Luận văn Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên và v ận dụng vào việc giáo dục sinh viên các trường đại học ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay

Tài liệu Luận văn Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên và v ận dụng vào việc giáo dục sinh viên các trường đại học ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay: LUẬN VĂN: Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên và vận dụng vào việc giáo dục sinh viên các trường đại học ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà văn hóa kiệt xuất đồng thời cũng là nhà giáo dục vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Cuộc đời Người là tấm gương sáng cho thế hệ trẻ muôn đời sau noi theo. Tư tưởng của Người có vai trò, ý nghĩa và tác dụng to lớn đối với cách mạng Việt Nam. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác–Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh” [21, tr. 20]. Với cách nhìn khách quan khoa học, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao vai trò, vị trí, khả năng của thanh niên (TN) đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Người cho rằng: “TN là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một...

pdf110 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1668 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên và v ận dụng vào việc giáo dục sinh viên các trường đại học ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên và vận dụng vào việc giáo dục sinh viên các trường đại học ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà văn hóa kiệt xuất đồng thời cũng là nhà giáo dục vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Cuộc đời Người là tấm gương sáng cho thế hệ trẻ muôn đời sau noi theo. Tư tưởng của Người có vai trò, ý nghĩa và tác dụng to lớn đối với cách mạng Việt Nam. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác–Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh” [21, tr. 20]. Với cách nhìn khách quan khoa học, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao vai trò, vị trí, khả năng của thanh niên (TN) đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Người cho rằng: “TN là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các TN” [49, tr.185]. Chính vì thế trước lúc đi xa Người không quên căn dặn Đảng ta: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết” [56, tr. 510] Trong nội dung bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, Hồ Chí Minh đặt lên hàng đầu vấn đề bồi dưỡng lý tưởng và đạo đức cách mạng. Theo Hồ Chí Minh, để xứng đáng là lực lượng kế tục sự nghiệp cách mạng của các thế hệ cha anh thì phẩm chất hàng đầu cần có ở TN là sự trung thành tuyệt đối với lý tưởng, ý chí kiên định đấu tranh cho thắng lợi của lý tưởng và đạo đức cách mạng để làm gương lôi cuốn quần chúng. Lý tưởng mà Hồ Chí Minh quan tâm giáo dục cho TN là suốt đời làm cách mạng phấn đấu cho đất nước hoàn toàn độc lập, làm cho chủ nghĩa xã hội (CNXH) và chủ nghĩa cộng sản thắng lợi hoàn toàn trên Tổ quốc ta và trên thế giới. Tuy nhiên, lý tưởng và ý chí cách mạng chỉ có thể duy trì và phát triển trên nền tảng đạo đức cách mạng. Thiếu đi nền tảng này, tuổi trẻ chưa trải qua dạn dày đấu tranh sẽ không đủ sức vượt qua những thăng trầm, khó khăn của hoàn cảnh để kiên trì phấn đấu đến cùng cho lý tưởng. Trong Di chúc, Người lưu ý “Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng CNXH vừa “hồng” vừa “chuyên”” [56, tr. 510]. Lời di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trở thành tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt trong đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (1993) khẳng định: “Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, cách mạng Việt Nam có vững bước theo con đường xã hội chủ nghĩa hay không, phần lớn tùy thuộc vào lực lượng TN, vào việc bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ TN, công tác TN là vấn đề sống còn của dân tộc, là một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng” [18, tr.82]. Cuối thế kỷ XX – đầu thế kỷ XXI, tình hình thế giới và trong nước diễn biến rất phức tạp. Nhiều nhân tố tiêu cực từng ngày, từng giờ ảnh hưởng đến TN nói chung và sinh viên (SV) nói riêng. Trước hết là sự khủng hoảng niềm tin vào tương lai của CNXH sau sự kiện Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ. Sau 20 năm đổi mới chuyển sang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu đáng tự hào. Tuy nhiên, kinh tế thị trường cũng có mặt trái. Đây là mảnh đất màu mỡ nảy sinh nhiều yếu tố tiêu cực. Các tác động của kinh tế thị trường đã can thiệp, phá vỡ nhiều nét đẹp của văn hóa truyền thống, chà đạp lên những khuôn mẫu đạo đức cách mạng. Chủ nghĩa cá nhân – kẻ thù nguy hiểm nhất của đạo đức cách mạng theo cách gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, giờ đây có cơ hội trỗi dậy và phát triển. Chủ nghĩa Mác–Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh được Đảng ta xác định giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội, là nền tảng tư tưởng, kim chỉ Nam cho hành động của Đảng đang bị các thế lực thù địch chống phá, công kích. Ngoài tư tưởng, chúng còn đẩy mạnh tiến công trên lĩnh vực văn hóa, đạo đức, lối sống mà đối tượng chủ yếu là SV – đội ngũ trí thức tương lai. Tất cả những điều đó đã tác động xấu đến việc hình thành và phát triển nhân cách của SV. Nghị quyết Trung ương hai khóa VIII của Đảng (1997) đã gióng lên hồi chuông báo động toàn xã hội khi cho rằng tình trạng một bộ phận học sinh, SV suy thoái đạo đức, mờ nhạt lý tưởng, chạy theo lối sống thực dụng, thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp vì tương lai của bản thân và đất nước là điều “đặc biệt đáng lo ngại” [19, tr.24]. Trong xu thế chung của SV cả nước, một bộ phận không nhỏ SV các trường đại học ở Thành phố Hồ Chí Minh có những biểu hiện lệch lạc trong nhận thức và hành vi đạo đức như: xác định động cơ học tập không đúng. Mục đích của việc học không phải là nâng cao kiến thức mà nhằm kiếm điểm cao để có học bổng. Hiện tượng bỏ học không lý do, đi muộn, quay cóp trong thi cử đã trở nên khá phổ biến, cá biệt còn có một số SV tham gia đường dây thi thuê, thi hộ trong các mùa tuyển sinh đại học, cao đẳng. SV thờ ơ với các vấn đề chính trị, các hoạt động xã hội, còn mơ hồ về lý tưởng cách mạng, ham ăn chơi đua đòi chạy theo lối sống thực dụng, buông thả, xa rời đạo đức truyền thống, tiếp thu lối sống, văn hóa phương Tây không chọn lọc, quá coi trọng giá trị vật chất, xem nhẹ giá trị tinh thần, sùng bái đồng tiền, có hành vi vi phạm pháp luật, sa vào các tệ nạn xã hội: trộm cướp, rượu chè, cờ bạc, ma túy, mại dâm… Trong khi đó, do yêu cầu và đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới toàn diện, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các thế hệ SV đã, đang và nhất định sẽ gánh vác những trọng trách to lớn nhưng vô cùng khó khăn phức tạp. Chính vì thế, tại Đại hội IX, Đảng ta lại nhấn mạnh: “Đối với thế hệ trẻ, chăm lo giáo dục, bồi dưỡng đào tạo phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng đạo đức, lối sống, văn hóa, sức khỏe, nghề nghiệp, giải quyết việc làm, phát triển tài năng và sức sáng tạo, phát huy vai trò xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [21, tr.126]. Như vậy, trước yêu cầu khách quan và cấp bách của công cuộc đổi mới, việc giáo dục đạo đức cách mạng cho TN, SV theo tư tưởng Hồ Chí Minh là nội dung quan trọng hàng đầu trong việc rèn luyện nhân cách tuổi trẻ, là sự chuẩn bị cực kỳ hệ trọng giúp họ vào đời, lập thân, lập nghiệp. Với lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên và vận dụng vào việc giáo dục sinh viên các trường đại học ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp cao học chuyên ngành Hồ Chí Minh học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề TN và giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống cho TN, SV được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu theo những khía cạnh, cách tiếp cận khác nhau. + Nhóm tác giả đề cập đến vai trò TN và tầm quan trọng của công tác giáo dục TN: - Lê Duẩn, Thanh niên với cách mạng xã hội chủ nghĩa, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 1978. - Đỗ Mười, Lý tưởng của Thanh niên Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 1995. - Thành Duy, Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. - Đoàn Nam Đàn, Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục Thanh niên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. - Đặng Xuân Kỳ (chủ biên), Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển văn hóa và con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005. - Phạm Đình Nghiệp, Giáo dục lý tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ Việt Nam trong tình hình mới, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2000. - Trần Quy Nhơn, Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò Thanh niên trong cách mạng Việt Nam, Nxb Thanh niên, 2004 (in lần thứ hai). - Trần Quy Nhơn, Tư tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, Nxb Giáo dục, 2004. - Đặng Quang Thành, Xây dựng lối sống có văn hóa của Thanh niên Thành phố Hồ Chí Minh, Luận án tiến sĩ, 2005, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. - Song Thành, Hồ Chí Minh nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005 (Chương XV: Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự nghiệp giáo dục – đào tạo và bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau). - Văn Tùng, Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục Thanh niên, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 1999… + Nhóm các công trình nghiên cứu về đạo đức và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh: - Nguyễn Trọng Chuẩn–Nguyễn Văn Phúc, Mấy vấn đề về đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003. - Vũ Khiêu, Đạo đức mới, Nxb Khoa học xã hội, 1974. - Trần Hậu Kiêm – Đoàn Đức Hiếu, Hệ thống phạm trù đạo đức học và giáo dục đạo đức cho sinh viên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004. - Tương Lai, Chủ động và tích cực xây dựng đạo đức mới, Nxb Sự thật, 1983. - Nguyễn Ngọc Long (chủ biên), Giáo trình đạo đức học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001. - Trần Sỹ Phán, Giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, 1999, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. - Đinh Xuân Lâm – Bùi Đình Phong (1995), “Giá trị trường tồn của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong lòng nhân loại tiến bộ”, Tạp chí Thông tin lý luận, (12). - Lâm Quốc Tuấn – Trần Văn Toàn (2005), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức vừa “hồng” vừa “chuyên” cho thanh niên trí thức”, Tạp chí Lý luận chính trị, (10). - Song Thành, Hồ Chí Minh nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005 (Chương XIII: Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh). - Nguyễn Văn Truy (chủ biên), Hồ Chí Minh về đạo đức, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993… Những tài liệu trên của các tác giả là nguồn tư liệu quý giúp chúng tôi tiếp thu tham khảo, làm định hướng cho đề tài nghiên cứu của mình. Ở Thành Phố Hồ Chí Minh, việc nghiên cứu nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho SV hiện nay vẫn chưa có tác giả nào đề cập một cách cơ bản và có hệ thống dưới giác độ Hồ Chí Minh học. Vì vậy, tác giả mạnh dạn nghiên cứu vấn đề này với lòng mong muốn góp phần nhỏ bé vào việc luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn đã và đang đặt ra. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn Mục đích: Nghiên cứu những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức, lối sống cho TN; làm rõ lý luận và thực tiễn công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho SV các trường đại học trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh; trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho đối tượng này theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ sau: - Làm rõ những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, vai trò TN và việc giáo dục đạo đức, lối sống cho TN, SV. - Phân tích thực trạng đạo đức, lối sống của SV và thực tiễn công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho SV các trường đại học ở Thành phố Hồ Chí Minh trong khoảng 5 năm gần đây (2000 – 2005). - Đề xuất các giải pháp chủ yếu để tiếp tục tiến hành công việc giáo dục đạo đức, lối sống cho đối tượng này theo tư tưởng Hồ Chí Minh. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh; đạo đức, lối sống SV và giáo dục đạo đức, lối sống cho SV theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức, lối sống cho TN; đạo đức, lối sống SV và vấn đề giáo dục đạo đức, lối sống cho SV các trường đại học trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận: luận văn được triển khai trên nền tảng các quan điểm của chủ nghĩa Mác–Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng về đạo đức, TN và giáo dục đạo đức, lối sống cho TN. Phương pháp nghiên cứu: ngoài phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận văn còn sử dụng các phương pháp lôgíc, phương pháp lịch sử – cụ thể, phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, nghiên cứu khảo sát thực tiễn, điều tra xã hội học … + Đối với phương pháp khảo sát thực tiễn, chúng tôi đã tiếp xúc với Thành Đoàn, Thành Hội, Đảng ủy, Ban giám hiệu, Phòng công tác chính trị, Đoàn trường, Hội SV, các giáo viên và SV để tìm hiểu tình hình đạo đức, lối sống SV và công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho SV. + Đối với phương pháp điều tra xã hội học, chúng tôi đã chọn mẫu điều tra là 6 trường đại học đóng trên địa bàn Thành phố như: Đại học Sư phạm, Đại học An Ninh, Đại học dân lập Hồng Bàng, Đại học Bách Khoa, Khoa Kinh Tế thuộc Đại học Quốc gia, Đại học Bán công Marketing. Mỗi trường 50 SV. Với 6 trường mà chúng tôi tiến hành khảo sát có những đặc điểm sau: - Về loại hình trường và đối tượng: có cả công lập, dân lập, bán công, SV năm thứ nhất và năm cuối. - Về ngành học có đủ các lĩnh vực khoa học khác nhau như: kinh tế, khoa học xã hội và nhân văn, khoa học kỹ thuật. 6. Đóng góp mới của luận văn - Góp phần nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và giáo dục đạo đức cho TN. - Nhận định đúng đắn, khách quan về đạo đức, lối sống của SV và công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho SV ở các trường đại học thuộc địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. - Đề xuất những giải pháp có tính khả thi cao trong giáo dục đạo đức, lối sống cho SV. - Luận văn cung cấp thêm những luận cứ khoa học giúp các cấp Đoàn, Hội Liên hiệp TN, Hội SV, Phòng công tác chính trị thuộc các trường đại học trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình hành động của mình. Ngoài ra, luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu và giảng dạy ở các lớp tập huấn nghiệp vụ công tác Đoàn, công tác SV. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 02 chương, 07 tiết. Chương 1 TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG, LỐI SỐNG MỚI CHO THANH NIÊN 1.1. QUAN NIỆM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG VÀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG 1.1.1. Đạo đức Ở phương Tây, danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng Latinh là mos, moris, nghĩa là phong tục, tập quán. Đạo đức còn có gốc từ tiếng Hy Lạp là ethicos, cũng có nghĩa là thói quen, tập quán. Như vậy, theo phần gốc của khái niệm khi nói đến đạo đức là nói đến những thói quen, tập quán sinh hoạt và ứng xử của con người trong cộng đồng, trong xã hội. Ở phương Đông, theo các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ đại, đạo có nghĩa là con đường, đường đi, là đường sống của con người trong xã hội. Đức dùng để nói đến nhân đức, đức tính và nhìn chung đức là biểu hiện của đạo, là đạo nghĩa, là nguyên tắc luân lý. Theo đó, đạo đức chính là những yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà con người phải tuân theo. Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác–Lênin, đạo đức xét đến cùng là sự phản ánh của các quan hệ xã hội. Giá trị đạo đức được xác định ở chỗ nó phục vụ cho tiến bộ xã hội vì hạnh phúc của con người. “Đạo đức giúp cho xã hội loài người tiến lên trình độ cao hơn, thoát khỏi ách bóc lột lao động” [40, tr.371]. Bàn về đạo đức cộng sản chủ nghĩa, Lênin cho rằng: “Đó là những gì góp phần phá hủy xã hội cũ của bọn bóc lột và góp phần đoàn kết tất cả những người lao động chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới của những người cộng sản” [41, tr. 214]. Đây là một quan niệm mang tính cách mạng và khoa học về đạo đức mà quan niệm của các tôn giáo và các nền đạo đức khác không thể đạt tới. Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức cách mạng là trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì CNXH, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng; là cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; luôn yêu thương, quý trọng con người, sống có tình, có nghĩa và tinh thần quốc tế trong sáng… Theo Hồ Chí Minh, tiêu chí để đánh giá chính xác đạo đức con người là ở hành động, ở việc làm, ở cách đối nhân xử thế. Đạo đức phải được xem xét trong 3 mối quan hệ cơ bản: với mình, với người và với công việc. Trong 3 mối quan hệ đó, hoạt động của con người hình thành nên những hành vi, chuẩn mực đạo đức. Đó là việc mình có nghiêm khắc với chính bản thân hay không? Thái độ của mình đối với ông bà, bố mẹ, anh chị, em, đối với đồng chí, đồng đội, cấp trên, cấp dưới, đối với quần chúng nhân dân, đối với Đảng, với Nhà nước, đối với kẻ thù như thế nào? Mình có hết lòng, toàn tâm, toàn ý đối với công việc hay không? Điều đó xác định đạo đức của mỗi con người. Trong thư gửi đồng chí Hoàng Mai - Giám đốc Sở công an Khu XII, Người viết: Tư cách người công an cách mạng là: Đối với tự mình, phải cần, kiệm, kiệm, liêm, chính. Đối với đồng sự, phải thân ái giúp đỡ. Đối với Chính phủ, phải tuyệt đối trung thành. Đối với nhân dân, phải kính trọng, lễ phép. Đối với công việc, phải tận tụy. Đối với địch, phải cương quyết, khôn khéo [49, tr.406-407]. Đạo đức được xác định trong mối quan hệ với mình, với người và với công việc. Như vậy, trong quan niệm của Hồ Chí Minh, đạo đức không phải chỉ là những lý tưởng cao xa mà còn là những thái độ, hành vi, việc làm cụ thể của mỗi người hàng ngày, hàng giờ trong cuộc sống sinh hoạt, trong học tập, trong lao động và trong chiến đấu. Mặt khác, ở đây Hồ Chí Minh còn chỉ ra rằng đạo đức cách mạng và đạo đức đời thường là hoàn toàn thống nhất với nhau, sẽ không có đạo đức đời thường tách rời với đạo đức cách mạng và cũng không thể có đạo đức cách mạng đứng ngoài với đạo đức đời thường. Vì vậy, không thể bào chữa cho khuyết điểm của bản thân mình, “cái đó là việc riêng của tôi, gia đình tôi không liên quan gì với cái chung”. Cái riêng mà phù hợp với cái chung (của Đảng, của cách mạng, của Tổ quốc, của nhân dân) thì đó là đạo đức. Cái riêng mà đi ngược với cái chung là chủ nghĩa cá nhân, là vi phạm đạo đức. Vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh đặt ra và xem xét một cách toàn diện trong tất cả mọi lĩnh vực hoạt động của con người, từ việc tư đến việc công, từ lao động sản xuất ở hậu phương đến chiến đấu ngoài mặt trận, từ học tập, công tác đến sinh hoạt hàng ngày. Hồ Chí Minh cũng bàn đến đạo đức ở mọi phạm vi từ gia đình tới ngoài xã hội, từ giai cấp đến dân tộc, từ quốc gia đến quốc tế. Việc Hồ Chí Minh xem xét vấn đề đạo đức một cách toàn diện là một cách nhìn mang tính khách quan, phù hợp với hoạt động phong phú đa dạng của đời sống xã hội và mỗi con người. Hồ Chí Minh đã nêu những nội dung, những chuẩn mực chung có ý nghĩa cơ bản và có tính phổ cập đối với mọi người, mọi tầng lớp, đồng thời Người cũng chỉ rõ những chuẩn mực cụ thể đối với từng tầng lớp như: công nhân, nông dân, TN, phụ nữ, thiếu niên, nhi đồng, bộ đội, công an … Song đối tượng Người chú ý nhiều nhất là đạo đức của người cách mạng, người cán bộ, đảng viên. Đạo đức mới, đạo đức cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề xướng và cùng với Đảng ta dày công xây dựng, bồi đắp khác với đạo đức cũ về chất, ngược lại nó hoàn toàn thống nhất với đạo đức của chủ nghĩa Mác–Lênin. Đó là kết hợp truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc với đạo đức mang bản chất giai cấp công nhân và tinh hoa đạo đức của nhân loại. Hồ Chí Minh đã làm cuộc cách mạng trong lĩnh vực đạo đức. Người nói: “Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời” [50, tr.320-321]. Đạo đức cũ - đạo đức thực dân, phong kiến, là thứ đạo đức ích kỷ, nó kìm hãm trói buộc con người, tàn phá con người. Còn đạo đức mới là vì nước, vì dân; là “dĩ công vi thượng”. Đây là đạo đức vĩ đại. Bởi lẽ, đạo đức đó “không vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người” [49, tr.252]. Hồ Chí Minh xem đạo đức là nền tảng của người cách mạng, cũng giống như gốc của cây, ngọn nguồn của sông, của suối. Người còn ví đạo đức đối với người cách mạng như là sức khỏe của người gánh nặng và đi xa. Theo Hồ Chí Minh, nhiệm vụ cách mạng hoàn toàn không dễ dàng, đơn giản mà bao giờ cũng khó khăn, phức tạp. Thực hiện nhiệm vụ cách mạng, đòi hỏi người cách mạng phải có quyết tâm phấn đấu thật cao, phải dám hy sinh, phải kiên trì bền bỉ “thắng không kiêu, bại không nản”. Vì thế “Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ vẻ vang” [53, tr.283]. Người cán bộ đảng viên lại càng cần phải có đạo đức cách mạng. Vì “không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” [49, tr.253]. Theo Người, lãnh đạo không phải là ra lệnh mà chủ yếu bằng lôi kéo, thuyết phục. Để lôi kéo thuyết phục con người, trước hết phải từ cái tâm, cái đức của con người, phải miệng nói, tay làm, phải đầu tàu gương mẫu. Người dạy muốn hướng dẫn, lãnh đạo nhân dân thì cán bộ đảng viên phải mực thước, phải “Lo, thì trước thiên hạ; hưởng, thì sau thiên hạ” [51, tr.568]. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, Đảng phải “là đạo đức, là văn minh” thì mới hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình là lãnh đạo cuộc đấu tranh giành độc lập thống nhất hoàn toàn cho Tổ quốc và xây dựng thành công CNXH trên đất nước ta. Người cũng nhắc lại ý của Lênin: Đảng Cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc mình và của thời đại. Người đòi hỏi đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng phải có đầy đủ những phẩm chất cần có để tham gia và cống hiến nhiều nhất trong cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc và CNXH. Hồ Chí Minh cho rằng lấy đạo đức làm gốc, không có nghĩa là tuyệt đối hóa mặt đức, xem nhẹ mặt tài. Đức là gốc, nhưng đức và tài, “hồng” và “chuyên” phải kết hợp, phẩm chất và năng lực phải đi đôi, không thể có mặt này, thiếu mặt kia. Nói chuyện tại Đại hội SV Việt Nam lần thứ II, Người cho rằng: “TN phải có đức, có tài. Có tài mà không có đức ví như một anh làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những không làm được gì ích lợi cho xã hội, mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà không có tài ví như ông Bụt không làm hại gì, nhưng cũng không lợi gì cho loài người” [53, tr.172]. Người thực sự có đức thì bao giờ cũng cố gắng học tập, nâng cao trình độ, nâng cao năng lực, tài năng để hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Như vậy, đạo đức trong quan niệm của Hồ Chí Minh được hiểu là toàn bộ những chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh hành vi của con người trong quan hệ với người khác và với cộng đồng. Dựa vào những chuẩn mực đó, người ta đánh giá hành vi của mỗi người theo các quan niệm về thiện và ác, về cái không được làm và về nghĩa vụ phải làm. 1.1.2 Lối sống Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, lối sống là toàn bộ những hình thức hoạt động sống của con người trong một xã hội nhất định được xem xét thống nhất với các điều kiện kinh tế – xã hội nhất định [77, tr.742]. Giải thích phạm trù lối sống, học thuyết Mác đi từ phương thức hoạt động sản xuất của con người. Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, C. Mác và Ph. Ăngghen cho rằng: “Không nên nghiên cứu phương thức sản xuất ấy đơn thuần theo khía cạnh nó là sự tái sản xuất ra sự tồn tại thể xác của các cá nhân. Mà hơn thế, nó là một phương thức hoạt động nhất định của những cá nhân ấy, một hình thức nhất định của hoạt động sống của họ, một phương thức sinh sống nhất định của họ” [11, tr.30]. Mác còn cho rằng để tồn tại trước hết con người phải giải quyết được những nhu cầu thiết yếu trước mắt như: ăn, mặc, ở, đi lại rồi mới có thể nghĩ đến chuyện làm văn thơ, làm triết học… Nghĩa là phải lao động kiếm sống. Lao động vốn là nhu cầu sống hàng đầu của con người. Mặt khác, lao động còn là nền tảng để phát triển toàn diện cá nhân con người. Trong lao động sản xuất, con người thiết lập các mối quan hệ với tự nhiên và với xã hội. Chính trong quá trình đó con người biểu hiện bản thân mình, biểu hiện đời sống của mình. Như vậy, phương thức sản xuất không chỉ là một hình thức hoạt động sinh sống nhất định của con người mà còn là mặt cơ bản của lối sống, là điều kiện kinh tế – xã hội của lối sống. Tuy nhiên không thể đồng nhất phương thức sản xuất với lối sống, vì trong xã hội có giai cấp không thể có một lối sống cho tất cả mọi người và phạm vi của lối sống rộng hơn phạm vi của phương thức sản xuất. Ngoài hoạt động sản xuất, con người còn có nhiều hoạt động phong phú khác như: hoạt động chính trị, hoạt động tư tưởng và văn hóa, hoạt động bồi dưỡng sức khỏe và rèn luyện phẩm chất cá nhân. Phạm vi của lối sống có thể tương ứng với phạm vi của hình thái kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, hai khái niệm trên đây cũng không hoàn toàn đồng nhất với nhau. Hình thái kinh tế – xã hội gắn liền với hoạt động sản xuất vật chất của con người. Đó là một tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người. Ngược lại, lối sống phản ánh hoạt động của chủ thể bao gồm nhận thức, tình cảm, thái độ, động cơ trong mọi hoạt động của bản thân con người. Bổ sung quan điểm của Mác, Hồ Chí Minh xem lối sống còn là hình thức biểu hiện của văn hóa – văn hóa đời sống. Người quan niệm văn hóa là bộ mặt tinh thần của xã hội và bộ mặt đó được thể hiện ra ngay trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người, rất dễ hiểu, dễ thấy. Điều này đã được Hồ Chí Minh chỉ ra khi nói về nội dung của đời sống mới, cũng như cách thức xây dựng đời sống mới trong một nước Việt Nam độc lập. Theo Hồ Chí Minh, lối sống bộc lộ thông qua các hoạt động của con người trong cách ăn, cách mặc, cách ở, cách đi lại, cách làm việc. Lối sống vừa có các giá trị của văn minh nhân loại vừa có các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Bên cạnh các giá trị vĩnh cửu, lối sống cũng chứa đựng các giá trị phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể của từng thời kỳ nhất định; có các khía cạnh tiến bộ và cả những khía cạnh tiêu cực. Có thể nói, lối sống bộc lộ nhân cách của con người trong một điều kiện hoàn cảnh cụ thể, nhất định. Con người phản ánh qua lối sống phần nào diện mạo văn hóa thời đại thông qua năng lực trí tuệ, quan hệ ứng xử và khả năng đồng hóa thẩm mỹ hiện thực của mình trong nhiều phương diện khác nhau. Với Hồ Chí Minh, lối sống bao gồm lối sống riêng của từng cá nhân và lối sống chung của từng nhóm người, rộng hơn là toàn xã hội. Lối sống cá nhân là toàn bộ hình thức hoạt động sống của cá nhân trong một xã hội nhất định. Đồng thời là sự phản ánh kết quả nhận thức của cá nhân về các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Vì thế, lối sống cá nhân luôn mang đậm dấu ấn cá nhân và có tính phong phú, đa dạng. Mặt khác, được hình thành từ một điều kiện kinh tế – xã hội nhất định nên lối sống của các cá nhân lại có những điểm chung tương đồng, tạo nên lối sống chung của toàn xã hội. Giữa lối sống riêng của từng cá nhân với lối sống chung của toàn xã hội không có sự tách rời biệt lập mà trái lại luôn thống nhất, tác động qua lại lẫn nhau. Hồ Chí Minh quan niệm xã hội là do nhiều cá nhân nhóm lại mà thành. Chính vì thế, nếu mỗi cá nhân có lối sống tích cực thì góp phần hình thành nên lối sống tiến bộ của xã hội. Lối sống văn minh, cao đẹp của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành mẫu mực cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta học tập và noi theo. Ngược lại, lối sống xã hội có tác dụng định hướng cho lối sống cá nhân, giúp mỗi cá nhân điều chỉnh lối sống của bản thân. Theo Hồ Chí Minh, đạo đức, lối sống, nếp sống là ba nội dung hợp thành văn hóa đời sống, trong đó đạo đức đóng vai trò chủ yếu nhất. Vì vậy, xây dựng đời sống mới chính là quá trình tuyên truyền và thực hành đạo đức mới, lối sống mới, nếp sống mới. Lối sống mới mà Hồ Chí Minh quan tâm xây dựng cho mọi người là lối sống có lý tưởng, có đạo đức, văn minh, tiên tiến, kết hợp hài hòa truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại. Hồ Chí Minh cho rằng để Việt Nam trở nên một nước mới, một nước văn minh, tiến bộ thì mọi người phải xây dựng một phong cách sống khiêm tốn, giản dị, chừng mực, điều độ, ngăn nắp, vệ sinh, yêu lao động, biết quý trọng thời gian, ít lòng ham muốn về vật chất, về chức quyền danh lợi. Trong quan hệ với nhân dân, bạn bè, đồng chí, anh em phải cởi mở, chân tình, ân cần, tế nhị; giàu tình yêu thương quý mến con người, trân trọng con người; đối với mình thì nghiêm khắc, chặt chẽ; đối với người thì khoan dung, độ lượng. Đã có sinh hoạt lành mạnh, tiến bộ, ứng xử hài hòa, đúng mực thì còn phải xây dựng tác phong quần chúng, tập thể dân chủ, khoa học trong cách làm việc. Tuy mang những nội dung khác nhau nhưng ba loại tác phong trên có quan hệ mật thiết với nhau, góp phần nâng cao hiệu quả công việc, giúp mọi người hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Lối sống trong quan niệm của Hồ Chí Minh còn là tiêu chí, thước đo trình độ văn minh, tiến bộ của mỗi dân tộc. Người cho rằng: “Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm sĩ, là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ” [49, tr.642]. Với nghĩa đó, xây dựng lối sống mới đã trở thành một mục tiêu của CNXH. Phấn đấu thực hành lối sống mới giúp mỗi cá nhân và cả xã hội từng bước vượt qua được những cái nhỏ bé, thấp hèn để vươn tới những cái lớn lao, cao thượng làm cho mọi người phát triển toàn diện cùng với sự phát triển của đất nước. Bàn về lối sống, Hồ Chí Minh luôn đặt nó trong mối quan hệ với đạo đức. Đạo đức và lối sống có quan hệ mật thiết với nhau, trong đó đạo đức đóng vai trò chủ yếu. Đạo đức gắn liền với lối sống và là nội dung của lối sống. Còn lối sống là thể hiện cụ thể quan niệm đạo đức trong những hình thức hoạt động của con người trong xã hội. Một lối sống được xem là cao đẹp trước hết phải là lối sống có đạo đức, luôn đề cao trách nhiệm, bổn phận, nghĩa vụ của cá nhân đối với cộng đồng và toàn xã hội. Ngược lại, lối sống chỉ biết hưởng thụ cho bản thân là lối sống ích kỷ, thấp hèn cần phải lên án, đấu tranh vì trái với đạo đức của dân tộc. Người dạy: “Trong lúc nhân dân ta còn thiếu thốn mà một người nào đó muốn riêng hưởng ăn ngon mặc đẹp, như vậy là không có đạo đức” [52, tr.392]. Đạo đức quyết định lối sống. Do đó, muốn xây dựng lối sống mới trước hết phải bắt đầu từ việc xây dựng, thực hành đạo đức mới. Chỉ có dựa trên cái nền đạo đức mới thì mới xây dựng được lối sống mới, lành mạnh, vui tươi hướng con người tới tầm cao của văn hóa, của một đất nước độc lập và CNXH. 1.1.3 Giáo dục đạo đức, lối sống Hồ Chí Minh rất quan tâm đến giáo dục vì giáo dục có một vai trò quan trọng trong kháng chiến cũng như kiến quốc. Nói chuyện tại lớp đào tạo hướng dẫn viên các trại hè cấp I, Người chỉ rõ mục đích của nền giáo dục cách mạng là “Phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, đào tạo lớp người, lớp cán bộ mới” [52, tr.183]. Đây chính là điểm khác nhau cơ bản giữa nền giáo dục mới mà chúng ta đang ra sức xây dựng với nền giáo dục cũ– nền giáo dục thực dân. Theo Hồ Chí Minh, nền giáo dục thực dân là nền giáo dục ngu dân, không phải để mở mang trí tuệ và phát triển tư tưởng cho dân. Trái lại, chỉ làm cho dân thêm “u mê” và “đần độn hơn”. Đó là một giáo dục phản tiến bộ mang tính chất “đồi bại, xảo trá và nguy hiểm hơn cả sự dốt nát nữa”. Vì nó làm hư hỏng mất tính nết của người đi học. Điều mà TN học được ở trường học thuộc địa là “lòng “trung thực” giả dối”, tư tưởng “sùng bái những kẻ mạnh hơn mình”, “yêu một Tổ quốc không phải là Tổ quốc của mình và đang áp bức mình”, là sự “khinh rẻ nguồn gốc dòng giống mình” [45, tr.399]. Nền giáo dục đó chỉ dạy cho TN thái độ thờ ơ đối với xã hội, xa rời đời sống lao động và đấu tranh của nhân dân. Mục đích của nền giáo dục thực dân là đào tạo những người phục vụ cho chính quyền của bọn xâm lược: tùy phái, thông ngôn, viên chức nhỏ. Trong xã hội mới, giáo dục có nhiệm vụ quan trọng và vẻ vang là “Phục vụ đường lối chính trị của Đảng và Chính phủ, gắn liền với sản xuất và đời sống của nhân dân” [54, tr.190]. Giáo dục cách mạng là nền giáo dục bình đẳng. Nó không dành riêng cho một nhóm người nào trong xã hội mà cho tất cả mọi người. Trong giáo dục, đối tượng chủ yếu mà Hồ Chí Minh nhắm tới là nhi đồng và thanh thiếu niên. Bởi đây là lứa tuổi đang trong quá trình hình thành hoàn thiện nhân cách. Mặt khác, họ còn là những chủ nhân tương lai của đất nước, là lực lượng kế tục sự nghiệp cách mạng của thế hệ cha ông. Do đó, rất cần có sự định hướng của giáo dục, đặc biệt là giáo dục đạo đức. Xuất phát từ mục tiêu của giáo dục là đào tạo những con người mới vừa có đức vừa có tài, những công dân biết làm chủ để đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Hồ Chí Minh chủ trương bồi dưỡng giáo dục thế hệ trẻ một cách toàn diện: đức, trí, thể, mỹ. Người yêu cầu: “Trong việc giáo dục và học tập, phải chú trọng đủ các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hóa, kỹ thuật, lao động và sản xuất” [54, tr.190]. Trong công tác giáo dục, Hồ Chí Minh coi trọng cả “đức” lẫn “tài”, nhưng đặt giáo dục đạo đức lên hàng đầu. Người chỉ rõ vai trò và sức mạnh to lớn của đạo đức, khẳng định đạo đức là cái gốc của mỗi con người, là cái nền tảng vững chắc của người cách mạng. Có đạo đức cách mạng, thì dù nhiệm vụ nặng nề đến mức nào, khó khăn đến bao nhiêu, con người ta đều vượt qua được. Theo Hồ Chí Minh, “tâm” có sáng thì trí mới sáng, có cái đức thì cái tài mới được phát huy, phát triển trở nên có ích đối với xã hội. Hồ Chí Minh đề ra những chuẩn mực đạo đức mới định hướng cho sự rèn luyện của mỗi người. Bên cạnh đó, căn cứ vào đặc điểm lứa tuổi, nghề nghiệp, môi trường làm việc... Người còn cụ thể hóa các chuẩn mực đạo đức thành những phẩm chất cụ thể để mọi người dễ hiểu, dễ nhớ, dễ vận dụng. Người dạy TN phải yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu CNXH, yêu lao động, yêu khoa học, yêu kỹ thuật … Đó là đạo đức mới và chỉ có thông qua phấn đấu, rèn luyện mới trở thành những con người phát triển toàn diện, có tư tưởng đúng, tình cảm đẹp, có kiến thức, có sức khỏe để làm chủ thiên nhiên, làm chủ xã hội, làm chủ bản thân. Để làm được như vậy, Người khuyên TN: “Không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền, đào núi và lấp biển, quyết chí ắt làm nên” [50, tr.95]. Đối với TN công nhân, nông dân, Người nhấn mạnh tinh thần trách nhiệm, ý thức làm chủ, ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, hoàn thành tốt nhiệm vụ. Đối với TN các lực lượng vũ trang, Người căn dặn: phải trung với Đảng, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Đối với TN các dân tộc, Người dạy phải đoàn kết chặt chẽ, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau như anh em một nhà, nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, giữ gìn trật tự an ninh, bảo vệ biên giới. Đặc biệt, đối với TN là học sinh, SV, Hồ Chí Minh xác định rõ đạo đức chính là phải tích cực học tập. Đồng thời Người còn chỉ rõ mục đích và động cơ học tập là để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, làm cho dân giàu, nước mạnh. Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng không phải từ trên trời sa xuống mà là kết quả trực tiếp của hoạt động giáo dục và tự giáo dục, tự rèn luyện của mỗi cá nhân. Giáo dục nói chung và giáo dục đạo đức cách mạng cho TN nói riêng là sự nghiệp của quần chúng. Trong thư Gửi các em học sinh (24/10/1955), Hồ Chí Minh khẳng định: “Giáo dục các em là việc chung của gia đình, trường học và xã hội. Bố mẹ, thầy giáo và người lớn phải cùng nhau phụ trách” [52, tr.74]. Kết quả giáo dục tùy thuộc rất nhiều vào sự tham gia tích cực, sự giúp đỡ thiết thực và sự giác ngộ về trách nhiệm đối với giáo dục của các ngành, các cấp ủy Đảng, chính quyền cũng như của cha mẹ học sinh và của các lực lượng xã hội. Người đề nghị: “Sự giáo dục TN phải liên hệ vào dư luận xã hội, lực lượng của chính phủ để ngăn ngừa những cái gì có thể ảnh hưởng xấu đến TN, để nâng cao tính cảnh giác của TN” [51, tr.455-456]. Xuất phát từ sự nhìn nhận mặt tốt và mặt xấu trong con người, nhất là đối với TN– lứa tuổi đang hoàn thiện nhân cách, đang phát triển và muốn khẳng định mình, Hồ Chí Minh rất coi trọng việc kết hợp cả hai mặt giáo dục và tự giáo dục. Theo Người, khi mặt tự giáo dục thực sự được đặt ra ở mỗi người thì việc giáo dục mới có hiệu quả và chắc chắn. Với Hồ Chí Minh, TN có ưu điểm là hăng hái, giàu tinh thần xung phong nhưng cũng có khuyết điểm là ham chuộng hình thức, thiếu thực tế, bệnh cá nhân, bệnh anh hùng. Do vậy, TN muốn xứng đáng là người chủ tương lai của nước nhà thì phải tự giác rèn luyện bản thân. Đó là yếu tố hết sức quan trọng. Trước tiên, TN “phải rèn luyện và thấm nhuần tư tưởng xã hội chủ nghĩa” [53, tr.310]; “Phải trau dồi đạo đức của người cách mạng” [54, tr.305]. Người nhắc nhở TN phải luôn luôn gắn chặt quá trình “xây và chống” trong rèn luyện đạo đức. Người dạy: “TN cần phải chống tâm lý tự tư tự lợi, chỉ lo cho lợi ích riêng và sinh hoạt riêng của mình. Chống tâm lý ham sung sướng và tránh khó nhọc. Chống thói xem khinh lao động, nhất là lao động chân tay. Chống lười biếng, xa xỉ. Chống cách sinh hoạt ủy mị. Chống kiêu ngạo, giả dối, khoe khoang” [51, tr.455]. Như vậy, giáo dục đạo đức theo quan điểm của Hồ Chí Minh là hoạt động của các cá nhân và thiết chế xã hội nhằm hình thành những phẩm chất đạo đức ổn định, những nhu cầu, niềm tin, tình cảm, thói quen trong hành vi đạo đức trên cơ sở nhận thức lý tưởng đạo đức và những nguyên tắc đạo đức xã hội. Thông qua giáo dục đạo đức, các khái niệm, giá trị đạo đức được nhận thức sâu sắc hơn, những hành động của con người sẽ phù hợp hơn với các chuẩn mực xã hội, làm cho con người có khả năng tự kiểm tra, đánh giá, thẩm định và điều chỉnh hành vi của mình. Đạo đức có quan hệ chặt chẽ với lối sống. Đạo đức là mặt nội dung, qui định lối sống. Còn lối sống là mặt thể hiện của đạo đức. Do đó, giáo dục đạo đức chính là giáo dục lối sống một cách gián tiếp, là quá trình định hướng lối sống cho mỗi cá nhân. 1.2. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ CỦA THANH NIÊN VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG CHO THANH NIÊN 1.2.1. Vai trò của thanh niên trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta 1.2.1.1. Thanh niên là lực lượng quyết định vận mệnh của dân tộc, sự phát triển của đất nước Ngay khi còn trẻ, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh sớm hòa mình vào phong trào đấu tranh của TN trong nước và quốc tế. Chính những năm tháng sống, lao động, chiến đấu cùng với TN giúp Hồ Chí Minh có điều kiện hiểu rõ TN. Xuất phát từ quy luật vận động của xã hội loài người, Hồ Chí Minh khẳng định TN không những là lực lượng kế tục sự nghiệp cách mạng của các thế hệ đi trước, mà còn là tương lai của đất nước, của dân tộc: “Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội” [48, tr.167]. Đây là kết quả nhận thức của một người từng trải, có nhiều năm tháng gắn bó mật thiết với TN, là sự tiếp nối và phát triển những quan điểm của cha ông, của chủ nghĩa Mác – Lênin về vai trò TN trong lịch sử. Tính chân lý của câu nói trên chính là việc chỉ ra vai trò quan trọng của TN đối với sự phát triển của xã hội. TN tiêu biểu cho sức sống, sức phát triển của một dân tộc. Nếu được chăm sóc, giáo dục, rèn luyện, dìu dắt đúng thì TN có khả năng “dời non lấp bể” trong sự nghiệp bảo vệ nền độc lập và xây dựng đất nước. Từ nhận thức đó, Hồ Chí Minh đặt trọn mọi tin yêu và kỳ vọng vào TN. Người xem vận mệnh dân tộc phụ thuộc chặt chẽ vào tầng lớp TN. Đầu những năm 20 của thế kỷ XX, khi đất nước đang chìm đắm trong cảnh nô lệ, Hồ Chí Minh khẳng định, “muốn thức tỉnh dân tộc” đứng lên đấu tranh giành lại độc lập để xây dựng xã hội mới thì trước hết “phải thức tỉnh TN”. Từ sự khẳng định đó, Người vô cùng lo lắng cho tiền đồ của dân tộc trước thực trạng TN chưa được tổ chức, chưa được giáo dục: “Hỡi Đông Dương đáng thương hại! Người sẽ chết mất, nếu đám TN già cỗi của Người không sớm hồi sinh” [46, tr.133]. Thực hiện tư tưởng trên, sau khi về đến Quảng Châu, Trung Quốc, Hồ Chí Minh bắt tay ngay vào việc tập hợp những TN Việt Nam yêu nước đang hoạt động ở đây lập ra tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng TN. Bên cạnh đó, Người còn tổ chức nhiều khóa tuyên truyền, huấn luyện nhằm giác ngộ chủ nghĩa Mác–Lênin cho họ, giúp họ hiểu: vì sao phải làm cách mạng và làm cách mạng phải như thế nào. Kết thúc khóa học, những hội viên được phái trở về hoạt động trong nước làm nhiệm vụ tuyên truyền chủ nghĩa Mác–Lênin, giác ngộ quần chúng nhân dân, gây dựng cơ sở cách mạng và lãnh đạo quần chúng đấu tranh. Thông qua hoạt động tích cực và đầy sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc và các hội viên của Hội Việt Nam Cách mạng TN, chủ nghĩa Mác–Lênin được truyền bá sâu rộng vào nước ta. Nhờ sự soi đường chỉ lối của lý luận Mác–Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước phát triển nhanh về chất và đã kết hợp chặt chẽ hơn, làm cơ sở và điều kiện vững chắc cho Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Được Đảng dìu dắt, lãnh đạo TN hăng hái tham gia các phong trào đấu tranh, sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh gian khổ, cùng với Đảng, với dân tộc làm nên thắng lợi cách mạng tháng Tám năm 1945. Chỉ tính trong vòng 15 năm kể từ năm 1930 đến 1945 đã có hàng nghìn TN trở thành cán bộ cốt cán trung kiên của Đảng. Hầu hết, các anh hùng, liệt sĩ của dân tộc hy sinh anh dũng trong thời kỳ này đều ở tuổi đời còn rất trẻ như: Trần Phú, Lý Tự Trọng, Nguyễn Đức Cảnh, Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Thị Minh Khai, Lê Hồng Phong … Tấm gương xả thân vì sự nghiệp giải phóng dân tộc của họ đã tô thắm thêm trang sử vàng của dân tộc, làm rạng ngời thêm truyền thống của TN Việt Nam. Cách mạng tháng Tám không những giải phóng dân tộc thoát khỏi kiếp nô lệ mà còn mang lại sự tự do cho TN. Một kỷ nguyên mới mở ra trước mắt dân tộc - kỷ nguyên độc lập, dân chủ và CNXH. Xây dựng, kiến thiết nước nhà trở thành nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng. Tình hình mới, nhiệm vụ mới, TN lại gánh vác thêm trọng trách mới. Là đội quân chủ lực, xung phong trong công cuộc phát triển kinh tế – văn hóa, trong sự nghiệp xây dựng CNXH. Hồ Chí Minh tiếp tục gửi gấm niềm tin tưởng của mình vào TN. Người xem tiền đồ của đất nước, tương lai của dân tộc phần lớn phụ thuộc vào TN. Người khẳng định: “TN là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, mạnh hay yếu, một phần lớn là do các TN” [49, tr.185]. Để xứng đáng là người chủ tương lai của đất nước, Hồ Chí Minh yêu cầu TN phải tự mình phấn đấu, học tập và rèn luyện để nắm lấy tri thức, bồi dưỡng ý chí, nghị lực và tinh thần cách mạng. Theo Hồ Chí Minh, việc học tập, rèn luyện của TN có ý nghĩa quyết định đến tương lai phát triển của đất nước, của dân tộc. Trong thư gửi cho TN học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Người viết: “Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em” [48, tr.33]. Hưởng không khí hòa bình, độc lập chưa được bao lâu, dưới sự lãnh đạo của Đảng, TN cùng với dân tộc bước vào 2 cuộc chiến tranh giữ nước đầy gian khổ nhưng cũng lắm oai hùng. Đó là 9 năm kháng Pháp và 21 năm chống Mỹ. Trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt cộng với những khó khăn khi cùng một lúc tiến hành 2 nhiệm vụ chiến lược, nhưng bằng sự nhìn nhận, đánh giá khả năng cách mạng to lớn và quyết định của TN, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn lạc quan và vững tin vào sự thắng lợi tất yếu của cách mạng Việt Nam: “Với một thế hệ TN hăng hái và kiên cường, chúng ta nhất định thành công trong sự nghiệp bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc” [56, tr.66-67]. Trực tiếp sáng lập, lãnh đạo, rèn luyện rồi chứng kiến sự trưởng thành và cống hiến của tổ chức TN đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc khiến Người vô cùng tự hào, sung sướng. Bởi vì Người nhận thấy thế hệ TN hôm nay xứng đáng là lực lượng kế tục xuất sắc sự nghiệp cách mạng của thế hệ đi trước. Với một thế hệ như thế thì tương lai của đất nước, tiền đồ của dân tộc nhất định sẽ “vô cùng vững chắc và vẻ vang”. Đây là kết luận quan trọng nhất được rút ra từ sự nhìn nhận khách quan, khoa học của Hồ Chí Minh đối với vai trò lịch sử mà các thế hệ TN đã đảm nhiệm. 1.2.1.2. Thanh niên là lực lượng to lớn, là đội quân xung kích trên mọi mặt trận của cách mạng Sau 10 năm bôn ba nước ngoài để tìm con đường, cách thức giải phóng đồng bào mình, người TN Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác–Lênin. Cái “cẩm nang thần kỳ” đó đã giúp Người tìm ra cách giải cho bài toán khó của cách mạng Việt Nam. Đó là các vấn đề cơ bản như: Cách mạng phải đi theo con đường nào? Lực lượng cách mạng là những ai? Giành độc lập bằng cách thức gì? Theo học thuyết Mác–Lênin, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người làm ra lịch sử. Quán triệt quan điểm trên, Hồ Chí Minh xác định đúng đắn lực lượng cách mạng Việt Nam. Đó là toàn thể quần chúng bị áp bức và những người tiến bộ. Người khẳng định cách mạng là việc chung của dân chúng chứ không phải việc của một hai người, trong đó công nông là gốc cách mạng, là đội quân chủ lực của cách mạng. Hồ Chí Minh cũng sớm nhận thấy vị trí của TN trong lực lượng cách mạng. Là lực lượng đông đảo trong xã hội “chiếm độ 1 phần 3 tổng số nhân dân” [52, tr.94], sức khỏe dồi dào, hăng hái, nhiệt tình, có lý tưởng, sẵn sàng hy sinh xả thân vì nghĩa lớn, TN trở thành lực lượng chủ yếu của cách mạng. Tiếp thu chủ nghĩa Mác–Lênin, chịu ảnh hưởng từ những hoạt động của tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng TN, TN, SV nước ta bắt đầu ý thức được trách nhiệm, bổn phận của mình đối với dân tộc và bắt đầu đứng lên đấu tranh. Tiêu biểu là các phong trào đấu tranh đòi ân xá cho cụ Phan Bội Châu, phong trào để tang cụ Phan Châu Trinh. Theo Hồ Chí Minh, đây là tín hiệu đáng mừng cho cách mạng Việt Nam, chứng tỏ TN đã thức tỉnh, hồi sinh. Người phấn khởi viết: “Đâu đâu học sinh cũng đều bãi khóa. Nữ sinh cũng tham gia phong trào” [46, tr.231]. Những tháng năm hoạt động ở hải ngoại, Hồ Chí Minh vẫn thường xuyên theo dõi tình hình cách mạng trong nước. Trong các báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản về tình hình Đông Dương, Người đều chú ý đến phong trào của TN. Đặc biệt, Hồ Chí Minh còn xem phong trào TN như ngòi nổ của các phong trào cách mạng Việt Nam. Năm 1941, Người trở về Tổ quốc trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng. Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VIII (5/1941) do Người chủ trì đã hoàn thành việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược. Hội nghị xác định giải phóng dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng. Để hoàn thành nhiệm vụ này cần phải tập hợp, động viên tất cả các tầng lớp nhân dân đứng lên đánh đuổi kẻ thù Pháp – Nhật. Theo sáng kiến của Hồ Chí Minh, Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất mang tên Việt Nam độc lập đồng minh. Thành viên của Mặt trận là các Hội cứu quốc, trong đó có TN cứu quốc. Đây là đoàn thể của tất thảy TN từ 18 đến 22 tuổi, muốn tranh đấu đánh Pháp đuổi Nhật. Chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền Người còn chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng. Ngày 22 tháng 12 năm 1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân thành lập. Phần lớn các đội viên là đoàn viên và đảng viên trẻ tuổi có tinh thần kiên quyết, hăng hái nhất được chọn lọc trong hàng ngũ những du kích Cao – Bắc – Lạng. Trái với quan niệm mỉa mai của một số người khi cho rằng: “Vài chục thằng TN học trò và dân cày, Thổ có, Nùng có, Trại có, Kinh có. Với vài khẩu súng quèn, mươi con dao mã tấu, mà cũng dám tự gọi là quân, cũng dám gánh trách nhiệm giải phóng cho dân tộc” [49, tr.329], Hồ Chí Minh lạc quan tiên đoán: “Tuy lúc đầu quy mô của nó còn nhỏ, nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang. Nó là khởi điểm của giải phóng quân, nó có thể đi suốt từ Nam chí Bắc, khắp đất nước Việt Nam” [47, tr.508]. Cơ sở của sự tiên đoán chính là niềm tin vững chắc của Hồ Chí Minh về khả năng to lớn và sức mạnh tiềm tàng của TN, về xu thế vận động phát triển của cách mạng. Không phụ lòng tin yêu của lãnh tụ, TN cả nước nhất tề đứng lên theo lời hiệu triệu của Đảng và là lực lượng tiên phong trong công cuộc cướp chính quyền từ tay phát xít Nhật, giành độc lập cho dân tộc, đem lại quyền làm chủ cho nhân dân. Được sự quan tâm giáo dục của Đảng, được Đoàn dìu dắt, thế hệ TN tháng Tám ngày một trưởng thành. Tiếp tục phát huy vai trò xung kích, TN là lực lượng chính yếu hăng hái tham gia thực hiện các nhiệm vụ cách mạng như: tăng gia sản xuất, xóa nạn mù chữ, thực hành đời sống mới, chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược. Đáp lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, TN mọi miền đất nước nêu cao tinh thần bất khuất, không ngại hy sinh quyết tâm kháng chiến để giữ vững nền độc lập của nước nhà. Trước những tấm gương hy sinh anh dũng của TN cả nước, Hồ Chí Minh vô cùng tự hào và viết thư biểu dương ca ngợi: Các em là đội cảm tử. Các em cảm tử để cho Tổ quốc quyết sinh. Các em là đại biểu cái tinh thần tự tin tự lập của dân tộc ta mấy nghìn năm để lại, cái tinh thần quật cường đó đã kinh qua Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, truyền lại cho các em. Nay các em gan góc tiếp tục cái tinh thần bất diệt đó, để truyền lại cho nòi giống Việt Nam muôn đời về sau [49, tr.35]. Những tấm gương tiêu biểu như: Võ Thị Sáu, Mạc Thị Bưởi, Trần Văn Ơn, Bùi Thị Cúc, Bế Văn Đàn, Phan Đình Giót, Nguyễn Thị Chiên, La Văn Cầu, Cù Chính Lan cùng hàng triệu TN dũng cảm khác đã cống hiến tuổi xuân, sức lực, cùng với toàn dân làm nên chiến thắng lịch sử Điên Biên Phủ, kết thúc thắng lợi 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ lâu dài gian khổ nhưng vô cùng anh dũng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Sau năm 1954, đất nước tạm thời chia cắt làm 2 miền. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng tiến lên xây dựng CNXH. Miền Nam trở thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ, tiếp tục tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Trước kẻ thù mới hùng mạnh và hiểm độc hơn, nhiệm vụ giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc để đưa cả nước tiến lên CNXH càng trở nên khó khăn, phức tạp và nặng nề hơn. Để hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng “chống Mỹ, cứu nước”, Hồ Chủ tịch kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước dũng cảm tiến lên, hăng hái thi đua sản xuất và chiến đấu. Người động viên TN thực hiện tốt hơn vai trò xung kích của mình “Các cháu TN gái cũng như trai hãy thực hiện tốt “ba sẵn sàng”, xung phong hiến dâng tất cả tinh thần và lực lượng của tuổi trẻ cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, cho Tổ quốc và CNXH” [55, tr.471]. Hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, tính đến cuối tháng 5/1965 đã có 2 triệu 50 vạn đoàn viên và TN ghi tên thực hiện: “sẵn sàng chiến đấu”, “sẵn sàng gia nhập các lực lượng vũ trang” và “sẵn sàng đi bất cứ nơi nào, làm bất cứ việc gì mà Tổ quốc cần đến”. Ở miền Bắc, TN hăng hái thi đua trên mọi mặt trận nông nghiệp, công nghiệp, quốc phòng, khoa học kỹ thuật, giáo dục, văn hóa, y tế … với tinh thần “việc gì khó có TN, ở đâu khó có TN” [53, tr.310]. TN công nhân phất cao ngọn cờ “Duyên Hải”, đi đầu trong phong trào cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động. TN nông dân ra sức thực hiện “phong trào Đại Phong”, xung phong trong công tác thủy lợi, làm phân bón, vỡ đất hoang, cải tiến nông cụ. TN các ngành đều thi đua sản xuất theo tinh thần “một người làm việc bằng hai” và thực hành tiết kiệm. Thi đua cùng với TN công nhân, TN nông dân, TN trong bộ đội, công an và dân quân tự vệ hăng hái thực hiện “phong trào Ba nhất”, tích cực giữ gìn trật tự trị an, bảo vệ Tổ quốc. TN trường học đi đầu trong công việc xóa nạn mù chữ, bổ túc văn hóa, xung phong đưa văn hóa lên giúp đồng bào miền núi, nỗ lực thi đua thực hiện phong trào “Hai tốt”. Phong trào “Ba sẵn sàng” đã thực sự trở thành một cao trào cách mạng của TN trong những năm tháng tiến hành sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước và xây dựng CNXH dưới sự lãnh đạo của Đảng. Từ phong trào “Ba sẵn sàng”, tháng 7/1965 xuất hiện lực lượng xung phong chống Mỹ, cứu nước. Trong 10 năm (1965–1975) có hơn 1 triệu 35 vạn đoàn viên TN xung phong tham gia chiến đấu hoặc phục vụ chiến đấu [62, tr.83]. Những cống hiến to lớn của họ đã góp phần làm nên đại thắng mùa xuân năm 1975. Hòa với khí thế của TN miền Bắc, ở miền Nam hàng triệu TN sôi nổi tham gia phong trào “Năm xung phong” do Đoàn TN nhân dân cách mạng Việt Nam phát động. Với tinh thần dũng cảm, mưu trí, các nữ TN đã đóng góp tích cực vào những cuộc đấu tranh của “đội quân tóc dài”. TN nông thôn vùng giải phóng xung phong vào bộ đội, đi dân công phục vụ chiến trường hoặc tham gia xây dựng các làng xã chiến đấu ở địa phương để bảo vệ quê hương. Ở các đô thị, vùng Mỹ–Ngụy kiểm soát, TN SV, học sinh luôn là lực lượng châm ngòi cho các phong trào đấu tranh chính trị. Các đêm biểu diễn văn nghệ “Hát cho đồng bào tôi nghe”, “Dậy mà đi”, những cuộc hội thảo đòi dân sinh, dân chủ luôn thu hút sự chú ý và tham gia đông đảo của tầng lớp SV, học sinh. SV, học sinh còn tích cực tham gia phong trào bãi khóa, xuống đường đấu tranh đòi hòa bình thống nhất đất nước, chống sự đàn áp của chính quyền địch. Thi đua trong chiến đấu, lao động sản xuất, học tập TN lập nên nhiều thành tích to lớn. Số lượng cá nhân và tập thể TN được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu anh hùng, chiến sĩ thi đua ngày càng nhiều. Trong số 111 anh hùng được tuyên dương ở đại hội anh hùng, chiến sĩ thi đua năm 1967, có 44 anh hùng là TN. Chiến công và sự trưởng thành của TN cả nước trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước xứng đáng với lời khen ngợi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Các cháu TN thân mến, các cháu là thế hệ anh hùng trong thời đại anh hùng. Bác mong các cháu đều xứng đáng là những anh hùng trong sự nghiệp cách mạng tiêu diệt chủ nghĩa đế quốc và xây dựng xã hội mới” [55, tr.505]. 1.2.1.3. Đoàn Thanh niên là cánh tay đắc lực, đội hậu bị của Đảng, đồng thời là người giáo dục dìu dắt thiếu niên, nhi đồng Theo Hồ Chí Minh, tiềm năng của TN là vô cùng to lớn. Để hiện thực hóa tiềm năng đó thì trước hết cần phải tập hợp TN trong một tổ chức cách mạng. Người cho rằng: “TN ta rất hăng hái. Ta biết họp lòng hăng hái đó lại và dìu dắt đúng đắn thì TN sẽ thành một lực lượng rất mạnh mẽ” [51, tr.162]. Tổ chức cách mạng của TN là Đoàn TN Cộng sản. Nhiệm vụ chủ yếu của tổ chức Đoàn là đoàn kết, tập hợp TN, giác ngộ TN đi theo Đảng làm cách mạng. Mối quan hệ giữa Đảng với tổ chức Đoàn cũng được Hồ Chí Minh bàn đến. Trong tác phẩm “Đường cách mệnh”, Người viết: “Đường chính trị, thì TN theo Đảng chỉ huy, nhưng việc làm thì TN độc lập” [46, tr.295]. Nghĩa là Đoàn TN do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đoàn TN phải lấy mục tiêu, lý tưởng của Đảng làm tôn chỉ hoạt động của tổ chức mình. Tuy nhiên, Đoàn TN hoàn toàn tự chủ trong việc đề ra kế hoạch, chương trình hành động. Theo Hồ Chí Minh, Đoàn TN Cộng sản vừa là tổ chức gần gũi Đảng, vừa là người phụ tá đắc lực cho Đảng. Trước hết, Đoàn là người trực tiếp giúp Đảng giáo dục chủ nghĩa cộng sản cho TN, vận động TN đi theo lý tưởng của Đảng. Đoàn còn lôi cuốn, tập hợp đông đảo TN xung phong thực hiện và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng giao phó. Được tổ chức Đoàn dìu dắt, giúp đỡ, TN không ngừng rèn luyện phấn đấu vươn lên xứng đáng là lực lượng kế thừa sự nghiệp cách mạng của Đảng. Đoàn viên TN luôn là lực lượng tích cực, tiên phong gương mẫu trong việc thực hiện những chủ trương và chính sách của cách mạng. Thông qua hoạt động, tổ chức Đoàn phát hiện và giới thiệu những đoàn viên ưu tú cho Đảng. Làm cơ sở cho Đảng xem xét kết nạp đảng viên mới. Như vậy, Đoàn TN là nguồn lực bổ sung cho đội ngũ của Đảng những người trẻ, khỏe. Điều đó làm cho Đảng ngày càng đông và càng mạnh. Đề cập đến trách nhiệm của Đảng đối với tổ chức Đoàn, Hồ Chí Minh yêu cầu là tổ chức lãnh đạo thì Đảng “Phải giúp đỡ Đoàn TN lao động phát triển tốt, đồng thời cần phải chọn những đồng chí đoàn viên đã kinh qua thử thách và đủ điều kiện đưa họ vào Đảng” [54, tr.34]. Phải chú ý phát triển Đảng vào TN. Không nên hẹp hòi. Tuy nhiên việc phát triển Đảng phải làm cẩn thận, không được cẩu thả. Với ý nghĩa trên, Hồ Chí Minh cho rằng: “Đoàn TN là cánh tay và đội hậu bị của Đảng” [56, tr.65]. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Đoàn TN còn có vai trò là người giáo dục dìu dắt thiếu niên, nhi đồng. Cách mạng là một sự nghiệp đầy gian khổ và lâu dài mà cuộc đời của con người là có hạn. Mỗi thế hệ chỉ có thể làm được một phần nhất định trong toàn bộ sự nghiệp vĩ đại đó. Vì vậy, cách mạng là sự nghiệp của nhiều thế hệ nối tiếp nhau. Việc chuẩn bị thế hệ cách mạng kế tục là một quy luật đảm bảo cho cách mạng giành thắng lợi trong mọi thời kỳ, thúc đẩy xã hội phát triển không ngừng. Chăm lo, giáo dục, dìu dắt các em thiếu niên, nhi đồng là chiến lược đào tạo đội ngũ kế cận để chuẩn bị cho tương lai. Đó là trách nhiệm trực tiếp của các đoàn viên TN. Việc chăm lo dạy dỗ thiếu niên, nhi đồng còn là trách nhiệm của toàn xã hội. Song ở đây, Hồ Chí Minh nhận thấy TN là những người vừa trải qua lứa tuổi thiếu niên, nên hiểu rõ tâm lý, thị hiếu và dễ gần gũi với các em hơn. Từ sự nhìn nhận đó, Người cho rằng TN có vai trò rất lớn trong việc tổ chức, hướng dẫn, dìu dắt thiếu niên, nhi đồng tham gia vào các tổ chức đội, giúp các em học tập, vui chơi lành mạnh, tránh những tác động xấu ngoài xã hội. “Đoàn TN Lao động phải là cánh tay đắc lực của Đảng trong việc tổ chức và giáo dục thế hệ TN và nhi đồng thành những chiến sĩ tuyệt đối trung thành với sự nghiệp xây dựng CNXH và chủ nghĩa cộng sản” [54, tr.21]. Tóm lại, TN trong tư tưởng Hồ Chí Minh có một vị trí, vai trò vô cùng to lớn trong tiến trình lịch sử dân tộc và lịch sử cách mạng. TN là bộ phận quan trọng của dân tộc, là lực lượng nòng cốt trong cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Vận mệnh của dân tộc, tương lai của đất nước tùy thuộc vào phẩm chất và bản lĩnh của TN. TN là lực lượng to lớn, là đội quân xung kích trên mọi mặt trận, là cánh tay đắc lực và đội hậu bị của Đảng. TN còn là lực lượng kế thừa và tiếp bước các thế hệ cha anh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 1.2.2. Tầm quan trọng của công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên Vấn đề cơ bản và nổi bật nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục TN là quan điểm giáo dục toàn diện, mà nội dung bao gồm: giáo dục chính trị, đạo đức, lối sống, văn hóa, khoa học kỹ thuật, quân sự, lao động–nghề nghiệp, sức khỏe–thể chất, nhân cách, thẩm mỹ, pháp luật … Tuy nhiên, xuất phát từ một chân lý đơn giản nhưng cực kỳ sâu sắc: Muốn làm cách mạng thì phải có đạo đức cách mạng mà Hồ Chí Minh luôn đặt vấn đề giáo dục đạo đức, lối sống lên hàng đầu. Ngay từ năm 1925, bài đầu tiên mà Người giảng cho các hội viên của Hội Việt Nam Cách mạng TN là bài giảng về đạo đức - “Tư cách người cách mạng”. Trong đó, Người tóm tắt 23 điều ngắn gọn, chia làm 3 phần: đối với mình, với người và với việc. Với cương vị là người đứng đầu Đảng và Chính phủ, nhiều công việc đòi hỏi Người phải trực tiếp tham gia giải quyết. Thế nhưng, Người vẫn dành thời gian viết nhiều chuyên luận về đạo đức nhằm phục vụ cho công tác tuyên truyền, giáo dục. Đáng kể nhất là những tác phẩm như: Con đường giải phóng (1940), Sửa đổi lối làm việc (1947), Cần Kiệm Liêm Chính (1949), Đạo đức công dân (1955), Đạo đức cách mạng (1958), Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân (1969). Cuối cùng, trong Di chúc để lại cho chúng ta trước khi trở về cõi vĩnh hằng, Hồ Chí Minh đã căn dặn lại Đảng ta là giữ gìn đạo đức cách mạng và chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho đoàn viên và TN nói chung. Như vậy, từ bài giảng đầu tiên cho đến lời dạy cuối cùng, trong gần suốt nửa thế kỷ, Hồ Chí Minh đã thường xuyên dành cho việc giáo dục, rèn luyện đạo đức, lối sống vị trí ưu tiên hàng đầu trong toàn bộ sự nghiệp của Người. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục đạo đức, lối sống cho nhân dân nói chung và cho TN nói riêng có một tầm quan trọng đặc biệt. 1.2.2.1. Giáo dục đạo đức, lối sống hướng tới mục tiêu hoàn thiện nhân cách giúp thanh niên trở thành những công dân hữu ích của xã hội Với Hồ Chí Minh, nhân cách là một thể thống nhất của đức và tài. Một nhân cách được xem là hoàn thiện khi có đủ đức lẫn tài, “hồng” và “chuyên”, trong đó đạo đức là gốc. Gốc là nơi sinh ra, tạo ra những cái khác đồng thời còn là bộ phận vững chắc nhất, dựa trên đó các bộ phận khác tồn tại và phát triển. Ở đây, ý nghĩa “đức là gốc” được hiểu theo 2 khía cạnh như sau: + Thứ nhất, đạo đức là bộ phận cốt yếu nhất của nhân cách. Sự khác nhau giữa nhân cách này với nhân cách khác, trước hết là sự khác nhau ở mặt đức của nó, ở hệ thống các phẩm chất xã hội của con người. Chính vì thế đạo đức là tiêu chí hàng đầu khi xem xét, đánh giá nhân cách của một người; là thước đo bản chất “người” của một con người. Hồ Chí Minh quan niệm: “Tuy năng lực và công việc của mỗi người khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ, nhưng ai giữ được đạo đức đều là người cao thượng” [51, tr.568]. + Thứ hai, đạo đức là cơ sở cho việc định hướng và phát triển năng lực của mỗi cá nhân để hoàn thiện nhân cách. Theo Hồ Chí Minh, người thực sự có đức thì bao giờ cũng cố gắng học tập, nâng cao trình độ, năng lực để làm những việc ích quốc lợi dân. Hơn nữa, người có đạo đức thì không bao giờ đố kỵ mà luôn yêu quý và tiến cử hiền tài. Họ luôn luôn ủng hộ và sẵn sàng nhường bước cho những ai có tài hơn mình vượt lên trước. Là thành tố cơ bản của nhân cách, đạo đức được biểu hiện trong lối sống, trong quan hệ ứng xử. Nói cách khác, lối sống là thể hiện cụ thể quan niệm đạo đức trong những hình thức hoạt động của con người trong xã hội; là sự thể hiện chủ nghĩa nhân đạo và tinh thần nhân văn trong quan hệ giữa người với người nhằm xây dựng một xã hội tốt đẹp, văn minh, tiến bộ. Do đó, lối sống có quan hệ với nhân cách và là mặt thể hiện của nhân cách ra bên ngoài. Thống nhất với các nhà kinh điển, Hồ Chí Minh quan niệm: nhân cách, bản tính con người không phải là bẩm sinh, tự nhiên vốn có mà được hình thành, phát triển trong mối quan hệ nhiều chiều giữa cá nhân với gia đình và xã hội. Như vậy, nhân cách là sự phát triển về mặt xã hội của con người. Trong quá trình tham gia hoạt động xã hội, mỗi cá thể người luôn chịu sự tác động có định hướng của xã hội. Qua đó mỗi cá thể hấp thụ và phát triển những năng lực người đặc trưng, trưởng thành như một nhân cách xã hội. Mặt khác, mỗi khi nhân cách được hình thành, bản thân nó mang tính tích cực, trở thành chủ thể của các quan hệ xã hội. Với tư cách là chủ thể của các quan hệ xã hội, con người bằng hoạt động của mình tác động trở lại xã hội. Trong các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách, Hồ Chí Minh xem giáo dục là yếu tố giữ vai trò chủ đạo. Người viết: “Hiền dữ phải đâu là tính sẵn, Phần nhiều do giáo dục mà nên” [47, tr.383]. Vai trò chủ đạo của giáo dục, đặc biệt là giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách thể hiện ở chỗ: + Giáo dục đạo đức góp phần to lớn trong việc chuyển các quan niệm đạo đức từ tự phát sang tự giác, từ bị động sang chủ động, không ngừng nâng cao trình độ nhận thức các giá trị đạo đức cho mỗi người. Qua giáo dục đạo đức, nội dung các phạm trù, các quy tắc, các chuẩn mực đạo đức được nhận thức một cách đầy đủ, đúng đắn hơn, góp phần điều chỉnh hành vi con người phù hợp với những chuẩn mực đạo đức xã hội. + Giáo dục đạo đức góp phần tích cực trong việc truyền lại cho thế hệ đang trưởng thành những giá trị đạo đức mà các thế hệ trước tạo ra. Trên cơ sở đó giúp họ nhận ra chân giá trị của các giá trị đạo đức, nhận thấy giá trị và ý nghĩa cuộc sống mang tính nhân bản, nhân ái, nhân văn sâu sắc. Giáo dục đạo đức có vai trò to lớn trong việc nhân đạo hóa con người và đời sống xã hội của con người, trong việc hình thành, củng cố những giá trị nhân cách tốt đẹp. + Giáo dục đạo đức còn góp phần tạo ra những giá trị đạo đức mới, xây dựng những quan điểm, phẩm chất đạo đức mới, quan niệm sống tích cực cho mỗi đối tượng giáo dục. Đồng thời, giáo dục đạo đức cũng góp phần tích cực vào việc khắc phục những quan điểm đạo đức lạc hậu, sự lệch chuẩn các giá trị nhân cách, chống lại các hiện tượng phi đạo đức đang đầu độc bầu không khí xã hội, tạo ra cơ chế phòng ngừa các phản giá trị đạo đức, phản giá trị văn hóa trong mỗi một nhân cách. + Giáo dục đạo đức góp phần hình thành thái độ, niềm tin, tình cảm đạo đức cho mọi người. Là kết quả của giáo dục và rèn luyện, tình cảm đạo đức có tác dụng hướng dẫn hành vi con người làm sao để đạt giá trị đạo đức cao nhất. Đây chính là sức mạnh tinh thần giúp cho con người vươn tới chân, thiện, mỹ. Theo Hồ Chí Minh, giáo dục là để hình thành và phát triển nhân cách cho con người. Do đó, giáo dục phải bao gồm cả dạy người lẫn dạy chữ, trong đó dạy người là mục tiêu cao nhất. Giáo dục hình thành nhân cách cho con người có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sự nghiệp cách mạng. Con người với nhân cách hoàn thiện vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp cách mạng. Sự nghiệp cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, suy cho cùng là nhằm mục tiêu giải phóng con người, hướng con người tới chân–thiện–mỹ, làm cho con người ngày càng hoàn thiện hơn. Mặt khác, con người có đạo đức, trí tuệ là động lực quan trọng đưa cách mạng đến thắng lợi. Từ nhận thức đó Hồ Chí Minh cho rằng: “Muốn xây dựng CNXH phải có những con người xã hội chủ nghĩa, tức là phải có những người có đạo đức xã hội chủ nghĩa... Đạo đức xã hội chủ nghĩa là cần kiệm xây dựng nước nhà” [54, tr.679]. Đánh giá cao vai trò TN, đồng thời Hồ Chí Minh còn nhìn nhận TN như là một chủ thể đang trong quá trình phát triển hoàn thiện nhân cách. Do đó, rất cần có sự định hướng của giáo dục. Bên cạnh những ưu điểm, TN cũng có lắm khuyết điểm. Khuyết điểm của TN là ham chuộng hình thức, thiếu thực tế, bệnh cá nhân, bệnh anh hùng. Những khiếm khuyết trong nhân cách của TN nếu không sớm được khắc phục thì TN rất dễ đánh mất vai trò là người chủ tương lai của nước nhà. Để khắc phục, một mặt Hồ Chí Minh yêu cầu TN phải ra sức tu dưỡng, rèn luyện trên mọi phương diện: trau dồi đạo đức cách mạng, nâng cao trình độ văn hóa, nghiệp vụ chuyên môn, rèn luyện ý chí và lòng dũng cảm … Mặt khác, Người đòi hỏi gia đình, nhà trường và toàn xã hội cần thấy rõ trách nhiệm của mình, phải thật sự quan tâm đến việc công tác giáo dục, đặc biệt là giáo dục đạo đức, lối sống cho TN để họ trở thành những công dân hữu ích của xã hội. 1.2.2.2. Giáo dục đạo đức, lối sống là biện pháp tốt nhất giúp thanh niên tránh được những tác động tiêu cực của tàn dư đạo đức, lối sống cũ, nhận thức rõ trách nhiệm của mình đối với dân tộc TN là bộ phận quan trọng của dân tộc, là rường cột, là tương lai của nước nhà. Vì thế, trong lịch sử TN luôn là đối tượng tác động chủ yếu của các thế lực phản cách mạng. Chúng tìm mọi cách từ lừa phỉnh đến mua chuộc, dụ dỗ nhằm lôi kéo TN đi vào con đường phản động. Hay ít nhất cũng làm cho TN quay lưng lại với dân tộc, quên câu “đất nước hưng vong thất phu hữu trách”. Chủ nghĩa thực dân–một quái thai của chế độ tư bản, là bậc thầy trong việc “ru ngủ” TN thuộc địa. Chiêu thức, thủ đoạn của chúng vừa đa dạng vừa tinh vi, hiểm độc. Thời Pháp thuộc, TN Việt Nam bị chính quyền thực dân đầu độc bằng rượu cồn và thuốc phiện. Chúng ngăn cản TN tiếp xúc với các trào lưu tư tưởng tiến bộ trên thế giới bằng chính sách ngu dân và cấm tự do ngôn luận. Trong 1.000 làng thì có đến 1.500 cửa hàng rượu và thuốc phiện, nhưng cũng trong 1.000 làng đó, thì chỉ có vẻn vẹn 10 trường học [46, tr.38]. Trường học thực dân không nhằm mục đích nâng cao dân trí, thực hiện sứ mệnh “khai hóa” như đã tuyên truyền mà để đào tạo đội ngũ tay sai. Đó là một nền giáo dục đồi bại còn nguy hiểm hơn cả sự dốt nát. Nó không dạy người học tình yêu đối với quê hương đất nước, sự kính trọng và lòng biết ơn đối với các vị anh hùng của dân tộc. Trái lại, điều duy nhất mà TN thuộc địa có thể nhận được từ nền giáo dục thực dân là sự phục tùng, là lòng trung thành tuyệt đối với nước mẹ ở chính quốc. Nền giáo dục đó làm cho TN từng bước quên đi cội nguồn dân tộc, đánh mất bản thân mình. Ngoài ra, chúng còn du nhập và ra sức cổ súy cho lối sống phương Tây trong TN. Đó là lối sống cá nhân ích kỷ chỉ biết đến lợi ích của bản thân mình. Yêu thích và say mê với cái mới nhưng chưa đủ hiểu biết để phân biệt đâu là cái tiến bộ và phản tiến bộ nên một bộ phận TN đã lầm đường lạc lối. Thờ ơ trước vận mệnh của dân tộc, chỉ biết thụ hưởng cho riêng bản thân hay co mình lại trong cái tôi nhỏ bé với những “giấc mơ con đè nát cuộc đời con” là bức tranh toàn cảnh của TN Việt Nam lúc bấy giờ. Thực trạng đó làm cho Nguyễn Ái Quốc–Hồ Chí Minh vô cùng lo lắng cho tiền đồ của dân tộc. Năm 1925 trong thư gửi TN Việt Nam, Người viết: Thế thì TN của ta đang làm gì? Nói ra thì buồn, buồn lắm: họ không làm gì cả. Những TN không có phương tiện thì không dám rời quê nhà; những người có phương tiện thì lại chìm ngập trong sự biếng nhác; còn những kẻ đã xuất dương thì chỉ nghĩ đến việc thỏa mãn tính tò mò của tuổi trẻ mà thôi! Hỡi Đông Dương đáng thương hại! Người sẽ chết mất, nếu đám TN sớm già cỗi của Người không sớm hồi sinh [46, tr.133]. Sau năm 1954, Đế quốc Mỹ thay chân Pháp thống trị ở miền Nam. Để che giấu bộ mặt xâm lược, chúng thực hiện chủ nghĩa thực dân mới. Tuy có nhiều điều chỉnh trong chính sách cai trị nhưng chính sách đầu độc làm băng hoại TN là không thay đổi. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Trong xã hội cũ, có nhiều nọc độc nó làm hại TN. Nhất là văn hóa độc ác của Mỹ, nó dùng mọi cách như sách báo, phim ảnh … để làm cho TN hư hỏng, trụy lạc. Thậm chí một số TN hóa ra lưu manh, trộm cắp, cờ bạc …” [51, tr.455]. Thiếu kinh nghiệm do chưa từng trải nên không ít TN miền Nam quên đi trách nhiệm, bổn phận của mình đối với tiền đồ của dân tộc, tự đánh mất vai trò “người chủ tương lai” của đất nước. Mặt khác, các quan hệ đạo đức, tư tưởng phản động vốn là tàn dư của xã hội cũ luôn tồn tại dai dẳng. Một bộ phận TN miền Bắc tuy sinh trưởng dưới chế độ xã hội chủ nghĩa nhưng vẫn không tránh khỏi những tác động, ảnh hưởng tiêu cực của nó. Họ trốn tránh những nhiệm vụ khó khăn, chỉ biết chăm lo cho lợi ích của riêng mình mà không quan tâm đến lợi của tập thể, của xã hội. Tìm hiểu nguyên nhân của thực trạng trên, Hồ Chí Minh nhận thấy là do: “Ảnh hưởng của xã hội cũ, của chế độ thực dân, phong kiến còn lại. Bọn đế quốc, phong kiến tuyên truyền lừa bịp, xúi giục phỉnh phờ làm cho một số người lạc hậu trốn tránh nghĩa vụ, làm trái phép luật, trái đạo đức công dân” [51, tr.452-453]. Vì thế mà Người xác định thói quen, truyền thống lạc hậu, chủ nghĩa cá nhân cũng là những kẻ địch to và nguy hiểm không kém so với chủ nghĩa tư bản và bọn đế quốc. Bởi vì nó làm cho mọi người thoái bộ, nó ngăn trở TN một lòng một dạ đấu tranh cho sự nghiệp cách mạng. Từ nhận thức đó mà Người cho rằng thắng lợi của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, thắng lợi của công cuộc xây dựng CNXH không thể tách rời với cuộc đấu tranh nhằm loại bỏ “những cái xấu xa do chế độ cũ để lại trong xã hội và trong mỗi con người” [56, tr.558]. Quyết tâm giành lại TN từ tay bọn thực dân đế quốc, Hồ Chí Minh ra sức thức tỉnh TN. Thông qua giáo dục đạo đức cách mạng và định hướng lối sống, Người giúp TN nhận rõ tương lai của họ gắn chặt tương lai của dân tộc “Dân tộc bị nô lệ thì TN cũng bị nô lệ. Dân tộc được giải phóng, TN mới được tự do” [51, tr.398], và TN “Muốn tiền đồ mình vẻ vang, nhất định vẻ vang, thì phải làm cho tiền đồ của Tổ quốc, của dân tộc vẻ vang, phải gắn tiền đồ của mình với tiền đồ dân tộc, tiền đồ giai cấp, không thể tách riêng được” [52, tr.381]. Người còn dạy TN sống là phải có lý tưởng cao đẹp và phải phấn đấu đến cùng cho lý tưởng đó. Lý tưởng của TN và cũng chính là lý tưởng mà suốt cuộc đời Người theo đuổi là “Làm cách mạng phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập, làm cho CNXH và chủ nghĩa cộng sản thắng lợi hoàn toàn trên Tổ quốc ta và trên thế giới” [56, tr.93]. Tóm lại, giáo dục đạo đức, lối sống cho TN chính là để giúp họ trở thành những công dân tốt, người lao động tốt, người chiến sĩ tốt, người chủ xứng đáng của nước nhà và là người cách mạng chân chính. Đây là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng; là công việc gốc của Đảng và Chính phủ, của Đoàn TN, của gia đình, nhà trường và toàn xã hội. 1.2.2.3. Hình thành đạo đức cách mạng, lối sống văn minh tiến bộ cho thanh niên thông qua công tác giáo dục còn nhằm mục tiêu giúp thanh niên hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang của mình Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống coi trọng đạo đức. Truyền thống đó được hình thành, củng cố và không ngừng phát triển trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước. Để lấy yếu thắng mạnh, lấy ít địch nhiều trong cuộc đấu tranh chống lại thiên nhiên và kẻ thù xâm lược, cha ông ta đã biết phát huy yếu tố tinh thần, trước hết là phẩm chất đạo đức của con người Việt Nam. Nếu không có sức mạnh đạo đức thì không thể lao động cần cù, tiêu dùng tiết kiệm, không thể gắn bó với cộng đồng, nhường cơm sẻ áo cho nhau khi gặp thiên tai, địch họa. Tổng kết lịch sử dân tộc, Nguyễn Trãi cho rằng những thắng lợi mà dân tộc ta đạt được trong quá trình đấu tranh để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc chính là thắng lợi của sức mạnh đạo đức. Trong tác phẩm “Bình Ngô Đại Cáo”, Ông khẳng định: “Lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”. Nhận thức rõ tầm quan trọng hàng đầu của đạo đức, cha ông ta đã ra sức xây dựng truyền thống đạo đức của dân tộc. Mà biện pháp chủ yếu là tăng cường giáo dục đạo đức cho các thế hệ con cháu để họ nâng cao ý thức về bổn phận, trách nhiệm đối với gia đình, quê hương, đất nước. Truyền thống đạo đức dân tộc đã thôi thúc người TN Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước nhằm giải phóng đồng bào mình. Lòng yêu nước, tình thương dân sâu sắc đã giúp anh Thành vượt qua bao gian khó, hiểm nguy trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng. Năm 1920, Người đến với chủ nghĩa Mác -Lênin và nhận ra đây là con đường duy nhất đúng đắn để giải phóng cho dân tộc mình. Thật hiển nhiên, Hồ Chí Minh đến với học thuyết Mác–Lênin bằng con thuyền đạo đức của dân tộc. Và đây cũng là lý do giải thích vì sao Người lại tiếp cận học thuyết cách mạng và khoa học đó từ giác độ đạo đức. Trả lời phỏng vấn của Sáclơ Phuốcniô, phóng viên báo L!Humannite, Hồ Chí Minh khẳng định: “Lúc đầu, chính là do chủ nghĩa yêu nước mà tôi tin theo Lênin” [56, tr.474]. Nguyễn Ái Quốc tin theo Lênin “Không phải chỉ thiên tài của Người, mà chính là tính coi khinh sự xa hoa, tinh thần yêu lao động, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị” [45, tr.295]. Trước tấm gương đạo đức vĩ đại và cao đẹp của Lênin, một chiến sĩ cộng sản chiến đấu quên mình vì sự tiến bộ của nhân loại, trái tim và khối óc của Người đã bị thuyết phục hoàn toàn. Đối với Nguyễn Ái Quốc, chủ nghĩa Mác–Lênin không chỉ là một học thuyết cách mạng mà còn là một học thuyết đạo đức mang tính nhân đạo sâu sắc và triệt để nhất. Học thuyết đó đã chỉ ra cho những người lao động và các dân tộc bị áp bức, bóc lột trên toàn thế giới con đường đi đến tự do, ấm no, hạnh phúc, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người. Đến với chủ nghĩa Mác–Lênin, Hồ Chí Minh được trang bị thế giới quan và phương pháp luận khoa học. Đó là cơ sở giúp Người nhận rõ hơn vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội. Theo Hồ Chí Minh, là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức không phụ thuộc một chiều vào tồn tại xã hội, vào những điều kiện vật chất kinh tế. Nó có khả năng tác động tích cực trở lại, cải biến tồn tại xã hội. Giá trị đạo đức tinh thần khi được con người tiếp nhận sẽ biến thành sức mạnh vật chất to lớn. Đứng vững trên lập trường duy vật biện chứng, Hồ Chí Minh đã bác bỏ cách hiểu phiến diện chỉ nhấn mạnh yếu tố vật chất mà coi nhẹ yếu tố tinh thần. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng Lao động Việt Nam, Người đã phê phán thái độ lưng chừng và bi quan của những người cho rằng: cuộc kháng chiến của ta là “châu chấu đấu voi”. Người viết: Chỉ nhìn về vật chất, chỉ nhìn ở hiện trạng, chỉ lấy con mắt hẹp hòi mà xem, thì như thế thật. Vì để chống máy bay và đại bác của địch, lúc đó ta phải dùng gậy tầm vông. Nhưng Đảng ta theo chủ nghĩa Mác–Lênin, chúng ta không những nhìn vào hiện tại, mà lại nhìn vào tương lai, chúng ta tin chắc vào tinh thần và lực lượng của quần chúng, của dân tộc. Cho nên, chúng ta quả quyết trả lời những người lưng chừng và bi quan kia rằng: nay tuy châu chấu đấu voi, nhưng mai voi sẽ bị lòi ruột ra [50, tr.163-164]. Coi trọng yếu tố tinh thần, biết phát huy và chuyển hóa sức mạnh tinh thần thành sức mạnh vật chất, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã chứng minh cho kẻ thù thấy rằng con người có thể chiến thắng được vũ khí, “tinh thần mà chiến thắng vật chất”, “văn minh thắng bạo tàn”. Theo Hồ Chí Minh, cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt. Đây là một sự nghiệp rất vẻ vang nhưng cũng rất lâu dài, đầy khó khăn, thử thách. Muốn hoàn thành sự nghiệp ấy, thì bản thân người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng. Bởi vì người có đạo đức sẽ thu phục được lòng người, sẽ tập hợp quanh mình một lực lượng to lớn, sẽ làm cho sức mạnh của mình tăng lên gấp bội. Người dạy cán bộ: “Muốn cho dân phục phải được dân tin, muốn cho dân tin phải thanh khiết” [49, tr.55]. Ở lúc khác, Người lại cho rằng: “Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì?” [49, tr.252- 253]. Trong tiến trình cách mạng, sức mạnh đạo đức còn được Hồ Chí Minh khai thác để cảm hóa những người lầm đường, lạc lối, kéo họ về phía cách mạng. Người nói: “Đối với đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tinh thần nhân ái mà cảm hóa họ” [48, tr.246]. Với Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng không phải từ trên trời sa xuống. Nó là kết quả của quá trình giáo dục và rèn luyện. Vì thế muốn phát huy vai trò to lớn của TN trong tiến trình cách mạng thì trước hết cần phải giáo dục đạo đức, lối sống cho họ. Chỉ dựa trên nền tảng đạo đức cách mạng, TN mới đủ sức vượt qua những thăng trầm, khó khăn của hoàn cảnh để kiên trì phấn đấu đến cùng cho lý tưởng cách mạng, hoàn thành nhiệm vụ mà cách mạng và Đảng giao phó. Người nói: Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước. Vì lợi ích chung của Đảng, của cách mạng, của giai cấp, của dân tộc và của loài người mà không ngần ngại hy sinh tất cả lợi ích riêng của cá nhân mình. Khi cần thì sẵn sàng hy sinh cả tính mạng của mình cũng không tiếc [53, tr.284]. Nhận rõ tầm quan trọng của công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho TN, trước lúc đi xa Người vẫn không quên căn dặn Đảng ta cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho TN nhằm đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng CNXH vừa “hồng” vừa “chuyên”. 1.3. VỀ NỘI DUNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG CHO THANH NIÊN 1.3.1. Giáo dục đạo đức 1.3.1.1. Giáo dục các phẩm chất đạo đức cách mạng Khi nói tới giáo dục đạo đức cách mạng, vấn đề quan trọng hàng đầu được Hồ Chí Minh quan tâm là làm cho TN nhận thức được rằng đạo đức cách mạng là “Nhận rõ phải, trái. Giữ vững lập trường. Tận trung với nước. Tận hiếu với dân” [51, tr.480]. Trung, hiếu là những khái niệm cũ có trong tư tưởng đạo đức truyền thống Việt Nam và phương Đông đã được Hồ Chí Minh sử dụng và đưa vào nội dung mới để giáo dục TN. Theo quan điểm Hồ Chí Minh, nước là nước của dân và dân là chủ nhân của nước. Vì vậy, trung với nước trước hết là trung thành với nhân dân, với lợi ích của nhân dân. Tận trung với dân, TN phải ra sức đấu tranh bảo vệ quyền lợi của nhân dân, phải ham làm những việc ích quốc lợi dân. Người dạy TN “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh” [48, tr.56-57]. Mặt khác, TN phải hiểu thật sâu sắc rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam là một đội ngũ tiên tiến nhất và tổ chức chặt chẽ nhất của giai cấp công nhân, là người lãnh đạo của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. “Những chính sách và nghị quyết của Đảng đều vì lợi ích của nhân dân” [53, tr.288]. Do đó, trung với dân cũng có nghĩa là trung với Đảng, với sự nghiệp cách mạng của Đảng. Như vậy, trung với nước thì TN phải luôn đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, của cách mạng lên trên hết, trước hết; là quyết tâm suốt đời phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng của Đảng, của cách mạng, sẵn sàng hy sinh cả tính mạng mình cho độc lập dân tộc và CNXH; là phấn đấu thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Hiếu với dân, TN phải biết yêu mến nhân dân, quý trọng nhân dân, học tập, làm việc, chiến đấu vì nhân dân. Phải chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, tích cực giúp đỡ nhân dân vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống, để phát triển sản xuất, cải thiện đời sống. Phải đấu tranh chống lại mọi biểu hiện sách nhiễu, gây phiền hà cho nhân dân. Có như vậy TN mới được dân tin, dân mến, dân yêu. Đây là cơ sở để TN đoàn kết với dân nhằm tạo ra sức mạnh to lớn cho cách mạng. Tóm lại trung với nước, hiếu với dân thì TN phải có trách nhiệm đối với sự nghiệp dựng nước và giữ nước, là suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì CNXH, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Giáo dục đạo đức cách mạng cho TN, Hồ Chí Minh còn chú trọng đến việc giáo dục những phẩm chất cao quý như: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Từng khái niệm được Người giải thích rất cụ thể dễ hiểu. + Cần tức là trong mọi công việc phải siêng năng, chăm chỉ, cố gắng, dẻo dai, không lười biếng. Với TN, cần là siêng học, siêng làm; việc nên làm, đáng làm như ủng hộ kháng chiến, tăng gia sản xuất, thì có khó mấy cũng quyết tâm làm cho kỳ được; hăng hái thi đua trong lao động sản xuất; ra sức học tập nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, khoa học kỹ thuật và quân sự để cống hiến ngày càng nhiều cho Tổ quốc, cho nhân dân. Cần cù, siêng năng nhưng phải có hiệu quả, năng suất. Vì thế Người dạy TN phải học tập tốt, lao động tốt. Rèn luyện đức “cần”, TN phải chống tâm lý ham sung sướng và tránh khó nhọc. Chống lười biếng. Chống thói xem khinh lao động, nhất là lao động chân tay. Vì đó là những thói xấu kìm hãm chí tiến thủ của TN. + Kiệm là tiết kiệm vật tư, tiền bạc, của cải, thời gian, không xa xỉ, không hoang phí. Tiết kiệm không phải là bủn xỉn mà là chi tiêu cho hợp lý. Việc không nên tiêu xài thì một đồng xu cũng không nên tiêu. Mặt khác, việc đáng làm, việc ích quốc lợi dân, thì dù tốn bao nhiêu công, bao nhiêu của, cũng vui lòng. Như thế mới đúng là kiệm. Trong giáo dục, Hồ Chí Minh luôn cụ thể hóa đức kiệm cho phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ, trách nhiệm của từng lớp TN để họ dễ hiểu, dễ nhớ, dễ vận dụng. TN trong lực lượng vũ trang phải biết tiết kiệm thuốc đạn, lương thực và vải vóc, giữ gìn của công, chiến lợi phẩm. Kiệm đối với TN các ngành sản xuất là tiết kiệm nguyên, vật liệu; tự nguyện, tự giác giữ kỷ luật lao động, không đi muộn về sớm; biết phát huy sáng kiến kinh nghiệm, cải tiến kỹ thuật để tăng năng suất lao động. TN trường học phải biết tiết kiệm giấy, mực; không lãng phí thời gian cho những hoạt động vô ích; phải tích cực học tập và học cho thật tốt… + Liêm là luôn luôn tôn trọng, giữ gìn của công; là trong sạch, không tham lam tiền của, không thích người khác tâng bốc mình, không ham địa vị, danh tiếng, chỉ được phép ham làm, ham học, ham tiến bộ. + Chính là không tà, là thẳng thắn, đứng đắn. Việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh. Chính còn là yêu, ghét phân minh; phải kiên quyết đấu chống lại cái ác, cái xấu; phải yêu quý, kính trọng, giúp đỡ mọi người. Trong mọi công việc phải biết cân nhắc việc gì dù lợi cho mình nhưng có hại cho nước thì quyết không làm. Tuy mỗi đức tính đều có nội dung riêng nhưng lại liên quan mật thiết với nhau tạo nên bản chất “người” của một con người. Theo Hồ Chí Minh, một người được xem là có đạo đức thì trước hết phải hội đủ cần, kiệm, liêm, chính, không thể thiếu đức nào. + Chí công vô tư là không nghĩ đến mình trước, gian khổ đi trước hưởng thụ nhận sau; là lòng mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào; luôn đặt lợi ích của cách mạng, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Thực hành chí công vô tư cũng có nghĩa là phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng. Bởi vì, chủ nghĩa cá nhân là trái với đạo đức cách mạng. Cần, kiệm, liêm, chính và chí công vô tư có quan hệ mật thiết với nhau. Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn tới chí công vô tư và ngược lại đã chí công vô tư một lòng, một dạ vì nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là biểu hiện sinh động của phẩm chất trung với nước, hiếu với dân. Giáo dục đạo đức cách mạng cho TN còn là giáo dục tình thương yêu con người. Theo Hồ Chí Minh, người cách mạng là người giàu tình cảm. Vì yêu thương nhân dân, yêu thương con người nên mới đi làm cách mạng, chấp nhận mọi gian khổ hy sinh để đem lại cơm no áo ấm, độc lập tự do cho con người. Con người mà Hồ Chí Minh nói đến là những con người cụ thể ở xung quanh ta. Đó là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn, đồng chí, đồng bào cả nước và toàn thể nhân loại. Người dạy TN yêu thương con người trước hết là tôn trọng nhân phẩm của con người; là tìm mọi cách nâng cao con người lên, phải giáo dục, cải tạo con người nhằm làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu mất dần đi. Yêu thương con người không đồng nghĩa với việc bao che lỗi lầm cho nhau mà phải giúp nhau sửa chữa khuyết điểm. Đạo đức cách mạng là đạo đức trong hành động. Do đó, yêu thương con người không chỉ dừng lại ở lời nói mà phải biểu hiện thành những việc làm cụ thể như mang lại cơm ăn, nước uống hàng ngày; là kiên quyết đấu tranh chống lại mọi hành vi xúc phạm, chà đạp lên phẩm giá con người; ra sức phấn đấu vì độc lập của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Tình thương yêu đó không chỉ giới hạn trong phạm vi dân tộc mà vươn tới tầm nhân loại. Đạo đức cách mạng là đạo đức mới – đạo đức của giai cấp vô sản. Nó đòi hỏi người cách mạng không chỉ biết đấu tranh vì sự phát triển của dân tộc mình mà còn phải có “quyết tâm giúp đỡ loài người ngày càng tiến bộ và thoát khỏi ách áp bức, bóc lột, luôn giữ vững tinh thần chí công vô tư” [51, tr.568]. Đây chính là tinh thần quốc tế trong sáng. Vì thế giáo dục đạo đức cách mạng cho TN còn là giáo dục tinh thần đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau giữa nhân dân Việt Nam với tất cả các dân tộc tiến bộ trên thế giới vì hòa bình, công lý và tiến bộ xã hội. 1.3.1.2. Giáo dục lòng yêu nước, thương nòi Ngoài tri thức đạo đức thì tình cảm đạo đức cũng là nội dung quan trọng trong giáo dục đạo đức. Những giá trị đạo đức thu nhận được bằng lý trí dù có tốt đẹp đến đâu, nếu không có được một tình cảm đạo đức trong sáng và sâu sắc thôi thúc thì cũng chỉ dừng lại ở mức độ ghi nhận thông tin, chưa đủ cơ sở để biến thành hành vi đạo đức. Điều này giải thích tại sao trong giáo dục đạo đức cho TN, ngoài các giá trị đạo đức, Hồ Chí Minh còn đặc biệt chú trọng đến việc bồi dưỡng tình cảm đạo đức. Người khẳng định nhiệm vụ “cốt nhất” của nhà trường là “Phải dạy cho học trò biết yêu nước, thương nòi. Phải dạy cho họ có ý chí tự lập, tự cường, quyết không chịu thua kém ai, quyết không chịu làm nô lệ” [49, tr.102]. Huấn thị tại Đại hội SV lần thứ II (1958), Người dạy TN phải có sáu cái yêu: Tổ quốc, nhân dân, xã hội chủ nghĩa, lao động, khoa học và kỹ thuật. Trong đó yêu Tổ quốc, yêu nhân dân được Người đặt lên hàng đầu. Yêu Tổ quốc thì TN phải làm sao cho Tổ quốc ta giàu mạnh. Muốn cho Tổ quốc giàu mạnh thì phải ra sức lao động, ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm. Yêu nhân dân thì phải hiểu rõ sinh hoạt của nhân dân, biết dân còn cực khổ như thế nào, biết chia sẻ những lo lắng, những tủi buồn, những công tác nặng nhọc với nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, cách tốt nhất để bồi dưỡng lòng yêu nước, thương nòi cho TN là giáo dục truyền thống dân tộc và truyền thống cách mạng. Thông qua giáo dục truyền thống, những giá trị tốt đẹp như: lòng tự hào dân tộc, ý thức và hành vi sẵn sàng xả thân bảo vệ độc lập và chủ quyền quốc gia … được củng cố, được nâng lên, làm cho TN thấy được giá trị lớn lao, ý nghĩa đích thực của cuộc sống hòa bình, tự do, độc lập. Những giá trị ấy trở thành tình cảm, động lực thôi thúc TN vượt qua mọi khó khăn, hy sinh gian khổ để bảo vệ độc lập chủ quyền quốc gia, vươn lên trong sự nghiệp xây dựng cuộc sống hòa bình, ấm no, hạnh phúc. 1.3.1.3. Giáo dục lý tưởng cách mạng, niềm tin đối với sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo Lý tưởng có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong đời sống con người. Lý tưởng là trạng thái hoàn hảo nhất mà người ta mong muốn đạt tới. Lý tưởng thôi thúc con người hành động để thỏa mãn các nhu cầu, lợi ích. TN là lớp người trẻ tuổi đang phát triển để hoàn thiện nhân cách. TN khao khát lý tưởng và hành động thực hiện lý tưởng, hướng tới các giá trị xã hội, nhưng lại chưa đủ kinh nghiệm và sự từng trải để có cách suy xét, đánh giá các giá trị, lựa chọn giá trị theo sự chỉ dẫn sáng suốt của lý trí. Vì thế, TN rất cần đến những tác động của giáo dục xã hội để định hướng cho họ thực hiện lý tưởng mà Đảng và dân tộc ta đã lựa chọn. Lý tưởng cách mạng mà Hồ Chí Minh quan tâm giáo dục cho TN là phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập, cho CNXH toàn thắng trên đất nước ta và trên thế giới. Theo Hồ Chí Minh, có giác ngộ lý tưởng mới giúp TN hiểu lý tưởng đó cao đẹp như thế nào, thấy rõ trách nhiệm của mình trong việc thực hiện lý tưởng. Với nghĩa đó, giác ngộ lý tưởng cách mạng chính là giáo dục cho TN lý tưởng sống và niềm tin vào sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo. Song song với việc giáo dục lý tưởng, Hồ Chí Minh cũng yêu cầu phải bồi dưỡng chí khí cách mạng cho TN. Đó chính là ý chí, nghị lực, khí phách, khí tiết của người cách mạng, là tính kiên trì, nhẫn nại, vượt khó. Không có chí khí cách mạng thì TN không thể vượt qua bao khó khăn gian khổ, hy sinh mất mát trên con đường cách mạng để thực hiện lý tưởng. Như vậy thì cũng không thể trở thành một người trung với nước, hiếu với dân được. Để TN kiên định mục tiêu, lý tưởng, ngoài bồi dưỡng chí khí cách mạng, cần phải hình thành niềm tin vào tương lai cách mạng cho TN. Niềm tin chỉ được hình thành, củng cố trên cơ sở của lý trí, của tri thức khoa học. Chủ nghĩa Mác–Lênin, đỉnh cao của tri thức nhân loại, được Đảng ta chọn làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ Nam cho mọi hành động. Đây là cơ sở khoa học để Đảng xác định mục tiêu, đề ra đường lối, chủ trương cho cách mạng Việt Nam. Do đó, tạo lập niềm tin của TN vào tương lai cách mạng thì phải giáo dục TN thấm nhuần chủ nghĩa Mác–Lênin. Cần trang bị cho TN thế giới quan duy vật, phương pháp luận biện chứng và nhân sinh quan cách mạng nhằm làm cho họ nhận thức rõ con đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Con đường đó vừa đáp ứng nguyện vọng thiết tha của cả dân tộc vừa phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Như vậy, giáo dục TN nắm bắt và nhận thức tính đúng đắn của đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước là tạo lập niềm tin cho TN vào sự lãnh đạo của Đảng, vào tính tất thắng của sự nghiệp cách mạng. Điều đó giúp TN không dao động, bi quan khi gặp khó khăn, luôn giữ vững lập trường quan điểm, có thêm ý chí, nghị lực để vượt qua mọi gian khổ trên bước đường cách mạng, quyết tâm đưa cách mạng đến thắng lợi cuối cùng. 1.3.1.4. Giáo dục thái độ tận tụy phục vụ, cống hiến cho Tổ quốc, nhân dân Đề cao tinh thần trách nhiệm, thực hành chủ nghĩa tập thể cũng là một nội dung trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cách mạng cho TN. Là người cách mạng, TN phải luôn luôn đặt nghĩa vụ lên trên quyền lợi, phải ra sức lao động, học tập để cống hiến chứ không phải chỉ biết có đòi hỏi. Trong mọi công việc, TN cần phải nêu cao tinh thần đâu cần TN có, việc gì khó TN làm, gian khổ thì đi trước, hưởng thụ nhận sau mọi người. Trong mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, Hồ Chí Minh đòi hỏi TN phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà, chứ không phải là hỏi nước nhà đã cho mình những gì. Với Hồ Chí Minh, cống hiến cho Tổ quốc, phục vụ cho nhân dân là nét đẹp của đạo đức cách mạng. Người dạy TN: “Thiện nghĩa là tốt đẹp, vẻ vang. Trong xã hội không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân” [52, tr.276]. Muốn hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân thì TN cần phải đấu tranh chống lại chủ nghĩa cá nhân. Vì chủ nghĩa cá nhân là “chỉ biết mình béo, mặc thiên hạ gầy”, chỉ muốn “mọi người vì mình” mà không biết “mình vì mọi người”. Mặt khác, TN còn phải ra sức rèn luyện và thực hành chủ nghĩa tập thể. Nói chuyện với học sinh các trường trung học ở Hà Nội, Người chỉ rõ nhiệm vụ chính của TN học sinh là học tập. Mục đích của việc học không phải vì danh vọng của cá nhân, cốt được mảnh bằng để làm ông nọ, bà kia. TN cần phải xác định động cơ, mục đích học tập cho đúng. Học là để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, làm cho dân giàu, nước mạnh. Thật xúc động biết bao khi đọc lại những tâm sự lúc cuối đời của Người: “Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa” [56, tr.512]. Cuộc đời vì nước, vì dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi mãi là gương sáng cho các thế hệ TN hôm nay và mai sau học tập noi theo. 1.3.2. Giáo dục lối sống 1.3.2.1. Yêu lao động, sống giản dị, trung thực, dũng cảm TN là lực lượng lao động chủ yếu của xã hội. Xã hội có phát triển hay không tùy thuộc thái độ của TN đối với lao động. Từ nhận thức trên, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục TN tình yêu đối với lao động. Muốn TN yêu lao động thì trước hết phải làm cho TN nhận thức được lao động là bổn phận trách nhiệm của mỗi công dân đối với Tổ quốc. Người dạy: “Lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta” [54, tr.313]. Phải giúp cho TN tẩy trừ tư tưởng xem khinh lao động, thói lười biếng, ỷ lại. “Trong xã hội ta, không có nghề nào thấp kém, chỉ những kẻ lười biếng, ỷ lại mới đáng xấu hổ” [54, tr.313] và “Bất cứ làm nghề gì, có ích cho nước nhà, cho nhân dân, cho giai cấp, đều là vẻ vang. Bất cứ nấu bếp, quét nhà hay làm chủ tịch, đều phải lao động cả, làm gì ích nước lợi dân là vẻ vang” [52, tr.296]. Yêu lao động, TN phải biết quý trọng thành quả lao động; phải biết bảo vệ của công, chi tiêu hợp lý, không hoang phí, xa xỉ; phải hăng hái thi đua sản xuất thực hành tiết kiệm; phải tự giác giữ vững kỷ luật lao động; lao động phải có kế hoạch, chú trọng tính thiết thực, hiệu quả. Yêu lao động trong tư tưởng Hồ Chí Minh còn là biểu hiện cụ thể của đạo đức cách mạng, của phẩm chất “trung với nước, hiếu với dân”. Trung với nước, hiếu với dân thì TN phải tích cực tham gia lao động sản xuất, nỗ lực học tập để cống hiến nhiều hơn nhằm làm cho nước mạnh, dân giàu. Nói yêu Tổ quốc, yêu nhân dân mà không lao động thì chỉ là nói suông. Yêu lao động là nét đẹp của con người mới, lối sống mới. Ngoài yêu lao động, TN cần phải rèn luyện lối sống giản dị, trung thực, dũng cảm. Theo Hồ Chí Minh, giản dị là phong cách sống của con người mới. Sống giản dị thì “cách ăn mặc phải sạch sẽ, đơn giản, chất phác, chớ lượt thượt, xa xỉ, lòe loẹt” [49, tr.99]. Nghĩa là phải biết sống chừng mực, điều độ, ngăn nắp, vệ sinh, ít lòng ham muốn về vật chất, đúng thời, đúng hoàn cảnh. Người dạy TN trong lúc nước ta còn nghèo, nhân dân ta còn thiếu thốn mà cá nhân chỉ muốn riêng hưởng ăn ngon, mặc đẹp là không có đạo đức. Vì thế, làm Chủ tịch nước, nhưng Người vẫn ở nhà gỗ đơn sơ, mặc quần áo vải, cơm rau đạm bạc. Người còn dạy TN phải sống trung thực. Sống trung thực là luôn luôn tôn trọng sự thật, chân lý, yêu lẽ phải, ghét sự giả dối. Rèn luyện lối sống trung thực TN phải bắt đầu từ chính bản thân. Nếu không trung thực với bản thân thì không thể trung thực với mọi người. Trung thực phải đi liền với dũng cảm. Có dũng cảm thì TN mới can đảm thừa nhận những sai lầm, thiếu sót của bản thân, mới có quyết tâm sửa chữa. Có can đảm, có dũng khí TN mới đấu tranh chống lại những biểu hiện sai trái ở ngoài xã hội để bảo vệ lẽ phải, sự thật công lý. 1.3.2.2 Sống có hoài bão, nghị lực, chí tiến thủ Con người sống thì phải có ước mơ, hoài bão. Nếu như, con người không còn những hoài bão để theo đuổi, không có những vấn đề cần giải quyết thì sự tê liệt của đầu óc sẽ biến con người thành cái xác không hồn chỉ biết có hưởng thụ [6, tr.199]. Hoài bão là mục tiêu cao đẹp nhất mà con người hướng tới và ra sức thực hiện. Mỗi cá nhân đều có những hoài bão riêng để theo đuổi. Tuy nhiên, hoài bão của mỗi cá nhân phải hướng tới mục tiêu chung của giai cấp, dân tộc và nhân loại. Người thường xuyên nhắc nhở TN sống là phải có ước mơ, hoài bão, có lý tưởng cao đẹp. Thông qua cuộc đời vì nước, vì dân Hồ Chí Minh đã giáo dục TN hướng tới lẻ sống cao đẹp. Người nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” [48, tr.161]. Xác định hoài bão đã khó, thực hiện hoài bão càng khó hơn nhiều. Con đường hiện thực hóa hoài bão, mục tiêu, lý tưởng có lắm gian nan, trở ngại đòi hỏi mỗi người phải có ý chí, nghị lực phi thường để vượt qua mọi thử thách của hoàn cảnh. Do đó, TN cần phải rèn luyện các đức tính kiên trì, bền bỉ, nhẫn nại, không ngại khó. Năng lực cũng là một điều kiện không thể thiếu trong việc thực hiện hoài bão. Muốn có năng lực, TN phải có chí tiến thủ, tinh thần cầu tiến, ham học hỏi. Học ở mọi nơi, mọi lúc, mọi người. Phải khiêm tốn học hỏi, coi việc học là việc làm suốt đời. Mặt khác, TN còn phải chống lại thói kiêu căng, tự phụ, tự cao, tự đại… 1.3.2.3. Giáo dục tình bạn, tình yêu trong sáng Tình bạn, tình yêu trong sáng là một biểu hiện của lối sống khiêm nhường, bao dung, nhân ái, thủy chung, nhân hậu mà Hồ Chí Minh quan tâm giáo dục cho TN. Tình bạn, tình yêu trong sáng là thực sự yêu thương, quan tâm, giúp đỡ nhau một cách vô tư, không vụ lợi, không xuất phát từ những toan tính nhỏ nhoi, ích kỷ của đời thường. Đó là một tình bạn, tình yêu thủy chung, son sắt và bền chặt “giàu không đổi bạn, sang không đổi vợ” như cha ông từng khuyên bảo. Để có được tình bạn, tình yêu trong sáng, Người dạy TN phải biết thương yêu giúp đỡ, phải kính trọng nhau như anh em một nhà. Yêu thương phải bắt đầu từ việc tôn trọng giá trị của nhau, quan tâm giúp đỡ chân tình để vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống; phải biết cảm thông, độ lượng đối với những lỗi lầm của nhau; thật tâm khuyên bảo giúp nhau sửa chữa những khuyết điểm; phải trung thực, quan tâm lẫn nhau, chu đáo từ việc lớn đến việc nhỏ, từ lời nói đến việc làm. Tình bạn là cơ sở của tình yêu bền chặt, trong sáng. Trong tình bạn cũng như trong tình yêu, Người dạy TN phải đúng mực, đi đúng giới hạn “quyết chớ phóng túng, lôi thôi”. 1.4. PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG CHO THANH NIÊN 1.4.1. Phải kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc giáo dục thanh niên; gắn chặt giáo dục trong nhà trường với giáo dục trong thực tiễn Theo Hồ Chí Minh, giáo dục đạo đức, lối sống cho TN là trách nhiệm chung của gia đình, nhà trường và toàn xã hội. Phát biểu tại buổi lễ khai mạc Trường Đại học nhân dân Việt Nam, Người nêu rõ: “Trường đại h

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf169_4346.pdf
Tài liệu liên quan