Tài liệu Luận văn Tổ chức hoạt động dạy học chương "dòng điện trong các môi trường", vật lí 11 (nâng cao) trung học phổ thông theo định hướng phát huy tính tích cực, tự lực, và sáng tạo của học sinh: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH 
¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯ 
Ngô Thị Thanh Hoàng 
Chuyên ngành : Lý luận và phương pháp dạy học môn Vật lý 
 Mã số : 60 14 10 
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC 
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 
TS. ĐỖ XUÂN HỘI 
Thành phố Hồ Chí Minh - 2008 
MỞ ĐẦU 
1. Lí do chọn đề tài 
 Ngày nay với sự phát triển như vũ bão của khoa học – kĩ thuật đòi hỏi con người trong quá trình 
làm việc phải không ngừng cập nhật những thông tin kiến thức, tri thức mới của nhân loại, hơn lúc nào 
hết, trách nhiệm của các nhà giáo dục, đặc biệt là giáo viên trực tiếp giảng dạy là phải làm cho người 
học biết học cái gì và học như thế nào. Chính vì vậy, trong xu thế hội nhập giáo dục nước ta cần phải 
đổi mới mạnh mẽ, sâu sắc, toàn diện nhằm nâng cao chất lượng dạy học. 
Thực tiễn giáo dục của nước ta hiện nay đã và đang có những cải cách chú trọng đổi mới về 
mục tiêu, chương trình, sách giáo khoa và phương pháp dạy học trong đó coi đổi mới về...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 175 trang
175 trang | 
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 3543 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tổ chức hoạt động dạy học chương "dòng điện trong các môi trường", vật lí 11 (nâng cao) trung học phổ thông theo định hướng phát huy tính tích cực, tự lực, và sáng tạo của học sinh, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH 
¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯ 
Ngô Thị Thanh Hoàng 
Chuyên ngành : Lý luận và phương pháp dạy học môn Vật lý 
 Mã số : 60 14 10 
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC 
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 
TS. ĐỖ XUÂN HỘI 
Thành phố Hồ Chí Minh - 2008 
MỞ ĐẦU 
1. Lí do chọn đề tài 
 Ngày nay với sự phát triển như vũ bão của khoa học – kĩ thuật đòi hỏi con người trong quá trình 
làm việc phải không ngừng cập nhật những thông tin kiến thức, tri thức mới của nhân loại, hơn lúc nào 
hết, trách nhiệm của các nhà giáo dục, đặc biệt là giáo viên trực tiếp giảng dạy là phải làm cho người 
học biết học cái gì và học như thế nào. Chính vì vậy, trong xu thế hội nhập giáo dục nước ta cần phải 
đổi mới mạnh mẽ, sâu sắc, toàn diện nhằm nâng cao chất lượng dạy học. 
Thực tiễn giáo dục của nước ta hiện nay đã và đang có những cải cách chú trọng đổi mới về 
mục tiêu, chương trình, sách giáo khoa và phương pháp dạy học trong đó coi đổi mới về phương pháp 
là vấn đề trọng tâm. Theo mục 2 Điều 28 của Luật giáo dục 2005 có nêu “Phương pháp giáo dục phổ 
thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của 
từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ 
năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho 
học sinh”[107]. 
Qua đó cho thấy HS không chỉ được cung cấp những kiến thức cơ bản ở nhà trường mà còn 
được trang bị phương pháp, cách thức, tự học ngay từ bậc phổ thông để HS có thể chủ động trong việc 
học, khám phá, tìm tòi cập nhật những kiến thức mới của nhân loại để đáp ứng nhu cầu của xã hội. Với 
ý nghĩa đó, chúng tôi chọn đề tài dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, tự lực, sáng tạo của HS. 
Trong phạm vi luận văn chúng tôi chọn chương “Dòng điện trong các môi trường” Vật lí lớp 11 
(nâng cao) để tiến hành nghiên cứu do ở chương này có nhiều kiến thức liên quan đến thực tế và ứng 
dụng trong cuộc sống hàng ngày. 
Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài “Tổ chức hoạt động dạy học chương “Dòng điện trong các môi 
trường”, Vật lí 11 (nâng cao) Trung học phổ thông theo định hướng phát huy tính tích cực, tự 
lực, và sáng tạo của học sinh” với mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào việc nâng cao chất lượng 
dạy học. 
2. Mục đích nghiên cứu 
 Vận dụng cơ sở lí luận dạy học Vật lí để xây dựng tiến trình dạy học cho các bài học chương 
“Dòng điện trong các môi trường” Vật lí 11 (nâng cao) theo định hướng phát huy tính tích cực, tự lực, 
và sáng tạo của học sinh nhằm nâng cao chất lượng dạy học. 
3. Giả thuyết khoa học 
 Nếu tổ chức hoạt động dạy học các bài học trong chương “Dòng điện trong các môi trường” Vật 
lí 11 (nâng cao) phù hợp về mặt khoa học, sư phạm và yêu cầu đổi mới của phương pháp dạy học thì 
có thể phát huy tính tích cực, tự lực, và sáng tạo của học sinh và nâng cao chất lượng dạy học vật lí ở 
trường phổ thông. 
4. Nhiệm vụ nghiên cứu 
 Nghiên cứu cơ sở lí luận dạy học về đổi mới phương pháp dạy học Vật lí để thiết kế tiến trình 
dạy học vật lí theo hướng phát huy tính tích cực, tự lực, và sáng tạo của học sinh. 
 Nghiên cứu chương trình sách giáo khoa Vật lí lớp 11 (nâng cao), nội dung kiến thức và kỹ 
năng cần đạt được trong chương “Dòng điện trong các môi trường” Vật lí 11 (nâng cao). 
 Nghiên cứu khả năng ứng dụng một số phần mềm tin học trong việc thiết kế các bài giảng dạy 
học và Website dạy học. 
 Vận dụng cơ sở lí luận dạy học để thiết kế tiến trình dạy học các bài học chương “Dòng điện 
trong các môi trường” Vật lí 11 (nâng cao). 
 Thực nghiệm sư phạm các tiến trình dạy học đã soạn thảo nhằm kiểm tra giả thuyết, đánh giá 
tính khả thi và hiệu quả của việc dạy và học. Nêu được các kết luận về ý nghĩa khoa học và thực tiễn 
của đề tài. 
5. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 
 Khách thể nghiên cứu 
 Hoạt động học của học sinh lớp 11 THPT và hoạt động dạy của giáo viên trong quá trình dạy 
học chương “Dòng điện trong các môi trường” Vật lí 11 (nâng cao). 
  Đối tượng nghiên cứu 
 Nội dung chương trình và phương pháp dạy học vật lí THPT. 
 Một số phần mềm ứng dụng hỗ trợ dạy học. 
6. Phạm vi nghiên cứu 
 Nghiên cứu và thiết kế tiến trình dạy học các bài chương “Dòng điện trong các môi trường” Vật 
lí 11 (nâng cao) theo định hướng phát huy tính tích cực, tự lực, và sáng tạo của học sinh. 
7. Phương pháp nghiên cứu 
  Nghiên cứu tài liệu 
 Nghiên cứu các văn kiện, nghị quyết của Đảng và Nhà nước, của Bộ Giáo dục và Đào tạo. 
 Nghiên cứu cơ sở lí luận của dạy học Vật lí và sử dụng thiết bị thí nghiệm Vật lí 11 (nâng cao) 
THPT. 
 Nghiên cứu chương trình, nội dung chương “Dòng điện trong các môi trường” Vật lí 11 (nâng 
cao). 
 Nghiên cứu tài liệu hướng dẫn sử dụng một số phần mềm tin học hỗ trợ dạy học Vật lí. 
  Điều tra 
 Quan sát, điều tra ý kiến của giáo viên và học sinh ở trường THPT để đưa ra nhận xét thực tiễn 
của việc vận dụng dạy và học chương “Dòng điện trong các môi trường” Vật lí 11 (nâng cao). 
  Thực nghiệm sư phạm 
 Kiểm tra giả thuyết và hoàn thiện các tiến trình dạy học. 
 Phương pháp thống kê toán học 
 Sử dụng phương pháp thống kê toán học để trình bày kết quả thực nghiệm sư phạm và kiểm 
định giả thuyết thống kê để phân biệt kết quả học tập của hai nhóm đối chứng và thực nghiệm. 
8. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 
 Góp phần làm sáng tỏ cơ sở lí luận của việc phát huy tính tích cực, tự lực, và sáng tạo của học 
sinh trong dạy học vật lí ở trường phổ thông đáp ứng các mục tiêu giáo dục trong thời kì đổi mới. 
 Sau khi thiết kế tiến trình dạy học cụ thể các bài học chương “Dòng điện trong các môi trường” 
Vật lí 11 (nâng cao) theo định hướng phát huy tính tích cực, tự lực, và sáng tạo của học sinh có thể sử 
dụng để dạy học trong một trường hoặc nhiều trường và có thể mở rộng cho toàn bộ chương trình Vật 
lí 11 (nâng cao) THPT. 
9. Dự kiến cấu trúc luận văn 
 MỞ ĐẦU 
 Chương 1: Cơ sở lí luận của dạy học Vật lí theo định hướng phát huy tính tích cực, tự lực, và 
sáng tạo của học sinh 
 Chương 2: Xây dựng tiến trình dạy học các bài học chương “Dòng điện trong các môi trường” 
Vật lí 11 (nâng cao) theo định hướng phát huy tính tích cực, tự lực, và sáng tạo của học sinh. 
 Chương 3: Thực nghiệm sư phạm 
 KẾT LUẬN 
 TÀI LIỆU THAM KHẢO 
 PHỤ LỤC 
 Trong đó 
 Phần mở đầu có 4 trang. 
 Phần nội dung có 167 trang. 
 Phần kết luận có 2 trang. 
 Phần phụ lục có 23 trang. 
 Luận văn có sử dụng 107 tài liệu tham khảo. 
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA DẠY HỌC VẬT LÍ 
THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC, TỰ LỰC, 
VÀ SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH 
1.1. Mục tiêu giáo dục trong giai đoạn hiện nay 
 1.1.1. Mục tiêu chung của giáo dục phổ thông hiện nay 
Trong Điều 2 của Luật giáo dục của Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam số 
38/2005/QH ngày 14 tháng 6 năm 2005 có hiệu lực thi hành ngày 1 tháng 1 năm 2006 có nêu “Mục 
tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm 
mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi 
dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và 
bảo vệ Tổ quốc”[107]. 
 Theo Chiến lược phát triển giáo dục 2001 – 2010 (Ban hành kèm theo Quyết định số 
201/2001/QĐ – TTg ngày 28 tháng 12 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ) ở mục 4.1.c có nêu mục 
tiêu phát triển giáo dục đến năm 2010 là “Đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp, chương trình giáo 
dục các cấp bậc học và trình độ đào tạo; phát triển đội ngũ nhà giáo đáp ứng yêu cầu vừa tăng quy mô, 
vừa nâng cao chất lượng, hiệu quả và đổi mới phương pháp dạy - học, đổi mới quản lí giáo dục cơ sở 
pháp lí và phát huy nội lực phát triển giáo dục”[9]. 
Trong đó ở mục 4.2.b mục tiêu của giáo dục phổ thông có nêu “Thực hiện giáo dục toàn diện về 
đức, trí, thể, mỹ. Cung cấp học vấn phổ thông cơ bản, hệ thống và có tính hướng nghiệp; tiếp cận trình 
độ các nước phát triển trong khu vực. Xây dựng thái độ học tập đúng đắn, phương pháp học tập chủ 
động, tích cực, sáng tạo; lòng ham học, ham hiểu biết, năng lực tự học, năng lực vận dụng kiến thức 
vào cuộc sống”[9]. 
Theo khoản 1 Điều 27 của Luật giáo dục 2005 có nêu “Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp 
học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển 
năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ 
nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào 
cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [107]. 
Mục tiêu giáo dục là kim chỉ nam cho việc biên soạn chương trình, xác định nội dung, phương 
pháp, phương tiện, hình thức tổ chức dạy học và kiểm tra đánh giá quá trình dạy học. 
Theo Chiến lược phát triển giáo dục 2001 – 2010 về đổi mới mục tiêu, nội dung, chương trình 
giáo dục phổ thông ở mục 5.1.a có nêu “Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; thực hiện giảm tải, có 
cơ cấu chương trình hợp lí vừa đảm bảo được chuẩn kiến thức để phát triển năng lực của mỗi học sinh, 
nâng cao năng lực tư duy, kỹ năng thực hành, tăng tính thực tiễn, coi trọng kiến thức khoa học xã hội 
và nhân văn; bổ sung những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại phù hợp với khả năng tiếp thu 
của học sinh và tiếp cận trình độ giáo dục phổ thông ở các nước phát triển trong khu vực; quan tâm đầy 
đủ đến giáo dục phẩm chất, đạo đức, ý thức công dân, giáo dục sức khỏe và thẩm mỹ cho học sinh”[9]. 
Về chương trình giáo dục phổ thông ở khoản 1 Điều 29 của Luật giáo dục 2005 có nêu “Chương 
trình giáo dục phổ thông thể hiện mục tiêu giáo dục phổ thông; quy định chuẩn kiến thức, kỹ năng, 
phạm vi và cấu trúc nội dung giáo dục phổ thông, phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động giáo 
dục, cách thức đánh giá kết quả giáo dục đối với các môn học ở mỗi lớp và mỗi cấp học của giáo dục 
phổ thông”[107]. 
Yêu cầu về nội dung giáo dục phổ thông ở khoản 1 Điều 28 Luật giáo dục 2005 có nêu “Giáo 
dục trung học phổ thông phải củng cố, phát triển những nội dung đã học ở trung học cơ sở, hoàn thành 
nội dung giáo dục phổ thông; ngoài nội dung chủ yếu nhằm bảo đảm chuẩn kiến thức phổ thông, cơ 
bản, toàn diện và hướng nghiệp cho mọi học sinh còn có nội dung nâng cao ở một số môn học để phát 
triển năng lực, đáp ứng nguyện vọng của học sinh”[107]. 
Theo Chương trình hành động của ngành giáo dục: Thực hiện kết luận Hội nghị lần thứ 6 BCH 
TƯ Đảng khoá IX và Chiến lược phát triển giáo dục 2001 – 2010 ở mục B.3. có nêu “Cải tiến phương 
pháp dạy và học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học; tăng cường thực 
hành, thực tập; kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo, nghiên cứu khoa học và lao động sản xuất; ứng dụng 
mạnh mẽ công nghệ thông tin và các thành tựu khác của khoa học, công nghệ vào việc dạy và học”[9]. 
Theo Chiến lược phát triển giáo dục 2001 – 2010 ở mục 5.2. ghi rõ “Đổi mới và hiện đại hoá 
phương pháp giáo dục. Chuyển từ việc truyền thụ tri thức thụ động, thầy giảng, trò ghi sang hướng dẫn 
người học chủ động tư duy trong quá trình tiếp cận tri thức; dạy cho người học phương pháp tự học, tự 
thu nhận thông tin một cách có hệ thống và có tư duy phân tích, tổng hợp, phát triển năng lực của mỗi 
cá nhân; tăng cường tính chủ động, tính tự chủ của học sinh trong quá trình học tập,... ”[9]. 
Mục tiêu giáo dục phổ thông hiện nay không những góp phần hoàn thành nội dung kiến thức 
cần học cho học sinh, đồng thời tạo điều kiện cho học sinh hình thành và rèn luyện những kĩ năng và 
những năng lực cần thiết để thích nghi với sự phát triển của xã hội, đảm bảo có thể hoà nhập vào cuộc 
sống chung của nhân loại. 
Như vậy, mục tiêu giáo dục luôn được Đảng và Nhà nước ta coi là quốc sách hàng đầu, một 
trong những nhiệm vụ để thực hiện mục tiêu đó là việc đổi mới phương pháp dạy học mà trọng tâm là 
nhằm phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo của học sinh, có như vậy mới đáp ứng được mục tiêu 
giáo dục trong thời kì mới. 
1.1.2. Mục tiêu giáo dục của môn Vật lí phổ thông hiện nay 
 Dựa trên mục tiêu giáo dục chung, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xác định mục tiêu cụ thể cho 
từng môn học trong đó môn Vật lí có vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu đào tạo của giáo 
dục phổ thông. Việc giảng dạy môn Vật lí có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh một hệ thống kiến thức 
vật lí cơ bản ở trình độ phổ thông, bước đầu hình thành ở học sinh những kĩ năng và thói quen làm việc 
khoa học; góp phần tạo ra ở họ các năng lực nhận thức, năng lực hành động và các phẩm chất về nhân 
cách…[4], [76] 
 Mục tiêu dạy học môn Vật lí trong nhà trường phổ thông nhằm: 
1. Cung cấp cho học sinh một hệ thống kiến thức Vật lí phổ thông, cơ bản và phù hợp với những 
quan điểm hiện đại, bao gồm 
 a. Những khái niệm tương đối chính xác về các sự vật, hiện tượng, về quá trình vật lí thường 
gặp trong đời sống và sản xuất thuộc các lĩnh vực như: 
 Cơ học: Khái niệm chất điểm, tốc độ, vận tốc, chuyển động thẳng đều, chuyển động thẳng biến đổi 
đều, chuyển động tròn đều, lực, phản lực, động năng, thế năng, cơ năng, và hiện tượng sự rơi tự do, 
hiện tượng tăng giảm trọng lượng, … 
 Nhiệt học và vật lí phân tử: Khái niệm chất khí, chất lỏng, chất rắn và hiện tượng căng bề mặt của 
chất lỏng, hiện tượng dính ướt và không dính ướt, hiện tượng mao dẫn, … 
 Điện học: Khái niệm về điện tích, điện trường, hiệu điện thế, điện môi, tụ điện, từ trường, hiện 
tượng nhiệt điện, hiện tượng siêu dẫn, … 
 Quang học: Khái niệm khúc xạ ánh sáng, phản xạ, tia hồng ngoại, tia tử ngoại, tia Rơghen, hiện 
tượng tán sắc ánh sáng, hiện tượng giao thoa ánh sáng, hiện tượng quang điện, … 
 Vật lí nguyên tử và vật lí hạt nhân: Khái niệm nguyên tử, sự phóng xạ, năng lượng liên kết, … 
 b. Những định luật và nguyên lí vật lí cơ bản được trình bày phù hợp với năng lực toán học và 
năng lực suy luận logic của học sinh 
 Cơ học: Phương trình chuyển động thẳng biến đổi đều, định luật I, II, III Niutơn; định luật vạn vật 
hấp dẫn, định luật bảo toàn động lượng, định luật bảo toàn cơ năng, định luật bảo toàn năng lượng, … 
 Nhiệt học và vật lí phân tử: Định luật Bôilơ – Mariôt, Saclơ, Gayluyxăc; phương trình Clapêrôn – 
Menđêlêep; nguyên lí I, II nhiệt động lực học, … 
  Điện học: Định luật bảo toàn điện tích, định luật Jun – Lenxơ, định luật Ôm đối với toàn mạch, các 
loại mạch điện; định luật Faraday, định luật Ampe, … 
 Vật lí nguyên tử và vật lí hạt nhân: Định luật phóng xạ, … 
 c. Thuyết vật lí quan trọng: Thuyết động học phân tử về chất khí, thuyết electron, thuyết lượng 
tử ánh sáng, thuyết cấu tạo nguyên tử,… 
 d. Những hiểu biết cần thiết về phương pháp thực nghiệm, phương pháp mô hình hoá trong vật 
lí học 
 Phương pháp thực nghiệm: Một vài ví dụ minh họa khả năng tổ chức hoạt động học tập, bồi dưỡng 
phương pháp thực nghiệm cho học sinh như bài Định luật III Niutơn, định luật bảo toàn động lượng, 
định luật Becnuli, hiện tượng tự cảm, hiện tượng căng mặt ngoài,… 
 Phương pháp mô hình: gồm có các loại mô hình sử dụng trong Vật lí như: 
Mô hình vật chất: Mô hình hệ mặt trời, mô hình con lắc toán học, mô hình động cơ đốt trong, … 
Mô hình lý tưởng: Mô hình ký hiệu, mô hình trường hấp dẫn, … 
Mô hình đồ thị: Đường đặc tuyến Vôn – Ampe, đồ thị đường đẳng tích, đẳng áp, đồ thị nóng 
chảy hay đông đặc của các chất, … 
Mô hình logic toán 
Mô hình biểu tượng: Mô hình khí lí tưởng, mô hình cấu trúc nguyên tử, cấu trúc mạng tinh thể, 
mô hình lưỡng tính sóng - hạt, … 
e. Những nguyên tắc cơ bản của các ứng dụng quan trọng nhất của vật lí trong đời sống sản 
xuất: Nguyên tắc hoạt động của động cơ nhiệt và máy lạnh, nguyên tắc hoạt động của nhà máy điện 
nguyên tử, nguyên tắc cơ bản của quang trở, pin quang điện, nguyên tắc máy biến thế, máy phát điện, 
động cơ điện, … 
 Quan điểm hiện đại được thể hiện ở hai quan điểm năng lượng và cấu trúc cơ chế 
a. Quan điểm năng lượng: Cơ năng, nhiệt năng, điện năng, năng lượng; điện trường và từ 
trường có năng lượng. 
21
2
W CU hay 
2
99.10 .8
EW V  
21
2
W LI hay 7 21 .10 .
8
W B V 
b. Cấu trúc cơ chế: Quan điểm vi mô là đi sâu vào bản chất của sự vật, hiện tượng vật lí để tìm 
hiểu nguyên nhân tại sao để từ đó giải thích. Ví dụ như tại sao khí gây áp suất lên bình, tại sao kim loại 
dẫn điện tốt, nguyên nhân gây ra điện trở kim loại là gì, tại sao dòng điện chạy qua dây dẫn kim loại sẽ 
gây ra tác dụng nhiệt, tại sao điện trở suất của kim loại tăng theo nhiệt độ, bản chất dòng điện trong 
kim loại là gì, …để trả lời các câu hỏi trên ta phải giải thích bằng cấu trúc vi mô. 
Trong chương trình vật lí phổ thông có rất nhiều kiến thức phù hợp với quan điểm hiện đại. 
2. Rèn luyện và phát triển các kĩ năng cơ bản 
a. Quan sát các hiện tượng và các quá trình vật lí trong tự nhiên, trong đời sống hàng ngày hoặc 
trong các thí nghiệm, điều tra, sưu tầm, tra cứu tài liệu từ các nguồn khác nhau để thu thập các thông 
tin cần thiết cho việc học tập môn vật lí. 
b. Sử dụng các dụng cụ đo phổ biến của vật lí, kĩ năng lắp ráp và tiến hành các thí nghiệm vật lí 
đơn giản. 
c. Phân tích, tổng hợp và xử lí các thông tin thu được để rút ra kết luận, đề ra các dự đoán đơn giản 
về các mối quan hệ hay về bản chất của các hiện tượng hoặc quá trình vật lí, cũng như đề xuất phương 
án thí nghiệm để kiểm tra dự đoán đã đề ra. 
d. Vận dụng kiến thức để mô tả và giải thích các hiện tượng và quá trình vật lí, giải các bài tập vật lí 
và giải quyết các vấn đề đơn giản trong đời sống và sản xuất ở mức độ phổ thông. 
e. Sử dụng các thuật ngữ vật lí, các biểu, bảng, đồ thị để trình bày rõ ràng, chính xác những hiểu 
biết, cũng như kết quả thu được qua thu thập và xử lí thông tin. 
3. Hình thành và rèn luyện các thái độ, tình cảm 
 a. Có hứng thú học vật lí, yêu thích tìm tòi khoa học, trân trọng đối với những đóng góp của vật 
lí học cho sự tiến bộ của xã hội và đối với công lao của các nhà khoa học. 
 b. Có thái độ khách quan, trung thực, có tác phong tỉ mỉ, cẩn thận, chính xác và có tinh thần hợp 
tác trong việc học tập môn vật lí, cũng như trong việc áp dụng các hiểu biết đã đạt được. 
 c. Có ý thức vận dụng những hiểu biết vật lí vào đời sống nhằm cải thiện điều kiện sống, học tập 
cũng như để bảo vệ và giữ gìn môi trường sống tự nhiên. 
 Như vậy, với một khối lượng kiến thức lớn cần cung cấp cho HS, nếu chỉ sử dụng phương pháp 
giáo dục truyền thống thì không thể đáp ứng được yêu cầu của mục tiêu giáo dục, do đó để HS nắm 
vững những kiến thức trên, có hứng thú học tập và có thể vận dụng kiến thức vào trong thực tế thì cần 
phải đổi mới phương pháp dạy học mà chủ yếu là chú trọng đến phương pháp dạy học theo hướng phát 
huy tính tích cực, tự lực, và sáng tạo của HS. 
1.1.3. Các dạng mục tiêu trong dạy học vật lí 
 Mục tiêu được đề ra nhằm đảm bảo thực hiện 3 nhiệm vụ cơ bản của vật lí học [76]. 
 Nhóm mục tiêu nhận thức: Theo B.Bloom: có 6 mức độ trong lĩnh vực nhận thức là biết, hiểu, vận 
dụng, phân tích, tổng hợp, đánh giá. 
 Nhóm mục tiêu tình cảm: Theo B.Bloom và Masior có 4 mức độ là tiếp nhận, đáp ứng, định giá, tổ 
chức. 
 Nhóm mục tiêu tâm - vận động: Các mức độ thành thạo của kỹ năng thực hiện hành động là bắt 
chước, thao tác, hành động chuẩn xác, hành động phối hợp, hành động tự nhiên. 
 Từ đó, chúng ta chọn những phương pháp dạy học có khả năng cao nhất đối với việc thực hiện 
mục tiêu dạy học vì nó có tính chất quyết định đến việc thực hiện mục tiêu dạy học và chất lượng dạy 
học. Khi xem xét việc thực hiện mục tiêu dạy học nhất định thì có một số phương pháp dạy học có khả 
năng cao hơn các phương pháp dạy học khác. Nếu đặt mục tiêu nhanh chóng truyền thụ cho xong nội 
dung quy định của chương trình thì phương pháp dạy học thuyết trình có vị trí quan trọng, nhưng nếu 
đặt mục tiêu phát triển năng lực tìm tòi sáng tạo của học sinh thì cần chọn phương pháp dạy học khác 
[52]. 
Bảng 1.1. Kết quả nghiên cứu về khả năng của các phương pháp dạy học trong việc thực hiện 
mục tiêu [52]. 
Các phương pháp dạy học 
Các phạm trù mục tiêu Thuyết 
trình 
Thảo 
luận 
Học cá 
nhân 
Học tương tác, học 
trong hành động 
I. Lĩnh vực nhận thức 
1. Biết B C A B 
2. Hiểu B B A B 
3. Vận dụng C A A B 
4. Phân tích C A A B 
5. Tổng hợp C C A B 
6. Đánh giá D A C B 
II. Lĩnh vực tình cảm 
1. Tiếp nhận B A A A 
2. Phản ứng D A B A 
3. Đánh giá B A D A 
4. Sắp xếp, tổ chức giá trị B B D A 
5. Trở thành tính cách D B D A 
III. Lĩnh vực tâm - vận động 
1. Tự thực hiện phối hợp 
các động tác D D A C 
2. Phối hợp thành thục các 
động tác D D A C 
3. Giao tiếp D B C A 
4. Hành vi ngôn ngữ D A C B 
Thang: A: xuất sắc B: Khá C: Trung bình D: Yếu 
Nhìn vào bảng trên có thể thấy rõ điểm mạnh, điểm yếu của các nhóm phương pháp dạy học với 
việc thực hiện mục tiêu, đặc biệt là sự hạn chế của phương pháp thuyết trình. Một kết quả nghiên cứu 
khác cũng cho thấy sự hạn chế của phương pháp dùng lời nói, khuyến khích tổ chức các hoạt động tự 
lập của học sinh. 
Có thể tham khảo kết quả sau để có một sự lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp [76] 
Tiếp thu tri thức khoa học 
1% qua nếm 
2% qua sờ 
3% qua ngửi 
10% qua nghe 
83% qua thấy 
Nhớ được kiến thức sau khi học 
10% qua đọc 
20% qua nghe 
30% qua thấy 
50% qua thấy và nghe
80% qua nói 
90% qua làm 
(Nguồn: Phòng Truyền thông và Thông tin UNICEF Băng – la – desh ) 
Hình 1.1. Sơ đồ tỉ lệ lưu giữ thông tin trong trí nhớ học sinh [52] 
Sau 3 ngày Sau 3 giờ 
10% Lời nói 30% 
20% Hình ảnh 60% 
70% Lời và hình 80% 
80% Lời, hình và hành động 90% 
90% Tự phát hiện 99% 
Mỗi phương pháp dạy học có giá trị riêng, không có phương pháp dạy học nào vạn năng cả, 
chính vì vậy trong một bài học cần phối hợp sử dụng các phương pháp dạy học, nhưng dù có sử dụng 
phương pháp nào thì làm thế nào lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp và hiệu quả nhất, đề cao hoạt 
động tính tích cực, tự lực, sáng tạo của học sinh [76]. 
 Hình 1.2. Tháp học tập 1 [76] 
 Đọc 
 Nghe 
 Thảo luận 
 Dạy người khác 
Hoặc chúng ta có thể tham khảo thêm thông tin qua tháp học tập tỉ lệ còn nhớ của những chiến 
lược dạy học khác nhau của học sinh sau [106]. 
Hình 1.3. Tháp học tập 2 [106] 
Qua tháp học tập cho thấy học tập thụ động và truyền đạt một chiều, như hình thức nghe, là 
chiến lược kém thành công nhất. Đọc cũng là cách học tập nghèo nàn. Khi tháp học tập chỉ ra phương 
5 % 
10 % 
20 % 
30 % 
50 % 
75 % 
90 % 
Nghe 
 Đọc 
Nghe - nhìn
Thuyết minh 
Thảo luận nhóm
Thực hành
Dạy các hữu ích khác/ trực tiếp của 
việc học tập 
Học sinh 
chấp nhận 
thông tin 
Chính tự 
học sinh 
cung cấp 
việc học 
Học sinh tăng dần 
hoạt động và 
nhiệm vụ khó 
khăn. 
Kinh nghiệm 
được tăng thêm 
trong quá trình 
thực hành. 
Tỉ lệ 
học sinh nhớ 
sau 24h
Người dạy là trung tâm Kiểu học kém hiệu quả nhất 
Nhìn 
 Trải nghiệm, Thực thi, 
Làm việc 
Người học là trung tâm Kiểu học đạt hiệu quả nhất 
Cả nghe lẫn nhìn 
pháp học tập nghe nhìn, phần ghi nhớ sẽ được cải thiện (tới 20%). Khi có sự thực hiện năng động, dựa 
vào sự trao đổi thông tin thuyết minh hai chiều cũng như nhìn và nghe, tỉ lệ ghi nhớ tăng lên tới 30%. 
 Khi quá trình học tập theo hình thức thảo luận nhóm có thêm nguồn đầu vào nhạy cảm (nghe, 
nhìn, nói), tỉ lệ ghi nhớ được sẽ tăng vọt lên là 50%. Khi quá trình học tập có liên quan tới ứng dụng và 
thực hành, không chỉ là lĩnh hội, tỉ lệ ghi nhớ còn cao hơn tới 75%. Khi quá trình học tập còn bao gồm 
cả giảng dạy trong lĩnh vực khác, tỉ lệ ghi nhớ được sẽ rất cao, chiếm đến 90%. 
1.1.4. Những khó khăn gặp phải khi thực hiện mục tiêu trong quá trình đổi mới 
 Một số giáo viên vật lí vẫn chưa thực sự thấm nhuần bản chất, hướng và cách thức đổi mới 
phương pháp dạy học, hiểu biết về cơ sở lí luận, thực tiễn của đổi mới phương pháp dạy học còn chưa 
sâu sắc [76]. 
 Đa số giáo viên vẫn còn chú trọng truyền thụ kiến thức cho học sinh theo kiểu thuyết trình xen 
kẽ hỏi đáp, nặng thông báo, giảng giải kiến thức, nhẹ về phát huy tính tích cực và phát triển tư duy học 
sinh. Giáo viên chưa phải là người tổ chức cho học sinh hoạt động, học sinh chưa biết phương pháp tự 
học theo hướng tích cực, tự lực. Hoặc thay vì phải minh họa, … cho học sinh hiểu kỹ về một vấn đề 
nào đó thì giáo viên chỉ đọc cho học sinh ghi chép những nội dung chính của bài học; thay vì hướng 
dẫn cho học sinh luyện tập, rèn luyện những kĩ năng thì giáo viên chỉ yêu cầu học sinh lặp lại theo mẫu 
một cách máy móc, …[55]. 
 Theo Vũ Oanh, Đâu là mâu thuẫn chủ yếu trong thực trạng giáo dục hiện nay? đó là: Ở tất cả 
các cấp học, bậc học, cách dạy, cách học trong các nhà trường chủ yếu vẫn là truyền thụ một chiều, 
nặng về lý thuyết, nhẹ về thực hành, chưa phát huy tinh thần tự học và tư duy sáng tạo của người học. 
Cách thức đánh giá thi cử chậm đổi mới, tạo ra tâm lí dạy và học để đối phó thi cử, gây căng thẳng cho 
người dạy, người học, cho xã hội, làm chậm quá trình đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường. 
Ngoài ra, tình trạng dạy thêm, học thêm tràn lan tồn tại từ nhiều năm nay, có những biểu hiện tiêu cực 
nhưng chưa tìm được giải pháp cơ bản để ngăn chặn [103]. 
Theo Hoàng Xuân Sính, “Các GV hiện nay luôn luôn bị ám ảnh bởi việc nhồi kiến thức vào 
đầu HS, coi như mục đích của giáo dục, mà nhiều khi không nghĩ tới việc HS hiểu ra sao. Đối với GV, 
điều tốt nhất là lớp trật tự, HS học như thầy cô dạy, học trật ra khỏi đường ray thì lập tức nhận được 
một con số 0 tròn như quả trứng gà công nghiệp,…”[20]. 
Theo Lê Nguyên Long, có những chiếc vòng kim cô kiềm toả các phương pháp dạy học. Đó là: 
Chiếc vòng kim cô thứ 1: MỤC ĐÍCH DẠY HỌC, Chiếc vòng kim cô thứ 2: NỘI DUNG DẠY HỌC, 
Chiếc vòng kim cô thứ 3: ĐỐI TƯỢNG DẠY HỌC. 
 Nhận thấy việc dạy học ở nhà trường hiện nay là nhồi nhét kiến thức cho HS trong giờ chính 
khoá, phụ đạo, dạy thêm, luyện thi để HS thi đại học. Và đề thi đại học cũng gần như chỉ đòi hỏi HS 
học nhồi nhét. 
 Mục đích dạy học của quá trình dạy học hiện thực dường như khó có thể làm khác: cứ học hết 
cấp này thì học lên cấp cao hơn cho đến bậc đại học. 
 Công cuộc đổi mới đất nước, với nền kinh tế thị trường yêu cầu mới như ngoại ngữ, vi tính, 
quản trị kinh doanh. Từ đó điều chỉnh mục đích và tự động cụ thể hoá vào nội dung của quá trình dạy 
học, làm cho phương pháp dạy học nhồi nhét trở thành một tất yếu. 
 Khi xã hội, giáo dục nhận thức nền kinh tế thị trường thì mục đích dạy học đã có chuyển biến 
tích cực. Khẳng định học đại học không thể coi là con đường duy nhất lập thân của giới trẻ mà phẩm 
chất trí tuệ như óc sáng tạo, tính linh hoạt thích ứng với hoàn cảnh, sự nhạy bén trong tìm tòi và vận 
dụng khoa học công nghệ còn quan trọng hơn tri thức đơn thuần. 
Đối với phương pháp dạy học môn Lí: yêu cầu hàng đầu là thí nghiệm biểu diễn của GV và thí 
nghiệm thực hành của chính HS, không thể có chỗ đứng cho “phương pháp dạy” chỉ dùng phấn viết và 
lời nói, hay lạm dụng toán học để chứng minh có kết quả một cách đơn giản. 
Thực tế, nhiều giáo viên lên lớp theo kiểu dạy “chay”, giáo viên ít làm những thí nghiệm biểu 
diễn cho học sinh xem. Thay vì phải thực hiện các thí nghiệm, giáo viên chỉ mô tả hoặc thậm chí bỏ 
qua, học sinh ít khi được giáo viên cho trực tiếp làm những thí nghiệm thực hành. Hiện nay nhiều GV 
dạy môn thực nghiệm còn chưa tận dụng hết các phương tiện thí nghiệm sẵn có để làm nổi bật đặc 
trưng thực nghiệm của môn học, mà chính nó có giá trị to lớn trong việc hình thành năng lực sáng tạo 
của con người. 
 Nội dung chương trình học của nhà trường phổ thông nhìn chung là nặng, phổ biến ở tất cả các 
cấp học, bậc học và ở nhiều môn khác. Đôi khi GV cũng muốn áp dụng phương pháp hiệu quả song 
quỹ thời gian dành cho môn học dường như không cho phép thực hiện. 
 Nếu quá trình dạy học và phương pháp dạy học không có biện pháp hữu hiệu nhằm khơi dậy 
tính tích cực của HS thì sự lĩnh hội ấy là quá trình bên ngoài và áp đặt, khó đạt hiệu quả cần thiết. 
Bên cạnh đó, điều kiện dạy học (môi trường dạy học): cơ sở vật chất, điều kiện vệ sinh, không 
khí học tập của lớp, HS, ảnh hưởng gia đình, xã hội, …GV dạy môn thực nghiệm sẽ không thể nào vận 
dụng tốt một phương pháp dạy học dùng thí nghiệm hay mô hình trực quan khi các phương tiện dạy 
học còn thiếu và chưa đồng bộ do đó chưa khơi dậy được sự ham thích học môn vật lí và nhu cầu hoạt 
động nhận thức tích cực, sáng tạo của học sinh. 
 Một lớp học chật hẹp, số lượng HS quá đông không thể cho phép GV phát huy hoạt động tự lực 
suy nghĩ trong quá trình học tập. 
 Một bầu không khí học tập uể oải, sợ sệt nảy sinh từ những quan hệ thiếu thông cảm giữa GV 
và HS chắc chắn khó đảm bảo cho bất kì cải tiến, phương pháp dạy học nào [25]. 
Hồ Chí Minh nhiều lần bày tỏ quan điểm chống lại cách dạy, cách học không hướng vào sự 
phát triển của người học, không kích thích suy nghĩ trong học tập. Với người dạy, Người chỉ thị “phải 
tuyệt đối tránh nhồi sọ, không nên đào tạo, giáo dục HS thành những con người thụ động, máy móc 
tuân thủ”, với người học Người khuyên “không nên học thuộc lòng từng câu từng chữ, tuyệt đối không 
nhắm mắt tuân theo sách vở một cách xuôi chiều”. Người nhấn mạnh việc cần phải tránh là thiếu sự 
chủ động và độc lập khi học tập. Vì vậy, dạy học phải nhằm phát triển trí tuệ, tính độc lập, sáng tạo và 
tính tích cực của người học [75]. 
 Chính vì vậy, cần phải có sự đổi mới trong dạy học nói chung và dạy học vật lí nói riêng, việc 
đổi mới cần phải đồng bộ, toàn diện các yếu tố của quá trình dạy học mới có thể cải tiến hiện trạng dạy 
học vật lí và đáp ứng mục tiêu dạy học vật lí hiện nay. 
1.1.5. Đổi mới toàn diện các yếu tố của quá trình dạy học 
 Quá trình dạy học được tạo thành từ các yếu tố: mục tiêu, nội dung, hoạt động dạy, hoạt động 
học, phương tiện và kết quả. Các yếu tố này tồn tại trong mối liên hệ hữu cơ chặt chẽ với nhau, việc 
đổi mới phương pháp dạy học cần được xem xét ở tất cả các yếu tố của quá trình dạy học [76]. 
Bảng 1.2. Đổi mới phương pháp dạy học theo các yếu tố của quá trình dạy học 
Các yếu tố 
dạy học Cách dạy học cũ Cách dạy học mới 
1. Mục tiêu 
Của giáo viên (“Qua bài học 
này, giúp cho học sinh ….”). 
Của học sinh (“Sau bài học này, 
học sinh phải …”). 
Chỉ rõ sản phẩm mà học sinh cần 
phải đạt được sau bài học. 
2. Nội dung 
Dàn trải, đều, một số xa rời 
thực tiễn, ít có ích cho học 
sinh. Nặng về kiến thức, nhẹ 
về kĩ năng. 
Tinh giản, vững chắc, thiết thực, 
vì lợi ích của học sinh. 
Coi trọng cả kiến thức và kĩ năng. 
3. Phương 
pháp dạy học 
Truyền thống, theo kiểu giải 
thích – minh họa. 
+ GV: Truyền thụ một chiều 
kiến thức đã chuẩn bị sẵn. 
+ HS: Thông hiểu, ghi nhớ 
(nặng về ghi nhớ máy móc), 
tái hiện. 
Các phương pháp truyền thống 
được sử dụng theo hướng tích cực 
hoá hoạt động học tập của học 
sinh (thuyết trình có sự tham gia 
tích cực của học sinh, đàm thoại 
gợi mở, …). Phương pháp giải 
quyết vấn đề được sử dụng nhiều. 
Một số phương pháp dạy học mới, 
thích hợp (thảo luận, tranh luận, 
điều tra, báo cáo, đóng vai, động 
não, dự án, …) được sử dụng 
nhiều hơn. 
4. Hình thức 
tổ chức 
 dạy học 
Theo lớp, đồng loạt. Đa dạng: 
+ Trên lớp: cá nhân, nhóm, lớp. 
+ Ngoại khoá: câu lạc bộ vật lí, đố 
vui, trò chơi học tập,… 
5. Phương 
tiện dạy học 
Truyền thống, sử dụng chủ 
yếu theo kiểu minh họa. 
Truyền thống, hiện đại (máy 
chiếu, băng hình video, vi tính, 
powerpoint, …). 
Sử dụng chủ yếu theo hướng 
nguồn tri thức (hướng dẫn học 
sinh khai thác tri thức từ chính các 
phương tiện dạy học). 
6. Kiểm tra, 
đánh giá 
Hình thức đơn điệu: tự luận, 
hỏi miệng. 
Nội dung: chủ yếu kiến thức, 
nặng về tái hiện. 
Giáo viên độc quyền đánh 
giá. 
Hình thức đa dạng: tự luận, hỏi 
miệng, trắc nghiệm khách quan, 
bài tập,… 
Nội dung: cả kiến thức lẫn kĩ 
năng, chú trọng suy luận, nếu có 
tái hiện thì yêu cầu ghi nhớ logic. 
Giáo viên kết hợp với học sinh 
đánh giá, tạo điều kiện cho học 
sinh đánh giá. 
7. Điều kiện 
vật chất 
Bảng đen, phấn trắng. Bảng đen, phấn trắng, bàn ghế 
thuận tiện cho việc di chuyển học 
theo nhóm, máy vi tính và các 
điều kiện khác phục vụ dạy học. 
Phòng học bộ môn. 
8. Giáo viên 
Tạm bằng lòng với vốn 
chuyên môn, nghiệp vụ có 
sẵn. 
Luôn phải nâng cao năng lực 
chuyên môn, nghiệp vụ, tiếp cận 
với phương pháp dạy học tiên tiến 
và phương tiện dạy học hiện đại 
cũng như cập nhật kiến thức mới. 
9. Học sinh 
Kết hợp nghe giảng với ghi 
chép đầy đủ, hệ thống. 
Có kĩ năng kết hợp vở ghi với 
sách giáo khoa khi học bài ở 
Có kĩ năng làm việc với các 
nguồn tri thức (kĩ năng làm việc 
với sách giáo khoa, với thí 
nghiệm, phương tiện trực quan, 
nhà. với máy vi tính, với băng hình, 
với internet, …). 
Có kĩ năng chọn lọc, xử lí và hệ 
thống hoá thông tin. 
10. Cán bộ 
quản lí 
 giáo dục 
An tâm với hoạt động dạy 
học bình thường của nhà 
trường. 
Trăn trở, chia sẻ với những suy 
nghĩ, việc làm của giáo viên. 
Quan tâm, ủng hộ, khuyến khích, 
tạo điều kiện và nhân rộng điển 
hình tốt về đổi mới phương pháp 
dạy học. 
Cho đến nay, trải qua bao thế kỉ, song HS vẫn phải đối mặt với cách dạy học “thầy giảng – trò 
ghi chép”, được cách tân bởi việc hỏi – đáp, làm bài tập nào đó. Dù đã phải chịu tải quá khả năng 
“gánh vác” của bản thân, nhiều HS vẫn chưa hiểu hết bài vở và đa số ít có cơ hội cũng như năng lực 
vận dụng tri thức theo yêu cầu và mong muốn. Vì thế, việc đổi mới quan niệm và hoạt động dạy và học 
theo tinh thần nhân văn là một xu thế chung [24]. 
 Quan niệm về dạy học 
 Nếu như trước đây, dạy học được hiểu là sự truyền thụ kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, thì hiện nay 
đó là quá trình tương tác giữa thầy và trò, giữa HS với nhau, hay giữa thầy, trò với các lực lượng tham 
gia giáo dục. 
Một mối quan hệ mới đã hình thành giữa dạy và học, qua đó, việc “dạy học lấy thầy làm trung 
tâm” đã chuyển thành “dạy học tập trung vào người học” hay “hướng vào người học”. Đó là sự định 
hướng theo nhu cầu và khả năng của người học, tích cực hoá hoạt động học tập,… 
Theo F.E.Weinert 
Học tập không chỉ là mà còn là 
thụ động tích cực 
tiếp nhận tạo lập 
hướng vào kết quả hướng vào quá trình 
cá nhân hợp tác 
tập thể hướng vào nhóm nhỏ 
từ bên ngoài từ bên trong 
do GV do HS 
Giảng dạy không chỉ là mà còn là 
sự coi trọng theo tình huống 
tính hệ thống gắn với tài liệu 
 gắn với dự án 
cụ thể bao quát bộ môn 
Phương pháp giảng dạy 
coi GV là chủ đạo coi HS là chủ đạo 
Quan niệm trên đây đòi hỏi phải khắc phục những yếu kém cả về lý luận lẫn hành động thực tế 
thường thấy là: 
 Coi trọng kiến thức, thông tin hơn năng lực nhận thức. 
 GV giảng giải nhiều hơn HS học. 
 Chú ý đến khả năng ghi nhớ hơn cách học. 
 Quan tâm đến thành tích. 
 Không chú ý đến mối quan hệ giữa mục tiêu – nội dung – phương pháp – điều kiện – đánh giá. 
 Theo Nguyễn Văn Tường, Đổi mới phương pháp dạy học là nhu cầu tất yếu của nhà giáo [70]. 
Đổi mới phương pháp dạy học ở các mức độ sau đây: 
 Đổi mới phương pháp dạy học là sự cải tiến, hoàn thiện phương pháp dạy học đang sử dụng để góp 
phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của việc dạy học. 
 Đổi mới phương pháp dạy học là bổ sung, phối hợp nhiều phương pháp dạy học để khắc phục mặt 
hạn chế của phương pháp đã và đang sử dụng, nhằm đạt được mục tiêu dạy học. 
 Đổi mới phương pháp dạy học là thay đổi phương pháp đã và đang sử dụng, bằng phương pháp mới 
ưu việt hơn, đem lại hiệu quả dạy học cao hơn. 
Trong dạy học, xét ở góc độ phát triển tư duy, phương pháp thuyết trình dù hấp dẫn đến mấy 
cũng không đặt hiệu quả cao bằng phương pháp thảo luận, tranh luận và xử lí tình huống. 
 Phải nhìn nhận rằng, đã là nhà giáo ai cũng có lòng tự trọng, ai cũng có nhu cầu đổi mới phương 
pháp dạy học nhưng mức độ mãnh liệt thôi thúc nhu cầu ấy đòi hỏi nhà giáo phải tự giác thực hiện đổi 
mới phương pháp dạy học thì khác nhau, tạo ra sự phân hóa trong hàng ngũ nhà giáo. Có thể khái quát 
thành 3 dạng: 
 Dạng 1: Đổi mới phương pháp dạy học đối với họ không chỉ là nhu cầu tất yếu mà còn là lương tâm 
và trách nhiệm của người thầy. Họ thực sự là những nhà giáo “dù khó khăn đến mấy vẫn phấn đấu dạy 
tốt”. 
 Dạng 2: Những người “trung bình chủ nghĩa”, nhu cầu đổi mới phương pháp dạy học chưa mạnh mẽ 
đối với họ, dạy học bị phân tán, còn ngại khó, chưa thực sự đầu tư nhiều cho hoạt động nghề nghiệp, 
có khi còn nặng về hình thức, đối phó. 
 Dạng 3: Một bộ phận không nhiều nhà giáo tha hóa bị cuốn hút bởi mãnh lực đồng tiền. Đổi mới 
phương pháp dạy học đối với họ không phải là nhu cầu tất yếu xuất phát từ lương tâm và trách nhiệm 
của nhà giáo mà từ lợi ích vật chất cho bản thân. Đây là dạng nhà giáo suy thoái, không còn bản lĩnh 
nghề nghiệp, làm giảm uy tín nhà giáo, cần được sàng lọc. 
 Hiểu đổi mới phương pháp dạy học là nhu cầu tất yếu của nhà giáo là nhìn vấn đề từ bản chất 
nhà giáo, từ bản chất của quá trình dạy học. Một khi có được đội ngũ nhà giáo yêu nghề, đủ đức, đủ tài 
đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ, có nhận thức và thái độ đúng đắn về thiên chức của mình, có nhu cầu 
đổi mới phương pháp dạy học thì vấn đề đổi mới phương pháp dạy học sẽ không còn là một vấn đề bức 
xúc như hiện nay. 
1.2. Cơ sở lí luận của dạy học Vật lí theo định hướng phát huy tính tích cực, tự lực, và sáng tạo 
của học sinh 
1.2.1. Phát huy tính tích cực hoạt động học tập Vật lí của học sinh [7], [73], [76], [79], [102], [105] 
 1.2.1.1. Quan niệm về tính tích cực học tập 
 Theo từ điển Tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên) “Tích cực 
  Có ý nghĩa, có tác dụng khẳng định, tác dụng thúc đẩy sự phát triển. 
  Tỏ ra chủ động, có những hoạt động nhằm tạo ra sự biến đổi theo hướng phát triển. 
  Hăng hái, tỏ ra nhiệt tình đối với nhiệm vụ, với công việc.” 
 Kharlamov cho rằng “Tính tích cực là trạng thái hoạt động của chủ thể, có nghĩa là của người 
hành động. Tính tích cực nhận thức là trạng thái hoạt động của HS đặc trưng bởi khát vọng học tập, cố 
gắng trí tuệ và nghị lực cao trong quá trình nắm vững kiến thức”. 
 Theo Bùi Minh Đức, Nên quan niệm thế nào về phương pháp dạy học tích cực, Đó là: Phương 
pháp dạy học tích cực = Phương pháp dạy tích cực của GV + Phương pháp học tích cực của HS. 
Phương pháp dạy học tích cực là phương pháp mà khi vận dụng sẽ phát huy tính tích cực của 
GV và cả HS. Phương pháp dạy học tích cực là phương pháp mà khi vận dụng vừa đòi hỏi vừa thúc 
đẩy sự tích cực bên trong (tư duy, tình cảm) và tích cực bên ngoài (thái độ, hành động) của cả GV và 
HS [7]. 
 Giáo dục có thể tạo điều kiện tốt cho việc phát huy tính tích cực của học sinh, là điều kiện cần 
cho sự phát triển tư duy độc lập và sáng tạo của người học, tuy nhiên nếu học sinh không được phát 
huy tính tích cực của mình nhất là với phương pháp dạy học truyền thống của giáo viên thì có thể làm 
cho người học trở nên thụ động, thiếu tự tin, và khó mà phát huy được khả năng sáng tạo của học sinh. 
 1.2.1.2. Những dấu hiệu của tính tích cực và cấp độ biểu hiện [76] 
 Những dấu hiệu của tính tích cực theo G.I.Sukina (1979) là: 
  Học sinh khao khát, tự nguyện tham gia trả lời các câu hỏi của giáo viên, bổ sung các câu trả lời 
của bạn, thích được phát biểu ý kiến của mình về vấn đề nêu ra. 
  Học sinh hay nêu thắc mắc, đòi hỏi phải giải thích cặn kẽ những vấn đề giáo viên trình bày chưa 
đủ rõ. 
  Học sinh chủ động vận dụng linh hoạt những kiến thức, kỹ năng đã học để nhận thức các vấn đề 
mới. 
  Học sinh mong muốn đóng góp với giáo viên, với bạn những thông tin mới lấy từ những nguồn 
khác nhau, có khi vượt ra ngoài phạm vi bài học, môn học. 
 Ngoài ra còn có những biểu hiện về mặt xúc cảm như sự thờ ơ hay hào hứng, phớt lờ hay ngạc 
nhiên, buồn chán hay thích thú trước nội dung của bài học nào đó hoặc khi tìm ra được lời giải thích 
cho một vấn đề hay bài tập nào đó, … 
 G.I.Sukina (1979) còn phân biệt những biểu hiện của tính tích cực học tập về mặt ý chí: Tập 
trung chú ý về vấn đề đang học, kiên trì làm cho xong bài tập, không nản trước các tình huống khó 
khăn, thái độ tiếc rẻ khi giờ học kết thúc,… 
Có thể phân biệt 3 cấp độ biểu hiện tính tích cực từ thấp đến cao: 
 Bắt chước: học sinh bắt chước hành động, thao tác của giáo viên, của bạn bè. 
 Tìm tòi: học sinh độc lập, tự lực giải quyết bài tập nêu ra. 
 Sáng tạo: học sinh nghĩ ra cách giải mới, độc đáo, đề xuất những giải pháp có hiệu quả, có sáng kiến 
lắp đặt những thí nghiệm để chứng minh bài học. Dĩ nhiên, mức sáng tạo của học sinh có hạn nhưng đó 
là mầm mống của sự sáng tạo sau này. 
 1.2.1.3. Cơ sở tâm lí của việc phát huy tính tích cực học tập của học sinh [29], [76] 
 Phát huy tính tích cực hoạt động là mục tiêu có tính khả thi khi mà việc dạy học mọi cấp học, bậc 
học ngày nay hướng tới. 
 Động cơ liên quan trực tiếp đến việc tạo ra và duy trì hứng thú hoạt động 
 Động cơ học tập là một trong những yếu tố đặc biệt quan trọng có liên quan đến hoạt động dạy 
học. Động cơ học tập chính là động lực thúc đẩy, là yếu tố tác động đến chất lượng hoạt động học tập. 
Nhiệm vụ của người GV trong quá trình dạy là phải làm sao để có thể hình thành được động cơ học tập 
cho HS. Nói chung, có rất nhiều yếu tố tác động đến việc HS có động cơ học tập hay không. Ví dụ như 
bản chất của nhiệm vụ học tập, đặc điểm cá nhân HS, bầu không khí tâm lí của lớp, nhân cách và 
phong cách của GV, vấn đề ở đây là những phương pháp tác động của GV để có thể hình thành động 
cơ học tập cho HS. 
 Động cơ học tập bên ngoài (theo trường phái tâm lí học hành vi) là những động cơ học tập xuất 
phát từ bên ngoài hoạt động học tập và có tác dụng thúc đẩy việc học của HS. GV có thể sử dụng các 
hình thức khen thưởng hay trách phạt theo những cách thức khác nhau mà Skinner gọi là những 
“chương trình củng cố” để thúc đẩy HS học tập. 
 Động cơ học tập bên trong (theo trường phái tâm lí học nhận thức) chủ yếu của người học nằm 
bên trong bản thân mỗi người và xuất phát từ chính hoạt động học mà không nhận được bất kì một 
phần thưởng bên ngoài nào mà phần thưởng thực sự nằm bên trong bản thân hoạt động học, người học 
hi vọng khám phá những cái mới lạ, sự cố gắng để hiểu và giải quyết những vấn đề, mong muốn tiến 
bộ trong học tập. 
 Động cơ học tập bên trong đóng vai trò đặc biệt quan trọng vì khi người học hình thành được 
loại động cơ này họ sẽ tham gia tích cực vào hoạt động học vì lợi ích của bản thân, xuất phát từ chính 
người học nên thường ít tạo nên sự căng thẳng, sức ép tâm lí, nó có tác dụng khuyến khích HS có hứng 
thú trong việc học thêm những tri thức mới. Đây là một trong những điều kiện quan trong để người học 
có thể thực hiện mục tiêu “học suốt đời”. 
 Cản trở lớn nhất đối với GV trong việc hình thành động cơ học tập bên trong cho HS là những 
động cơ này khó hình thành. Vì vậy, trước hết GV nên cung cấp cho HS những nhiệm vụ học tập có 
mức độ khó phù hợp với khả năng giải quyết của HS, GV cần dành một khoảng thời gian ngắn trước 
khi bắt đầu vào môn học để giới thiệu cho HS đặc điểm của môn học và những vấn đề lớn mà môn học 
giải quyết. Bên cạnh đó, GV tạo điều kiện để HS có cơ hội tham gia tích cực hoạt động học, khuyến 
khích HS trao đổi thảo luận trong nhóm. 
 Hứng thú là tiền đề của tự giác 
 A. Kômenski xem tạo hứng thú là một trong các con đường chủ yếu để “làm cho học tập trong 
nhà trường trở thành niềm vui” chứ không phải là một gánh nặng. Lý luận dạy học hiện đại 
xem hứng thú là yếu tố có ý nghĩa to lớn không chỉ trong quá trình dạy học mà cả đối với sự phát triển 
toàn diện, sự hình thành nhân cách của HS. Hứng thú dẫn tới sự tự giác, hứng thú và tự giác là hai yếu 
tố tâm lí bảo đảm tính tích cực và độc lập sáng tạo trong học tập. Điều đó cũng có nghĩa là không có 
hứng thú thì không có tự giác, không có hứng thú, không có tự giác thì không có sự chủ động hoạt 
động hay hoạt động sẽ là thụ động, là bắt chước. 
 Khi người học không tham gia vào hoạt động hay tham gia một cách thụ động thì kết quả học 
tập thường nghèo nàn, thường kiến thức được ghi nhớ máy móc, do đó kiến thức sẽ mau quên, quan 
trọng hơn là không mang lại sự chuyển biến tích cực nào về tâm lí và nhận thức của người học. 
 Kinh nghiệm dạy học và các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy để hình thành, phát triển hứng 
thú nhận thức của HS, cần có các đặc điểm sau đây: 
  Phát huy tối đa hoạt động tư duy tích cực của HS, tổ chức những tình huống có vấn đề đòi 
hỏi HS nêu giả thuyết, tranh luận giữa những ý kiến trái ngược nhau. 
  Tiến trình dạy học ở mức độ phù hợp với trình độ phát triển của HS, một nội dung quá dễ 
hoặc quá khó đều không gây được sự hứng thú, cần biết dẫn dắt để HS luôn luôn tìm thấy cái mới. 
  GV tạo ra một bầu không khí thuận lợi cho lớp học, làm cho HS thích thú được đến lớp, 
mong đợi đến giờ học. GV bằng tác phong gần gũi, thân mật, uy tín tạo ra sự tin cậy của HS, tạo ra sự 
hứng thú học tập cho cả lớp và niềm vui học tập của từng HS. 
 Tự giác và hứng thú là hai yếu tố quan trọng tạo nên và duy trì tính tích cực 
 Phát huy tính tích cực, chủ động hoạt động học tập là điều kiện cần để lĩnh hội phương thức 
hành động, để rèn luyện kĩ năng, hình thành năng lực. Dạy học thường xuyên phát huy tính tích cực là 
dạy học góp phần phát triển tư duy và sự sáng tạo. 
 Tích cực một cách chủ động là cơ sở để tìm ra con đường, phương thức hoạt động giúp duy trì 
và tăng cường hứng thú hoạt động, giúp người học đạt được mục tiêu hoạt động. 
 Tính tích cực sản sinh tư duy độc lập 
 Tích cực, chủ động, tự giác là các yếu tố cần thiết để tiếp nhận phương thức hành động, nắm 
vững phương thức hành động là cơ sở để tư duy độc lập. Vì vậy, dạy học nếu không phát huy được tính 
tích cực, chủ động, tự giác của người học thì không thể giúp HS phát triển tư duy. 
 Tư duy độc lập là cơ sở để rèn luyện tư duy phê phán 
 Tư duy độc lập có được nhờ tìm ra phương thức giải quyết các vấn đề vì thế tư duy độc lập là cơ 
sở của óc phê phán, đánh giá. 
 Tư duy độc lập, tư duy phê phán là điều kiện cần không thể thiếu và là mầm mống của sự sáng tạo 
 Sáng tạo thường chỉ liên quan tới tư duy tích cực chủ động, tư duy độc lập, tư duy phê phán. 
Người có trí sáng tạo thường không suy nghĩ theo lề lối chung, không bị ràng buộc bởi những quy tắc 
hành động cứng nhắc đã được học. Dạy học có thể và cần phải phát huy óc sáng tạo của mỗi người tùy 
vào tiềm năng của cá nhân và sự phát triển tư duy qua hoạt động học tập của HS. 
 1.2.1.4. Các biện pháp tăng cường tính tích cực của học sinh khi dạy học Vật lí [36], 55], 
[73] 
 Tạo tình huống có vấn đề nhằm tạo hứng thú học tập 
 Theo Phạm Hữu Tòng, “tình huống có vấn đề” là tình huống mà khi HS tham gia thì gặp khó 
khăn, HS ý thức được vấn đề mong muốn giải quyết vấn đề đó và cảm thấy với khả năng của mình thì 
hi vọng có thể giải quyết được vấn đề đó. Tình huống này kích thích hoạt động nhận thức tích cực của 
HS. 
 Tình huống có vấn đề trong dạy học vật lí cần phải dựa vào các điều kiện sau: 
  Điều kiện cần: tình huống được lựa chọn phải phù hợp với kiến thức và mức độ kiến thức cần 
giảng dạy (đánh giá tính đúng đắn của tình huống được lựa chọn). 
  Điều kiện đủ: tình huống lựa chọn trở nên có vấn đề đối với HS trong hoạt động nhận thức 
học tập và thể hiện mối quan hệ biện chứng với quá trình hình thành kiến thức bài học (đánh giá tính 
phù hợp của tình huống được lựa chọn). 
 Quan hệ giữa tình huống có vấn đề với hoạt động học tập của HS là: 
  Hình thành vấn đề nhận thức: tình huống lựa chọn sẽ trở nên có vấn đề với HS nếu khi phân 
tích xuất hiện những câu hỏi mà với kiến thức, kinh nghiệm, kĩ năng, phương pháp nhận thức, … đã có 
HS chưa thể giải đáp được, từ đó xuất hiện nhu cầu, hứng thú nhận thức. 
  Đề xuất các giả thuyết: tình huống lựa chọn thể hiện sự phù hợp với HS, khi phân tích các 
tình huống bằng kiến thức, kinh nghiệm,… đã có HS có thể đề xuất những câu trả lời sơ bộ (giả thuyết) 
cho vấn đề nhận thức đặt ra. 
  Đề xuất phương án thí nghiệm kiểm tra giả thuyết: tình huống lựa chọn thể hiện tính vừa sức 
với HS, khi nghiên cứu kĩ lưỡng tình huống, HS có thể đề xuất phương án kiểm tra giả thuyết. 
  Vận dụng: các tình huống ban đầu sẽ được kiểm tra sự đúng đắn bằng cách vận dụng kiến 
thức mới để giải thích nó và từ đó xác định được phạm vi hữu hiệu của kiến thức. 
 Tạo các động cơ học tập 
 Theo Lêonchep thì hình thành động cơ học tập cho HS là công việc có tầm quan trọng to lớn và 
rất cần thiết. Để tạo động cơ nhận thức cho HS không những chỉ đưa HS vào các tình huống thích hợp 
mà điều quan trọng là đảm bảo cho HS hành động có kết quả, từng bước giải quyết vấn đề, chính sự 
thành công trong tiến trình đó cũng sẽ là một động cơ to lớn tạo hứng thú cho HS. Vấn đề này đã được 
trình bày ở mục động cơ học tập liên quan trực tiếp đến việc tạo ra và duy trì hứng thú hoạt động.
 Làm rõ vai trò của Vật lí trong khoa học – kĩ thuật và đời sống 
  Tạo các tình huống có vấn đề luôn gắn chặt và xuất phát từ thực tiễn. 
  Sử dụng các kiến thức vật lí để giải thích các hiện tượng vật lí, giải các bài toán có ý nghĩa 
thực tiễn. 
  Giới thiệu và cho HS sưu tầm những ứng dụng của vật lí trong khoa học, kĩ thuật và đời 
sống. Nêu những thí dụ thực tiễn để hình thành kiến thức, làm tăng sức thuyết phục và hứng thú đối 
với HS. 
1.2.2. Phát huy tính tự lực hoạt động học tập Vật lí của học sinh [48], [55], [73] 
 1.2.2.1. Đảm bảo cho học sinh có điều kiện thuận lợi để tự lực hoạt động 
 HS lâu nay quen thụ động, ít tự lực suy nghĩ, rụt rè, lúng túng, cho nên GV cần động viên, 
khuyến khích, giúp đỡ sao cho HS mạnh dạn tham gia thảo luận, phát biểu ý kiến riêng của mình. 
 Ngoài ra, tạo điều kiện để HS có thể tự lực giải quyết thành công những nhiệm vụ được giao. 
GV phân chia bài học thành những vấn đề nhỏ phù hợp với trình độ của HS để HS tự lực hoạt động 
chiếm lĩnh kiến thức với sự cố gắng vừa phải. 
 Bên cạnh đó, rèn luyện cho HS kỹ năng tự thực hiện một số thao tác cơ bản như quan sát, sử 
dụng, lắp ráp các thiết bị thí nghiệm, và có thể xử lí kết quả thí nghiệm. 
 1.2.2.2. Định hướng, giúp đỡ học sinh tự lực học tập trên lớp 
 Trong dạy học, nếu chỉ bằng lòng với chức năng của GV là cung cấp, giảng giải kiến thức, thì 
người học dĩ nhiên được đặt vào vị trí thụ động và thừa hành bắt chước. Nhưng nếu ngược lại, đòi hỏi 
quá cao thì người học không thể đạt được mục tiêu kiến thức và kĩ năng mong muốn. Vì vậy, GV phải 
giúp đỡ, tạo điều kiện để HS tự lực suy nghĩ, hướng dẫn giải quyết những vấn đề. 
  Đầu tiên, GV định hướng HS phải tự lực tìm tòi giải quyết vấn đề đặt ra. 
  Sau đó, nếu HS không đáp ứng được thì sự giúp đỡ tiếp theo của GV cụ thể hoá, chi tiết hoá, 
gợi ý thêm để thu hẹp hơn phạm vi, mức độ tìm tòi giải quyết cho vừa sức HS. 
  Nếu HS vẫn không đáp ứng được thì sự hướng dẫn của GV chuyển sang kiểu định hướng tái 
tạo để HS tự giải quyết vấn đề đã đặt ra. 
 1.2.2.3. Định hướng, giúp đỡ học sinh tự lực học tập tại nhà 
 Tự lực học tại nhà là hoạt động không thể thiếu và bắt buộc trong quá trình học tập của HS. Vì: 
  Học là hoạt động nhận thức của cá nhân nên phải thông qua chính hoạt động quá trình nhận 
thức của cá nhân mới có thể thực hiện được. 
  Lượng kiến thức cần cung cấp cho HS rất lớn so với thời gian học tập trong nhà trường nên 
không thể chỉ tiếp nhận thông qua quá trình học tập trên lớp. 
  Việc tiếp thu kiến thức trên lớp thường không thực hiện được đầy đủ mà phải có sự bổ sung 
bằng việc tự học tự lực sau giờ học tại nhà. Qua đó rèn luyện kĩ năng cho chính bản thân HS. 
 Vì vậy, GV hướng dẫn, giúp đỡ HS học tập có kết quả tại nhà bằng các cách như sau: 
  Hướng dẫn HS đọc trước sách giáo khoa và tự xác định những kiến thức mới trong bài học. 
  GV cho trước một số câu hỏi có liên quan đến bài học mới. Các câu hỏi có thể là những câu 
hỏi tổng quát hoặc câu hỏi chi tiết của bài học để HS đọc sách giáo khoa và tự lực trả lời các câu hỏi. 
  GV có thể cho HS mô tả một thí nghiệm được trình bày trong sách giáo khoa và sau đó trình 
bày lại trước lớp những vấn đề đạt được. 
  GV cũng có thể giao cho HS tìm những thí dụ mới tương tự sách giáo khoa để làm phong 
phú thêm nội dung của bài học. 
1.2.3. Phát triển năng lực sáng tạo của học sinh [29], [87] 
 1.2.3.1. Khái niệm năng lực sáng tạo 
 Năng lực là một cấu trúc tâm lí của nhân cách phù hợp với những yêu cầu, đòi hỏi đặc trưng của 
từng hoạt động, làm cho hoạt động đạt kết quả cao trong những điều kiện nhất định. Năng lực gắn liền 
với hoạt động, hoạt động biểu hiện ở đó năng lực, năng lực được hình thành và phát triển qua hoạt 
động. Năng lực được tính bằng hiệu quả của hoạt động, không đạt hiệu quả cao thì không thể gọi là có 
năng lực,… 
 Sáng tạo là một loại hoạt động mà kết quả của nó là một sản phẩm tinh thần hay vật chất có tính 
cách tân, có ý nghĩa xã hội, có giá trị. 
 Năng lực sáng tạo có thể hiểu là khả năng tạo ra những giá trị mới về vật chất và tinh thần, tìm 
ra cái mới, giải pháp mới, công cụ mới, vận dụng thành công những hiểu biết đã có vào hoàn cảnh mới. 
 Đối với HS, năng lực sáng tạo trong học tập chính là năng lực biết giải quyết vấn đề học tập để 
tìm ra cái mới ở một mức độ nào đó thể hiện khuynh hướng, năng lực, kinh nghiệm của cá nhân HS. 
HS sáng tạo cái mới đối với chúng nhưng thường không có giá trị xã hội. 
 1.2.3.2. Những biểu hiện của năng lực sáng tạo của HS trong học tập 
 Năng lực chuyển tải tri thức và kĩ năng từ lĩnh vực quen biết sang tình huống mới, vận dụng 
kiến thức đã học trong điều kiện, hoàn cảnh mới. 
 Năng lực nhận thấy vấn đề mới trong điều kiện quen biết. 
 Năng lực nhìn thấy cấu trúc của đối tượng đang nghiên cứu. 
 Năng lực biết đề xuất các giải pháp khác nhau khi phải xử lí một tình huống, khả năng đưa ra 
các giả thuyết hay các dự đoán khác nhau khi phải lí giải một hiện tượng. 
 Năng lực xác nhận bằng lí thuyết và thực hành các giả thuyết. 
 Năng lực nhìn nhận một vấn đề dưới các góc độ khác nhau, xem xét đối tượng ở những khía 
cạnh khác nhau, đôi khi mâu thuẫn, tìm ra các giải pháp lạ. 
 1.2.3.3. Các yếu tố cần thiết cho việc rèn luyện năng lực sáng tạo của HS trong học tập 
 Yếu tố quan trọng để nảy sinh sáng tạo là hứng thú, hứng thú gây ra sáng tạo và sáng tạo lại 
thúc đẩy hứng thú mới. 
 Yếu tố cần thiết để sáng tạo là phải có kiến thức cơ bản, vững chắc. 
Yếu tố để sáng tạo là HS cần phải có tính “nghi ngờ khoa học” luôn đặt câu hỏi: “cách làm này 
hay phương án này đã tối ưu chưa?, còn cách giải quyết nào nữa không?”. 
 Một yếu tố nữa không thể thiếu là HS phải có khả năng tư duy độc lập. Đó là khả năng của con 
người trong việc tự xác định phương hướng hoạt động của mình trong tình huống mới, tự phát hiện và 
nêu lên các vấn đề cần giải quyết, tự tìm ra con đường giải quyết và thực hiện nó. 
 1.2.3.4. Các mức độ rèn luyện năng lực sáng tạo của HS trong quá trình dạy học Vật lí 
 Mức độ 1: Vận dụng cái đã biết, đã làm vào các tình huống tương tự. 
 Mức độ 2: Vận dụng cái đã biết vào tình huống có một số yếu tố mới. 
 Mức độ 3: Đề xuất vấn đề khác hẳn với cái đã biết, đã làm. 
 Trong đó, mức độ 1 có thể coi là mức điều kiện cần thiết phải rèn luyện cho HS để chuẩn bị cho 
hoạt động sáng tạo, nhất là đối với đối tượng HS yếu kém, mức 3 là mức cao nhất của việc rèn luyện 
năng lực sáng tạo cho HS khá giỏi. Và tùy theo nội dung bài học, đối tượng HS, điều kiện mà GV rèn 
luyện năng lực sáng tạo cho HS ở các mức độ khác nhau. 
 1.2.3.5. Các biện pháp nhằm rèn luyện năng lực sáng tạo cho HS trong quá trình dạy học Vật 
lí [4] 
 Các biện pháp hình thành và phát triển năng lực sáng tạo của HS như sau: 
 Tổ chức hoạt động sáng tạo gắn liền với quá trình xây dựng kiến thức mới. 
 Luyện tập phỏng đoán, dự đoán, xây dựng giả thuyết. 
 Luyện tập đề xuất phương án kiểm tra dự đoán. 
 Muốn phát triển năng lực sáng tạo của HS, phải áp dụng kiểu dạy học tích cực như dạy học giải 
quyết vấn đề, bồi dưỡng phương pháp nhận thức khoa học cho HS, đặc biệt là phương pháp thực 
nghiệm. 
 Bên cạnh đó, cần phải kết hợp với những biện pháp, đó là: GV phải biết hướng dẫn, tạo hứng 
thú học tập cho HS; tạo định hướng hành động học của HS, tổ chức cho HS tự khám phá kiến thức 
mới, không chỉ dạy cho HS chỉ có kiến thức mà cả phương pháp tự học. Chính trong hoạt động tự lực, 
được giao cho từng cá nhân hoặc theo dạy học hợp tác trong từng nhóm nhỏ thì tiềm năng sáng tạo của 
mỗi HS được bộc lộ và phát huy. 
 Ngoài ra, GV tăng cường trang bị và nâng cao hiệu quả sử dụng thiết bị dạy học vật lí, và luyện 
tập cho HS biết đặt ra nhiều giả thuyết khác nhau khi lí giải một hiện tượng, biết đề xuất những giải 
pháp khác nhau khi xử lí một tình huống. Và GV cũng thay đổi cách đánh giá phù hợp với yêu cầu rèn 
luyện năng lực sáng tạo của HS. 
1.2.4. Các phương pháp dạy học tích cực [4], [55] 
 1.2.4.1. Những dấu hiệu đặc trưng của phương pháp dạy học tích cực 
  Dạy học thông qua việc tổ chức các hoạt động học tập của HS 
 Hoạt động học là cách tốt nhất để làm biến đổi chính người học, HS không chỉ tiếp thu những 
kiến thức của người dạy, mà phải thông qua hoạt động tự lực để chiếm lĩnh kiến thức. Dạy học không 
còn là sự truyền thông tin từ thầy sang trò, thầy không còn là người truyền thông tin mà phải là người 
tổ chức, hướng dẫn điều khiển các hoạt động học tập của HS. 
  Chú trọng việc rèn luyện phương pháp tự học hơn là truyền thụ kiến thức 
 Trong một thời gian ngắn, nhà trường không thể trang bị hết cho HS những kiến thức cần thiết 
trong kho tàng tri thức của nhân loại, do vậy GV phải tìm cách hình thành ở HS phương pháp và năng 
lực tự học, tự nghiên cứu để hoàn thiện bản thân sau này. 
  Tăng cường tính tự lực của cá nhân HS đồng thời chú trọng phối hợp tương tác giữa GV – HS 
và tương tác nhóm 
 Phương pháp dạy học tích cực đòi hỏi sự cố gắng và nỗ lực của mỗi HS trong quá trình chiếm 
lĩnh kiến thức mới. Vai trò cá nhân có thể phát huy tốt thông qua sự tương tác giữa GV – HS, giữa HS 
– HS và tương tác nhóm với nhau. 
 Việc tổ chức học nhóm có nhiều ý nghĩa, giúp giải quyết những cái mà cá nhân không làm được 
như phân công hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm, tiếp sức cùng nhau giải quyết những vấn đề. Vì vậy, tạo 
điều kiện để HS bày tỏ ý kiến, bảo vệ quan điểm, phản đối những cái không hợp ý, làm cho bài học trở 
thành một quá trình hợp tác, … 
  Kết hợp đánh giá của GV và tự đánh giá của HS 
 Trong quá trình dạy học gồm hoạt động dạy và hoạt động học, luôn có sự điều chỉnh và tự điều 
chỉnh, sự đánh giá của GV và tự đánh giá của HS. Qua tự đánh giá, HS sẽ đưa ra nhận định về bản thân 
và tự điều chỉnh cách học của mình cho phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả học tập. 
 1.2.4.2. Sử dụng phương pháp đàm thoại theo hướng tích cực hoá hoạt động học tập của HS 
[4], [54] 
 Phương pháp đàm thoại là phương pháp trong đó GV đặt ra một hệ thống câu hỏi, HS sẽ trả lời 
hay trao đổi với GV hoặc tranh luận với các thành viên trong lớp để tiếp thu kiến thức mới, hay củng 
cố lại kiến thức cũ. Trong hệ thống câu hỏi ngoài các câu hỏi chính, còn có những câu hỏi phụ để gợi ý 
khi HS gặp khó khăn. 
 Có 2 dạng đàm thoại chính là: đàm thoại tái hiện và đàm thoại vấn đáp tìm tòi. 
 Đàm thoại tái hiện: các câu hỏi, vấn đề do GV đặt ra đòi hỏi HS nhớ, tái hiện lại kiến thức, kinh 
nghiệm thì có thể giải quyết được. Loại này chủ yếu dùng để củng cố kiến thức. 
 Đàm thoại vấn đáp tìm tòi: GV luôn đóng vai trò chỉ đạo, điều khiển hoạt động của HS. Hệ 
thống câu hỏi của GV giữ vai trò định hướng hoạt động nhận thức của HS, góp phần hướng dẫn HS 
từng bước phát hiện ra bản chất, quy luật của hiện tượng và quá trình vật lí [4]. 
Bảng 1.3. Một số lưu ý của GV khi sử dụng câu hỏi trong đàm thoại vấn đáp tìm tòi 
Giáo viên nên Giáo viên không nên 
Sau khi đặt câu hỏi, dừng lại một chút để HS suy 
nghĩ. 
Khi nhận xét câu trả lời của HS, GV cần cố gắng 
khích lệ, động viên HS. 
Cần tạo điều kiện để nhiều HS trả lời một câu hỏi. 
Đưa ra những gợi ý nhỏ cho các câu trả lời để đặt 
tiếp câu hỏi. 
Yêu cầu HS giải thích câu trả lời của mình. 
Yêu cầu HS liên hệ câu trả lời với những kiến thức 
khác. 
Nhắc lại câu hỏi của mình 
nhiều lần. 
Tự trả lời câu hỏi của mình 
đưa ra khi HS chưa kịp suy 
nghĩ. 
Nêu nhiều câu hỏi cùng một 
lúc. 
 Tiến trình của đàm thoại vấn đáp tìm tòi gồm các bước sau 
 Xác định mục tiêu của bài học. 
 Xác định trọng tâm của bài và những chuẩn bị cụ thể của GV và HS. 
 Tiến trình bài học: đặt vấn đề, giải quyết vấn đề, củng cố bài học. 
 Ưu và nhược điểm của phương pháp đàm thoại 
 Phát huy được tính tích cực, chủ động của HS trong học tập, giờ học sinh động và gây hứng thú 
cho GV và HS. Nếu sử dụng phương pháp đàm thoại vấn đáp tìm tòi thì ngoài nội dung HS còn nắm 
vững được phương pháp nghiên cứu, phương pháp tự học. 
 HS phải suy nghĩ, phải trình bày những kiến thức vật lí thành lời, do đó tư duy được phát triển, 
kiến thức được ghi nhớ chắc chắn và nhanh chóng làm cho hiệu quả của hoạt động dạy học nâng cao. 
 Nhược điểm của phương pháp này là mất nhiều thời gian, việc tổ chức và quản lí lớp học có 
nhiều khó khăn và có thể ảnh hưởng tới các lớp học bên cạnh. 
 1.2.4.3. Dạy học theo nhóm [4] 
 Theo cách dạy này, lớp học được chia thành nhiều nhóm nhỏ, mỗi nhóm từ 4 đến 6 HS, nhóm 
được duy trì cho từng tiết học, các nhóm được giao cùng một nhiệm vụ giống nhau hoặc khác nhau. 
Trong mỗi nhóm có một nhóm trưởng, nhóm trưởng chịu trách nhiệm phân chia công việc cho các 
thành viên trong nhóm. Trong thực hiện công việc, các thành viên trong nhóm làm việc tích cực và tạo 
không khí thi đua với các nhóm khác, GV tạo điều kiện cho HS hứng thú trong không khí thi đua này. 
Mỗi nhóm sẽ trình bày kết quả của mình trước toàn lớp và các nhóm có thể trao đổi tranh luận với 
nhau về kết quả của nhóm khác cũng như kết quả của nhóm mình. 
 Tiến trình dạy học theo nhóm 
GV làm việc chung với cả lớp: Nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ nhận thức, giao nhiệm vụ cụ thể 
cho từng nhóm, hướng dẫn tiến trình hoạt động của nhóm. 
HS làm việc theo nhóm: Nhóm trưởng phân công công việc cho từng thành viên, từng cá nhân 
thực hiện nhiệm vụ được phân công, trao đổi ý kiến trong nhóm, cử đại diện trình bày kết quả làm việc 
của nhóm. 
Thảo luận, tổng kết trước toàn lớp: Các nhóm báo cáo kết quả, và trao đổi thảo luận chung. GV 
nhận xét, bổ sung, chỉnh lí và đưa ra kết luận cuối cùng, nêu ra những kiến thức cần nắm. 
 Ưu và nhược điểm của dạy học theo nhóm 
Với phương pháp dạy học hợp tác nhóm, HS trong nhóm thảo luận, chia sẻ những kinh nghiệm, 
hiểu biết cho nhau, giúp cho HS dễ hiểu và dễ nhớ bài hơn. Trong hoạt động nhóm, tư duy tích cực của 
HS được phát huy và rèn luyện năng lực hợp tác giữa các thành viên với nhau. 
Việc tổ chức nhóm cho HS mất rất nhiều thời gian, điều kiện cơ sở vật chất. GV không nên lạm 
dụng hình thức hoạt động nhóm, mỗi tiết học chỉ nên tổ chức một đến hai hoạt động nhóm đối với 
những vấn đề phức tạp, đòi hỏi phải có sự hợp tác giữa cá nhân mới có thể hoàn thành nhiệm vụ. 
 1.2.4.4. Dạy học giải quyết vấn đề [4], [48], [54] 
 Theo V.Ô-kôn, có thể hiểu dạy học giải quyết vấn đề là toàn bộ các hành động như tổ chức các 
tình huống có vấn đề, biểu đạt vấn đề với sự giúp đỡ của GV, HS tự lực giải quyết vấn đề, phát hiện 
được kiến thức mới và vận dụng được kiến thức này. 
Dạy học giải quyết vấn đề có tác dụng phát huy hoạt động nhận thức tự chủ, tích cực, tự lực của 
HS, giúp HS chiếm lĩnh được kiến thức vững chắc, vận dụng được, đồng thời đảm bảo sự phát triển trí 
tuệ, phát triển năng lực sáng tạo của HS trong quá trình học tập. 
 Cấu trúc của quá trình dạy học giải quyết vấn đề 
 Gồm 3 giai đoạn: 
 Giai đoạn đề xuất vấn đề - bài toán: GV đặt ra bài toán có vấn đề và dẫn dắt HS vào tình 
huống có vấn đề, làm cho HS nhận thức được vấn đề học tập, hứng thú giải quyết vấn đề. 
  Giai đoạn suy đoán giải pháp, thực hiện giải pháp: Là giai đoạn HS tự lực nghiên cứu giải 
quyết vấn đề dưới sự hướng dẫn của GV, HS xây dựng giả thuyết, lựa chọn giả thuyết, kiểm chứng giả 
thuyết, xây dựng kiến thức mới. 
 Giai đoạn kiểm tra, củng cố, vận dụng kiến thức mới: GV có thể đề xuất với HS tiếp tục làm 
những thí nghiệm kiểm chứng hay cho HS làm các bài tập để vận dụng. 
 Các kiểu hướng dẫn học sinh giải quyết vấn đề 
 Gồm có: 
 Hướng dẫn tìm tòi quy về kiến thức, phương pháp đã biết. 
 Nghĩa là thoạt mới tiếp xúc với vấn đề cần giải quyết, không thấy ngay mối quan hệ của nó với 
những cái đã biết, không thể áp dụng ngay một quy tắc, một định luật hay một cách làm đã biết mà cần 
phải tìm tòi bằng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh để tìm ra những dấu hiệu tương tự với cái 
đã biết. Kiểu hướng dẫn này thường gặp khi HS vận dụng kiến thức đã biết nhưng chưa có phương 
pháp, quy trình hữu hiệu. Có 3 trường hợp phổ biến sau: 
Hướng dẫn HS diễn đạt vấn đề cần giải quyết bằng ngôn ngữ vật lí. 
 Hướng dẫn HS phân tích một hiện tượng vật lí phức tạp bị chi phối bởi nhiều nguyên nhân 
thành những hiện tượng đơn giản, chỉ bị chi phối bởi một nguyên nhân, một định luật đã biết. 
Hướng dẫn HS phân chia quá trình diễn biến của hiện tượng thành nhiều giai đoạn, mỗi giai 
đoạn đó tuân theo một quy luật xác định đã biết. 
 Hướng dẫn tìm tòi sáng tạo từng phần. 
 Kiểu hướng dẫn này thường được sử dụng khi nghiên cứu tài liệu mới, HS được giao nhiệm vụ 
phát hiện những tính chất mới, những mối liên hệ có tính quy luật mà trước đây HS chưa biết hoặc biết 
chưa đầy đủ. 
 Thông thường, trong khi tìm tòi giải quyết vấn đề mới, HS không phải là hoàn toàn bế tắc ngay 
từ đầu hoặc bế tắc trong toàn bộ tiến trình giải quyết vấn đề. Trong khi lập luận để giải quyết vấn đề có 
nhiều phần sử dụng những kiến thức cũ, phương pháp cũ thành công, chỉ đến phần nào đó mới bế tắc, 
đòi hỏi phải tìm cái mới thực sự. 
 Hướng dẫn tìm tòi sáng tạo khái quát. 
 Ở kiểu hướng dẫn này, GV chỉ hướng dẫn HS xây dựng phương hướng chung giải quyết vấn đề, 
còn việc vạch kế hoạch chi tiết và thực hiện kế hoạch đó do HS tự làm. Kiểu hướng dẫn này đòi hỏi ở 
HS không những tính tự lực cao mà còn phải có vốn kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo vững vàng và có một 
số kinh nghiệm hoạt động sáng tạo. 
 Trong điều kiện không tách những HS khá giỏi thành một lớp riêng, GV vẫn có thể sử dụng 
kiểu hướng dẫn này kết hợp với kiểu hướng dẫn tìm tòi sáng tạo từng phần. HS khá có thể tích cực 
tham gia thảo luận ngay từ khi xác định phương hướng chung và lập kế hoạch tổng thể, còn HS yếu thì 
tham gia vào giải quyết từng phần cụ thể của kế hoạch đó. 
 1.2.4.5. Dạy học theo phương pháp thực nghiệm [4], [32], [48] 
 Phương pháp thực nghiệm là phương pháp nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên bằng cách chủ 
động tác động và thay đổi điều kiện tác động lên các đối tượng nghiên cứu. 
 Các giai đoạn của phương pháp thực nghiệm 
Đối tượng, hiện tượng nghiên cứu vấn đề nhận thức các giả thuyết thí 
nghiệm kiểm chứng kết luận vận dụng kiến thức ở mức độ thực nghiệm. 
 Giai đoạn 1: GV mô tả một hoàn cảnh thực tiễn hay biểu diễn một vài thí nghiệm và nêu lên 
một câu hỏi mà HS chưa biết câu trả lời, yêu cầu HS phải suy nghĩ tìm tòi mới trả lời được. 
 Giai đoạn 2: GV hướng dẫn, gợi ý HS xây dựng một câu trả lời dự đoán ban đầu gọi là xây 
dựng giả thuyết. 
 Giai đoạn 3: Từ giả thuyết dùng suy luận logic hay suy luận toán học suy ra hệ quả, đưa ra 
mối quan hệ giữa các đại lượng vật lí. 
 Giai đoạn 4: xây dựng và thực hiện một phương án thí nghiệm để kiểm tra xem hệ quả dự 
đoán có phù hợp với kết quả thực nghiệm không, nếu không phù hợp thì phải xây dựng giả thuyết mới. 
 Giai đoạn 5: HS vận dụng kiến thức để giải thích hay dự đoán một số hiện tượng trong thực 
tiễn, thông qua đó giới hạn phạm vi áp dụng của kiến thức. 
Vị trí của phương pháp thực nghiệm là ở chỗ từ các giả thuyết đã được đề xuất, các nhà nghiên 
cứu thực nghiệm sẽ xây dựng các phương án kiểm tra tính xác thực của các giả thuyết, chọn phương án 
tối ưu, vật chất hóa phương án thí nghiệm (tìm, chế tạo dụng cụ, thiết bị thí nghiệm) và tiến hành thí 
nghiệm, sau đó xử lí kết quả thí nghiệm, quy nạp rút ra kết luận về tính xác thực của giả thuyết. 
1.3. Vai trò của công nghệ thông tin trong tổ chức hoạt động dạy học môn vật lí 
 1.3.1. Dạy học theo quan điểm CNTT [12], [4] 
PPDH truyền thống được thực hiện chủ yếu theo cơ chế: GV giảng giải sách giáo khoa, HS 
nghe, đọc, ghi nhớ, rồi thực hành giải bài tập. Như vậy thực chất HS chỉ vận dụng một số thao tác nghe 
– đọc – ghi – nhớ tương đối đơn giản, và nói chung là rất đơn điệu, được lặp đi lặp lại mãi, cách dạy 
học này chủ yếu chỉ sử dụng phương tiện ngôn ngữ nói hoặc viết, nó đơn điệu nên khó gây cho HS 
hứng thú học tập. 
 Trong bối cảnh bùng nổ CNTT, việc dạy học muốn theo kịp cuộc sống nhất thiết phải cải cách 
theo hướng vận dụng CNTT và các thiết bị dạy học hiện đại, phát huy mạnh mẽ tư duy sáng tạo, kỹ 
năng thực hành, và hứng thú học tập của HS để nâng cao chất lượng đào tạo. 
 CNTT cùng với những tính năng vô cùng phong phú, thiết bị dạy học sẽ giúp chúng ta tích hợp 
nhiều nguồn thông tin trong đời sống thực tế dưới nhiều hình thức khác nhau để bổ sung cho sách giáo 
khoa, làm cho những tri thức khoa học trình bày trong sách giáo khoa trở nên cụ thể, sinh động, giúp 
cho HS dễ dàng tiếp thu một cách chắc chắn và sâu sắc. CNTT giúp cho GV và HS kịp thời cập nhật 
những tri thức mới vào trong nhà trường [12]. 
 Theo quan điểm CNTT, để đổi mới PPDH, người ta tìm những “Phương pháp làm tăng giá trị 
lượng tin, trao đổi thông tin nhanh hơn, nhiều hơn và hiệu quả hơn” [4]. 
 1.3.2. Ưu điểm của dạy học sử dụng CNTT [4] 
 HS học không thụ động, GV trình bày bài giảng sinh động hơn, dễ dàng cập nhật và thích nghi 
với sự thay đổi nhanh chóng của khoa học hiện đại. 
 Sử dụng các phần mềm dạy học làm phương tiện hỗ trợ dạy học một cách hợp lí sẽ cho hiệu quả 
cao, bởi lẽ khi sử dụng phần mềm dạy học bài giảng đảm bảo tính chính xác khoa học, tiết kiệm thời 
gian và hấp dẫn người học hơn, có điều kiện đi sâu vào bản chất bài học. 
 Hai công nghệ hiện đại và ứng dụng có hiệu quả nhất cho giáo dục là công nghệ đa phương tiện 
Multimedia và công nghệ mạng Networking, đặc biệt là mạng Internet. Hai công nghệ này đã giúp cho 
con người thực hiện được khẩu hiệu học ở mọi lúc mọi nơi, học suốt đời và dạy cho mọi người với mọi 
trình độ khác nhau. 
 Sử dụng CNTT để dạy học, phương pháp dạy học cũng thay đổi. GV là người hướng dẫn HS 
học tập chứ không đơn thuần là người truyền đạt kiến thức cho HS, GV cũng phải học tập thường 
xuyên để nâng cao trình độ về CNTT, sử dụng có hiệu quả CNTT trong học tập còn HS có thể lấy 
thông tin từ nhiều nguồn phong phú khác nhau như sách, Internet, CD – ROM,… Lúc này, HS phải 
biết đánh giá và lựa chọn thông tin, không chỉ đơn thuần nhận thông tin một cách thụ động vì nguồn 
thông tin vô cùng phong phú. 
 1.3.3. Sử dụng máy vi tính trong dạy học vật lí [49] 
 Máy vi tính được sử dụng chủ yếu trong dạy học vật lí ở các lĩnh vực quan trọng sau: 
 Mô phỏng các đối tượng nghiên cứu vật lí gồm có: Mô phỏng, minh họa một cách trực quan 
các hiện tượng, quá trình vật lí để qua đó tìm ra kiến thức mới. 
 Hỗ trợ việc xây dựng các mô hình toán học (đồ thị, biểu thức, phương trình) của các hiện 
tượng, quá trình vật lí. 
 Hỗ trợ các thí nghiệm vật lí. 
 Hỗ trợ việc phân tích băng video ghi các quá trình vật lí thực. 
Do máy vi tính là thiết bị đa phương tiện có thể ghép nối với các thiết bị hiện đại khác trong 
nghiên cứu vật lí và có tính năng hết sức ưu việt trong việc thu thập dữ liệu, xử lí dữ liệu, trình bày các 
kết quả xử lí một cách tự động và cực kì nhanh chóng, chính xác, đẹp đẽ nên nó được sử dụng rất thành 
công trong các lĩnh vực nêu trên, góp phần giải quyết những khó khăn mà các phương tiện dạy học 
trước đó chưa giải quyết trọn vẹn. 
1.4. Vai trò của thí nghiệm trong dạy học vật lí [4], [49] 
 1.4.1. Vai trò của thí nghiệm theo quan điểm của lý luận nhận thức 
  Thí nghiệm là phương tiện của việc thu nhận tri thức. 
  Thí nghiệm là phương tiện để kiểm tra tính đúng đắn của tri thức đã thu được. 
  Thí nghiệm là phương tiện của việc vận dụng tri thức đã thu được vào thực tiễn. 
  Thí nghiệm là một bộ phận của các phương pháp nhận thức vật lí như trong phương pháp thực 
nghiệm, phương pháp mô hình. 
 1.4.2. Vai trò của thí nghiệm theo quan điểm của lý luận dạy học 
  Thí nghiệm có thể được sử dụng ở tất cả các giai đoạn khác nhau của quá trình dạy học: đề xuất 
vấn đề cần nghiên cứu, hình thành kiến thức, kỹ năng mới, củng cố kiến thức, kỹ năng đã thu được và 
kiểm tra, đánh giá kiến thức, kỹ năng của HS. 
 Ví dụ: Để giảm tính áp đặt, buộc HS phải thừa nhận, GV có thể tiến hành thí nghiệm để minh họa 
kiến thức hiện tượng điện phân, trong điều kiện lớp học và dụng cụ thí nghiệm, khó có thể dựa vào thí 
nghiệm để thiết lập công thức định lượng của định luật Faraday. GV có thể tiến hành thí nghiệm minh 
họa một cách định tính cho HS thấy được khi điện phân dung dịch CuSO4 thì các ion Cu đến bám vào 
điện cực dương trong bình điện phân và lớp đồng tăng theo thời gian. 
  Thí nghiệm là phương tiện góp phần phát triển nhân cách toàn diện của HS 
Thí nghiệm là phương tiện để nâng cao chất lượng kiến thức và rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo về vật 
lí của HS như: sử dụng nguồn điện, các dụng cụ đo, đọc và lắp ráp thí nghiệm, tiến hành thí nghiệm và 
xử lí kết quả thí nghiệm… 
Thí nghiệm là phương tiện kích thích hứng thú học tập vật lí, tổ chức quá trình học tập tích cực, 
tự lực, và sáng tạo của HS. 
Thí nghiệm là phương tiện tổ chức các hình thức làm việc tập thể khác nhau, bồi dưỡng các 
phẩm chất đạo đức của HS. 
  Thí nghiệm là phương tiện đơn giản hóa và trực quan trong dạy học vật lí giúp HS nhanh chóng 
thu được những thông tin về các hiện tượng, quá trình vật lí. 
 1.4.3. Các loại thí nghiệm được sử dụng trong dạy học vật lí 
  Thí nghiệm biểu diễn: được GV tiến hành ở trên lớp, trong các giờ học nghiên cứu kiến thức 
mới và có thể ở các giờ học củng cố kiến thức của HS. 
 Ví dụ: Trong chương “Dòng điện trong các môi trường” gồm có một số thí nghiệm biểu diễn như: 
Chứng minh sự tạo thành dòng nhiệt điện trong kim loại; chứng minh sự tạo thành dòng điện trong 
chất điện phân, hiện tượng dương cực tan; chứng minh sự tạo thành dòng điện trong chất khí và tia lửa 
điện; chứng minh đặc tính chỉnh lưu và đặc tính khuếch đại của tranzito. 
  Thí nghiệm thực tập: Do HS tự tiến hành trên lớp gồm có thí nghiệm trực diện, thí nghiệm thực 
hành, thí nghiệm và quan sát vật lí ở nhà. 
 Ví dụ: Thí nghiệm dòng điện trong chất điện phân; thực hành khảo sát đặc tính chỉnh lưu của điôt 
bán dẫn và thực hành đo hệ số khuếch đại dòng của tranzito. 
1.5. Thiết kế các tài liệu hỗ trợ học tập cho HS 
 1.5.1. Thiết kế các phiếu học tập ở nhà 
Phiếu học tập ở nhà là một tài liệu hỗ trợ việc học tập của học sinh để học sinh chuẩn bị ở nhà 
trước khi lên lớp học gồm hệ thống các câu hỏi để học sinh tự tìm hiểu, nghiên cứu nội dung của bài 
học, giúp học sinh tự lực học tập ở nhà. 
Các câu hỏi trong phiếu học tập gồm có 2 mục, mục I là câu hỏi định hướng để HS giải quyết 
vấn đề bao gồm các câu hỏi mang tầm khái quát, HS tự lực suy nghĩ giải quyết vấn đề. Nếu trong 
trường hợp HS không thể tự lực giải quyết được vấn đề thì HS có thể tham khảo thêm các câu hỏi gợi ý 
cho bài học ở mục II, để từ đó HS sẽ giải quyết được toàn bộ vấn đề mà vừa sức với HS. 
Ví dụ: Mẫu phiếu học tập ở nhà 
PHIẾU HT -1. BÀI 17: DÒNG ĐIỆN TRONG KIM LOẠI 
Mã số HS …………….Nhóm…………… 
I. CÂU HỎI ĐỊNH HƯỚNG ĐỂ HỌC SINH GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 
1. …………………………………………………………………………………. 
2. …………………………………………………………………………………. 
II. CÂU HỎI GỢI Ý CỦA BÀI HỌC 
1. …………………………………………………………………………………. 
2. …………………………………………………………………………………. 
 1.5.2. Thiết kế các phiếu học tập trên lớp 
Phiếu học tập trên lớp gồm có các câu trả lời nhưng với nội dung chưa đầy đủ, trong quá trình 
học, HS sẽ tự ghi lại những nội dung còn thiếu vào phiếu học tập. Qua đó, HS sẽ có thể nắm vững 
những kiến thức của bài học mà không mất quá nhiều thời gian cho việc ghi chép. 
Ví dụ: Phiếu học tập trên lớp 
PHIẾU HỌC TẬP TRÊN LỚP (PHIẾU - 1) 
BÀI 17: DÒNG ĐIỆN TRONG KIM LOẠI 
Mã số HS:……………….Nhóm……………………… 
1. Các tính chất điện của kim loại 
 Kim loại gồm có các tính chất sau: 
........................................
........................................
........................................
........................................
2. Electron tự do trong kim loại 
 Trong kim loại, các nguyên tử bị mất electron hoá trị trở thành ………………. 
 Các electron hoá trị tách khỏi nguyên tử gọi là ………………………………... 
………………………………………………………………………………………. 
 1.5.3. Phiếu bài tập hỗ trợ việc học tập của HS 
Phiếu bài tập gồm hệ thống các câu hỏi trắc nghiệm, câu hỏi ghép nội dung với câu trả lời, hay 
bài tập tự luận để HS tự củng cố lại kiến thức đã học được hoặc có thể tham khảo bài học trước khi đến 
lớp. 
Ví dụ: Phiếu bài tập 
BÀI 17: DÒNG ĐIỆN TRONG KIM LOẠI 
1. Ghép nội dung ở cột bên trái với nội dung thích hợp ở cột bên phải. 
1. Bản chất của dòng điện trong kim loại 
được nêu rõ trong một lí thuyết gọi là 
2. Các êlectron hoá trị sau khi tách khỏi 
nguyên tử, trở thành 
3. Các êlectron tự do chuyển động nhiệt 
hỗn loạn trong toàn mạng tinh thể kim 
loại, tạo thành 
4. Khí êlectron chuyển động trôi ngược 
chiều điện trường ngoài, tạo thành 
5. Những chất dẫn điện tốt và có điện trở 
suất khá nhỏ ( khoảng 10-7 ÷ 10-8 Ω .m) 
thường là các 
6. Các hạt mang điện tham gia vào quá 
trình dẫn điện được gọi là 
7. Hệ số xác định sự phụ thuộc của điện 
 trở suất vào nhiệt độ được gọi là 
a) hệ số nhiệt điện trở. 
b) thuyết êlectron. 
c) Khí êlectron (điện tử) tự do. 
d) kim loại. 
e) dòng điện. 
f) Các êlectron tự do. 
 g) Các hạt tải điện. 
2. Chọn đáp án Sai 
 A. Hạt tải điện trong kim loại là electron tự do 
 B. Dòng điện trong kim loại tuân theo định luật Ôm nếu nhiệt độ trong kim loại được giữ không 
đổi. 
 C. Hạt tải điện trong kim loại là ion. 
 D. Dòng điện chạy qua dây dẫn kim loại gây ra tác dụng nhiệt. 
……………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………… 
 1.5.4. Thiết kế Website hỗ trợ việc học của HS 
Thiết kế Website nhằm tạo môi trường tương tác để học sinh làm quen với máy vi tính, Website 
với Internet, và như là công cụ để hỗ trợ việc học của HS. HS có thể sử dụng Website để ôn tập, củng 
cố, hệ thống hoá kiến thức đã học, ngoài ra còn có thể sử dụng Website để xem trước nội dung bài học, 
rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức để giải quyết các nhiệm vụ học tập ở bất cứ thời điểm nào và bất 
cứ nơi đâu nếu có máy vi tính với Website đã cài đặt. Đặc biệt khi máy vi tính kết nối với mạng và 
Website được đưa lên mạng thì khả năng tìm kiếm thông tin phục vụ cho bài học càng lớn, HS có thể 
tìm kiếm những thông tin cần thiết cho mình, hình thành môi trường học tập và phong cách làm việc 
mới, tạo điều kiện trao đổi thông tin, giao lưu học hỏi với các đối tượng khác [42]. 
1.6. Tổ chức hoạt động dạy học vật lí theo định hướng phát huy tính tích cực, tự lực, và sáng tạo 
của HS 
Đầu tiên, GV giới thiệu tổng quan về chương sẽ được học và phát bộ câu hỏi định hướng của 
chương cho học sinh lớp thực nghiệm để kích thích sự tò mò và ham hiểu biết về nội dung mà HS sẽ 
được học, sau khi học xong kiến thức của chương HS sẽ trả lời các câu hỏi định hướng chung của 
chương bằng bài viết. Bên cạnh đó GV sẽ phát tài liệu hỗ trợ về phương pháp học tập cho học sinh 
tham khảo để định hướng lại cách học của HS. 
Các câu hỏi định hướng được tham khảo ở tài liệu số [29]. 
CÂU HỎI ĐỊNH HƯỚNG CHUNG CỦA CHƯƠNG 
“DÒNG ĐIỆN TRONG CÁC MÔI TRƯỜNG” 
CÂU HỎI NỘI DUNG 
1. Theo em biết thì những chất nào xung quanh chúng ta có thể dẫn điện? (chất rắn, chất lỏng, chất 
khí, … ). Tại sao em nghĩ như vậy, từ đâu em biết?. 
2. Em biết gì về sự dẫn điện của các chất như kim loại, chất điện phân, chất khí,..? 
CÂU HỎI BÀI HỌC 
3. Theo em, điều kiện để các chất trở nên dẫn điện có giống nhau không? Chúng khác nhau chỗ nào? 
4. Tính chất dẫn điện của các chất khác nhau sẽ khác nhau như thế nào? 
5. Có thể giải thích như thế nào về sự dẫn điện của các chất khác nhau? 
CÂU HỎI KHÁI QUÁT 
6. Em biết gì về những tiến bộ mới của khoa học và công nghệ trong việc nghiên cứu và sử dụng hiểu 
biết về sự dẫn điện trong các môi trường khác nhau? 
Tiếp theo, GV hướng dẫn với HS một số kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin về cách tìm kiếm 
thông tin Vật lí trên Website, mạng Internet và phần mềm Powerpoint cho HS. 
GV giao các nhiệm vụ học tập cho HS thông qua các phiếu học tập ở nhà và các phiếu bài tập 
để HS, hay nhóm HS có sự tự chuẩn bị bài học ở nhà trước khi đến lớp. 
 GV tổ chức tiến hành các hoạt động dạy học tương ứng cho từng tiết học bằng bài giảng điện tử. 
Và tổ chức cho HS làm việc theo nhóm với các vấn đề trong trong bài học, sau đó các nhóm HS trình 
bày câu trả lời của nhóm mình trước lớp, các nhóm khác theo dõi và bổ sung, tranh luận, chỉnh sửa. 
Nếu ở bài học có thí nghiệm thì HS sẽ được tiến hành thí nghiệm theo nhóm với các bộ thí nghiệm đã 
được GV chuẩn bị sẵn. 
 Từ đó giáo viên nhận xét và kết luận câu trả lời của bài học, bên cạnh đó, trong quá trình học 
GV khuyến khích HS nêu lên những vấn đề, câu hỏi mà nhóm cũng như cá nhân còn thắc mắc để cả 
lớp cùng suy nghĩ trả lời. Và HS sẽ tự ghi lại nội dung của bài học vào trong phiếu học tập trên lớp của 
mình mà GV đã phát cho mỗi HS. 
 Sau cùng, HS tự đánh giá quá trình học tập của mình trong mỗi tiết học. Và nhóm trưởng đánh 
giá quá trình học tập của các HS trong nhóm. Cuối cùng là sự đánh giá của GV cho từng cá nhân và 
nhóm HS. 
1.7. Kết luận chương 1 
 Dựa trên mục tiêu của giáo dục phổ thông nói chung và giáo dục môn Vật lí nói riêng, chúng tôi 
vận dụng những cơ sở lí luận về các phương pháp dạy học và những tài liệu hỗ trợ để tổ chức hoạt 
động dạy học nhằm phát huy tính tích cực, tự lực, và sáng tạo của học sinh nhằm đáp ứng được yêu 
cầu mục tiêu giáo dục trong giai đoạn hiện nay. 
 Tổ chức hoạt động dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, tự lực, và sáng tạo của học sinh 
là hoạt động lấy người học là trung tâm, ở đó giáo viên không chỉ dạy học theo cách truyền thụ kiến 
thức mà chủ yếu là hướng dẫn HS tự lực tìm kiếm thông tin, sử dụng kiến thức dưới sự hướng dẫn của 
giáo viên để giải quyết những vấn đề đặt ra. 
 Thông qua việc tổ chức hoạt động dạy học đó, học sinh có điều kiện phát huy năng lực của bản 
thân, tư duy tích cực của HS được phát huy và rèn luyện năng lực hợp tác giữa các thành viên với nhau 
trong hoạt động nhóm. Ngoài ra, học sinh có thể vận dụng được kiến thức được học để giải thích 
những hiện tượng trong cuộc sống hằng ngày cũng như những ứng dụng của vật lí trong khoa học kỹ 
thuật. 
Chương 2: XÂY DỰNG TIẾN TRÌNH DẠY HỌC CÁC BÀI HỌC CHƯƠNG “DÒNG ĐIỆN 
TRONG CÁC MÔI TRƯỜNG” VẬT LÍ 11 
(NÂNG CAO) THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC, 
TỰ LỰC, VÀ SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH 
2.1. Phân tích kiến thức chương “Dòng điện trong các môi trường” Vật lí 11 (Nâng cao) 
 2.1.1. Mục tiêu của chương [64] 
Mục tiêu 
- Nêu và giải thích được các tính chất điện của kim loại. 
- Nêu được bản chất dòng điện trong các môi trường khác nhau và đặc tuyến vôn – ampe của các môi 
trường. 
- Nêu được hiện tượng nhiệt điện là gì, hiện tượng siêu dẫn là gì, và ứng dụng chính của các hiện tượng 
này. 
- Nêu được một số ứng dụng của dòng điện trong các môi trường. 
- Nêu được và vận dụng được công thức Faraday đối với chất điện phân. 
- Nêu được bản chất dòng điện trong bán dẫn và một số ứng dụng thực tế của bán dẫn. 
 Chương này trình bày các hiện tượng vĩ mô liên quan đến dòng điện trong các môi trường như 
hiện tượng toả nhiệt trong dây dẫn, hiện tượng điện phân, hiện tượng phóng điện trong chất khí, HS có 
thể phân biệt được hiện tượng này với hiện tượng kia, nắm được điều kiện để có các hiện tượng đó 
trong kĩ thuật và trong đời sống hằng ngày. 
 Nội dung của chương này cũng đề cập đến bản chất dòng điện trong các môi trường, trong đó 
chú ý đến bản chất của các hạt tải điện và phương thức chuyển dời có hướng của chúng tạo thành dòng 
điện. Đặc biệt cho thấy rõ sự phụ thuộc của cường độ dòng điện trong các môi trường vào hiệu điện thế 
và cho biết khi nào áp dụng được định luật Ôm. 
 Nội dung của chương này nói chung không đi sâu vào cơ chế vi mô của hiện tượng, mà chỉ 
giải thích sơ lược những biểu hiện và ứng dụng kĩ thuật của dòng điện trong các môi trường. 
 Ngoài các bài thực hành, theo yêu cầu của chương trình và nhằm đổi mới phương pháp dạy 
học, nhiều nội dung được trình bày kết hợp với thí nghiệm nhằm rèn luyện cho HS năng lực tư duy, 
sáng tạo, bằng nhiều hình thức: làm thí nghiệm, xử lí kết quả, rút ra kết luận, hoặc từ thí nghiệm đã có 
cần phải xử lí, vẽ đồ thị, rút ra kết luận cần thiết. 
 Như vậy, căn cứ vào nội dung từng bài, trong điều kiện có thể, GV nên chuẩn bị thí nghiệm 
khi cần thiết, tạo ra các tình huống, câu hỏi (ngoài các câu hỏi kí hiệu bằng chữ C) để tạo điều kiện cho 
HS rèn luyện năng lực giải quyết vấn đề, năng lực tự học. 
 Ngoài ra, GV nên khai thác thêm các bài tập trắc nghiệm nhằm giúp HS tự kiểm tra, đánh giá 
(ngoài các bài tập tự luận truyền thống). GV cũng khuyến khích HS (nhất là các HS khá giỏi), đọc, tìm 
hiểu nội dung, thông tin bổ sung in co chữ nhỏ ở cột phụ, ở mục Em có biết, Bài đọc thêm. 
 2.1.2. Cấu trúc nội dung các bài học trong chương [4], [64] 
2.1.2.1. Chuẩn kiến thức và kĩ năng 
Bảng 2.1. Cấu trúc nội dung kiến thức và kĩ năng chương “Dòng điện trong các môi 
trường” 
Tên bài học Mức độ cần đạt 
Dòng điện trong kim loại 
- Nêu được các tính chất điện của kim loại. 
- Nêu được điện trở suất của kim loại tăng theo nhiệt 
độ. 
- Hiểu được sự có mặt của electron tự do trong kim 
loại. 
- Vận dụng thuyết electron tự do trong kim loại để 
giải thích một cách định tính các tính chất điện của 
kim loại. 
Hiện tượng nhiệt điện 
Hiện tượng siêu dẫn 
- Mô tả được hiện tượng nhiệt điện là gì. 
- Nêu được hiện tượng siêu dẫn là gì và ứng dụng 
chính của hiện tượng này. 
Dòng điện trong chất 
điện phân. 
Định luật Fa-ra-day 
- Hiểu hiện tượng điện phân, bản chất dòng điện trong 
chất điện phân. 
- Hiểu được phản ứng phụ trong hiện tượng điện 
phân, mô tả được hiện tượng dương cực tan. 
- Hiểu và vận dụng được định luật Faraday. 
- Nêu được một số ứng dụng của hiện tượng điện 
phân. 
Dòng điện trong chân 
không 
- Nêu được cách tạo ra dòng điện trong chân không, 
bản chất dòng điện trong chân không và đặc điểm về 
chiều của dòng điện này. 
- Hiểu được bản chất và những ứng dụng của tia catôt.
- Nêu được nguyên tắc cấu tạo hoạt động của ống 
phóng điện tử. 
Dòng điện trong chất khí - Hiểu được bản chất dòng điện trong chất khí và mô 
tả được sự phụ thuộc của dòng điện vào hiệu điện thế. 
- Mô tả được cách tạo ra tia lửa điện và nêu được vắn 
tắt nguyên nhân hình thành tia lửa điện. 
- Mô tả được cách tạo hồ quang điện, nêu được các 
đặc điểm chính và ứng dụng chính của hồ quang điện. 
- Mô tả được quá trình phóng điện trong chất khí ở áp 
suất thấp và sự tạo thành tia catôt. 
Dòng điện trong chất bán 
dẫn 
- Trình bày được các tính chất điện đặc biệt của chất 
bán dẫn. 
- Hiểu được các hạt tải điện là electron tự do và lỗ 
trống và giải thích được cơ chế tạo thành các hạt tải 
điện đó trong bán dẫn tinh khiết. 
- Trình bày được sự hình thành lớp chuyển tiếp p – n 
và giải thích được tính chất chỉnh lưu của lớp chuyển 
tiếp p – n. 
- Nêu được bản chất dòng điện trong bán dẫn loại p 
và loại n. 
Linh kiện bán dẫn 
- Trình bày được cấu tạo và hoạt động của các linh 
kiện bán dẫn có lớp chuyển tiếp p – n thường gặp 
như: điôt chỉnh lưu, điôt phát quang, phôtôđiôt, 
tranzito. 
- Trình bày được cách mắc mạch khuyếch đại dùng 
tranzito hai lớp chuyển tiếp p – n và họ đặc tuyến vôn 
– ampe của tranzito. 
- Biết vận dụng các hiểu biết về tính chất của bán dẫn 
và của lớp chuyển tiếp p – n để giải thích hoạt động 
của các linh kiện bán dẫn. 
- Giải thích nguyên tắc hoạt động của các ứng dụng kĩ 
thuật vật lí như: điôt, tranzito. 
Thực hành: Khảo sát đặc 
tính chỉnh lưu của điôt 
bán dẫn và đặc tính 
khuếch đại của tranzito 
- Bằng thực nghiệm thấy được đặc tính chỉnh lưu 
dòng điện của điôt bán dẫn và đặc tính khuếch đại của 
tranzito. 
- Vận dụng kiến thức lí thuyết về dòng điện trong bán 
dẫn, giải thích kết quả thực nghiệm. 
- Củng cố kĩ năng sử dụng dụng cụ đo điện như vôn 
kế, ampe kế. 
2.1.2.2. Kế hoạch dạy học của chương 
Chương “ Dòng điện trong các môi trường” được phân phối dạy theo chương trình như sau: 
Bảng 2.2. Kế hoạch phân phối chương trình của chương 
Tiết phân phối 
chương trình Tên bài học 
Tiết 27 Dòng điện trong kim loại 
Tiết 28 Hiện tượng nhiệt điện. Hiện tượng siêu dẫn 
Tiết 29 – 30 Dòng điện trong chất điện phân. Định luật Faraday 
Tiết 31 Bài tập về dòng điện trong kim loại và chất điện phân 
Tiết 32 Dòng điện trong chân không 
Tiết 33 – 34 Dòng điện trong chất khí 
Tiết 35 Bài tập 
Tiết 36 Thi học kì I 
Tiết 37 – 38 Dòng điện trong chất bán dẫn 
Tiết 39 – 40 Linh kiện bán dẫn 
Tiết 41 Bài tập 
Tiết 42 – 43 Thực hành: Khảo sát đặc tính chỉnh lưu của điôt bán dẫn và đặc tính khuếch đại của tranzito 
 Theo phân phối chương trình như trên các bài học được triển khai dạy học phân bố theo thời 
gian như sau: 
Bảng 2.3. Kế hoạch dạy học của chương 
Thời gian Tên bài học 
26/11/2007 – 1/12/2007 
Dòng điện trong kim loại (Tiết 27). 
Hiện tượng nhiệt điện. Hiện tượng siêu dẫn (Tiết 28). 
3/12/2007 – 8/12/2007 Dòng điện trong chất điện phân (Tiết 29 – 30). 
10/12/2007 – 15/12/2007 
Bài tập về dòng điện trong kim loại và chất điện phân 
(Tiết 31). 
Dòng điện trong chân không (Tiết 32). 
17/12/2007 – 22/12/2007 Dòng điện trong chất khí (Tiết 33 - 34). 
31/12/2007 – 5/1/2008 Bài tập (Tiết 35). 
Dòng điện trong chất bán dẫn (Tiết 37). 
7/1/2008 – 12/1/2008 
Dòng điện trong chất bán dẫn (Tiết 38). 
Linh kiện bán dẫn (Tiết 39 - 40). 
14/1/2008 – 19/1/2008 
Bài tập (Tiết 41). 
Thực hành: Khảo sát đặc tính chỉnh lưu của điôt bán 
dẫn và đặc tính khuếch đại của tranzito (Tiết 42 - 43). 
2.1.2.3. Nội dung cơ bản các bài học trong chương [63] 
Bảng 2.4. Nội dung cơ bản các bài học trong chương 
Tên bài học Nội dung cơ bản 
Dòng điện trong kim loại 
- Kim loại là chất dẫn điện tốt. 
- Dòng điện trong kim loại tuân theo định luật Ôm. 
- Dòng điện trong kim loại gây ra tác dụng nhiệt. 
- Điện trở suất của kim loại tăng theo nhiệt độ. 
 0 01 ( )t t     
- Các tính chất điện của kim loại có thể giải thích 
được dựa trên sự có mặt của các electron tự do trong 
kim loại. 
- Dòng điện trong kim loại là dòng dịch chuyển có 
hướng của các electron tự do. 
- Trong chuyển động, các electron tự do luôn “va 
chạm” với các chỗ mất trật tự của mạng tinh thể và 
truyền một phần động năng cho mạng tinh thể. Sự va 
chạm này là nguyên nhân gây ra điện trở của dây dẫn 
kim loại và tác dụng nhiệt. Điện trở suất của kim loại 
tăng theo nhiệt độ. 
Hiện tượng nhiệt điện 
Hiện tượng siêu dẫn 
- Hiện tượng tạo thành suất điện động nhiệt điện trong 
một mạch điện kín gồm hai vật dẫn khác nhau khi giữ 
hai mối hàn ở hai nhiệt độ khác nhau là hiện tượng 
nhiệt điện. 
- Công thức: 1 2( )T T T   
- Hiện tượng khi nhiệt độ hạ xuống dưới một nhiệt độ 
TC nào đó, điện trở của kim loại (hay hợp kim) giảm 
đột ngột đến giá trị bằng không, là hiện tượng siêu 
dẫn. 
Dòng điện trong chất 
điện phân. Định luật 
Faraday 
- Các dung dịch muối, axit, bazơ được gọi là các chất 
điện phân. Các muối nóng chảy cũng là chất điện 
phân. 
- Dòng điện trong chất điện phân là dòng dịch chuyển 
có hướng của các ion dương theo chiều điện trường 
và các ion âm ngược chiều điện trường. 
- Khi đến các điện cực thì các ion sẽ trao đổi electron 
với các điện cực, tạo thành nguyên tử hay phân tử 
trung hoà rồi được giải phóng ra ở đó, hoặc tham gia 
các phản ứng phụ. 
- Hiện tượng dương cực tan xảy ra khi điện phân một 
dung dịch muối kim loại mà anôt làm bằng chính kim 
loại ấy. 
- Định luật I Faraday 
Khối lượng m của chất được giải phóng ra ở điện cực 
của bình điện phân tỉ lệ với điện lượng q chạy qua 
bình đó. m = kq 
k = 1,118.10-6 kg/C: gọi là đương lượng điện hoá 
- Định luật II Faraday 
Đương lượng điện hoá k của một nguyên tố tỉ lệ với 
đương lượng gam A/n của nguyên tố đó. 
 k = c.A/n 
 với 1/c = F: gọi là hằng số Faraday 
 F = 96 500 C/mol 
- Công thức Faraday về điện phân 
1 A 1 Am q It
F n F n
  
- Ứng dụng của hiện tượng điện phân: điều chế hóa 
chất, luyện kim, mạ điện. 
Dòng điện trong chân 
không 
- Bản chất dòng điện trong điôt chân không là dòng 
dịch chuyển có hướng của các electron bứt ra từ catôt 
bị nung nóng dưới tác dụng của điện trường. 
- Dòng điện chạy trong điôt chân không chỉ theo một 
chiều từ anôt đến catôt. 
- Tia catôt là dòng electron phát ra từ catôt. 
Dòng điện trong chất khí 
- Dòng điện trong chất khí là dòng dịch chuyển có 
hướng của các ion dương theo chiều điện trường và 
các ion âm, electron ngược chiều điện trường. 
- Khi cường độ dòng điện trong chất khí còn yếu, 
muốn có các ion và electron dẫn điện trong chất khí 
cần phải có tác nhân ion hoá (ngọn lửa, tia lửa 
điện,…) gọi là phóng điện không tự lực. 
- Khi cường độ dòng điện trong chất khí đủ mạnh thì 
có xảy ra sự ion hoá do va chạm làm cho số điện tích 
tự do (ion và electron) trong chất khí tăng vọt lên gọi 
là phóng điện tự lực. 
- Sự phụ thuộc của cường độ dòng điện trong chất khí 
vào hiệu điện thế giữa anôt và catôt có dạng phức tạp, 
không tuân theo định luật Ôm (trừ hiệu điện thế rất 
thấp). 
- Tia lửa điện và hồ quang điện là hai dạng phóng 
điện trong không khí ở điều kiện thường. Tia lửa điện 
chỉ xảy ra ở hiệu điện thế cao (cường độ điện trường 
tối thiểu có giá trị 3.106 V/m). 
- Khi áp suất trong chất khí chỉ còn vào khoảng từ 1 
đến 0,01mmHg, trong ống phóng điện có sự phóng 
điện thành miền, ngay ở phần mặt catôt có miền tối 
catôt, phần còn lại của ống cho đến anôt là cột sáng 
anôt. 
- Khi áp suất trong ống giảm dưới 10-3 mmHg thì 
miền tối catôt sẽ chiếm toàn bộ ống, lúc đó ta có tia 
catôt. 
Dòng điện trong chất bán 
dẫn 
- Dòng điện trong chất bán dẫn là dòng dịch chuyển 
có hướng của các electron tự do và lỗ trống. 
- Tùy theo loại tạp chất pha vào bán dẫn tinh khiết, 
mà bán dẫn thuộc một trong hai loại là bán dẫn loại n 
và bán dẫn loại p. 
- Dòng điện trong bán dẫn loại n chủ yếu là dòng 
elctron, còn trong bán dẫn loại p chủ yếu là dòng lỗ 
trống. 
- Lớp chuyển tiếp p – n có tính dẫn điện chủ yếu theo 
một chiều nhất định từ p sang n. 
Lớp chuyển tiếp p – n có tính chất chỉnh lưu. 
Linh kiện bán dẫn 
- Điôt là các linh kiện bán dẫn hai cực, trong đó có có 
một lớp chuyển tiếp p – n. Gồm có điôt chỉnh lưu, 
phôtôđiôt, pin mặt trời, điôt phát quang, pin nhiệt điện 
bán dẫn. 
- Tranzito là một dụng cụ bán dẫn có hai lớp chuyển 
tiếp p – n, có 3 cực. 
 2.1.3. Những khó khăn khi dạy học chương “Dòng điện trong các môi trường” 
 Trong chương này, HS được học “Dòng điện trong các môi trường” gồm có những bài học như: 
Dòng điện trong kim loại, dòng điện trong chất điện phân, dòng điện trong chân không, dòng điện 
trong chất khí, dòng điện trong chất bán dẫn nên HS rất dễ nhầm lẫn về hạt tải điện trong từng môi 
trường. Bên cạnh đó, việc tìm ra các hạt tải điện ở các môi trường khác nhau thì khác nhau nên gây ra 
sự khó khăn trong việc dạy học cho HS. 
 Trong SGK dựa vào thuyết electron để giải thích tính dẫn điện của dòng điện trong kim loại, 
dòng điện trong chất bán dẫn cho phù hợp với trình độ nhận thức của HS mà không dựa vào các quy 
luật lượng tử theo lí thuyết hiện đại hay còn gọi là lí thuyết dải (hay vùng) năng lượng. Nên đôi khi gây 
sự nhầm lẫn về mặt nhận thức của HS để giải thích nhận định của SGK là “chỉ cần một lượng rất nhỏ 
tạp chất (với tỉ lệ vài phần triệu), độ dẫn điện của bán dẫn có thể tăng lên hàng vạn, hàng triệu lần”. 
Trong khi theo suy luận của HS là đối với bán dẫn Si pha P thì sẽ có thêm một electron dẫn (tức số 
electron dẫn nhiều hơn số lỗ trống) còn tạp chất B pha vào bán dẫn Si thì tạo thêm một lỗ trống (tức số 
lỗ trống nhiều hơn so với số electron dẫn), cho nên HS sẽ có suy nghĩ càng pha nhiều tạp chất thì số hạt 
mang điện tăng lên theo tỉ lệ thuận, vậy tại sao không pha nhiều tạp chất…? 
 Đối với bài Dòng điện trong chân không và Dòng điện trong chất khí, hoặc các thí nghiệm trong 
các bài học khác, khi tổ chức hoạt động dạy học cho HS nếu chỉ trình bày những tính chất về những 
kiến thức Tia catôt và Sự phóng điện trong chất khí ở áp suất thấp,… để HS chấp nhận mà GV không 
thực hiện các thí nghiệm để minh họa những tính chất của tia catôt thì HS sẽ khó tiếp thu được kiến 
thức này nhưng thực tế hiện nay hầu như GV vẫn chưa đổi mới phương pháp dạy học một cách đúng 
nghĩa do đó hầu như các kiến thức HS được học đều học “chay”. 
2.2. Thiết kế các tài liệu hỗ trợ học tập chương “Dòng điện trong các môi trường” cho HS 
 2.2.1. Thiết kế các phiếu học tập ở nhà 
Trước tiên khi học bài mới GV kích thích, khơi gợi nhu cầu tự học và niềm tin vào khả năng tự 
học của HS để HS tự tìm tòi và tự chiếm lĩnh tri thức. Ngoài ra, HS có thể trao đổi về nội dung của 
phiếu HT ở nhà cùng với nhóm để cùng nhau giải quyết những vấn đề của bài học. Còn đối với những 
vấn đề mà cá nhân cũng như nhóm chưa làm được thì HS sẽ cùng trao đổi với GV, HS cả lớp trong 
những tiết học. 
PHIẾU HT – 3. BÀI 19: DÒNG ĐIỆN TRONG CHẤT ĐIỆN PHÂN 
ĐỊNH LUẬT FARADAY 
Mã số HS …………….Nhóm…………… 
I. CÂU HỎI ĐỊNH HƯỚNG ĐỂ HỌC SINH GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 
1. Theo em, chất lỏng có dẫn điện không? Tại sao em biết (em hãy lấy ví dụ minh họa)? Vậy nước cất 
có dẫn điện không? 
……………………………………………………………………………………….. 
2. Em hãy thiết kế phương án thí nghiệm để chứng tỏ được rằng nước cất không dẫn điện? 
………………………………………………………………………………………... 
3. Làm thế nào để chứng tỏ được rằng dung dịch nước muối dẫn điện? 
………………………………………………………………………………………... 
4. Nếu thay dung dịch muối ăn bằng dung dịch axit, bazơ thì có hiện tượng gì xảy ra? 
………………………………………………………………………………………... 
5. Theo em, làm thế nào để có dòng điện trong chất điện phân? 
………………………………………………………………………………………...6. Ta đã biết bản 
chất dòng điện trong chất điện phân. Vậy khi các ion đến các điện cực thì có hiện tượng gì xảy ra? 
…………………………………………………………………………………… 
7. Làm thí nghiệm như thế nào để có thể quan sát được hiện tượng phản ứng phụ trong chất điện phân? 
…………………………………………………………………………………….. 
8. Khi có hiện tượng dương cực tan xảy ra, dòng điện trong chất điện phân có tuân theo định luật Ôm 
không? 
………………………………………………………………………………………...9. Em hãy thiết kế 
phương án thí nghiệm để kiểm tra kết luận m   It và m/It không đổi với một chất xác định? 
………………………………………………………………………………………. 
II. CÂU HỎI GỢI Ý CHO BÀI HỌC 
1. Em hãy nhắc lại thuyết điện li đã học trong môn Hoá? 
………………………………………………………………………………………..2. Điều kiện để có 
dòng điện là gì? 
………………………………………………………………………………………...3. Hạt tải điện 
trong chất điện phân là những hạt gì? 
………………………………………………………………………………………...4. Khi không có 
điện trường ngoài, có dòng điện qua chất điện phân không? 
………………………………………………………………………………………...5. Em hãy phân 
tích hiện tượng khi ta đặt hiệu điện thế vào hai điện cực? 
………………………………………………………………………………………...6. Em hãy diễn đạt 
một cách chính xác, cô đọng nội dung của bản chất dòng điện trong chất điện phân? 
………………………………………………………………………………………...7. Sẽ như thế nào, 
nếu các ion âm dịch chuyển đến anôt? 
………………………………………………………………………………………...8. Sẽ như thế nào, 
nếu các ion dương dịch chuyển đến catôt? 
………………………………………………………………………………………...9. Em hiểu thế nào 
là phản ứng phụ? 
………………………………………………………………………………………...10. Khi làm thí 
nghiệm
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 doko.vnTochuchoatdongdayhocchuo.pdf doko.vnTochuchoatdongdayhocchuo.pdf