Tài liệu Luận văn Tình hình quản lý thu thuế giá trị gia tăng và một số phương hướng tăng cường quản lý thu thuế giá trị gia tăng ở khu vực kinh tế cá thể ở quận Ba Đình trong quý I năm 2003: Luận văn 
Tình hình quản lý thu thuế giá trị 
gia tăng và một số phương hướng 
tăng cường quản lý thu thuế giá trị 
gia tăng ở khu vực kinh tế cá thể ở 
quận Ba đình trong quý I năm 2003 
Trang 1 
LỜI NÓI ĐẦU 
 Thuế là khoản thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước, là công cụ 
quan trọng để phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập 
quốc dân. Như vậy, có thể thấy rằng Thuế là một biện pháp kinh tế của mọi 
Nhà nước. Song để biện pháp đó đạt hiệu quả sẽ rất cần đến một bộ phận 
chuyên trách, chất lượng trong quá trình quản lý và hành thu. 
 Nhận thức được điều này, đồng thời để bắt nhịp được với bước 
chuyển biến về cơ cấu, thành phần kinh tế, Đảng và Nhà nước ta đã thực 
thi cải cách hệ thống Thuế bước hai. Trong đó, nổi bật nhất là việc thay thế 
2 sắc thuế Doanh thu và thuế Lợi tức bằng thuế Giá trị gia tăng và thuế 
Thu nhập doanh nghiệp được thông qua tại kỳ họp thứ 11 và có hiệu lực thi 
hành từ 1/1/1999. Đây là bước đi vô cùng quan trọng, thể hiện s...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
83 trang | 
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1039 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tình hình quản lý thu thuế giá trị gia tăng và một số phương hướng tăng cường quản lý thu thuế giá trị gia tăng ở khu vực kinh tế cá thể ở quận Ba Đình trong quý I năm 2003, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn 
Tình hình quản lý thu thuế giá trị 
gia tăng và một số phương hướng 
tăng cường quản lý thu thuế giá trị 
gia tăng ở khu vực kinh tế cá thể ở 
quận Ba đình trong quý I năm 2003 
Trang 1 
LỜI NÓI ĐẦU 
 Thuế là khoản thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước, là công cụ 
quan trọng để phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập 
quốc dân. Như vậy, có thể thấy rằng Thuế là một biện pháp kinh tế của mọi 
Nhà nước. Song để biện pháp đó đạt hiệu quả sẽ rất cần đến một bộ phận 
chuyên trách, chất lượng trong quá trình quản lý và hành thu. 
 Nhận thức được điều này, đồng thời để bắt nhịp được với bước 
chuyển biến về cơ cấu, thành phần kinh tế, Đảng và Nhà nước ta đã thực 
thi cải cách hệ thống Thuế bước hai. Trong đó, nổi bật nhất là việc thay thế 
2 sắc thuế Doanh thu và thuế Lợi tức bằng thuế Giá trị gia tăng và thuế 
Thu nhập doanh nghiệp được thông qua tại kỳ họp thứ 11 và có hiệu lực thi 
hành từ 1/1/1999. Đây là bước đi vô cùng quan trọng, thể hiện sự mạnh 
dạn của Đảng ta trong công cuộc đổi mới nền kinh tế. Tuy nhiên sự khởi 
đầu nào cũng đều có những chắc trở không thể tránh khỏi, nhất là ở khu 
vực kinh tế cá thể cả nước nói chung và đặc biệt ở Quận Ba Đình nói riêng. 
Để có thể tháo gỡ được những khó khăn này và tìm ra hướng đi mới là cả 
một vấn đề nan giải đối với Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế và các cơ quan 
hữu quan. 
 Quận Ba Đình là một trong 7 Quận nội thành của thành phố Hà 
nội. Quận Ba Đình không rộng về diện tích nhưng có nhiều trụ sở, cơ quan 
trung ương của Đảng, chính phủ, các cơ quan ngoại giao, đại sứ quán. Tuy 
nhiên hoạt động sản xuất kinh doanh ở đây cũng rất phong phú. Qua thời 
gian thực tập ở Chi cục Thuế quận Ba đình, được sự giúp đỡ tận tình của 
các thầy, cô giáo và các cán bộ công tác tại Chi cục, tôi đã đi sâu nghiên 
cứu và phân tích tình hình thực tế quản lí thu thuế giá trị gia tăng ở 
Trang 2 
khu vực kinh tế cá thể trên địa bàn Quận Ba đình trong những tháng 
đầu triển khai luật thuế mới này.Từ đó cũng xin được đưa ra một số 
phương hướng nhằm tăng cường công tác quản lí thu thuế giá trị gia tăng ở 
khu vực kinh tế cá thể, góp phần tăng thu cho Ngân sách nhà nước. 
 Bắt nguồn từ những lí do trên nên đề tài có tên gọi là: “Bàn về 
công tác quản lí thu thuế giá trị gia tăng ở khu vực kinh tế cá thể trên 
địa bàn quận Ba đình" . 
 Toàn bộ đề tài được trình bày theo kết cấu sau: 
 Phần I: Sự cần thiết phải quản lý thuế giá trị gia tăng đối với 
thành phần kinh tế cá thể hiện nay. 
 Phần II: Tình hình quản lý thu thuế giá trị gia tăng ở khu vực kinh 
tế cá thể trên địa bàn quận Ba đình trong quý I năm 2003 
 Phần III: Một số phương hướng tăng cường quản lý thu thuế giá 
trị gia tăng ở khu vực kinh tế cá thể ở quận Ba đình. 
 Vì thời gian thực tập và trình độ hạn hẹp nên bài viết không thể 
tránh khỏi khiếm khuyết, sai sót. Rất mong được sự góp ý, chỉ bảo của các 
thầy cô, các cán bộ thuế và những người quan tâm. 
 Xin chân thành cảm ơn. 
Trang 3 
MỤC LỤC 
PHẦN I: SỰ CẦN THIẾT PHẢI QUẢN LÝ THUẾ 
GIÁ TRỊ GIA TĂNG ĐỐI VỚI THÀNH PHẦN KINH TẾ 
CÁ THỂ HIỆN NAY. 
I. THUẾ VÀ VAI TRÒ CỦA THUẾ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ 
TRƯỜNG: 
1. Khái niệm, đặc điểm của thuế. 
2. Vai trò của thuế trong nền kinh tế thị trường. 
II. SỰ CẦN THIẾT PHẢI ÁP DỤNG THUẾ GIÁ TRỊ GIA 
TĂNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY: 
1. Sự cần thiết phải áp dụng thuế Giá trị gia tăng thay cho 
thuế Doanh thu. 
2. Thuế Giá trị gia tăng và những ưu điểm nổi bật. 
3. Nội dung cơ bản của luật thuế giá trị gia tăng. 
III. Ý NGHĨA CỦA CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU THUẾ GIÁ TRỊ 
GIA TĂNG ĐỐI VỚI KHU VỰC KINH TẾ CÁ THỂ: 
1. Vị trí, vai trò của kinh tế cá thể trong nền kinh tế thị 
 trường. 
2. Ý nghĩa của việc tăng cường quản lý thuế giá trị gia tăng 
đối với khu vực kinh tế cá thể. 
Trang 4 
PHẦN II: TÌNH HÌNH QUẢN LÝ THU THUẾ GIÁ TRỊ 
GIA TĂNG Ở KHU VỰC KINH TẾ CÁ THỂ TRÊN ĐỊA 
BÀN QUẬN BA ĐÌNH QUÝ I NĂM 2003. 
I. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ XÃ HỘI VÀ TÌNH HÌNH QUẢN LÝ 
THU THUẾ TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN BA ĐÌNH: 
1. Một số nét về đặc điểm kinh tế xã hội. 
2. Công tác tổ chức bộ máy thu thuế trên địa bàn quận Ba 
Đình. 
II. TÌNH HÌNH QUẢN LÝ THU THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG VỚI 
CÁC HỘ KINH TẾ CÁ THỂ TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN BA ĐÌNH 
TRONG NHỮNG THÁNG ĐẦU THỰC HIỆN LUẬT THUẾ MỚI: 
1. Quản lý đối tượng nộp thuế. 
2. Quản lý căn cứ tính thuế. 
3. Quản lý khâu thu nộp tiền thuế. 
PHẦN III: MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG 
TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ THU THUẾ Ở KHU VỰC 
KINH TẾ CÁ THỂ TẠI QUẬN BA ĐÌNH. 
I. QUẢN LÍ ĐỐI TƯỢNG NỘP THUẾ: 
1. Quản lý những hộ đã quản lý được . 
2. Quản lý những hộ chưa quản lý được. 
Trang 5 
II. QUẢN LÝ VỀ CĂN CỨ TÍNH THUẾ: 
III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ THU NỘP TRÊN THUẾ: 
1. Công tác xây dựng kế hoạch. 
2. Công tác đôn đốc thu nộp thuế. 
3. Công tác kiểm tra và thanh tra thuế. 
IV. CÁC BIỆN PHÁP VỀ TỔ CHỨC CÁN BỘ: 
1. Chấn chỉnh bộ máy hoạt động của Chi cục thuế Quận Ba 
Đình. 
2. Tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ một cách có hệ thống. 
 3. Có chính sách về lương thoả đáng đối với cán bộ thuế. 
 4. Tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của cơ quan thuế và các 
cấp, các ngành có liên quan. 
V. MỘT SỐ BIỆN PHÁP KHÁC: 
1. Từng bước đưa khoa học kỹ thuật vào quản lý thu thuế 
như ứng dụng công cụ tin học. 
2. Làm thay đổi thói quen của người dân về việc sử dụng hoá 
đơn, chứng từ. 
3. Kiến nghị về văn bản luật, chính sách của Nhà nước. 
 PHẦN I 
SỰ CẦN THIẾT PHẢI QUẢN LÝ THUẾ GIÁ 
TRỊ GIA TĂNG ĐỐI VỚI THÀNH PHẦN 
KINH TẾ CÁ THỂ. 
Trang 6 
I. THUẾ VÀ VAI TRÒ CỦA THUẾ TRONG NỀN KINH 
TẾ THỊ TRƯỜNG: 
1. Khái niệm, đặc điểm của Thuế: 
 Thuế xuất hiện cùng với sự xuất hiện của Nhà nước và sự phát 
triển tồn tại của nền kinh tế hàng hoá tiền tệ. Nhà nước sử dụng thuế 
như một công cụ để phục vụ cho việc thực hiện các chức năng và nhiệm 
vụ của mình. Lịch sử càng phát triển, các hệ thống thuế khoá, các hình 
thức thuế khoá và pháp luật thuế ngày càng đa dạng và hoàn thiện cùng 
với sự phát triển của kinh tế thị trường, các khoản đóng góp của người 
dân cho Nhà nước được xác định và được quy định công khai bằng luật 
pháp của Nhà nước . 
 Các khoản thuế đóng góp của dân tạo thành quỹ tiền tệ của Nhà 
nước. Cùng với sự hoàn thiện chức năng của Nhà nước, phạm vi sử 
dụng quỹ tiền tệ của Nhà nước ngày càng mở rộng. Nó không chỉ đảm 
bảo chi tiêu để duy trì quyền lực của bộ máy Nhà nước, mà còn để chi 
tiêu cho các nhu cầu phúc lợi chung và kinh tế. Như vậy gắn liền với 
Nhà nước, thuế luôn là một vấn đề thời sự nóng bỏng đối với các hoạt 
động kinh tế xã hội và với mọi tầng lớp dân cư. 
 Có rất nhiều các quan điểm nhìn nhận thuế dưới nhiều hình thức 
khác nhau, nhưng đứng trên góc độ tài chính, có thể xem xét thuế dưới 
khái niệm như sau: 
 Thuế là một trong những biện pháp tài chính bắt buộc nhưng 
phi hình sự của Nhà nước nhằm động viên một số bộ phận thu nhập 
từ lao động, từ của cải, từ vốn, từ các chi tiêu hàng hoá và dịch vụ, từ 
Trang 7 
tài sản của các thể nhân và pháp nhân nhằm tập trung vào tay Nhà 
nước để trang trải các khoản chi phí cho bộ máy nhà nước và các 
nhu cầu chung của xã hội. Các khoản động viên qua thuế được thể 
chế hoá bằng luật. 
 Với nhận thức như vậy, có thể thấy rõ sự khác nhau giữa thuế với 
các hình thức phân phối khác dựa trên những đặc điểm chủ yếu sau đây: 
· Đặc điểm thứ nhất : Thuế là một biện pháp tài chính của 
Nhà nước mang tính quyền lực, tính cưỡng chế, tính pháp lý cao nhưng 
 sự bắt buộc này là phi hình sự. 
 Quá trình động viên nguồn thu từ thuế của Nhà nước là quá trình 
chuyển đổi quyền sở hữu một bộ phận thu nhập của các pháp nhân và 
thể nhân thành quyền sở hữu của Nhà nước. Do đó Nhà nước phải dùng 
quyền lực để thực hiện quyền chuyển đổi. Tính quyền lực tạo nên sự 
bắt buộc là một tất yếu khách quan, nhưng vì các hoạt động thu nhập 
của thể nhân và pháp nhân không gây cản trở cho xã hội nên tính bắt 
buộc này là phi hình sự. Vì vậy có thể nói việc đánh thuế không mang 
tính hình phạt. 
 Đặc điểm này được thể chế hoá trong hiến pháp của mọi quốc gia, 
việc đóng góp thuế cho nhà nước được coi là một trong những nghĩa vụ 
bắt buộc đối với công dân. Mọi công dân làm nghiã vụ đóng thuế theo 
những luật thuế được cơ quan quyền lực tối cao quy định và nếu không 
thi hành sẽ bị cưỡng chế theo những hình thức nhất định. 
 * Đặc điểm thứ hai: Thuế tuy là biện pháp tài chính của Nhà nước 
mang tính bắt buộc, song sự bắt buộc đó luôn luôn được xác lập trên 
nền tảng kinh tế-xã hội của người làm nhiệm vụ đóng thuế, do đó thuế 
bao giờ cũng chứa đựng các yếu tố kinh tế xã hội. 
 + Yếu tố kinh tế thể hiện : Hệ thống thuế trước hết phải kể đến 
thu nhập bình quân đầu người của một Quốc gia, cơ cấu kinh tế, thực 
Trang 8 
tiễn vận động của cơ cấu kinh tế đó, cũng như chính sách, cơ chế quản 
lý của Nhà nước. Cùng với yếu tố đó còn phải kể đến phạm vi, mức độ 
chi tiêu của Nhà nước nhằm thực hiện các chức năng kinh tế của mình. 
 + Yếu tố xã hội thể hiện : Hệ thống thuế phải dựa trên phong tục, 
tập quán của quốc gia, kết cấu giai cấp cũng như đời sống thực tế của 
các thành viên trong từng giai đoạn lịch sử. Mặt khác thuế còn thực 
hiện phân phối lại thu nhập xã hội đảm bảo công bằng xã hội. 
 Như vậy mức động viên qua thuế trong GDP của một quốc gia 
phụ thuộc vào nhu cầu chi tiêu của Nhà nước và các vấn đề kinh tế, xã 
hội của quốc gia đó. 
 * Đặc điểm thứ ba: Thuế là một khoản đóng góp không mang tính 
chất hoàn trả trực tiếp. Nghiã là khoản đóng góp của công dân bằng 
hình thức thuế không đòi hỏi phải hoàn trả đúng bằng số lượng và 
khoản thu mà nhà nước thu từ công dân đó như là một khoản vay 
mượn. Nó sẽ được hoàn trả lại cho người nộp thuế thông qua cơ chế 
đầu tư của Ngân sách nhà nước cho việc sản xuất và cung cấp hàng hoá 
công cộng. 
 Đặc điểm này làm nổi rõ sự khác nhau giữa thuế và lệ phí. Lệ phí 
được coi là một khoản đối giá giữa Nhà nước với công dân, khi công 
dân thừa hưởng những dịch vụ công cộng do nhà nước cung cấp phải 
trả một phần thu nhập của mình cho nhà nước. Tuy nhiên việc trao đổi 
này thường không tuân thủ theo hình thức trao đổi ngang giá dựa trên 
quy luật của thị trường. 
 Tóm lại, Thuế là một biện pháp kinh tế của mọi Nhà nước, nó 
được thực thi khi hoạt động kinh tế tạo ra thu nhập hoặc sử dụng nguồn 
thu nhập tạo ra. Đặc biệt, trong nền kinh tế thị trường vai trò của Nhà 
nước ngày càng trở nên quan trọng thì vai trò của thuế cũng chiếm vị trí 
Trang 9 
không thể thiếu được trong công tác quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh 
tế. 
2. Vai trò của Thuế trong nền kinh tế thị trường: 
 Sử dụng cơ chế thị trường để giải quyết 3 vấn để cơ bản của nền 
kinh tế (sản xuất cái gì, như thế nào, cho ai) là phát kiến vĩ đại của nhân 
loại, cơ chế thị trường thông qua những yếu tố của nó đã tạo ra động 
lực thúc đẩy sản xuất phát triển, kích thích tăng năng suất lao động, 
nâng cao chất lượng hiệu quả, thúc đẩy quá trình xã hội hoá sản xuất, 
đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung hoá sản xuất. 
 Bên cạnh những ưu điểm đó, cơ chế thị trường có nhược điểm là 
gây cho xã hội những lãng phí về lao động, tài nguyên, vốn dẫn đến độc 
quyền thủ tiêu cạnh tranh. Với cơ chế phân phối qua thị trường thường 
khoét sâu hố ngăn cách giữa người giầu và người nghèo, tạo sự bất ổn 
định về kinh tế xã hội. 
 Từ những ưu, nhược điểm đó cần thiết phải có sự can thiệp của 
Nhà nước vào quá trình kinh tế -xã hội để phát huy những mặt tích cực 
của cơ chế thị trường và hạn chế tối đa những nhược điểm của chúng. 
Để quản lý, điều hành vĩ mô nền kinh tế xã hội, Nhà nước sử dụng 
nhiều công cụ như: Kế hoặch hoá, pháp luật, các chính sách tài chính 
tiền tệ..vv.. Trong các công cụ trên thì chính sách tài chính tiền tệ đóng 
vai trò quan trọng nhất và Thuế là một công cụ quan trọng trong chính 
sách tài chính tiền tệ, thuế được nhà nước sử dụng để thực hiện vai trò 
quản lý vĩ mô kinh tế xã hội. 
 Có thể thấy rõ vai trò của Thuế nổi bật ở các mặt sau: 
 * Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước: 
Trang 10 
 Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào 
nguồn thu từ nội bộ nền kinh tế quốc dân.Tất cả các nhu cầu chi tiêu 
của Nhà nước đều được đáp ứng qua các nguồn thu từ thuế, phí và các 
hình thức thu khác như: vay mượn, viện trợ nước ngoài, bán tài nguyên 
quốc gia, thu khác..vv.. Song thực tế các hình thức thu ngoài thuế đó có 
rất nhiều hạn chế, bị ràng buộc bởi nhiều điều kiện. Do đó thuế được 
coi là khoản thu quan trọng nhất vì khoản thu này mang tính chất ổn 
định và khi nền kinh tế càng phát triển thì khoản thu này càng tăng. Ở 
nước ta, Thuế thực sự trở thành nguồn thu chủ yếu của Ngân sách Nhà 
nước từ năm 1990. Điều này được thể hiện qua tỷ trọng số thuế trong 
tổng thu ngân sách . 
 Biều 1: Tình hình tỉ lệ thuế và phí trong tổng thu ngân sách nhà 
nước ta trong thời gian qua ( Tài liệu của Tổng cục thuế ). 
Năm Tổng số thuế và phí 
( tỷ đồng) 
% So với tổng thu 
NSNN 
% So với GDP 
1990 5906 73.7 14.0 
1991 9844 92.7 12.83 
1992 18514 88.0 16.75 
1993 28695 90.5 21.0 
1994 36629 89.6 21.51 
 Qua biểu trên ta thấy số thu thuế và phí đã chiếm phần chủ yếu 
trong tổng thu NSNN và tăng nhanh qua các năm, đã bảo đảm về cơ 
bản yêu cầu chi thường xuyên ngày càng tăng của NSNN, giảm bội chi 
ngân sách, giảm lạm phát, từng bước góp phần ổn định trật tự xã hội, 
Trang 11 
giành một phần để tăng chi cho tích luỹ. Như vậy, chứng tỏ thuế là 
nguồn thu quan trọng nhất của NSNN. 
 * Thuế, một công cụ góp phần điều chỉnh các mục tiêu kinh tế vĩ mô 
của Nhà nước: 
 Chính sách thuế được đặt ra không chỉ nhằm mang lại số thu đơn 
thuần cho ngân sách mà yêu cầu cao hơn là qua thu góp phần thực hiện 
chức năng việc kiểm kê, kiểm soát, quản lý hướng dẫn và khuyến khích 
phát triển sản xuất, mở rộng lưu thông đối với tất cả các thành phần 
kinh tế theo hướng phát triển của kế hoạch nhà nước, góp phần tích cực 
vào việc điều chỉnh các mặt mất cân đối lớn trong nền kinh tế quốc dân. 
 Ngày nay, hướng vào việc xử lý các mục tiêu của kinh tế vĩ mô là 
nhiệm vụ trọng tâm của mọi chính phủ. Sự thành công hay thất bại của 
việc quản lý Nhà nước, nền kinh tế là giải quyết các mục tiêu của kinh 
tế vĩ mô. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, người ta thường xác 
định 4 mục tiêu cơ bản của kinh tế vĩ mô mà mọi chính phủ phải theo 
đuổi. Bốn mục tiêu đó là: 
 - Đảm bảo thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế một cách hợp lý . 
 - Tạo được công ăn việc làm đầy đủ cho người lao động. 
 - Ổn định giá cả, tiền tệ, chống lạm phát. 
-Thực hiện sự cân bằng cán cân thanh toán quốc tế. 
Với 4 mục tiêu trên ta có thể thấy rõ Thuế là một công cụ hết sức 
quan trọng nhằm biến 4 mục tiêu đó thành hiện thực. 
 1. Thuế kích thích sự tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc 
làm: 
Trang 12 
 Để thực hiện các mục tiêu này, một trong những công cụ quan 
trọng mà nhà nước sử dụng là chính sách thuế. Nội dung điều tiết của 
thuế gồn hai mặt: Kích thích và hạn chế. Nhà nước đã sử dụng chính 
sách thuế một cách linh hoạt trong từng thời kỳ nhất định, bằng việc tác 
động vào cung-cầu nhằm điều chỉnh chu kỳ kinh doanh- một đặc 
trưng vốn có của nền kinh tế thị trường. 
 Khi nền kinh tế suy thoái, tức là khi đầu tư ngừng trệ, sản xuất và 
tiêu dùng đều giảm thì nhà nước dùng thuế để kích thích đầu tư và 
khuyến khích tiêu dùng. 
- Bằng việc giảm thuế đánh vào sản xuất, giảm thuế đối với 
hàng sản xuất ra để khuyến khích tạo lợi nhuận, kích thích 
việc đầu tư vào sản xuất. 
- Bằng việc giảm thế đánh vào tiêu dùng nhằm khuyến khích 
tiêu dùng. 
- Để hạn chế và gây áp lực đối với việc lưu giữ vốn không đưa 
vào đầu tư, có thể tăng thuế đánh vào thu nhập về tiền gửi tiết 
kiệm và thu nhập về tài sản dự trữ, từ đó sẽ khuyến khích việc 
đưa vốn vào đầu tư, sản xuất kinh doanh. 
 Khi nền kinh tế hưng thịnh, để ngăn chặn nguy cơ một nền kinh 
tế “nóng” phát triển dẫn đến lạm phát và khủng hoảng thừa thì nhà 
nước dùng thuế để giảm tốc độ đầu tư ồ ạt và giảm bớt mức tiêu dùng 
của xã hội. Song việc tăng thuế phải được xem xét trong một giới hạn 
cho phép để đảm bảo vừa tăng nguồn thu cho NSNN vừa điều chỉnh cơ 
cấu ngành nghề hợp lý. 
 Như vậy, có thể thấy sự tác động của thuế có ảnh hưởng rất lớn 
đến nền kinh tế, đến việc điều tiết kinh tế thị trường của Nhà nước. 
Thông qua thuế, Nhà nước thực hiện định hướng phát triển sản xuất. 
Trang 13 
Chính sách thuế có định hướng phân biệt, có thể góp phần tạo ra sự 
phát triển cân đối hài hoà giữa các ngành, các khu vực, các thành phần 
kinh tế, làm giảm bớt chi phí xã hội và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. 
Trong nền kinh tế thị trường xảy ra các chu kỳ kinh doanh đó là chu kỳ 
dao động lên xuống về mức độ thất nghiệp và tỷ lệ lạm phát, sự ổn định 
nền kinh tế với tình trạng có đầy đủ công ăn việc làm, lạm phát ở mức 
thấp để thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng bền vững là hướng phấn đấu 
nỗ lực của mọi chính phủ nhằm san bằng chu kỳ kinh doanh, đưa giá cả 
về mức ổn định. 
 2. Thuế thực hiện vai trò tái phân phối các nguồn tài chính, 
góp phần đảm bảo công bằng xã hội: 
 Kinh tế thị trường làm ra tăng sự phân hoá giàu nghèo, sự phân 
hoá này có những khi bất hợp lý và làm giảm tính hiệu quả kinh tế-xã 
hội. Do vậy, cần phải có những biện pháp phân phối lại của cải xã hội 
nhằm hạn chế sự phân hoá này, làm lành mạnh xã hội. 
 Nhà nước dùng thuế để điều tiết phần chênh lệch giữa người giàu 
và người nghèo, thông qua việc trợ cấp hoặc cung cấp hàng hoá công 
cộng. Thông qua thuế thu nhập, Nhà nước thực hiện vai trò điều chỉnh 
vĩ mô trong lĩnh vực tiền lương và thu nhập, hạn chế sự phân hoá giàu 
nghèo và tiến tới công bằng xã hội. Một khía cạnh khác của chính sách 
thuế nhằm điều chỉnh thu nhập là các khoản thuế đánh vào tiêu dùng: 
Thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế Giá trị gia tăng. 
 Với những hàng hóa dịch vụ thiết yếu việc giảm thuế sẽ có lợi 
cho người nghèo hơn và sự chênh lệch về thu nhập cũng được giảm bớt. 
Trái lại những mặt hàng xa xỉ, cao cấp việc tăng thuế sẽ góp phần phân 
phối lại một bộ phận thu nhập của người giàu trong xã hội. Tuy nhiên, 
Trang 14 
khi sử dụng công cụ thuế để điều chỉnh thu nhập, mức thu nên xây 
dựng hợp lý tránh tình trạng điều tiết quá lớn làm giảm khát vọng làm 
giàu của nhà kinh doanh và giảm khả năng tăng trưởng kinh tế của đất 
nước. 
 3. Thuế là công cụ kiềm chế lạm phát: 
Nguyên nhân của lạm phát có thể do cung cầu làm cho giá cả 
hàng hoá tăng lên hoặc do chi phí đầu vào tăng. Thuế được sử dụng để 
điều chỉnh lạm phát, ổn định giá cả thị trường. Nếu cung nhỏ hơn cầu 
thì nhà nước dùng thuế để điều chỉnh bằng cách giảm thuế đối với các 
yếu tố sản xuất, giảm thuế thu nhập để kích thích đầu tư sản xuất ra 
nhiều khối lượng sản phẩm nhiều hơn. Đồng thời tăng thuế đối với 
hàng hoá tiêu dùng để giảm bớt cầu. Nếu lạm phát do chi phí tăng, gia 
tăng thất nghiệp, sự trì trệ của tốc độ phát triển kinh tế, giá cả đầu vào 
tăng, nhà nước dùng thuế hạn chế tăng chi phí bằng cách cắt giảm thuế 
đánh vào chi phí, kích thích tăng năng suất lao động. 
4. Thuế góp phần bảo hộ sản xuất trong nước và tạo điều 
 kiện hoà nhập nền kinh tế thế giới: 
 Bảo hộ hợp lý nền sản xuất trong nước tránh khỏi sự cạnh 
tranh khốc kiệt từ bên ngoài được coi là hết sức cần thiết đối với các 
nước. Điều này được thể hiện rõ nét thông qua thuế xuất nhập khẩu. Để 
kích thích sản xuất trong nước phát triển, kích thích sản xuất hàng hoá 
xuất khẩu, nhà nước đánh thuế rất thấp hoặc không đánh thuế vào hàng 
xuất khẩu. Khuyến khích xuất khẩu hàng hoá đã qua chế biến, hạn chế 
xuất khẩu nguyên liệu thô. Đánh thuế nhập khẩu thấp đối với hàng hoá 
Trang 15 
máy móc thiết bị trong nước chưa sản xuất được và đánh thuế nhập 
khẩu cao đối với hàng hoá máy móc thiết bị trong nước đã sản xuất 
được hoặc hàng hoá tiêu dùng xa xỉ. 
 Hiện nay, xu hướng hội nhập kinh tế đang phát triển mạnh mẽ ở 
trong khu vực và trên thế giới. Sự ưu đãi, các hiệp định về thuế, tính 
thông lệ quốc tế của chính sách thuế có thể làm gia tăng sự hoà nhập 
kinh tế giữa một số quốc gia với khu vực và cộng đồng quốc tế. 
 Trước sự đổi mới mạnh mẽ của cơ chế thị trường đòi hỏi hàng 
loạt các chính sách kinh tế, tài chính phải thay đổi cho phù hợp, trong 
đó có chính sách thuế khoá. Kỳ họp thứ XI Quốc hội khoá IX nước 
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam đã thông qua hai luật thuế quan 
trọng là Luật thuế Giá trị gia tăng và Luật thuế thu nhập doanh nghiệp 
có hiệu lực từ ngày 01/01/1999 thay thế cho Luật thuế doanh thu, lợi 
tức. Vấn đề đặt ra là ngành thuế cũng như các đối tượng sản xuất kinh 
doanh phải nắm vững và thực hiện nghiêm chỉnh 2 luật thuế này giúp 
cho Thuế ngày càng có sức khả thi, hiệu quả hơn trong nền kinh tế thị 
trường. 
II. SỰ CẦN THIẾT PHẢI ÁP DỤNG THUẾ THUẾ GIÁ 
TRỊ GIA TĂNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY: 
1. Sự cần thiết phải áp dụng thuế Giá trị gia tăng thay 
cho thuế Doanh thu: 
 Chỉ có sản xuất mới tạo ra của cải vật chất cho xã hội và nguồn 
thu cho NSNN. Do đó, Nhà nước có trách nhiệm quan tâm, tạo môi 
trường thuận lợi cho sản xuất phát triển, lưu thông được thông suốt. 
Trang 16 
Một môi trường đầu tư được coi là thuận lợi nếu trong đó, những cơ chế 
chính sách được quy định phù hợp, rõ ràng, ổn định, ít có biến động để 
tạo cho doanh nghiệp yên tâm bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất, kinh 
doanh. 
 Ở nước ta, đến thời điểm này, Nhà nước thấy cần thiết phải áp 
dụng thuế Giá trị gia tăng để thay thế cho thuế doanh thu vì các lý do 
sau: 
 Với Việt Nam, Thuế doanh thu đã được áp dụng từ rất lâu, 
trước đây có tên là Thuế doanh nghiệp, từ khi cải cách thuế bước một 
(từ năm 1990) được đổi tên là Thuế doanh thu. Thuế doanh thu có đặc 
trưng cơ bản là có nhiều mức thuế suất, phân biệt theo nghành hàng và 
mặt hàng. Thuế thu hàng tháng và tính trên tổng doanh thu bán hàng, 
không có khấu trừ thuế đã nộp ở khâu trước. Thuế suất được quy định 
thấp. 
 Thuế doanh thu có ưu điểm là tính toán đơn giản, thu dứt điểm 
từng lần bán hàng mà không phải theo dõi thoái trả số thuế đã nộp ở 
khâu trước. Vì vậy, nguồn thu của các cấp ngân sách và giữa các địa 
phương cũng tương đối ổn định. 
 Tuy nhiên, thuế doanh thu có nhiều nhược điểm, trong đó, 
nhược điểm lớn nhất là thu thuế trùng lắp. Thuế doanh thu quy định cứ 
mỗi lần bán hàng là một lần phải nộp Thuế doanh thu nên càng chuyên 
môn hoá sâu thì càng phải nộp nhiều thuế. Ngược lại, nếu tổ chức sản 
xuất khép kín kiểu tự cấp tự túc thì phải nộp ít thuế hơn. Do đó, thuế 
doanh thu không phù hợp với yêu cầu Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá. 
Mặt khác, cơ chế thuế có nhiều mức thuế suất để bảo hộ đến từng 
ngành hàng, mặt hàng chỉ phù hợp với thời kỳ kế hoặch hoá, thời kì mà 
giá cả đại bộ phận hàng hoá đều do Nhà nước thống nhất quản lý.Việc 
quy định quá nhiều thuế suất làm cho sắc thuế phức tạp, tạo kẽ hở để 
Trang 17 
trốn thuế, lách thuế. Mặt khác thuế Doanh thu quy định quá nhiều các 
trường hợp miễn giảm thuế, nhiều khi không đúng tính chất của thuế 
gián thu, gây phức tạp cho quá trình thực hiện, quản lý. 
 Sang cơ chế kinh tế thị trường, giá cả hàng hoá do cung- cầu 
trên thị trường quyết định, nếu vẫn duy trì cơ chế nhiều thuế suất thì chỉ 
làm tăng thêm khó khăn, phức tạp trong quản lý và tạo nhiều kẽ hở cho 
trốn lậu thuế... Chính vì vậy, trong cải cách thuế bước II này, Quốc hội 
đã quyết định ban hành thuế Giá trị gia tăng để áp dụng từ 1/1/2003 
thay thế cho thuế doanh thu. 
2. Thuế Giá trị gia tăng và những ưu điểm nổi bật: 
 Thuế Giá trị gia tăng là thuế tính trên khoản giá trị tăng thêm 
của hàng hoá, dịch vụ phát sinh ở từng khâu trong quá trình từ sản xuất, 
lưu thông đến tiêu dùng. 
Vì chỉ tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ ở 
từng khâu bán hàng, không đánh vào phần giá trị đã chịu thuế ở khâu 
trước, cho nên cách tính thuế Giá trị gia tăng là rất khoa học, rất cần 
thiết đối với phát triển sản xuất theo hướng Công nghiệp hoá- Hiện đại 
hoá và phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế. 
Với bản chất đó, Thuế Giá trị gia tăng có nhiều ưu điểm hơn so 
với thuế doanh thu, như sau: 
+ Thuế Giá trị gia tăng không thu trùng lắp cho nên góp phần 
khuyến khích chuyên môn hoá, hợp tác hoá để nâng cao năng suất, chất 
lượng, hạ giá thành sản phẩm. 
Trang 18 
+ Thuế Giá trị gia tăng chỉ tính trên phần giá trị tăng thêm, 
không tính vào vốn, nên góp phần khuyến khích các tổ chức, cá nhân 
bỏ vốn ra đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, phù hợp với định 
hướng phát triển kinh tế ở nước ta trong thời gian tới. 
+ Thuế Giá trị gia tăng góp phần khuyến khích mạnh mẽ việc 
sản xuất hàng xuất khẩu, vì hàng hoá xuất khẩu chẳng những không 
phải chịu thuế Giá trị gia tăng ở khâu xuất khẩu mà còn được thoái trả 
lại toàn bộ số thuế đã thu ở các khâu trước. 
+ Thuế Giá trị gia tăng được thu tập trung ngay ở khâu đầu tiên 
là khâu sản xuất hoặc khâu nhập khẩu hàng hoá và thu ở mỗi khâu đều 
có thể kiểm tra được việc thu nộp thuế ở khâu trước, cho nên hạn chế 
được thất thu hơn so với thuế doanh thu. 
+ Thuế Giá trị gia tăng được thực hiện thống nhất và chặt chẽ 
theo nguyên tắc căn cứ vào hoá đơn mua, bán hàng để khấu trừ số thuế 
đã nộp ở khâu trước. Điều đó có nghĩa là, nếu không có hoá đơn mua 
hàng ghi rõ số thuế Giá trị gia tăng đã nộp ở khâu trước thì không được 
khấu trừ thuế. Vì vậy, Thuế Giá trị gia tăng khuyến khích các cơ sở sản 
xuất, kinh doanh khi mua hàng phải đòi hoá đơn, và khi bán hàng phải 
có hoá đơn theo đúng quy định. Với nguyên tắc thuế thu ở khâu sau 
được khấu trừ số thuế đã nộp ở khâu trước, Thuế Giá trị gia tăng sẽ góp 
phần hạn chế được những sai sót, gian lận trong việc ghi chép hoá đơn. 
Hoạt động mua-bán hàng hoá, cung ứng lao vụ, dịch vụ có hoá đơn, 
chứng từ được đưa vào nề nếp thành thói quen trong nền kinh tế sẽ là 
tiền đề cho việc tin học hoá quá trình quản lý sản xuất kinh doanh, hạn 
chế bớt những sai sót, tiêu cực và mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh 
tế. 
Trang 19 
+ Thuế Giá trị gia tăng phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo điều 
kiện cho Việt nam hội nhập kinh tế với các nước trong khu vực và trên 
thế giới. 
Rõ ràng, thuế Giá trị gia tăng có nhiều ưu điểm nổi trội hơn thuế 
doanh thu. Mục đích chủ yếu của việc áp dụng thuế Giá trị gia tăng là 
tạo thêm thuận lợi cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh phát triển, chứ 
không nhằm tăng mức động viên, càng không phải là làm cho doanh 
nghiệp khó khăn. 
2. Nội dung cơ bản của Luật thuế Giá trị gia tăng: 
 Theo luật thuế Giá trị gia tăng đã được quốc hội khoá IX thông 
qua tại kỳ họp thứ 11. 
 Nghị định số 28/2003/NĐ-CP. 
 Thông tư số 89/2003/TT-BTC. 
· Phạm vi áp dụng : 
a. Đối tượng chịu thuế : Hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất, 
kinh doanh và tiêu dùng ở Việt nam là đối tượng chịu thuế Giá trị gia 
tăng, trừ các đối tượng không thuộc diện chịu thuế đã quy định trong 
luật. 
 Do những mục tiêu kinh tế xã hội nhất định trong từng thời kỳ, 
luật thuế Giá trị gia tăng quy định 26 nhóm, mặt hàng không thuộc diện 
chịu thuế Giá trị gia tăng. Đặc điểm của những hoạt động không phải 
chịu thuế Giá trị gia tăng là: 
Trang 20 
- Những hoạt động nhà nước cần khuyến khích phát triển 
nhưng đang gặp khó khăn. Ví dụ: Nhà ở thuộc sở hữu nhà 
nước do nhà nước bán cho người đang thuê. 
- Những hoạt động liên quan đến vốn đầu tư. Ví dụ: Dịch vụ tín 
dụng và quỹ đầu gồm hoạt động cho vay vốn, cho thuế tài 
chính.. 
- Những hoạt động sản xuất hàng hoá dịch vụ thiết yếu. Ví dụ: 
Sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi chưa qua chế biến hoặc chỉ sơ 
chế.. 
- Những hoạt động không mang tính kinh doanh. Ví dụ: Vũ khí, 
khí tài phục vụ quốc phòng an ninh.. 
- Những hoạt động cần ưu đãi nhưng ở mức độ vừa phải. Ví dụ: 
Hàng miễn thuế bán tại cảng, ga, sân bay.. 
- Những hàng hoá mang tính chất xử lý về mặt kĩ thuật đánh 
thuế. Ví dụ: Hàng hoá dịch vụ thuộc diện chịu thuế tiêu thụ 
đặc biệt. 
- Những hàng hoá không mang tính chất gia tăng, tiêu dùng tại 
Việt nam hoặc theo những quan hệ kinh tế đối ngoại. Ví dụ: 
Hàng chuyển khẩu, quá cảnh.. 
 Những hàng hoá thuộc diện chịu thuế Giá trị gia tăng không phải 
nộp thuế Giá trị gia tăng đầu vào, nhưng không được khấu trừ, hoàn 
thuế GTGT đầu ra. 
b. Đối tượng nộp thuế: Các tổ chức cá nhân, sản xuất kinh doanh 
hàng hóa dịch vụ chịu thuế Giá trị gia tăng (gọi chung là cơ sở kinh 
doanh) và tổ chức cá nhân khác nhập khẩu hàng hoá chịu thuế Giá 
trị gia tăng ( gọi chung là người nhập khẩu) là đối tượng nộp thuế 
Giá trị gia tăng. 
Trang 21 
· Căn cứ tính thuế và phương pháp tính thuế: 
a. Căn cứ tính thuế Giá trị gia tăng : là giá tính thuế và thuế 
suất: 
 - Giá tính thuế : 
Nguyên tắc chung: Giá tính thuế là giá chưa có thuế Giá trị gia 
 tăng 
 + Đối với hàng hoá dịch vụ do cơ sở sản xuất kinh doanh bán ra 
hoặc cung ứng cho đối tượng khác, giá tính thuế Giá trị gia tăng là giá 
bán chưa có thuế Giá trị gia tăng. 
 + Đối với hàng hoá nhập khẩu là giá nhập tại cửa khẩu cộng với 
thuế nhập khẩu. 
+ Đối với hàng hoá dịch vụ để trao đổi sử dụng nội bộ biếu tặng, 
giá tính thuế Giá trị gia tăng được xác định theo giá tính thuế của từng 
hàng hoá dịch vụ cùng loại hoặc tương đương tại thời điểm phát sinh 
các loại hoạt động này. 
 + Đối với hoạt động cho thuê tài sản, giá tính thuế Giá trị gia 
tăng là tiền cho thuê trong từng kỳ. 
 + Đối với gia công hàng hoá, giá tính thuế Giá trị gia tăng là giá 
gia công chưa có thuế bao gồm: Tiền công, tiền nhiên liệu, động lực vật 
liệu phụ và chi phí khác để gia công. 
 + Đối với hoạt động xây dựng, lắp đặt giá tính thuế Giá trị gia 
tăng là giá xây dựng, lắp đặt chưa có thuế Giá trị gia tăng. 
Trang 22 
 + Đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ hưởng tiền công hoặc 
tiền hoa hồng, giá tính thuế Giá trị gia tăng là tiền công hoặc tiền hoa 
hồng đựơc hưởng chưa trừ khoản phí tổn nào. 
 + Đối với hoạt động vận tải, bốc xếp giá tính thuế Giá trị gia tăng 
là giá cước vận tải, bốc xếp chưa có thuế Giá trị gia tăng. 
 + Đối với hàng hoá, dịch vụ đặc thù được xác định như sau: 
 Giá tính Giá thanh toán 
 thuế = ------------------------------------- 
 giá trị gia tăng 1+ Thuế suất(%) thuế GTGT 
- Thuế suất: 
 Luật thuế Giá trị gia tăng quy định 4 mức thuế suất: 
0%,5%,10%,20%. 
 Mục đích của việc quy định 4 mức thuế suất này là nhằm khắc 
phục nhược điểm của thuế Doanh thu, là một bước giảm bớt đáng kể sự 
phức tạp và kém hiệu quả của cơ chế đa thuế suất. Đồng thời thể hiện 
chính sách điều tiết thu nhập và hướng dẫn tiêu dùng đối với hàng hoá, 
dịch vụ của nhà nước. 
 + Mức thuế suất 0% áp dụng đối với hàng hoá xuất khẩu. 
 + Mức thuế suất 5% áp dụng đối với hàng hoá và dịch vụ thiết 
yếu, phục vụ trực tiếp cho sản xuất và tiêu dùng. 
 + Mức thuế suất 10% là thuế suất phổ thông áp dụng đối với 
hàng hoá dịch vụ thông thường nhằm đảm bảo số thu cho NSNN. 
 + Mức thuế suất 20% áp dụng đối với hàng hoá dịch vụ không 
thiết yếu mà nhà nước cần điều tiết: 
 . Vàng bạc đá quý do cơ sở kinh doanh mua vào bán ra. 
Trang 23 
 . Khách sạn du lịch ăn uống 
 . Xổ số kiến thiết. 
 . Đại lý tàu biển. 
 . Dịch vụ môi giới. 
b. Phương pháp tính thuế: 
 Có 2 phương pháp tính thuế Giá trị gia tăng: 
Phương pháp khấu trừ và phương pháp tính trực tiếp trên Giá trị 
gia tăng. 
@ Phương pháp khấu trừ thuế: 
 - Đối tượng và điều kiện áp dụng: Phương pháp khấu trừ thuế 
được áp dụng cho tất cả các cơ sở kinh doanh đã thực hiện đầy đủ các 
yêu cầu về mở và ghi sổ kế toán, chấp hành đầy đủ các quy định của 
chế độ hoá đơn, chứng từ. 
 - Cách tính thuế GTGT phải nộp: 
 Thuế Giá trị gia tăng Thuế GTGT Thuế GTGT 
 phải nộp = đầu ra - đầu vào 
 Thuế Giá trị gia tăng Giá tính thuế của Thuế suất thuế 
 đầu ra = HH,DV bán ra x gtgt HH,DV đó. 
 Thuế Giá trị gia tăng Tổng thuế GTGT đã thanh toán ghi trên 
 = hoá đơn GTGT mua hàng hoá dịch vụ 
 đầu vào hoặc chứng từ nộp thuế GTGT hàng hoá, 
 nhập khẩu 
Trang 24 
@ Phương pháp tính trực tiếp trên GTGT: 
 - Đối tượng và điều kiện áp dụng: Là các cá nhân, tổ chức kinh 
doanh chưa thực hiện đầy đủ các điều kiện về kế toán, hoá đơn, chứng 
từ để làm căn cứ tính thuế theo phương pháp khấu trừ, các cơ sở kinh 
doanh mua bán vàng, bạc, đã quý, ngoại tệ. Giá bán hàng hoá, dịch vụ 
ghi trên hoá đơn bán hàng là giá đã có thuế GTGT. 
 - Cách tính thuế : 
 Số thuế GTGT GTGT của hàng hoá Thuế suất GTGT 
 phải nộp = dịch vụ chịu thuế x của hàng hoá DV 
 Trong đó: 
 GTGT của hàng hóa Giá thanh toán của Giá TT của hàng hoá 
 = - 
 dịch vụ hàng hoá DV bán ra DV mua vào tương ứng 
c. Khấu trừ thuế Giá trị gia tăng đầu vào: 
 + Thuế đầu vào của hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất kinh 
doanh hàng hoá dịch vụ chịu thuế Giá trị gia tăng thì được khấu trừ 
toàn bộ . 
 + Thuế đầu vào của hàng hoá dịch vụ dùng đồng thời cho sản 
xuất kinh doanh hàng hoá dịch vụ chịu thuế Giá trị gia tăng và không 
chịu thuế giá trị gia tăng thì chỉ được khấu trừ số thuế đầu vào của 
hàng hoá dịch vụ dùng cho sản xuất kinh doanh hàng hoá dịch vụ chịu 
thuế Giá trị gia tăng. 
Trang 25 
 + Thuế đầu vào phát sinh trong tháng nào được kê khai khấu 
trừ khi xác định số thuế phải nộp của tháng đó. 
 + Thuế đã trả cho hàng hoá, vật tư, tài sản cố định, dịch vụ 
mua vào để sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ không thuộc diện 
chịu thuế Giá trị gia tăng thì không được khấu trừ. 
 + Riêng với tài sản cố định, nếu có số thuế đầu vào được khấu 
trừ lớn thì được phép khấu trừ dần hoặc được hoàn thuế. 
d. Hoàn thuế: 
 Việc hoàn thuế Giá trị gia tăng chỉ áp dụng cho các đối tượng 
nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế trong các trường hợp sau: 
 + Được xét hoàn thuế khi cơ sở kinh doanh có số thuế Giá trị 
gia tăng đầu vào được khấu trừ lớn hơn số thuế Giá trị gia tăng đầu ra 
phát sinh 3 tháng liên tục.Việc hoàn thuế Giá trị gia tăng đầu vào được 
thực hiện trong đầu quý tiếp theo. 
 + Được hoàn thuế Giá trị gia tăng theo từng kỳ hoặc theo 
tháng khi cơ sở kinh doanh xuất khẩu mặt hàng theo thời vụ hoặc xuất 
khẩu theo từng lần với số lượng lớn phát sinh số thuế đầu vào được 
khấu trừ lớn. 
 + Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương 
pháp khấu trừ thuế có đầu tư, mua sắm tài sản cố định có số thuế Giá 
trị gia tăng đầu vào được khấu trừ lớn thì được xét hoàn thuế: 
 . Cơ sở đầu tư mới, đã đăng ký nộp thuế Giá trị gia tăng 
nhưng chưa có phát sinh doanh thu bán hàng để tính thuế Giá trị gia 
tăng đầu ra. Nếu thời gian đầu tư từ một năm trở lên, thuế Giá trị gia 
tăng đầu vào sẽ được xét hoàn thuế theo từng năm. Trường hợp cơ sở 
kinh doanh xác định số thuế phải hoàn có số thuế Giá trị gia tăng đầu 
Trang 26 
vào của tài sản đầu tư được hoàn lớn, thuế Giá trị gia tăng đầu vào sẽ 
được xét hoàn thuế theo từng quý. 
 . Cơ sở kinh doanh đầu tư mở rộng, đầu tư theo chiều sâu, có 
số thuế Giá trị gia tăng đầu vào của tài sản đầu tư đã được khấu trừ 
trong 3 tháng ( kể từ tháng phát sinh thuế đầu vào của tài sản đầu tư) 
mà vẫn chưa được khấu trừ hết thì số thuế Giá trị gia tăng đầu vào 
chưa được khấu trừ sẽ được hoàn lại. 
 + Cơ sở kinh doanh quyết toán thuế khi sát nhập, chia tách, 
giải thể, phá sản có số thuế giá trị gia tăng nộp thừa. 
 + Cơ sở kinh doanh có quyết định xử lý hoàn thuế của cơ 
quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. 
e. Miễn giảm thuế: 
 Đơn vị những cơ sở sản xuất, vận tải, xây dựng, thương mại, 
du lịch, ăn uống trong những năm đầu áp dụng thuế Giá trị gia tăng mà 
bị lỗ do số thuế GTGT phải nộp lớn hơn số thuế tính theo mức thuế 
doanh thu trước đây thì được xét giảm thuế GTGT phải nộp. Mức thuế 
được xét giảm đối với từng cơ sở kinh doanh tương ứng với số lỗ do 
nguyên nhân nêu trên nhưng tối đa không quá số thuế GTGT mà cơ sở 
kinh doanh phải nộp của năm được xét giảm thuế. 
 Cơ sở kinh doanh hàng hoá, dịch vụ dưới đây khi tính thuế 
 GTGT đầu ra được giảm 50% mức thuế quy định: 
- Than đá. 
- Máy cày, máy kéo, máy bơm nước, máy công cụ, máy động 
lực. 
- Một số chất hoá học được quy định rõ tại Thông tư 175/1998 
TT-BTC. 
Trang 27 
- Hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt của các cơ sở kinh doanh 
thương mại nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế mua 
vào, bán ra. 
- Khách sạn, du lịch, ăn uống. 
- Dịch vụ, phần mềm và sản phẩm phần mềm 
 Cơ sở kinh doanh khi bán hàng hoá, dịch vụ phải ghi thuế 
GTGT của hàng hoá, dịch vụ này trên hoá đơn GTGT theo mức thuế đã 
được giảm. 
 Thực hiện giảm ngay 50% mức thuế GTGT phải nộp khi nhập 
khẩu đối với các sản phẩm nhập khẩu: 
- Than đá. 
- Máy kéo, máy bơm nước, máy công cụ, máy động lực. 
- Một số chất hoá học được quy định rõ tại Thông tư số 
20/1999 TT/BTC. 
- Dịch vụ phần mềm và sản phẩm phần mềm. 
 Thuế GTGT phải nộp kê khai trên tờ khai hải quan và thông 
báo thuế của cơ quan HảI quan là số thuế GTGT tính theo mức thuế đã 
giảm 50%. 
III. Ý NGHĨA CỦA CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU THUẾ 
GIÁ TRỊ GIA TĂNG ĐỐI VỚI KHU VỰC KINH TẾ 
CÁ THỂ : 
1. Vị trí, vai trò của kinh tế cá thể trong nền kinh tế thị 
trường: 
Trang 28 
 Nền kinh tế nước ta trong thời kỳ tiến lên chủ nghĩa xã hội đã 
được Đại hội lần thứ VI chỉ rõ: “ Nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành 
phần, kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm khu vực quốc doanh, kinh tế tập 
thể, kinh tế gia đình và các thành phần kinh tế khác gồm kinh tế tiểu 
sản xuất hàng hoá, kinh tế tư bản tư nhân”. Đại hội Đảng toàn quốc lần 
thứ VII tiếp tục khẳng định “ Thành phần kinh tế chủ yếu trong thời kỳ 
quá độ ở nước ta là kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, 
kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản Nhà nước”. Trong đó, kinh tế cá 
thể gồm những đơn vị kinh tế và những hoạt động sản xuất kinh doanh 
dựa vào vốn và sức lao động chủ yếu. 
 Hộ kinh tế cá thể kinh doanh cố định là những hộ sản xuất kinh 
doanh dịch vụ ( những hoạt động kinh doanh mà pháp luật cho phép ) 
có địa điểm kinh doanh cố định ở một nơi nào đó, cùng với sự phát 
triển của nền kinh tế, kinh tế cá thể phát triển rất nhanh trong cả nước, 
hoạt động trong mọi ngành nghề sản xuất, giao thông vận tải, thương 
nghiệp, ăn uống, dịch vụ.. 
 Đặc điểm của kinh tế cá thể là tính tư hữu về tư liệu sản xuất 
người chủ kinh doanh tự quyết định từ quy trình sản xuất kinh doanh 
đến phân phối tiêu thụ sản phẩm. Do đó hoạt động của kinh tế cá thể 
mang tính tự chủ cao, tự tìm kiếm nguồn lực, vốn, sức lao động, tự lo 
về phương án sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Kinh tế cá thể rất linh hoạt, 
nhạy bén trong kinh doanh, tuy nhiên nó cũng bộc lộ nhiều hạn chế gây 
lộn xộn cho thị trường như: Kinh doanh trái phép, làm hàng giả, buôn 
lậu, trốn thuế nhằm thu lợi nhuận cao. 
 Nếu như thành phần kinh tế quốc doanh chiếm vai trò chi phối 
nền kinh tế, thì thành phần kinh tế cá thể nói riêng và thành phần kinh 
tế ngoài quốc doanh nói chung, tuy chiếm tỷ trọng nhỏ hơn nhưng càng 
ngày càng phát triển và chiếm một vị trí xứng đáng trong nền kinh tế 
Trang 29 
quốc dân. Khu vực kinh tế này không những chiếm một khối lượng sản 
phẩn tương đối trong tổng sản phẩm xã hội mà nguồn thu từ thành phần 
kinh tế này cũng chiếm một tỷ trọng tương đối lớn trong tổng thu Ngân 
sách Nhà nước. Đồng thời còn thu hút một lực lượng lao động lớn mà 
thành phần kinh tế quốc doanh chưa đảm bảo hết. Kinh tế cá thể đã tận 
dụng được lực lượng dồi dào, nhất là lao động có tay nghề cao, đồng 
thời giải quyết được công ăn việc làm cho nhiều lao động dư thừa, tạo 
thu nhập và từng bước góp phần nâng cao đời sống của các tầng lớp 
dân cư. Phương pháp kinh doanh của hộ cá thể cũng rất phong phú và 
đa dạng, thu hút nhiều thành phần xã hội tham gia, do đó trình độ 
chuyên môn, tay nghề của họ cũng rất đa dạng. 
 Ở nước ta hơn 10 năm mở cửa phát triển kinh tế thị trường theo 
định hướng xã hội chủ nghĩa đã khẳng định được vai trò của thành phần 
kinh tế ngoài quốc doanh nói chung và kinh tế cá thể nói riêng.Thành 
phần kinh tế ngoài quốc doanh bổ sung hỗ trợ cho thành phần kinh tế 
quốc doanh, nhất là khu vực thành phần kinh tế chưa thực sự chiếm vị 
trí chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. 
 Thực tế, trong những năm gần đây số thuế thu được từ kinh tế cá 
thể có tỷ trọng theo xu hướng tăng lên trong tổng thu ngân sách Nhà 
nước. Theo số liệu của Tổng cục Thuế thì: 
 + Năm 1992 tổng thu nộp vào ngân sách Nhà nước là 21.023 tỷ 
thì thuế đạt 16.074 tỷ đồng; trong đó thu từ thành phần kinh tế cá thể là 
589 tỷ (chiếm 2,8% trong tổng thu Ngân sách và chiếm 3,7% so với 
tổng thu thuế). 
 + Năm 1993 tổng thu nộp vào ngân sách Nhà nước là 31.840 tỷ 
thì thuế đạt 25.572 tỷ đồng; trong đó thu từ thành phần kinh tế cá thể là 
893 tỷ(chiếm 2,8% trong tổng thu Ngân sách và chiêm 3,5% so với 
tổng thu thuế). 
Trang 30 
 Tóm lại, hoạt động kinh tế ngoài quốc doanh nói chung và hoạt 
động kinh tế cá thể nói riêng là hoạt đọng tồn tại khách quan do đòi hỏi 
của sản xuất và đời sống xã hội. Với quan điểm đó hoạt động của thành 
phần kinh tế này ngày càng trở nên quan trọng trong nền kinh tế quốc 
dân cả trong hiện tại và trong tương lai. 
2. Ý nghĩa của việc tăng cường quản lý thuế Giá trị gia tăng 
đối với khu vực kinh tế cá thể: 
 Thuế GTGT là một sắc thuế quan trọng trong hệ thống thuế nước 
ta. Việc áp dụng thuế GTGT thay cho thuế doanh thu sẽ đảm bảo tập 
trung một số thu lớn cho NSNN. Hơn nữa, trong điều kiện kinh tế nước 
ta hiện nay, do nhu cầu chi tiêu phát triển kinh tế rất lớn nên đã xẩy ra 
tình trạng thiếu hụt ngân sách. Do vậy chúng ta phải tìm mọi biện pháp 
để tăng thu ngân sách Nhà nước.Với đường lối đổi mới kinh tế tạo điều 
kiện cho các thành phần kinh tế cùng phát triển, cùng bình đẳng trước 
pháp luật thì việc quản lý khu vực kinh tế nào cũng quan trọng. Thành 
phần kinh tế ngoài quốc doanh nói chung và kinh tế cá thể nói riêng lại 
đang phát triển cả về qui mô và số lượng, khả năng thu nhập tăng nhanh 
thì việc tăng cường quản lý thu thuế khu vực kinh tế này là rất cần thiết. 
 Mặt khác, đảm bảo sự công bằng xã hội là một yêu cầu đặt ra 
với chính sách thuế và bản thân với chính sách thuế cũng phải đảm bảo 
sự công bằng xã hội, vì có công bằng xã hội thì mới có thể động viên số 
thu lớn nhất trong thời gian ngắn nhất.Tăng cường quản lý thuế Giá trị 
Trang 31 
gia tăng đối với kinh tế cá thể một cách chặt chẽ chính là biện pháp để 
đảm bảo tính công bằng xã hội, từ đó sẽ giảm tối đa hiện tượng trốn lậu 
thuế, tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế. 
 Ngoài ra, thông qua quản lý thuế GTGT đối với hộ kinh doanh 
cá thể sẽ tạo điều kiện cho Nhà nước quản lý vĩ mô nền kinh tế thông 
qua: 
 + Kiểm tra, kiểm soát các ngành nghề, mặt hàng kinh doanh, từ 
đó giúp cho các cơ quan quản lý kinh tế có định hướng phát triển ngành 
nghề phù hợp. 
 + Nắm được mức độ tiêu dùng, cơ cấu tiêu dùng sản phẩm, dịch 
vụ, từ đó giúp Nhà nước có cơ sở định hướng tiêu dùng trong dân cư 
phù hợp với từng thời kỳ phát triển kinh tế cá thể. 
 Trong những năm qua, việc quản lý thu thuế nói chung và thuế 
Doanh thu nói riêng đối với khu vực kinh tế cá thể còn rất nhiều thiếu 
sót, dẫn đến kết quả cuối cùng là thất thu thuế, Nhà nước bị chiếm dụng 
vốn gây tác động xấu đối với nền kinh tế. Việc áp dụng thuế GTGT 
thay thế cho thuế Doanh thu sẽ tạo ra khả năng kiểm tra, kiểm soát tốt 
hơn đối với công tác quản lý. Tuy nhiên sẽ gây khó khăn : 
 Do thuế GTGT đòi hỏi phải thay đổi một thói quen vốn đã ăn 
sâu trong cách nghĩ và cách làm của mỗi người. Một trong những thói 
quen đó là: Mua bán hàng không cần hoá đơn, linh hoạt đến mức tuỳ 
tiện trong ghi chép chứng từ, sổ kế toán, tính thuế trên tổng doanh thu, 
không phân biệt giữa doanh nghiệp có nhiều và doanh nghiệp có ít giá 
trị tăng thêm..mà thay đổi một thói quen thì bao giờ cũng hết sức khó 
khăn. 
 Do thuế GTGT chỉ tính trên phần giá trị tăng thêm nên để bảo 
đảm mức động viên ngang bằng với Thuế doanh thu thì thuế suất thuế 
Trang 32 
GTGT phải cao hơn thuế suất thuế doanh thu. Điều này dễ gây tâm lý 
cho rằng Nhà nước tăng thuế và dẫn đến tác động làm tăng giá, cho nên 
cùng với việc giải thích, cần áp dụng biện pháp quản lý chặt chẽ và phải 
có các biện pháp kinh tế để kiềm chế, ngăn ngừa lợi dụng tăng giá. 
 Thành phần kinh tế cá thể phần lớn là những hộ quy mô nhỏ, 
hoạt động phân tán rất khó khăn cho công tác quản lý. 
 Cũng bởi những lý do đó mà bài viết sau đây xin đề cập đến 
thực trạng quản lý công tác thu thuế Giá trị gia tăng ở khu vực kinh tế 
cá thể trên địa bàn quận Ba đình. Từ đó, nghiên cứu tìm ra nguyên nhân 
của mặt yếu, cũng như ưu điểm của mặt mạnh để đưa ra một số biện 
pháp tăng cường công tác quản lý thu thuế Giá trị gia tăng nhằm 
làm cho bộ máy hành thu của quận ngày càng có hiệu quả hơn. 
Trang 33 
 PHẦN II 
TÌNH HÌNH QUẢN LÝ THU THUẾ GIÁ TRỊ 
GIA TĂNG Ở KHU VỰC KINH TẾ CÁ THỂ 
TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN BA ĐÌNH QUÝ I NĂM 
1999. 
I. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ- XÃ HỘI VÀ TÌNH HÌNH QUẢN LÝ 
THU THUẾ TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN BA ĐÌNH: 
1. Một số nét về đặc điểm kinh- tế xã hội: 
 Quận Ba Đình là một trong 7 quận nội thành của thủ đô Hà nội. Trên 
địa bàn quận Ba Đình gồm 15 phường ( hiện nay là 12 phường), đây là một 
quận có nhiều cơ quan trung ương của Đảng và Chính phủ, các cơ quan ngoại 
giao, đại sứ, đồng trụ sở. Cùng với sự phát triển của kinh tế toàn thành phố và 
nền kinh tế thị trường thì các thành phần kinh tế trên địa bàn quận cũng phát 
triển mạnh mẽ. Ngoài ra, do nguyên nhân thiếu việc làm mà một số lượng 
không nhỏ cán bộ công nhân viên chức ra buôn bán ngày càng tăng và có sự 
biến động liên tục. 
 Trên địa bàn quận Ba Đình không có các trung tâm thương mại lớn, chỉ 
có một số chợ ở tầm cỡ trung bình như chợ Long Biên, chợ Ngọc Hà.., một số 
chợ xanh ở các khu nhà cao tầng, các khu vực đông dân cư. Các hộ buôn bán 
cá thể còn tập trung ở các dãy phố chính như trục đường Nguyễn Thái Học- 
Kim Mã, Giảng Võ- Đường La Thành.. Các hộ cá thể kinh doanh ở quận Ba 
Đình chủ yếu là những hộ nhỏ. Các hộ sản xuất tiểu thủ công nghiệp chủ yếu 
Trang 34 
là các hộ được phát triển từ kinh tế phụ gia đình dần dần trở thành nghề kiếm 
sống của cả gia đình nhưng đây cũng chỉ là những hộ vừa và nhỏ. 
 Trong công cuộc đổi mới nền kinh tế, quận Ba Đình cũng đã đóng góp 
không nhỏ vào nền kinh tế quốc dân. Quý I năm 1999 toàn quận đã đạt được 
những thành tích sau: 
 Sản xuất kinh doanh ngoài quốc doanh: giá trị sản xuất công nghiệp 
ước đạt 19.083 triệu đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 10,12%, trong đó 
khối HTX tăng 19,18%, khối cá thề tăng 7,45%, khối công ty TNHH tăng 
48,88% . 
 Hoạt động kinh doanh của khối chợ khá ổn định và có hiệu quả. Cải 
tạo nâng cấp chợ Châu Long và chợ Thành Công A chuẩn bị đưa vào hoạt 
động kinh doanh. Triển khai các thủ tục xây dựng trung tâm thương mại dịch 
vụ Cống Vị. 
 Công tác thu thuế: Tập trung chỉ đạo thực hiện hai luật thuế mới. Tăng 
cường công tác kiểm tra, rà soát chống sót hộ để tăng nguồn thu. Quý I năm 
1999 Chi cục thu được 11.241 triệu đồng đạt 92,08% kế hoặch quý, đạt 
22,10% so với kế hoạch năm, tăng 1,14% so với cùng kỳ( trong đó thu phí và 
lệ phí tăng 32% so với kế hoạch quý, tăng 35,97% so với cùng kỳ ). 
 Cũng như tình hình chung của các chi cục thuế, việc phân cấp quản lý, 
thu thuế của chi cục thuế Ba Đình được dựa trên Thông tư 110/2000/TT/BTC. 
Cụ thể, Chi cục thuế được quyền quản lý các đối tượng : 
 - Hộ cá thể kinh doanh công thương nghiệp ngoài quốc doanh nộp thuế 
Giá trị gia tăng theo phương pháp trực tiếp. 
 - Hộ nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp. 
 - Hộ nộp thuế nhà đất. 
Trang 35 
 Theo tinh thần của thông tư này thì tất cả các hộ nộp thuế Giá trị gia 
tăng theo phương pháp trực tiếp sẽ do Chi cục thuế Quận Ba Đình quản lý. 
Còn những công ty, tập thể trên địa bàn quận trước đây nộp thuế tại Chi cục 
thuế Ba Đình, nay đăng ký nộp thuế Giá trị gia tăng theo phương pháp khấu 
trừ sẽ do Cục thuế Hà nội trực tiếp quản lý, nhưng số thuế thu vẫn nộp vào 
kho bạc Nhà nước Quận Ba Đình. Như vậy, xét về khía cạnh sổ sách, báo cáo 
chi cục thuế Ba Đình vẫn gián tiếp quản lý loại đối tượng này thông qua giấy 
nộp tiền vào kho bạc được phô tô chuyển về kế toán kho bạc tại Chi cục hàng 
ngày. 
2. Công tác tổ chức bộ máy thu thuế trên địa bàn Quận Ba Đình: 
 Chi cục thuế quận Ba Đình được thành lập theo quyết định 315 
TC/QĐ/TCCB ban hành ngày 21/8/1999 của Bộ Tài chính. Từ đây Chi cục 
chính thức đi vào hoạt động, thay thế cho tên gọi Phòng thuế Công Thương 
Nghiệp trước đây. Trong những năm gần đây được sự chỉ đạo của Cục thuế 
Hà nội và sự nhất trí trong lãnh đạo chi cục và cán bộ nhân viên trong toàn 
Chi cục, đồng thời cùng với sự thay đổi về việc phân cấp quản lý do áp dụng 
hai luật thuế mới nên bộ máy của cơ quan thuế Ba Đình được tổ chức như sau: 
 Tổng số cán bộ công nhân viên chi cục là 140 người, trong đó có 131 
biên chế, còn lại 9 hợp đồng được sắp xếp : 
 - Ban lãnh đạo: 
1 Chi cục trưởng Phụ trách chung. 
1 Chi cục phó Phụ trách khối cá thể. 
1 Chi cục phó Phụ trách về đất + phí. 
1 Chi cục phó Phụ trách vấn đề nghiệp vụ. 
 - Các bộ phận trực thuộc chi cục được tổ chức : 
 + Phòng thanh tra, kiểm tra 10 người 
Trang 36 
 + Phòng ngiệp vụ 11 người 
 + Phòng hành chính, tổ chức 5 người 
 + Đội thuế Điện Biên- Kim Mã 13 người 
 + Đội thuế Thành công-Giảng Võ 14 người 
 + Đội thuế Ngọc khánh-Ngọc Hà 10 người 
 + Đội thuế Đội Cấn-Cống Vị 14 người 
 + Đội thuế Quán Thánh-Trúc Bạch 13 người 
 + Đội thuế Trung trực-Phúc Xá 7 người 
 + Đội thuế Chợ Long Biên 8 người 
 + Đội thu khác 11 người 
 Với việc tổ chức bộ máy thu thuế như vậy trong những năm qua Chi 
cục thuế Quận Ba Đình đã đạt những thành tích đáng khích lệ trong việc quản 
lý thu thuế đối với thành phần kinh tế cá thể. Tuy nhiên vẫn còn có nhiều 
những hạn chế và thiếu sót cần được khắc phục. 
II. TÌNH HÌNH QUẢN LÝ THU THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG 
ĐỐI VỚI CÁC HỘ KINH TẾ CÁ THỂ TRÊN ĐỊA BÀN 
QUẬN BA ĐÌNH TRONG NHỮNG THÁNG ĐẦU THỰC 
HIỆN LUẬT THUẾ MỚI: 
1. Quản lý đối tượng nộp thuế: 
 Theo luật thuế Giá trị gia tăng quy định thì tất cả các cơ sở sản xuất, 
kinh doanh phải có trách nhiệm kê khai đăng ký thuế với cơ quan thuế theo 
quy định của Nhà nước. Qua đó cơ quan thuế có thể nắm được số hộ sản xuất 
Trang 37 
kinh doanh trên địa bàn, phân loại hộ và phân nghành nghề để có thể quản lý 
một cách chặt chẽ đối tượng nộp thuế. 
 Đồng thời theo quyết định số 75/1998/QĐ- TTg của Thủ tướng Chính 
Phủ thì mọi tổ chức, cá nhân có hoạt động kinh doanh chịu thuế đều phải kê 
khai đăng ký thuế để được cấp mã số thuế và hệ thống mã số này được ứng 
dụng kể từ ngày 1/1/1999. Theo quyết định trên, cơ quan thuế có trách nhiệm 
sử dụng mã số đối tượng nộp thuế để quản lý đối tượng nộp thuế , theo dõi số 
liệu nộp thuế của đối tượng nộp thuế và ghi mã số đối tượng nộp thuế trên mọi 
giấy tờ giao dịch với đối tượng nộp thuế như: thông báo nộp thuế, thông báo 
phạt, lệnh thu, các quyết định phạt hành chính thuế, biên bản kiểm tra về thuế.. 
 Như vậy việc quản lý đối tượng nộp thuế trên mã số đã đem lại hiệu 
quả rõ rệt cho các cấp quản lý thuế và cho Chi cục thuế Quận Ba Đình nói 
riêng. Kể từ đây cán bộ thuế có thể ứng dụng máy vi tính vào công tác quản lý 
đối tượng nộp thuế, giúp việc quản lý được chặt chẽ hơn, đỡ vất vả vì phải 
theo dõi ghi chép bằng tay trên sổ bộ hàng tháng. 
 Tuy nhiên, do tình hình chung về sự thiếu tự giác của các hộ nộp thuế 
nên các cán bộ thuế quản lý địa bàn đã liên hệ phối hợp với UBND các 
phường, công an, quản lý thị trường và nhiều ngành liên quan khác để nắm 
vững các cơ sở sản xuất kinh doanh trên địa bàn các phường, các chợ. Các bộ 
thuế thuộc các đội lập danh sách các cơ sở kinh doanh mà mình phụ trách 
quản lý, thông qua điều tra doanh thu, phân loại nghành nghề, quy mô để quản 
lý cho phù hợp. Sau khi đã thông qua Hội đồng tư vấn thuế phường đưa số hộ 
đó vào bộ để quản lý thu thuế Giá trị gia tăng nộp hàng tháng. 
 Hàng tháng vào ngày 5 các cán bộ quản lý phải lập được danh sách hộ 
nghỉ kinh doanh trên địa bàn, hộ mới ra kinh doanh và làm tổng hợp ghi thu 
phân loại hộ nhằm áp dụng chế độ thu thích hợp. Cũng từ số liệu này của cán 
bộ quản lý mà văn phòng chi cục thuế mới có điều kiện để lập bộ quản lý các 
hộ kinh doanh. 
Trang 38 
 Vậy nhìn chung việc quản lý kiểm tra số hộ sản xuất kinh doanh 
tương đối sát. Sau đây là biểu số hộ sản xuất kinh doanh trên địa bàn ghi theo 
bậc môn bài: 
 Biểu 2: Số hộ sản xuất kinh doanh trên địa bàn ghi theo bậc môn bài. 
Sè hé % Sè hé %
Tæng sè hé 3679 100 4159 100
BËc 1 148 4,023 200 4,8
BËc 2 109 2,96 130 3,12
BËc 3 439 11,93 584 14,04
BËc 4 973 26,45 1441 34,65
BËc 5 1573 42,76 1804 43,39
BËc 6 437 11,877
DiÔn gi¶i
 N¨m 1998 Quý I n¨m 1999
 Với biểu số liệu trên, ta nhận thấy: 
1. Số hộ sản xuất kinh doanh trên địa bàn của năm 1999 đã tăng so 
với năm 1998 là: 480 hộ, tương ứng 13%. 
2. Trong tổng số hộ tư nhân sản xuất kinh doanh trên địa bàn quận số 
hộ bậc 5 chiếm tỉ trọng cao nhất : Năm 1998 chiếm 42,76%, năm 
1999 chiếm 43,39%. 
3. Mức độ kinh doanh của các hộ có xu hướng tăng ở tất cả các bậc 
 so với năm 1998: 
 Bậc 1: tăng 52 hộ tương ứng 35% 
 Bậc 2: tăng 21 hộ tương ứng 19% 
 Bậc 3: tăng 145 hộ tương ứng 33% 
Trang 39 
 Bậc 4: tăng 468 hộ tương ứng 48% 
 Bậc 5: tăng 231 hộ tương ứng 14% 
 Riêng bậc 6 giảm 100%, như vậy các hộ đã chuyển hướng nâng cấp 
dần tình trạng kinh doanh của mình ổn định hơn, có sự đầu tư và thu nhập khá 
hơn. 
 Qua biểu trên có thể thấy các hộ cá thể trên địa bàn đã phát triển cả về 
số lượng và quy mô sản xuất kinh doanh. Nguyên nhân của sự phát triển trên 
là do chính sách của nhà nước đã tạo cho môi trường kinh doanh thuận lợi 
hơn. Cơ chế thị trường kết hợp với các chính sách của Đảng và Nhà nước đã 
giúp cho thành phần kinh tế này phát triển. 
 Để phân tích rõ hơn ta xét biểu quản lý cơ cấu các hộ tư nhân trên địa 
bàn quận Ba Đình. 
 Biểu số 3: Cơ cấu hộ kinh doanh trên địa bàn Quận Ba Đình theo ngành 
nghề 
 N ¨ m 1 9 9 8
Sè hé % Sè hé %
Tæng sè hé 3679 100 4159 100
Ngµnh s¶n xuÊt 309 8,4 328 7,89
Ngµnh dÞch vô 514 14 546 13,1
Ngµnh th ¬ng nghiÖp 1792 48,7 1904 45,78
Ngµnh ¨n uèng 1064 28,9 1162 27,93
Ngµnh vËn t¶i 219 5,3
Quý I/ 1999
Hé kinh doanh 
 Qua biểu trên ta thấy: 
1. Với ngành sản xuất: Số hộ thuộc ngành này tăng đáng kể: năm 1999 tăng 
so với năm 1998 là 19 hộ tương ứng 6,1%. Nhưng xét về tỷ trọng số hộ trong 
Trang 40 
ngành ta thấy tỷ trọng của ngành này năm 1998 giảm đi. Năm 1998 chiếm tỷ 
trọng 8,4% nhưng đến năm 1999 lại chỉ chiếm 7,89%. 
 Mặt hàng chủ yếu của ngành này là sản xuất cơ kim khí, sản xuất các 
mặt hàng công nghiệp thực phẩm như: sản xuất bánh kẹo, sản xuất bánh cốm, 
sản xuất bún bánh.. Những mặt hàng này việc kinh doanh còn tương đối ổn 
định nhưng sản xuất cơ khí tiêu dùng thì ngày càng bị thu hẹp do sự tác động 
của nhiều mặt hàng trên thị trường. 
 Nhìn vào cơ cấu ngành ta thấy tỷ trọng số hộ sản xuất chiếm trong 
tổng số ngày càng giảm mặc dù số hộ vẫn tăng. Điều này nói lên rằng sản xuất 
tiểu thủ công nghiệp khu vực cá thể ở địa bàn Quận Ba Đình là không thuận 
lợi bằng các nghành khác. 
2. Đối với hoạt động dịch vụ: Số người hoạt động trong ngành dịch vụ 
tăng về số tuyệt đối nhưng về số tương đối lại giảm. Năm 1998 có 514 hộ 
chiếm 14%. Năm 1999 có 546 hộ chiếm 13,1%. Từ đó ta thấy rằng hoạt động 
trong lĩnh vực dịch vụ này không hiệu quả mặc dù số hộ có tăng lên về số 
tuyệt đối, bởi vì trong năm 1999 do thay đổi lại điều kiện cấp phép kinh doanh 
cho các hộ cho thuê băng hình mà nhiều hộ kinh doanh loại này đã phải 
chuyển hoặc thôi không kinh doanh nữa. 
 Các hộ tư nhân sửa chữa lặt vặt và nhất là sửa chữa điện lạnh ở trên địa 
bàn Quận Ba Đình kinh doanh không ổn định và kém hiệu quả nên một số đã 
xin chuyển sang bán thương nghiệp, một số phải chuyển đi kinh doanh ở các 
nơi khác có hiệu quả hơn. 
 Số hộ tăng lên tuyệt đối của ngành dịch vụ chủ yếu là loại hình rửa xe 
máy, photocopy, chụp ảnh nhưng không phải là sự tăng lên đáng kể. 
3. Hai nghành ăn uống và thương nghiệp: đều có xu hướng giảm mặc dù số 
hộ kinh doanh ở hai ngành này đều tăng lên về số tuyệt đối. 
Trang 41 
 Ngành thương nghiệp là ngành có số hộ kinh doanh cao nhất và tỷ 
trọng của nó là lớn nhất trong tổng số hộ kinh doanh. 
 Ngành thương nghiệp: Năm 1998 có 1792 hộ chiếm 48,7%. Năm 1999 
có 1904 hộ chiếm 45,78%. So sánh về số tuyệt đối thì tăng nhưng về số tương 
đối lại giảm, năm 1999 giảm so với năm 1998 là 2,92%. Điều đó chứng tỏ 
rằng ngành thương nghiệp kinh doanh có hiệu quả hơn các ngành khác, tuy 
nhiên có quá nhiều hộ kinh doanh nên số tăng không lớn. 
 Mặt hàng chủ yếu của các hộ kinh doanh thương nghiệp là bán tạp hoá, 
đồ điện dân dụng, ở các chợ là các mặt hàng thực phẩm thiết yếu đối với đời 
sống của nhân dân. Đặc biệt trên địa bàn Quận Ba Đình không có hộ kinh 
doanh điện máy, kinh doanh xe máy, kinh doanh các mặt hàng điện tử cao 
cấp. Trong số hộ kinh doanh thương nghiệp này chỉ có 20 hộ kinh doanh vàng 
bạc nằm rải rác trên toàn địa bàn. Các hộ kinh doanh vàng bạc này hàng tháng 
nộp thuế bình quân là 15.000.000 đ. 
 Ngành ăn uống: Số hộ kinh doanh ăn uống tăng lên về số tuyệt đối 
nhưng lại giảm về số tương đối. Cụ thể năm 1998 có 1064 hộ chiếm tỷ trọng 
28,9%, năm 1999 có 1162 hộ chiếm tỷ trọng 27,93% tuy tăng số hộ tuyệt đối 
là 98 hộ. Số hộ tăng này chủ yếu là những hộ kinh doanh ăn uống nhỏ bình 
dân, không phải là những nhà hàng, ăn uống cao cấp. 
4. Ngành vận tải: Sang năm 1999 Chi cục thuế mới đưa ngành này vào 
quản lý tuy nhiên số hộ quản lý chưa phải là nhiều, mới được 219 hộ chiếm tỷ 
trọng 5,3%. Các hộ vận tải này chủ yếu là xe tải, xích lô còn loại xe vận 
chuyển khách là không đáng kể. 
 Qua biểu 2 và 3, ta có thể nắm được số lượng và cơ cấu hộ kinh doanh 
trên địa bàn và từ đó có phương hướng quản lý các hộ kinh doanh từ khâu ra 
thông báo, điều chỉnh doanh thu tính thuế tới khâu thu nộp. Song chỉ qua biểu 
Trang 42 
này chúng ta không thể nắm được thực trạng quản lý về hộ kinh doanh ở khu 
vực này ra sao. 
 Để thấy được tình hình quản lý đối tượng nộp thuế trên địa bàn ta xét 
đến biểu quản lý hộ kinh doanh 
Biểu 4: Quản lý hộ kinh doanh trên địa bàn Quận Ba Đình: 
Hé thùc Hé cã Hé qu¶n Hé thùc Hé cã Hé qu¶n
tÕ kinh ®¨ ng ký lý trªn tÕ kinh ®¨ ng ký lý trªn 
doanh kinh bé doanh kinh bé
doanh doanh
Tæng sè hé 3930 3679 3631 4530 4159 4109
Ngµnh s¶n xuÊt 320 309 309 342 328 328
Ngµnh dÞch vô 522 514 505 574 546 540
Ngµnh th ¬ng nghiÖp 1976 1792 1785 2064 1904 1880
Ngµnh ¨n uèng 1122 1064 1032 1320 1162 1142
Ngµnh vËn t¶i 230 219 219
Ngµnh nghÒ
 N¨m 1998 Quý I n¨m 1999
Với kết quả như vậy có thể thấy rằng, Chi cục và các cán bộ quản lý đã 
có những cố gắng rất tích cực trong việc nắm bắt các hộ kinh doanh để đưa 
vào quản lý. Qua mỗi năm số hộ kinh doanh ngày càng tăng lên, công việc của 
các cán bộ quản lý ngày càng nặng nề, họ phải đi sâu đi sát đến từng ngóc 
nghách trên địa bàn mình quản lý nhằm thâm nhập một cách cặn kẽ tình hình 
thực tế, đưa các hộ mới ra kinh doanh vào diện quản lý. 
 Tuy nhiên, số hộ chưa quản lý được vẫn còn lớn hầu như ở ngành nào, 
năm nào cũng có số lượng hộ chưa quản lý được. 
Trang 43 
 Theo số liệu năm 1998 thì số lượng hộ chưa quản lý được là 299 hộ 
với tỷ lệ 7,6%. Ta thấy hộ chưa quản lý được chủ yếu tăng ở ngành thương 
nghiệp (184 hộ), sản xuất (11 hộ), dịch vụ (17 hộ), ăn uống (90 hộ). 
 Đến năm 1999, số hộ chưa đưa vào sổ bộ thực tế là 421 hộ với tỷ lệ hộ 
chưa quản lý là 9,3% và cũng tập trung ở ngành thương nghiệp (184 hộ), sản 
xuất (18 hộ), dịch vụ (34 hộ), ăn uống (178 hộ) và vận tải (11 hộ). 
 Qua bảng số liệu đó chúng ta thấy được công tác quản lý của các cán 
bộ thuế thực tế chưa có hiệu quả lắm, số hộ chưa quản lý được tương đối lớn 
mặc dù các cán bộ thuế đã cố gắng hết sức để làm giảm được số lượng hộ 
chưa quản lý được này. Tuy nhiên, trong công tác này các cán bộ quản lý thuế 
của chi cục thuế Quận Ba Đình cũng đã có những nỗ lực và thu được các kết 
quả nhất định: 
 Tuy số hộ chưa đưa vào quản lý năm 1999 cao hơn số hộ chưa đưa vào 
quản lý năm 1998 (từ 7,6% lên 9,3%) nhưng thực chất cán bộ quản lý đã có 
nhiều tích cực bám sát địa bàn, thường xuyên kiểm tra số hộ nhưng cũng 
không thể kiểm tra hết được những hộ buôn bán lặt vặt, ngồi vỉa hè, cán bộ 
công nhân viên nhà nước đi làm ban ngày sớm tối ra bán hàng thêm. 
 Đồng thời với số liệu điều tra của cơ quan thống kê là cao hơn so với 
số được cấp phép đăng ký kinh doanh. Cụ thể, năm 1999 theo số liệu điều tra 
của cơ quan thống kê trên địa bàn Quận Ba Đình hiện có 4530 hộ nhưng được 
cấp giấy đăng ký kinh doanh là 4159 hộ và số hộ đã đưa vào diện quản lý là 
4109 hộ. Như vậy so sánh giữa số hộ hiện kinh doanh và số hộ đã đưa vào 
quản lý thu thuế thì chênh lệch là 421 hộ nhưng nếu so sánh giữa số hộ đã cấp 
đăng ký kinh doanh và hộ đã đưa vào quản lý thu thuế chênh lệch là 50 hộ, 
điều này chứng tỏ cán bộ quản lý thuế đã hết sức cố gắng trong công tác quản 
lý về hộ kinh doanh. 
 Còn có sự chênh lệch 421 hộ khi so sánh giữa hộ thực tế kinh doanh và 
hộ đã đưa vào quản lý là do có nhiều hộ buôn bán kinh doanh nhỏ, thu nhập 
Trang 44 
thấp và theo luật định thì cơ quan thuế cùng các cơ quan hữu quan đang xem 
xét giải quyết miễn thuế. Đồng thời trong số hộ này còn có những hộ kinh 
doanh sớm, tối mà thực sự ngành thuế đã có cố gắng trong công tác quản lý 
nhưng vẫn không quản lý được hết. 
 Tuy đã có rất nhiều cố gắng như vậy nhưng nhìn chung hiệu quả của 
công tác quản lý đối tượng nộp thuế của các cán bộ quản lý chưa cao. Số 
lượng hộ chưa quản lý còn nhiều nên còn dẫn đến thất thu thuế. Có thể chia ra 
làm 2 dạng thất thu ở những hộ đã quản lý được và thất thu ở những hộ chưa 
quản lý được. 
A. Thất thu ở những hộ đã quản lý được: 
 Những hộ đã quản lý được là những hộ có cửa hàng, cửa hiệu kinh 
doanh cố định tại các địa điểm cố định và có hoạt động kinh doanh. Trên thực 
tế những hộ đã quản lý được chiếm một tỷ lệ rất lớn cho nên nếu thất thu ở 
những hộ này là thất thu lớn nhất. 
 Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng thất thu thuế ở những hộ đã quản lý 
được là do nhiều lý do : 
- Do có nhiều hộ núp dưới hình thức bên ngoài là nộp đơn xin nghỉ kinh 
doanh tạm thời hoặc lâu dài nhưng trên thực tế vẫn kinh doanh. Hình 
thức nghỉ giả này là do tinh thần trách nhiệm chưa cao của các cán bộ 
thuế nên đã không kiểm soát thường xuyên hoặc do cán bộ thông đồng 
tiêu cực với chủ kinh doanh. 
- Do có những hộ mới ra kinh doanh được cán bộ thuế đưa vào bộ quản 
lý nhưng những tháng đầu được hưởng ưu đãi miễn giảm thuế. Nhưng 
trên thực tế những hộ mới ra kinh doanh lại là những hộ cũ nhưng đã 
đổi tên, chuyển địa điểm, thay đổi quy mô. Tuy nhiên số lượng hộ này 
rất ít. 
Trang 45 
- Do công tác thanh tra, kiểm tra của phòng thanh tra chưa thường xuyên 
sâu sát, đồng thời thủ tục chấp nhận cho nghỉ kinh doanh chưa chặt chẽ 
nên các hộ kinh doanh vẫn dựa vào đó nhằm trốn thuế. 
 Tuy vậy nguyên nhân nghỉ giả của các hộ kinh doanh nhằm trốn thuế là 
vấn đề nan giải nhất.Thực tế cho thâý những hộ nghỉ giả đều thuộc các ngành 
thương nghiệp, ăn uống bởi lẽ kinh doanh ở các ngành này không phức tạp 
như các ngành khác, lại dễ di chuyển địa điểm kinh doanh, số hộ của 2 ngành 
này lớn nên gây khó khăn phức tạp cho quản lý. 
 Xảy ra tình trạng trên là do việc lấn chiếm vỉa hè làm nơi kinh doanh, 
bộ máy nhà nước có sự biên chế lại dẫn đến nhiều người bị thiếu việc làm 
buộc họ phải ra đường tham gia vào kinh doanh và cạnh tranh trên thị trường. 
Hiện tượng người người kinh doanh, nhà nhà kinh doanh đã trở nên phổ 
biến cho số lượng người bán nhiều lên, giá cả lại đắt đỏ, hàng ngoại tràn ngập 
lại rẻ nên muốn bán được hàng phải hạ giá dẫn đến xu hướng muốn kinh 
doanh có lãi thì người kinh doanh phải trốn lậu thuế. 
B. Thất thu đối với những hộ chưa quản lý được: 
 Hộ chưa quản lý được là những hộ chưa có đăng ký kinh doanh nhưng 
lại vẫn kinh doanh. Những hộ này thường không thu được thuế, nếu có thu 
được chủ yếu vẫn ở các khoản tiền phạt, và số thu này chiếm tỷ trọng nhỏ 
trong tổng số thuế. 
 Những hộ thuộc loại này là những hộ hoạt động trong ngành thương 
nghiệp, ngành ăn uống nhỏ, buôn bán ở vỉa hè, bán hàng rong, người sửa chữa 
lặt vặt.. Theo tính chất nghề nghiệp những người này thường không ngồi cố 
định để kinh doanh và thời gian kinh doanh không thường xuyên. Thông 
thường những hộ này thường có thu nhập thấp, cũng có một số hộ kinh doanh 
có quy mô lớn song những trường hợp này mới ra kinh doanh chưa có đăng ký 
Trang 46 
kinh doanh hoặc đã xin thôi kinh doanh nhưng vẫn còn nấn ná hoạt động 
thêm. 
 Xét về mặt khách quan là như vậy nhưng xét về mặt chủ quan thì việc 
thất thu thuế từ những hộ chưa quản lý là do cán bộ thuế chưa quản lý chặt 
chẽ, không kiểm tra đều đặn thường xuyên và còn quá nhiều hiện tượng tiêu 
cực trong một số cán bộ thuế. 
 Nói tóm lại, nguyên nhân việc không quản lý hết hộ kinh doanh ngoài 
nguyên nhân khách quan còn có nguyên nhân chủ quan sau: Các cán bộ thuế 
chưa bám sát địa bàn, đa số mới chỉ quan tâm ở những ngành hàng, mặt hàng 
lớn mà quên mất những ngành hàng, mặt hàng nhỏ. Các cán bộ thuế mới chỉ 
làm trong giờ hành chính mà chưa quan tâm tới ngoài giờ hành chính. Việc 
đôn đốc thu nộp chưa linh hoạt, dồn vào cuối tháng nên còn mang tính quan 
liêu. Chưa có biện pháp xử lý kiên quyết với những hộ cố ý trây ỳ, còn mang 
nặng tính doạ nạt, thiếu tuyên vận động. 
 Mặt khác số lượng hộ kinh doanh trên địa bàn lớn nhưng với số lượng 
cán bộ thuế ít ỏi chưa đủ để quản lý hết nếu như chưa nói đến trình độ chuyên 
môn chưa cao, chưa có sự quan tâm đúng mức của ngành, các cấp. Việc phối 
hợp giữa các ban ngành còn mang tính bị động, công tác tuyên truyền chưa 
cao. 
 Có thể nói, thất thu về hộ hiện nay còn rất lớn trong khi đó để đảm bảo 
nguồn thu cho NSNN thì ngoài việc phải tăng cường kiểm tra, kiểm soát các 
hộ sản xuất kinh doanh trên địa bàn thì ta còn phải quản lý chặt chẽ đối với 
những hộ đã quản lý được và không có biện pháp nào khác là phải tăng cường 
công tác quản lý căn cứ tính thuế. 
2. Quản lý căn cứ tính thuế: 
Trang 47 
 Theo luật thuế Giá trị gia tăng các hộ nộp thuế theo phương pháp trực 
tiếp có thể đăng ký nộp thuế theo 1 trong 3 phương pháp sau: 
 - Phương pháp kê khai trực tiếp trên Giá trị gia tăng. 
 - Phương pháp trực tiếp trên doanh thu. 
 - Phương pháp khoán. 
 Để được nộp thuế theo phương pháp trực tiếp trên Giá trị gia tăng 
các hộ phải thực hiện việc mua, bán có đầy đủ hoá đơn chứng từ ghi chép sổ 
sách kế toán. 
Theo phương pháp này : 
 Giá trị gia tăng Giá thực tế của hàng Giá thực tế hàng hoá 
của hàng hoá, dịch vụ = hoá, dịch vụ bán ra - dịch vụ mua vào tương 
ứng 
 Đối với hộ đã thực hiện đầy đủ hoá đơn bán hàng( bán hàng lập đầy đủ 
hoá đơn bán hàng) xác định đúng doanh thu bán hàng nhưng không có đủ hoá 
đơn mua hàng hoá, dịch vụ thì có thể nộp đăng ký nộp thuế theo pháp trực 
tiếp trên doanh thu. 
 Giá trị gia tăng Doanh thu hàng Tỷ lệ giá trị gia tăng 
Của hàng hoá, dịch vụ= hoá, dịch vụ bán ra x (%) theo quy định 
 Đối với hộ chưa thực hiện hoặc thực hiện chưa đủ việc mua, bán hàng 
có hoá đơn. Cơ quan thuế căn cứ vào tình hình kinh doanh của từng hộ ấn 
định mức doanh thu tính thuế ( phương pháp khoán) 
 Giá trị gia tăng Doanh thu ấn định x Tỷ lệ giá trị gia tăng 
 Của hàng hoá, dịch vụ = (%) theo quy định 
Trang 48 
 Trong thực tế, do đặc điểm tình hình kinh doanh trên địa bàn quận Ba 
Đình phần lớn là kinh doanh nhỏ nên hầu hết các hộ đăng ký nộp thuế theo 
phương pháp khoán, còn số lượng hộ đăng ký nộp thuế theo phương pháp kê 
khai là rất nhỏ. 
 Biểu số 5: Quản lý doanh thu tính thuế đối với hộ cá thể trên địa bàn 
Quận Ba Đình: 
 Đơn vị tính: 1.000 đồng 
DT 6 th¸ng DT 6 th¸ng So DT 3 th¸ng DT 3 th¸ng So
®Çu n¨m cuèi n¨m s¸ nh ®Çu n¨m cuèi 1998 s¸ nh
S¶n xuÊt 2.123.668 2.456.434 116 1.830.141 1.228.217 149
DÞch vô 5.694.438 9.928.980 174 9.145.687,5 4.964.490 184
Th ¬ng nghiÖp 16.260.774 19.190.122 118 13.326.742 9.595.061 138
¡ n uèng 5.272.773 6.579.616 124 3.420.605,5 3.289.808 103
VËn t¶i 1.186.169
Tæng céng 29.351.653 38.155.152 130 28.909.345 19.077.576 151
Ngµnh nghÒ
 N¨m 1998 Quý I n¨m 1999
 Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy doanh thu tính thuế tăng. Năm 1999 
doanh thu tính thuế 3 tháng đầu năm so với 3 tháng cuối năm 1998 tăng là: 
28.909.345 - 19.077.576 = 9.831.769 nghìn đồng( tăng 51%). 
 Cụ thể: 
 Ngành sản xuất tăng: 601.924 nghìn đồng, tương đương 49% 
 Ngành dịch vụ tăng: 4.181.197,5 nghìn đồng, tương đương 84% 
 Ngành thương nghiệp tăng: 3.731.681 nghìn đồng, tương đương 38% 
 Ngành ăn uống tăng: 130.797,5 nghìn đồng, tương đương 3% 
 Ngành vận tải: 1.186.169 nghìn đồng, tương đương 100% 
 Việc tăng doanh thu là do tăng về số hộ và quy mô kinh doanh. 
Nhìn vào số liệu đã tính toán ở trên trong 2 năm 1998 và 1999 ta thấy doanh 
thu ở các ngành đều tăng nhưng tốc độ tăng không đồng đều, tập trung vào các 
Trang 49 
ngành ăn uống, thương nghiệp sau đó đến dịch vụ và cuối cùng là ngành sản 
xuất. Ở Quận Ba Đình trong một vài năm gần đây có thêm loại dịch vụ cho 
người nước ngoài thuê nhà ở và do vậy ngành dịch vụ có diễn biến tăng một 
cách đáng kể. Ngoài ra cơ quan thuế đã có sự điều chỉnh doanh thu kịp thời 
trước sự biến động của thị trường. 
 Mặc dù doanh thu tính thuế qua các năm đều tăng nhưng không phải là 
không xảy ra hiện tượng thất thu thuế ở Chi cục thuế Quận Ba Đình. Có thể 
quy về do các nguyên nhân chủ yếu sau: 
 + Trường hợp 1: Thất thu do không điều chỉnh doanh thu kịp thời so 
với tốc độ trượt giá dẫn tới mức thuế thu được ở giai đoạn sau lạc hậu so với 
mức thuế thu ở giai đoạn trước về giá trị. Xảy ra tình trạng trên có thể do cán 
bộ chưa bám sát sự biến động của giá cả, hoạt động kinh doanh của các hộ. 
 + Trường hợp 2: Thất thu về doanh thu do việc định doanh thu tính 
thu tính thuế chưa phù hợp với mức độ kinh doanh thực tế. Với hộ áp dụng 
doanh thu tính thuế là doanh thu khoán: Mức khoán doanh thu được xác định 
trên cơ sở đIều tra và hiệp thương giữa cán bộ thuế và người kinh doanh. 
Trong trường hợp cơ sở kinh doanh không chấp nhận hiệp thương thì cán bộ 
thuế có quyền ấn định doanh thu khoán trên cơ sở đã điều tra. Như vậy không 
có một cơ sở nào để xác định một cách chính xác doanh thu tính thuế là phù 
hợp với thực tế kinh doanh mà hoàn toàn tuỳ thuộc vào ý muốn chủ quan của 
cán bộ thuế. Chính vì mức doanh thu khoán không được xác định chính xác 
nên đã làm thất thoát tiền thuế. Để khắc phục việc này tại các phường đã có 
các hội đồng tư vấn thuế giám sát, đồng thời Chi cục cũng thường xuyên cho 
đội kiểm tra rà soát doanh thu tính thuế nhưng cũng không làm được một cách 
chính xác với tất cả các hộ. 
Trang 50 
Tóm lại, có thể nhận thấy rất rõ thất thu doanh số là do các nguyên 
nhân: 
- Khách quan: 
+ Số hộ kinh doanh lớn, qui mô vốn nhỏ, nằm rải rác dẫn đến việc khó quản lý 
trong khi đội ngũ cán bộ thuế mỏng, một cán bộ quản lý quá nhiều đối tượng 
( có cán bộ quản lý ở khu vực chợ Long Biên quản lý đến 106 hộ) vì vậy chưa 
thể sâu sát, nắm được hoạt động kinh doanh thực tế tại địa bàn. 
+ Doanh thu khoán mang tính chủ quan nên chưa phản ánh đúng thực tế kinh 
doanh của đối tượng nộp thuế, thường thấp hơn nhiều so với doanh thu thực 
tế. 
+ ý thức chấp hành luật thuế của các đối tượng chưa cao, thường có phản ứng 
chống đối khi cơ quan thuế điều chỉnh doanh thu khoán. 
- Chủ quan: 
+ Tuyên truyền, giải thích nội dung luật thuế cho các đối tượng thực hiện chưa 
tốt. 
+ Công tác giám sát địa bàn thực hiện chưa đồng đều, thường xuyên. 
+ Còn có sự thoả hiệp giữa cán bộ thuế và đối tượng nộp thuế nhằm thương 
lượng để 2 bên cùng có lợi và chỉ có nhà nước là chịu thiệt thòi. 
+ Công tác điều chỉnh doanh thu tiến hành chưa kịp thời, chưa bám sát sự biến 
động của thị trường..vv.. 
· Với phương pháp quản lý doanh thu tính thuế của các hộ kê khai, việc tính 
thuế có cơ sở chính xác hơn nên việc xác định doanh số tương đối sát với thực 
tế phát sinh. Doanh thu tính thuế đã được nâng lên rõ rệt. Tuy nhiên việc áp 
dụng thu thuế theo kê khai là phương pháp mới nên không tránh khỏi những 
tồn tại mà một sớm một chiều chưa thể khắc phục được ngay. Với phương 
Trang 51 
pháp này số lượng các hộ đăng ký nộp thuế trên địa bàn quận tương đối ít, chỉ 
chiếm khoảng 30% tổng số hộ quản lý trên sổ bộ. 
Biểu số 6: Quản lý doanh thu một số hộ điển hình. 
Đơn vị tính: 1.000 đồng. 
STT Tên hộ DT kê khai DT Tính thuế DT điều tra Tỷ lệ % 
1 Ngành sản xuất 
 Lê Mai Anh 6300 7800 1200 65 
2 Ngành thương nghiệp 
 Trần Minh Tâm 32000 3800 65517 58 
3 Ngành ăn uống 
 Đặng Anh Thư 10200 15193 24500 62 
Qua biểu số liệu trên ta thấy doanh thu thực tế qua điều tra cao hơn so 
với doanh thu tính thuế( doanh thu tính thuế chỉ đạt 58% đến 65% doanh 
thu thực tế) và doanh thu thực tế vượt xa doanh thu kê khai.Việc thất thu 
trong quản lý doanh thu tính thuế đối với hộ kê khai còn là vấn đề nan giải 
vì bản thân nền kinh tế nước ta nói chung và khu vực kinh tế cá thể nói 
riêng đang ở giai đoạn chuyển đổi, phức tạp. 
Nguyên nhân của tình trạng trên có thể do: 
- Việc thực hiện chế độ sổ sách , hoá đơn chứng từ mới chỉ là hình thức 
chưa theo đúng quy định pháp lệnh kế toán thống kê ( chưa ghi chép đầy 
đủ kịp thời chính xác những doanh thu ,chi phí hàng ngày). 
- Vì mới áp dụng nên hầu hết các cơ sở kinh doanh này chưa có kế toán 
được đào tạo cơ bản nên trình độ kế toán non yếu còn hạch toán sai 
Trang 52 
- Công tác thanh tra kiểm tra của Chi cục chưa thường xuyên và kịp thời 
để phát hiện uốn nắn những sai sót. 
- Khi đối tượng nộp thuế vi phạm chế độ hoá đơn chứng từ thì Chi cục 
chưa xử lý nghiêm theo quy định. 
- Cán bộ thuế được giao quản lý đối tượng, hiểu biết về kế toán chưa sâu, 
việc tuyên truyền giải thích kém thuyết phục cũng là một nguyên nhân cho 
những tồn tại trên 
3. Quản lý khâu thu nộp tiền thuế: 
 Việc quản lý khâu thu nộp tiền thuế cũng được chia ra làm 2 chế độ 
thu cho thích hợp: 
- Đối với hộ thu theo hình thức kê khai thì theo luật định cứ ngày 5 hàng 
tháng cơ sở phải nộp tờ khai tính thuế Giá trị gia tăng cho cán bộ quản lý. 
Sau đó cán bộ quản lý kiểm tra xem xét nếu đúng ký xác nhận vào tờ khai 
và chuyển cho bộ phận nghiệp vụ của Chi cục để tính toán số thuế phải nộp 
của cơ sở. Sau khi tính toán số thuế phải nộp bộ phận nghiệp vụ trình lãnh 
đạo chi cục duyệt rồi ra thông báo cho cơ sở và yêu cầu cơ sở phải nộp số 
tiền thuế đó vào kho bạc theo một hạn định nhất định. 
- Đối với hộ thu theo hình thức khoán doanh thu: Cũng ngày 5 hàng 
tháng bộ phận kiểm tra sau khi nhận đơn xin nghỉ kinh doanh của các hộ 
xin nghỉ kinh doanh ở các địa bàn( các đơn này đều phải có xác nhận của 
UBND phường hoặc Ban quản lý các chợ) thì vào sổ và chuyển cho bộ 
phận nghiệp vụ để chấm bộ những hộ nghỉ kinh doanh, bộ phận nghiệp vụ 
cũng nhận được danh sách điều chỉnh doanh thu của các hộ kinh doanh sau 
khi đã có có sự phê duyệt của lãnh đạo chi cục để chấm vào bộ. Sau khi bộ 
phận nghiệp vụ đã chấm bộ phải trình lãnh đạo chi cục duyệt bộ và ra 
thông báo nộp thuế cho các hộ kinh doanh. Cán bộ quản lý địa bàn nhận 
Trang 53 
thông báo nộp thuế ở bộ phận nghiệp vụ và phát cho các hộ kinh doanh 
yêu cầu nộp thuế theo thông báo và hạn nộp , địa điểm nộp đã được quy 
định. Nếu các hộ trây ì không nộp thuế thì sẽ ra thông báo lần 2, lần 3 hoặc 
nếu cần thiết có thể lập hồ sơ để thực hiện cưỡng chế theo luật định. 
 Biểu hiện đầu tiên của khâu nộp tiền thuế trước hết là ở số thuế thu 
được trong kỳ và số nợ đọng trong kỳ. 
Biểu số 7: Tình hình thực hiện kế hoạch thu thuế Giá trị gia tăng 
ở khu vực kinh tế cá thể trên địa bàn Quận Ba Đình. 
 Đơn vị tính: 1.000 đồng 
Sè thuÕ % Sè thuÕ %
Sè kÕ ho¹ ch 6.000.000 4.000.000
Sè thùc hiÖn 6.580.000 3.495.581
Tû lÖ hoµn thµnh 109,67 87,39
Ph©n theo c¬ cÊu thu 6.580.000 100 3.495.581 100
* Thu thuÕ GTGT(DT) 4.317.456 65,61 2.728.300 78,05
*§ ßi nî thuÕ GTGT(DT) 2.263.183 34,39 767.281 21,95
DiÔn gi¶I
 N¨m 1998 Quý I/ 1999
 Dựa vào số liệu của biểu tình hình thực hiện kế hoạch trên ta nhận thấy 
công tác thu thuế GTGT của năm 1999 có phần giảm sút so với công tác thu 
thuế Doanh thu năm 1998 trước đây. 
 Năm 1998 Chi cục thuế Ba Đình hoàn thành vượt mức kế hoạch thu 
thuế doanh thu đối với hộ kinh tế cá thể ( đạt 109,67%) . 
 Năm 1999 với 3 tháng đầu triển khai thu thuế Giá trị gia tăng đơn vị lại 
không hoàn thành kế hoạch ( chỉ đạt 87,39%) mặc dù số thuế thu được quý I 
Trang 54 
năm 1999 là 3.495.581.000 đồng, vượt hơn rất nhiều so với số thuế Doanh thu 
thu được của 3 tháng đầu năm 1998. 
 Nhưng xét về mặt kế hoạch thì đơn vị vẫn không hoàn thành với kế 
hoạch được giao. Đó là do kế hoạch đặt ra quá cao so với nguồn thu thực tế 
mà Chi cục Ba Đình có khả năng, vấn đề này đã được kiểm điểm rút kinh 
nghiệm. Mặt khác do mới đưa thuế Giá trị gia tăng vào thực hiện nên Chi cục 
thuế còn gặp rất nhiều khó khăn cả về phía chủ quan và phiá khách quan. 
 Cũng nhìn vào biểu ta thấy số thu thuế Giá trị gia tăng ngày càng cao so 
với thuế doanh thu. 
 Năm 1998 : số thu thuế doanh thu chiếm 65,61% . 
 Năm 1999 : số thu thuế Giá trị gia tăng chiếm 78,05% trong tổng số 
thực thu thuế ở khu vực kinh tế cá thể. Đây là một biểu hiện tốt do số nợ giảm 
dần. 
 Năm 1998 đòi nợ được 2.263.183.000 đồng, chiếm 34,39% 
 Năm 1999 đòi nợ được 767.281.000 đồng, chiếm 21,95% 
Kết quả này là do công tác quản lý tốt nên số thuế thu được nhiều hơn, nhưng 
để có lời khẳng định chính xác phải xem xét tình hình nợ đọng qua các năm. 
Trước hết ta hãy để cập đến tình hình quản lý thu nộp thuế đối với hộ kinh tế 
cá thể trên địa bàn Quận Ba Đình. 
 Biểu số 8: Tình hình thu nộp thuế Giá trị gia tăng của các hộ kinh tế cá 
thể trên địa bàn quận Ba Đình. 
 Đơn vị tính: 1.000 đồng 
Trang 55 
DiÔn gi¶I N¨m 1998 Quý I/99
1. Sè thuÕ ®· nép vµo kho b¹ c 6.580.639 3.495.581
2. Sè thuÕ ph¶i thu 7.104.051 3.626.584
3. So s¸ nh ví i sè ph¶i thu
 _ Sè tuyÖt ®èi -523.412 -131.003
 _ Sè t ¬ng ®èi _7,4% _3,6%
 Với số liệu trên ta thấy số thuế nộp vào kho bạc so với số thuế ghi thu 
đạt chưa cao. Cụ thể: 
 Năm 1998 so với số thuế phải thu đạt 92,6%. 
 Năm 1999 so với số thuế phải thu đạt 96,4%. 
 Như vậy qua các năm số thuế thu được ngày càng nhiều, tốc độ thu 
năm 1999 lớn hơn so với năm 1998. Điều này chứng tỏ các cán bộ thuế đã làm 
tốt công tác đôn đốc thu nộp thuế, hoạt động ngày càng có hiệu quả. Mặt khác 
các cán bộ thu thuế đã bám sát địa bàn nhiều hơn, qua đó đã thu được nhiều hộ 
kinh doanh sản xuất trên địa bàn nằm ngoài sổ bộ và có biện pháp thu tốt hơn. 
 Qua các năm, số thuế thu được ngày càng tăng. Nhìn vào số liệu so 
sánh giữa ghi thu và thực thu cả về số tuyệt đối và số tương đối ta thấy số nợ 
đọng hoặc không thu được hoặc ít ra là tạm thời chưa thu được giảm đi rõ rệt. 
Số liệu đó ngày càng minh chứng cho việc thu thuế có hiệu quả bởi khoảng 
cách này đáng ra phải tăng lên do số hộ kinh doanh tăng lên. 
 Cụ thể việc đưa kho bạc xuống tận địa bàn để thu tiền thuế kết hợp với 
việc tách bộ phận tính thuế và phát hành thông báo, bộ phận đôn đốc thu nộp 
tiền thuế và bộ phận thanh tra xử lý đã phối hợp ăn ý, hỗ trợ, kiểm tra lẫn nhau 
để đẩy nhanh công tác thu nộp tiền thuế và hạn chế những tiêu cực có thể phát 
sinh. 
 Hàng tháng vào những ngày quy định kho bạc đến các điểm thu, Chi 
cục thuế cũng cử cán bộ ở bộ phận nghiệp vụ viết ngay giấy nộp tiền cho các 
Trang 56 
hộ kinh doanh trực tiếp đến nộp thuế tại đIểm thu, đây cũng là một biện pháp 
đẩy nhanh công tác thu nộp thuế, hạn chế tiêu cực. Đồng thời Chi cục thuế 
cũng phối hợp với UBND các phường, Ban quản lý các chợ và các phương 
tiện thông tin đại chúng để đẩy nhanh tốc độ thu nộp tiền thuế. 
 Quản lý thu nộp tiền thuế tốt sẽ giảm được số nợ đọng, chính vì thế nợ 
đọng thuế nhiều hay ít là biểu hiện của công tác quản lý thu nộp tốt hay xấu. 
 Biểu số 9: Theo dõi tình hình nợ đọng thuế Giá trị gia tăng ở khu vực 
kinh tế cá thể trên địa bàn Quận Ba Đình. 
 Đơn vị tính: 1.000 đồng 
Ghi thu Thùc thu Nî ®äng Ghi thu Thùc thu Nî ®äng
S¶n xuÊt 790.52 680.643 109.877 279.562 267.281 12.281
DÞch vô 2.294.295 2.246.316 47.979 2.031.260 2.008.718 22.542
T.NghiÖp 2.256.197 2.036.015 220.182 825.605 772.702 52.903
¡ n uèng 1.763.039 1.617.665 145.374 396.324 353.048 43.276
VËn t¶I 93.831 93.831 0
Tæng céng 7.104.051 6.580.639 523.412 3.626.582 3.495.580 131.002
Ngµnh
N¨m 1998 N¨m 1999
 Nhìn vào biểu trên, có thể thấy rằng tình hình nợ đọng qua các năm 
vẫn tồn tại và luôn là một vấn đề nan giải trong công tác thu nộp thuế nói 
chung và thuế Giá trị gia tăng nói riêng. 
 Qua 2 năm 1998 và 1999, ta có tỷ lệ nợ đọng thuế Giá trị gia tăng 
( thuế Doanh thu) sau: 
Trang 57 
Ngành Năm 1998 Quý I năm 1999 
Sản xuất 13,9% 4,4% 
Dịch vụ 2,1% 1,11% 
Thương nghiệp 9,76% 6,4% 
Ăn uống 8,25% 10,9% 
Trung bình 7,4% 3,6% 
 Có thể thấy rõ số nợ đọng: 
 Năm 1998 chiếm 7,4% tương ứng với số tiền là 523.412.000 đồng. 
 Quý I năm 1999 chiếm 3,6% tương ứng với số tiền 131.002 đồng. 
 Như vậy qua các năm các hộ cá thể đã chiếm dụng số vốn của Nhà 
nước là đáng kể, tập trung hầu hết vào nghành thương nghiệp và ăn uống. Cho 
nên kết hợp với khâu quản lý về số hộ và doanh thu thì cán bộ thuế phải tập 
trung quan tâm chú ý hơn vào hai ngành này bởi thất thoát tiền thuế và dây 
dưa tiền thuế tập trung nhiều vào hai ngành này. Qua đó ta cũng thấy biện 
pháp quản lý và thu nợ đọng qua các năm của cán bộ thuế chưa thật tốt nên số 
nợ từ năm này sang năm khác cứ chồng chất hơn. 
 Tóm lại qua việc phân tích tình hình quản lý thu thuế Giá trị gia tăng, 
tình hình nợ đọng qua các năm ở khu vực kinh tế cá thể trên địa bàn Quân Ba 
Đình có thể rút ra được một vài nhận xét về công tác này: 
 Các cán bộ thuế đã có sự cố gắng nỗ lực trong quản lý, Chi cục thuế 
Ba Đình đã tạo điều kiện cho cán bộ thuế làm việc nhưng không làm giảm 
hiệu quả làm việc của cán bộ thuế. Cán bộ thuế đã cố gắng chuyên sâu vào 
việc đôn đốc thu nộp tiền thuế. Việc nộp tiền thuế qua kho bạc đã làm giảm 
bớt khó khăn cho cán bộ thuế, thủ tục đơn giản hơn nhiều. Tuy nhiên, cần phải 
bồi dưỡng thêm trình độ cho các cán bộ thu để tăng hiệu quả công việc. 
Trang 58 
Công tác quản lý thu có nhiều thay đổi với chiều hướng tốt, cán bộ thuế 
năng động nhiệt tình tích cực bám sát địa bàn và kiểm tra các hộ kinh doanh, 
phát hiện nhiều vụ trốn thuế và có biện pháp tích cực để nhanh chóng thu hồi 
lại cho NSNN. Các cán bộ thuế bình quân mỗi người phải quản lý từ 60 đến 
70 hộ thậm chí có những người quản lý hơn 100 hộ (trong đó có cả những hộ 
lớn) đều cố gắng hoàn thành nhiệm cụ được giao, kịp thời phối hợp với các 
ban ngành có liên quan như UBND phường, Ban quản lý chợ, công an, quản 
lý thị trường..vv để nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác thu. 
 Các cán bộ thuế tự bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ thực hiện 
việc tuyên truyền giải thích phối hợp với các bộ phận tính và ra thông báo 
thuế, bộ phận thanh tra để nâng cao chất lượng thu thuế và chống tiêu cực. 
Thường xuyên họp bàn rút kinh nghiệm để công tác quản lý thu thuế đạt kết 
quả cao nhất. 
 Nhưng bên cạnh nhưng thành tích đó, công tác quản lý thu thuế ở Chi 
cục thuế Ba Đình còn những yếu kém sau: 
· Về công tác quản lý đối tượng nộp thuế: 
 Quản lý chưa chặt, số hộ chưa quản lý được còn nhiều. Năm 1998 còn 
229 hộ chưa quản lý được, năm 1999 còn 421 hộ chưa quản lý được. Ngoài ra 
việc quản lý các hộ kinh doanh ngoài sổ bộ đã đưa vào sổ chưa đạt kết quả 
cao, tỷ lệ thu được những hộ này còn thấp. 
 Nguyên nhân thất thu là do công tác điều tra hộ kinh doanh không 
được phối hợp chặt chẽ với cơ quan thuế và các ngành có liên quan, việc phân 
loại hộ chưa được tốt nên việc xác định biện pháp thu không đạt kết quả cao. 
Việc xác định hộ kinh doanh còn mang tính chất kế hoạch thu kiểu trên rót 
Trang 59 
xuống, dưới cố gắng thực hiện để lấy thành tích mà không có sự quan tâm 
đúng mức. 
· Về công tác quản lý căn cứ tính thuế: 
 Ta thấy dù năm 1999 triển khai luật thuế Giá trị gia tăng Chi cục đã có 
sự điều chỉnh doanh thu tính thuế nhưng vẫn chưa sát thực tế. Việc quản lý 
những hộ lớn nói chung còn lỏng lẻo, đơn thuần, mức thu còn thấp chủ yếu 
dựa vào kê khai sổ sách kế toán để tính thuế, còn thiếu kiểm tra thường xuyên 
nên còn để mất thuế. 
 Nguyên nhân là do các cán bộ thuế tuy có bám sát địa bàn nhưng mới 
chỉ chú trọng vào lượng hộ kinh doanh mà chưa thực sự quan tâm tới quy mô 
kinh doanh. Không kiểm tra thường xuyên việc ghi chép sổ sách nên dẫn đến 
ghi không đúng và còn làm thất thoát hoá đơn. Không bám sát địa bàn và kịp 
thời điều chỉnh doanh thu tính thuế theo sự biến động của giá cả, thời vụ và 
qui mô kinh doanh nên cũng làm thất thu thuế. Mặt khác cán bộ thuế nhiều khi 
còn thiếu tinh thần trách nhiệm trong công việc được giao cũng làm thất thu 
tiền thuế. 
· Trong khâu quản lý thu nộp: 
Trong khâu quản lý thu nộp vẫn còn những hạn chế nhất định, còn để 
tình trạng nợ đọng xảy ra nhiều và kéo dài qua các năm. Số nợ đọng chiếm từ 
3-8% tổng số thuế ghi thu hàng năm. 
 Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do cán bộ thuế còn yếu về 
nghiệp vụ, không đủ khả năng tuyên truyền, vận động, giải thích, còn lúng 
túng khi đề ra mức thu và ghi thu. Còn gây nhiều thắc mắc trong dân, công 
tác tuyên truyền chưa được coi trọng đúng mức. 
Trang 60 
Ngoài ra việc thu nộp vẫn còn có các tồn tại là do pháp luật thuế của 
chúng ta chưa nghiêm, nhiều trường hợp vi phạm các chính sách thuế không 
được xử lý thích đáng, trường hợp hành hung người thi hành công vụ vẫn xảy 
ra dẫn đến tình trạng coi thường pháp luật, mặt khác chưa có sự quan tâm 
đúng mức của các ngành các cấp, chưa có sự phối hợp nhịp nhàng giữa cán 
bộ thuế và UBND các phường, Ban quản lý các chợ và cơ quan liên ngành 
khác. Công tác quản lý thu thuế phần lớn còn mang tính bị động hơn là chủ 
động. Việc sử dụng hình thức thu còn có lúc tuỳ tiện dẫn đến thất thu thuế. 
 Chính vì các lý do nêu trên mà việc đòi hỏi phải tăng cường quản lý 
thu thuế đối với khu vực kinh tế cá thể trên địa bàn Quận Ba Đình, việc 
vạch ra phương hướng để tăng cường quản lý thu thuế là rất cần thiết với địa 
bàn Quận Ba Đình gồm rất nhiều phường và các chợ. 
Trang 61 
PHẦN III 
MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG TĂNG CƯỜNG 
CÔNG TÁC QUẢN LÝ THUẾ GIÁ TRỊ GIA 
TĂNG Ở KHU VỰC KINH TẾ CÁ THỂ TRÊN 
ĐỊA BÀN QUẬN BA ĐÌNH. 
Thuế là nguồn thu chủ yếu của Nhà nước trong cơ chế kinh tế thị 
trường nhằm đáp ứng yêu cầu vốn cần thiết thực hiện các nhiệm vụ kinh tế xã 
hội của nhà nước. Hàng năm nhà nước phải tiến hành xây dựng và tổ chức 
thực hiện kế hoặch thuế. Kế hoặch thuế xét về mặt lý luận là dự kiến quá trình 
phân phối và tổ chức động viên một bộ phận GDP của xã hội cho nhà nước 
thông qua thuế. Xét về mặt thực tiễn, kế hoặch thuế là quá trình dự đoán, tính 
toán và tổ chức động viên nguồn thu bằng thuế trên phạm vi cả nước Quá trình 
xây dựng và quản lý kế hoặch thuế hết sức cần thiết ở nước ta. 
Trước hết để thực hiện các chương trình phát triển kinh tế xã hội nhà 
nước đã hoặch định đòi hỏi phải có lượng vốn cần thiết được huy động từ 
trong nội bộ nền kinh tế. Do đó, cần thiết phải xác định được khả năng tương 
đối chắc chắn về lượng vốn có thể huy động được bằng thuế để nhà nước chủ 
động bố trí sử dụng vốn. Đồng thời phối hợp với việc huy động nguồn thu 
khác để giải quyết vấn đề cân đối ngân sách một vấn đề hết sức quan trọng đối 
với mỗi quốc gia.Từ yêu cần tất yếu cấp thiết đó đòi hỏi phải thực hiện kế 
hoặch thuế. Mặt khác trong cơ chế thị trường nhà nước phát huy vai trò quản 
lý kinh tế vĩ mô thông qua các công cụ hành chính, kinh tế, pháp luật. Kế 
Trang 62 
hoặch thuế là một trong những công cụ quản lý của nhà nước vừa động viên từ 
hoạt động kinh tế xã hội vừa phản ánh khả năng kinh tế và sự vận động của 
kinh tế để có các biện pháp điều chỉnh kinh tế hợp lý. 
Từ sự cần thiết khách quan của kế hoặch thuế đòi hỏi công tác quản lý 
thuế phải ngày càng được nâng cao, ổn định, phát huy hết khả năng và tác 
dụng của một bộ phận tài chính quan trọng của nước nhà. 
Qua thời gian nghiên cứu phân tích tình hình thực hiện thu thuế Giá trị 
gia tăng ở thành phần kinh tế cá thể trên địa bàn quận Ba Đình trong 3 tháng 
đầu năm 1999, chúng ta đã thấy được phần nào tình hình chung cũng như ưu-
nhược điểm trong quá trình thực hiện luật thuế mới này. Với tình hình đó ta có 
thể tìm ra những nguyên nhân tồn tại thuộc công tác quản lý đối tượng nộp 
thuế, quản lý căn cứ tính thuế và công tác thu nộp, quản lý cán bộ. 
Sau thời gian nghiên cứu tình hình thực tế trên địa bàn Quận Ba Đình, 
tôi xin nêu ra một số phương hướng và biện pháp nhằm tăng cường quản lý 
thu thuế Giá trị gia tăng đối với thành phần kinh tế cá thể trên địa bàn Quận 
Ba Đình. 
I . QUẢN LÝ ĐỐI TƯỢNG NỘP THUẾ: 
Để quản lý được đối tượng nộp thuế, đòi hỏi cán bộ thuế phải tích cực 
bám sát địa bàn để quản lý được hộ kinh doanh đã đưa vào sổ bộ, thường 
xuyên phát hiện hộ mới ra kinh doanh để đưa vào quản lý. Phối hợp với các 
cơ quan điều tra thống kê, cơ quan cấp đăng ký kinh doanh để tạo điều kiện 
cho hộ kinh doanh thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của mình đối với Nhà nước. 
Phải quy rõ trách nhiệm vật chất với từng cán bộ quản lý, thường xuyên phối 
hợp với phường để kiểm tra số hộ nghỉ kinh doanh, phát hiện hộ nghỉ giả.. Có 
biện pháp thật cứng rắn với hộ cố tình vi phạm như xử phạt hành chính, thậm 
chí truy tố trước pháp luật. Với những hộ thường xuyên chấp hành tốt nghĩa 
Trang 63 
vụ nộp thuế thì các đội thuế phường phải tổng kết hàng tháng để cuối năm 
trình lên Chi cục có hình thức khen thưởng động viên kịp thời. 
 A. Quản lý những hộ đã quản lý được: 
1. Các hộ kinh doanh được theo dõi trên sổ bộ phải được xắp xếp theo 
mã số từng địa bàn, ngành nghề, phương pháp nộp thuế ( kê khai hay ấn định). 
Các cán bộ thuế phải thường xuyên theo dõi tình hình hoạt động kinh doanh 
của các hộ mà mình quản lý, khi hộ có đơn xin nghỉ thì cán bộ thuế có thể 
cùng với cơ quan liên ngành theo dõi, kiểm tra và cũng có thể để tự các hộ 
theo dõi lẫn nhau. Điều này là rất có thể thực hiện được vì trong cơ chế thị 
trường một hộ mới ra kinh doanh hay nghỉ kinh doanh rất có tác động tới các 
hộ khác khi họ cùng kinh doanh một ngành nghề. 
2. Các hộ có đơn xin nghỉ kinh doanh này chỉ được chấm nghỉ khi có lý do 
chính đáng và trong đơn phải có mục “ Nếu vi phạm thì sẽ bị xử lý ra sao? ”. 
Đơn này phải được UBND phường ký đóng dấu và phải được chuyển về Chi 
cục thuế đúng thời hạn quy định để kiểm tra một cách kịp thời. Đồng thời cán 
bộ quản lý thu thuế tại địa bàn nào phải chịu trách nhiệm phát hiện xử lý kịp 
thời những hộ xin nghỉ mà vẫn kinh doanh. 
4. Mỗi khi ban hành chính sách quy định mới phải tuyên truyền giải thích 
rõ ràng, cụ thể để tránh gây hiểu lầm dẫn đến xuất hiện hành vi chống đối. Khi 
có biểu hiện này nên mời họ về đội hoặc chi cục để giải thích. 
5. Khi có xu thế chống đối hàng loạt ( với các hộ kinh doanh trong các 
chợ), cần phải xử lý nghiêm minh tránh tình trạng tràn lan. Mặt khác, phải 
Trang 64 
xem lại trong việc thực hiện có gì sai sót cần phải sửa chữa kịp thời và sẵn 
sàng nhận lỗi. 
6. Thực tế cho thấy nhiều hộ kinh doanh ít hiểu biết vế thuế, nhất là thuế 
Giá trị gia tăng lại là một luật thuế mới, có tính phức tạp hơn về phương pháp 
tính thuế. Nhiều hộ cho rằng không cần biết thuế là gì ?. Cán bộ thuế báo nộp 
bao nhiêu nếu cảm thấy được thì nộp còn không thì chống đối, trây ì không 
nộp, hoặc tìm cách móc ngoặc với cán bộ thuế để được giảm thuế và chỉ nộp 
với mức thuế rất thấp, gây tổn thất cho NSNN. Còn nhiều người khác lại cho 
rằng tăng mức thuế hiện nay là không hợp lý vì buôn bán ngày càng khó khăn, 
tiền kiếm được ngày càng vất vả mà thuế thì mỗi ngày một tăng, kèm theo 
việc ban hành những sắc thuế mới gây xáo động phần nào cho hoạt động kinh 
doanh của họ. 
Như vậy mới biết được tầm hiểu biết về thuế của người dân còn quá ít, cần 
phải giải thích hướng dẫn chính sách chế độ đến từng người dân qua các 
phương tiện thông tin đại chúng của Trung ương và địa phương. Mặt khác 
cũng phải chý ý đến mọi đề đạt của dân, xem lại mức thuế cho phù hợp với 
thực trạng của cơ sở sản xuất kinh doanh. Giữa từng khu vục trong địa bàn 
phải xây dựng mức thuế hợp lý giữa các ngành nghề, mặt hàng kinh doanh. 
Phải có sự phối hợp ăn ý giữa các ban ngành để tạo điều kiện thu về cho ngân 
sách trung ương và ngân sách địa phương nhưng mức thu phải thoả đáng để 
các hộ kinh doanh có thể chấp nhận được, có thể tiếp tục kinh doanh được, 
không thể mạnh ai nấy làm, công an cũng thu, uỷ ban cũng thu, thuế cũng 
thu.. Cuối cùng chỉ có người kinh doanh chịu. Các ban ngành phải họp lại 
nhằm đề ra một mức đóng góp hợp lý để người dân chịu được mà vẫn đảm 
bảo thu ngân sách. 
Trang 65 
B. Đối với hộ chưa quản lý được: 
1. Cơ quan thuế mà cụ thể là các cán bộ thuế phải tích cực bám sát địa bàn 
phối hợp với cơ quan liên ngành để điều tra xác định rõ số hộ kinh doanh mà 
không có giấy phép kinh doanh. 
Cụ thể: - Với hộ buôn bán ngay tại nhà, có cửa hàng cửa hiệu, có chỗ 
ngồi cố định cần tiến hành cấp ngay đăng ký kinh doanh, mã số thuế, tính 
toán doanh thu và số thuế phải nộp để đưa vào quản lý trong sổ bộ. 
- Với hộ kinh doanh ở vỉa hè, vãng lai không có chỗ ngồi cố định 
cũng như thời gian cụ thể thì biện pháp trước mắt để nắm vững được 
những hộ này là cần theo dõi thường xuyên và có thể tiến hành thu thuế 
sau đó dần dần nếu đủ điều kiện thì đưa vào sổ bộ quản lý. 
2. Cần có những chế độ xử lý nghiêm minh với những hộ cố tình chống đối 
hoặc núp bóng tập thể để kinh doanh trốn thuế. Ngoài những biện pháp xử lý 
hành chính thông thường, nếu vi phạm nhiều lần có thể bị truy tố trước pháp 
luật. 
3. Trong trường hợp các hộ quá khó quản lý do tính chất và đặc điểm 
ngành như hộ bán hàng ăn sáng, hàng hoa, thịt.. nên chăng có thể áp dụng chế 
độ thu góp theo ngày kinh doanh. 
 II. QUẢN LÝ VỀ CĂN CỨ TÍNH THUẾ: 
Trang 66 
Yêu cầu đầu tiên của các cán bộ thuế là phải thường xuyên bám sát địa 
bàn, nắm vững sự biến động của giá cả, sự thay đổi quy mô kinh doanh để có 
tính toán, xác định căn cứ tính thuế sát với thực tế. Bằng suy nghĩ trên ta có 
thể đưa ra một số phương hướng sau: 
1. Cần có sự điều chỉnh doanh thu tính thuế và việc điều chỉnh này phải 
căn cứ vào sự biến động của giá cả để thông báo kịp thời với bộ phận ra thông 
báo và khi đó phải giải thích cụ thể với từng hộ kinh doanh về lý do điều chỉnh 
và mức điều chỉnh. Khi điều chỉnh doanh thu tính thuế phải làm đúng quy 
trình nghiệp vụ của ngành đã đề ra đó là phải thông qua Hội đồng tư vấn thuế 
phường và có sự phê duyệt của lãnh đạo Chi cục thuế và thông báo cho hộ 
kinh doanh về lý do điều chỉnh và mức thuế điều chỉnh. Việc điều chỉnh doanh 
thu áp dụng cho ngành hàng nào, mặt hàng nào phải áp dụng đồng loạt và 
công khai, trong trường hơp không áp dụng cho hộ nào cần phải nêu rõ lý do 
tại sao không điều chỉnh. Với những hộ có quy mô kinh doanh như nhau, điều 
kiện kinh doanh như nhau thì mức điều chỉnh cũng phải như nhau.Trong khâu 
đều chỉnh tránh gây thắc mắc và tư tưởng chống đối hàng loạt. Việc điều 
chỉnh giữa các khu vực phải giống nhau và điều chỉnh đồng đều. 
2. Với ngành ăn uống thì khâu quản lý căn cứ tính thuế thường vấp phải 
khó khăn trong việc định ra doanh thu hoặc nếu phải thực hiện sổ sách kế toán 
cũng không có điều kiện. Biện pháp quản lý căn cứ tính thuế của ngành này 
phải quản lý chặt chẽ, điều tra hàng tháng điển hình tại các địa bàn khác nhau 
để từ đó quyết định về việc tăng doanh thu tính thuế phù hợp với từng hộ và 
từng vùng nhất định. 
3. Mở các lớp kế toán tư nhân. Từ đó đối với những hộ thực hiện sổ 
sách cho nghiêm chỉnh, cán bộ thuế phải thường xuyên kiểm tra ghi sổ và việc 
Trang 67 
sử dụng chứng từ hoá đơn để có gì sai sót có thể sửa chữa được ngay. Trong 
trường hợp hộ cố tình vi phạm phải có biện pháp xử lý đích đáng hoặc có thể 
đưa ra truy tố trước pháp luật. 
4. Trong lĩnh vực quản lý hoá đơn cần có biện pháp xửl ý thật nặng đối 
với người bán cũng như người mua để mất hoá đơn một cách không chính 
đáng. Cán bộ thuế phải mở sổ theo dõi tình hình sử dụng hoá đơn của các hộ 
sử dụng hoá đơn trong địa bàn mình phụ trách. Hàng tháng cùng với nhiệm vụ 
kiểm tra doanh thu, cán bộ thuế có nhiệm vụ kiển tra tình hình sử dụng hoá 
đơn theo quy định nếu để mất mát, thất lạc thì sẽ bị xử phạt theo quy định 
quản lý sử dụng hoá đơn của Bộ Tài chính ban hành. 
5. Cần phải thực hiện nghiêm chỉnh quyết định số 1345/TCT/TCCB của 
Tổng cục thuế ban hành ngày 9/12/1998 về việc xác định doanh số ấn định đối 
với hộ cá thể nộp thuế Giá trị gia tăng theo phương pháp khoán. Thường 
xuyên kiểm tra xác định mức doanh thu khoán cho phù hợp với thực tế kinh 
doanh của các hộ. 
6. Cán bộ thuế phải thường xuyên kiểm tra các hộ kinh doanh để phát 
hiện những mặt hàng mà hộ kinh doanh thêm để tính lại mức thuế cho phù 
hợp tránh thất thu về thuế. Trong trường hợp các hộ hiện đang thu thuế theo 
doanh thu khoán mà có sử dụng hoá đơn thì cán bộ thuế phải thường xuyên 
kiểm tra để phát hiện và truy thu thêm ngay doanh thu chênh lệch giữa doanh 
thu trên hoá đơn bán hàng và doanh thu khoán. 
7. Hoạt động thanh kiểm tra phải thường xuyên liên tục. Cần phải bổ 
xung các cán bộ thanh tra có trình độ nghiệp vụ vững vàng có phẩm chất đạo 
Trang 68 
đức tốt xứng đáng với 1 trong 3 bộ phận của quy trình thu thuế tách 3 bộ phận 
mà Tổng cục thuế đã ban hành. 
8. Để ngăn chặn việc thực hiện chế độ kế toán, sử dụng hoá đơn chứng 
từ không theo quy định của pháp lệnh kế toán thống kê thì các cán bộ thuế 
phải thường xuyên kiểm tra với những nội dung sau: 
- Kiểm tra xem cơ sở dùng mấy loại hoá đơn: Việc sử dụng hoá đơn 
bán hàng nếu vi phạm như dùng 2 quyển một lúc, hoá đơn nhảy cóc, nội 
dung ghi chép không rõ ràng, không đúng chỉ tiêu quy định ghi trên hoá 
đơn thì phải lập biên bản xử lý ngay. Việc phát hành, lưu hành những hoá 
đơn không phải hoá đơn do Bộ Tài chính phát hành phải được xử lý như 
hành vi khai man trốn lậu thuế. 
- Kiểm tra việc khoá sổ kế toán( cuối tháng, cuối quý, cuối năm phải 
khoá sổ kế toán, lập bảng kê khai tính thuế theo quy định). 
- Đối với những hộ đăng ký thu thuế theo phương pháp kê khai mà 
không thực hiện nghiêm chỉnh chế độ sổ sách kế toán hoá đơn chứng từ 
theo quy định thì Chi cục thuế nên phối hợp với các ngành chức năng( đội 
liên ngành) xử lý bằng cách không thừa nhận số liệu của hộ sản xuất kinh 
doanh và ấn định mức thuế cao nhất cùng với việc xử phạt vi phạm hành 
chính theo nghị định 22/CP của Chính Phủ( điều 2 khoản I quy định xử 
phạt từ 20.000 đ đến 200.000 đ có thể phạt đến 1.000.000 đ). 
Bồi dưỡng, nâng cao trình độ ghi chép, mở sổ sách kế toán của những 
đối tượng nộp theo hình thức kê khai. Từng bước chuyển dần các đối 
tượng này sang phương pháp tính thuế khấu trừ. 
Trang 69 
III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP THU NỘP TIỀN THUẾ: 
Vấn đề chủ yếu ở khâu này là cần phải tìm ra phương hướng để thúc 
đẩy nhanh việc nộp thuế ở các hộ kinh doanh cá thể, hạn chế tối đa số nợ đọng 
cũng như giải quyết số thuế tồn đọng. 
Các cán bộ thuế phải đôn đốc thu nộp thuế thường xuyên dứt điểm số 
thuế phải thu hàng tháng không để các hộ dây dưa tiền thuế . Khoán mức thu 
thuế cho từng cán bộ và gắn trách nhiệm vật chất với từng cán bộ thuế. Theo 
dõi kết quả và số thuế nợ đọng để cuối tháng, cuối quý có cơ sở bình xét thu 
đua khen thưởng. 
Trong trường hợp hộ kinh doanh cố tình vi phạm không chịu nộp thuế 
cũng như không chịu trả tiền thuế còn nợ thì phải phối kết hợp với các cơ quan 
có trách nhiệm xử lý kịp thời như : xử lý hành chính, tịch thu tài sản hay truy 
tố trước pháp luật..vv.. Phải thanh kiểm tra thường xuyên với tất cả các hộ 
kinh doanh cũng như các cán bộ thuế để kịp thời phát hiện những vụ vi phạm 
pháp luật thuế. Những cán bộ thuế có biể
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
Luận văn- Tình hình quản lý thu thuế giá trị gia tăng và một số phương hướng tăng cường quản lý thu thuế giá trị gia t.pdf