1999 thì chừng 6-
7%. Vậy buôn bán qua biên giới cũng giữ một tỷ trọng khá lớn trong tổng buôn 
bán của Việt Nam. Do đó để phát triển quan hệ thương mại - kinh tế giữa Việt 
Nam - Trung Quốc, ta cần xem xét đén những lợi thế so sánh có thể khai thác 
trong quan hệ thương mại. 
Phải khẳng định rằng, tiềm năng trao đổi hàng hóa qua biên giới Việt - 
Trung mà chúng ta phải tính của khai thác còn rất lớn. 
Việt Nam hoàn toàn có thể tăng cường xuất khẩu hàng hóa sang Trung 
Quốc. Chẳng hạn, qua Hội chợ thương mại Quốc tế Móng Cái lần thứ nhất 
(ngày 16-20/1/1997) đã cho thấy thêm mặt hàng mạnh của Việt Nam (so với 
hàng Trung Quốc) như các sản phẩm của Công ty Xuân Hòa, Nhà máy đồ hộp 
Hạ Long, Công ty Mỹ nghệ Vân Hà (Đông Anh - Hà Nội), Công ty mỹ nghệ 
Trường Sơn (Từ Sơn - Bắc Ninh)... Ở đây chỉ xin chỉ đi sâu vào mặt hàng máy móc 
thiết bị mà hiện nay chúng mới chỉ chiếm 1% tổng lượng hàng hóa xuất khẩu của 
Việt Nam. Khả năng mở rộng xuất khẩu máy móc thiết bị sang Trung Quốc thể hiện 
ở chỗ: 
- Theo báo cáo của Tổng Công ty động lực và máy nông nghiệp, mặt 
hàng cơ khí của ta đã bắt đầu xuất khẩu sang các nước Indonesia, Đài Loan, 
Hồng Kông... Ví dụ: xuất 200 bộ máy xát gạo cho Indonesia và Miến Điện, 
40.000 bộ ru lo xát gạo cho Yanma, 50 mẫu máy càng tay hai bánh với cỡ công 
suất 6, 10, 5, 13 và 15 mã lực sang ASEAN. 
 9
- Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng có vai trò trong 
hoạt động xuất khẩu. Hoàn toàn có thể hy vọng rằng khu vực này sẽ chinh phục 
được thị trường Trung Quốc. 
- Thực tế Trung Quốc có nhu cầu lớn về nhập khẩu máy móc, thiết bị từ 
bên ngoài. Chẳng hạn trong số 185 tỷ USD nhập khẩu năm 1994, tỷ trọng máy 
móc thiết bị chiếm 16%, thiết bị vận tải chiếm 6%. 
- Biên giới Việt - Trung dài 1150 km chạy qua 156 xã thuộc 31 huyện 
của 6 tính phía Bắc Việt Nam, trong đó có những vị trí có địa lý kinh tế lợi hại 
trong quan hệ thương mại với Trung Quốc. Lào Cai là một điển hình. Vùng Tây 
Nam Trung Quốc rất rộng lớn, khả năng xuất khẩu cũng rất lớn, nhưng lại ở xa 
các cửa biển của Trung Quốc. Nếu nhập khẩu qua cửa khẩu Lào Cai, đường 
biển chỉ còn 600 km, rút ngắn độ dài giao thông gấp 4-5 lần. Như vậy, Lào Cai 
có thể trở thành đầu cầu cho vùng Tây - Nam vươn ra biển, và do đó, là đầu mối 
lý tưởng tái xuất hàng của các nước qua Việt Nam và Trung Quốc. (Đương 
nhiên ưu thế này đã bị mờ nhạt bởi Hiệp định quá cảnh Việt - Trung ký ngày 9-
4-1994 tại Hà Nội: cho phép hàng hóa của CHND Trung Hoa đưa về từ nước thứ 
ba được qua lãnh thổ Việt Nam, qua các cửa khẩu Hữu Nghị, Đồng Đăng, Lào Cai, 
Móng Cái). 
- Hiện tại lực lượng tham gia quan hệ với Việt Nam của phía Trung 
Quốc còn khá hạn hẹp. Đó là chủ yếu là các công ty cấp tỉnh, huyện của các tỉnh 
phía Nam như Quảng Tây, Vân Nam, Hải Nam... và thêm một số tỉnh như 
Quảng Tây, Tứ Xuyên... Số công ty thuộc Bộ kinh tế mậu dịch Trung Quốc 
quản lý tham gia rất ít. 
Mặt khác, các tỉnh giáp Việt Nam tuy có diện tích lớn (gần bằng diện 
tích Việt Nam), dân số đông (gấp 2,5 lần dân số Việt Nam), nhưng cũng là vùng 
kinh tế chậm phát triển. Sản xuất công nghiệp chỉ dồi dào ở phần giáp biển Thái 
Bình Dương của tỉnh Quảng Đông, tuy nhiên, cả chất lượng và số lượng đều 
thua kém công nghiệp trung ương. 
Như vậy, nếu mở rộng và tiến sâu vào quan hệ với lục địa của Trung 
Quốc, Việt Nam sẽ còn phát huy hơn nữa lợi thế của mình và khai thác hơn nữa 
lợi thế của Trung Quốc. 
6. Các hiệp định và thỏa thuận 
Từ sau khi quan hệ chính trị Việt Nam - Trung Quốc được bình thường 
hóa (tháng 11/1991), nhất là từ sau khi hai nước ký kết với nhau một số hiệp 
định về quan hệ biên giới hai nước, về trao đổi thương mại và hợp tác - kỹ thuật 
giữa hai nước như: Hiệp định mậu dịch giữa hai nước, Hiệp định tạm thời giải 
quyết công việc vùng biên giới, Hiệp định hợp tác kinh tế Việt Nam - Trung 
Quốc, Hiệp định về giao thông vận tải giữa hai nước (đường bộ, hàng không, 
hàng hải, đường sắt), Hiệp định khuyến khích và đảm bảo đầu tư, Hiệp định 
hợp tác kinh tế - kỹ thuật Việt Nam - Trung Quốc, Hiệp định biên giới trên đất 
liền... thì mối quan hệ hợp tác kinh tế, trao đổi thương mại giữa hai nước Việt - 
Trung được mở ra dựa trên cơ sở pháp lý về quy mô và nâng cao về chất lượng. 
Dưới đây là một số hiệp định liên quan đến quan hệ kinh tế - thương mại: 
1. Hiệp định thương mại 
 10
Ký ngày 7/12/1991 tại Bắc Kinh. Hiệp định quy định hai bên buôn bán 
theo tập quán quốc tế, chỉ áp dụng tối huệ quốc trong hai lĩnh vực thuế hải quan 
và thủ tục hải quan, việc buôn bán thực hiện trên cơ sở hợp đồng giữa các công 
ty và các thực thể kinh tế có quyền kinh doanh xuất nhập khẩu (phía Việt Nam: 
do Bộ thương mại cấp giấy kinh doanh xuất nhập khẩu. Phía Trung Quốc: do 
Bộ kinh tế và mậu dịch đối ngoại Trung Quốc báo cho Việt Nam biết và thường 
xuyên nhắc lại. Chỉ có các công ty do Bộ này cấp quyền kinh doanh xuất nhập 
khẩu mới có tư cách ký hợp đồng xuất nhập khẩu đối ngoại), hợp đồng ký kết 
theo tập quán quốc tế, trên cơ sở quốc tế, thanh toán bằng đồng tiền tự do 
chuyển đổi qua ngân hàng, ngoài buôn bán dùng tiền có thể dùng các dạng 
buôn bán khác (ví dụ hàng đổi hàng...) nhưng vẫn phải thanh toán qua ngân 
hàng. 
Hoạt động tiếp xúc mậu dịch (triển lãm, quảng cáo...) bên này tiến hành 
trên đất bên kia phải do các cơ quan chuyên trách về xúc tiến mậu dịch thực 
hiện. 
Ngoài buôn bán xuất nhập khẩu còn buôn bán dân gian với nội dung 
trao đổi hàng hóa theo truyền thống giữa các cư dân thường trú ở khu vực biên 
giới hai bên, không mang tính chất kinh doanh, mua bán kiếm lời. 
2. Hiệp định hợp tác kinh tế 
Hiệp định này ký ngày 14/2/1992 quy định những nguyên tắc chung 
nhất cho hợp tác kinh tế giữa hai bên trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi, tôn 
trọng luật pháp hai nước, luật đầu tư nước ngoài của mỗi bên,quy định các hình 
thức hợp tác như liên doanh, đầu tư, thầu công trình... 
3. Hiệp định tạm thời giải quyết các công việc trên vùng biên giới 
Ký ngày 7/12/1991 tại Bắc Kinh. Hiệp định quy định về cửa khẩu cho 
hàng qua lại, trong 21 cặp cửa khẩu chỉ có 7 cửa khẩu quốc gia. Trong 7 cửa 
khẩu quốc gia, chỉ có 4 cửa khẩu quốc tế là: (Hữu Nghị - Hữu Nghị Quan, Lào 
Cai - Hà Khẩu, Đồng Đăng - Bằng Tường, Móng Cái - Đông Hưng) trong đó 
Đồng Đăng - Bằng Tường là cửa khẩu đường sắt. Hàng hóa xuất nhập khẩu của 
các nước thứ 3 chỉ được qua 4 cửa khẩu này, không được qua các cửa khẩu 
khác. 
4. Hiệp định hàng hải 
Ký ngày 8/3/1992 tại Bắc Kinh. Hiệp định hàng hải quy định các 
nguyên tắc về hợp tác hai bên trong lĩnh vực hàng hải, trong đó có: hai bên cho 
phép tàu của nước kia vào làm hàng tại các cảng của nước mình như các tầu cá 
nước khác, theo đúng quy định hiện hành về hàng hải của mình. 
5. Hiệp định về quá cảnh hàng hóa 
Mới ký tắt 12/1993 chưa ký chính thức. Tại hiệp định này hai bên thỏa 
thuận đồng ý cho hàng của bên kia được quá cảnh qua đất mình. 
Ngoài ra, còn có các hiệp định như: 
+ Hiệp định về thanh toán ngân hàng ký 5/1993. 
+ Hiệp định về hàng không 5/3/1992. 
+ Thỏa thuận phối hợp kiểm tra chất lượng hàng hóa xuất nhập khẩu ký 
cuối năm 1992. 
 11
+ Biên bản hội đàm giữa hai đoàn chuyên viên thương mại hai nước 
(7/1993). Biên bản này xác nhận có tình hình buôn bán lộn xộn ở biên giới mà 
cả hai bên đều không quản lý được và khẳng định cần phải thúc đẩy buôn bán 
hai nước theo đúng các quy định của hiệp định thương mại đã ký 11/1991. 
+ Biên bản hội đàm giữa hai đoàn chuyên viên về thi hành Hiệp định 
tạm thời giải quyết các công việc trên vùng biên giới (1/1994). Về thương mại, 
biên bản này xác nhận việc buôn bán của hai bên cần phải được thực hiện theo 
đúng các quy định của hiệp định thương mại đã ký 11/1991. 
+ Thỏa thuận về hỗ trợ và hợp tác và thỏa thuận về hợp tá chống buôn 
lậu giữa hải quan hai nước (11/1993). 
II. VAI TRÒ CỦA MỐI QUAN HỆ KINH TẾ - THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - 
TRUNG QUỐC 
1. Đối với Trung Quốc 
Xuất phát từ bối cảnh gần, Trung Quốc có thể sử dụng thị trường Việt 
Nam để giải quyết một phần khó khăn kinh tế - thương mại kỹ thuật của mình 
bao gồm: 
- Tiêu thụ hàng hóa kỹ thuật và chất lượng thấp và trung bình sang Việt 
Nam, một thị trường lớn gần 80 triệu người và ở gần. Các hàng ấy chủ yếu là 
các hàng Trung Quốc đang tồn đọng (vật liệu xây dựng, sắt thép thông thường, 
hóa chất, máy và thiết bị truyền thống chủ yếu là máy động lực cỡ nhỏ, máy 
nông nghiệp, thiết bị phụ tùng lẻ... và các hàng tiêu dùng). 
- Sau khi khôi phục giao lưu buôn bán với Việt Nam, Trung Quốc có 
thể phát triển được khu vực Tây Nam rộng lớn bao gồm các tỉnh Tứ Xuyên, Quý 
Châu, Tây Tạng, Vân Nam, Quảng Tây. 
Trước hết, ta hãy xem xét tình trạng của các tỉnh này: 
Vân Nam và Quảng Tây là những vùng xa trung tâm và xa biển (Vân 
Nam không tiếp giáp với biển), trình độ phát triển sản xuất, khoa học kỹ thuật 
và mức độ thâm nhập của cải tổ kinh tế tương đối thấp. Do đường vận tải không 
thuận lợi, Chính phủ trung ương Trung Quốc gặp khó khăn trong việc bảo trợ 
tích cực cho sự phát triển của hai khu vựcnày. 
* Hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây đang gặp khó khăn kinh tế sau đây: 
+ Theo đường lối tự lực cánh sinh, hai tỉnh này phát triển toàn diện các 
ngành sản xuất công nghiệp. Nhưng trình độ kỹ thuật còn thấp, nên sản phẩm 
công nghiệp của họ không đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Họ 
gặp khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm này, để thu hồi vốn và để đầu tư kỹ thuật 
mới. Các sản phẩm tương đối thấp này đang bị ứ thừa, gây trở ngại to lớn cho nền 
kinh tế. Trong đó một số sản phẩm thừa ứ tới mức nghiêm trọng như hóa chất. 
+ Lương thực và năng lượng nhìn chung bị thiếu hụt 
+ Thiếu một số sản phẩm cần thiết: cao su đối với Quảng Tây (Vân 
Nam còn trồng được cao su), thủy sản, lương thực, thịt gia súc đối với Quảng 
Tây. 
Nhưng nhìn chung, đối với hai tỉnh này khó khăn chủ yếu là thị trường tiêu 
thụ hàng chế tạo, hàng công nghiệp nặng và hàng công nghiệp nhẹ. 
 12
* Hải Nam là vùng giáp biển, kinh tế đối ngoại, đầu tư nước ngoài rất 
phát triển. Tuy nhiên bị thiếu nguyên liệu và thiếu thị trường tiêu thụ một số sản 
phẩm công nghiệp truyền thống chất lượng trung bình và các sản phẩm công 
nghiệp nhẹ. 
Do vậy, từ khi thiết lập lại quan hệ Việt-Trung, Trung Quốc đã mở được 
đường thông thương cho các tỉnh này đi ra biển Đông và các nước Đông Nam 
Á. Hai tỉnh có biên giới chung với Việt Nam là Vân Nam và Quảng Tây, kinh tế 
đều đã được cải thiện sau khi mở cửa với Việt Nam. Đặc biệt rõ rệt là tỉnh 
Quảng Tây, nơi 80% kim ngạch thực hiện với Việt Nam là biên mậu, vốn là tỉnh 
miền núi ở biên giới phía Nam Trung Quốc, kinh tế chưa phát triển, thấp kém 
và lạc hậu nhiều so với các tỉnh khác trong nội địa, mười năm lại đây kinh tế đã 
phát đạt lên, nhiều tiềm năng kinh tế được khơi dậy, không còn là đối tượng trợ 
cấp của nhà nước nữa. Các cửa khẩu của Quảng Tây chất đầy hàng hóa để xuất 
đi Việt Nam, không những của bản tỉnh, mà còn của các tỉnh khác trở đến, do 
đó đây còn là các trạm chuyển. Các xí nghiệp hương trấn của Quảng Tây và của 
một số tỉnh nội địa làm ăn trở nên khấm khá nhờ thị trường mới là Việt Nam. 
- Sử dụng Việt Nam làm đường biển cho các tỉnh Nam và Tây Nam 
Trung Quốc, chủ yếu là vùng Vân nam và Tây Nam Trung Quốc ở xa biển (như 
đã nhắc ở trên), lại có dãy Thập Vạn Đại Sơn gây trở ngại lớn cho đường giao 
thông. Người Pháp trước đây khi bắt đầu chiếm Việt Nam đã thiết lập ngay 
đường sắt Vân Nam - Lào Cai - Hải Phòng. Nhu cầu vận chuyển hàng hóa quá 
cảnh của Vân Nam sang đất Việt Nam theo phía Trung Quốc ước tính có thể lên 
tới vài trăm triệu tấn/năm, có hiệu quả kinh tế cao cho Vân Nam, không chỉ là 
hiệu quả trực tiếp mà cả hiệu quả phát triển lâu dài nhờ thông ra thế giới bằng 
con đường thuận tiện (trong nhiều năm vùng Vân Nam phải thông qua Mianma 
để ra Ấn Độ Dương không thuận lợi như đường Lào Cai - Hải Phòng). 
- Lấy các nguyên liệu cần thiết cho sản xuất các địa phương Trung Quốc 
(quặng các loại, than đá, cao su, dầu thực vật, đay...). Với số lượng có mức độ, 
tùy theo yêu cầu của các tỉnh và các nguyên liệu dùng cho công nghiệp Trung 
ương (dầu mỏ, than, điện năng, đất hiếm...). Ngoài ra, còn có thể dùng Việt 
Nam để cung cấp lương thực, hải sản, thịt và súc vật sống cho vùng Tây Nam 
(chủ yếu là Vân Nam) để giúp giải quyết khó khăn về cung ứng và vận chuyển 
(tỉnh Vân Nam để lộ nhu cầu muốn mua mỗi năm tới 4 triệu tấn lúa gạo của 
Việt Nam). 
2. Đối với Việt Nam 
- Việc phát triển quan hệ kinh tế thương mại với Trung Quốc chẳng 
những phù hợp với đường lối đối ngoại "là bạn với tất cả các nước", mà còn 
phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế của đất nước; Việt Nam chú trọng mối 
quan hệ với các nước láng giềng nhằm tạo ra môi trường xung quanh hòa bình 
ổn định, góp phần giữ vững an ninh của đất nước và tạo điều kiện thuận lợi cho 
công cuộc đổi mới được tiến hành thuận lợi. 
- Việt Nam lập lại quan hệ buôn bán với Trung Quốc trong bối cảnh 
kinh tế - xã hội gặp khó khăn nặng nề. Quan hệ với các bạn hàng truyền thống 
và Liên Xô và các nước Đông Âu gần như bị gián đoạn. Hàng hóa bị thiếu thốn 
nghiêm trọng. Việc mở cửa buôn bán với nước láng giềng phía Bắc giống như 
 13
khai thông dòng chạy bị tắc, mà phía cao là hàng hóa phong phú của nước 
Trung Quốc đã trải qua 10 cải cách, ào xuống chỗ trũng bên dưới là nước Việt 
Nam đang thiếu hàng hóa. Buôn bán với Trung Quốc nhanh chóng thể hiện tác 
dụng tích cực, đặc biệt ở các tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam. Vùng núi biên 
giới vốn là điểm đáy của Việt Nam về nguy cơ tụt hậu ngày càng xa về kinh tế 
so với nhiều nước và khu vực trên thế giới, ngày nay đã bớt đói nghèo và hoang 
vắng. Không ít nơi biết tự phát hiện sức mạnh tiềm tàng, nắm được thời cơ, chủ 
động tìm lợi thế để phát triển qua con đường buôn bán với Trung Quốc. Nhiều 
tỉnh biên giới trước đây phải nhận trợ cấp từ ngân sách Trung ương, song chỉ 
sau mấy năm mở cửa giao lưu với Trung Quốc, đã phong lưu hẳn lên, không 
những có đóng góp cho ngân sách Trung ương, mà còn có thêm vốn đầu tư cho 
xã hội cơ sở hạ tầng; đường xá, phố phường tại các thị trấn cửa khẩu đều to đẹp 
đàng hoàng hơn trước. Các thị xã, thị trấn như Móng Cái, Đồng Đăng, Lạng 
Sơn hầu như bị phá hủy hoàn toàn trong chiến tranh biên giới, chỉ mấy năm sau 
đã xây dựng lại, trở thành những trung tâm buôn bán sầm uất, những nơi trung 
chuyển hàng hóa quốc tế quan trọng giữa Việt Nam và Trung Quốc. Về đời 
sống, đa số người dân Việt Nam đều cảm nhận được sự thoải mái, nhẹ nhõm vì 
có thể mua được nhiều loại hàng tiêu dùng phong phú, mới mẻ, hợp túi tiền. 
Một bộ phận đáng kể ở các tỉnh biên giới thoát khỏi nghèo đói, do có thêm việc 
làm, tăng thu nhập nhờ sản xuất, buôn bán, vận chuyển hàng hóa qua biên giới. 
Nhờ buôn bán với Trung Quốc, phía Việt Nam đã tăng đáng kể kim ngạch xuất 
nhập khẩu, nhất là các tỉnh ven biển, đã bán được những hàng mà trước đây 
không bán cho ai, mua được những mặt hàng hợp nhu cầu sản xuất và tiêu 
dùng. Trong cuộc cạnh tranh với hàng Trung Quốc để sống còn, nhiều sản 
phẩm của Việt Nam đã nâng cao được chất lượng, nhanh nhạy, và am hiểu hơn 
trong quản lý kinh doanh nhờ giao tiếp và vật lộn với giới bạn hàng của nước 
bạn đã tôi luyện trong cơ chế thị trường trước ta 10 năm. 
- Đối với Trung ương và tỉnh: 
+ Tăng nguồn thu ngân sách cho Trung ương và địa phương. Thông qua 
việc trao đổi hàng hóa, các đơn vị, doanh nghiệp đã đóng góp một phần đáng kể 
vào ngân sách Trung ương và địa phương qua các khoản nộp thuế. Từ đó, 
Trung ương và địa phương có điều kiện đầu tư cho xây dựng các hạ tầng, giao 
thông, bến, bãi, hệ thống điện, thông tin, các công trình phục vụ công cộng ở 
địa phương, vùng sâu, vùng biên giới tạo điều kiện thuận lợi để tăng nhịp độ 
trao đổi mậu dịch giữa hai bên. 
+ Bổ sung nguồn hàng hóa nguyên liệu trong nước chưa sản xuất được 
hoặc sản xuất không đủ, tạo ra thế cạnh tranh cần thiết giữa hàng nội và hàng 
ngoại, từ đó kích thích sản xuất trong nước hướng theo nhu cầu thị trường và 
nâng cao chất lượng, tăng sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Cho đến nay 
các ngành sản xuất xe đạp, quạt máy, xà phòng, sứ vệ sinh của Việt Nam đã lấy 
lại được uy tín. 
+ Tạo sự chuyển biến rõ rệt trong việc tạo nguồn hàng xuất khẩu từ chỗ 
thu gom sang đầu tư tạo nguồn hàng xuất khẩu ổn định, có hiệu quả kinh tế. 
Cùng với kim ngạch xuất khẩu và cơ cấu hàng xuất khẩu tăng nhanh, nhiều địa 
phương, nhiều ngành đã quan tâm đến nguồn hàng đầu tư tạo ra nguồn hàng 
 14
vững chắc như các vùng chuyên canh trồng cây ăn quả, vùng nuôi trồng thủy 
sản, tôm, lươn, ba ba, rắn... vùng trồng cây dược liệu và sản xuất tinh dầu... 
+ Xuất khẩu được một khối lượng lớn nguồn hàng mà ta đang gặp khó 
khăn về thị trường và bạn có nhu cầu, đồng thời không quá khắt khe trong quy 
cách chất lượng. Có thể nói giai đoạn 1991-1994, thông qua mậu dịch biên giới 
ta đã xuất được một lượng nguyên vật liệu với phẩm cấp khó cạnh tranh trên thị 
trường quốc tế như: than đá, cao su, các loại dầu ăn thực vật, hoa quả nhiệt đới, 
dược liệu... 
+ Mở ra ngành du lịch vùng biên từ đó mở rộng các tuyến du lịch trong 
nước, góp phần thu hút khách du lịch sang Việt Nam, tăng cường giao lưu văn 
hóa giữa hai nước. 
- Việt Nam có thể tiếp tục tăng cường tranh thủ công nghệ của Trung Quốc: 
+ Trình độ sản xuất của Trung Quốc ở một số ngành đã phát triển. Công 
nghiệp Trung ương đã sản xuất nhiều mặt hàng có chất lượng tương đương tiêu 
chuẩn quốc tế. 
+ Trong các mặt hàng xuất khẩu chính của Trung Quốc nói chung, đã 
có mặt hàng thiết bị máy móc với tỷ trọng 3%. 
Hiện nay đang có khá nhiều các công ty Việt Nam trông chờ vào máy 
móc, thiết bị của Trung Quốc. Công ty cơ khí Thái Bình đang tiến hành sản xuất 
loại máy kéo 2 bánh có công suất 8-12 mã lực, sẽ nhập động cơ và hộp số của 
các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Hồ Bắc, với số lượng 1000 máy/năm. Tổng 
Công ty động lực và máy nông nghiệp Việt Nam đang sản xuất thử loại động lực 
và máy nông nghiệp Việt Nam đang sản xuất thử loại động cơ nhãn Đông 
Phong (Trung Quốc sản xuất theo mẫu động cơ Kybota Nhật) 4 xy lanh, công 
suất 20 mã lực, với số lượng hàng ngàn chiếc một năm. Nhà máy cơ khí Đồng 
Tháp đang tiến hành sản xuất thử loại máy gặt đập liên hợp cỡ nhỏ cũng cần 
nhập động cơ công suất khoảng 20-25 mã lực của Trung Quốc. Công nghiệp 
chế biến đường mía của Việt Nam trong khoảng nhiều năm nữa vẫn phải nhập 
một số biết thị đặc trưng, có trình độ chính xác cao của Trung Quốc như hệ ly 
tâm liên tục và gián đoạn, hệ nồi hơi và máy phát điện. Các nhà máy sản xuất xi 
măng lò đứng trong tương lai không cần nhập thiết bị toàn bộ của Trung Quốc, 
nhưng một số thiết bị như: máy nghiền, lò nung, lọc bụi tĩnh điện... vẫn phải 
nhập của Trung Quốc nhằm sửa chữa, thay thế các nhà máy hiện có. Các loại 
phụ tùng đặc chủng phục vụ cho ngành xây dựng, y tế, và một số ngành khác 
vẫn phải tiếp tục nhập khẩu từ Trung Quốc. 
 15
Chương 2 
THỰC TRẠNG QUAN HỆ KINH TẾ - THƯƠNG MẠI 
VIỆT NAM - TRUNG QUỐC 
Quan hệ kinh tế - thương mại hai nước dần dần được khôi phục và phát 
triển từ cuối thập niên. Sau khi hai nước chính thức bình thường hóa quan hệ 
ngoại giao 1991 đến nay, quan hệ kinh tế - thương mại phát triển mạnh mẽ hơn 
bất cứ thời gian nào trước đây. 
I. QUAN HỆ THƯƠNG MẠI 
1. Những đặc điểm trong quan hệ thương mại Việt -Trung 
a. Phát triển nhanh nhưng tốc độ tăng có giảm đi 
Từ 1991 đến nay, kim ngạch thương mại chính ngạch giữa Việt Nam và Trung 
Quốc đa tăng 50 lần, từ 32 triệu đô laMỹ lên đến hơn 1,5 tỷ đô la Mỹ (năm 1998). 
Bảng 1: Thương mại chính ngạch Việt - Trung 1991 - 1998 
(triệu đô la Mỹ) 
Năm Thương mại chính ngạch Tỷ lệ tăng (%) 
1991 32,23 340,0 
1992 179,07 454,4 
1993 398,64 122,6 
1994 532,82 34,1 
1995 1052,19 97,4 
1996 1150,63 9,3 
1997 1435,64 24,6 
1998 1560,00 8,7 
Nhìn vào bảng thống kê chúng ta thấy giá trị tuyệt đối tăng mạnh, 
nhưng tốc độ tăng không đều trong tất cả các năm. Trong những năm đầu thập 
kỷ 90 kim ngạch giữa hai nước phát triển mạnh tuy có chậm lại trong những 
năm sau này, nhưng nhìn chung tất cả các năm đều tăng với tốc độ cao. Sở dĩ có 
tình trạng như vậy là do: 
Một là, nhu cầu hàng hóa của hai nước chính là cơ sở để phát triển 
thương mại hai nước phát triển. Trong những năm đầu thập kỷ 90 nền kinh tế 
Việt Nam còn gặp phải nhiều khó khăn, hàng tiêu dùng sản xuất trong nước 
chưa đáp ứng được hết nhu cầu của người dân. Trong bối cảnh đó, hàng hóa 
tiêu dùng của Trung Quốc đã đáp ứng được nhu cầu của Việt Nam. Về phía 
Trung Quốc, sau hơn một thập kỷ tiến hành cải cách mở cửa, bước vào thập kỷ 
90 nền kinh tế phát triển mạnh mẽ với tổng giá trị hàng hóa ngày càng tăng, đời 
sống nhân dân ngày một cải thiện. Để phục vụ công cuộc phát triển kinh tế, 
Trung Quốc còn nhiều nguyên liệu và hàng nông sản. Những mặt hàng này lại 
 16
là thế mạnh xuất khẩu của Việt Nam. Việc mở các điểm buôn bán biên giới 
trong những năm cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90, nhất là việc hai nước chính 
thức khôi phục quan hệ ngoại giao đã tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại hai 
nước phát triển mạnh, đáp ứng nhu cầu của cả hai bên về những mặt hàng tiêu dùng 
và nguyên vật liệu. 
Hai là, ngoài buôn bán hàng tiêu dùng và nguyên vật liệu, hai bên đã 
tiến hành các loại máy móc dùng cho sản xuất. Dĩ nhiên, quá trình mua bán máy 
móc diễn ra dài hơn, thông qua nhiều khâu đoạn hơn, do đó làm chậm lại tốc độ 
tăng trưởng ngoại thương giữa hai bên. 
Ba là, hai bên đã ký kết nhiều hiệp định, tạo điều kiện pháp lý cho 
thương mại hai nước phát triển. Dựa trên các hiệp định đó, hai bên khuyến 
khích các doanh nghiệp tăng cường quan hệ trực tiếp thông qua các chuyến 
khảo sát, tìm hiểu thị trường và hội chợ triển lãm. 
Bốn là, hai nước áp dụng nhiều biện pháp và nhiều kênh trao đổi hàng 
hóa. Các biện pháp hiện đang được áp dụng là: thương mại thông thường, gia 
công, hàng đổi hàng, cung cấp thiết bị thanh toán bằng sản phẩm... Trao đổi 
thương mại được thực hiện thông qua nhiều kênh khác nhau: trao đổi của các cư 
dân biên giới, xuất nhập khẩu chính ngạch và tiểu ngạch, dịch vụ chuyển khẩu, 
kho ngoại quan. 
Năm là, việc mua bán hàng hóa giữa các tổng công ty hoặc tập đoàn lớn 
giữa hai nước ngày càng tăng, góp phần đáng kể vào việc gia tăng thương mại 
giữa hai nước. 
b. Cơ cấu hàng hóa vừa có tính chất bổ sung cho nhau vừa có tính 
cạnh tranh nhau. 
Việt Nam xuất sang Trung Quốc 4 nhóm hàng chủ yếu: 
- Nhóm A: nguồn nhiên liệu gồm: than đá, dầu thô, quặng sắt cromít, 
dược liệu, các loại tinh dầu, cao su thiên nhiên. 
- Nhóm B: lương thực, nông sản, rau quả, sắn lát, các loại đỗ, hoa quả 
nhiệt đới, dứa quả, chuối, chôm chôm, xoài... 
- Nhóm C: thủy hải sản: thủy sản tươi sống, đông lạnh, động vật nuôi: 
rắn, ba ba, rùa. 
- Nhóm D: hàng tiêu dùng; đồ gỗ gia dụng cao cấp, giầy dép, xà phòng. 
Trung Quốc xuất sang Việt Nam chủ yếu chia làm 5 nhóm hàng: 
- Nhóm A: máy móc thiết bị toàn bộ: nhà máy xi măng lò đứng, nhà máy đường. 
- Nhóm B: máy móc cơ khí, phương tiện vận tải, máy móc thiết bị y tế, máy 
móc dụng cụ chính xác, máy móc thiết bị ngành dệt, máy móc nông nghiệp. 
- Nhóm C: nguyên nhiên liệu: sản phẩm dầu mỏ, xi măng, sắt thép, kính 
xây dựng các loại, vật liệu xây dựng hóa chất, phẩm nhuộm, thuốc trừ sâu, phân 
bón. 
- Nhóm D: lương thực, thực phẩm, hoa quả: bột mỳ, đường, dầu thực 
vật, táo, lê giống cây trồng. 
- Nhóm E: hàng tiêu dùng, thuốc chữa bệnh, hàng điện tử, may mặc, đồ chơi... 
 17
Cơ cấu hàng hóa như trên chẳng những có tính chất bổ sung cho nhau 
mà còn phù hợp với trình độ phát triển kinh tế của cả hai nước. Cơ cấu xuất 
khẩu của Việt Nam chủ yếu là sản phẩm nông nghiệp và nguyên nhiên liệu, do 
đó những sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam đáp ứng được nhu cầu của nền 
kinh tế và đời sống nhân dân Trung Quốc, đặc biệt là các tỉnh có chung biên 
giới với Việt Nam. Hiện nay, cùng với Singapore, Indonesia, Malaysia, Việt 
Nam là một trong những bạn hàng chủ yếu của tỉnh Hải Nam (Trung Quốc). 
Trong hơn 20 năm qua, sự phát triển kinh tế của tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) 
chủ yếu dựa vào hợp tác kinh tế với Thái Lan, Việt Nam, Lào và Myanmar. 
Tổng giá trị biên mậu của hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây chiếm tới hơn 50% 
tổng giá trị biên mậu của cả Trung Quốc, trong đó có một phần đóng góp không 
nhỏ của biên mậu Việt - Trung. So với Việt Nam, Trung Quốc ở trình độ phát 
triển kinh tế cao hơn, những hàng hóa máy móc nhỏ của Trung Quốc phù hợp 
với điều kiện Việt Nam; phát triển kinh tế trên cơ sở nền sản xuất nhỏ. Bên cạnh 
đó, một số mặt hàng tiêu dùng của Trung Quốc đáp ứng được nhu cầu của Việt 
Nam. 
Cơ cấu hàng hóa thương mại Việt - Trung cũng tương tự như cơ cấu 
thương mại giữa Trung Quốc với đại bộ phận các nước ASEAN khác. Trừ 
Singapore, sản phẩm chủ yếu trong xuất khẩu của các nước ASEAN khác sang 
Trung Quốc là: gỗ, gạo, cao su, thiên nhiên, đồng, nhôm, dầu thực vật... Trong 
tương lai, một số nước Đông Nam Á trở thành một trong những nơi cung cấp 
nguyên liệu cho nền công nghiệp của Trung Quốc. Bên cạnh đó, Đông Nam Á 
là một trong những thị trường lý tưởng nhất cho Trung Quốc xuất một số sản 
phẩm hàng tiêu dùng và sản phẩm nông nghiệp. 
Một điều rõ ràng là Việt Nam và Trung Quốc đều là những nước đang 
phát triển về kinh tế, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu chủ yếu là hàng gia công, sản 
phẩm sơ chế, tỷ lệ khoa học kỹ thuật trong mỗi giá trị sản phẩm thấp, dựa vào 
sức lao động rẻ, do đó không thể không dẫn đến hiện tượng cạnh tranh với 
nhau. Đây là một điều bình thường trong quan hệ kinh tế quốc tế. Sự cạnh tranh 
này không gây nhiều cản trở đối với sự phát triển thương mại Việt - Trung. Như 
đã phân tích trên, tốc độ tăng trưởng bình quân vẫn cao hơn tốc độ tăng trưởng 
bình quân về ngoại thương của cả hai nước trong cùng thời gian. 
c. Thương mại tiểu ngạch (buôn bán biên giới) đóng góp một phần 
đáng kể vào tổng kim ngạch thương mại giữa hai nước 
Thương mại tiểu ngạch Việt - Trung phát triển mạnh kể từ năm 1989 
khi Chính phủ hai nước cho phép nhân dân qua lại thăm viếng lẫn nhau vào trao 
đổi hàng hóa thiết yếu. Sau khi hai nước chính thức bình thường hóa quan hệ 
ngoại giao năm 1991, thương mại tiểu ngạch phát triển mạnh mẽ với quy mô và 
số lượng càng lớn. Tuy các nhà nghiên cứu đưa ra con số khác nhau về tổng giá 
trị hàng hóa buôn bán qua biên giới giữa hai nước nhưng có thể thấy tổng giá 
trị, thương mại tiểu ngạch là một con số không nhỏ so với tổng giá trị thương 
mại chính ngạch. Sở dĩ có tình trạng như vậy là do: 
Một là, một số hàng hóa hoặc có số lượng ít hoặc có phẩm chất kém, 
không thể tiến hành trao đổi qua thương mại chính ngạch. 
 18
Hai là, một số kẻ buôn bán lợi dụng công tác quản lý buôn bán qua 
đường biên chưa tốt để tiến hành buôn lậu kiếm lợi nhuận. 
Ba là, việc thanh toán liền giữa hai nước được tiến hành linh hoạt, có 
thể bằng hình thức hàng đổi hàng. Trong khi đó, việc thanh toán trong thương 
mại chính ngạch phải tuân theo những quy định có tính pháp quy của từng 
nước. Chính vì lý do đó mà cho dù năm 1993 ngân hàng nhà nước Việt Nam và 
ngân hàng Nhân dân Trung Quốc đã ký Hiệp định thanh toán và hợp tác, trong 
đó quy định rõ những hình thức thanh toán phục vụ cho xuất khẩu giữa hai 
nước nhưng giá trị hàng hóa được thanh toán qua ngân hàng còn nhỏ so với 
tổng số kim ngạch giữa hai nước. 
d. Cán bộ thương mại không cân bằng 
Bảng 2: Cán cân thương mại chính ngạch Việt - Trung 1991-1999 
(triệu đô la Mỹ) 
Năm XK của Việt Nam NK của Việt Nam Cán cân thương 
mại 
1991 10,23 21,40 -11,17 
1992 72,71 106,36 -33,65 
1993 122,63 276,00 -144,37 
1994 191,16 341,66 -150,50 
1995 332,06 720,13 -388,07 
1996 308,48 842,15 -553,67 
1997 357,10 1078,54 -721,44 
1998 120 610 -490 
5 tháng đầu 
năm 1999 
91,51 316,76 -225,25 
Nhìn vào bảng trên chúng ta thấy cùng với đà tăng của kim ngạch 
thương mại Việt - Trung, thâm hụt thương mại của Việt Nam đối với Trung 
Quốc ngày càng tăng. Đặc biệt là năm 1998 con số thâm hụt thương mại Việt - 
Trung đối với Việt Nam tăng trong khi tổng nhập siêu của Việt Nam đã giảm 
bớt 400 triệu đô la Mỹ. Tính trung bình, giá trị nhập khẩu của Việt Nam gấp 2,4 
lần giá trị hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc. Trên thực tế, 
hiện tượng nhập siêu của Việt Nam là hiện tượng thông thường trong quan hệ 
thương mại Việt - Trung từ thập kỷ từ 50 đến nay. Trong suốt thời gian ba thập 
kỷ 50, 60 và 70 Việt Nam đạt được xuất siêu trong thương mại với Trung Quốc 
trong bốn năm: 1958, 1959, 1976 và 1977. Trong những năm còn lại, Việt Nam 
luôn ở trong tình trạng nhập siêu. Sở dĩ có tình trạng là do: 
Một là, một số nguyên vật liệu, những máy móc nhỏ và một số mặt 
hàng tiêu dùng của Trung Quốc đáp ứng được nhu cầu của Việt Nam. Vượt qua 
cuộc khủng hoảng về kinh tế cuối thập niên 80, công cuộc đổi mới về kinh tế 
của Việt Nam tiếp tục thu được những thành tựu to lớn, sản xuất ngày một được 
nâng cao. Trong bối cảnh đó, những nguyên vật liệu như hóa chất, sợi bông cần 
 19
thiết cho công nghiệp nhẹ, những máy móc như máy phát điện nhỏ, máy thủy 
lợi nhỏ, một số hàng hóa tiêu dùng của Trung Quốc với giá rẻ đã đáp ứng được 
nhu cầu của Việt Nam. 
Hai là, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu cảuvn chủ yếu là những nguyên liệu 
thô và sản phẩm nông nghiệp có giá trị thấp và thường bị tác động của giá thị 
trường thế giới theo xu hướng giảm. Do đó, trong xuất khẩu của Việt Nam nói 
chung đã có năm có tình trạng khối lượng xuất khẩu tăng nhưn giá trị xuất khẩu 
không tăng, thậm chí còn giảm đi. 
Ba là, do hạn chế trong hạn ngạch nhập khẩu dẫn đến những hạn chế 
trong việc Trung Quốc nhập khẩu một số mặt hàng mà Việt Nam có ưu thế như 
gạo, cao su thiên nhiên... 
e. Tỷ trọng trong tổng kim ngạch ngoại thương mỗi nước còn thấp 
Quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc trong những năm 
qua phát triển nhanh chóng, nhưng tổng giá trị thương mại chính ngạch và tiểu 
ngạch chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng kim ngạch ngoại thương của mỗi nước. 
Theo tính toán, tổng giá trị thương mại chính ngạch hai chiều chỉ chiếm 7% 
tổng kim ngạch thương mại của Việt Nam và 0,4% tổng kim ngạch ngoại 
thương của Trung Quốc. Việt Nam chỉ là bạn hàng thứ 27 của Trung Quốc. Sự 
đóng góp của Việt Nam trong thương mại ASEAN - Trung Quốc cũng là rất nhỏ 
bé. ASEAN là bạn hàng lớn thứ sáu sau Trung Quốc với tổng giá trị thương mại 
chiếm 13% tổng kim ngạch ngoại thương của Trung Quốc lớn hơn nhiều lần so 
với tổng giá rị thương mại Việt - Trung. 
2. Cơ sở phát triển thương mại Việt - Trung 
Một là, ý chí chính trị của hai nước. Trong chuyến đi thăm Trung Quốc 
đầu năm nay của đồng chí Lê Khả Phiêu, hai đồng chí lãnh đạo cao cấp nhất 
của hai nước đã thỏa thuận về những nguyên tắc chỉ đạo trong quan hệ Việt - 
Trung trong thời gian tới: láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu 
dài, hướng tới tương lai. Những nguyên tắc này có ý nghĩa vô cùng to lớn, cho 
thấy rõ khung quan hệ cũng như mục tiêu trong quan hệ giữa Việt Nam và 
Trung Quốc, do đó có tác dụng tích cực đối với việc thúc đẩy quan hệ hợp tác 
nói chung giữa hai nước và quan hệ thương mại nói riêng. Tháng 10/1998 lãnh 
đạo hai bên Việt Nam và Trung Quốc đã bày tỏ quyết tâm đưa tổng giá trị 
thương mại chính ngạch lên đến 2 tỷ đô la vào năm 2000. Trong chuyến đi thăm 
Việt Nam mới đây Thủ tướng Trung Quốc Chu Dung Cơ và Thủ tướng Việt 
Nam Phan Văn Khải đã một lần nữa khẳng định quyết tâm thực hiện mục tiêu 
này. Đây là quyết tâm to lớn của lãnh đạo hai nước thể hiện ý chí chính trị cũng 
như mong muốn của cả hai bên đẩy mạnh hơn nữa quan hệ thương mại giữa hai 
nước. Chính ý chí chính trị này là nhân tố quyết định những vấn đề tồn tại trong 
quan hệ thương mại giữa hai nước. 
Hai là, đã tạo dựng được cơ sở pháp lý cho hoạt động thương mại giữa 
hai nước. Như trên đã trình bày, Việt Nam và Trung Quốc đã ký nhiều Hiệp 
định về hợp tác kinh tế thương mại giữa hai nước. Đặc biệt là, hai nước đã ký 
Hiệp định về buôn bán ở vùng biên giới, nhằm chấn chỉnh những hiện tượng 
không lành mạnh: trốn thuế, lậu thuế ở vùng biên giới giữa hai nước, tạo điều 
kiện thuụn lợi cho thương mại chính ngạch phát triển. 
 20
Ba là, phát triển quan hệ thương mại Việt- Trung là phù hợp với chiến 
lược kinh tế đối ngoại của cả hai nước. Ba vùng tam giác trong phát triển quan 
hệ kinh tế đối ngoại là: tiểu tam giác (chỉ Trung Quốc đại lục, Hồng Kông và 
Đài Loan), trung tam giác (chỉ các nước láng giềng: ASEAN và Hàn Quốc), và 
đại tam giác (chỉ các nước Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản và các nước phát triển về 
kinh tế). Trung Quốc xác định rõ chiến lược thúc đẩy quan hệ kinh tế với tiểu 
tam giác, liên hiệp với trung tam giác và quan hệ với đại tam giác. Như vậy, việc 
phát triển quan hệ kinh tế với các nước láng giềng, trong đó có Việt Nam sẽ tạo cơ 
sở cho Trung Quốc tham gia nhiều hơn vào những hoạt động kinh tế quốc tế, thể 
hiện qua việc đẩy mạnh quan hệ kinh tế thương mại với các nước phát triển về kinh 
tế. 
Đối với Việt Nam, việc phát triển quan hệ kinh tế thương mại với Trung 
Quốc chẳng những phù hợp với đường lối đối ngoại "là bạn đối với tất cả các 
nước", mà còn phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế của đất nước: Việt 
Nam chú trọng mối quan hệ với các nước láng giềng nhằm tạo ra môi trường 
xung quanh hòa bình ổn định, góp phần giữ vững an ninh của đất nước và tạo 
điều kiện thuận lợi. Về kinh tế, mục tiêu của công cuộc công nghiệp hóa, hiện 
đại hóa là nhằm tăng sức sản xuất của cả xã hội, trong đó có các nhà máy công 
nghiệp nhẹ sử dung một số nguyên vật liệu nhập từ Trung Quốc. 
Bốn là, phát triển quan hệ thương mại là phù hợp với nhu cầu khách 
quan của cả hai bên. Như đã phân tích ở trên, cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu 
Việt - Trung có tính chất bổ sung cho nhau. Là một nước có kỹ thuật tiên tiến 
hơn và bắt đầu tích lũy dự trữ ngoại tệ lớn, Trung Quốc có thể giúp Việt Nam 
nhiều mặt về kinh tế, kỹ thuật. Về phần mình, Việt Nam tạo ra một thị trường 
đáng kể cho nhiều mặt hàng, nhất là máy móc nhỏ phục vụ cho nông nghiệp 
Trung Quốc. 
Năm là, bên cạnh hợp tác song phương, hai bên còn có thể đẩy mạnh 
quan hệ thương mại qua các kênh đa phương, thông qua quan hệ kinh tế và 
thương mại ASEAN - Trung Quốc, tổ chức hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình 
Dương (APEC), và trong tương lai thông qua tổ chức thương mại thế giới 
(WTO) khi hai nước trở thành thành viên. 
Trong những nhân tố trên, nhân tố khách quan là nhu cầu của cả hai 
bên; nhân tố ý chí chính trị là nhân tố chủ quan trọng nhất, quyết định sự phát 
triển của quan hệ thương mại Việt - Trung trong thời gian tới. 
3. Diễn biến của trao đổi mậu dịch song phương 
Theo thông lệ và tập quán quốc tế, để cho hoạt động trao đổi hàng hóa 
song phương được triển khai dựa trên cơ sở pháp lý, hai nước Việt Nam - Trung 
Quốc đã ký Hiệp định thương mại ngay từ khi quan hệ chính trị giữa hai nước 
được bình thường hóa. Thời gian sau đó, hai nước còn ký một số Hiệp định 
khác có liên quan đến quan hệ thương mại song phương. Có thể nêu ra đây một 
số Hiệp định như: Hiệp định về vận tải hàng hải và vận tải đường sắt; Hiệp định 
về hàng hóa quá cảnh giữa hai nước; Hiệp định về thành lập Ủy ban kinh tế - 
thương mại Việt Nam - Trung Quốc; Hiệp định về đảm bảo chất lượng hàng hóa 
 21
xuất nhập cảnh và công nhận lẫn nhau; Hiệp định vận tải đường bộ; Hiệp định 
tránh đánh thuế hai lần và chống lậu thuế... 
Cả Trung Quốc và Việt Nam đều có nhu cầu trao đổi hàng hóa. Mấy 
năm trước khi quan hệ hai nước được bình thường hóa, trên vùng biên giới đất liền 
giữa hai nước đã diễn ra một số hoạt động buôn bán của cư dân hai nước với nhau, 
tất nhiên là phi chính thức và bị giới hạn nhiều. Từ sau khi quan hệ hai nước được 
bình thường hóa và Hiệp định thương mại song phương được ký kết thì quan hệ 
thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc bước vào một thời kỳ mới phát triển và 
mở rộng nhanh chóng, kim ngạch xuất khẩu hai chiều tăng lên nhanh chóng, năm 
sau cao hơn năm trước. Điều đó phản ánh qua một số con số cụ thể dưới đây: 
Năm Tổng kim ngạch XNK hai chiều 
 (triệu USD) 
1990 152,54 
1991 270 
1992 280 
1993 690 
1994 758 
1995 1.050 
1996 1.150 
1997 1.240 
1998 1.540 
1999 (5 tháng đầu năm) đạt 408.28 
Các con số nêu ra trong bảng trên không bao gồm giá trị của buôn bán dân 
gian và buôn lậu bất hợp pháp qua biên giới mà Nhà nước không kiểm soát được. 
Hiện nay Trung Quốc đã trở thành một trong những đối tác thương mại 
quan trọng của Việt Nam, xuất khẩu của Trung Quốc sang Việt Nam chiếm đến 
7% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam, đưa Trung Quốc lên vị trí thứ 7 
trong hơn 100 nước và vùng lãnh thổ có quan hệ thương mại với Việt Nam. 
Trong khi đó, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc còn rất 
nhiều khiêm tốn, mới chỉ chiếm khoảng0,4% trong tổng kim ngạch nhập khẩu 
của Trung Quốc, đứng ở vị trí thứ 27 trong tổng số hơn 200 quốc gia và vùng 
lãnh thổ có quan hệ thương mại với Trung Quốc tính đến cuối năm 1998. 
Theo số liệu thống kê chưa thật đầy đủ, từ năm 1990-1991 đến năm 
1999, Việt Nam đã xuất khẩu sang Trung Quốc, theo con đường chính ngạch và 
tiểu ngạch, đến hơn 100 nhóm hàng và mặt hàng cụ thể khác nhau. Có thể nêu 
ra đây một số mặt hàng tiêu biểu: gạo, cao su, hạt điều, cà phê, dầu thô, dầu 
thực vật, sắn lát, chuối xanh, đồ gỗ gia dụng đã gia công, hải sản, hoa quả đặc 
sản (xoài, vải thiều...), sản phẩm nông nghiệp và lâm nghiệp, quặng kim loại và 
sắt phế liệu, ô tô (thuộc dạng tạm nhập tái xuất), một số mặt hàng tiêu dùng 
hàng ngày như dép nhựa, xà phòng...). Trong số các mặt hàng nêu trên, cao su 
và hạt điều chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng số mặt hàng của Việt Nam xuất 
 22
khẩu ra nước ngoài, hơn nửa tỷ lệ tăng dần hàng năm. Xin nêu mấy con số cụ 
thể: 
Đơn vị: tấn 
Năm 1993 1994 1995 1996 1999 (5 tháng đầu) 
 Lượng % Lượng % Lượng % Lượng % Lượng % 
Cao su 55.707 59,3 85.662 65,9 104.945 73,3 70 10,80 
Hạt điều 21,5 31,7 55,7 
Các mặt hàng khác như gạo, thủy sản,.. chiếm khoảng 10% trong tổng số 
mặt hàng đã nêu ở trên của Việt Nam xuất khẩu ra nước ngoài. Điều cần nêu ra ở 
đây là, đa số các mặt hàng của Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc đều thuộc 
dạng thô, hàng qua sơ chế biến rồi mới xuất khẩu còn rất ít, do đó trọng lượng xuất 
khẩu có khi nhiều nhưng giá trị thu được trong thực tế lại ít. Đây là một thiệt thòi 
khá lớn cho phía Việt Nam trong việc trao đổi buôn bán với phía Trung Quốc thời 
gian qua. 
Các mặt hàng mà phía Trung Quốc xuất khẩu sang Việt Nam trong mấy 
năm qua theo con đường chính ngạch và tiểu ngạch là rất phong phú và đa 
dạng, có đến trên 200 nhóm và mặt hàng cụ thể nghĩa là gấp đôi số mặt hàng 
Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc. Có thể nêu ra đây một số nóm và mặt 
hàng tiêu biểu: sản phẩm hóa chất, thuốc trừ sâu, thiết bị và phương tiện vận tải, 
thép và phôi thép, máy móc thiết bị cho nhà máy sản xuất xi măng lò đứng, thiết 
bị máy móc cho ngành sản xuất mía đường, máy móc nông nghiệp và phụ tùng, 
máy móc thiết bị cho ngành giày da, thiết bị vệ sinh, vật liệu xây dựng, kính dân 
dụng, gạch hoa các loại, sản phẩm công nghiệp nhẹ và hàng tiêu dùng như: xe đạp 
và phụ tùng, điện gia dụng các loại, vải và hàng dệt kim, quần áo may sẵn, đồ 
sứ, văn phòng phẩm, đồ dùng điện tử, đồ chơi trẻ em,... Trong quan hệ buôn 
bán với Trung Quốc từ sau khi quan hệ chính trị hai nước được bình thường hóa 
đến nay, chúng ta đã nhập được nhiều thứ cần thiết (như đã nêu ở trên) đáp ứng nhu 
cầu xây dựng và phát triển kinh tế ở trong nước cũng như nhu cầu về hàng tiêu 
dùng thông thường của nhân dân lao động. Đồng thời, chúng ta cũng đã bán sang 
Trung Quốc một số mặt hàng mà ở trong nước sản xuất được với số lượng khác 
như đã nêu ở trên. Từ khách quan mà xét, đây cũng là một trong những nguyên 
nhân quan trọng thúc đẩy những ngành nghề có sản phẩm bán sang Trung Quốc 
phát triển trong thời gian qua. 
4. Tình hình buôn bán qua biên giới Việt - Trung 
a. Khái quát về tình hình buôn bán qua biên giới Việt Nam - Trung 
Quốc trong 50 năm qua. 
Từ năm 968, Việt Nam trở thành một quốc gia độc lập ở Đông Nam Á, 
kế từ đó đến nay, Việt Nam đã có mối quan hệ buôn bán qua biên giới với nhiều 
nước láng giềng, trong đó có Trung Quốc. Tiếp theo các triều đại phong kiến 
Việt Nam: Lý, Trần, Lê, Nguyễn đã tiếp tục quan hệ buôn bán qua biên giới với 
các triều đại phong kiến Trung Quốc: Tống, Nguyên, Minh, Thanh. Lúc bấy giờ, 
buôn bán qua biên giới giữa hai nước Việt - Trung chỉ là sự thông thường nhằm 
bổ sung cho nhau, với hai hình thức chủ yếu là cống nạp và dân gian. 
 23
Bước vào thời kỳ cận đại, Việt Nam trở thành nửa thuộc địa tư bản 
phương Tây, hai nước Việt Nam và Trung Quốc đã ký "Điều ước Việt Nam 
(năm 1885)" và "Chương trình hợp tác biên giới (năm 1896)", trong đó, quy 
định 25 điểm đồn trú tuần tra dọc biên giới chung giữa hai nước cũng chính là 
điểm họp chợ chung cho dân cư dân hai bờ biên giới. 
Năm 1945, sau khi ký kết đại diện thế giới lần thứ 2, nước Việt Nam 
Dân chủ Cộng hòa (nay là CNHXHCN Việt Nam) ra đời (2-9-1945), tiếp theo 
nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập (1-10-1949), và chỉ mấy 
tháng sau đó (18-1-1950) hai nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa (dưới đây gọi 
tắt là Việt Nam) và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (dưới đây gọi tắt là Trung 
Quốc) đã thiết lập quan hệ ngoại giao, tính đến tháng giêng năm nay vừa tròn 
50 năm. Kể từ đó, mở ra thời kỳ mới trong quan hệ hai nước về nhiều mặt, tạo 
điều kiện cho sự phát triển mạnh mẽ quan hệ kinh tế buôn bán giữa hai nước, 
trong đó có buôn bán qua biên giới Việt - Trung. Trong khoảng thời gian, từ 
những năm 50 đến những năm 70, trên tinh thần "vừa là đồng chí, vừa là anh 
em", hai nước đã ký kết các bản "Nghị định thư buôn bán tiểu ngạch biên giới 
Việt - Trung" (năm 1955) và "Nghị định thư trao đổi hàng hóa biên giới Việt - 
Trung (năm 1957)" đã quy định xây dựng 26 điểm giao dịch (19 điểm trên bộ và 
7 điểm trên biển) trên biên giới chung của hai nước. Trong khoảng thời gian 
(1956-1969) mức buôn bán qua biên giới giữa Việt Nam với Quảng Tây trị giá 
44,94 NDT. Trong khoảng thời gian 1966 - 1976, ở Trung Quốc đang tiến hành 
cuộc cách mạng văn hóa, hầu như đóng cửa hoàn toàn với thế giới bên ngoài 
nên đã ảnh hưởng tới buôn bán qua biên giới giữa Trung Quốc với các nước 
láng giềng, trong đó có Việt Nam. 
Cuối năm 1978, Trung Quốc đưa ra quốc sách cải cách mở cửa, nhưng 
lúc bấy giờ (1978-1988) mới chú trọng mở cửa khu vực ven biển, chưa chú ý 
đến mở cửa khu vực biên giới. Đồng thời, từ năm 1979 đến hết thập kỷ 80, 
quan hệ hai nước Việt Nam và Trung Quốc bước vào thời kỳ không bình 
thường, biên giới chung giữa hai nước chiến trường thay cho thị trường, những 
nhân tố đó đã ảnh hưởng đến sự gián đoạn buôn bán qua biên giới hai nước. 
Bước sang thập kỷ 90, trên thế giới đã kết thúc thời kỳ chiến tranh lạnh, 
ở châu Âu các nước xã hội chủ nghĩa lần lượt tan rã, đã ảnh hưởng không nhỏ 
đến các nước xã hội chủ nghĩa ở châu Á, như Trung Quốc, Việt Nam. Ở Trung 
Quốc, sau sự kiện Thiên An Môn (4-6-1989) các nước tư bản phương Tây thi 
hành chính sách hạn chế bao vây đối với Trung Quốc. Đứng trước tình hình 
biến động trên thế giới và trong nước, Trung Quốc đã điều chỉnh chính sách mở 
cửa đối ngoại, một mặt Trung Quốc bắt đầu chú trọng cải thiện mối quan hệ 
thân thiện với các nước láng giềng, mặt khác cùng với việc chú trọng mở cửa khu 
vực ven biển, bắt đầu mở cửa khu vực ven biên giới, tạo điều kiện thuận lợi cho 
việc mở cửa buôn bán qua biên giới Trung Quốc với các nước láng giềng trong đó 
có Việt Nam. 
Ở Việt Nam, từ năm 1986 (Đại hội VI) đã đề chính sách đổi mới và mở 
cửa, muốn là bạn với tất cả, tạo điều kiện cho việc cải thiện mối quan hệ với tất cả 
các nước, trong đó có các nước láng giềng bao gồm cả Trung Quốc. 
Xuất phát từ sự mong muốn cải thiện mối quan hệ của các lãnh đạo và nhân 
dân hai nước Việt Nam và Trung Quốc, tháng 11-1991 các nhà lãnh đạo cấp cao của 
 24
hai nước đã nhất trí: khép lại quá khứ, mở ra giai đoạn mới, nhờ vậy, trong suốt những 
năm 90, trên biên giới Việt - Trung, trở thành biên giới của tình hợp tác và hữu nghị, từ 
chiến trường chuyển thành thị trường ngày càng phát triển phồn vinh và nhộn nhịp. 
Mức buôn bán qua biên giới Việt Nam và Trung Quốc ngày càng tăng. 
Biểu: Mức buôn bán qua biên giới Việt Nam - Trung Quốc 
(1991-1999) 
Đơn vị tính: triệu đô la Mỹ 
Năm Mức buôn bán Tỷ lệ tăng % 
1991 32,23 340 
1992 179,07 454,4 
1993 396,64 122,6 
1994 532,82 34,1 
1995 1.052,19 97,4 
1996 1.150,63 9,3 
1997 1.435,64 24,6 
1998 1.560,00 8,7 
1999 1.400,00-1.500,00 ước tính 
Tình hình thực tế buôn bán biên giới Việt - Trung trong lịch sử, đáng 
lưu ý trong vòng 50 năm qua, đặc biệt là 10 năm từ khi nước bình thường hóa 
đến nay, chúng tôi bươc đầu rút ra mấy nhận xét sau đây: 
Thứ nhất, buôn bán qua biên giới Việt - Trung bao gồm nhiều hình 
thức: buôn bán chính ngạch, buôn bán tiểu ngạch, dân gian, tạm nhập tái xuất 
và cả buôn lậu (không kiểm soát nổi, số lượng có lúc ngang bằng, thậm chí còn 
cao hơn cả con số buôn bán thống kê được). Trong đó, mức buôn bán chính 
ngạch ngày càng chiếm tỷ trọng lớn: 39% (năm 1991), 28,8% (năm 1992), 70% 
(năm 1993), 71% (năm 1996), 70% (năm 1997). Còn buôn bán tiểu ngạch và 
buôn bán dân gian tỷ trọng càng thu hẹp. 
Thứ hai, buôn bán qua biên giới Việt - Trung từ chỗ chỉ chiếm 2% tổng 
buôn bán của Việt Nam, năm 1990 đã tăng lên 4% và từ năm 1991-1999 chừng 
6-7%. Nhưng chỉ chiếm chưa tới 0,5% mức buôn bán đối ngoại của Trung 
Quốc (năm 1997, chiếm 0,4%). Trung Quốc trở thành bạn hàng lớn thứ sau của 
Việt Nam, còn Việt Nam trở thành bạn hàng thứ 29 (trong tổng số hơn 220 bạn 
hàng) của Trung Quốc. 
Thứ ba, mặc dù mức buôn bán qua biên giới Việt - Trung không ngừng 
tăng, nhưng tỷ lệ tăng ngày càng có chiều hướng giảm. Như năm 1991 tăng 
340%; năm 1992 tăng 454,4% (cao nhất); năm 1993 giảm còn 122,5%; năm 1997 
giảm còn 26,6%; năm 1998 giảm mạnh nhất chỉ còn 8,7%). 
Thứ tư, buôn bán qua biên giới Việt - Trung mặc dù Trung Quốc là bạn 
hàng xuất khẩu lớn thứ ba (năm 1994, 1996), thứ tư (1995 và 1997) của Việt 
Nam. Song, Việt Nam luôn luôn bị nhập siêu và có xu thế ngày càng tăng như 
năm 1991 (nhập siêu 10 triều đô la); năm 1992 (40 triệu đô la); năm 1993 (160 
triệu đô la); năm 1994 (150 triệu đô la); năm 1995 (390 triệu đô la), năm 1996 
 25
(530 triệu đô la); năm 1997 (720 triệu đô la); nửa đầu năm 1998 (490 triệu đô 
la). 
Theo số liệu thống kê của Tổng cục hải quan Việt Nam, thì kể từ năm 
1991 đến năm 1996, tổng kim ngạch buôn bán giữa Việt Nam và Trung Quốc 
qua các cửa khẩu trên biên giới Việt - Trung, theo thứ tự tỉnh nhiều nhất đến ít 
nhất: (Lạng Sơn: 1,063 tỷ USD; Quảng Ninh: 365,73 triệu USD; Lào Cai: 
129,08 triệu USD; Cao Bằng: 23,84 triệu USD; Hà Giang: 11,86 triệu USD; Lai 
Châu: 3,25 triệu USD). 
Trong những năm cuối thập niên 90, trong tổng số 120 bạn hàng của 
Quảng Tây thì Việt Nam luôn luôn đứng thứ hai. Trong mức buôn bán qua biên 
giới giữa Quảng Tây Trung Quốc với Việt Nam, thì Quảng Tây chiếm 80% mức 
buôn bán qua biên giới hai nước của Trung Quốc. 
Thứ năm, lực lượng tham gia buôn bán qua biên giới Việt - Trung, 
không chỉ có cư dân hai bờ biên giới, mà còn cả lực lượng tư nhân và tập thể là 
chủ yếu, cộng thêm doanh nghiệp nhà nước ở các tỉnh (khu tự trị) ở hai bên biên 
giới, các tỉnh, thành phố ở sâu trong nội địa của mỗi nước. 
Hàng hóa trao đổi qua biên giới Việt - Trung không chỉ có hàng hóa của 
hai nước mà còn hàng hóa của nước thứ ba, ví như: hàng Nhật Bản, Thái Lan, 
hay khu vực Hồng Kông, Đài Loan... 
b. Những thuận lợi và khó khăn 
* Những khó khăn còn ảnh hưởng tới buônb án biên giới trong thời 
gian sắp tới: 
Thứ nhất, về các mặt: tư tưởng, tâm lý và mức độ tín nhiệm trong buôn 
bán qua biên giới của cả hai bên chưa cao. Đôi bên còn chênh lệch lớn về chính 
sách buôn bán qua biên giới nên cũng tạo nên những ảnh hưởng bất lợi cho 
buôn bán qua biên giới của đôi bên. 
Thứ hai, cho tới nay vẫn chưa ký được hiệp định chính thức mà vẫn còn thi 
hành "hiệp định tạm thời về xử lý những việc ở biên giới hai nước". Nên đã ảnh 
hưởng không nhỏ tới sự phát triển buôn bán qua biên giới giữa hai nước Việt - 
Trung. 
Thứ ba, hiện nay hai bên tuy có "ghi nhận hội đàm" chống buôn lậu, hay 
hiệp định hợp tác đảm bảo và chứng nhận lẫn nhau về hàng hóa xuất nhập 
khẩu, nhưng vẫn không ngăn chặn nổi làn sóng: hàng giả, hàng rởm, hàng kém 
chất lượng vào Việt Nam, hoặc những mặt hàng quý hiếm, hàng cấm của Việt 
Nam xuất sang Trung Quốc. 
Thứ tư, cả hai bên đều có tình trạng thiếu hợp đồng giữa các xí nghiệp 
trong nước gây nên tình trạng tranh mua, tranh bán với đối phương, tạo nên sự 
thiệt thòi cho phía mình. 
Thứ năm, mặc dù ngày 26-5-1993 ngân hàng Trung ương Việt Nam và 
Trung Quốc đã ký hiệp định hợp tác thanh toán, theo đó mọi khoản thanh toán 
phải thông qua ngành hàng thương mại hai nước theo thông lệ quốc tế bằng 
ngoại tệ tự do chuyển đổi. Nhưng thực tế từ mười năm nay buôn bán qua biên 
giới Việt - Trung, mặc dù thanh toán xuất nhập có sự chuyển biến, từ chỗ hoàn 
 26
toàn tự phát theo phương thức "hàng đổi hàng", buôn bán trao tay, tiến tới ký 
hợp đồng thanh toán qua ngân hàng, nhưng cho đến nay lượng thanh toán qua 
ngân hàng còn rất nhỏ, chỉ chiếm chưa đầy 5% tổng kim ngạch trao đổi hàng 
hóa của hai bên. Ngân hàng chưa làm được chức năng kiểm soát và kinh doanh 
tiền tệ. Thị trường chợ đen buôn bán tiền công khai ở các cửa khẩu biên giới hai 
nước vẫn hoành hành, hiện tượng lừa đảo, chiếm dụng vốn, lưu hành tiền giả ở 
các tỉnh biên giới diễn ra thường xuyên. Điều này đã ảnh hưởng xấu tới quan hệ 
buôn bán giữa Việt Nam - Trung Quốc. 
Thứ sáu, quan hệ buôn bán Việt - Trung trong những năm gần đây tốc 
độ tăng trưởng giảm dần, và cứ đã giảm như vậy khó có thể thực hiện mục tiêu 
2 tỷ USD buôn bán hai nước vào năm 2000 như các nhà lãnh đạo đã đề ra. 
Thứ bảy, trong buôn bán với Trung Quốc, phía Việt Nam luôn bị nhập 
siêu ở mức lớn, như 1991 (10 triệu USD), 1992 (40 triệu USD), 1999 (160 triệu 
USD), 1994 (150 triệu USD), 1995 (390 triệu USD), 1996 (530 triệu USD), 
1997 (730 triệu USD), 1998 (400 triệu USD). 
Thứ tám, trình độ khoa học kỹ thuật và phát triển kinh tế của Trung 
Quốc cao hơn Việt Nam khiến cho tính bổ sung giữa hai bên tăng lên nhăng mặt 
khác cũng gây nên những bất lợi đối với hàng hóa Việt Nam muốn thâm nhập 
vào thị trường Trung Quốc. 
* Những điều kiện thuận lợi đối với buôn bán qua biên giới Việt Nam 
và Trung Quốc trong thời gian sắp tới: 
Thứ nhất, Việt Nam và Trung Quốc, núi liền núi, sông liền sông, có 
đường biên giới chung trên đất liền dài chừng 1150 km chạy qua 6 tỉnh (31 
huyện) của Việt Nam và hai tỉnh gồm 6 thành phố, địa khu, châu (14 huyện) của 
Trung Quốc. Trên biên giới chung của hai nước có 15 cửa khẩu (5 cửa khẩu 
quốc gia vào 10 cửa khẩu cấp tỉnh). Số km biên giới chung của hai nước, cũng 
như số cửa khẩu các cấp đều nhiều hơn so với các nước Đông Nam Á khác 
(Myanmar và Lào). Gần đây nhiều cửa khẩu như Đông Hưng - Móng Cái, Bằng 
Tường - Đồng Đăng, Pò Chài - Tân Thanh, Hà Khẩu - Lào Cai, đã có ý tưởng 
xây dựng thành những khu vực buôn bán tự do, đây là điều kiện hết sức thuận 
lợi cho buôn bán qua biên giới. 
Thứ hai, phát triển buôn bán biên giới Việt Nam và Trung Quốc không 
thể tách rời bối cảnh chung về quan hệ của hai nước, tháng 2/1999 Tổng Bí thư 
hai nước đã xác lập khuôn khổ mới cho hai nước Việt Nam và Trung Quốc theo 
phương châm 16 chữ: "láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, 
hướng tới tương lai", phương châm này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quan hệ 
hợp tác kinh tế hai nước trong tương lai, trong đó có buôn bán biên giới hai 
nước. 
Thứ ba, Trung Quốc và Việt Nam đều có 50 thành phần dân tộc khác 
nhau, trong đó có hơn một chục dân tộc sống ở cả hai bờ biên giới, đáng lưu ý 
là gần 1 triệu người Hoa đang sinh sống ở Việt Nam, sẽ là chiếc cầu nối tốt cho 
sự hợp tác kinh tế hai bên và sẽ góp phần không nhỏ vào việc thúc đẩy sự phát 
triển buôn bán qua biên giới hai nước trong thời gian sắp tới. 
 27
Thứ tư, Trung Quốc đất rộng (thứ ba thế giới), người đông (chiếm 1/5 
nhân loại) và Việt Nam một nước cỡ lớn ở Đông Nam Á, đây là hai thị trường 
tiềm tàng mà chưa khai thác hết, nó sẽ góp phần thúc đẩy hơn nữa vào việc 
buôn bán giữa hai nước. 
Thứ năm, cả hai nước đều chú trọng xây dựng cơ sở hạ tầng ở vùng biên 
giới của hai bên, chú ý xây dựng môi trường phần cứng (đường, điện, nước...), 
rà phá mìn, xây dựng môi trường phần mềm, hai nước đã ký kết 19 Hiệp định 
hợp tác kinh tế thương mại (trong tổng số 30 hiệp định và thỏa thuận được ký 
kết), đang lưu ý là Hiệp định kinh tế buôn bán; Hiệp định tạm thời về việc xử lý 
những sự việc ở biên giới hai nước; Hiệp định hợp tác đảm bảo và chứng nhận 
lẫn nhau về hàng hóa xuất nhập khẩu; ghi nhận hội đàm chống buôn lậu, Hiệp 
định về mua bán hàng hóa giữa chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và CHND 
Trung Hoa (năm 1998); Hiệp định biên giới trên đất liền ký kết (30-12-1999). 
Những hiệp định trên đây và cơ sở hạ tầng được nâng cấp đã góp phần tích cực 
vào việc thúc đẩy buôn bán qua biên giới giữa hai nước. 
Thứ sáu, theo dự kiến của một số nhà hoạch định chính sách, buôn bán 
hai chiều của Việt Nam - Trung Quốc dự kiến từ năm 2000 đến 2010 sẽ đạt 
mức tăng từ 8-15%. Nếu đạt được mức này thì mục tiêu năm 2000 đạt 2 tỷ USD là 
có khả năng đạt được, và mức buôn bán đôi bên còn tiếp tục phát triển. 
Thứ bảy, theo xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa ngày càng phát triển, 
với việc Việt Nam trở thành thành viên của tổ chức mậu dịch thế giới (WTO); 
cả Việt Nam và Trung Quốc hiện là thành viên của tổ chức kinh tế châu Á - 
Thái Bình Dương (APEC). Việc các cảng của Việt Nam (đặc biệt là Hải Phòng) 
trở thành cửa khẩu thông ra biển gần nhất của khu vực Đại Tây Nam Trung 
Quốc, với việc khu vực mậu dịch tự do (Đông Hưng- Móng Cái, Bằng Tường - 
Đồng Đăng...) thì mức buôn bán qua biên giới Việt - Trung có nhiều khả năng 
phát triển hơn nữa. 
Thứ tám, việc phát triển buôn bán qua biên giới hai nước trong lịch sử, 
50 năm qua và đặc biệt là 10 năm sau khi bình thường hóa không ngừng tăng sẽ 
là cơ sở để buôn bán hai bên còn có khả năng phát triển hơn nữa. 
5. Những kết quả chủ yếu 
- Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước không 
ngừng tăng nhanh, cơ cấu hàng xuất nhập khẩu của hai bên ngày càng phù hợp 
với tiềm năng và mang tính bổ sung lẫn nhau của hai nước. 
- Tỷ trọng kim ngạch thuộc mậu dịch "chính ngạch" tăng nhanh, dần 
chiếm ưu thế trong kim ngạch xuất nhập khẩu của hai nước (nếu giai đoạn 
1991-1993 kim ngạch mậu dịch tiểu ngạch là chủ yếu thì từ 1994 - 1998 kim 
ngạch buôn bán chính ngạch vươn lên giữ vị trí áp đảo). 
- Phương thức mậu dịch ngày càng phong phú và đa dạng, phù hợp với 
điều kiện hoàn cảnh của hai bên và ngày càng tuân theo các luật lệ tập quán 
buôn bán quốc tế. Giai đoạn 1991-1992 hai bên chủ yếu áp dụng phương thức 
mậu dịch hàng đổi hàng hoặc phương thức "tiền trao, cháo múc" tại các cửa 
khẩu biên giới. Từ sau năm 1992, cùng việc ký kết Hiệp định hợp tác nghiệp vụ 
ngân hàng hai nước, hai bên đã triển khai các phương thức mậu dịch theo L/C 
 28
hoặc các hình thức mậu dịch thanh toán qua ngân hàng. Từ năm 1994 hai bên 
mở rộng sang các phương thức mậu dịch gia công, mậu dịch chuyển khẩu "tạm 
nhập tái xuất", góp phần nâng cao kim ngạch hai chiều của các bên. 
- Tỷ lệ các vụ tranh cấp, khiếu nại trong quan hệ buôn bán hai nước 
ngày càng giảm. Cùng với việc hai nước công bố hàng loạt các biện pháp quản 
lý và hỗ trợ các loại hình mậu dịch đi vào nề nếp, các đối tác tham gia trao đổi 
mậu dịch giữa hai nước cũng thay đổi về thành phần. Tỷ lệ các tư thương, công 
ty tư nhân ngày càng giảm, nhường chỗ cho các đơn vị ngoại thương Nhà nước 
có tiềm lực, có kiến thức kinh nghiệm buôn bán quốc tế và các xí nghiệp, đơn vị 
sản xuất lớn trực tiếp tham gia trao đổi hàng hóa giữa hai nước. 
6. Những vấn đề tồn tại 
- Vấn đề nhập siêu của phía Việt Nam từ khi mở cửa buôn bán với 
Trung Quốc, phía Việt Nam hầu như luôn ở tình trạng nhập siêu. Chẳng những 
như vậy, kim ngạch nhập siêu cũng có chiều hướng tăng dần năm sau cao hơn 
năm trước; còn nhập khẩu của phía Việt Nam sang Trung Quốc thì ngược lại, có 
xu hướng giảm dần hàng năm. Dưới đây là mấy con số cụ thể chứng minh cho 
vấn đề này: 
 1993 1994 1995 1996 1999 
Việt Nam xuất sang TQ 43,4% 3,5% 31,4% 25% (5 tháng 
đầu năm) 
22,3% 
Trung Quốc sang Việt Nam 56,6% 65% 68,6% 75% 77,7% 
Tổng kim ngạch hai chiều 100% 10-0% 100% 100% 100% 
Việt Nam nhập siêu 13,2% 30% 37,2% 50% 55,4% 
Nguyên nhân dẫn đến tình hình Việt Nam nhập siêu của Trung Quốc 
với tỷ lệ khá cao như trên đã nêu ra trong bảng trên chính là ở chỗ: 
+ Về mặt số lượng mà nói, nhóm hàng và mặt hàng mà phía Trung 
Quốc xuất sang Việt Nam nhiều gấp 2 lần số nhóm hàng và mặt hàng Việt Nam 
xuất sang Trung Quốc. 
+ Các loại hàng hóa mà Việt Nam xuất sang Trung Quốc thì đa số là 
nguyên vật liệu và sản phẩm dưới dạng thô, số đã gia công chế biến còn ít, hơn 
nữa sản phẩm là máy móc hầu như không có, do đó lượng giá trị càng thấp hơn 
nhiều so với lương giá trị hàng hóa của Trung Quốc xuất sang Việt Nam. Việt 
Nam nhập siêu với tỷ lệ khá cao cũng có nghĩa là trong quan hệ buôn bán với 
Trung Quốc hiện nay, phía Trung Quốc được lợi nhiều hơn phía Việt Nam gây 
ra những khó khăn nhất định trong việc thanh toán với các bạn hàng Trung 
Quốc. Để khắc phục tình trạng này, chúng ta phải chủ động thương lượng với 
phía Trung Quốc sao cho họ hiểu rõ vấn đề, tăng thêm việc nhập khẩu nhiều 
hơn nữa hàng hóa của Việt Nam đồng thời hạn chế mức xuất khẩu hàng hóa 
sang Việt Nam. Tất nhiên đây là việc làm không đơn giản, vì nó liên quan trực 
tiếp đến lợi ích thiết thân của phía Trung Quốc. 
- Tỷ lệ trao đổi mậu dịch chính ngạch giữa hai nước chưa cao lắm. Từ 
sau khi bình thường hóa quan hệ Việt - Trung, trao đổi mậu dịch giữa hai nước 
 29
được thực hiện theo hai phương thức là mậu dịch chính ngạch và mậu dịch tiểu 
ngạch. Diễn biến và phát triển của kim ngạch và tiểu ngạch giữa hai nước trong 
mấy năm qua như sau: 
Năm Kim ngạch 
XNK chính 
ngạch 
Kim ngạch 
XNK tiểu 
ngạch 
Tổng kim ngạch 
XNK hai chiều 
Kim ngạch XNK chính ngạch 
chiếm trong tổng kim ngạch 
XNK hai chiều 
1991 97 150 247 trên 39% 
1992 90 222 312 trên 28,8% 
1993 221,35 92,65 314 trên 70% 
1994 436,61 176,39 613 trên 71% 
1995 638,10 314,50 997,6 trên 68% 
1996 810 340 1150 trên 70% 
1997 1240 khoảng 70% 
Căn cứ vào số liệu cụ thể nêu ra trong bảng trên, có thể thấy rằng, trong 
các năm 1991-1992, kim ngạch xuất nhập khẩu chỉnh ngạch ít hơn kim ngạch 
xuất nhập khẩu tiểu ngạch, chỉ chiếm khoảng trên 39% và 28,8% của tổng kim 
ngạch xuất nhập khẩu hai chiều mà thôi. Bắt đầu từ năm 1993 trở đi cho đến 
năm 1997, tình hình đã thay đổi so với trước đó, kim ngạch xuất nhập khẩu 
chính ngạch đã lớn hơn kim ngạch xuất nhập khẩu tiểu ngạch, nhưng vẫn chỉ 
chiếm khoảng từ 68% đến 71% trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hai chiều. 
Trong quan hệ buôn bán với Trung Quốc từ sau ngày 5-11-1991, phía Việt Nam 
chủ trương đẩy mạnh phát triển mậu dịch chính ngạch, tỷ lệ càng lớn càng tốt. 
Còn phía Trung Quốc thì ngược lại, muốn đẩy mạnh và phát triển mậu dịch tiểu 
ngạch ưu tiên ưu đãi về thuế xuất khẩu thấp (hoặc miễn thuế)... Vì chủ trương 
chính sách của hai phía khác nhau, nên nguyên vọng của phía Việt Nam mong 
muốn nâng tỷ lệ xuất nhập khẩu chính ngạch cao hơn con số trên dưới 70% gặp 
nhiều khó khăn. Vấn đề này đã được nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười nêu ra với 
các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Trung Quốc trong chuyến thăm chính thức 
Trung Quốc vào giữa tháng 7 năm 1997 là: hai nước cần tăng cường buôn bán 
chính ngạch hơn nữa, như thế là có lợi cho cả hai bên. Phía Trung Quốc đã ghi 
nhận đề nghị đó của phía Việt Nam. Chúng ta hy vọng thời gian tới, tỷ lệ buôn bán 
chính ngạch giữa hai nước có thể tăng cao hơn con số 70-71%. 
- Hoạt động buôn lậu hàng hóa qua biên giới hai nước (cả biên giới trên 
đất liền lẫn trong vịnh Bắc Bộ), gây nhiều thiệt hại cho phía Nam. Loại hoạt 
động buôn lậu bất hợp pháp này xuất hiện ngay từ khi biên giới hai nước được 
mở cửa vào cuối năm 1988, kéo dài liên tục cho đến nay. Hoạt động buôn lậu 
hàng hóa qua biên giới diễn ra theo hai chiều, từ Trung Quốc sang Việt Nam và 
từ Việt Nam sang Trung Quốc. 
Bọn buôn lậu mua hàng hóa từ Trung Quốc đem qua biên giới hai nước 
trốn lậu thuế rồi đưa vào nội địa Việt Nam để tiêu thụ. Hàng hóa buôn lậu từ 
Trung Quốc đưa vào Việt Nam, gồm nhiều thứ như vải các loại, hàng dệt kim 
và quần áo may sẵn, xe đạp và phụ tùng, quạt điện các loại, đồ dùng nhà bếp, 
 30
đồ điện dân dụng và hàng điện tử, linh kiện đồng hồ điện tử, kính dân dụng và 
đồ dùng bằng thủy tinh, đồ sứ, gạch men các loại, bánh kẹo, rượu ngoại, giầy 
da, băng video, đĩa C.D, tân dược, đồ chơi trẻ em (như súng ống, kiếm, xe tăng, 
máy bay),... Có tài liệu cho biết: có đến 70-80% số hàng hóa nhập lậu tránh 
được sự kiểm tra ngăn chặn của hải quan và cơ quan quản lý thị trường của nhà 
nước lọt vào nội địa tiêu thụ với giá rẻ hơn giá cả hàng hóa cùng loại sản xuất ở 
trong nước. Trong số những mặt hàng nhập lậu nêu trên thì có nhiều thứ Việt 
Nam đánh thuế nhập khẩu cao và không khuyến khích nhập khẩu vì ở trong 
nước đã sản xuất được, có một số mặt hàng phía Việt Nam cấm nhập khẩu,... 
Khối lượng và giá trị của số hàng hóa nhập lậu từ Trung Quốc đưa vào Việt 
Nam là khá lớn, bằng 1/3 kim ngạch xuất khẩu chính ngạch và tiểu ngạch của 
các năm 1990-1993 hoặc lớn hơn, như năm 1996 lên đến 500 triệu USD (gần 
1/2 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hai chiều năm đó). 
Những mặt hàng Việt Nam bị buôn lậu đưa sang bán tại Trung Quốc 
(chủ yếu là ở khu tự trị, dân tộc Choang Quảng Tây) gồm có: gạo, kim loại màu, 
gỗ quý cấm xuất khẩu (như gỗ Pơmu, gỗ nghiến), vàng, ngoại tệ mạnh (USD), 
đặc biệt là nhiều loại thú rừng quý hiếm là tài sản quốc gia cần được bảo vệ và 
nuôi dưỡng, cấm săn bắt và xuất khẩu ra nước ngoài. Số lượng của loại "thú 
rừng quý hiếm" bị bắt đem sang Trung Quốc trong mấy năm qua là khá lớn 
không thống kê được. Ở đây xin nêu ra một vài ví dụ cụ thể: 
Vào tháng 3-1997, công an và quản lý thị trường của ta bắt được một xe 
ô tô chở động vật quý hiếm xuất lậu sang Trung Quốc, bao gồm: 653 kg rắn các 
loại, 535 tê tê, 24 con rùa, 11 con kỳ đà, 60 con chim móng két..., vào tháng 10-
1997, hải quan Móng Cái bắt được 1 xe ô tô chờ động vật hoang dã quý hiếm 
đang trên đường xuất lậu sang Trung Quốc, bao gồm: tê tê, kỳ đà, chồn, cào 
cào, cầy, rùa, rắn,... tổng cộng đến 2.900 kg, trị giá khoảng 400 triệu đồng Việt 
Nam. Có đến hàng trăm vụ buôn lậu như thế này đã trốn tránh được sự kiểm 
soát và ngăn chặn của phía Việt Nam đưa sang Trung Quốc bán kiếm lời. 
Trong nhiều năm qua, hoạt động buôn lậu qua biên giới hai nước đã gây 
thiệt hại to lớn cho phía Việt Nam: 
+ Số lượng thuế xuất nhập khẩu mà Nhà nước thất thu là khá lớn, như 
năm 1996 chẳng hạn, giá trị số hàng xuất nhập lậu qua biên giới khoảng 500 
triệu USD, nhưng số lượng bị các lực lượng quản lý thị trường và liên ngành 
của Việt Nam tịch thu và xử lý chỉ vào khoảng 30 tỷ đồng Việt Nam (chưa đến 
3 triệu USD) quả thật là rất ít. 
+ Hàng hóa của Trung Quốc nhập lậu vào Việt Nam bán với giá rẻ đã 
ảnh hưởng nhiều đến sản xuất ở trong nước, nhất là mấy năm đầu sau khi quan 
hệ hai nước bình thường hóa, quy mô sản xuất bị thu hẹp, người lao động mất 
việc làm... Có người nước ngoài đã đưa ra nhận xét như sau: "Ở Việt Nam mới 
vừa bắt đầu chính sách đổi mới và mở cửa, thì các sản phẩm của Trung Quốc cũng 
đã bắt đầu bóp chết nhiều ngành công nghiệp của nước này". 
+ Bọn buôn lậu dùng tiền bạc để mua chuộc đã khiến cho một số cán bộ 
trong các ngành hải quan thuế vụ, quản lý thị trường... bị thoái hóa biến chất 
cho hàng hóa nhập lậu của chúng qua biên giới lọt vào nội địa. 
 31
Thời gian gần đây, để chống buôn lậu và gian lận thương mại, phía Việt 
Nam đã thi hành một số biện pháp khá kiên quyết như thực hiện việc dán tem 
đối với một số hàng mặt hàng nhập của nước ngoài, như xe đạp, quạt điện, rượu 
ngoại, ti vi, tủ lạnh, đầu video, động cơ nhỏ, gạch men các loại... Biện pháp nói 
trên đã thu được một số kết quả ban đầu. Thiết nghĩ, cần phải thực hiện một số 
biện pháp cứng rắn hơn nữa thì mới hy vọng có thể ngăn chặn được hoạt động 
buôn lâụ nói chung và qua bên giới Việt - Trung. 
- Thời gian qua, trong buôn bán xuất nhập khẩu với Trung Quốc, nhất 
là buôn bán xuất nhập khẩu tiểu ngạch do chúng ta quá tin tưởng vào các bạn 
hàng Trung Quốc, còn thiếu kinh nghiệm trong buôn bán xuất nhập khẩu với 
nước ngoài, đặc biệt là khâu tổ chức và quản lý vĩ mô của chúng ta chưa được 
tốt, còn mang tính tự phát và cục bộ, có nhiều đối tượng thuộc các thành phần 
kinh tế của các địa phương tham gia vào buôn bán xuất nhập khẩu qua biên giới 
với Trung Quốc theo kiểu "mạnh ai nấy làm" và tranh nhau khách hàng... cho 
nên phía Việt Nam đã bị thua thiệt về nhiều mặt, một số doanh nghiệp của 
chúng ta đã mua phải hàng hóa chất lượng thấp và thiết bị máy móc cũ và 
không đồng bộ với giá cao, mang về nước phải sửa chữa lại mới sử dụng được. 
Một số doanh nghiệp Việt Nam khi bán hàng hóa cho phái đối tác Trung Quốc, 
đã bị họ hạ cấp và ép giá để mua rẻ, lấy hàng trước trả tiền sau chiếm dụng vốn, 
nợ đọngkéo dài thua đơn thiệt kép. Đó là những biểu hiện mua bán qua biên 
giới không lành mạnh, không chính đáng và bất bình đẳng, không có lợi cho 
việc trao đổi mậu dịch chung giữa hai nước. 
Muốn khắc phục tình trạng nói trên, thì cần phải tăng cường sự quản lý 
và chỉ đạo thống nhất của các cơ quan có thẩm quyền đối với hoạt động mua 
bán xuất nhập khẩu tiểu ngạch qua biên giới thực hiện nghiêm túc việc thanh 
toán mua bán xuất nhập khẩu qua biên giới thông qua ngân hàng của hai nước 
đặt tại vùng biên giới, tăng cường mậu dịch chính ngạch, hạn chế mậu dịch tiểu 
ngạch... 
Mức tăng của kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Trung Quốc 
vài năm lại đây diễn ra chậm và ở mức thấp như: kim ngạch xuất nhập khẩu hai 
chiều của năm 1996 chỉ tăng hơn mức của năm 1995 là 100 triệu USD, năm 
1997 chỉ tăng hơn mức của năm 1996 là 90 triệu USD. Có tài liệu nói rằng: kim 
ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc trong hai tháng đầu năm 1998 
đã giảm 20% so với cùng kỳ của năm ngoaí. Đây có thể là do chịu ảnh hưởng 
của cuộc khủng hoảng tiền tệ diễn ra ở một số nước Đông Nam Á và Đông Á. 
Tin chắc là mức kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc sẽ tăng 
mạnh vào những tháng cuối năm. Về khách quan mà nói, hai nước còn có 
những tiềm năng để mở rộng và phát triển xuất nhập khẩu song phương. Hy 
vọng rằng chuyến thăm Trung Quốc gần đây của Thủ tướng Phan Văn Khải 
thành công tốt đẹp và việc ký kết Hiệp định buôn bán hàng hóa ở vùng biên 
giới, sẽ mở ra một bước phát triển mới của quan hệ Việt - Trung, nhất là quan 
hệ kinh tế thương mại giữa hai nước trong thời gian tới, phấn đấu kim ngạch 
buôn bán 2 tỷ USD vào năm 2000 trong đó có sự cân đối giữa xuất và nhập 
khẩu. 
II. QUAN HỆ ĐẦU TƯ 
 32
1. Hạng mục và cơ cấu đầu tư 
Từ năm 1991 đến năm 1998 hai bên đã tạo điều kiện thuận lợi cho các 
xí nghiệp lớn tích cực tham gia hợp tác kinh tế. Đến cuối năm 1997, các đơn vị 
Trung Quốc đã đầu tư 41 hạng mục công trình ở Việt Nam với tổng kim ngạch 
ước tính 102 triệu USD, đứng thứ 21 trong số các nước và lãnh thổ đầu tư vào 
Việt Nam. Trong đó dự án đầu tư lớn nhất là xây dựng khu chế xuất Linh Trung 
ở thành phố Hồ Chí Minh với vốn đầu tư cả hai bên là 14 triệu USD, tiếp đó là nhà 
máy thép Hải Phòng với vốn đầu tư là 9,7triệu USD. 
Tính đến cuối quý III năm 1999 Trung Quốc đã đầu tư vào 56 công 
trình (không tính số dự án đã hủy bỏ) với tổng số vốn hơn 100 triệu đô la Mỹ, 
tập trung vào một số ngành dịch vụ, sản xuất hàng tiêu dùng và sản phẩm nông 
nghiệp như: xây dựng văn phòng, nhà ở, giáo dục, y tế nhân dân, thủy tinh, đồ 
chơi, thuốc lá, kem, thuốc trừ sâu... để tiêu dùng tại thị trường Việt Nam. Trong 
các hạng mục đầu tư của Trung Quốc phải kể đến hai công trình lớn là khu chế 
xuất Linh Trung và chợ Sắt ở Hải Phòng (15,5 triệu USD). 
Cơ cấu đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam có những điểm giống với 
đầu tư của Trung Quốc trên thế giới và tại các nước ASEAN khác: chủ yếu đầu 
tư vào cơ sở hạ tầng do Trung Quốc có kinh nghiệm tích luỹ về lĩnh vực xây 
dựng kết cấu hạ tầng tại một số nước đang phát triển về kinh tế, có đội ngũ kỹ 
sư và công nhân xây dựng tinh thông nghiệp vụ được tôi luyện trong những năm 
cải cách kinh tế. 
Hiện nay hơn 5.000 doanh nghiệp Trung Quốc đang hoạt động tại 120 
nước và khu vực với tổng số vốn đầu tư trực tiếp là hơn 5 tỷ đô la Mỹ, tập trung 
vào lĩnh vực xây dựng các cơ sở hạ tầng, một số nhà máy chế biến nguyên liệu 
và sản phẩm nông nghiệp. Tại các nước ASEAN có hơn 300 dự án do Trung 
Quốc đầu tư, chủ yếu trong lĩnh vực xây dựng. 
Hiện nay Trung Quốc đứng thứ 24 trong tổng số các nước vào vùng 
lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam với hình thức phong phú: xí nghiệp 100% vốn 
nước ngoài, xí nghiệp liên doanh và hợp doanh và có cả ở 3 miền Bắc, Trung, 
Nam. Tuy với số vốn ít và hạng mục hạn chế trong một số ngành, nhưng các dự 
án đầu tư của Trung Quốc đã tạo công ăn việc làm cho trên 1.500 lao động trực 
tiếp tại Việt Nam. 
Về phía mình, do năng lực còn hạn chế nên số lượng đầu tư của Việt 
Nam và Trung Quốc không nhiều, chỉ tập trung tại 2 tỉnh Vân Nam và Quảng 
Tây. Tại Vân Nam, đầu tư của Việt Nam chỉ là 240.000 đô la Mỹ. 
2. Những đặc điểm trong quan hệ đầu tư Việt - Trung 
- Quan hệ đầu tư Việt - Trung chủ yếu là quan hệ một chiều từ Trung 
Quốc sang Việt Nam do năng lực tài chính của Việt Nam quá nhỏ bé so với 
Trung Quốc. Dự trữ ngoại tệ của Việt Nam chỉ ở mức khiêm tốn trong khi 
Trung Quốc có dự trữ ngoại tệ hơn 154 tỷ đô la Mỹ đứng thứ hai thế giới. 
- Đầu tư của Trung Quốc chiếm tỷ trọng nhỏ cả về số lượng dự án và 
tổng số vốn đầu tư (khoảng 2% dự án và 3% số vốn đầu tư trong tổng số dự án 
và tổng số vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam). Sở dì có tình trạng như vậy là 
do: (a) Các doanh nghiệp lớn của Trung Quốc chưa thật sự coi trọng thị trường 
 33
Việt Nam; (b) Các công ty vừa và nhỏ của Trung Quốc thường không đủ năng 
lực cạnh tranh với các công ty khác trong việc đấu thầu đối với các công trình 
gọi thầu tại Việt Nam; (c) Tác động của khủng hoảng kinh tế Đông Nam Á, từ 
năm 1997 Việt Nam giảm bớt xây dựng các công trình hạ tầng - mặt mạnh trong 
đầu tư của Trung Quốc; (d) Lĩnh vực xây dựng mà Trung Quốc mong muốn đầu 
tư là lĩnh vực mà Việt Nam có nhiều năng lực; (e) Một số thủ tục hành chính ở 
Việt Nam còn phiền hà. 
- Quy mô đầu tư của một số dự án ở mức thấp nhất, 60% các công trình 
có tổng số vốn không quá 1 triệu đô la Mỹ. Bình quân một số dự án đầu tư của 
Trung Quốc tại Việt Nam chỉ có mức vốn là 2,3 triệu đô la Mỹ, thấp hơn rất 
nhiều so với mức bình quân 16,6 triệu đô la Mỹ trong các xí nghiệp có vốn đầu 
tư nước ngoài tại Việt Nam. Sở dĩ có tình trạng như vậy do đầu tư của Trung 
Quốc chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ với năng lực tài chính hạn chế so 
với các công ty nước ngoài khác. 
- Các xí nghiệp đầu tư của Trung Quốc đều nhằm tiêu thụ sản phẩm tại 
thị trường Việt Nam, không xuất khẩu hàng hóa sang nước thứ ba. Sở dĩ như 
vậy là do: (a) Việt Nam và Trung Quốc đều là những nước có hàng hóa xuất 
khẩu dựa trên lợi thế so sánh và giá nhân công rẻ; (b) Như trên đã phân tích chủ 
đầu tư Trung Quốc tại thị trường Việt Nam chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và 
nhỏ - những người quan tâm đến cung cấp hàng tại chỗ, thay thế hàng nhập 
khẩu tại Việt Nam, chưa đủ sức tới việc xuất khẩu hàng hóa ra bên ngoài. 
3. Đầu tư trực tiếp của Trung Quốc tại Việt Nam 
Hạng mục đầu tư liên doanh đầu tiên giữa một doanh nghiệp Trung 
Quốc với một doanh nghiệp Việt Nam được cấp giấy phép hoạt động tại Việt 
Nam là nhà ăn Trung Quốc mang tên "Hoa Long" tại phố Hàng Trống Hà Nội 
(Giấy phép số 274, cấp ngày 25-11-1991, tổng số vốn đầu tư 200.000 USD). 
Như vậy là, ngay sau khi quan hệ hai được được bình thường hóa thì doanh 
nghiệp của Trung Quốc đã đầu tư trực tiếp vào Việt Nam. Trong những năm 
tháng tiếp theo, số hạng mục đầu tư trực tiếp của xí nghiệp và công ty Trung 
Quốc vào Việt Nam tăng dần. Dưới đây là một số tình hình và con số cụ thể: 
* Tính đến tháng 12 năm 199: 
 Tổng số dự án: 1 - Tổng vốn đầu tư: 2.000.000 USD. 
* Tính đến tháng 12 năm 1992: 
 Tổng dự án: 10 - Tổng vốn đầu tư: 3.044.143 USD. 
* Tính đến tháng 12 năm 1994: 
 Tổng số dự án: 22 - Tổng vốn đầu tư: 24 triệu USD. 
* Tính đến tháng 12 năm 1995: 
 Tổng số dự án: 33 - Tổng số vốn đầu tư: 60 triệu USD. 
* Tính đến tháng 6 năm 1997: 
 Tổng số dứan: 42 - Tổng vốn đầu tư 66 triệu USD. 
 34
* Tính đến quý III năm 1999: 
 Tổng số dự án: 56 - Tổng vốn đầu tư: hơn 100 triệu USD. 
Tính đến giữa năm 1997, các địa phương sau đâycủa Trung Quốc đã có 
xí nghiệp và công ty đầu tư trực tiếp vào Việt Nam: Quảng Tây, Quảng Đông 
(Tham Quyến, Chu Hải...), Hải Nam, vùng Đông Bắc Trung Quốc, Hà Bắc, Vân 
Nam, Bắc Kinh... Trong số các địa phương Trung Quốc nói trên thì khu tự trị 
dân tộc Choang Quảng Tây là nơi có nhiều dự án đầu tư trực tiếp nhất tại Việt 
Nam, thí dụ trong tổng số 33 dự án đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Trung 
Quốc tại Việt Nam tính đến cuối năm 1995 thì trong đó có 18 dự án là của 
Quảng Tây, chiếm trên 54%. 
Cũng tính đến giữa năm 1997, các tỉnh, thành phố và thị xã sau đây của 
Việt Nam đã tiếp nhận dự án đầu tư trực tiếp của phía Trung Quốc: Hà Nội, Hải 
Phòng, Quảng Ninh, Nam Hà (cũ), Thái Bình, Hòa Bình, Lạng Sơn, Hà Giang, 
Thái Nguyên, Sơn Tây, Thanh Hóa, Sông Bé, thành phố Hồ Chí Minh... Trong 
đó, Hà Nội, Quảng Ninh là hai nơi tiếp nhận nhiều dự án đầu tư trực tiếp của 
Trung Quốc hơn những nơi khác. 
Các dự án đầu tư trực tiếp của Trung Quốc tại Việt Nam trong thời gian 
qua, chủ yếu nhằm vào các lĩnh vực sau đây: 
Khách sạn và nhà hàng các món ăn của Trung Quốc, in mác nhãn bao bì 
thực phẩm, tráng gương và gia công các loại kính, gia công chế biến xuất khẩu, 
vận tải quá cảnh bằng ô tô, sản xuất kinh doanh thuốc trừ sâu, sản xuất giấy dầu 
lợp nhà, sản xuất lắp ráp máy đến tiền và các thiết bị có liên quan đến ngân 
hàng, sản xuất đầu lọc thuốc lá, sản xuất thức ăn gia súc, khai thác sản xuất ván 
sàn và các sản phẩm từ tre nứa, chế biến thực phẩm, sản xuất nước tinh lọc và 
nước giải khát từ hoa quả, may mặc quần áo quy mô nhỏ, sản xuất và bán rượu 
trắng, khai thác quặng cromít (Cổ Định, Thanh Hóa), đấu thầu xây dựng nền 
móng công trình có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, sản xuất gạch men sứ, 
sản xuất giấy vệ sinh, đầu tư xây dựng chợ thương mại (chợ Sắt ở Hải Phòng), 
sản xuất đèn nê-ông quảng cáo và đèn ánh sáng trắng, sản xuất và bán thuốc bắc 
của Trung Quốc, sản xuất tôm cua cá giống,... Tổng cộng trên dưới 25 lĩnh vực 
sản xuất và ngành nghề kinh doanh khác nhau. 
Từ tình hình nêu ra trên đây, chúng ta có thể đưa ra một số nhận xét ban 
đầu về đặc điểm và tính chất trong hoạt động đầu tư trực tiếp của một số doanh 
nghiệp Trung Quốc tại Việt Nam từ cuối 1991 đầu 1992 đến nay. 
+ Tốc độ đầu tư trực tiếp của doanh nghiệp và công ty Trung Quốc vào 
Việt Nam còn chậm, số lượng hạng mục đầu tư ít, tổng số vốn đầu tư cũng 
chưa nhiều, khiến cho đến nay Trung Quốc vẫn đứng ở vị trí dưới 22 trong tổng 
số trên 50 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới có đầu tư trực tiếp tại Việt Nam 
tính đến năm 1997. 
+ Quy mô của các dự án đầu tư nhỏ bé, vốn đầu tư trung bình cho đến 1 dự 
án chỉ trên dưới 1 triệu USD. Điều đáng lưu ý là, trong đó có một số dự án có số 
vốn đầu tư quá nhỏ, chỉ trên dưới 100.000 USD. Xin đơn cử một số dự án cụ thể: 
 35
* Công ty liên doanh khách sạn: "Hưng Giang" tại thị xã Bắc Giang 
(giữa doanh nghiệp của Hà Bắc với doanh nghiệp của Quảng Tây, giấy phép số 
329 cấp ngày 26-2-1992, tổng vốn đầu tư là 80.000 USD). 
* Xí nghiệp liên doanh kính Long Giang tại Hà Nội (giữa nhà máy của 
Hà Nội với một công ty của Nam Ninh - Quảng Tây, Trung Quốc, giấy pép số 
342, cấp ngày 26-3-992, tổng vốn đầu tư là 99.463 USD). 
* Công ty liên doanh chè Việt - Hoa, tại Quảng Ninh (giữa nhà máy của 
Quảng Ninh với công ty xuất nhập khẩu thô súc sản của Khâm Châu - Quảng Tây, 
giấy phép số 344, cấp ngày 14-4-1992, tổng số vốn đầu tư là 107.680 USD)... 
Số dự án liên doanh có tổng vốn đầu tư từ 1 triệu USD trở lên cũng 
không nhiều, trong tổng số 42 (hoặc 46) dự án liên doanh Trung Quốc - Việt 
Nam đã được Bộ Kế hoạch và đầu tư Việt Nam cấp giấy phép tính đến giữa năm 
1997, trong đó, số liệu cụ thể về tổng số vốn đầu tư của 33 dự án, thì chỉ có 12 
dự án có tổng vốn đầu tư là trên 1 triệu USD chiếm hơn 36%, trong đó chỉ có 1 
dự án đầu tư theo đăng ký là trên 7 triệu USD, một dự án trên 5 triệu USD, 3 dự 
án trên 4 triệu USD, 1 dự án trên 3 triệu USD, 2 dự án trên 2 triệu USD, số còn 
lại là 1 triệu và dưới 1 triệu USD. Như thế cũng có nghĩa là các dự án liên 
doanh nói trên tuy cũng có những đóng góp nhất định cho xây dựng và phát 
triển kinh tế của Việt Nam tạo ra một số công ăn việc làm mới cho người lao 
động Việt Nam trong mấy năm qua, nhưng phải nói rằng tổng góp đó còn nhỏ 
bé và bị hạn chế nhiều, chưa tương xứng với tầm vóc kinh tế của Trung Quốc 
hiện nay. 
* Tuyệt đại đa số các dự án đầu tư trực tiếp của Trung Quốc vào Việt 
Nam trong thời gian qua là dự án liên doanh với phía doanh nghiệp, công ty của 
Việt Nam. Trong số đó có cả thành phần của Hồng Kông như: 
- Công ty liên doanh xây dựng Hà Nội - Bắc Kinh; giấy phép số 1362, 
cấp ngày 29-8-1985, vốn đầu tư 2.000.000 USD, gồm: Công ty xây dựng thuộc 
Sở xây dựng Hà Nội, tập đoàn xây dựng thành phố Bắc Kinh và Công ty du lịch 
Bắc Kinh, Công ty Ebim Development Ltd. Hồng Kông. 
- Công ty liên doanh vận tải Việt-Quế, vốn đầu tư 500.000 USD, gồm: 
Công ty vận tải đường sông I của Việt Nam, Công ty Hợp tác kinh tế kỹ thuật 
Nam Định - Trung Quốc và Công ty hữu hạn Hán Hân của Hồng Kông, thời 
gian liên doanh nói chung ngắn (từ 5 năm, 8 năm, 10 năm đến 20 năm là cao 
nhất). Tỷ lệ góp vốn trong các liên doanh Trung - Việt nhìn chung xê dịch trong 
khoảng 40/50, 50/50. 
Cho đến nay mới chỉ có một vài dự án là 100% vốn của Trung Quốc, 
trong đó có cả liên doanh với phái nước ngoài khác. Ví dụ: Công ty "Hồng 
Dương" 100% vốn đầu tư (997.670 USD) là của công ty trách nhiệm hữu hạn 
mậu dịch Hoàng Dương - Nam Ninh, Trung Quốc, tiến hành sản xuất kinh doanh 
nước giải khát chế biến từ hoa quả, sản xuất kem, nước uống tinh khiết; xí nhiệp 
Hằng Tín (ở Hải Phòng) là 100% vốn của Trung Quốc, liên doanh với Singapore, 
tiến hành sản xuất lắp ráp máy đèn tiền và lắp đặt các thiết bị liên quan đến ngân 
hàng. 
- Các Công ty liên doanh Trung Quốc - Việt Nam tiến hành sản xuất 
kinh doanh trong nhiều lĩnh vực khác nhau, như đã nêu ra ở phần trên, song 
 36
nhiều nhất vẫn là nhà hàng ăn Trung Quốc và khách sạn (riêng ở thành phố Hà 
Nội đã có đến bốn năm nhà hàng và khách sạn Trung Quốc, như: Hoa Long, Hà 
Quảng, Hải Yến, Ngọc Khánh, Kinh Đô,...) sản xuất công nghiệp nhẹ và hàng 
tiêu dùng hàng ngày, vốn đầu tư ít, quy mô sản xuất kinh doanh nhỏ, kỹ thuật và 
công nghệ sản xuất thuộc loại thông thường, không tiên tiến và hiện đại giống 
như của các nước ASEAN, Nhật Bản và phương Tây khác đầu tư trực tiếp ở 
Việt Nam. Cho đến nay chưa thấy có những công ty và tập đoàn kinh tế lớn của 
phía Trung Quốc đầu tư những dự án quy mô lớn có vốn đầu tư trên 10 triệu 
USD vào trong các lĩnh vực khai thác nông, c
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
Luận văn- Triển vọng và những giải pháp nhằm thúc đẩy quan hệ kinh tế - thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc.pdf