Luận văn Tìm hiểu thực trạng kinh doanh cà phê ở Việt Nam và khả năng ứng dụng thị trường giao sau cà phê tại Việt Nam

Tài liệu Luận văn Tìm hiểu thực trạng kinh doanh cà phê ở Việt Nam và khả năng ứng dụng thị trường giao sau cà phê tại Việt Nam: 1  LỜI MỞ ĐẦU  1.  Lý do chọn đề tài  Việt Nam là một trong những nước xuất khẩu cà phê lớn nhất trên thế giới,  kim ngạch xuất khẩu cà phê hàng năm chiếm tỷ trọng đáng kể trong GDP của quốc  gia. Thế nhưng hiện nay  ngành  cà phê Việt Nam vẫn  tồn  tại những phương  thức  kinh doanh mua bán cũ, không phù hợp để có thể cạnh tranh với các nước trên thế  giới, nền sản xuất  trong nước phụ thuộc vào biến động giá cà phê thế giới mà giá  này được người mua là các doanh nghiệp chế biến cà phê nước ngoài “sắp đặt sẵn”  cho doanh nghiệp xuất khẩu cà phê nước ta. Để có thể khắc phục điểm yếu và nâng  cao khả năng chủ động trong sản xuất, ổn định lợi nhuận không chỉ của các doanh  nghiệp  kinh doanh  cà phê mà  còn  của người  nông dân  thì việc  xây  dựng và phát  triển thị  trường giao sau cà phê  là một  trong những giải pháp khả thi và hữu hiệu  trong việc phòng ngừa rủi ro biến động giá.  2.  Đối tượng và phạm vi nghiên cứu  Đề tài nghiên cứu tập trung vào sản phẩm cà phê nh...

pdf74 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 993 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tìm hiểu thực trạng kinh doanh cà phê ở Việt Nam và khả năng ứng dụng thị trường giao sau cà phê tại Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1  LỜI MỞ ĐẦU  1.  Lý do chọn đề tài  Việt Nam là một trong những nước xuất khẩu cà phê lớn nhất trên thế giới,  kim ngạch xuất khẩu cà phê hàng năm chiếm tỷ trọng đáng kể trong GDP của quốc  gia. Thế nhưng hiện nay  ngành  cà phê Việt Nam vẫn  tồn  tại những phương  thức  kinh doanh mua bán cũ, không phù hợp để có thể cạnh tranh với các nước trên thế  giới, nền sản xuất  trong nước phụ thuộc vào biến động giá cà phê thế giới mà giá  này được người mua là các doanh nghiệp chế biến cà phê nước ngoài “sắp đặt sẵn”  cho doanh nghiệp xuất khẩu cà phê nước ta. Để có thể khắc phục điểm yếu và nâng  cao khả năng chủ động trong sản xuất, ổn định lợi nhuận không chỉ của các doanh  nghiệp  kinh doanh  cà phê mà  còn  của người  nông dân  thì việc  xây  dựng và phát  triển thị  trường giao sau cà phê  là một  trong những giải pháp khả thi và hữu hiệu  trong việc phòng ngừa rủi ro biến động giá.  2.  Đối tượng và phạm vi nghiên cứu  Đề tài nghiên cứu tập trung vào sản phẩm cà phê nhân thô,  tìm hiểu những  tồn tại vướng mắc trong các khâu thuộc quy trình sản xuất kinh doanh nhằm tìm ra  những giải pháp dựa trên việc ứng dụng hợp đồng giao sau để giảm thiểu tác động  biến động giá cà phê, đảm bảo lợi ích cho doanh nghiệp và người nông dân.  3.  Phương pháp nghiên cứu  Bằng phương pháp phân tích nghiên cứu, tổng hợp thông tin từ các tài liệu,  sách báo, Internet có liên quan đến ngành sản xuất kinh doanh cà phê, các công cụ  phái sinh, để cho thấy tổn thất của ngành kinh doanh cà phê do ảnh hưởng của biến  động giá và tác dụng của chiến lược phòng ngừa rủi ro biến động giá thông qua hoạt  động của thị trường giao sau.  4.  Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu  Dựa trên tình hình thực tế của ngành sản xuất kinh doanh cà phê Việt Nam,  đề  tài  đề  xuất một  số  giải  pháp  khả  thi  trên  nền  tảng  xây  dựng  và  phát  triển  thị  trường giao sau để giảm ảnh hưởng xấu của biến động giá cà phê đến ngành này. 2  5.  Kết cấu của luận văn  §  Lời mở đầu.  §  Chương 1: Tìm hiểu những  rủi  ro  gặp phải do biến động giá đến sản  xuất  nông nghiệp, đồng thời tìm hiểu về vai trò của thị trường giao sau.  §  Chương 2: Tìm hiểu thực trạng kinh doanh cà phê ở Việt Nam và khả năng  ứng dụng thị trường giao sau cà phê tại Việt Nam.  §  Chương 3: Đề  xuất  các  giải pháp  liên quan đến  xây  dựng và phát  triển  thị  trường giao sau nhằm phòng ngừa rủi ro biến động giá cà phê.  §  Kết luận 3  CHƯƠNG I: RỦI RO BIẾN ĐỘNG GIÁ VÀ VAI TRÒ CỦA  THỊ TRƯỜNG GIAO SAU  1.1.  Rủi ro biến động giá cả đối với người sản xuất (nông nghiệp)  Đối với người sản xuất, rủi ro biến động giá cả là loại rủi ro đáng lo ngại và  ảnh hưởng nhiều nhất đến thu nhập của họ. Rủi ro biến động giá cả hàng hóa xuất  hiện khi giá sản phẩm xuống thấp hoặc giá đầu vào tăng sau khi người sản xuất đã  quyết định đầu tư. Rủi ro do biến động giá hầu như xuất hiện ở mọi lĩnh vực kinh  doanh bao gồm cả trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp.  Đối với người nông dân, khi họ bắt đầu gieo trồng thì tất cả đều hy vọng đến  khi thu hoạch sẽ có sản lượng cao, chất lượng tốt và đặc biệt là giá bán ra bằng hay  tốt hơn thời vụ trước. Không ai muốn tiếp tục nuôi trồng các cây con mà giá cả đã  liên tục rớt trong nhiều năm liền. Tuy nhiên, sản lượng và chất lượng sản phẩm lại  chịu  ảnh  hưởng  nhiều  bởi  biến  động  giá  theo  quan  hệ  cung  ­  cầu  cũng như  ảnh  hưởng bởi giá cả đầu vào và các yếu tố bất lợi khác như thời tiết, sản lượng của các  nước có diện tích canh tác lớn... Ở các nước đang phát triển, người nông dân luôn  trong  thế bị động, không biết  trước đầu  ra của sản phẩm, cũng như giá cả và nhu  cầu của thị  trường, phần đông trông chờ nhiều vào sự may rủi và phụ thuộc nhiều  vào hoạt động thu mua của các thương lái. Đa phần nông dân sản xuất và tiêu thụ  nông sản  theo  tập quán  lâu đời. Họ dốc  vốn,  công sức  đầu  tư  trong  nhiều  tháng,  thậm chí nhiều năm để làm ra một loại hàng hóa chưa biết chắc giá cả, không rõ sẽ  bán cho ai. Vì vậy, cả khi người nông dân đã thu hoạch xong lúa, cà phê, hạt tiêu,  thuốc lá, ngô, đậu tương, cao su… thì cũng vẫn gặp phải rủi ro về giá nếu như lúc  đó giá thị trường đang xuống mà chưa bán hết được hàng.  Bên cạnh đó còn có yếu tố do con người gây nên  ­ đó là tình trạng sản xuất  theo phong trào không tính đến giá cả sẽ diễn biến như thế nào trong thời gian tới.  Người nông dân đứng trước một mâu thuẫn là khi được mùa thì giá rớt dẫn tới lỗ,  mất mùa thì giá cao nhưng lại không có hàng để bán. Giá đầu vào có xu hướng ngày 4  càng tăng trong khi giá nông sản đầu ra lên xuống thất thường. Ở trường hợp nào đi  chăng nữa thì người nông dân luôn phải chịu thiệt thòi nhiều nhất.  Đối với các doanh nghiệp chế biến, nhà xuất khẩu nông sản cũng sẽ gặp rủi  ro  tương  tự như người nông dân nếu  như họ  thu mua nông sản,  thu mua nguyên  liệu, chế biến  rồi  lưu kho để  tiêu  thụ hoặc xuất khẩu mà không có hợp đồng mua  trước nguyên liệu với người cung cấp với giá ấn định (vì  lúc mua giá có thể đang  lên) cũng như không có hợp đồng bán trước với người tiêu thụ với giá ấn định (vì  lúc bán  giá  có  thể đang  xuống)  thì khi  giá  cả mặt hàng đó biến động, có  thể đẩy  doanh nghiệp vào tình trạng thua lỗ nặng nề. Nhiều doanh nghiệp vừa ký hợp đồng  bán hàng xong, giá cả biến động tăng, tiền thu về không còn đủ để mua lại số hàng  tương tự vừa bán dẫn đến thua lỗ. Những biến động không thể dự đoán trước của  giá hàng hóa không những có  thể ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh mà còn ảnh  hưởng đến thị phần, sức cạnh tranh và thậm chí là cả sự tồn tại của DN nếu điều đó  xảy ra trong một thời gian dài.  Như vậy cả nông dân, các thương lái, nhà chế biến và nhà xuất khẩu đều phải  quan tâm đến việc quản lý rủi ro về giá đối với sản phẩm hàng hoá của mình để hạn  chế thiệt hại đến mức tối đa và thu được lợi nhuận cao nhất.  Chính  vì  vậy  họ  cần  có  những  công  cụ phòng  ngừa để đạt  được mục  tiêu  giảm  thiểu  rủi  ro biến động giá, một  trong những  công  cụ hữu hiệu  đã được  các  nước phát triển ứng dụng từ lâu đó là thực hiện giao dịch các hợp đồng giao sau trên  sàn giao dịch giao sau. Chính nhờ có hợp đồng mua, bán trước với giá ấn định và  giao hàng sau mà các bên có thể hạn chế đến mức tối đa rủi ro về biến động giá nhờ  cơ chế hoán đổi và lựa chọn mà sàn sẽ trực tiếp điều hành. Điều này không thể có  được trong thị trường truyền thống khi thực hiện việc giao hàng ngay theo phương  thức mua đứt bán đoạn thì giá bán chỉ là giá cao vào thời điểm đó, nhưng sau đó các  cơ hội giá có lợi hơn sẽ phải bỏ qua vì hàng đã bán rồi, hoặc nếu ký gửi để bán hộ  thì người bán phải thanh toán tiền lưu kho, tiền bảo quản… và vẫn có thể bị ép giá  do người mua cố tình gây ra. Như vậy nhờ chức năng quản lý rủi ro về giá (đây là  chức  năng  quan  trọng  nhất mà  thị  trường  giao  sau  thực  hiện  được)  và  nhờ  kinh 5  doanh tập trung có tổ chức với khối lượng giao dịch lớn thông qua các sàn giao dịch  trên khắp thế giới mà thị trường giao sau đã mang lại lợi ích trực tiếp cho các thành  phần tham gia cũng như góp phần bình ổn giá cả, tạo ra môi trường kinh doanh lành  mạnh.  Trong phần tiếp theo chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về thị trường giao sau với  cách thức giao dịch như thế nào? Chức năng của nó trong hệ thống tài chính?...  1.2.  Tổng quan về thị trường giao sau  Thị trường giao sau là nơi mà hàng hóa được giao dịch tập trung tại một sàn  giao dịch, trong đó người bán và người mua gặp nhau trên thị trường với một mức  giá được chấp nhận và hàng hóa được chuyển giao khi đến một ngày đặc biệt được  ấn định  trong  tương  lai. Tất cả giao dịch đều được  thông qua một  trung gian môi  giới của sàn với những tiêu chuẩn khắt khe về số lượng và chất lượng của hàng hóa.  Hàng hóa ở đây bao gồm hàng hóa thông thường như lúa mì, cà phê, cao su,… và  hàng hóa tài chính như trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi, vàng, ngoại tệ, đồng, bạc,…  Thị trường giao sau rất khác biệt so với thị trường giao ngay và thị trường kì  hạn. Trước tiên là khác biệt về ngày giao hàng, trong giao dịch giao ngay là mua đứt  bán đoạn, còn hợp đồng giao sau là giao vào một ngày thỏa thuận trước với mức giá  định  trước. Tiếp đến  là cách  thức giao dịch, hợp đồng giao sau  thường được giao  dịch trên một sàn giao dịch chính thức mang đầy đủ tính pháp lý, người bán, người  mua cần phải thực hiện kí quỹ trên tài khoản phong tỏa để đảm bảo thực hiện nghĩa  vụ trong giao dịch. Trên thị trường này có thể tóm gọn lại chỉ có hai chủ thể, một là  người tham gia phòng ngừa (hegding), họ luôn muốn hàng hóa được bảo hiểm giá  trước sự biến động khôn lường của thị trường. Hai là người đầu cơ (speculator), họ  luôn muốn kiếm  lợi nhuận dựa  trên dự đoán chủ quan về giá cả  thị  trường, họ sẽ  chốt lời hoặc chốt  lỗ bằng cách chốt “vị  thế” mua­bán  trong thị  trường, số tiền họ  được hoặc mất sẽ không vượt quá giá trị kí quỹ phong tỏa. Trên thực tế, có 2% hợp  đồng đã  thỏa  thuận  được  chuyển  giao,  kết  thúc  “vị  thế” mua­bán  luôn  được  lựa  chọn nhiều khi đầu tư trên thị trường hàng hóa giao sau. 6  Điều khác biệt  tiếp theo là ở các đặc điểm của hợp đồng giao sau như: giá  cả,  trung  tâm  thanh  toán bù  trừ, nghiệp  vụ  phòng ngừa  rủi  ro biến động giá, đầu  cơ…  1.2.1.  Giá cả và các yếu tố quyết định  Giá cả được quyết định bởi các điều kiện cung cầu, nếu  trên  thị  trường có  nhiều người mua hơn người bán, giá hàng hóa sẽ tăng lên nhanh chóng, ngược lại  trên  thị  trường mà người mua  ít hơn người bán, giá  sẽ giảm. Vậy  từ đâu mà hình  thành nên các điều kiện cung cầu.  Đó là do các lệnh đặt mua và bán khắp nơi  trên thế giới đổ về và được tập  trung tại sàn giao dịch hàng hóa. Những lệnh này khi được nhập vào sàn giao dịch  thì sẽ trở thành các hợp đồng giao sau với những điều kiện ràng buộc nhất định giữa  bên bán và bên mua. Đối với các hợp đồng khác thì giá cả được hình thành trên mặt  bằng chung là thỏa thuận, nhưng giao dịch giao sau thì không, nó có nhiều hệ thống  đấu giá được kết nối với bảng điện tử của sàn, những giá này được tự do đặt theo ý  muốn chủ quan của nhà đầu  tư và được chuyển đến sàn  thông qua hệ  thống máy  tính kết nối. Sự đặt giá này được đặt trong một khoản thời gian quy định, đây được  gọi là giờ giao dịch. Theo đó sẽ có nhiều loại lệnh khác nhau được đặt tùy vào tính  chất đầu tư của cá nhân, ví dụ như lệnh thị trường, lệnh giới hạn, lệnh dừng lỗ…  Chính vì cơ chế đấu giá và cơ chế vận hành của thị trường giao sau đã làm  giá cả hàng hóa phản ánh đúng giá trị  thực của nó. Mặt khác nếu lạm dụng thì sẽ  gây ảnh hưởng lớn đến hiện tượng đầu cơ giá, tất nhiên luật định sẽ tạo nhiều cản  trở cho các hoạt động đầu cơ giá đó, nhưng tất cả vẫn phải đảm bảo mục đích cơ  bản của sàn giao dịch giao sau là cung cấp cho các thành viên có thể tự do mua bán  các loại hàng hóa khác nhau vì mục đích lợi nhuận. Đồng thời sàn này được hoạt  động vì mục đích phi  lợi nhuận, nhưng mọi giao dịch thông qua sàn cần phải qua  một trung tâm môi giới, tất nhiên nhà đầu tư phải trả một khoản phí hoa hồng nhất  định cho trung tâm này. 7  Ngoài ra, tại sàn giao dịch luôn có một sự hiện diện không thể thiếu của một  trung tâm, đó là trung tâm thanh toán bù trù. Chính trung tâm này đã điều hành hoạt  động của sàn một cách trơn tru và hạn chế sự đầu cơ giá bất hợp pháp của nhà đầu  tư. Vậy  trung  tâm này có chức năng cụ  thể ra sao? Và  tầm quan  trọng của nó  thể  hiện như thế nào?  1.2.2.  Trung tâm thanh toán bù trừ (TTTTBT)  Mọi nhà  đầu  tư  trên  thị  trường hàng hóa  giao  sau  cần phải hiểu  rõ  cơ  chế  hoạt động và chức năng của trung tâm thanh toán bù trừ cũng như hiểu rõ sự vận  hành của thị trường giao dịch giao sau.  Tại mỗi sàn giao dịch đều có một trung tâm thanh toán bù trừ của riêng mình  để đảm bảo giao dịch được thông suốt. Mọi thành viên trên sàn luôn luôn yêu cầu  sự rõ ràng trong giao dịch ở cuối mỗi phiên thông qua trung tâm thanh toán bù trừ,  đồng thời các thành viên này phải thực hiện nghiệp vụ ký quỹ phong tỏa bắt buộc ở  trung tâm thanh toán bù trừ. Đây là yếu tố quy định bắt buộc cho một giao dịch giao  sau, khoản ký quỹ này sẽ đảm bảo các nhà đầu tư thực hiện đúng nghĩa vụ của một  hợp đồng giao sau.  Tùy vào  số  lượng hợp đồng giao dịch mà sẽ  có những quy định  cụ  thể về  lượng tiền cần ký quỹ và cuối mỗi phiên, trung tâm thanh toán bù trừ sẽ thực hiện  chốt  lãi hoặc  lỗ  thông qua  tài khoản này. Ví dụ như  tại  cuối phiên giao dịch, một  quầy môi giới của một nhà đầu tư báo cáo về trung tâm thanh toán bù trừ như sau:  tổng cộng hợp đồng mua giao sau cà phê đã kí kết chuyển giao vào tháng 5 là 100  tấn, tổng hợp đồng bán giao sau cà phê kí kết chuyển giao vào tháng 5 là 50 tấn, nhà  đầu tư này đã có trạng thái “net long” (phòng ngừa vị thế mua) là 50 tấn. Trung tâm  thanh toán bù trừ yêu cầu phải mở tài khoản kí quỹ là 2.000.000VNĐ cho một tấn  thì số tiền bắt buộc kí quỹ là 100.000.000VNĐ.  Thông qua tài khoản kí quỹ, cuối mỗi ngày giao dịch,  trung tâm thanh toán  bù trừ sẽ thực hiện cộng tiền lãi hoặc trừ tiền lỗ vào tài khoản kí quỹ. Hiện tượng  này diễn ra cho đến ngày kết thúc hợp đồng hoặc kết thúc trạng thái mua­bán. Nếu 8  nhà đầu tư lỗ trong giao dịch và số tiền kí quỹ không đủ thì trung tâm thanh toán bù  trừ buộc nhà đầu tư phải thực hiện kí quỹ thêm theo đúng hợp đồng. Với điều này  sẽ ràng buộc bên mua và bên bán thực hiện nghĩa vụ hợp đồng và giúp họ biết trước  khoản lãi lỗ khi đầu tư qua thông báo hằng ngày.  1.2.3.  Ký quỹ  Để đảm bảo các rủi ro trong giao dịch trên thị trường giao sau và tùy thuộc  vào tính chất đầu tư, hệ thống ký quỹ sẽ có những quy định ràng buộc khác nhau.  Chẳng hạn số tiền ký quỹ sẽ khác nhau khá lớn giữa chủ thể phòng ngừa biến động  giá (hedging) và chủ thể đầu cơ (speculator), lúc nào chủ thể đầu cơ giá cũng luôn  chịu  mức  ký  quỹ  cao  hơn.  Số  tiền  ký  quỹ  tùy  thuộc  vào  số  lượng  hợp  đồng  và  những quy định của sàn giao dịch giao sau.  Tuy nhiên, chỉ có ba loại tài khoản ký quỹ :  §  Mức ký quỹ ban đầu  (Initial margin): mức ký quỹ này do  trung  tâm thanh  toán bù  trừ  tại London quy định  dựa  trên những phân  tích  lịch  sử  về biến  động giá cả của các hợp đồng giao sau, nó được xem xét định kỳ, phụ thuộc  vào mức độ biến động. Mức ký quỹ ban đầu được áp dụng cho cả trạng thái  trường/đoản trên cơ sở mỗi hợp đồng, và có thể hoàn lại dựa trên tính thanh  khoản của các trạng thái. Mức ký quỹ thường chiếm khoảng 10­15% giá trị  hợp đồng.  §  Mức ký quỹ duy trì (Maintenance Margin) là số dư tối thiểu trên tài khoản ký  quỹ để duy trì một trạng thái mở sau khi đánh giá lại hàng ngày theo giá trị  thị trường và điều chỉnh lãi lỗ.  §  Mức ký quỹ bổ sung (Margin call): khi số dư tối  thiểu hoặc số tiền ký quỹ  ban đầu bị thiếu hụt theo quy định của trung tâm thanh toán bù trừ, các nhà  đầu  tư cần  thực hiện  ký quỹ  bổ  sung  (margin  call),  khoản ký quỹ  bổ sung  được tính  trên cơ sở chênh  lệch giữa giá  tất  toán  của ngày hôm nay và giá  đêm hôm trước, được tính toán dựa trên mỗi trạng thái mở. 9  1.2.4.  Nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro biến động giá  Giao dịch giao sau xác lập được một thị trường mà người mua người bán trao  đổi mua bán  với những mục đích  khác nhau,  nhưng  chu  vi  lại  thị  trường  chỉ  bao  gồm hai chủ thể. Một là chủ thể phòng ngừa rủi ro biến động giá (hedging), một là  chủ thể đầu cơ (speculator) trong sự biến động giá.  Đối với chủ  thể  tham gia phòng ngừa, họ  thường  là những người  sản xuất,  chế biến, xuất nhập khẩu hàng hóa… khi giao dịch trên thị trường thường luôn đặt  mình ở vị  thế  thích hợp  (phòng ngừa vị  thế mua hoặc phòng ngừa vị  thế bán) để  phòng ngừa, bảo hiểm và hạn chế  rủi ro với sự biến động giá không  thể dự đoán  được. Trong đó, nghiệp vụ phòng ngừa (hedge) có rất nhiều loại, có thể đơn cử một  vài ví dụ như sau:  §  “Long hedge” – “phòng ngừa vị thế mua”: một công ty chuyên xuất khẩu cà  phê nhân đã ký hợp đồng chốt giá bán 100 tấn cà phê cho đối tác nước ngoài.  Lo ngại giá cà phê trên thế giới tăng mạnh (do nhiều yếu tố quyết định như  cung  cầu,  thời  tiết,  năng  suất…)  sẽ  làm  chi  phí  đầu  vào  tăng  mạnh,  ảnh  hưởng trực tiếp đến sự cạnh tranh giá cả trên thị trường. Chính vì vậy, công  ty  quyết  định  tham gia bảo hộ  giá  trên  thị  trường giao  sau. Giả định  rằng,  công ty muốn mua 100 tấn cà phê trong một tháng kể từ hôm nay, nhà quản  lý sẽ đặt lệnh mua cà phê bằng hợp đồng giao sau để giảm thiểu rủi ro khi giá  tăng lên. Theo quy định trên sàn 10 tấn  là  tối  thiểu cho mỗi hợp đồng giao  sau, vì vậy, công ty cần mua 10 hợp đồng giao sau. Trong bảng dưới sẽ cho  thấy sự biến động giá cà phê và lợi nhuận đạt được của 10 hợp đồng giao sau  này, giả định các hợp đồng này được định giá bằng VNĐ, Ft là giá giao sau  của hàng hóa, Sn là giá giao ngay và loại trừ mọi chi phí giao dịch.  Ngày  Vị thế  Ft (triệu đ)  Tích lũy  15/8/2010  Mua 10 HĐ giao sau  25  Sn – 25  15/9/2010  Bán 10 HĐ giao sau  27  27 – Sn  Tích lũy khi đến hạn  100*(27 – 25) = 200 10  Đến cuối tháng, giá cà phê trên thị trường giao sau tăng từ 25 triệu VNĐ mỗi  tấn  lên 27  triệu VNĐ. Công  ty  sẽ  tiến hành bán 10 hợp đồng giao sau này để kết  thúc vị  thế mua vào  ngày  15/9/2010,  lúc  này  công  ty  đã  tích  lũy  được khoản  lợi  nhuận ròng từ bảo hộ trên thị trường giao sau là 200 triệu VNĐ chỉ sau 1 tháng để  bù vào chi phí đầu vào gia tăng khi mua giao ngay cà phê.  §  “Short hedge” – “ phòng ngừa vị thế bán”: một chủ trang trại cà phê dự tính  bán 50 tấn cà phê sẽ thu hoạch vào tháng sau. Người này muốn chắc chắn sẽ  bán được giá nên đã quyết định bán chúng trên thị trường giao sau để bảo hộ  trường hợp  giá  cà  phê  trên  thế  giới  giảm  xuống. Đối  với  sàn  giao  dịch  cà  phê, giá trị nhỏ nhất cho mỗi hợp đồng giao sau cà phê được giao dịch là 10  tấn. Vì vậy ông ta phải thực hiện bán 5 hợp đồng giao sau cà phê. Bảng dưới  sẽ cho thấy sự biến động giá và kết quả bảo hộ giá từ hợp đồng này. Trong  đó, cà phê được định giá bằng VND, chi phí giao dịch không đáng kể. Giá cà  phê trong tháng ngày một tăng lên, đến 27 triệu đồng mỗi tấn, lúc này nếu để  đến hạn ông ta sẽ bị mất khoản tiền khá lớn. Khôn ngoan hơn hết là chốt vị  thế bán, chấm dứt hợp đồng.  Ngày  Vị thế  Ft (triệu đ)  Tích lũy  24/8/2010  Bán 5 HĐ giao sau  25  25­Sn  24/9/2010  Mua 5 HĐ giao sau  27  Sn­27  Tích lũy khi đến hạn  50*(25­ 27)= ­150.000  1.2.5.  Nghiệp vụ đầu cơ trên thị trường giao sau  Thị  trường  giao  sau  luôn  tồn  tại  tính  công  bằng  trong  giao  dịch,  đối  với  những nhà kinh doanh tham gia phòng ngừa biến động giá, họ có thể bán hàng hóa  ở mức giá tốt hơn hoặc loại bỏ vị thế trên thị trường giao sau để giao dịch hàng hóa  trên  thị  trường giao ngay. Với những khoản  tiền bị mất do dự đoán giá hàng hóa  giao sau sẽ được chuyển tiếp cho những nhà đầu cơ, những người dám cược chiều 11  ngược  lại của giá  hàng hóa. Họ cũng chính  là  thành phần không  thể  thiếu của  thị  trường.  Có thể lấy một ví dụ đơn giản. Thị trường sản phẩm dầu thô giao ngay đang  từng ngày tăng giá, cùng với các yếu tố vĩ mô khác, nhà đầu cơ dự đoán rằng trong  một tháng tới, giá dầu thô sẽ tiếp tục tăng lên nên đã mua 10 hợp đồng giao sau trên  thị  trường NYMEX, mỗi hợp đồng là 1.000 barrels (barrels  là đơn vị  tính của dầu  thô). Đến khi đáo hạn nhà đầu cơ này đã bị lỗ 20.000 USD, tuy nhiên, khoản lỗ này  đã được trừ theo từng ngày giao dịch với tài khoản ký quỹ, nên có thể theo dõi sát  tình hình biến động lỗ lãi. Ngoài ra, trong đa số trường hợp trên nhà đầu cơ thường  cắt lỗ của hợp đồng bằng cách đóng trạng thái vị thế.  Ngày  Vị thế  Ft  Tích lũy  3/8/2010  Mua 10 HĐ giao sau  $36  Sn­$36  3/9/2010  Ban 10 HĐ giao sau  $34  $34­Sn  Tích lũy khi đến hạn  10.000*($34­$36)=­20.000  Theo nhiều nhận định, đầu cơ trên thị  trường giao sau chẳng khác nào một  trò cờ bạc. Điều này không đúng bởi một trò cờ bạc sẽ không tạo được một giá trị  hàng hóa cho nền kinh tế mà luôn đối diện với nhiều rủi ro. Hoạt động đầu cơ được  luật pháp công nhận và nhà đầu cơ có thể lựa chọn chuyển giao hàng hóa khi đến  hạn hoặc kết thúc vị thế bằng các hợp đồng ngược hợp đồng ban đầu, từ đó sẽ đánh  giá chính xác lượng cung cầu thực sự của thị trường hàng hóa. Cũng nhờ các hoạt  động đầu cơ (dĩ nhiên là hoạt động trong khuôn khổ quản lý của pháp luật) đã tăng  thêm tính thanh khoản cho các hợp đồng giao dịch trên thị trường này.  1.3.  Lợi  ích  và  rủi  ro  của  thị  trường  giao  sau  từ  những  nghiên  cứu  thực  nghiệm trên thế giới  Thị trường giao sau đầu tiên trên thế giới ra đời tại thành phố Chicago (Hoa  Kỳ). Ngày nay, thị trường giao sau đã vượt xa khỏi giới hạn của hợp đồng nông sản  ban đầu, với những lợi ích rõ ràng của mình, nó trở thành công cụ tài chính để bảo 12  vệ các loại hàng hóa truyền thống và cũng là một trong những công cụ đầu tư hữu  hiệu nhất  trong  ngành  tài  chính. Thị  trường giao  sau hiện nay  hoạt động  liên  tục  thông qua hệ thống Globex nối liền 12 trung tâm tài chính lớn trên thế giới. Sự thay  đổi  giá  cả  của  các  loại  hàng  hóa  chuyển  biến  từng  giây  một  và  gây  ảnh  hưởng  không chỉ đến nền kinh tế của một quốc gia mà cả khu vực và toàn thế giới.  Tuy nhiên trước khi thị  trường giao sau phát triển và phổ biến rộng rãi như  hiện nay thì trước đó đã xảy ra rất nhiều tranh cãi giữa những nhà kinh tế học về lợi  ích và rủi ro mà thị trường này mang lại. Thị trường giao sau cũng từng bị cáo buộc  là nguyên nhân gia tăng nạn đầu cơ gây biến động giá cả khôn lường và không cần  thiết, những người này cũng đồng thời cho rằng thị  trường giao sau chỉ có lợi cho  nhà đầu cơ thao túng giá cả và đi ngược lại lợi ích của người nông dân và người tiêu  dùng,  các  cáo  buộc  cho  rằng  nó  không  chỉ  bóp méo  giá  cả mà  còn  tiếp  tay  cho  những hoạt động phi pháp để làm giàu, do đó đã có một số nước trong thời kỳ đầu  đã thực thi lệnh cấm giao dịch giao sau đối với một số loại hàng hóa nhất định, điển  hình là Ấn Độ  trong các thập niên 50 và 60. Bên cạnh đó cũng có quan điểm cho  rằng thị trường giao sau là công cụ đắc lực trong việc kiểm soát giá cả, ổn định sản  xuất và quyết định đầu tư trong nền kinh tế. Nếu dựa vào mức độ  tranh luận giữa  những nhà phê bình với những người ủng hộ thị trường giao sau để cân nhắc lợi ích  và rủi ro của nó sẽ là một nhiệm vụ không dễ dàng nếu không có những bằng chứng  thực  nghiệm.  Trong  phần  dưới  chúng  ta  sẽ  đi  tìm  hiểu  một  số  nghiên  cứu  thực  nghiệm của các nhà kinh tế học nhằm giải đáp những câu hỏi liên quan đến lợi ích  và rủi ro của thị trường hàng hóa giao sau.  Học giả Pavaska (1970) cho rằng các nhà phê bình đã sai  lầm khi cho rằng  các nhà đầu cơ làm trầm trọng sự tăng giá bằng cách kiếm lợi nhuận trong thời gian  dài trên thị trường giao sau. Ông cho rằng sự thiếu vắng cơ chế thị trường giao sau,  mức  độ  biến  động  giá  giao  sau  tương  ứng  có  thể  khiến  các  thương  nhân  và  các  thành phần khác lo tích trữ hàng hóa, điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến giá cả  hơn so với bất kỳ một tác động nào khác của những giao dịch giao sau hợp pháp. 13  Trái với quan điểm ủng hộ việc chính phủ thực hiện cấm các giao dịch giao  sau làm ảnh hưởng xấu đến giá giao ngay, nhà kinh tế học Naik, AS (1970), trong  cuốn sách của mình có tên là "Ảnh hưởng của Giao dịch giao sau lên giá cả", đã cho  thấy rõ ràng rằng sự biến động giá là cao hơn khi không có thị trường giao sau so  với giá khi có thị trường giao sau. Cô đã dẫn chứng bằng ba cây trồng như đay, hạt  lanh và lạc. Theo đó cô  tiến hành xem xét giai đoạn 1951­1952 đến 1965­1966 và  chia thành hai mốc quan trọng ­ (i) khi nền kinh tế không có hoặc có rất ít các giao  dịch giao sau và (ii) khi nền kinh tế có các giao dịch giao sau hiệu quả. Cô đã tính  toán được rằng tỷ lệ phần trăm của tần suất xuất hiện biến động giá thấp tương ứng  với những năm mà các giao dịch giao sau có hiệu quả thì cao hơn những năm không  có giao dịch giao sau (phụ lục III, các trang 99­105).  Trong một cuộc phỏng vấn với báo chí, V. Jayashankar ­ Chủ tịch Hội đồng  Gia vị Ấn Độ ­ đã nói rằng "giá cả hàng hóa biến động nhiều hơn khi không có thị  trường giao sau". Để minh họa cho quan điểm của mình, ông chỉ ra rằng "sự biến  động  của  giá bột  nghệ đã được giới  hạn  ở mức  thấp  nhất  theo  sau  sự  tồn  tại  thị  trường giao sau ở Sangli, Maharashtra, nơi mà biến động giá cả cao hơn so với ở  Chili  [Nền tảng lợi  ích của giao dịch hàng hóa giao sau, PTI New Delhi, ngày 12  tháng 10 năm 1998].  Một giảng viên đại học tại Ấn Độ, ông Basab Dasgupta đã xây dựng một mô  hình lý thuyết để giải quyết các vấn đề được đề cập ở trên và đưa ra câu trả lời cụ  thể. Trước khi xây dựng các mô hình để mô tả vai trò của thị trường giao sau, ông  cũng đã đề cập đến một số lý thuyết và kết quả thực nghiệm có ảnh hưởng đến nó.  T.W. Schultz  (1949) dựa và 3  tiêu chí dưới đây để  tìm  ra tác động của giá  nông sản  lên  các quyết  định  sản xuất  thông qua mức độ  phân bổ  và  sử dụng  các  nguồn lực.  (1) Những cam kết về nguồn lực cho tương lai lâu dài  (2) Những cam kết cho tương lai gần  (3) Vị thế giao ngay chứa đựng những quyết định chỉ liên quan đến một phần  nhỏ của cả giai đoạn sản xuất. 14  Bằng  chứng  thực  nghiệm  của  ông  cho  thấy  rằng  thị  trường  sữa,  một  sản  phẩm  rất  dễ hư hỏng và không  có  giá  giao  sau  thì việc  phân bổ nguồn  lực  trong  nông nghiệp  là  khá  hiệu  quả. Mặt  khác,  thị  trường  bông hoặc  lúa mì  là  loại  sản  phẩm có thể để lâu và ít tốn chi phí tồn trữ với các dự báo giá giao ngay và giao sau  phát  triển cao  thì việc  tối ưu hóa các nguồn  lực sử dụng để  trồng 2  loại cây quan  trọng này lại kém hiệu quả hơn. Tóm lại, ông kết  luận rằng đối với các hàng hóa  nông nghiệp có thể để lâu thì sự biến động giá càng cao. Ông cũng nói rằng đối với  loại hàng hóa này, cả giá giao ngay và giá giao sau đều không có ý nghĩa đối với  nông dân  trong  việc  lập  ra  kế hoạch  sản xuất  cũng như giá  giao ngay  đối  với  thị  trường của các sản phẩm nông nghiệp dễ hư hỏng.  Tuy nhiên khám phá của Schultz đã có một vài sai sót bởi vì trong hệ thống  thị  trường giao sau, hợp đồng được ký  trước và hàng hóa được  cung cấp sau vào  một ngày  cụ  thể. Như vậy,  trong  trường hợp người bán  có  đầy  đủ hiểu biết hoặc  thông tin về số lượng và chất lượng hàng hóa như vậy sẽ được bán ở mức giá nào,  dựa vào đó ông ta có thể phân bổ lại nguồn lực của mình để gia tăng sản xuất nhằm  đáp ứng theo hợp đồng. Nghĩa là người sản xuất có thể phòng ngừa cho lượng hàng  hóa ông ta đang sản xuất ở thời điểm t và bán giao sau tại thời điểm t +1 khỏi những  rủi  ro  tổn  thất  giá  trị  và  bảo vệ  lợi  nhuận bằng  cách  chuyển  những  rủi  ro đó  cho  người khác. Do đó, khoản phí ông ta phải  thanh  toán để ngăn chặn hàng hóa của  mình khỏi những rủi ro phụ thuộc vào xác suất xảy ra rủi ro và đơn giá phòng ngừa.  Masahiro Kawai (1983) trình bày một mô hình lý thuyết giải thích ảnh hưởng  của thị trường hàng hóa giao sau lên quá trình hình thành giá và lợi ích chung của  toàn xã hội  trên nền tảng những kỳ vọng hợp lý. Ông đã tính  toán ảnh hưởng của  giá giao ngay lên sản xuất và sau đó dẫn giải khả năng của thị trường giao sau trong  mô hình. Ông đã chỉ ra rằng mức độ tối ưu của sản xuất chỉ phụ thuộc vào giá cả  giao sau và hệ số chi phí. Theo ông, số lượng hợp đồng giao sau được xác định bởi  mức tối ưu của sản xuất và đầu cơ phản ánh sự khác biệt giữa kỳ vọng chủ quan của  nhà  sản  xuất  về  giá  giao ngay thời  gian  tới  và giá  giao sau  tương ứng. Kawai đã  không xem xét đến  tác động của những biến động trong kế hoạch sản xuất đến  thị 15  trường giao sau. Hơn nữa, những quyết  định  trong  sản  xuất được  thực hiện  hoàn  hoàn toàn độc lập với những quyết định về giao dịch giao sau bất chấp rủi ro và xác  suất của giá giao ngay. Ông cũng lập luận rằng nhà sản xuất sử dụng hợp đồng giao  sau không chỉ để phòng ngừa rủi ro biến động giá mà còn để tìm kiếm cơ hội đầu  cơ.  Quay trở lại mô hình của Basab Dasgupta, biến động trong sản xuất đóng vai  trò quan trọng trong sự hình thành sản xuất cũng như quyết định thị trường giao sau.  Xem xét biến động trong thị  trường hàng hóa giao sau  là rất quan trọng trong bối  cảnh của hầu hết các nước đang phát triển. Sự bất ổn trong sản xuất nông nghiệp là  một hiện tượng phổ biến ở các nước đang phát triển bởi vì sự phụ thuộc vào thời tiết  ­ một yếu tố ngẫu nhiên.  Kết quả là sự bất ổn định cao của giá các mặt hàng nông nghiệp dẫn đến thu  nhập  nông nghiệp  không đảm bảo. Nhiều  chính  phủ  đã  có  biện  pháp  chính  sách  khác nhau theo thời gian để giảm biên độ biến động giá để giảm bất lợi cho người  sản xuất và người  tiêu dùng. Những biện pháp, chính sách bao gồm  can  thiệp giá  trực tiếp như ấn định giá hỗ trợ tối thiểu, dự trù giá và kiểm soát giá cả, những hợp  đồng giao sau trên nền tảng tương tự cũng được coi là một trong những công cụ như  vậy.  Lapan, Moschini  và  Hanson  (LMH)  (1991)  đã  phân  tích  việc  sản  xuất  và  quyết định phòng ngừa rủi ro của một công ty trên cả hai thị trường giao sau và thị  trường quyền chọn bằng cách sử dụng mô hình tối ưu hóa kỳ vọng. Với các giả định  rằng các hàng hóa được giả định là có đặc tính không thể dự trữ, họ đã chứng minh  rằng giá giao sau và chênh lệch giữa nó với giá giao ngay là nguồn gốc duy nhất của  tính không ổn định. Các tác giả cũng chỉ ra rằng đầu ra phụ thuộc vào giá giao sau  tại  thời điểm hiện tại chứ không phụ thuộc vào giá giao sau tại  thời điểm kết  thúc  hợp đồng (Lapan HG, Moschini và S. Hanson năm 1991, trang 66­74).  Cả Kawai và LMH đều cho  rằng quyết định sản xuất không phụ  thuộc vào  giá giao sau nhưng họ hầu như đã bỏ qua các quyết định tồn trữ hàng hóa bằng cách  giả định rằng hàng hóa không thể lưu giữ. 16  Mô hình của Basab Dasgupta là một phần mở rộng của mô hình LMH nhưng  phức tạp hơn nhiều. Trong mô hình này, ông không chỉ xem xét những mặt hàng có  thể lưu trữ mà bao gồm các biến động sản xuất. Kết quả là, quyết định sản xuất của  nhà  cung  cấp  không  chỉ phụ  thuộc vào  giá  giao  sau  kỳ vọng mà còn  cả  các biến  động  sản xuất dự kiến  ảnh hưởng đến quyết định phân bổ  nó cho  thị  trường giao  ngay và giao sau.  Nói tóm lại, qua rất nhiều tranh luận thông qua những mô hình lý thuyết và  bằng chứng thực nghiệm của các nhà kinh tế học, cho đến nay thị trường giao sau  đã chứng minh được lợi ích của mình trong việc cung cấp công cụ phòng ngừa rủi  ro biến động giá cho các nhà sản xuất, đương nhiên trong thị trường này vẫn tồn tại  những rủi ro là sự phát triển mạnh của các nhà đầu cơ, tuy nhiên các chính phủ chỉ  cần  kiểm  soát  hoạt  động  này  trong  khuôn  khổ  luật  pháp  cho  phép  thì  nó  không  những không gây hại cho nền kinh tế mà còn có tác dụng làm tăng tính thanh khoản  cho thị trường này.  1.4.  Thực trạng ứng dụng Hợp đồng Giao sau trên thế giới  1.4.1.  Thực trạng Giao sau trên thế giới  Thế giới ngày nay đang bước vào nền kinh tế toàn cầu hóa. Bất kỳ sự thay  đổi nào của tình hình kinh tế thế giới cũng đều ảnh hưởng đến nền kinh tế của quốc  gia. Ngược  lại,  sự chuyển biến  trong nền kinh  tế quốc gia cũng  tác động đến  tình  hình kinh tế trong khu vực hay trong phạm vi thế giới.  Toàn  cầu  hóa  mang  lại  nhiều  thuận  lợi  nhưng  đồng  thời  cũng  mang  đến  nhiều khó khăn. Những khó khăn đó chính là rủi ro có thể nhận thấy và rủi ro tiềm  ẩn. Các rủi ro này tồn tại một cách ngẫu nhiên trong tất cả quá trình sản xuất, kinh  doanh, quản lý. Chúng hoàn toàn có thể làm cho nhà đầu tư mất sạch tiền, công ty  phá sản và nền kinh tế của một quốc gia suy sụp. Đối mặt trước những nguy cơ đó,  các  phái  sinh  tài  chính  như  hợp  đồng  giao  sau  (Futures),  hợp  đồng  quyền  chọn  (Option),  hợp  đồng hoán  chuyển  lãi  suất  (Swap)… ngày  càng  được  sử  dụng một  cách rộng rãi  trên toàn thế giới như là những công cụ chủ yếu và không thể thiếu 17  được trong việc quản lý rủi ro. Tất cả mọi người đều có thể tham gia vào thị trường  này ở bất cứ nơi đâu và bất cứ khi nào  thông qua hệ  thống GLOBEX nối  liền 12  trung  tâm  tài  chính  thế  giới  (Bermuda,  Boca Raton, Chicago, Geneva, Hamburg,  Hong Kong, London, New York, Paris, Singapore, Tokyo, Zurich).  1.4.2.  Thành tựu của thị trường giao sau trên thế giới  1.4.2.1.  Các sàn giao dịch giao sau  Giao dịch giao sau xảy ra trên hơn 50 sàn giao dịch giao sau khắp thế giới.  Do tính chất của giao dịch toàn cầu, đặc biệt là khi được tự động hóa hoàn toàn, nên  đây chính là điều kiện liên kết các sàn giao dịch lại với nhau. Ví dụ Sàn Giao Dịch  Chicago (CME) và Sàn Giao Dịch Tiền Tệ Quốc Tế Singapore (SIMEX) được liên  kết chặt chẽ đến độ mà giao dịch mở một vị thế Eurodolars trên một sàn giao dịch  này và có thể đóng vị thế lại trên một sàn giao dịch khác. Chính do sự liên kết giữa  các sàn giao dịch ở khắp nơi trên thế giới đã ngày càng làm tăng thêm tính phổ biến  của thị trường này.  Theo số liệu trên tạp chí Futures Industry phát hành tháng Giêng/tháng Hai  năm 2002, có khoảng 316 triệu hợp đồng được giao dịch tại CME trong năm 2001.  CBOT có khối lượng giao dịch gần 210 triệu đồng. Sàn giao dịch giao sau bận rộn  nhất trên thế giới là EUREX, là sàn giao dịch liên kết giữa Đức và Thụy Sĩ đã giao  dịch trên 435  triệu hợp đồng. Sàn giao dịch giao sau  tài chính quốc  tế Luân Đôn  giao dịch trên 161 triệu hợp đồng. Futures Industry ước tính số lượng hợp đồng giao  sau giao dịch trên thế giới năm 2001 là 1,8 tỷ hợp đồng trong đó 1/3 số lượng giao  dịch này là từ Mỹ.  1.4.2.2.  Sự phát triển của thị trường giao sau tài chính  Vào năm 1976, thị trường tiền tệ quốc tế đã giới thiệu hợp đồng giao sau đầu  tiên trên trái phiếu chính phủ và các công cụ tài chính ngắn hạn là trái phiếu kho bạc  T­Bill Mỹ loại 90 ngày. Hợp đồng này đã được giao dịch rất năng động trong nhiều  năm liền nhưng sau đó đã giảm dần do những thành công mang lại từ các hợp đồng  giao sau Eurodollar ­ dạng giao dịch đã được phát triển mạnh mẽ trong những năm  thập niên 1980. 18  CBOT bắt đầu giao dịch giao sau trái phiếu T­Bond Mỹ vào năm 1977 ­ loại  hợp đồng giao sau thành công nhất trong các thời kỳ. Chỉ trong vòng một vài năm,  công cụ này trở thành hợp đồng giao dịch năng động nhất và vượt qua cả hợp đồng  giao sau ngũ cốc, vốn đã tồn tại hơn một thế kỷ trước đây.  Vào  thập  niên  1980,  hợp  đồng  giao  sau  chỉ  số  chứng  khoán  đã  đạt  được  những thành công cao độ. Công cụ này là chiếc cầu nối giữa các nhà giao dịch cổ  phiếu tại New York và các nhà giao dịch giao sau tại Chicago. Tại Mỹ, chỉ sau một  vài năm đã có hợp đồng giao sau chỉ số trung bình công nghiệp Dow Jones, một chỉ  số tên tuổi trên thị trường chứng khoán .  Hợp đồng giao  sau chỉ  số  chứng khoán đã  thành  công vang dội khắp  toàn  cầu. Hầu hết các nước phát triển đều có sàn giao dịch giao sau riêng cho hợp đồng  chỉ  số  chứng khoán hoạt  động. Một  số  nước  có  hợp đồng  giao  sau  chỉ  số  chứng  khoán phổ biến gồm Anh, Pháp, Nhật, Đức, Tây Ban Nha và Hongkong  1.4.3.  Thị trường giao sau ở Việt Nam  Trong điều kiện hiện nay, các thành phần kinh tế luôn phải đối mặt với các  rủi ro về giá cả, thông tin, thị trường (nguồn hàng, cung ­ cầu) và tỷ giá trong hoạt  động xuất nhập khẩu. Những rủi ro này không chỉ ảnh hưởng đến những người trực  tiếp sản xuất, kinh doanh mà ảnh hưởng đến cả nền kinh tế. Tuy nhiên, hầu hết các  thành phần kinh tế Việt Nam chỉ biết chấp nhận vì chưa có công cụ bảo vệ rủi ro.  Trong những năm gần đây, khi tiếp xúc làm ăn với nước ngoài, chúng ta dần  dần biết được những phương cách bảo hộ rủi ro trên thị trường tài chính phái sinh.  Một số doanh nghiệp đã sử dụng công cụ này để bảo hộ cho hoạt động kinh doanh  của mình và dựa vào thông tin, giá cả trên các thị trường này để điều tiết sản xuất,  không còn lo bị ép giá. Việt Nam đang tổ chức các chợ đầu mối, các trung tâm giao  dịch  và  tiến  tới  hình  thành  các  thị  trường  giao  sau  về  nông  sản.  Trong  lĩnh  vực  ngoại hối, Chính phủ đã  cho  phép  sử dụng hợp đồng quyền  chọn để bảo  vệ hoạt  động kinh doanh xuất nhập khẩu. Tuy muộn màng so với xu thế phát triển thế giới  nhưng sự khởi đầu này cũng là một tín hiệu đáng mừng cho nền kinh tế Việt Nam. 19  Hợp đồng giao sau được ứng dụng rộng rãi trên thế giới để phòng ngừa rủi ro, thu  hút các nhà đầu cơ tham gia và kích  thích phát  triển kinh  tế. Là bộ phận của nền  kinh tế thế giới, chịu rủi ro từ những biến động kinh tế toàn cầu, Việt Nam nên học  hỏi xây dựng Sàn giao dịch giao sau phục vụ cho mục đích phòng ngừa rủi ro, tạo  đà cho kinh tế phát triển vững bền.  1.5.  Sự cần thiết của việc ứng dụng Thị trường giao sau để phòng ngừa rủi ro  biến động giá cà phê tại Việt Nam hiện nay  Hợp đồng giao sau là một khái niệm khá mới về mặt kinh tế lẫn trong khoa  học pháp  lý  tại Việt Nam nhưng có  tiềm năng to  lớn cho nền kinh  tế, đặc biệt  là  những  giải  pháp  hiệu  quả  cho  những nhà  sản  xuất  kinh  doanh  cà  phê Việt Nam  thoát khỏi tình trạng bấp bênh, rủi ro trong làm ăn nói riêng.  Thị trường hàng hoá giao sau đã và đang tiếp tục chứng minh là một công cụ  hữu hiệu đối với việc khắc phục những ách tắc trong lưu thông của một nền kinh tế  vận hành theo cơ chế thị trường; góp phần làm đa dạng hoá các hình thức lưu thông  và đóng vai trò như một công cụ bảo hiểm đối với những nhà sản xuất.  Đối với nền kinh tế bao cấp không vận hành theo cơ chế thị  trường thường  không gặp phải những yếu tố rủi ro do thị trường mang lại. Ngược lại, nền kinh tế  vận hành theo cơ chế thị trường thì rủi ro từ phía thị trường đối với những nhà sản  xuất trực tiếp thường là rất lớn đặc biệt là trong điều kiện hội nhập như hiện nay.  Điều đáng  lưu  ý  là  hợp đồng giao  sau  tạo  nên  tính  thanh  khoản đồng  thời  tránh được rủi ro biến động giá cả cho các bên tham gia. Khác với đánh bạc và cá  cược, phòng ngừa rủi ro bằng hợp đồng giao sau tuy thường được dùng để đầu cơ  nhưng nó không chỉ tạo ra lợi ích cho chính người tham gia hợp đồng; mà cao hơn  là nó giúp cho thị  trường tài chính trở nên hoạt động hiệu quả hơn,  tạo cơ hội  tốt  cho việc phòng ngừa rủi ro. Đây cũng là ưu điểm nổi  trội nhất của hợp đồng giao  sau so với kỳ hạn.  Cà phê là một mặt hàng nông sản có đầu ra khá ổn định,  thế nhưng ngành cà phê  Việt Nam lại đang chịu ảnh hưởng rất lớn từ sự bất ổn giá cả đẩu ra. Trong khi đó, 20  hợp đồng giao sau lại là công cụ phòng ngừa rủi ro cho hàng hóa đã được áp dụng  và  rất  thành  công  trên  thế  giới như đã  trình bày ở mục 1.4. Việc  áp dụng những  công cụ này vào thị trường cà phê sẽ là một bước tiến, thúc đẩy ngành cà phê Việt  Nam phát triển ổn định và bền vững, giúp người nông dân trồng cà phê yên tâm sản  xuất và đảm bảo lợi nhuận mong muốn. Với mục tiêu đó, cuối năm 2008 Trung tâm  giao dịch  cà phê Buôn Ma Thuột  ra đời  với  rất  nhiều  kỳ  vọng:  xây  dựng  thương  hiệu cho cà phê VN, gắn kết sản xuất với thị trường, khắc phục những hạn chế trong  hoạt động kinh doanh xuất khẩu truyền thống.  Kết luận chương I  Chiến  lược phòng ngừa  rủi  ro  biến  động giá  bằng  việc  sử  dụng hợp đồng  giao sau là một công cụ hữu dụng trong ngắn hạn và trung hạn để bảo vệ thu nhập  cho nhà sản xuất và kinh doanh, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp, khu vực có  nhiều sản phẩm có thể thực hiện tồn trữ và bán giao sau. Tuy chịu nhiều tác động  của rủi ro (rủi ro giá cả,  lãi suất,  thời  tiết…) nhưng nếu xây dựng được thị  trường  giao  sau  các mặt  hàng  nông  sản  tại Việt Nam  thì  người  nông dân  và  các  doanh  nghiệp  sản  xuất  nông  sản  vẫn  có  thể  đương đầu  với  rủi  ro  và  kinh doanh  có  lợi  nhuận. 21  CHƯƠNG II: RỦI RO BIẾN ĐỘNG GIÁ TẠI THỊ TRƯỜNG  CÀ PHÊ VIỆT NAM VÀ KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG HỢP  ĐỒNG GIAO SAU VÀO GIAO DỊCH CÀ PHÊ  2.1. Rủi ro biến động giá tại thị trường cà phê Việt Nam:  2.1.1.  Rủi ro biến động giá do giá xuất khẩu phụ thuộc vào giá thế giới  2.1.1.1.  Tìm hiểu biến động giá cà phê trên thế giới thời gian qua  Cây  cà  phê  lần  đầu  tiên được  phát  hiện  ở  Ethiopia  cách  đây  khoảng  2000  năm, cùng với sự phát triển không biên giới của thị trường thương mại, cà phê đã có  mặt ở hầu hết các nước châu Á, Châu Phi và Châu Âu. Hai loại cà phê được giao  dịch thương mại nhiều nhất là cà phê Arabica (gọi tắt là Arabica) và cà phê Robusta  (gọi tắt là Robusta).  Biểu đồ 2.1: Tỷ trọng sản lượng cà phê của các nước và khu vực trên thế  giới vụ mùa 2008/2009  Nguồn: www.ico.org  Mặc dù cây cà phê được trồng đầu tiên ở Ethiopia nhưng từ giữa thế kỷ 19  Brazil  đã  là  nước dẫn đầu  về  sản  lượng,  hàng  năm chiếm khoảng  trên 30%  tống  lượng xuất khẩu thế giới. Việt nam là một thị trường xuất khẩu lớn, từ thập niên 90 22  đã  vươn  lên  là  nước  đứng  thứ  hai  thế  giới  về  sản  lượng  xuất  khẩu,  thứ  3  là  Colombia. Hiện nay, với 2 đại diện là Brazil và Colombia, Nam Mỹ trở thành khu  vực có thị phần cà phê lớn nhất thế giới chiếm khoảng 47% tổng sản lượng cà phê  toàn thế giới. Tiếp đó là khu vực Châu Á và Châu Đại Dương, Mehico và các nước  Trung Mỹ cùng chiếm 13%, khu vực Châu Phi chiếm 12%.  Để có thể thấy rõ biến động giá cà phê thế giới thời gian qua, chúng ta cùng  xem biểu đồ 2.2 ở dưới.  Biểu đồ 2.2: Giá cà phê thế giới và giá cà phê robusta thế giới hàng năm  giai đoạn 1994­2009 (US cents/lb)  Nguồn: www.ico.org  Từ biểu đồ ta thấy giá bình quân biến động lớn. Độ co giãn theo giá của cung  là thấp trong ngắn hạn và tăng lên trong dài hạn. Độ co giãn theo giá của cầu cà phê  là  thấp trong ngắn hạn và dài hạn. Chính vì tính co giãn theo giá của cung cầu cà  phê thấp trong ngắn hạn nên giá cà phê thường xuyên biến động trên thị trường thế  giới.  Năm 1994 đợt sương muối tại Brazil làm cung thế giới giảm sút đột ngột và  giá  tăng  cao. Giá  tăng  khuyến  khích  người  trồng  cà  phê mở  rộng  diện  tích,  sản  lượng cà phê thế giới tăng liên tục từ 94 triệu pound năm 1990 lên 129 triệu pound 23  (đơn vị tính tương đương khoảng 0,45kg), đây cũng là nguyên nhân chính của việc  giá cà phê thế giới giảm mạnh bắt đầu từ năm 1997.  Sản xuất vượt  tiêu dùng trong những năm 1998­2003 cộng với sự phục hồi  của Brazil và tăng trưởng đột biến của Việt Nam làm cho giá cà phê thế giới giảm  và lâm vào khủng hoảng. Lượng dự trữ tăng 10 triệu pound năm 1997 lên 70 triệu  pound năm 2003. Cung cà phê toàn cầu tăng nhanh hơn cầu cà phê dẫn đến dư thừa.  Từ nửa cuối năm 1997 giá cá phê giảm liên tục đến mức thấp nhất vào năm 2001,  giá trung bình của cà phê rơi từ 180 USD/ pound đến dưới 40 USD/ pound. Giá cà  phê thế giới tiếp tục thấp cho đến năm 2004 kể từ khi có được một số phục hồi về  giá, nhưng vẫn còn  thấp hơn mức đã chứng kiến  trong năm 1990. Giá cà phê  thế  giới  giảm xuống mức  thấp  kỷ  lục  trong  vòng 40 năm  trước đó,  giảm xuống dưới  mức giá thành làm cho ngành cà phê nói chung và người trồng cà phê nói riêng chịu  thiệt hại nặng nề.  Đến  năm 2008  thị  trường  cà phê  thế giới bắt  đầu phục hồi. Tuy nhiên  các  nước xuất khẩu cà phê vẫn tập trung đến việc tăng sản lượng hơn là quan tâm cải  thiện chất lượng cà phê xuất khẩu do đó giá cà phê thế giới vẫn liên tục nhảy múa  trong niên vụ 2008/2009.  Theo  dự  báo  mới  nhất  của  ICO,  sản  lượng  cà  phê  toàn  cầu  niên  vụ  2010/2011 sẽ đạt mức 133­135 triệu pound; tiêu dùng cà phê năm nay sẽ phục hồi  nhưng cũng chỉ ở mức 129 triệu pound. So với mức sụt giảm hồi đầu năm nay, hiện  giá cà phê đang ở mức cao nhưng nhiều dự báo cho rằng đây chỉ là sự tăng giá do  hạn chế nguồn cung trong ngắn hạn, bởi hiện mới chỉ có Braxin đang thu hoạch cà  phê. Vào tháng 11­12, khi Côlômbia và các nước Trung Mỹ đưa hàng ra thị trường,  Việt Nam cũng bước vào vụ thu hoạch thì giá cà phê sắp tới sẽ rất khó lường.  Cà phê có ý nghĩa quan trọng đối với nhiều nước trên thế giới. Biến động giá  cà phê đã khiến cho nông dân nhiều nước điêu đứng. Biến động giá cà phê thế giới  đã và đang tiếp tục có những ảnh hưởng tới ngành cà phê Việt Nam, một nước có  khoảng 95% sản lượng được xuất khẩu. 24  2.1.1.2.  Nguyên nhân gây ra bất ổn giá cà phê thế giới  v  Nguồn cung của những nước có sản lượng lớn  Giá cà phê thế giới phụ thuộc rất lớn vào sản lượng của những quốc gia đang  nắm giữ tỷ trọng xuất khẩu lớn như Brazil, Colombia, Việt Nam. Nếu thời  tiết  tại  các nước này diễn biến không tốt có khả năng mất mùa thì giá cà phê sẽ tăng lên và  ngược lại.  Mùa đông Brazil  thường diễn  ra  trong khoảng  từ 21/6 đến 25/8 hàng năm,  đây là thời gian lạnh nhất trong năm, biểu đồ giá cà phê luôn có tỷ lệ nghịch với hàn  thử biểu trong giai đoạn này, chỉ với một bản báo cáo đêm qua nhiệt độ những vùng  trồng đã xuống thấp dưới 0°C hoặc dự báo trong những ngày tới sẽ rất lạnh thì hầu  như ngày hôm sau thế nào giá cũng tăng, hoặc ít nhất là không sụt thêm nữa.  v  Giá trị và khối lượng cà phê giao dịch tại các sàn giao dịch trên thế giới  Lượng cà phê giao dịch trên thế giới ước tính lớn gấp 5 lần (hoặc hơn nữa)  lượng cà phê thực mà nông dân làm ra (sản lượng thế giới khoảng 127 triệu pound  trong vụ 2009). Tức là cũng một bao cà phê ấy thôi, nhưng nhà đầu tư A bán cho  nhà đầu tư B, rồi người này bán cho nhà đầu tư C đều được tính vào lượng giao dịch  hàng ngày trên thị trường.  Điều này có nghĩa là giá cà phê thế giới không chỉ phụ thuộc vào việc Brazil  có bị sương giá hay Việt Nam có bị hạn hán không mà còn phụ  thuộc vào những  nhà  đầu  tư  lớn  dùng  cà  phê  như một mặt  hàng  kiểu  chứng  khoán  cho  việc  kinh  doanh của mình. Vị thế đang phải bán ra với những lô hàng mà họ đã mua vào trước  đó hay cần mua vào những lô hàng để có mà giao hoặc mua vào để chờ giá lên theo  phân tích của họ đều tác động rất lớn đến giá cả.  Giả sử một nhà đầu tư đang ở vị thế bán nhận định Mỹ có khả năng đánh Iran  và giá dầu trong thời gian ngắn có thể tăng lên 100USD/thùng, sau khi tổng hợp và  phân tích tình hình họ có khả năng bán mạnh số cà phê đang nắm giữ dựa trên các  hợp đồng mua giao sau cà phê mà mình đang có để lấy tiền mua dầu vào. Động tác  bán  cà  phê  như  thế  sẽ  ảnh  hưởng  tức  thì  lên  giá  cà  phê  và  tạo  ảnh  hưởng  dây  chuyền. 25  2.1.1.3. Ảnh hưởng của biến động giá cà phê thế giới đến thị trường Việt  Nam  Từ khoảng mười năm trở lại đây, cà phê Việt Nam có vị trí quan trọng và là  nước cung cấp nguyên  liệu cho  thị  trường  thế giới. Đứng sau Brazil, VN là nước  sản xuất cà phê lớn thứ hai thế giới với 15% thị phần. Trên 90% tổng sản lượng sản  xuất ra đều được xuất khẩu, chủ yếu là cà phê robusta nhân sống (cà phê vối) và cà  phê arabica (cà phê chè).  Riêng cà phê Robusta xuất khẩu, VN đứng trên cả Brazil  và trở thành nhà xuất khẩu mặt hàng này lớn nhất thế giới.  Bảng 2.1: Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu cà phê Việt Nam từ năm  2001 đến năm 2009  Năm  Sản lượng xuất khẩu  (tấn)  Kim ngạch xuất khẩu  (USD)  Đơn giá XK bình quân  (USD/tấn)  2001  844,452  338,094,000  400.37  2002  702,017  300,330,000  427.81  2003  693,863  446,547,000  643.57  2004  745,000  576,154,000  773.36  2005  786,025  840,000,000  1,068.67  2006  887,000  1,070,000,000  1,206.31  2007  1,190,000  1,860,000,000  1,563.02  2008  1,060,000  2,135,000,000  2,014.15  2009  1,180,000  1,730,000,000  1,466.10  Nguồn: www.agro.gov.vn, www.vicofa.org.vn và www.giacaphe.com  Hiện nay nước cung cấp cà phê lớn nhất thế giới là Brazin mỗi năm sản xuất  2,5  triệu  tấn cà phê,  trong đó 50% dùng chế biến cà phê hòa  tan  trong nước, một  phần  sản  lượng  cà phê hòa  tan này được xuất  khẩu. Với  hơn 100  triệu dân, bình  quân mỗi  người  dân  tiêu  dùng  4­5kg  cà  phê  thì  lượng  tiêu  thụ  trong  nước  của  Braxin đã khoảng 450.000 tấn nên họ không bị ảnh hưởng bởi giá quốc tế. 26  Còn Việt Nam hiện nay mới chế biến được khoảng 10.000 tấn (bằng 5% tổng  sản lượng), con số quá ít so với 1 triệu tấn cà phê nhân sản xuất ra mỗi năm. Thêm  vào đó,  tiêu dùng nội địa cũng rất  thấp, chưa được 0,5kg/người/năm, vì  thế ngành  cà  phê nước  ta phụ  thuộc hoàn  toàn  vào  thị  trường xuất  khẩu và không  thể  kiểm  soát  giá  cà phê  thế giới mà hoàn  toàn bị động khi  giá  cà phê  thế  giới biến động.  Trong khi đó các nước khác trên thế giới lại bắt tay nhau để cùng kiểm soát và chi  phối giá cà phê, hầu hết dự báo của các hãng tin nước ngoài đều hướng vào người  mua. Thậm chí, các viện nghiên cứu giá cả trên thế giới khi đưa ra bản tin đều phục  vụ lợi ích một bên nào đó, còn thực tế không có lợi cho Việt Nam.  Chính vì  thế trong quá khứ ngành cà phê Việt Nam đã chịu những tổn thất  nghiêm trọng, điển hình niên vụ cà phê 1991/1992 chúng ta đã phải bán cà phê với  mức  rất  thấp,  có  lúc  dưới  600USD/tấn.  Rồi  đến  đợt  khủng hoảng  cung  cấp  thừa  1999 lại là một đợt giá giảm liên tục đến mức thấp kỷ lục của nhiều thập niên. Thời  kỳ đó có lúc nông dân đã phải bán cà phê với giá thấp dưới giá thành tức là chưa đạt  6,000đ/kg cà phê nhân.  Từ năm 2000, giá cà phê Việt Nam đã giảm mạnh. Năm 2001, với chi phí  chăm sóc lớn gấp đôi số tiền bán sản phẩm, bình quân mỗi héc ­  ta cà phê, người  nông dân lỗ từ 5 ­ 7 triệu đồng/năm. Sau nhiều năm khủng hoảng, thị trường cà phê  thế giới có xu hướng phục hồi trở lại, bắt đầu từ cuối năm 2005. Đặc biệt vào những  tháng cuối năm 2006, giá cà phê tăng đột biến. 5 tháng cuối năm 2006, giá cà phê  thế giới tăng hơn giá trung bình 6 tháng đầu năm đến 32%.  Nhìn vào biểu đồ bên dưới  ta có thể thấy rất  rõ giá cà phê trong nước luôn  theo sát giá thế giới, giá thế giới tăng thì giá trong nước tăng, giá thế giới giảm thì  giá trong nước giảm, thậm chí còn giảm nhanh và nhiều hơn tốc độ giảm của giá thế  giới, điển hình là diễn biến giá cà phê của niên vụ 2008/2009. 27  Biểu đồ 2.3: Giá cà phê thế giới và giá cà phê xuất khẩu bình quân hàng  năm của Việt Nam giai đoạn 1994­2009(USD/tấn)  Nguồn: www.ico.org, www.agro.gov.vn và www.vicofa.org.vn  Biểu đồ 2.4: Giá cà phê thế giới và giá cà phê xuất khẩu bình quân hàng  tháng của Việt Nam niên vụ 2008/2009 (USD/tấn)  Nguồn: www.ico.org và www.vicofa.org.vn  Chính vì giá xuất khẩu cà phê của Việt Nam chịu ảnh hưởng rất lớn vào biến  động giá cà phê thế giới, thêm vào đó do chất lượng cà phê Việt Nam nên giá xuất 28  khẩu trong nước luôn thấp hơn giá thế giới. Theo báo cáo của hiệp hội cà phê thế  giới niên vụ 2008/2009 sản lượng cà phê xuất khẩu Việt Nam đứng thứ hai thế giới  nhưng về kim ngạch xuất khẩu chỉ đứng thứ tư. Đây là một bất  lợi rất lớn cho bà  con nông dân trồng cà phê và các doanh nghiệp kinh doanh cà phê.  Biểu đồ  2.5: Lượng và  giá  cà phê  xuất  khẩu bình quân  của Việt Nam  giai đoạn 1994­2009  ­  200,000  400,000  600,000  800,000  1,000,000  1,200,000  1,400,000  19 94 19 95 19 96 19 97 19 98 19 99 20 00 20 01 20 02 20 03 20 04 20 05 20 06 20 07 20 08 20 09 ­  500.00  1,000.00  1,500.00  2,000.00  2,500.00  3,000.00  Lượng (tấn)  Giá XKBQ (USD/tấn)  Nguồn: www.agro.gov.vn, www.vicofa.org.vn và www.giacaphe.com  Theo  thống kê của Tổng  cục Hải  quan,  năm 2009 Việt Nam đã xuất  khẩu  tổng cộng khoảng 1,18  triệu  tấn cà phê  (chủ yếu là cà phê  robusta)  sang 97 quốc  gia, đạt kim ngạch 1,705 tỉ đô la Mỹ, tăng 2,6% về lượng nhưng lại giảm tới 21,3%  về giá trị so với cùng kỳ năm 2008. Đơn giá xuất khẩu bình quân cũng giảm 7,4%,  xuống chỉ còn 1.398  đô la/tấn, đưa cà phê trở thành mặt hàng duy nhất,  trong các  nhóm hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu có đơn giá xuất khẩu bình quân giảm so với  cùng kỳ năm 2008. Theo đó, xuất khẩu cà phê tới 10 thị trường lớn nhất (trừ Bỉ và  Hà Lan) đều có mức sụt giảm kim ngạch khá mạnh (từ 5­45%) so với cùng kỳ 2008.  Trong nửa đầu năm 2010, thị trường cà phê thế giới nhiều thăng trầm và diễn  biến phức tạp nhưng ngành cà phê Việt Nam vẫn chưa có nhiều động thái đối phó 29  và những giải pháp phù hợp để đối phó với biến động này. Thực tế này đã khiến cho  các thương nhân, doanh nghiệp xuất khẩu cà phê cũng như nông dân nước ta chịu  rất nhiều thiệt thòi.  Tháng 2 và tháng 3 năm 2010, giá cà phê thế giới liên tục giảm mạnh khoảng  30% ở mức 1,100 USD/tấn và nông dân đã phải bán tống bán tháo cà phê vì lo sợ  giá cà phê sẽ còn giảm nữa. Tuy vậy, cuối tháng 4 /2010 khi giá cà phê đã bắt đầu  nhích dần  lên  thì nông dân vẫn phải bán cà phê với giá  thấp (vì họ phải bán  theo  hợp đồng kì hạn từ các tháng 2 và 3). Đây là nguyên nhân của tình trạng thiếu hụt  cà phê hiện nay.  Bảng 2.2: Dự báo khối lượng và kim ngạch cà phê xuất khẩu năm 2010  Thời điểm  Khối lượng xuất khẩu  (tấn)  Kim ngạch xuất khẩu  (triệu USD)  Quý I  340.394*  476,67*  Quý II  311.783*  436,49*  Quý III  225.232*  353,97*  Quý IV  270.352**  440,54**  Cộng  1.147.761**  1.707,67**  Ghi chú: * Giá trị thực tế  ** Giá trị dự báo  Nguồn: www.agro.gov.vn, www.vicofa.org.vn và www.giacaphe.com  Trong  9  tháng  đầu  năm  2010  nước  ta  xuất  khẩu  877.409  tấn  cà  phê,  kim  ngạch đạt 1,276 triệu USD. So với cùng kỳ năm 2009, xuất khẩu cà phê giảm cả về  lượng  lẫn  giá  trị  kim ngạch. Theo Bộ NN và PTNT,  sản  lượng  cà phê xuất  khẩu  năm 2010 có thể đạt 1,1 triệu tấn, kim ngạch 1,67 tỉ USD (năm 2009 là 1,18 triệu  tấn và 1,73 tỉ USD).  Theo các chuyên gia, giá cà phê  thế giới biến động bởi cung và cầu  tại  thị  trường  cà  phê  Luân  Đôn,  New York  và  sự  chi  phối  của  các  nhà  kinh  doanh  cà  phê…  Lẽ  ra  khi  giá  cà  phê  giảm,  chúng  ta  không  nên  bán  nữa nhưng  các doanh  nghiệp và nông dân  trồng cà phê ở nước  ta  lại  lo bán một cách ồ ạt,  chính vì  thế 30  càng làm cho giá cà phê giảm mạnh hơn nữa. Bên cạnh đó các doanh nghiệp xuất  khẩu thường bán hàng theo hợp đồng kỳ hạn đã được chót giá. Nhà kinh doanh cà  phê nước ngoài thường cho các doanh nghiệp trong nước ứng trước 70% giá trị hợp  đồng xuất khẩu vì họ biết rằng cho dù có lỗ, các Doanh nghiệp Việt Nam vẫn phải  thực hiện theo đúng hợp đồng đã kí kết. Phương pháp chốt giá của hợp đồng cà phê  kì hạn tiềm ẩn rất nhiều rủi ro cho các nhà xuất khẩu.  Liên  tục  trong 3 năm qua, Hiệp hội cà phê ca cao Việt Nam (VICOFA) đã  cảnh báo các doanh nghiệp hội viên rằng, trong bối cảnh thị trường cà phê thế giới  biến động phức tạp,  thì nên hạn chế bán hàng giao xa, bởi  tính rủi ro rất  lớn. Tuy  nhiên, khuyến cáo này không được doanh nghiệp tuân thủ. Hơn nữa, các quỹ đầu cơ  có thể tác động vào tình hình cung cầu thế giới do vậy sẽ biết cách để khiến cho giá  cà  phê  tăng  lên hoặc giảm xuống. Đây  là  cuộc  chơi mà nhiều doanh nghiệp Việt  Nam phải trả giá và thua lỗ, đang tìm mọi cách thoát ra.  Nhìn  chung,  ngành  công nghiệp  cà  phê Việt Nam  vẫn  cho  thấy  phản ứng  chậm chạp của mình và chưa có hướng dẫn phù hợp để đối phó với biến động thị  trường. Thực tế này đã đặt các doanh nghiệp, thương nhân và nông dân trồng cà phê  nước ta luôn ở tình thế bất  lợi và bị động cho dù giá cà phê  thế giới có tăng hay  giảm, trong đó người trồng cà phê là đối tượng bị thiệt hại nặng nhất. Để giải quyết  vấn đề này, ngành cà phê cần nhìn lại tất cả các khâu.  2.1.2.  Rủi ro biến động giá do quy  trình sản xuất kinh doanh cà phê Việt  Nam còn tiểm ẩn nhiều rủi ro  2.1.2.1.  Quy trình sản xuất kinh doanh cà phê của Việt Nam hiện nay  Do  sản phẩm cà phê xuất khẩu của Việt Nam ở dạng  thô hoặc mới qua sơ  chế, ngành công nghiệp cà phê chế biến chỉ nắm giữ khoảng 0,4% thị phần cà phê  chế biến thế giới nên trong phần này chúng ta sẽ chỉ tập trung vào tìm hiểu quá trình  giao dịch cà phê nhân từ khi thu hoạch cho đến khi xuất đi thị trường nước ngoài để  thấy được những tồn tại của nó làm cơ sở tìm ra những giải pháp thích hợp để giảm  bớt ảnh hưởng của sự biến động giá cả đối với ngành này. 31  Sơ đồ 2.1: Quy trình kinh doanh cà phê ở Việt Nam hiện nay  Quy trình từ sản xuất đến xuất khẩu cà phê có 3 chủ thể chính tham gia:  Nông dân sản xuất nhỏ  (chiếm 80% diện tích  trồng cà phê)  Cà phê nhân xô  Sơ chế tại đại lý  (làm sạch, phân loại  cho xuất khẩu)  Sơ chế lại tại các doanh  nghiệp xuất khẩu  Doanh nghiệp chế biến cà phê  rang xay  (5% tổng sản lượng sản xuất)  Thị trường nội địa  Thị trường quốc tế  Doanh nghiệp xuất khẩu cà phê  nhân  (95% tổng sản lượng sản xuất)  Đại lý thu mua,  ký gửi cà phê  Cà phê nhân xô  Nông dân  trồng cà phê  Thương lái,  đại lý, thu  mua cà phê  Doanh nghiệp  xuất khẩu  cà phê  Nông trường và trang trại  (chiếm 20% diện tích  gieo trồng) 32  v  Người nông dânà thương lái, đại lý thu mua cà phê  §  Về sản phẩm:  Có một nghịch lý: cà phê robusta Việt Nam chất lượng vào loại cao trên thế  giới, kể cả so với Indonesia nhưng lại thường phải bán giá thấp hơn cà phê cùng loại  của nước này. Sở dĩ như vậy vì người nông dân còn nhiều thiếu sót trong khâu thu  hái, sơ chế, phân loại và bảo quản.  Với  giá  nhân  công  tăng  lên  trong  những  năm  gần  đây,  người  nông  dân  thường lựa chọn phương pháp tuốt hơn là hái từng quả, vì thế chất lượng quả cà phê  bị ảnh hưởng, đồng thời thu hoạch luôn cả quả xanh để đỡ bị mất trộm, giảm được  công hái (vì chỉ hái một  lần là xong), phơi sấy một  lúc,  tiết kiệm được chi phí và  điều quan trọng nhất là vẫn bán được, vẫn có người mua, tuy giá có thấp hơn nhưng  lại được lợi ở nhiều khâu khác…  Bên cạnh đó, để không bán sản phẩm ngay sau vụ thu hoạch lại có thể bảo  quản được chất  lượng  thì  cần phải có  sân xi măng để phơi, kho bãi để chứa, máy  móc phân loại v.v… những thứ này hầu hết nằm ngoài tầm với của nông dân nên họ  để lẫn lộn cả cà phê chín và xanh khi bán, ủ cà phê trên đất dễ bị hút ẩm gây mốc và  lẫn sạn, cát… dẫn đến giá bán thấp. Đây là kiểu sản xuất mà cà phê tốt cũng chỉ bán  được với giá chẳng khác gì cà phê xấu. Chính vì việc hái cà phê khi còn xanh nên  đã làm giảm chất  lượng quả vì hương sẽ không thơm, vị sẽ nhạt, nhân không đẹp,  không mẩy bóng mà teo tóp và làm giảm từ 10 – 15% sản lượng, khi xuất khẩu sẽ bị  khách hàng chê, bị trừ lùi cao (1 tấn từ 100 – 120USD).  Trong  vụ  cà phê  2005­2006, Tổ  chức Cà  phê  quốc  tế  đã  phân  loại  cà  phê  nhập tại 10 cảng khác nhau ở châu Âu và trong số 1.485.750 bao cà phê bị loại của  17 nước và vùng lãnh thổ xuất khẩu, có đến hơn 72% là cà phê xuất xứ từ VN. Cho  nên tính ra mỗi năm ngành cà phê Việt Nam bị thiệt hại tới hàng trăm triệu USD.  §  Về phương thức mua bán:  Trước đây người nông dân sau khi thu hoạch cà phê thì lập tức bán ngay cho  đại  lý thu mua theo kiểu “tiền  trao cháo múc”. Nguyên nhân là do phần  lớn nông  dân trồng cà phê thiếu vốn, trong quá trình trồng cà phê thường nhận tạm ứng trước 33  của đại lý để mua phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, bơm tưới… nên hầu hết sau vụ  thu  hoạch  là  bị đại  lý  ép  phải bán  ngay để  trang  trải  nào nợ  nần,  cho  dù  lúc  thu  hoạch giá cả cao hay  thấp, nông dân đều phải bán. Kiểu mua bán này  luôn khiến  người nông dân ở thế yếu khi thu hoạch và bán cà phê vì giá nào cũng phải bán và  thường bị thương lái ép giá.  Hiện nay người nông dân chọn hình thức ký gửi cà phê cho các đại lý cà phê  ở  xã,  huyện  các  tỉnh Tây Nguyên. Đây  là  hình  thức mua bán  xuất hiện  cách nay  chục năm và được xem là phương thức mua bán hay hơn hẳn so với phương thức  truyền  thống “tiền  trao cháo múc”. Ký gửi được xem  là “hiện đại” hơn cách mua  bán cũ vì các đại lý kinh doanh cà phê xây dựng được kho chứa, có vốn lớn để khi  cần thì mua một lúc cà phê của nhiều hộ nông dân. Còn nông dân, thay vì thu hoạch  và  bán  ngay  cho đại  lý như  trước  với bất  kỳ mức  giá nào  của  ngày  hôm đó,  thì  phương  thức này cho phép nông dân đưa cà phê  tới kho của đại  lý như hình  thức  tạm trữ, đồng thời được tạm ứng một khoản tiền để người nông dân trang trải được  nợ nần. Nông dân theo dõi diễn biến giá cả trên thị trường, bất kể lúc nào thấy giá  bán có lợi, thì họ sẽ đến gặp thương lái chốt giá bán, và lấy tiền.  Tuy nhiên hình thức này không phải là không có rủi ro và những tổn thất do  những rủi ro này đem lại đối với người nông dân là vô cùng lớn: mất toàn bộ tiền  bán hàng khi đại lý vỡ nợ. Lý do rất đơn giản, các đại lý này cũng phải kinh doanh  lại bằng hai cách: ký gửi  lại cho đại lý lớn hơn hoặc bán trước cà phê ký gửi của  nông dân lấy tiền đầu tư vào thương vụ khác để có lãi trả cho nông dân khi giá lên.  Điển hình năm 2008, hàng chục đại  lý kinh doanh cà phê ở Đak Lak vỡ nợ đã bỏ  trốn do giá cà phê dù vẫn đang ở mức cao, trên 30.000 đồng/kg song lên xuống thất  thường khiến các đại lý đã bán trước cà phê của nông dân ký gửi với giá thấp cho  nhà xuất khẩu,  tới khi giá  lên, nông dân chốt giá bán bị lỗ nặng, gây thiệt hại cho  nông dân hàng chục tỉ đồng.  v  Thương lái, đại lý thu mua cà phê à Doanh nghiệp xuất khẩu:  Các thương lái và đại lý thu mua cà phê thực chất chỉ là những người trung  gian giữa người nông dân và doanh nghiệp xuất khẩu. 34  Với mạng lưới khắp các tỉnh Tây Nguyên cùng hệ thống kho bãi, các đại lý  hơn hẳn các doanh nghiệp xuất khẩu khi nhận ký gửi cà phê của nông dân đồng thời  cho phép chốt giá vào bất kỳ thời điểm nào. Với phương thức kinh doanh như vậy,  thương lái và địa lý cũng đang đối mặt với những rủi ro biến động bất lợi của giá cả  khi họ có thể phải thu mua với giá cao và bán ra với mức giá thấp không được dự  tính trước. Do đó thời gian vừa qua đã dẫn đến vỡ nợ hàng loạt của các đại lý bởi lý  do khi người nông dân chốt giá bán thì hàng ký gửi đã được thương lái xuất bán với  giá  thấp  từ  trước đó  cho doanh nghiệp xuất khẩu để  lấy  tiền  làm  thương vụ khác.  Rốt cuộc người nông dân vừa mất tiền vừa không thu hồi được hàng.  v  Doanh nghiệp xuất khẩuà nhà nhập khẩu nước ngoài:  §  Về sản phẩm:  Bên cạnh đó tuy là thành viên của Tổ chức Cà phê quốc tế, song Việt Nam  vẫn chưa áp dụng cách  thức phân  loại  cà phê  theo  tiêu chuẩn  thế giới đã được  tổ  chức  này  ban  hành mặc  dù đã  có 25 nước  tuân  thủ. Việt Nam đã  chấp nhận  tiêu  chuẩn quốc tế ISO 10470:2004 và soạn thảo thành TCVN 4193­2005 nhưng tất cả  những tiêu chuẩn đó đều không được thực hiện, cho tới nay cà phê vẫn là loại hàng  hóa chưa bị bắt buộc kiểm tra chất lượng trước khi thông quan.  Phần lớn các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê hiện nay chỉ là nhà thương mại  đơn thuần, tìm khách hàng nhập khẩu, ký hợp đồng và đưa xe container tới đại lý cà  phê “đóng hàng’; có nghĩa là các đại lý đảm nhận luôn cả khâu sơ chế, phân loại cà  phê theo từng tiêu chuẩn riêng của nhà xuất khẩu. Do việc áp dụng tiêu chuẩn là tự  nguyện, nên rốt cuộc cho đến nay rất nhiều doanh nghiệp vẫn duy trì phân hạng cà  phê theo 3 tiêu chí: thủy phần %, đen vỡ %, tạp chất %. Trong khi đó, các hợp đồng  mua bán  cà  phê  robusta  tại  thị  trường  LIFFE  đều  xếp  hạng  cà  phê  dựa  trên  các  thông số chất lượng đo bằng phần trăm khối lượng, không phải bằng tỉ lệ phần trăm  số  lỗi. Như vậy,  cách  xếp hạng  theo phần  trăm  số  lỗi mà  ta đang áp dụng không  được quốc tế công nhận. Thế nhưng rất đông doanh nghiệp Việt Nam không muốn  áp dụng TCVN 4193­2005; các doanh nghiệp nước ngoài mua cà phê của Việt Nam  cũng không muốn áp dụng tiêu chuẩn này, vì không muốn phải trả giá cao hơn. 35  Như vậy, chúng ta xuất khẩu lẫn cả một lượng cà phê chất lượng xấu mà lẽ  ra phải được thải loại từ trước, vì thế cà phê tốt và xấu bị đánh đồng giá trong khi  người mua (nhà nhập khẩu cà phê VN) lại chọn lọc cà phê tốt để bán với giá cao,  còn cà phê xấu thì xuất trả. Đơn cử một con số: tỉ lệ lượng cà phê tuân thủ kỹ thuật  mà Tổ  chức Cà  phê  quốc  tế  nhận  được niên  vụ  2003­2004  là  31,6% đã  tăng  lên  73,1% niên vụ 2005­2006 (xét toàn thế giới), Việt Nam nằm trong số 26,9% còn lại.  Chính vì vậy cà phê xuất khẩu của Việt Nam luôn bị phàn nàn về chất lượng  xấu, có lúc bị thải loại đến 60%, giá bị giảm 100­200 USD/tấn, có lúc lên đến 600  USD/tấn  tại  London.  Lượng  cà  phê  robusta  được  cấp  chứng  nhận  chất  lượng  London ngày càng ít, khiến có lúc cà phê Việt Nam bị tồn kho tại London lên đến  400.000 tấn vào cuối năm 2007, đầu năm 2008.  §  Về phương thức mua bán:  Các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu cà phê Việt Nam không đưa được  hàng lên các sàn cà phê của thế giới nên thường áp dụng phương thức bán hàng ký  hợp đồng giao sau, nhưng không chốt giá, mà vào thời điểm giao hàng mới chốt giá  dựa vào giá giao dịch trên thị trường và trừ lùi một mức nhất định.  Khi ký hợp đồng giao sau nhà nhập khẩu phải ứng trước cho doanh nghiệp  70% giá trị hàng hoá. Giá xuất không được chốt tại thời điểm đặt bút ký hợp đồng  mà căn cứ vào giá cà phê tại sàn London vào đúng ngày giao hàng, sau đó lấy giá  này trừ đi các chi phí chênh lệch, thuế, vận chuyển... và mức trừ lùi giá thường lên  tới 50­100 USD/tấn. Điểm yếu của các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê hiện nay là  không dự đoán được sự lên xuống của thị  trường, đồng thời không đánh giá được  sản lượng và tình hình thực tế cung, cầu trên thế giới, hầu hết đều dựa vào các kênh  thông tin chính là Reuter, Dowjohn… trong khi đây là các kênh thông tin phục vụ  người mua chứ không phải người bán. Chính vì vậy, các  doanh nghiệp Việt Nam  luôn bị các nhà nhập khẩu nước ngoài dắt mũi. Khi các đối  tác nước ngoài đã ký  được nhiều hợp đồng mua hàng với các doanh nghiệp Việt Nam, họ sẽ coi như đã  “nhốt” được các doanh nghiệp Việt Nam vào cái rọ. Đến thời điểm mà nhiều doanh  nghiệp Việt Nam phải giao hàng thì giới đầu cơ ở sàn London sẽ cấu kết với nhau 36  làm giá để đẩy  giá  bán  cà phê  tại  sàn này  xuống  thấp. Lúc đó,  các doanh nghiệp  Việt Nam buộc phải giao bán hàng cho họ với giá rẻ mạt.  Thông qua tìm hiểu quy trình giao dịch cà phê hiện nay của Việt Nam, chúng  ta có thể nhận thấy rủi ro biến động giá đang tác động lên từng khâu và ảnh hưởng  đến tất cả các đối tượng tham gia giao dịch, điều này sẽ được thể hiện rõ hơn trong  bảng bên dưới.  Bảng 2.3: Rủi  ro đối với người  sản xuất và kinh doanh cà phê VN khi  xảy ra biến động giá  Đối tượng  Những rủi ro tiềm ẩn  Nguyên nhân  Sản xuất nhưng không dự tính  được chi phí và giá bán đầu ra  Không có hợp đồng đầu  ra  trước  khi sản xuất  Chất lượng cà phê thấp => giá  bán thấp  Không có phương tiện hỗ trợ cho  việc  thu  hoạch  và  phân  loại  cà  phê  Người nông  dân  Ký  gửi  cà  phê  cho  đại  lý  =>  rủi ro mất hàng mà không thu  được tiền, bị ép giá  Không  có  kho  chứa,  không  đủ  vốn để trữ hàng  Đại lý  Nhận ký gửi nhưng chưa chốt  giá => bị thua lỗ khi giá lên  Do  đã  bán  hàng  ký  gửi  khi  giá  thấp  Giá xuất khẩu thấp hơn giá trị  thực tế, lượng hàng xuất trả do  dưới tiêu chuẩn nhiều  Chưa  phân  loại  cà  phê  theo  tiêu  chuẩn quốc tế  Doanh nghiệp  xuất khẩu  Ký  trước  hợp  đồng  đầu  ra  nhưng  chưa  chốt  giá  bán  +  nhận tạm ứng 70% giá trị hợp  đồng  =>  không  thể  hủy  HĐ  cho dù giá bán thấp  Không  đủ  vốn  để  tạm  trữ  hàng,  khi có biến động giá  sẽ giảm giá  mua trong nước 37  2.1.2.2.  Thiếu thông tin dự báo thị trường mang tính chuẩn xác  Bên cạnh quy trình sản xuất – kinh doanh tiềm ẩn nhiều rủi ro, có một vấn đề  không thể không nói tới đó là người sản xuất và kinh doanh cà phê hầu như bị động  hoàn  toàn  trước diễn biến giá cả cà phê  thế giới,  sẽ  là quá muộn nếu chỉ đợi  tình  hình thế giới biến động rồi mới điều chỉnh. Với cương vị là nước xuất khẩu cà phê  đứng thứ hai thế giới, thật khó có thể tưởng tượng là ngay cả hiện nay vẫn chưa có  cơ quan nào ở VN dự báo thị trường cho ngành hàng quan trọng này.  Theo nhận định của các nhà kinh doanh cà phê chuyên nghiệp, hầu hết các  cơ quan dự báo về ngành cà phê trên thế giới là lực lượng phục vụ cho người mua  chứ không bao giờ vì người sản xuất. Chính bất công này đã khiến người nông dân  luôn  chịu cảnh điêu đứng vì  giá bán  thấp  và  ít  khi  được hưởng những  thành quả  đáng ra phải thuộc về mình. Cụ thể niên vụ 2009 ­ 2010 họ dự báo Brazin sản lượng  lên  tới 50  triệu pound  (0.454  kg/pound) nhưng  thực  tế chỉ có 39  triệu pound, còn  VN tới 22 triệu pound nhưng thực ra chỉ có 18 triệu pound. Tiếp tục sang niên vụ  2010 – 2011, họ lại dự báo “khống” Brazin sẽ đạt 56 – 58 triệu pound nhưng khả  năng chỉ đạt chưa tới 47 triệu pound, còn VN sẽ đạt trên 20 triệu pound nhưng căn  cứ tình hình hiện tại cao nhất VN cũng chỉ đạt 17,5 triệu pound mà thôi. Đầu năm  2010 tổ chức cà phê thế giới (ICO) cũng đã tuyên bố: các hãng tin tư nhân đưa tin  không chính xác, đồng thời khẳng định lượng cà phê tồn kho trên  toàn cầu đang ở  mức thấp kỷ lục, tại Châu Âu lượng cà phê tồn kho chỉ còn 10 triệu pound so với 16  triệu  pound  cùng kỳ. Tình hình này  cũng diễn  ra  tương  tự  tại Hoa Kỳ  và một  số  nước có thói quen sử dụng cà phê khác. ICO cũng khẳng định, hiện Brazil đang hạn  hán nên sẽ ảnh hưởng tới việc ra hoa và sản lượng vụ tới. Còn tại VN, sản lượng cà  phê vụ này do ảnh hưởng của hạn hán kéo dài nên hạt nhỏ, tỷ lệ cây già cỗi lên đến  gần 30%. Hai tỉnh Gia Lai và Kon Tum bị tác động của mùa mưa bão năm ngoái và  hạn hán nặng nề năm nay nên sản lượng cà phê ở 2 tỉnh này có thể giảm tới 20%.  Như  vậy  nếu  chúng  ta  không  xây  dựng được một  cơ  quan dự  báo  chuyên  nghiệp để có được những số  liệu phân tích dành cho  riêng mình  thì ngành cà phê  cũng sẽ khó có thể chủ động được việc sản xuất và kinh doanh. 38  2.1.2.3.  Vai trò mờ nhạt của Hiệp hội Cà phê Ca cao Việt Nam  Tuy chúng  ta có Hiệp hội cà phê ca cao Việt Nam (VICOFA) nhưng Hiệp  hội  cũng  chưa đưa  ra  được những dự báo  tương đối  chính  xác  có  thể  hỗ  trợ  cho  ngành. Thực  tế  hiện nay Hiệp Hội chỉ chú  trọng  tới  chỉ  tiêu xuất khẩu chính phủ  giao và quan  tâm  lợi  ích của các doanh nghiệp  thành viên chứ  chưa  thực sự quan  tâm đến đội  ngũ nông dân  trực  tiếp  sản xuất. Hiệp hội mới  chỉ đóng vai  trò  điều  hành xuất  khẩu mà  chưa điều hành được  sản xuất  sao  cho  cung phù hợp với  cầu  cũng như chưa hướng dẫn hay  đề  ra  các  giải  pháp khả  thi  để  thực  sự hỗ  trợ  cho  người nông dân khi có rủi ro bất ổn giá cả sản phẩm.  Chính  sách  tạm  trữ  của Chính  phủ,  theo đề xuất của VICOFA  là  đảm bảo  nông dân  trồng cà phê có  lợi nhuận  tối  thiểu 30%  thông qua hỗ  trợ doanh nghiệp  xuất khẩu vay vốn ngân hàng No& PTNT Việt Nam từ nguồn vốn hỗ  trợ  của nhà  nước với lãi suất ưu đãi để mua tạm trữ 200.000 tấn cà phê. Thế nhưng các doanh  nghiệp xuất khẩu hội viên của VICOFA có khả năng tạm trữ (một hình thức ký gửi)  lại công nhận rằng họ chỉ có khả năng tạm trữ cà phê bằng cách gom từ các đại lý  lớn của mình, chứ không thể gom cà phê trực tiếp của nông dân. Bên cạnh đó các  doanh nghiệp tham gia mua tạm trữ lại mua cà phê theo giá thị trường, có nghĩa là  giá thấp thì họ mua thấp, giá cao họ mua cao, nên mục tiêu nâng đỡ  giá cho nông  dân  của  chính  sách  này  hầu  như  không  có  ý  nghĩa.  Đồng  thời  VICOFA  và  các  doanh nghiệp tham gia mua không xây dựng được giá sàn mua cà phê nên những lời  hứa đảm bảo nông dân có lãi tối thiểu 30% khi họ thuyết phục Chính phủ ban hành  chính  sách,  cũng  chỉ  là  lời  hứa. Hệ  thống Ngân hàng Nông nghiệp  và Phát  triển  nông thôn là nơi duy nhất được Ngân hàng Nhà nước chỉ định cho vay mua tạm trữ  cà phê có hỗ  trợ  lãi  suất 6%  từ ngân sách nhà nước nhưng  theo Ngân hàng Nông  nghiệp và phát triển nông thôn Chi nhánh Dak Lak, lượng vốn đã giải ngân cho vay  mua tạm trữ cà phê trên địa bàn tỉnh chỉ hơn 400 tỉ đồng, ứng với hơn 17.000 tấn.  Lâm Đồng là địa phương có diện tích cà phê lớn thứ hai trong nước, sau Đak Lak,  việc doanh nghiệp mua tạm trữ còn èo uột hơn cả Đak Lak. Chính vì thế chính sách  cho vay mua tạm trữ cà phê đã thất bại hoàn toàn. 39  Tóm lại, tuy là một cường quốc xuất khẩu nhưng cà phê Việt Nam không có  thương hiệu, thiếu một chỗ đứng ổn định trên thị trường thế giới, không có các hợp  đồng mua bán dài hạn, nên các tổ chức kinh doanh xuất khẩu không tiên liệu được  chính  xác nhu  cầu  của  thị  trường và  chiều hướng biến động giá… dẫn  tới  không  định hướng được sản xuất. Người sản xuất chỉ biết sản xuất, không biết được khả  năng  tiêu  thụ. Người kinh doanh đến mùa vụ chỉ biết  thu mua, không biết  sẽ bán  được bao nhiêu,với giá nào… ngành cà phê Việt Nam càng phát triển thì cà phê trên  thế giới càng bị dư thừa, hậu quả là cà phê Việt Nam phải bán phá giá, dẫn đến thua  lỗ cả người kinh doanh và người sản xuất. Tình trạng bị động về tiêu thụ, may rủi về  giá là đặc điểm cơ bản của sản xuất ­ kinh doanh ngành cà phê Việt Nam.  Chính vì vậy cần thiết phải nhanh chóng ứng dụng giao dịch giao sau cà phê  nhằm bình ổn giá cả và giảm thiểu rủi ro cho người nông dân trồng và doanh nghiệp  kinh doanh cà phê.  2.2. Khả năng ứng dụng hợp đồng giao sau vào giao dịch cà phê tại Việt Nam  2.2.1.  Học hỏi kinh nghiệm của các nước đi trước  §  Trung Quốc ­ phát triển sàn giao dịch hàng hóa với hạt nhân là các nhà  sản xuất:  Thực tế, ở các nước trong khu vực, mỗi sàn giao dịch hàng hóa thành công  thường gắn với một mặt hàng thuộc thế mạnh quốc gia như sàn Đại Liên – Trung  Quốc với đậu nành; sàn Bursa – Malaixia với dầu cọ; sàn Sicom với cao su… Với  các sàn giao dịch trong khu vực đã thành công, ở giai đoạn ban đầu, lực lượng hạt  nhân luôn là nhà sản xuất (có nhu cầu bảo hộ giá sản phẩm). Ở Trung Quốc đã từng  xảy ra việc bùng phát các sàn giao dịch hàng hóa nhưng lại chú trọng vào các nhà  đầu tư hàng hóa nhiều hơn, điều này giúp các sàn có khách hàng nhanh, nhưng phát  triển không bền vững. Số lượng các nhà đầu cơ quá lớn có thể gây nên tình trạng  mất  cân đối  cung  cầu,  thị  trường nóng  lạnh  đột ngột.  Sự phát  triển  quá  nóng  rồi  nguội lạnh có thể tạo ra dư luận xã hội không tốt, khiến sau này các nhà sản xuất có  nhu cầu bảo hiểm giá sản phẩm ngần ngại tham gia 40  §  Singapore – sàn giao dịch phải gắn với vùng nguyên liệu:  Trước Sicom, trên thế giới, cà phê đã được đưa lên một số sàn giao dịch. Nổi  tiếng và thành công trong số này có sàn Liffe (London) với cà phê Robusta và sàn  Nybot  (Mỹ)  với  cà  phê Arabica. Để  cạnh  tranh,  Sicom đã nỗ  lực  tạo  ra  hấp  dẫn  riêng. Đó là tổ chức cơ chế giao dịch phù hợp với nhiều đối tượng như giờ giao dịch  buổi sáng từ 10h – 12h, buổi chiều từ 16h – 23h (phù hợp với khách hàng châu Á và  châu Âu). Sicom còn nhấn mạnh tới yếu tố khu vực: các nhà sản xuất và các NĐT  tài chính giao dịch trên sàn Sicom sẽ sử dụng chuẩn chất lượng cà phê châu Á (theo  tiêu chuẩn chất lượng tại các cường quốc về cà phê như Việt Nam hay Indonesia).  Điều này khá hấp dẫn, vì chuẩn chất  lượng cà phê Robusta trên sàn Liffe cao hơn  chuẩn Việt Nam hay Indonesia. Ngoài ra, Sicom cho sàn liên thông với Liffe.  Thế nhưng, kể từ ngày khai trương, cà phê được giao dịch khá thưa thớt, với  số  lô  giao  dịch  đếm  trên  đầu  ngón  tay.  Sicom  không  thành  công  với  cà  phê  có  nguyên nhân khá đơn giản là Sicom không có lợi thế ở trung tâm các vùng nguyên  liệu của các quốc gia sản xuất cà phê lớn như Braxin, Việt Nam, Indonesia. Để thu  hút NĐT, Sicom cho phép khách hàng ở Việt Nam giao nhận thực hiện thông qua  việc xuất hóa đơn của các kho hàng trữ cà phê tại TP. HCM hoặc Singapore. Tuy  nhiên,  thực  tế việc xuất nhập, kiểm  tra hàng mất  thời gian đến hàng  tuần sau khi  hợp đồng đến hạn. Đây là điều không mấy thuận lợi nên các nhà sản xuất ngần ngại.  Trong khi đó, đối với NĐT tài chính, họ chưa tìm thấy ở Sicom điểm hấp dẫn hơn  so với sàn giao dịch cà phê Robusta London.  Năm  2008,  Việt  Nam  đã  thành  lập  Trung  tâm  giao  dịch  cà  phê  Buôn Ma  Thuột được đặt tại Đăk Lăk, nơi sản xuất ra 50% sản lượng cà phê của ngành cà phê  Việt Nam và giao dịch loại hàng hóa duy nhất là cà phê.  2.2.2.  Hoạt động của Trung tâm giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột (BCEC)  BCEC là một tổ chức dịch vụ thương mại, nơi giao dịch, mua bán các loại cà  phê hạt khô (cà phê nhân) sản xuất tại Việt Nam, hoạt động theo phương thức đấu  giá tập trung và công khai gồm giao dịch mua bán giao ngay và giao dịch mua bán 41  giao sau; hoạt động  theo nguyên  tắc  thành  viên, dưới  sự quản  lý của UBND  tỉnh  Đaklak. Theo đó BCEC vừa là thị trường sơ cấp vừa là thị trường thứ cấp:  ­  Thị trường sơ cấp: Là những giao dịch mua bán lần đầu, sản phẩm của người  sản xuất lần đầu tiên được đưa vào giao dịch (sản phẩm không xuất xứ từ hợp đồng  mua trước đó tại Trung tâm Giao dịch Cà phê BMT) hình thành hợp đồng nguyên  thuỷ.  ­  Thị  trường  thứ cấp  (dành  riêng cho giao dịch kỳ hạn): Là những giao dịch  mua bán  lại quyền mua  từ hợp đồng nguyên thuỷ  (bên mua bán  lại hợp đồng cho  người khác). Nghĩa là Trung tâm giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột phục vụ cho cả  người sản xuất và người kinh doanh, tiêu thụ.  Cơ cấu tổ chức của BCEC hiện nay:  Sơ đồ 2.2. Cơ cấu tổ chức của BCEC hiện nay  Các  tổ  chức  kinh doanh  trong nước muốn  trở  thành  thành viên  của BCEC  phải có vốn tự có ít nhất là 5 tỷ đồng, và có 3 năm liên tục gần nhất có số lượng cà  phê xuất khẩu, chế biến hoặc tiêu thụ ít nhất là 5.000 tấn/niên vụ.  Đối với các tổ chức môi giới phải có giấy phép hoạt động môi giới tài chính,  thương mại và có vốn điều lệ tối thiểu là 3 tỷ đồng, còn đối với các tổ chức môi giới 42  nước ngoài là 2 triệu USD. Các tổ chức, đơn vị không hội đủ các điều kiện để trở  thành thành viên nhưng muốn tham gia giao dịch tại Trung tâm phải được môi giới  thông qua một tổ chức thành viên.  Trung tâm có sàn giao dịch nên các tổ chức thành viên có thể giao dịch trực  tiếp tại sàn hoặc giao dịch qua mạng Internet. Thời gian giao dịch tại trung tâm là 5  phiên/tuần bắt đầu từ 19h30 đến 21h00 theo giờ giao dịch của thị trường Luân Đôn.  Sản phẩm cà phê đăng ký tham gia giao dịch tại trung tâm gồm 2 loại cà phê  chính là cà phê Arabica ký hiệu trong giao dịch là A và cà phê Robusta ký hiệu là  R. Mỗi loại cà phê được phân thành 6 thứ hạng từ hạng đặc biệt đến hạng 5 và loại  cà phê nhân xô (hỗn hợp).  BCEC có ba tổ chức ủy thác:  ­  Ngân hàng ủy thác thanh toán là Ngân hàng Thương mại Cổ phần Kỹ thương  (TECHCOMBANK), thực hiện các nghiệp vụ thanh toán cho các hoạt động  giao dịch tại Trung tâm.  ­  Tổ chức uỷ thác kiểm định chất lượng sản phẩm là Chi nhánh Công ty Giám  định  hàng  hóa  nông  sản  xuất  khẩu  thuộc  Bộ  NN&PTNT  tại  Đaklak  (CafeControl) thực hiện việc kiểm định chất lượng, phẩm cấp, chủng loại cà  phê.  ­  Công ty An Giang ủy thác quản lý, kinh doanh kho với hệ thống kho bãi do  công ty Thái Hòa (công ty mẹ) đầu tư.  Để  làm  tốt  các  chức năng,  nhiệm vụ  trên  và nhằm  tạo  điều  kiện  thuận  lợi  nhất cho các các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh, chế biến, xuất khẩu cà phê,  nhất  là đối với người  trực  tiếp  sản xuất cà phê, BCEC cùng với Techcombank và  doanh nghiệp quản lý kho triển khai hoạt động ký gửi hàng hóa, cung cấp dịch vụ  tín dụng, các dịch vụ kho bãi, các dịch vụ khác về kiểm định, gia công, chế biến,  giao nhận hàng hóa khi  khách hàng  có nhu  cầu,  với  hệ  thống gồm 04 kho và  01  xưởng chế biến ngay tại Trung tâm.  Khi  xây  dựng dự  thảo quy  chế giao  dịch, BCEC dự định  triển  khai cả hai  cách  thức giao dịch  là mua bán giao ngay và mua bán kỳ hạn. Tuy nhiên,  sau đó 43  BCEC chỉ chọn mua bán giao hàng thật để bảo đảm từng bước đi phù hợp với trình  độ mua bán cà phê của phần đông nông dân và doanh nghiệp hiện nay.  Với phương  thức mua bán này khiến BCEC giống một đại  lý  thu mua chứ  chưa hẳn đã trở thành một sàn giao dịch khi chưa có mua bán kỳ hạn, mà chỉ là mua  bán giao ngay. Khi giao dịch tại sàn người nông dân được hưởng khá nhiều lợi ích,  cụ thể như:  ­  Người nông dân có thể yên tâm khi gửi kho của sàn, không sợ vỡ nợ, rủi ro  như ký gửi cà phê ở đại lý như bao lâu nay.  ­  Người nông dân được hướng dẫn phân loại cà phê xô theo ba tiêu chuẩn dựa  trên kích cỡ hạt (có sàng đo kích cỡ để phân loại), đủ tiêu chuẩn xuất khẩu, nhờ đó  bán thành phẩm được giá cao hơn nhiều so với bán xô tại đại lý.  ­  Cà phê ký gửi được kiểm định chất  lượng bởi công ty Cafecontrol, chỉ cần  30 phút sau khi nhập kho là có thể cho người gửi biết kết quả lô hàng nhập là bao  nhiêu phần trăm sàng 18 (cỡ hạt), sàng 16, sàng 13, độ ẩm, tỷ lệ hạt đen vỡ, tỷ lệ tạp  chất… đồng thời được cấp giấy chứng thư đã ký gửi  trong đó có chứng nhận tiêu  chuẩn cà phê của Cafecontrol. Người nông dân có thể dùng nó để bán, cầm cố vay  tiền ngân hàng, còn nếu chưa cần tiền thì cứ gửi ở kho của sàn, khi nào cần thì bán.  Thế nhưng khi  nhìn  vào  khối  lượng  và  giá  trị  giao  dịch  qua BCEC  ­ năm  2009 chỉ có 320 tấn cà phê gửi kho với giá trị giao dịch gần 9 tỷ đồng, 9 tháng đầu  năm 2010 có khá hơn khi lượng hàng giao dịch là 960 tấn cà phê với giá trị giao dịch  khoảng gần 27 tỷ đồng ­ có thể thấy BCEC còn thua xa một đại lý cà phê cấp 3 ở  huyện trong mùa vụ thu hoạch cà phê có thể mua bán hàng chục hay hàng trăm tấn  một ngày, trong khi trung tâm được nhà nước đầu tư hàng chục tỉ đồng nhưng khối  lượng giao dịch chỉ có 16 tấn với giá trị 380 triệu đồng như vào ngày 25/3 vừa qua.  Trong những tháng đầu niên vụ cà phê 2009­2010, hàng ngày nông dân, đại lý chỉ  ký gửi vài chục  tấn, chẳng  thấm là bao so với hàng  trăm ngàn  tấn cà phê nhân ở  Đak Lak. Mặc dù trong gần 3 năm qua, sàn đã liên tục có những điều chỉnh cần thiết,  phù hợp hơn với  thực  tế như: hạ  thấp  lượng cà phê ký gửi vào đây để  làm  thành 44  viên từ 5 tấn xuống còn 1 tấn; từ 1 tấn trở lên là có thể thực hiện được một phiên  giao dịch trên sàn; nhiều thủ tục hành chính khác cũng được giản lược…, nhưng số  thành  viên  và  lượng  cà  phê  được  ký  gửi  vào  đây  vẫn  quá  khiêm  tốn,  thành  viên  đăng ký bán cà phê ở sàn tới giờ, dù có tăng nhưng cũng chỉ hơn 40 cá nhân mà đa  phần là đại lý, một con số rất khiêm tốn nếu so với hàng vạn hộ dân trồng cà phê ở  Đắk Lắk nói riêng và hàng trăm ngàn hộ nông dân trồng cà phê ở Tây Nguyên mà  sàn này định hướng nhắm tới. Thành viên đăng ký kinh doanh, hay nói chính xác  hơn là đăng ký mua, cũng chỉ mới có 21 doanh nghiệp, con số quá ít ỏi so với hơn  140 doanh nghiệp có kinh doanh cà phê hiện nay ở tỉnh Đaklak.  Việc thành lập BCEC là đúng nhưng rõ ràng hiệu quả không được như mong  đợi và không thu hút được người nông dân đến sàn. Để giao dịch giao sau hiệu quả  hơn  thiết  nghĩ  cần  thiết  lập một mạng  lưới  giao  dịch  rộng  lớn  có  tổ  chức  từ Sàn  Giao Dịch cho đến vườn của người nông dân để thay thế cho một hệ thống đại lý tự  sinh tự phát đã ẩn chứa quá nhiều rủi ro cho người nông dân trong thời gian qua.  2.2.3.  Nguyên nhân BCEC chưa triển khai giao dịch giao sau cà phê  2.2.3.1.  Khung  pháp  lý  còn  thiếu  đồng bộ,  chưa  đầy đủ và  chưa  phù  hợp với thông lệ quốc tế  Hiện nay chúng  ta đã và đang xây dựng hoàn  thiện các khuôn khổ pháp  lý  của cơ chế thị  trường giao sau, song còn thiếu đồng bộ, chưa đầy đủ và chưa phù  hợp với thông lệ quốc tế. Do tính đặc thù của thị trường phái sinh mà cụ thể là thị  trường giao sau nên cần có một khuôn khổ pháp lý phù hợp.  Vì vậy cùng với việc hoàn thiện sửa đổi các luật đã có, bước đầu Chính phủ  cần nghiên cứu,  soạn  thảo  và ban hành  các  thông  tư,  nghị định  quy  định  về  việc  kinh doanh, giao dịch trên thị trường hàng hóa giao sau. Sau đó cần phải nghiên cứu  và soạn thảo pháp lệnh kinh doanh trên thị trường này. Tuy nhiên để xây dựng công  cụ pháp lý riêng cho loại thị trường này là khó khăn lớn của Việt Nam. Luật chứng  khoán  Việt  Nam  cũng  đã  có  quy định  về  các  hình  thức  giao  dịch  giao  sau.  Tuy  nhiên trên thực tế thì vẫn chưa thể áp dụng vì chưa được hướng dẫn thực hiện cụ 45  thể. Những phương thức này chỉ có thể áp dụng khi  thị  trường giao sau Việt Nam  đảm bảo các yếu tố về hạ tầng kỹ thuật, pháp lý và phát triển đến một trình độ cao  hơn nhiều so với hiện nay.  2.2.3.2.  Thông lệ tập quán kinh doanh của người nông dân  Đó là thói quen mua bán cũ khá tiện lợi cho nông dân. Nông dân thu hoạch  cà phê với bất kỳ khối lượng nào cũng được đại lý, thương lái ở thôn buôn, trong xã  tới mua cà phê xô mà tiền có thể trao ngay hoặc ghi nợ mà nông dân có thể lấy bất  kỳ  lúc nào mình muốn. Trong khi nếu muốn bán cho sàn, đầu tiên phải  làm ra cà  phê đạt tiêu chuẩn Việt Nam ­ vốn khá rắc rối với nông dân, sau đó nông dân phải  chuyên chở tới sàn mà không phải ai cũng có phương tiện.  BCEC có hệ thống kho lớn nhưng nông dân thu hoạch mỗi lần vài tấn cà phê  ở các huyện, xã cách xa trung tâm hàng chục cây số phải thuê xe chở về trung tâm,  làm phát sinh chi phí. Thế nên, nông dân gửi cà phê cho đại  lý trong thôn, xã vẫn  thuận tiện hơn. Bên cạnh đó các doanh nghiệp lại có mạng lưới thu mua cà phê đủ  mạnh thông qua các đại lý ở huyện, xã và họ cũng chẳng cần tham gia sàn dù thừa  biết đây là phương  thức mua bán hiện đại mà nhiều nước  tiên  tiến đã và đang áp  dụng cho nông sản.  Hay nói khác hơn, bản chất của kiểu mua bán cũ là qua nhiều tầng nấc trung  gian để đưa hạt cà phê từ nông dân tới nhà xuất khẩu hay chế biến. Đột phá để phá  vỡ một phần trong hệ thống mua bán cũ đã ăn sâu vào nông dân, đại lý không phải  là điều dễ dàng. Đây là một thông lệ có từ rất lâu đời, do vậy để thay đổi cần có thời  gian và tác động của các cơ quan quản lý.  2.2.3.3.  Tham gia  thị  trường giao  sau  –  hoạt  động  vẫn  còn mới mẻ  ở  Việt Nam  Những hạn chế về kiến thức của các nhà kinh doanh và các cấp quản  lý ở  Việt Nam khiến cho việc xây dựng trong thực tiễn vấp phải nhiều trở ngại. Muốn  xây  dựng  được  thị  trường  thì  trước  hết  phải  huấn  luyện  được  đội  ngũ  nhà  kinh  doanh am hiểu về sản phẩm phái sinh và thị trường giao sau. 46  Kinh doanh ở các doanh nghiệp hiện nay chủ yếu là do phán đoán chủ quan  có được do tích luỹ từ nhiều năm, thế hệ trước truyền cho thế hệ sau. Tuy nhiên khi  mở rộng quy mô kinh doanh, hội nhập ngày càng sâu rộng thì tính chất rủi ro cũng  có nhiều biến động do vậy không thể lường trước được. Hơn nữa kiến thức về  tài  chính  thế  giới cũng như các kỹ thuật phân  tích đo  lường, ước  lượng mô hình mô  phỏng biến động giá cả còn rất thiếu và yếu. Chỉ một bộ phận nhỏ các cán bộ trong  doanh nghiệp được đào tạo nhưng chưa có sự chuyên sâu. Vừa kinh doanh vừa học  do vậy những sai lầm mắc phải là không thể tránh khỏi.  Đội ngũ các nhà kinh doanh rủi ro trên thị trường thứ cấp chưa thật sự mạnh  về cả chất lẫn lượng. Do mức độ phát triển của thị trường tiền tệ, thị trường vốn còn  thấp, trên thị trường cón thiếu vắng các nhà đầu tư am hiểu kỹ về lợi ích cũng như  kỹ  thuật  tính  toán  lợi nhuận  từ các  loại nghiệp vụ này. Bên cạnh đó, các nhà môi  giới còn quá ít để thúc đẩy các nhà đầu tư tham gia mạnh mẽ thị trường này.  Kết luận chương II  Cũng như những mặt hàng nông sản khác của Việt Nam đều chỉ tham gia ở  khâu ít giá trị gia tăng, rủi ro cao và nhiều lệ thuộc, cà phê Việt Nam tuy chiếm giữ  thị phần xuất khẩu không nhỏ trên thế giới nhưng chủ yếu ở khâu trồng cấy và thu  gom sản phẩm thô, cà phê nhân được xuất cho các công ty nước ngoài. Họ chế biến,  chắt lọc, phân đoạn làm nhiều tầng, thu nhiều khoản lời và đóng nhãn mác của họ  bán cho người tiêu dùng. Vì chiếm giữ những phần ít rủi ro, lại nắm được thông tin  đầu nguồn nên họ chủ động  tránh được  thiệt hại. Phần bất  lợi đẩy về phía những  doanh nghiệp xuất khẩu và được doanh nghiệp đẩy về khu vực sản xuất  là những  người nông dân trồng cà phê. Nếu không đảm bảo được lợi ích cho người trồng cà  phê thì khả năng họ chuyển sang canh tác cây trồng khác là điều chắc chắn, vấn đề  này về lâu về dài không có lợi cho nền sản xuất quốc gia nói chung và cho ngành  xuất khẩu cà phê nói riêng.  Vấn đề trước mắt là  làm  thế nào để giúp người nông dân  trồng cà phê yên  tâm sản xuất và có thể đương đầu với rủi ro biến động giá ngày càng gia tăng  thì 47  ngoài việc  thiết  lập  lại một mô hình sản xuất kinh doanh mới với  sự  liên kết chặt  chẽ giữa các khâu, chúng ta cần xây dựng và phát triển thị trường giao sau cà phê.  Bởi ít nhất cho đến lúc này, người nông dân đã dần mất niềm tin vào cung cách mua  bán,  giao  dịch  cũ  theo  kiểu  phi  thương mại  từ  các  đại  lý  thu mua  cà  phê  truyền  thống, việc họ sẽ tìm đến giao dịch với sàn cà phê Buôn Ma Thuột là điều tất nhiên.  Vấn đề còn lại là làm sao để họ đến với con đường ngắn nhất và trong thời gian sớm  nhất có thể.  Tuy nhiên với những hạn chế đã nêu ở trên trong việc triển khai  thị  trường  này thì  cần có những giải pháp  thích hợp để khắc phục những hạn chế đó. Trong  phần tiếp theo chúng ta sẽ đi vào một số giải pháp chính và giải pháp có tính định  hướng để xây dựng và phát triển thị trường giao sau cà phê tại Việt Nam.  Với những khó khăn như vậy nhưng chúng ta cũng vẫn cần phải  triển khai  giao dịch cà phê giao sau tại BCEC nhanh chóng vì hai lẽ: một là tăng công cụ bảo  hộ cho người sản xuất và kinh doanh cà phê; hai  là hiện tại, ngoài Nybot và Liffe  mà doanh nghiệp Việt Nam  thường  tham  gia, mới đây,  sàn  hàng hóa Sicom  của  Singapore cũng sang Việt Nam mời doanh nghiệp tham gia, nếu chúng ta chậm nữa  giao dịch cà phê kỳ hạn sẽ trở thành thị trường cho các sàn nước ngoài vào chiếm  chỗ. 48  CHƯƠNG III: XÂY DỰNG THỊ TRƯỜNG GIAO SAU CÀ  PHÊ TẠI VIỆT NAM ĐỂ PHÒNG NGỪA RỦI RO BIẾN  ĐỘNG GIÁ  3.1. Xây dựng thị trường giao sau trên cơ sở  triển khai giao dịch giao sau tại  Trung tâm giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột  3.1.1.  Thay đổi mô hình tổ chức sàn giao dịch  Sơ đồ 3.1: Cơ cấu tổ chức sàn giao dịch  v  Khối lãnh đạo:  ­  Giám đốc: gồm 1 giám đốc, có nhiệm vụ quản lý và điều hành hoạt động của  các phòng ban. Giám đốc là người đại diện pháp lý cho sàn giao dịch.  GIÁM ĐỐC  PHÓ GIÁM ĐỐC  PHÓ GIÁM ĐỐC  Trung tâm giao dịch  Trung tâm kiểm định ,  chuyển giao sản phẩm  Sàn  giao  dịch  cà  phê  Trung  tâm  thanh  toán bù trừ  Phòng  quản  lý  thành viên  Phòng công  nghệ  và tin học  Phòng  thông  tin  thị trường  Văn phòng tổng hợp  Phòng  quản  lý  kiểm định  Phòng chuyển giao  sản phẩm  Quản  lý  kho  hàng  hóa  Phòng pháp chế 49  ­  Phó Giám đốc: 2 Phó Giám đốc hỗ trợ cho Giám đốc trong việc quản lý hoạt  động của sàn.  v  Trung tâm Kiểm định và chuyển giao sản phẩm:  Bao gồm các phòng ban: phòng quản lý kiểm định, phòng chuyển giao  sản  phẩm, phòng quản  lý  kho hàng hóa có chức năng phục vụ quá  trình kiểm  tra tính  chuẩn hóa của hàng hóa (người bán có trách nhiệm đem nộp mẫu hàng hoá cho bộ  phận kiểm tra giám định chất lượng hàng hoá trước khi tiến hành giao dịch trên sàn)  và phục vụ quá trình giao nhận hàng.  v  Trung tâm Giao dịch:  Bao gồm các phòng ban: sàn giao dịch cà phê, Trung tâm thanh toán bù trừ,  phòng  quản  lý  thành  viên,  phòng  công  nghệ  và  tin  học  và  phòng  thông  tin  thị  trường.  ­  Sàn giao dịch: nơi diễn ra các giao dịch. Có nhiệm vụ tổ chức và điều hành  các phiên giao dịch. Các thành phần tham gia giao dịch trên sàn: ·  Người mua: bao gồm các doanh nghiệp sản xuất nhựa trong nước, các doanh  nghiệp  lọc  dầu  nước  ngoài  (mua  dầu  thô). Ngoài  ra,  còn  bao  gồm  tất  cả  những người có nhu cầu phòng ngừa rủi ro khi giá các nguyên vật  liệu đầu  vào cho quá trình sản xuất kinh doanh tăng. ·  Người  bán:  các  doanh  nghiệp  xuất  khẩu  hạt  nhựa  nước  ngoài,  các  doanh  nghiệp xuất khẩu dầu thô trong nước. Đây là những người có nhu cầu phòng  ngừa rủi ro giá và không có mục đích đầu cơ kiếm lời. ·  Nhà đầu cơ: là những người mua đi bán lại các hợp đồng giao sau để thu lợi  nhuận từ chênh lệch giá. Họ là những nhân tố chính tạo tính thanh khoản cho  thị trường, khiến cho mục đích tạo lập sàn giao sau để phòng ngừa rủi ro giá  cả trở nên gần với thực tiễn hơn. ·  Nhà môi giới trên sàn: thực hiện các giao dịch cho khách hàng, nhà đầu tư  đến giao dịch phải  thông qua nhà môi giới  trên sàn. Nhà môi giới ở đây có  thể là của công ty môi giới hoặc là nhà môi giới độc lập nhưng phải có tín chỉ  hành nghề do các tổ chức có liên quan cấp giấy chứng nhận. 50 ·  Công  ty môi giới  trên sàn:  có nhiệm vụ  tiếp nhận các hồ sơ giao dịch của  khách  hàng,  sau  khi  tiến hành  kiểm  tra  kiểm soát  tính  hợp  lý  của  các hợp  đồng phù hợp với các quy định giao dịch của sàn sẽ tiến hành đẩy lệnh giao  dịch lên sàn. ·  Người tạo lập thị  trường: có vai  trò đảm bảo cho lệnh mua và lệnh bán có  thể thực hiện ở một vài mức giá mà không có bất kỳ sự chậm trễ nào. Chính  họ làm tăng tính linh hoạt cho thị trường và tự tạo lợi nhuận cho mình thông  qua chênh lệch giá.  ­  Trung  tâm  thanh  toán  bù  trừ  (clearing  house):  theo  dõi  tất  cả  các  hoạt  động giao dịch trong ngày để tính toán các vị thế của mỗi thành viên. Từ đó loại trừ  các rủi ro tín dụng, quản lý các tài khoản.  ­  Phòng  quản  lý  thành  viên:  tìm và hướng dẫn cho khách hàng  các  thủ  tục  cần thiết khi tham gia giao dịch trên sàn.  ­  Phòng  thông  tin  thị  trường:  chịu  trách  nhiệm  thu  thập  và  phân  tích  các  thông tin về giá cả trên thị trường trong nước và thế giới. Phối hợp với các công ty  mô giới  của phòng giao dịch  cung cấp  cho  khách hàng những  thông  tin  cần  thiết  trên thị trường.  v  Khối  văn  phòng  tổng  hợp:  phòng  nhân  sự,  phòng  kế  toán,  bộ  phận  kỹ  thuật,….  v  Phòng nghiên cứu pháp chế: nghiên cứu ban hành các quy chế hoạt động  của sàn, sửa đổi các quy mô kích thước hợp đồng, đề xuất các mặt hàng mới tham  gia hợp đồng; xử lý các tranh chấp xảy ra giữa các bên giao dịch tại sàn; trực tiếp  chịu trách nhiệm trước ban giám đốc; ký quỹ giao dịch, đánh giá các giao dịch hàng  ngày và thực hiện thanh toán các giao dịch.  3.1.2.  Quy chế giao dịch tại sàn (điều khoản)  v  Quy định về thời gian làm việc của sàn: từ thứ 2 đến thứ 6 hàng tuần( trừ  ngày nghỉ lễ theo quy định của pháp luật Việt Nam). Mỗi ngày có 1 phiên giao dịch  vào buổi chiều từ 14h đến 17h. 51  v  Quy định về chủng loại hàng hoá: Cà phê Robusta loại R2B.  v  Quy định cách yết giá: VND/kg và áp dụng cho tất cả các loại hợp đồng.  v  Quy định biên độ giao động giá trong ngày: 10 VND/kg  v  Quy định về khối lượng mỗi hợp đồng giao dịch: 2 tấn (1.000kg).  v  Quy định về khoản ký quỹ: Khi  tham gia hợp đồng giao sau, người mua  phải ký quỹ 20% giá trị hợp đồng. Mức ký quỹ duy trì sẽ là 10%, xuống dưới mức  này người tham gia hợp đồng sẽ phải nộp vào khoản ký quĩ cho đủ 20%.  Mức ký quỹ: do sàn giao dịch quy định và có thể thay đổi tuỳ theo tình hình  của thị trường.  v  Quy định về thanh toán và giao hàng: Vào ngày cuối cùng của hợp đồng,  nếu người bán quyết định không bù đắp vị thế hợp đồng (không chuyển nhượng lại  hợp đồng và quyết định mua hàng) thì sẽ phải  thực hiện việc giao hàng vào tháng  giao hàng bằng việc thực hiện “lệnh giao hàng” đến Sàn. Sau khi “Lệnh giao hàng”  được công bố  trên  thị  trường  thì  sàn có  trách nhiệm  tìm kiếm và  xác định người  mua theo phương pháp khớp lệnh liên tục. Người mua có thể là người đã mua hợp  đồng giao sau cà phê hoặc có thể là người mua trên thị trường giao ngay do Sàn tìm  được.  Cả người mua và người bán hoặc bên được ủy  thác (nếu có) phải cung cấp  đầy đủ thông tin để tiến hành giao dịch và giao nhận hàng. Điều này phục vụ cho  công tác thống kê, kiểm tra giao dịch của các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước,  nhằm quản lý việc đầu cơ, thao túng thị trường. Ngoài ra, việc chuẩn hóa thông tin  còn nhằm mục đích ràng buộc nghĩa vụ của người mua và người bán khi tham gia  hợp đồng giao sau.  Nếu bên đối tác tham gia hợp đồng không cư trú thường xuyên tại Việt Nam  thì bắt buộc phải có bên ủy thác để chịu mọi trách nhiệm liên đới của hợp đồng.  ­  Thời gian giao hàng: hợp đồng giao sau dầu thô, hạt nhựa: được giao dịch  trong tháng liên tiếp. Sau ngày giao dịch cuối cùng một ngày là ngày giao hàng.  ­  Tháng giao hàng: là tháng ba, tháng năm, tháng bảy, tháng chín.  ­  Địa điểm giao hàng: 52 ·  Giao hàng tại kho của người bán nếu người mua và người bán ở trong cùng  một quốc gia. ·  Giao  hàng  tại  cảng  của  nước  xuất  khẩu  (người  bán)  nếu  người  mua  và  người bán ở hai quốc gia khác nhau. Chi phí vận chuyển từ kho của người  bán ra cảng do hai bên tự thoả thuận.  ­  Phương thức thanh toán: cách thức thanh toán do các bên tự thoả thuận.  ­  Ngày thông báo đầu tiên: Là ngày làm việc đầu tiên của 05 ngày làm việc  cuối cùng của tháng trước Tháng giao hàng.  ­  Ngày giao dịch cuối cùng:  là ngày làm việc cuối cùng của tháng giao dịch  trước tháng giao hàng. Mọi trạng thái giao dịch phải được đóng bằng một giao dịch  đối  ứng hoặc gia hạn  bằng một giao dịch mới  trước giờ đóng  cửa của  thị  trường  ngày hôm đó.  v  Quy định về hoa hồng và phí giao dịch:  Mức hoa hồng  trả  cho  người môi  giới  là  0.03%  trên  giá  trị một  hợp đồng  được giao dịch trên sàn. Phí giao dịch mà môi giới  trả cho sàn giao dịch là 5.60%  của mức hoa hồng mà môi  giới nhận được  từ  khách  hàng. Hoa hồng và phí  giao  dịch sẽ được trả vào ngày làm việc ngay sau ngày giao dịch.  Phí giao dịch mà người mua và người bán phải trả cho sàn là 0.05%  giá trị  hợp đồng trên mỗi hợp đồng được giao dịch trên sàn. Phí giao dịch này nộp sau khi  phòng đăng ký và lưu trữ phát hành hợp đồng giao dịch.  v  Kiểm định chất lượng hàng hóa  ­  Các giấy tờ yêu cầu gồm có: ·  Tờ khai quyền sở hữu ·  Hợp đồng mẫu có chữ ký bên bán ·  Lệnh giao hàng ·  Vận đơn hoặc hóa đơn chuyên chở  ­  Quy định về chất lượng hàng hóa:  Người bán phải chứng minh chất  lượng hàng hóa thông qua chứng chỉ chất  lượng hàng hóa của bộ phận kiểm định chất lượng hàng hóa tại sàn. 53  Chứng chỉ phải ghi rõ số lượng kiện hàng của mỗi lô hàng. Việc kiểm định  phải được hoàn tất trong vòng 5 ngày kể từ ngày nhận được mẫu hàng và chứng chỉ  chất  lượng phải gởi đến cho người mua  trước 10 ngày  làm việc  so với ngày cuối  cùng của khoảng  thời gian  yêu cầu giao hàng. Mỗi  lô  phải  trích  ra 3 mẫu và mỗi  mẫu đều phải có con dấu khu vực tồn trữ thuộc sàn giao dịch.  Một mẫu phải gởi đến  tay người mua để họ kiểm  tra chất  lượng, một mẫu  được bộ phận kiểm định lưu giữ, mẫu còn lại được lưu giữ tại sàn để có cơ sở giải  quyết tranh chấp về chất lượng hàng hóa khi giao hàng sau này. Các chứng chỉ chất  lượng phải thực thi đủ các yêu cầu trên nếu không sẽ không có giá trị pháp lý.  Nếu  hàng  hóa  khác  với  tiêu  chuẩn  quy  định  của  Sàn  sẽ  không  được  giao  hàng, phải trả lại cho người bán để đổi hàng đúng chất lượng, tiêu chuẩn trên. (trừ  trường hợp 2 bên chấp thuận phương thức thanh toán bù trừ bằng tiền mặt). Hàng  hóa được lưu trong kho hàng của Sàn là những hàng hóa đảm bảo đúng tiêu chuẩn,  chờ giao cho bên mua.  v  Quy định về thanh toán và xác định lợi nhuận  Đến ngày kết thúc giao dịch, nếu bên mua và bên bán thỏa thuận không giao  hàng thì có thể thanh toán bằng tiền mặt bằng cách tính chênh lệch giữa giá giao sau  vào  thời điểm ký hợp đồng giao sau và giá giao ngay  thời điểm hiện  tại để  thanh  toán. Trong vòng 15 ngày, người bán phải thanh toán cho người mua. Quá thời hạn  trên, khoản thanh toán trên sẽ được tính với lãi suất nợ quá hạn của ngân hàng.  Tất cả các hợp đồng được thanh toán và xác định lợi nhuận đều phải  thông  qua Trung tâm thanh toán bù trừ của sàn MADEX.  v  Bồi thường  Sàn giao dịch có quyền và các biện pháp theo luật hoặc các thỏa thuận khác  buộc khách hàng phải bồi thường hoặc chịu những bất lợi do tổn thất phát sinh do  các nguyên nhân sau: ·  Khách hàng không đáp ứng đầy đủ các điều khoản và điều kiện giao dịch. ·  Sự đại diện và bảo đảm của Khách hàng trong giao dịch không đúng sự thật. 54  (1b)  (3)  (1a)  (2) ·  Những thỏa thuận giữa khách hàng và Sàn không được thực hiện đầy đủ và  đúng hạn  Trường hợp bất khả kháng: Sàn sẽ không chịu trách nh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfxay_dung_thi_truong_giao_sau_nham_phong_ngua_rui_ro_bien_dong_gia_ca_phe_tai_viet_nam.pdf
Tài liệu liên quan