Tài liệu Luận văn Tìm hiểu những giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Đà Nẵng trong giai đoạn hiện nay: Luận văn 
Những giải pháp tăng cường 
thu hút vốn đầu tư trực tiếp 
nước ngoài ở Đà Nẵng trong 
giai đoạn hiện nay 
MỞ ĐẦU 
1. Tính cấp thiết của đề tài 
Trong quá trình phát triển kinh tế hiện nay, vốn FDI là một bộ phận 
quan trọng trong cơ cấu nguồn vốn đầu tư của bất kỳ một quốc gia hoặc một 
địa phương nào. Đối với nước ta, một nước đang trong quá trình CNH, HĐH, 
chuyển đổi và hội nhập kinh tế, với mục tiêu phát triển kinh tế rất cao, nhu 
cầu vốn đầu tư rất lớn, trong đó vốn FDI có vai trò đặc biệt quan trọng. 
Dưới góc độ của quốc gia hay một địa phương tiếp nhận vốn, FDI có 
mục tiêu và tác động đa chiều. Ngoài tác động phục vụ cho sự nghiệp 
CNH, HĐH đất nước, qua các hoạt động FDI còn tạo cơ hội tiếp nhận kỹ 
thuật sản xuất, kinh nghiệm kinh doanh, các sáng chế, phát minh, bí quyết 
công nghệ, năng lực quản lý, điều hành, giúp các chủ thể trong nước và nền 
kinh tế nói chung đẩy nhanh quá trình phát triển những ngành nghề có kỹ 
thuật, công nghệ mới, góp ph...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
112 trang | 
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1145 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tìm hiểu những giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Đà Nẵng trong giai đoạn hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn 
Những giải pháp tăng cường 
thu hút vốn đầu tư trực tiếp 
nước ngoài ở Đà Nẵng trong 
giai đoạn hiện nay 
MỞ ĐẦU 
1. Tính cấp thiết của đề tài 
Trong quá trình phát triển kinh tế hiện nay, vốn FDI là một bộ phận 
quan trọng trong cơ cấu nguồn vốn đầu tư của bất kỳ một quốc gia hoặc một 
địa phương nào. Đối với nước ta, một nước đang trong quá trình CNH, HĐH, 
chuyển đổi và hội nhập kinh tế, với mục tiêu phát triển kinh tế rất cao, nhu 
cầu vốn đầu tư rất lớn, trong đó vốn FDI có vai trò đặc biệt quan trọng. 
Dưới góc độ của quốc gia hay một địa phương tiếp nhận vốn, FDI có 
mục tiêu và tác động đa chiều. Ngoài tác động phục vụ cho sự nghiệp 
CNH, HĐH đất nước, qua các hoạt động FDI còn tạo cơ hội tiếp nhận kỹ 
thuật sản xuất, kinh nghiệm kinh doanh, các sáng chế, phát minh, bí quyết 
công nghệ, năng lực quản lý, điều hành, giúp các chủ thể trong nước và nền 
kinh tế nói chung đẩy nhanh quá trình phát triển những ngành nghề có kỹ 
thuật, công nghệ mới, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tăng trưởng 
nhanh. FDI còn góp phần quan trọng vào việc giải quyết việc làm, đẩy 
mạnh kim ngạch xuất khẩu, góp phần vào việc lành mạnh hoá các cân đối 
vĩ mô của nền kinh tế. Ngay từ khi bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới, 
vấn đề thu hút vốn FDI đã được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, 
chú ý và đã có nhiều biện pháp tích cực, đổi mới liên tục nhằm thu hút 
ngày càng nhiều và ngày càng có chất lượng nguồn vốn quan trọng này. 
Đối với Đà Nẵng, một thành phố được tái lập chưa lâu như một thành phố 
trực thuộc Trung ương, nằm ở vị trí chiến lược của vùng kinh tế trọng điểm 
miền Trung, với nhiều lợi thế, tiềm năng chưa được khai thác đúng mức, 
đầu tư FDI lại càng có vai trò quan trọng. 
Nghị quyết các Đại hội Đảng, từ Đại hội VI đến Đại hội X đều khẳng 
định rằng, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận cấu thành quan 
trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, được khuyến 
khích phát triển lâu dài, bình đẳng với các thành phần kinh tế khác. Thu hút 
vốn FDI là chủ trương quan trọng của Đà Nẵng, có tác dụng khai thác nguồn 
lực vốn ngoài nước, mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, làm đòn bẩy khai thác 
có hiệu quả các nguồn lực trong nước, tạo nên sức mạnh tổng hợp, phục vụ sự 
nghiệp CNH, HĐH, phát triển bền vững cho kinh tế thành phố Đà Nẵng nói 
riêng và cả vùng kinh tế trọng điểm nói chung. 
Thực tế 20 năm đổi mới vừa qua, nhất là 10 năm gần đây cho thấy, với 
chính sách thu hút ngày càng cởi mở và minh bạch, vốn FDI đã trở thành một 
trong những yếu tố quan trọng để phát triển kinh tế ở nước ta nói chung và 
thành phố Đà Nẵng nói riêng. FDI đã có đóng góp quan trọng vào tốc độ tăng 
trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu ngân sách, giải quyết việc 
làm, xoá đói giảm nghèo trên quy mô toàn bộ nền kinh tế nói chung cũng như 
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nói riêng. Tuy nhiên, ở Đà Nẵng, các biện 
pháp thu hút vốn FDI thời gian qua cũng đã bộc lộ nhiều mặt yếu kém, hạn 
chế. Kết quả là tốc độ tăng vốn FDI chưa đạt như mong đợi. Số lượng các nhà 
đầu tư nước ngoài đến tìm hiểu môi trường đầu tư, số dự án đăng ký dự định 
đầu tư khá nhiều nhưng số dự án đầu tư được cấp phép và đi vào hoạt động 
vẫn còn thấp, số vốn thực sự đầu tư còn thấp về số lượng. Cơ cấu đầu tư chưa 
đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, nhu cầu CNH, HĐH của thành phố với tư 
cách là thành phố trọng điểm của miền Trung và đầu mối quan trọng của hành 
lang kinh tế Đông - Tây. Ngoài những nguyên nhân khách quan như điều kiện 
tự nhiên không thuận lợi, thị trường nhỏ hẹp, sức mua yếu, chi phí vận 
chuyển bằng đường biển cao, thời gian vận chuyển lớn, nguồn nguyên liệu và 
các ngành công nghiệp phụ trợ còn thiếu và yếu, chất lượng kém, cơ chế 
chính sách của Trung ương còn bất cập…, những nguyên nhân chủ quan từ 
phía chính quyền Đà Nẵng cũng đã làm ảnh hưởng tiêu cực đến thu hút vốn 
FDI trên địa bàn. 
Tình hình đó đòi hỏi phải nghiên cứu, tìm kiếm những giải pháp đổi 
mới mạnh mẽ hơn nữa để tăng cường thu hút vốn FDI có hiệu quả hơn, xem 
đó là vấn đề quan trọng, đột phá để phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn 
2006 - 2010 và các giai đoạn tiếp theo. Đó là lý do đề tài: “Những giải pháp 
tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Đà Nẵng trong giai 
đoạn hiện nay” được chọn làm luận văn thạc sĩ của tác giả. 
 2. Tình hình nghiên cứu đề tài 
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về FDI nói chung cũng như những 
giải pháp thu hút FDI nói riêng. Sau đây là những công trình tiêu biểu: 
 - “Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở các nước 
ASEAN và vận dụng vào Việt Nam”, Nguyễn Huy Thám, Luận án tiến sĩ Kinh 
tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1999. 
 - “Thực trạng và giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước 
ngoài trên địa bàn tỉnh Đồng Nai”, Phan Minh Thành, Luận văn thạc sĩ Kinh 
tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2000. 
 - “Hoàn thiện Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư 
trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam hiện nay”, Nguyễn Văn Hùng, Luận văn thạc 
sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2002. 
- “Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước 
ngoài tại thành phố Đà Nẵng”, Ngô Quang Vinh, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, 
Đại học Đà Nẵng, Đà Nẵng, 2003. 
- “Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài - vị trí, vai trò của nó 
trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam”, Đề tài KH-CN 
cấp nhà nước KX01.05, GS.TS Nguyễn Bích Đạt, Hà Nội, 2004. 
- “Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Bình Dương - Thực trạng và giải 
pháp”, Bùi Thị Dung, Luận văn thạc sĩ Kinh doanh và quản lý, Học viện 
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2005. 
Ngoài ra, còn có nhiều bài viết đăng trên các tạp chí về vấn đề vốn FDI 
với những cách tiếp cận và giải quyết ở những khía cạnh khác nhau của vấn 
đề thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các công trình nghiên cứu đã đề 
cập đến rất nhiều khía cạnh của đầu tư FDI như tác động của FDI; vị trí, vai 
trò của FDI; quản lý nhà nước đối với khu vực này; các biện pháp thu hút FDI 
phục vụ phát triển kinh tế… Tuy nhiên, đến nay chưa có công trình nào 
nghiên cứu đầy đủ và có hệ thống về những giải pháp thu hút vốn FDI trong 
điều kiện cụ thể của Đà Nẵng. 
 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 
 3.1. Mục đích nghiên cứu 
Mục đích nghiên cứu của đề tài là hệ thống hoá có cơ sở lý luận và thực 
tiễn chính sách thu hút vốn FDI đối với các vùng, địa phương, đánh giá thực 
trạng và tìm ra những giải pháp nhằm tăng cường hơn nữa thu hút vốn FDI ở 
Đà Nẵng. 
 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn của FDI, làm rõ vai trò của nó 
đối với sự phát triển kinh tế đối với các vùng, địa phương. 
- Phân tích thực trạng đầu tư và đánh giá chính sách thu hút vốn FDI ở 
Đà Nẵng thời gian từ năm 1997 đến 2006 
- Luận chứng những giải pháp tăng cường thu hút vốn FDI ở Đà Nẵng 
trong thời gian tới 
 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 
4.1. Đối tượng nghiên cứu 
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các biện pháp chính sách thu hút 
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Đà Nẵng. Các biện pháp này bao gồm 2 bộ 
phận: bộ phận triển khai thực hiện các chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài của 
Trung ương; bộ phận thực hiện gồm các biện pháp của chính quyền địa phương 
trong phạm vi được phân cấp về chính sách. Góc độ tiếp cận của luận văn chủ 
yếu là khảo sát các giải pháp của Nhà nước. 
4.2. Đối tượng khảo sát của luận văn 
Khảo sát các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Đà Nẵng như là đối 
tượng tác động (kết quả) của các biện pháp chính sách. Ngoài ra, luận văn khảo 
sát hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước của chính quyền Đà Nẵng. 
4.3. Phạm vi nghiên cứu 
Về thời gian: thời gian nghiên cứu giới hạn từ năm 1997 đến nay. 
Những giải pháp và kiến nghị được đề xuất cho giai đoạn tương lai đến 
khoảng 2010. 
Về không gian: giới hạn trong phạm vi các hoạt động FDI tại Đà Nẵng. Để 
nghiên cứu so sánh, có mở rộng không gian khảo sát ở những chỗ cần thiết. 
 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và phương 
pháp duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan 
điểm đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; các thành 
tựu khoa học trong kinh tế nói chung và trong lĩnh vực chính sách FDI nói 
riêng. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong luận văn là: 
phân tích, tổng hợp, so sánh, mô hình hoá; kết hợp nghiên cứu lí luận với tổng 
kết thực tiễn, lấy ý kiến chuyên gia, nghiên cứu tài liệu. 
 6. Những đóng góp của luận văn 
- Phân tích, đánh giá thực trạng thu hút vốn FDI ở Đà Nẵng, đánh giá 
các biện pháp chính sách đã thực hiện ở Đà Nẵng, tìm ra những bài học thành 
công và nguyên nhân không thành công trong thực hiện chính sách thu hút 
vốn FDI ở Đà Nẵng. 
- Một số giải pháp đặc thù đề xuất được luận chứng với khả năng đóng 
góp làm tăng thu hút vốn FDI ở Đà Nẵng. 
7. Kết cấu của luận văn 
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, 
Luận văn được trình bày trong 3 chương, 10 tiết. 
Chương 1 
SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN TĂNG CƯỜNG THU HÚT 
VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở ĐÀ NẴNG 
 1.1. VAI TRÒ CỦA VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐỐI 
VỚI QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ 
 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài 
 1.1.1.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài 
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ngày nay đã trở thành hình thức đầu 
tư phổ biến và đã được định nghĩa bởi các tổ chức kinh tế quốc tế cũng như 
luật pháp của các quốc gia. 
FDI là một loại hình đầu tư quốc tế, trong đó chủ đầu tư của 
một nền kinh tế đóng góp một số vốn hoặc tài sản đủ lớn vào một 
nền kinh tế khác để sở hữu hoặc điều hành, kiểm soát đối tượng họ 
bỏ vốn đầu tư nhằm mục đích lợi nhuận hoặc các lợi ích kinh tế 
khác [20, tr.14]. 
FDI là sự di chuyển vốn, tài sản, công nghệ hoặc bất kỳ tài sản nào 
từ nước đi đầu tư sang nước tiếp nhận đầu tư để thành lập hoặc kiểm 
soát doanh nghiệp nhằm mục đích kinh doanh có lãi [48, tr.30-31]. 
Luật Đầu tư 2005 của Việt Nam cũng có định nghĩa về FDI như sau: 
Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt 
Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt 
động đầu tư [28, tr.8]. 
Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu 
tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư [28, tr.8]. 
 Như vậy, FDI, xét theo định nghĩa pháp lý của Việt Nam, là hoạt động 
bỏ vốn đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài vào lãnh thổ Việt Nam với điều kiện 
họ phải tham gia quản lý hoạt động đầu tư đó. 
 Xét về bản chất FDI khác (đối lập) với đầu tư gián tiếp nước ngoài; 
đồng thời FDI là đầu tư thuộc kênh tư nhân, khác hẳn với đầu tư tài trợ 
(ODA) của Chính phủ hoặc các tổ chức quốc tế. 
 1.1.1.2. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài 
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có những đặc điểm chủ yếu sau: 
Thứ nhất, gắn liền với việc di chuyển vốn đầu tư, tức là tiền và các loại 
tài sản khác giữa các quốc gia, hệ quả là làm tăng lượng tiền và tài sản của 
nền kinh tế nước tiếp nhận đầu tư và làm giảm lượng tiền và tài sản nước đi 
đầu tư. 
Thứ hai, được tiến hành thông qua việc bỏ vốn thành lập các doanh nghiệp 
mới (liên doanh hoặc sở hữu 100% vốn), hợp đồng hợp tác kinh doanh, mua lại 
các chi nhánh hoặc doanh nghiệp hiện có, mua cổ phiếu ở mức khống chế hoặc 
tiến hành các hoạt động hợp nhất và chuyển nhượng doanh nghiệp. 
Thứ ba, nhà đầu tư nước ngoài là chủ sở hữu hoàn toàn vốn đầu tư hoặc 
cùng sở hữu vốn đầu tư với một tỷ lệ nhất định đủ mức tham gia quản lý trực 
tiếp hoạt động của doanh nghiệp. 
Thứ tư, là hoạt động đầu tư của tư nhân, chịu sự điều tiết của các quan 
hệ thị trường trên quy mô toàn cầu, ít bị ảnh hưởng của các mối quan hệ chính 
trị giữa các nước, các chính phủ và mục tiêu cơ bản luôn là đạt lợi nhuận cao. 
Thứ năm, nhà đầu tư trực tiếp kiểm soát và điều hành quá trình vận 
động của dòng vốn đầu tư. 
Thứ sáu, FDI bao gồm hoạt động đầu tư từ nước ngoài vào trong nước 
và đầu tư từ trong nước ra nước ngoài, do vậy bao gồm cả vốn di chuyển vào 
một nước và dòng vốn di chuyển ra khỏi nền kinh tế của nước đó. 
Thứ bảy, FDI chủ yếu là do các công ty xuyên quốc gia thực hiện. 
Các đặc điểm nêu trên mang tính chất chung cho tất cả các hoạt động 
FDI trên toàn thế giới. Đối với Việt Nam, quá trình tiếp nhận FDI diễn ra đã 
được 20 năm và những đặc điểm nêu trên cũng đã thể hiện rõ nét. Chính những 
đặc điểm này đòi hỏi thể chế pháp lý, môi trường và chính sách thu hút FDI phải 
chú ý để vừa thực hiện mục tiêu thu hút đầu tư, vừa bảo đảm mối quan hệ cân 
đối giữa kênh đầu tư FDI với các kênh đầu tư khác của nền kinh tế. 
 1.1.2. Các hình thức của đầu tư trực tiếp nước ngoài 
Có nhiều tiêu chí khác nhau để phân biệt các hình thức FDI. Có thể hiểu 
hình thức đầu tư FDI là cách nhà đầu tư ở một số nước chuyển đổi quyền sở 
hữu vốn (tiền hoặc bất kỳ tài sản nào) thành quyền sở hữu và quản lý hoặc 
kiểm soát một thực thể kinh tế ở một nước khác. Như vậy, hình thức FDI 
được xem như là các cách thức thực hiện những kênh đưa vốn bên ngoài vào 
nước tiếp nhận đầu tư, và nó phụ thuộc chủ yếu vào các chính sách, định 
hướng thu hút FDI của nước chủ nhà. 
Ngày nay, trên thế giới nói chung cũng như ở Việt Nam nói riêng, FDI 
được thực hiện thông qua hai kênh chủ yếu: i) đầu tư mới và mở rộng (GI); 
ii) mua lại và sáp nhập ( cross-border M & As). 
GI là kênh đầu tư mà các chủ đầu tư thực hiện đầu tư ở nước tiếp nhận 
vốn thông qua việc xây dựng các doanh nghiệp mới hoặc mở rộng quy mô 
doanh nghiệp đã đầu tư từ trước. Hình thức này bổ sung ngay một lượng vốn 
đầu tư nhất định cho nước nhận đầu tư, do vậy có hiệu ứng rõ rệt tạo việc làm 
và trực tiếp tác động đến thay đổi cơ cấu ngành kinh tế thông qua việc xây 
dựng các doanh nghiệp mới hoặc mở rộng quy mô, qua đó, thúc đẩy cạnh 
tranh trong nền kinh tế. Đây là kênh đầu tư truyền thống của FDI và là kênh 
chủ yếu để các nhà đầu tư của các nước phát triển đầu tư vào các nước đang 
hoặc kém phát triển. 
Cross-border M & As là kênh đầu tư mà các chủ đầu tư tiến hành đầu tư 
thông qua việc mua lại và sáp nhập các doanh nghiệp hiện có ở nước ngoài 
hoặc mua cổ phần của các công ty cổ phần. Hình thức này chủ yếu là chuyển 
sở hữu của các doanh nghiệp đang tồn tại ở nước chủ nhà sang sở hữu của các 
nhà đầu tư nước ngoài. Về lâu dài, hình thức M & As sẽ thu hút được nguồn 
vốn từ bên ngoài do mở rộng qui mô hoạt động của doanh nghiệp. Kênh đầu 
tư này chủ yếu được thực hiện ở các nước phát triển, các nước mới công 
nghiệp hóa, đặc biệt là trong những lĩnh vực công nghệ cao và có xu hướng 
tăng mạnh trong những năm gần đây. Luật Đầu tư 2005 của Việt Nam cũng 
đã thừa nhận và pháp lý hoá kênh đầu tư này ở Việt Nam. Tuy nhiên, hình 
thức đầu tư này vẫn chưa phổ biến ở nước ta do đây là kênh đầu tư FDI mới, 
nhà đầu tư còn dè chừng; hơn nữa, Nhà nước vẫn hạn chế về tỷ lệ cổ phần của 
người nước ngoài trong các công ty cổ phần trong nước. Như vậy, nếu chỉ thu 
hút FDI theo kênh GI thì không đón bắt được xu hướng đầu tư quốc tế ngày 
nay, sẽ làm hạn chế khả năng thu hút FDI vào nước ta. Tương lai, với chính 
sách đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế, M & As sẽ là kênh đầu tư quan 
trọng của FDI ở Việt Nam [31, tr.37]. 
Với hai kênh đầu tư chính như đã nêu trên, tùy theo mức độ nắm giữ 
quyền quản lý, sẽ có các hình thức đầu tư khác nhau. Những hình thức đầu tư 
này được quy định bởi thể chế pháp luật về đầu tư, làm cơ sở để các nhà đầu 
tư triển khai các hoạt động đưa vốn vào và thực hiện các biện pháp quản lý 
của họ. 
Luật Đầu tư 2005 đã quy định 5 hình thức FDI cơ bản ở Việt Nam [28, tr.22]. 
Các hình thức này cũng đã được thừa nhận rộng rãi trên thế giới. Sau đây sẽ 
trình bày 5 hình thức này. 
a. Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài 
Hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là hình thức truyền 
thống và phổ biến của FDI. Với hình thức này, các nhà đầu tư, cùng với việc 
chú trọng khai thác những lợi thế của địa điểm đầu tư mới, đã nỗ lực tìm cách 
áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ, kinh nghiệm quản lý trong hoạt động 
kinh doanh để đạt hiệu quả cao nhất. Hình thức này phổ biến ở quy mô đầu tư 
nhỏ nhưng cũng rất được các nhà đầu tư ưa thích đối với các dự án quy mô 
lớn. Hiện nay, các công ty xuyên quốc gia thường đầu tư theo hình thức 
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và họ thường thành lập một công ty con 
của công ty mẹ xuyên quốc gia. 
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài thuộc sở hữu của nhà đầu 
tư nước ngoài nhưng phải chịu sự kiểm soát của pháp luật nước sở tại (nước 
nhận đầu tư). Là một pháp nhân kinh tế của nước sở tại, doanh nghiệp phải 
được đầu tư, thành lập và chịu sự quản lý nhà nước của nước sở tại. Doanh 
nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của nhà 
đầu tư nước ngoài tại nước chủ nhà, nhà đầu tư phải tự quản lý, tự chịu trách 
nhiệm về kết quả kinh doanh. Về hình thức pháp lý, dưới hình thức này, theo 
Luật Doanh nghiệp 2005, có các loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn, 
doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần… [26, tr.358]. 
Hình thức 100% vốn đầu tư nước ngoài có ưu điểm là nước chủ nhà 
không cần bỏ vốn, tránh được những rủi ro trong kinh doanh, thu ngay được 
tiền thuê đất, thuế, giải quyết việc làm cho người lao động. Mặt khác, do độc 
lập về quyền sở hữu nên các nhà đầu tư nước ngoài chủ động đầu tư và để 
cạnh tranh, họ thường đầu tư công nghệ mới, phương tiện kỹ thuật tiên tiến 
nhằm đạt hiệu quả kinh doanh cao, góp phần nâng cao trình độ tay nghề 
người lao động. Tuy nhiên, nó có nhược điểm là nước chủ nhà khó tiếp nhận 
được kinh nghiệm quản lý và công nghệ, khó kiểm soát được đối tác đầu tư 
nước ngoài và không có lợi nhuận. 
b. Thành lập doanh nghiệp liên doanh giữa các nhà đầu tư trong 
nước và nhà đầu tư nước ngoài 
Đây là hình thức được sử dụng rộng rãi trên thế giới từ trước tới nay. 
Hình thức này cũng rất phát triển ở Việt Nam, nhất là giai đoạn đầu thu hút 
FDI. DNLD là doanh nghiệp được thành lập tại nước sở tại trên cơ sở hợp 
đồng liên doanh ký giữa Bên hoặc các Bên nước chủ nhà với Bên hoặc các 
Bên nước ngoài để đầu tư kinh doanh tại nước sở tại [31, tr.42]. 
Như vậy, hình thức DNLD tạo nên pháp nhân đồng sở hữu nhưng địa 
điểm đầu tư phải ở nước sở tại. Hiệu quả hoạt động của DNLD phụ thuộc rất 
lớn vào môi trường kinh doanh của nước sở tại, bao gồm các yếu tố kinh tế, 
chính trị, mức độ hoàn thiện pháp luật, trình độ của các đối tác liên doanh của 
nước sở tại... Hình thức DNLD có những ưu điểm là góp phần giải quyết tình 
trạng thiếu vốn, nước sở tại tranh thủ được nguồn vốn lớn để phát triển kinh 
tế nhưng lại được chia sẻ rủi ro; có cơ hội để đổi mới công nghệ, đa dạng hóa 
sản phẩm; tạo cơ hội cho người lao động có việc làm và học tập kinh nghiệm 
quản lý của nước ngoài; Nhà nước của nước sở tại dễ dàng hơn trong việc 
kiểm soát được đối tác nước ngoài. Về phía nhà đầu tư, hình thức này là công 
cụ để thâm nhập vào thị trường nước ngoài một cách hợp pháp và hiệu quả, 
tạo thị trường mới, góp phần tạo điều kiện cho nước sở tại tham gia hội nhập 
vào nền kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, hình thức này có nhược điểm là thường dễ 
xuất hiện mâu thuẫn trong điều hành, quản lý doanh nghiệp do các bên có thể 
có sự khác nhau về chế độ chính trị, phong tục tập quán, truyền thống, văn 
hóa, ngôn ngữ, luật pháp. Nước sở tại thường rơi vào thế bất lợi do tỷ lệ góp 
vốn thấp, năng lực, trình độ quản lý của cán bộ tham gia trong DNLD yếu. 
c. Đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) 
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là hình thức đầu tư được ký giữa các nhà 
đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm mà 
không thành lập pháp nhân [28, tr.10]. 
Hình thức đầu tư này có ưu điểm là giúp giải quyết tình trạng thiếu vốn, 
công nghệ; tạo thị trường mới, bảo đảm được quyền điều hành dự án của nước 
sở tại, thu lợi nhuận tương đối ổn định. Tuy nhiên, nó có nhược điểm là nước sở 
tại không tiếp nhận được kinh nghiệm quản lý; công nghệ thường lạc hậu; chỉ 
thực hiện được đối với một số ít lĩnh vực dễ sinh lời như thăm dò dầu khí. 
Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh không thành lập pháp nhân 
riêng và mọi hoạt động BCC phải dựa vào pháp nhân của nước sở tại. Do đó, 
về phía nhà đầu tư, họ rất khó kiểm soát hiệu quả các hoạt động BCC. Tuy 
nhiên, đây là hình thức đơn giản nhất, không đòi hỏi thủ tục pháp lý rườm rà 
nên thường được lựa chọn trong giai đoạn đầu khi các nước đang phát triển 
bắt đầu có chính sách thu hút FDI. Khi các hình thức 100% vốn hoặc liên 
doanh phát triển, hình thức BCC có xu hướng giảm mạnh. 
d. Hình thức hợp đồng BOT, BTO, BT 
BOT là hình thức đầu tư được thực hiện theo hợp đồng ký kết giữa cơ 
quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng, kinh 
doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời gian nhất định; hết thời hạn, 
nhà đầu tư chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho Nhà nước Việt 
Nam [28, tr.11]. 
BTO và BT là các hình thức phái sinh của BOT, theo đó quy trình đầu 
tư, khai thác, chuyển giao được đảo lộn trật tự. 
Hình thức BOT, BTO, BT có các đặc điểm cơ bản: một bên ký kết phải 
là Nhà nước; lĩnh vực đầu tư là các công trình kết cấu hạ tầng như đường sá, 
cầu, cảng, sân bay, bệnh viện, nhà máy sản xuất, điện, nước...; bắt buộc đến 
thời hạn phải chuyển giao không bồi hoàn cho Nhà nước. 
Ưu điểm của hình thức này là thu hút vốn đầu tư vào những dự án kết 
cấu hạ tầng, đòi hỏi lượng vốn lớn, thu hồi vốn trong thời gian dài, làm giảm 
áp lực vốn cho ngân sách nhà nước. Đồng thời, nước sở tại sau khi chuyển 
giao có được những công trình hoàn chỉnh, tạo điều kiện phát huy các nguồn 
lực khác để phát triển kinh tế. Tuy nhiên, hình thức BOT có nhược điểm là độ 
rủi ro cao, đặc biệt là rủi ro chính sách; nước chủ nhà khó tiếp nhận kinh 
nghiệm quản lý, công nghệ. 
e. Đầu tư mua cổ phần hoặc sáp nhập, mua lại doanh nghiệp 
Đây là hình thức thể hiện kênh đầu tư Cross - border M & As đã nêu ở 
trên. Khi thị trường chứng khoán phát triển, các kênh đầu tư gián tiếp (FPI) được 
khai thông, nhà đầu tư nước ngoài được phép mua cổ phần, mua lại các doanh 
nghiệp ở nước sở tại, nhiều nhà đầu tư rất ưa thích hình thức đầu tư này. 
Ở đây, về mặt khái niệm, có vấn đề ranh giới tỷ lệ cổ phần mà nhà đầu 
tư nước ngoài mua - ranh giới giúp phân định FDI với FPI. Khi nhà đầu tư 
nước ngoài tham gia mua cổ phiếu, trái phiếu trên thị trường chứng khoán 
nước sở tại, họ tạo nên kênh đầu tư gián tiếp nước ngoài (FPI). Tuy nhiên, khi 
tỷ lệ sở hữu cổ phiếu vượt quá giới hạn nào đó cho phép họ có quyền tham 
gia quản lý doanh nghiệp thì họ trở thành nhà đầu tư FDI. Luật pháp Hoa Kỳ 
và nhiều nước phát triển quy định tỷ lệ ranh giới này là 10%. Đối với Việt 
Nam trong giai đoạn hiện nay, tỷ lệ này được quy định là 30%. 
Hình thức mua cổ phần hoặc mua lại toàn bộ doanh nghiệp có ưu điểm 
cơ bản là để thu hút vốn và có thể thu hút vốn nhanh, giúp phục hồi hoạt động 
của những doanh nghiệp bên bờ vực phá sản. Nhược điểm cơ bản là dễ gây 
tác động đến sự ổn định của thị trường tài chính. Về phía nhà đầu tư, đây là 
hình thức giúp họ đa dạng hoá hoạt động đầu tư tài chính, san sẻ rủi ro nhưng 
cũng là hình thức đòi hỏi thủ tục pháp lý rắc rối hơn và thường bị ràng buộc, 
hạn chế từ phía nước chủ nhà. 
 1.1.3. Tác động của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với quá trình 
phát triển kinh tế của các nước đang phát triển (nước tiếp nhận đầu tư) 
FDI tác động rất lớn, trực tiếp đối với sự phát triển kinh tế của một quốc 
gia, tác động đến mọi mặt của đời sống về kinh tế, văn hóa, xã hội và chính trị 
của nước tiếp nhận đầu tư. Trong đó, về kinh tế, FDI tác động đến tăng trưởng 
tổng sản phẩm quốc nội (GDP), cán cân thanh toán, thu nhập của người lao 
động và các chỉ tiêu kinh tế khác. Để phục vụ cho việc luận chứng các chính 
sách thu hút FDI, người ta thường nhìn nhận các tác động kinh tế này thành 
hai nhóm: tác động tích cực và tác động tiêu cực. 
 1.1.3.1. Những tác động tích cực 
Thứ nhất, FDI bổ sung nguồn vốn cho phát triển kinh tế. Một nền kinh 
tế đang phát triển, nếu có nguồn vốn đầu tư càng cao thì tăng trưởng sẽ càng 
cao. Vốn đầu tư hình thành từ nguồn vốn đầu tư trong nước và vốn đầu tư 
nước ngoài, bao gồm vốn vay thương mại, đầu tư gián tiếp và FDI. Các quốc 
gia, nhất là các nước đang phát triển, nhu cầu vốn đầu tư rất lớn và FDI là một 
trong những nguồn vốn rất quan trọng. Vốn FDI có nhiều lợi thế vì không tạo 
ra khoản nợ giữa nước đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư, khi dự án tạo ra lợi 
nhuận thì được chuyển về nước và một phần được dùng để tái đầu tư, có tính 
ổn định cao hơn so với các khoản đầu tư khác. 
Thứ hai, FDI góp phần vào sự phát triển công nghệ, kỹ thuật mới, góp 
phần cải thiện đáng kể kết cấu hạ tầng. Đồng thời, FDI tạo nền tảng vững 
chắc về khoa học và công nghệ để thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo 
hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ; giảm tỷ trọng nông nghiệp 
trong cơ cấu GDP. 
 Các nước đang phát triển có đặc điểm là sử dụng công nghệ lạc hậu, do 
đó năng suất lao động thấp, hiệu quả và sức cạnh tranh sản phẩm yếu. Xét về 
nhu cầu, cần có quá trình chuyển giao công nghệ từ các nước phát triển sang 
các nước đang phát triển. Có hai hình thức chuyển giao công nghệ là trực tiếp 
và gián tiếp, trong đó FDI là hình thức chuyển giao công nghệ trực tiếp và có 
hiệu quả nhất. Bằng hình thức này, công nghệ được các công ty nước ngoài 
chuyển giao trực tiếp cả phần cứng (máy móc, thiết bị) lẫn phần mềm là bí 
quyết công nghệ. Đây là ưu điểm của chuyển giao công nghệ bằng con đường 
FDI so với các hình thức chuyển giao công nghệ khác. Việc tiếp nhận công 
nghệ từ chủ đầu tư sẽ giúp các doanh nghiệp FDI trong nước tiếp cận với 
công nghệ từ công ty mẹ, đồng thời rút ngắn khoảng cách công nghệ giữa 
nước đang phát triển với trình độ công nghệ tiên tiến của thế giới. 
Thứ ba, FDI góp phần giải quyết việc làm và nâng cao chất lượng 
nguồn nhân lực. Các dự án FDI mới tạo ra nhiều việc làm mới cho người lao 
động, và thông qua việc thực hiện các dự án đó, làm thay đổi cơ cấu lao động, 
nâng cao năng lực, kỹ năng lao động, năng lực quản lý doanh nghiệp, tác 
phong công nghiệp, phù hợp với nền sản xuất hiện đại. 
Như trên đã nói, FDI luôn gắn liền với chuyển giao công nghệ mới so 
với công nghệ trong nước, cho nên lao động của nước tiếp nhận đầu tư được 
đào tạo để sử dụng và quản lý công nghệ, tiếp cận với phương pháp quản lý 
chất lượng, tổ chức và quản lý công nghệ, biện pháp tiếp thị, tiếp cận với các 
tiêu chuẩn chất lượng quốc tế. Thông qua đó, trình độ và kỹ năng của người 
lao động trong nước được nâng lên rõ rệt. 
 Ngoài việc tạo ra việc làm trực tiếp, FDI còn gián tiếp tạo ra nhiều việc 
làm thông qua những ngành công nghiệp phụ trợ như cung cấp nhiên, nguyên, 
vật liệu, dịch vụ phục vụ cho các doanh nghiệp FDI và các nhà đầu tư nước 
ngoài. Các hoạt động công nghiệp phụ trợ này cũng đòi hỏi chất lượng cao, tổ 
chức tốt, do đó có tác dụng nâng cao trình độ, kỹ năng sản xuất và kinh doanh 
ở các ngành công nghiệp phụ trợ. 
 Thứ tư, FDI góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước tiếp nhận 
đầu tư, thúc đẩy xuất khẩu, cải thiện cán cân thanh toán, mở rộng hợp tác kinh tế 
quốc tế. Thực vậy, hoạt động FDI chủ yếu phát triển ở các ngành công nghiệp, 
dịch vụ mới, do đó có tác động lớn đến cơ cấu ngành kinh tế, góp phần hình 
thành cơ cấu kinh tế hiện đại của nước tiếp nhận đầu tư. Thực tiễn cho thấy, FDI 
ở Việt Nam cũng tập trung vào hai ngành chủ yếu là công nghiệp và dịch vụ, ít 
đầu tư vào nông nghiệp, do đó, góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tăng 
tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ và giảm tỷ trọng nông nghiệp. 
Hầu hết các doanh nghiệp FDI về lĩnh vực sản xuất chủ yếu là sản xuất 
hàng hóa xuất khẩu, do vậy góp phần tăng năng lực xuất khẩu. Đồng thời, 
thông qua các chi nhánh của các công ty nước ngoài hoặc các công ty xuyên 
quốc gia để mở rộng thị trường xuất khẩu. Hầu hết các nước đang phát triển 
đều nhập khẩu máy móc thiết bị và xuất khẩu các sản phẩm thô, do đó cán cân 
thương mại thường thâm hụt, mất cân đối trong cán cân thanh toán. FDI góp 
phần làm tăng thu ngoại tệ, góp phần cải thiện cán cân thanh toán. 
 Ngày nay, quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra nhanh chóng và cạnh 
tranh rất quyết liệt, đầu tư là một trong những lĩnh vực được các quốc gia cam 
kết tự do hóa. FDI làm cho sự phân công lao động quốc tế diễn ra theo chiều 
sâu, những cam kết về tự do hóa FDI được coi như là những quan điểm hội 
nhập kinh tế quốc tế của từng quốc gia. 
 1.1.3.2. Những tác động tiêu cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài 
Bên cạnh những tác động tích cực nêu trên, FDI còn có những tác động 
tiêu cực đến nước tiếp nhận đầu tư. Sau đây là những tác động tiêu cực mang 
tính phổ biến: 
- Đối với các nền kinh tế có quy mô thị trường nhất định, các nhà đầu tư 
nước ngoài, sau một thời gian hoạt động, có khả năng sẽ kiểm soát thị trường 
địa phương, như vậy làm suy yếu các doanh nghiệp trong nước, làm cho nền 
kinh tế của nước nhận đầu tư ngày càng phụ thuộc vào các nhà sản xuất nước 
ngoài. Ngày nay, trong điều kiện mở cửa và hội nhập quốc tế, tác động này có 
xu hướng ngày càng mạnh nhưng các nước tiếp nhận đầu tư cũng đã có đối 
sách thích hợp nhằm hạn chế tác động này. 
- Về chuyển giao công nghệ, FDI có khả năng chuyển giao các công 
nghệ lạc hậu sang các nước đang phát triển, biến các nước tiếp nhận đầu tư 
thành "bãi thải công nghệ". Mặt khác, có một số công ty xuyên quốc gia lại 
chuyển giao những công nghệ quá hiện đại, không thích hợp với trình độ, tay 
nghề nhân lực của nước nhận đầu tư. 
- Lợi nhuận của các doanh nghiệp FDI có xu hướng chuyển ra nước 
ngoài, do vậy FDI tuy tác động đẩy mạnh tăng trưởng ngắn hạn và trung hạn 
nhưng có khả năng làm giảm tiềm lực tăng trưởng dài hạn. 
- Tạo nên những vấn đề phức tạp mới trong quản lý như biến động thị 
trường ngoại hối, trốn thuế thông qua chuyển giá, tăng mức độ gây ô nhiễm 
môi trường... 
- Làm tăng các vấn đề xã hội mới như phân hoá xã hội, giàu nghèo, nạn 
"chảy máu chất xám" trong nội bộ nền kinh tế... 
 1.1.4. Xu hướng của FDI hiện nay trên thế giới 
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế và thương mại thế giới, FDI của 
thế giới trong những năm gần đây cũng có nhiều biến động. Nhiều nghiên cứu 
đã chỉ ra các xu hướng này [20]. Toàn cầu hóa kinh tế thế giới ngày càng thúc 
đẩy sự phát triển các luồng vốn FDI nhằm tối đa hóa lợi nhuận của vốn đầu tư 
thông qua di chuyển sản xuất, kinh doanh đến địa điểm có lợi nhất về chi phí 
và tiêu thụ, trở thành một hình thái quan trọng trong hoạt động đầu tư quốc tế 
của các quốc gia trên thế giới. Vai trò của các công ty xuyên quốc gia ngày 
càng tăng lên trong quá trình phân bổ và di chuyển các dòng vốn FDI trên thế 
giới. Sự phân bổ dòng vốn FDI không đều, phần lớn tập trung ở các nước 
công nghiệp phát triển, dòng vốn FDI chảy vào các nước đang phát triển tuy 
có chiều hướng tăng lên nhưng tỷ trọng vẫn còn rất nhỏ bé. Tính cạnh tranh 
giữa các nước đầu tư và giữa các nước tiếp nhận đầu tư với nhau ngày càng 
cao. Quá trình luân chuyển FDI giữa các đối tác tham gia quá trình luân 
chuyển này vừa có tính quốc tế hóa, vừa có tính cục bộ hóa. Hầu hết các nước 
đều tham gia vào cả hai quá trình đầu tư và tiếp nhận đầu tư. 
Về xu hướng ngắn hạn gần đây, có thể thấy rõ, năm 2005 là năm thứ hai 
liên tiếp FDI thế giới tăng trưởng, và đó là một hiện tượng mang tính toàn 
cầu. Theo báo cáo của UNCTAD [58], FDI thế giới năm 2005 tăng 29%, đạt 
916 tỷ USD (năm 2004 tăng 27%). Dòng vào FDI tăng trưởng ở hầu hết các 
khu vực, trong đó một số vùng có sự tăng trưởng chưa từng có trước đây, và ở 
126 trong số 200 nền kinh tế được kiểm soát bởi UNCTAD. Tuy nhiên, dòng 
chảy FDI thế giới còn cách xa đỉnh điểm đạt được vào năm 2000 với 1.400 tỷ 
USD là năm có nhiều cuộc đầu tư lớn thông qua hình thức M & As. Sự bùng 
nổ trong FDI chủ yếu do sự gia tăng của hình thức đầu tư M & As, đặc biệt ở 
các nước phát triển. Xu hướng FDI thế giới cũng cho thấy sự xuất hiện ngày 
càng nhiều các nền kinh tế có FDI lớn, vốn trước đây là các nước đang phát 
triển và các nền kinh tế chuyển đổi. 
Năm 2005, FDI tiếp tục mở rộng nhanh chóng. Các nước phát triển vẫn 
là những nước đầu tư, đồng thời là nước tiếp nhận FDI nhiều nhất. Các nước 
này tiếp nhận khoảng 542 tỷ USD, tăng 37% so với năm 2004; trong khi đó, các 
nước đang phát triển, FDI gia tăng ở mức kỷ lục, đạt 334 tỷ USD. Xét về tỷ lệ 
phần trăm, các nước phát triển chiếm 59% tổng dòng FDI của thế giới. Các nước 
đang phát triển chiếm 36%, và các nước khu vực Đông – Nam Châu Âu và các 
quốc gia thuộc khối thịnh vượng chung (CIS) chiếm khoảng 4% [58]. 
Vương quốc Anh là nước tiếp nhận đầu tư lớn nhất thế giới trong năm 
2005 với 165 tỷ USD. Mặc dù có giảm về mức độ tiếp nhận FDI nhưng Hoa 
Kỳ vẫn là nước đứng thứ nhì. Đối với các nền kinh tế đang phát triển, so với 
năm 2004, danh sách các quốc gia và vùng lãnh thổ tiếp nhận FDI lớn nhất 
vẫn không thay đổi: Trung Quốc (bao gồm cả Hồng Kông) đứng đầu, tiếp 
theo là Singapore, Mexico và Brazil. Tính theo khu vực, EU với 25 thành viên 
là địa điểm hấp dẫn đầu tư nhất, với dòng đầu tư vào năm 2005 đạt 422 tỷ 
USD, gần bằng 50% tổng dòng vào FDI thế giới. Các nước khu vực Đông Á, 
Nam Á và Đông Nam Á tiếp nhận 165 tỷ USD, vào khoảng 1/5 toàn thế giới, 
trong đó Đông Á chiếm 3/4 của khu vực. Tiếp theo là Bắc Mỹ với 133 tỷ USD, 
và Trung, Nam Mỹ với 65 tỷ USD. Khu vực Tây Á có mức tiếp nhận không cao 
nhưng lại đạt tỷ lệ tăng trưởng FDI cao nhất với 85%, vào khoảng 34 tỷ USD. 
Châu Phi đạt 31 tỷ USD, cũng là mức lớn nhất từ trước đến nay [58]. 
Xét về chủ đầu tư, năm 2005, dòng FDI đầu tư của thế giới khoảng 779 
tỷ USD. Các nước phát triển vẫn đứng đầu về đầu tư ra nước ngoài. Năm 
2005, nếu trừ Hoa Kỳ thì Hà Lan đứng đầu, với 119 tỷ USD, tiếp theo là Pháp 
và Vương Quốc Anh. Tuy vậy, dòng đầu tư ra nước ngoài tăng đáng kể ở các 
nền kinh tế đang phát triển. Dẫn đầu nhóm này là Hồng Kông (Trung Quốc) 
với 33 tỷ USD. Thật sự, vai trò của các nền kinh tế đang phát triển và nền 
kinh tế chuyển đổi đối với hoạt động FDI được tăng lên. Từ chỗ có dòng đầu 
tư ra FDI không đáng kể và rất nhỏ bé ở những năm 80, đến nay dòng ra FDI 
ở các nền kinh tế này đạt 133 tỷ USD (năm 2005), tương đương khoảng 17% 
tổng dòng FDI đầu tư ra nước ngoài của thế giới [58]. 
Xu hướng năm 2005 cũng cho thấy, hình thức M & As được thúc đẩy 
mạnh mẽ bởi sự giao dịch cũng như thực hiện của các quỹ đầu tư tập thể, đặc 
biệt ở các nước phát triển, đã thúc đẩy sự gia tăng FDI trong thời gian gần 
đây. Giá trị đầu tư thông qua hình thức M & As tăng 88% so với năm 2004, 
đạt 716 tỷ USD. Về lĩnh vực đầu tư, hầu hết dòng vào của FDI chủ yếu là 
ngành dịch vụ nhưng sự tăng đột biến của FDI là ở lĩnh vực khai thác các 
nguồn lực tự nhiên. Các dịch vụ đạt thành quả đáng kể trong thu hút FDI là tài 
chính, viễn thông và bất động sản. 
Một xu hướng đáng lưu ý nữa là sự gia tăng đầu tư FDI của các công ty 
xuyên quốc gia. Sự xuất hiện của các công ty xuyên quốc gia cấu trúc dạng 
tập đoàn ở các nền kinh tế đang phát triển ngày càng gia tăng đáng kể. Các 
tập đoàn này bao gồm các công ty mẹ và các công ty con của chúng ở các 
nước trên thế giới. Công ty mẹ là công ty kiểm soát toàn bộ tài sản của chúng 
ở nước sở hữu hơn là ở nước ngoài. Công ty con là các công ty hoạt động ở 
nước ngoài dưới sự quản lý của công ty mẹ và thường được gọi chung là chi 
nhánh ở nước ngoài. Có các loại công ty con dưới đây: 
* Phụ thuộc (subsidiary): chủ đầu tư (thuộc công ty mẹ) sở hữu hơn 
50% tổng tài sản của công ty. Họ có quyền chỉ định hoặc bãi nhiệm các thành 
viên bộ máy tổ chức và quản lý điều hành của công ty. 
* Liên kết (associate): chủ đầu tư sở hữu 10%-50% công ty, tỷ lệ này 
chưa đủ để có quyền hạn như trường hợp công ty phụ thuộc [3, tr.54]. 
Các nước công nghiệp phát triển OECD vẫn là các nước có ảnh hưởng 
quyết định đối với sự phát triển của FDI ở các nước. Đã từ lâu, bộ ba kinh tế 
EU, Hoa Kỳ và Nhật Bản là những nhà đầu tư ra nước ngoài và là nơi tiếp 
nhận vốn FDI lớn nhất thế giới [58]. 
 1.1.5. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với Đà Nẵng 
Từ ngày 1/1/1997, Đà Nẵng đã trở thành đơn vị hành chính trực thuộc 
Trung ương, tạo cơ hội và khả năng mới cho sự phát triển kinh tế - xã hội của 
thành phố. Trong những năm qua, FDI góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế 
của thành phố theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ và thực hiện 
chiến lược kinh tế hướng về xuất khẩu của thành phố. 
Xét về tổng thể, FDI là nguồn vốn đầu tư quan trọng trong tổng vốn đầu 
tư phát triển của thành phố, giải quyết một phần nhu cầu thiếu vốn đầu tư 
nghiêm trọng của thành phố. Đối với một số ngành trọng điểm, FDI còn có 
vai trò là nguồn vốn quyết định đến quy mô và tốc độ phát triển ngành. 
FDI còn góp phần tăng trưởng kinh tế, là bộ phận đóng góp chủ yếu cho 
ngân sách thành phố, góp phần đáng kể giải quyết việc làm, người lao động 
làm việc trong các doanh nghiệp FDI có thu nhập bình quân tương đối cao và 
ổn định. 
FDI còn có vai trò làm cho nền kinh tế thành phố thâm nhập vào thị 
trường quốc tế, các doanh nghiệp địa phương buộc phải thích ứng để tồn tại 
và phát triển, đồng thời phải có các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh 
của mình trên tất cả các mặt liên quan đến sản xuất kinh doanh, như vậy làm 
cho kinh tế thành phố nói chung năng động hơn, có sức cạnh tranh tốt hơn. 
Các doanh nghiệp có vốn FDI góp phần nâng cao trình độ và tạo điều 
kiện cho người lao động tiếp cận với công nghệ, kỹ thuật cao. Đến nay, các 
dự án FDI trên địa bàn thành phố giải quyết việc làm cho gần 25.000 lao động 
trực tiếp và hàng chục ngàn lao động thời vụ khác. 
Cơ cấu vốn FDI phù hợp với xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế 
thành phố từ nay đến năm 2010 là công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp theo 
đúng quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của thành phố. Mặt khác, 
FDI còn góp phần vào việc khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên của 
thành phố một cách hiệu quả. 
 1.2. NHU CẦU THU HÚT VỐN VÀ SỰ CẦN THIẾT ĐẨY MẠNH 
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở ĐÀ NẴNG 
 1.2.1. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Đà Nẵng từ 2006 đến 2010 
 1.2.1.1. Điều kiện, vị trí của Đà Nẵng 
Đà Nẵng là thành phố được phát triển mạnh từ thời Pháp thuộc, trở 
thành đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương từ 1/1/1997. Đà Nẵng có diện 
tích tự nhiên 1.256,4 km2, dân số năm 2005 là 779.017 người. Đà Nẵng hiện 
nay có 6 quận và 2 huyện (huyện Hoà Vang và huyện đảo Hoàng Sa). Phía 
Bắc giáp với tỉnh Thừa Thiên - Huế, phía Nam và phía Tây giáp với tỉnh 
Quảng Nam, phía Đông giáp với biển Đông. Đà Nẵng là đầu mối quan trọng 
của hệ thống giao thông vận tải quốc gia bao gồm đường bộ, đường không và 
đường biển. 
Đà Nẵng nằm ở vị trí trung tâm của cả nước, có mối giao lưu kinh tế, 
văn hoá mật thiết với các trung tâm lớn ở hai miền là thủ đô Hà Nội và thành 
phố Hồ Chí Minh. Nằm giữa vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, cách khu 
kinh tế Dung Quất (thuộc tỉnh Quảng Ngãi) 120 km và khu kinh tế mở Chu 
Lai (thuộc tỉnh Quảng Nam) 90 km về phía Nam, Đà Nẵng hiện nay và trong 
tương lai sẽ là đô thị hạt nhân của khu vực. Về bưu chính viễn thông, Đà 
Nẵng có trạm cáp quang biển gần bờ là cầu nối hệ thống viễn thông quốc tế 
của Việt Nam với xa lộ thông tin toàn cầu. Đà Nẵng cũng là một trong số các 
trung tâm giao lưu quốc tế ở Việt Nam, là điểm cuối của hành lang kinh tế 
Đông – Tây của Tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng, rất thuận lợi cho việc 
giao lưu với các địa phương trong nước và các nước láng giềng như Lào, Thái 
Lan, Myanmar. Nguồn điện cung cấp cho thành phố từ hệ thống điện lưới 
quốc gia 500KV Bắc – Nam đủ khả năng đáp ứng nhu cầu điện cho sản xuất 
và sinh hoạt. Đà Nẵng có hệ thống kết cấu hạ tầng có lợi thế lớn ở miền 
Trung, được coi là ưu thế trong thu hút vốn FDI. Đà Nẵng là một trong 
những địa phương có chỉ số phát triển con người (HDI) cao nhất nước, hệ 
thống giáo dục hoàn chỉnh từ bậc mầm non đến đại học. Đại học Đà Nẵng 
là một trong những trường đại học lớn nhất của khu vực miền Trung và cả 
nước, là nơi đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao phục vụ cho sự 
nghiệp CNH, HĐH Đà Nẵng nói riêng và khu vực miền Trung nói chung. 
Đà Nẵng cũng có hệ thống các trường dạy nghề rất tốt, đáp ứng đòi hỏi của 
các nhà đầu tư trên nhiều lĩnh vực khác nhau. 
 1.2.1.2. Định hướng chiến lược của Đà Nẵng 
Đại hội Đảng bộ thành phố Đà Nẵng lần thứ XIX đề ra: 
Với yêu cầu phát triển của 10 năm đầu thế kỷ XXI và Tầm 
nhìn 2020, Đà Nẵng sẽ phát triển thành một trong những đô thị lớn 
của cả nước với quy mô dân số khoảng 1,5 triệu người; không gian 
đô thị ngày càng mở rộng. Đà Nẵng sẽ phát huy vai trò là đô thị 
trung tâm của miền Trung, đầu mối giao thông quan trọng và cửa 
ngõ chính ra biển của các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên và hành 
lang Đông – Tây; cùng với Khu kinh tế mở Chu Lai, Khu kinh tế 
Dung Quất, đóng vai trò động lực phát triển vùng kinh tế trọng điểm 
miền Trung; là địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng về quốc 
phòng – an ninh của khu vực và cả nước. Trong cơ cấu kinh tế của 
Đà Nẵng vào năm 2020, ngành dịch vụ sẽ chiếm tỷ trọng trên 60% 
GDP. GDP bình quân đầu người đến năm 2020 phấn đấu đạt mức 
5000USD/người. Đà Nẵng phấn đấu để trở thành thành phố công 
nghiệp vào năm 2015 [40, tr.53-54]. 
a. Mục tiêu chung 
Nghị quyết 33 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Đà 
Nẵng trong thời kỳ CNH, HĐH nêu rõ mục tiêu chung về phát triển thành phố: 
Xây dựng thành phố Đà Nẵng trở thành một trong những đô 
thị lớn của cả nước, là trung tâm kinh tế - xã hội lớn của miền Trung 
với vai trò là trung tâm công nghiệp, thương mại, du lịch và dịch vụ; 
là thành phố cảng biển, đầu mối giao thông quan trọng về trung 
chuyển vận tải trong nước và quốc tế; trung tâm bưu chính - viễn 
thông và tài chính - ngân hàng; một trong những trung tâm văn hoá - 
thể thao, giáo dục - đào tạo và khoa học công nghệ của miền Trung; 
là địa bàn giữ vị trí chiến lược quan trọng về quốc phòng, an ninh 
của khu vực miền Trung và cả nước [16, tr.332]. 
b. Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu giai đoạn 2006 - 2010 
Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XIX đề ra một số chỉ tiêu chủ yếu 
sau [40]: 
- Nhịp độ tăng GDP trung bình: 14% - 15%. 
- GDP bình quân đầu người đến năm 2010 đạt: 2.000 USD. 
- Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp: 22% - 23%. 
- Tốc độ tăng giá trị sản xuất các ngành dịch vụ: 14% - 15%. 
- Tốc độ tăng giá trị sản xuất nông nghiệp: 5% - 6%. 
- Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân: 23% - 24% /năm. 
- Thu ngân sách chiếm 22% - 23% GDP. 
- Giảm tỷ lệ sinh bình quân hàng năm: 0,03%. 
- Hàng năm giải quyết thêm việc làm khoảng 3,2 - 3,5 vạn lao động. 
- Năm 2010 tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn thành phố sẽ giảm xuống còn 0,5%. 
- Cơ cấu kinh tế đến năm 2010: công nghiệp - xây dựng: 46,7%; dịch vụ: 
50,1%; thuỷ sản, nông, lâm nghiệp: 3,2%. 
c. Định hướng phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Đà Nẵng đến 
năm 2010 
Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XIX đã đề ra định hướng chiến lược 
phát triển kinh tế - xã hội thành phố đến 2010, trong đó bao gồm những nội 
dung chủ yếu sau [40]: 
- Xây dựng thành phố Đà Nẵng trở thành đô thị hiện đại, văn minh có 
môi trường văn hoá - xã hội lành mạnh, phát triển trong thế ổn định và bền 
vững, giữ vai trò trung tâm của miền Trung và Tây Nguyên với cơ cấu kinh tế 
công nghiệp, thương mại, dịch vụ, du lịch, thuỷ sản, nông lâm nghiệp, trong 
mối quan hệ với cả nước, khu vực hành lang Đông - Tây và ASEAN. 
- Tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Tăng tỷ 
trọng phát triển công nghiệp hướng mạnh vào công nghiệp chế biến, công 
nghiệp hàng tiêu dùng phục vụ cho xuất khẩu, công nghiệp vật liệu xây dựng, 
công nghiệp hoá chất, từng bước tăng tỷ trọng dịch vụ và du lịch. 
- Phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường sinh thái nhằm đảm bảo 
sự phát triển bền vững của thành phố, bảo vệ sức khoẻ và nâng cao chất 
lượng cuộc sống cho nhân dân. 
- Gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội. Tạo nhiều 
việc làm cho người lao động, nâng cao trình độ dân trí. Tăng cường đầu tư 
công cộng cho khu vực nông thôn, miền núi, vùng xa nhằm làm cho mức 
sống của các tầng lớp dân cư ngày càng nâng cao. 
- Phát huy sức mạnh tổng hợp của mọi thành phần kinh tế; đa dạng hoá 
các loại hình sản xuất kinh doanh; phát huy nội lực, tạo ra môi trường đầu tư 
thuận lợi thông thoáng, để thu hút vốn và công nghệ mới từ bên ngoài, tăng 
cường giao lưu kinh tế với các địa phương trong nước và quốc tế. 
- Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu 
phát triển; nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, tham mưu chính 
sách, đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp và công nhân kỹ thuật; có chính 
sách phát triển, sử dụng nhân tài. Coi trọng ứng dụng những thành tựu khoa 
học công nghệ mới. Phát huy truyền thống văn hoá, dũng cảm, cần cù của 
nhân dân Đà Nẵng và hoà nhập với các thành phố lớn trong nước và khu vực. 
- Phát triển kinh tế - xã hội bền vững gắn kết với nhiệm vụ bảo vệ quốc 
phòng, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. 
1.2.2. Nhu cầu vốn đầu tư phát triển của Đà Nẵng và nhu cầu vốn 
đầu tư trực tiếp nuớc ngoài 
1.2.2.1. Tổng vốn đầu tư phát triển cần thiết cho giai đoạn 2006 - 2010 
Báo cáo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của UBND thành phố trình 
bày tại Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XIX nêu rõ: Để phát triển kinh tế - 
xã hội, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ, mục tiêu đã đề ra, thành phố Đà 
Nẵng cần phải có một nguồn vốn đầu tư rất lớn. Để đạt mức tăng trưởng GDP 
bình quân 14% - 15%/năm cần huy động tổng vốn đầu tư toàn xã hội khoảng 
63.200 tỷ đồng, bình quân tăng 15,8%/năm (hệ số suất đầu tư ICOR dự kiến 
là 3,86 lần). Trong đó, nhu cầu vốn đầu tư thời kỳ 2006 - 2010 cho ngành 
nông nghiệp là 1.303,8 tỷ đồng; ngành công nghiệp, xây dựng là 19.018,9 tỷ 
đồng và ngành dịch vụ là 42.877,3 tỷ đồng [49]. 
So sánh với thời kỳ 2001 - 2005, dự kiến tổng vốn đầu tư phát triển thời 
kỳ 2006 - 2010 gấp 2,6 lần; trong đó vốn đầu tư phát triển ngành dịch vụ là 
lớn nhất (bảng 1.1). 
Bảng 1.1. Cơ cấu vốn đầu tư phát triển của Đà Nẵng thời kỳ 2001 - 2005 
và nhu cầu thời kỳ 2006 - 2010 
 Đơn vị tính: tỷ đồng 
Chỉ tiêu 2001 - 2005 2006 - 2010 
Tổng số 23.912,0 63.200,0 
Nông nghiệp 493,3 1.303,8 
Công nghiệp 7.195,9 19.018,9 
Dịch vụ 16.222,8 42.877,3 
Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Đà Nẵng. 
 1.2.2.2. Cân đối các nguồn vốn, nhu cầu thu hút vốn đầu tư trực tiếp 
nước ngoài 
 Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XIX đã nêu rõ nhu cầu 
vốn FDI của thành phố như sau: 
Để thực hiện được mục tiêu đề ra về tổng nguồn vốn đầu tư 
phát triển nêu trên, thành phố cần tăng cường huy động nhiều 
nguồn vốn đầu tư theo nhiều hướng khác nhau; vận động các dự án 
lớn của các Bộ, Ngành Trung ương đầu tư vào thành phố; tranh thủ 
nguồn vốn vay dài hạn, trả chậm hàng năm của Nhà nước và các tổ 
chức tài chính, tín dụng; đẩy mạnh thu hút vốn FDI, vốn đầu tư của 
khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Phấn đấu trong 5 năm (2006 - 
2010) thu hút vốn FDI đạt 1.640 triệu USD, chiếm 40% tổng nhu 
cầu vốn đầu tư phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ này, chủ yếu tập 
trung vào các ngành công nghiệp và du lịch [40, tr.150]. 
 Như vậy, nhu cầu bình quân mỗi năm thành phố phải thu hút vốn FDI 
là 328 triệu USD. Trong các năm gần đây, Đà Nẵng luôn dẫn đầu miền Trung 
về thu hút FDI. Tuy nhiên, so với các địa phương ở hai đầu của đất nước, kết 
quả thu hút FDI vào thành phố Đà Nẵng còn quá khiêm tốn, chưa xứng đáng 
với tiềm năng và vị thế của thành phố Đà Nẵng. Với khả năng tích lũy vốn nội 
bộ còn hạn chế như hiện nay thì việc thu hút nguồn vốn FDI cho sự phát triển 
kinh tế - xã hội ở Đà Nẵng trong thời gian tới là một vấn đề quan trọng mang 
tính chiến lược. 
 1.3. CHÍNH SÁCH THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC 
NGOÀI CỦA NHÀ NƯỚC VIỆT NAM 
 1.3.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về thu hút vốn 
đầu tư trực tiếp nước ngoài 
FDI là một lĩnh vực hoạt động gắn liền với chủ trương “đổi mới và mở 
cửa” của Đảng và Nhà nước ta. Qua 20 năm thực hiện Luật Đầu tư nước 
ngoài, chúng ta đã đạt được một số thành tựu đáng kể. Nước ta đã kí kết các 
hiệp định song phương và tham gia các điều ước quốc tế có liên quan đến 
FDI, bao gồm các cam kết thực hiện điều ước quốc tế, các hiệp định song 
phương, các cam kết về đầu tư đa phương. Nước ta đã tham gia một số hiệp 
định đầu tư đa phương như: Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN, 
chương trình hành động về xúc tiến đầu tư trong khuôn khổ diễn đàn hợp tác 
Á-Âu - ASEAN và nhất là các qui định của WTO có liên quan đến đầu tư khi 
nước ta đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức này. Đến nay, khi nước ta 
trở thành viên chính thức của WTO, các cam kết gia nhập WTO, trong đó có các 
cam kết về đầu tư, đang được thực hiện theo lộ trình đã cam kết. 
Đảng ta luôn có nhận thức đúng đắn về vai trò, vị thế của thành phần 
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà 
nước luôn nhất quán. Ngày 29 tháng 12 năm 1987, Quốc hội nước Cộng hoà 
XHCN Việt Nam thông qua Luật Khuyến khích đầu tư nước ngoài. Vào thời 
điểm đó, Luật này được dư luận quốc tế đánh giá là một luật đầu tư thông 
thoáng nhất trong khu vực [20, tr.186]. 
Điều 1 của Luật này qui định: 
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoan nghênh 
và khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vốn và kỹ 
thuật vào Việt Nam trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của Việt 
Nam, tuân thủ pháp luật của Việt Nam, bình đẳng và các bên cùng 
có lợi. Nhà nước Việt Nam bảo đảm quyền sở hữu đối với vốn đầu 
tư và các quyền lợi khác của các tổ chức, cá nhân nước ngoài, tạo 
những điều kiện thuận lợi và qui định các thủ tục dễ dàng cho tổ 
chức, cá nhân đó đầu tư vào Việt Nam [27]. 
Hơn nữa, hoạt động FDI còn được đưa vào Hiến pháp của nước ta. Điều 
25 của Hiến pháp hiện hành qui định: 
Nhà nước khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu 
tư vốn, công nghệ vào Việt Nam phù hợp với pháp luật Việt Nam, 
pháp luật và thông lệ quốc tế; bảo đảm quyền sở hữu hợp pháp đối 
với vốn, tài sản và các quyền lợi khác của các tổ chức, cá nhân nước 
ngoài. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không bị quốc hữu 
hoá. Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để người 
Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước [21, tr.23]. 
Tại văn kiện Đại hội lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt Nam, lần đầu 
tiên kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được chính thức xác định là một 
thành phần kinh tế, là bộ phận cấu thành của nền kinh tế nhiều thành phần 
ở nước ta, được khuyến khích phát triển mạnh và lâu dài, với trọng tâm là 
hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội gắn với thu 
hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm. Nghị quyết cũng đề ra 
nhiệm vụ phải cải thiện môi trường kinh tế và pháp lý để thu hút mạnh vốn 
đầu tư nước ngoài [17, tr.646]. 
Đây là bước phát triển mới về quan điểm, nhận thức so với các Đại hội 
trước về vai trò, vị trí của FDI đối với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở 
nước ta, thể hiện chủ trương nhất quán của Đảng ta là “phát huy cao độ nội 
lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế để 
phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững” [17, tr.638]. 
Nghị quyết Đại hội IX cũng đề ra những chủ trương, định hướng cơ bản 
cho việc thu hút, sử dụng và quản lý FDI trong chiến lược phát triển kinh tế - 
xã hội 10 năm (2001 - 2010). Xuất phát từ mục tiêu tổng quát của Chiến lược 
là đẩy mạnh CNH, HĐH; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở 
thành nước công nghiệp, cần huy động lượng vốn lớn trong và ngoài nước 
cho đầu tư phát triển. 
Đại hội lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam, tháng 4 năm 2006, tiếp 
tục coi kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận cấu thành của nền 
kinh tế nước ta. Đại hội đã khẳng định: 
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận 
quan trọng của nền kinh tế Việt Nam, được đối xử bình đẳng như 
doanh nghiệp Việt Nam trong kinh doanh. Tạo điều kiện cho đầu tư 
nước ngoài tham gia nhiều hơn vào phát triển các ngành, các vùng 
lãnh thổ phù hợp với các cam kết quốc tế của nước ta [18, tr.238]. 
Tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài, phấn đấu đạt trên 
1/3 tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trong 5 năm. Mở 
rộng lĩnh vực, địa bàn và hình thức thu hút FDI, hướng vào những 
thị trường giàu tiềm năng và các tập đoàn kinh tế hàng đầu thế giới, 
tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về số lượng và chất lượng, hiệu quả 
nguồn FDI [18, tr.204-205]. 
Luật Đầu tư năm 2005 thay thế và thống nhất Luật Đầu tư nước ngoài 
và Luật Khuyến khích đầu tư trong nước, có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 
2006 đã tiếp tục khẳng định quan điểm khuyến khích và đối xử bình đẳng đối 
với FDI; về thể chế, đã cải thiện cơ bản môi trường đầu tư kinh doanh, môi 
trường pháp lý, tạo sự thống nhất trong hệ thống pháp luật về đầu tư, tạo một 
sân chơi bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư; đơn giản hoá 
thủ tục đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút và sử dụng hiệu quả các 
nguồn vốn đầu tư, đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế khi nước ta là 
thành viên WTO, tăng cường sự quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư, 
trong đó có FDI. 
Về chính sách đầu tư, Luật Đầu tư năm 2005 quy định: 
Nhà đầu tư được đầu tư trong các lĩnh vực và ngành, nghề mà 
pháp luật không cấm; được tự chủ và quyết định hoạt động đầu tư 
theo quy định của pháp luật Việt Nam. Nhà nước đối xử bình đẳng 
trước pháp luật đối với các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế, 
giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài; khuyến khích và tạo điều 
kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư. Nhà nước công nhận và bảo hộ 
quyền sở hữu tài sản, vốn đầu tư, thu nhập và các quyền sở hữu tài sản, 
vốn đầu tư, thu nhập và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của nhà đầu 
tư; thừa nhận sự tồn tại và phát triển lâu dài của các hoạt động đầu tư. 
Nhà nước cam kết thực hiện các điều ước quốc tế liên quan đến đầu tư 
mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Nhà 
nước khuyến khích và có chính sách ưu đãi đối với đầu tư vào các lĩnh 
vực, địa bàn ưu đãi đầu tư [28, tr.12-13]. 
Như vậy quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về thu hút vốn đầu tư trực 
tiếp nước ngoài là nhất quán và có bước tiến quan trọng trên bình diện chủ 
trương và luật pháp. Quan điểm chung không những khẳng định vị thế của 
FDI mà còn coi kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận cấu thành 
nền kinh tế Việt Nam. Việc bảo hộ quyền sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài 
không chỉ được thể hiện trong văn bản luật pháp có liên quan đến lĩnh vực 
này, mà còn được ghi vào Hiến pháp, đạo luật cơ bản và quan trọng nhất của 
đất nước. 
 1.3.2. Tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam 
Cùng với đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta, việc thu hút, sử 
dụng FDI được coi là công cụ, đòn bẩy quan trọng thúc đẩy sự nghiệp phát 
triển kinh tế - xã hội và công cuộc CNH, HĐH đất nước. Khởi đầu từ năm 
1987 với việc ban hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, hoạt động FDI 
ở nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần tích cực vào việc 
thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội, vào thắng lợi của công cuộc đổi 
mới, đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế, tăng cường thế và lực của Việt 
Nam trên trường quốc tế. Thời kỳ 2001 – 2005, vốn FDI có chuyển biến tích 
cực, tổng mức vốn đăng ký đạt 20,9 tỷ USD, vượt trên 39% so với kế hoạch; 
tổng vốn thực hiện 14,3 tỷ USD, vượt 30% so với kế hoạch và tăng 13,6% so 
với 5 năm trước. Năm 2005, các doanh nghiệp FDI đóng góp 15,9% GDP, 
chiếm 31,2% tổng kim ngạch xuất khẩu (chiếm khoảng 50% nếu tính cả dầu 
khí), đóng góp gần 10% tổng thu ngân sách nhà nước (tính cả dầu khí thì trên 
36%), tạo việc làm cho khoảng 1 triệu lao động trực tiếp và hàng triệu lao 
động gián tiếp [18, tr.152-153]. 
Tuy nhiên, thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài còn dưới mức 
khả năng. Vốn đầu tư thực hiện tuy tăng qua các năm nhưng tỷ trọng vốn đầu 
tư nước ngoài trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội không tăng do tốc độ tăng 
trưởng thấp hơn mức tăng vốn đầu tư trong nước. Tỷ trọng vốn đầu tư trực 
tiếp nước ngoài trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội giảm từ 24% trong thời kỳ 
1996 – 2000 xuống còn 16,6% trong thời kỳ 2001 – 2005 [4, tr.33]. Năm 
2006, vị thế Việt Nam được nâng lên rõ rệt và các nhà đầu tư đánh giá rất cao 
địa bàn đầu tư Việt Nam. Vốn FDI vào Việt Nam năm 2006 lại tăng lên 
nhanh chóng, chiếm trên 30% tổng vốn đầu tư xã hội, đánh dấu thời kỳ phát 
triển mới của vốn FDI ở Việt Nam. 
Tính đến ngày 20 tháng 11 năm 2006, cả nước có 6.764 dự án FDI còn 
hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký 59,06 tỷ USD, bình quân mỗi năm thu 
hút được 375 dự án với tổng số vốn đăng ký 3,28 tỷ USD (mỗi dự án bình 
quân 9 triệu USD) [6]. Đây là những con số đáng kể đối với một quốc gia vừa 
mới chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị 
trường so với một số nước trong khu vực. 
Thu hút FDI ở Việt Nam được chia thành một số thời kỳ. Những năm 
1988 - 1990 là thời kỳ đầu tiên FDI chính thức xuất hiện trong nền kinh tế 
nước ta với việc thực hiện các chính sách ưu đãi được công bố trong Luật 
Khuyến khích đầu tư nước ngoài theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần 
thứ VI. Năm đầu tiên thu hút được 37 dự án với 371 triệu USD, hai năm sau 
số dự án được cấp phép lên tới 213 dự án với tổng vốn đăng ký 1,793 tỷ USD. 
Thời kỳ này, tốc độ tăng số dự án và lượng vốn thu hút vào loại cao, quy mô 
vốn đạt trung bình 8,4 triệu USD/dự án [2, tr.22]. 
Thời kỳ 1991 - 1995: thời kỳ này Luật Đầu tư nước ngoài được sửa đổi 
hai lần vào các năm 1990 và 1992. Qua 5 năm thực hiện, số dự án được cấp 
phép đã tăng nhanh gấp 6,2 lần thời kỳ 1988 - 1990 với tổng vốn đầu tư đăng 
ký gấp 9,3 lần. Riêng năm 1995 là năm có số dự án và vốn được cấp phép cao 
nhất. Quy mô vốn trung bình 12,5 triệu/dự án [2, tr.22]. 
Thời kỳ 1996 - 2000: Năm 1996 là năm có số vốn đăng ký FDI được 
cấp phép đạt cao nhất. Từ năm 1997 trở đi, cả số dự án lẫn lượng vốn đã suy 
giảm, thấp nhất vào năm 1999, giảm 60% vốn đăng ký so với năm trước. Tình 
hình suy giảm FDI chủ yếu là do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính – tiền 
tệ khu vực cũng như do môi trường đầu tư của nước ta thời kỳ này kém hấp 
dẫn. Tuy vậy, thời kỳ này tổng số vốn và dự án vẫn cao, đạt 1.627 dự án với 
20,6 tỷ USD vốn đăng ký; tăng 1,2 lần về số dự án và 1,23 lần về vốn so với 
thời kỳ 1991 - 1995 [2, tr.23]. 
Thời kỳ 2001 đến nay: năm 2001 bắt đầu có dấu hiệu phục hồi, sang 
năm 2002, tình hình thu hút FDI lại kém đi. Năm 2005 và 11 tháng đầu năm 
2006 đánh giá sự chuyển biến tích cực trong hoạt động đầu tư nước ngoài tại 
Việt Nam. Tính chung, trong 11 tháng đầu năm 2006 đã có 736 dự án được 
cấp giấy phép với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 6,15 tỷ USD, tăng 60,7% về 
vốn đầu tư đăng ký so với cùng kỳ năm 2005, các dự án mới tập trung chủ 
yếu vào ngành công nghiệp và xây dựng, chiếm 67,1% về số dự án và 72,1% 
tổng vốn đăng ký; nông - lâm - ngư nghiệp chiếm 6,5% về số dự án và 1,7% 
tổng vốn đăng ký; ngành dịch vụ chiếm 26,4% về số dự án và 26,2% tổng vốn 
đăng ký. Có 39 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư vào Việt Nam với 
các đối tác chính vẫn là các nhà đầu tư Châu Á. Hàn Quốc đã vượt qua Hồng 
Kông để dẫn đầu trong số các nước và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam, 
chiếm 31,4% tổng vốn cấp mới; tiếp theo là Hồng Kông chiếm 13,6% tổng 
vốn cấp mới; Hoa Kỳ đứng thứ 3 chiếm 10,3% tổng vốn cấp mới; Nhật Bản 
đứng thứ 4 chiếm 9,5% tổng vốn cấp mới. Nếu tính cả một số dự án của Hoa 
Kỳ đầu tư thông qua nước thứ ba thì Hoa Kỳ đứng thứ hai. Quy mô vốn đầu 
tư trung bình cho một dự án trong 11 tháng đầu năm 2006 đạt 8,4 triệu 
USD/dự án. Trong 11 tháng đầu năm 2006, tổng số dự án tăng vốn đầu tư là 
439 dự án với tổng vốn tăng là 2,1 tỷ USD; tăng 18,9% so với cùng kỳ năm 
2005. Tính chung cả dự án cấp mới và tăng vốn, trong 11 tháng đầu năm 
2006, tổng vốn đăng ký đạt 8,2 tỷ USD; tăng 47,4% cùng kỳ năm 2005 và 
vượt 31,7% kế hoạch ban đầu cả năm (6,5 tỷ USD). Nhờ việc tăng cường 
quản lý, thúc đẩy tiến độ triển khai dự án và việc đầu tư mở rộng sản xuất của 
các dự án nên vốn đầu tư thực hiện tiếp tục tăng. Trong 11 tháng năm 2006, 
vốn đầu tư thực hiện đạt 3,6 tỷ USD; tăng 18,7% so với cùng kỳ; bằng 87,8% 
kế hoạch đã hiệu chỉnh của năm 2006 (4,1 tỷ USD) [6]. 
Xét về phân bố FDI theo các ngành và lĩnh vực chủ yếu của nền kinh tế: 
nhìn chung cơ cấu sử dụng vốn FDI từ năm 1991 trở lại đây luôn có sự điều 
chỉnh để phù hợp hơn với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng 
CNH, HĐH đất nước. Tính từ 1988 đến ngày 20/11/2006, lĩnh vực công 
nghiệp, xây dựng là lĩnh vực chiếm tỷ trọng lớn nhất; chiếm 67,5% về số dự 
án (4.572 dự án) và 63,06% về số vốn đầu tư đăng ký (37,2 tỷ USD). Tiếp 
theo là lĩnh vực dịch vụ; chiếm 20,1% về số dự án (1.364 dự án) và 30,3% về 
số vốn đầu tư đăng ký (17,9 tỷ USD); số còn lại thuộc lĩnh vực nông, lâm, 
ngư nghiệp [6]. 
Về hình thức đầu tư: hình thức 100% vốn đầu tư nước ngoài chiếm 
76,05% về số dự án và 57,7% về tổng vốn đầu tư đăng ký; hình thức liên 
doanh chiếm 20,8% về số dự án và 33,5% vốn đầu tư đăng ký; số vốn đầu tư 
còn lại thuộc hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh, BOT, công ty cổ phần 
và công ty quản lý vốn [6]. 
Về cơ cấu nguồn vốn FDI theo đối tác đầu tư: trong 76 quốc gia và 
vùng lãnh thổ đã đầu tư vào Việt Nam, các nước Châu Á có vốn đầu tư lớn 
nhất, chiếm 67% tổng vốn đăng ký, các nước Châu Âu chiếm 29% tổng vốn 
đăng ký, các nước Châu Mỹ chiếm 4% vốn đăng ký. Riêng 5 nền kinh tế đứng 
đầu trong đầu tư vào Việt Nam là Đài Loan, Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc, 
Hồng Kông đều là các thành viên nền kinh tế APEC, đã chiếm tới 66,8% tổng 
số vốn đầu tư đăng ký. Bước sang năm 2006, một xu hướng đáng lưu ý là sự 
tăng mạnh về số lượng và quy mô đầu tư của các công ty Hoa Kỳ và Nhật 
Bản. Các công ty lớn, có công nghệ cao đã chính thức đầu tư với quy mô dự 
án lớn (từ 500 triệu đến 1 tỷ USD). 
Về cơ cấu FDI theo địa phương và các vùng kinh tế: đầu tư trực tiếp 
nước ngoài tập trung chủ yếu tại các thành phố lớn có điều kiện kinh tế - xã 
hội thuận lợi thuộc các vùng kinh tế trọng điểm. Riêng 4 địa phương thuộc 
vùng kinh tế trọng điểm phía Nam (thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình 
Dương và Bà Rịa - Vũng Tàu) chiếm 62,5% tổng số dự án ; 57,1% tổng số 
vốn đầu tư đăng ký; 47,8% tổng vốn thực hiện của cả nước. 
Đánh giá chung, thu hút FDI của Việt Nam thời gian qua đã đạt được 
những thành tựu đáng kể, kịp thời bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư 
phát triển, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, nâng cao năng 
lực xuất khẩu, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. FDI góp phần làm tăng 
hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong nước, tăng khả năng cạnh tranh trong 
nội bộ nền kinh tế và khả năng cạnh tranh quốc gia. FDI còn góp phần tạo 
việc làm và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thúc đẩy chuyển giao công 
nghệ, góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế với 
khu vực và thế giới, doanh nghiệp Việt Nam được khuyến khích từng bước 
đầu tư ra nước ngoài để mở rộng thị trường. FDI đã góp phần mở rộng hợp 
tác đầu tư với nước ngoài, nâng cao quan hệ quốc tế, tăng cường thế và lực 
của Việt Nam, đẩy nhanh tiến trình hội nhập của Việt Nam vào nền kinh tế 
thế giới và khu vực [8, tr.19]. Tuy nhiên, FDI của Việt Nam chưa tương xứng 
với tiềm năng. Lý do chủ yếu là do chính sách đầu tư cũng còn nhiều tồn tại; 
cơ chế điều hành còn chưa nhất quán; thủ tục hành chính còn có những bất 
cập; chưa quan tâm đúng mức đến người lao động; chưa có chiến lược và 
kinh phí cho hoạt động xúc tiến đầu tư, thông tin chưa được cập nhật, cung 
cấp chưa có hệ thống. 
 1.3.3. Phân cấp về chính sách thu hút FDI của Nhà nước Việt Nam 
 1.3.3.1. Phân cấp về chính sách và quản lý đầu tư nói chung 
Theo quy định mới nhất được ban hành kèm theo Nghị định 
112/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ thì: 
a) Thủ tướng Chính phủ quyết định đầu tư các dự án quan 
trọng quốc gia do Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư. 
b) Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc 
Chính phủ, cơ quan quản lý tài chính của Trung ương Đảng, cơ 
quan Trung ương của các tổ chức chính trị - xã hội (được xác định 
trong Luật Ngân sách Nhà nước), Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết 
định đầu tư các dự án nhóm A đã có trong quy hoạch phát triển kinh 
tế - xã hội, quy hoạch phát triển ngành được duyệt hoặc đã có quyết 
định chủ trương đầu tư bằng văn bản của cấp có thẩm quyền, sau khi 
được Thủ tướng Chính phủ cho phép đầu tư. Trường hợp dự án 
nhóm A sử dụng vốn ngân sách địa phương phải đưa ra Hội đồng 
nhân dân thảo luận, quyết định và công bố công khai. 
c) Tùy theo điều kiện cụ thể của các Bộ, ngành, địa phương, 
người có thẩm quyền quyết định đầu tư được phép ủy quyền cho các 
đối tượng quy định tại điểm d dưới đây quyết định đầu tư dự án 
nhóm B,C. Người ủy quyền quyết định đầu tư phải chịu trách nhiệm 
trước pháp luật về sự ủy quyền của mình. Người được ủy quyền 
phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình trước pháp luật và 
người ủy quyền. 
d) Người được ủy quyền quyết định đầu tư: Tổng cục trưởng, 
Chủ tịch Hội đồng quản trị Tổng Công ty, Giám đốc doanh nghiệp 
Nhà nước, Thủ trưởng cơ quan trực thuộc Bộ… Đối với cấp tỉnh là 
Giám đốc sở, Chủ tịch UBND quận, huyện, thị xã, thành phố trực 
thuộc cấp tỉnh (sau đây gọi là cấp huyện), Chủ tịch Hội đồng quản 
trị Tổng Công ty, Giám đốc doanh nghiệp Nhà nước, Thủ trưởng cơ 
quan thuộc UBND cấp tỉnh. 
đ) Chủ tịch UBND cấp huyện, cấp xã được quyết định đầu tư 
các dự án trong phạm vi ngân sách của địa phương mình (bao gồm 
các khoản bổ sung từ ngân sách cấp trên) có mức vốn đầu tư dưới 
03 tỷ đồng (đối với cấp huyện) và dưới 01 tỷ đồng (đối với cấp xã). 
Về quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư nói chung, UBND cấp 
tỉnh được phân cấp thực hiện những nội dung sau: i) lập, công bố và vận động 
thực hiện danh mục dự án thu hút đầu tư tại địa phương; ii) tổ chức các 
nghiệp vụ quản lý hành chính nhà nước đối với đầu tư; iii) thanh tra, kiểm tra 
các mặt đối với các dự án đầu tư; iv) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, 
giám sát giải phóng mặt bằng; v) chỉ đạo lập quy hoạch chi tiết xây dựng 
KCN, KCX... 
Về chính sách, cấp tỉnh được uỷ quyền cụ thể hoá một số chính sách 
của Nhà nước Trung ương về giá đất, lệ phí..., đồng thời thực hiện thống nhất 
những chính sách chung của quốc gia. 
Như vậy, phân cấp chính sách và quản lý đầu tư hiện nay mới chủ yếu 
là phân cấp cho cấp tỉnh, các cấp chính quyền thấp hơn (huyện, xã) mới chỉ 
được phân cấp về thẩm quyền quyết định đầu tư các dự án nhỏ. Nội dung 
phân cấp được triển khai trên cả ba mặt: chính sách, tổ chức quản lý và thẩm 
quyền hành chính. So với trước đây, sự phân cấp có xu hướng ngày càng 
mạnh. Điều này tạo điều kiện cho các tỉnh phát huy sáng tạo, thúc đẩy đầu tư 
nhưng cũng đặt ra thách thức mới cho chính quyền các địa phương. 
 1.3.3.2. Phân cấp về chính sách đầu tư nước ngoài 
Trước khi Luật Đầu tư 2005 có hiệu lực, chúng ta thực thi Luật Đầu tư 
nước ngoài tại Việt Nam ngày 09 tháng 6 năm 2000 và Nghị định 
24/2000/NĐ-CP Quy định chi tiết thi hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt 
Nam. Thẩm quyền của Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung 
ương được cấp phép đầu tư với những dự án đầu tư có tổng số vốn đầu tư 
đăng ký là 5 triệu USD, trừ Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh là 10 triệu 
USD. Trưởng Ban Quản lý các KCN, KCX cấp phép đầu tư các dự án đầu tư 
vào các KCN, KCX đến 40 triệu USD. Những dự án vượt quá quy mô trên do 
Bộ Kế hoạch và Đầu tư hoặc Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định. Dự 
án đầu tư phân cấp cho UBND cấp tỉnh cấp Giấy phép đầu tư phải có các tiêu 
chuẩn và điều kiện như phù hợp với quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - 
xã hội đã được duyệt; không thuộc dự án nhóm A quy định tại khoản 1 Điều 
114 Nghị định 24, có quy mô vốn đầu tư theo quy định của Thủ tướng Chính 
phủ. Không phân cấp việc cấp giấy phép đầu tư cho UBND cấp tỉnh đối với 
dự án đầu tư thuộc các lĩnh vực như xây dựng đường quốc lộ, đường sắt; sản 
xuất xi măng, luyện kim, điện, đường ăn, rượu, bia, thuốc lá, sản xuất, lắp ráp 
ô tô, xe máy; du lịch lữ hành. 
Sự phân cấp nêu trên đã gây ra rất nhiều cản trở cho các địa phương 
trong việc cấp giấy phép đầu tư, kéo dài thời gian, làm nản lòng các nhà đầu 
tư. Mặt khác, các Ban Quản lý KCN được phân cấp thẩm định và cấp giấy 
phép đầu tư dự án có quy mô lớn hơn các UBND tỉnh, thành phố trực thuộc 
Trung ương. Đây là một nghịch lý, bởi vì nhiều Ban Quản lý KCN là cơ quan 
trực thuộc UBND tỉnh, thành phố thì có quyền lớn hơn chính UBND. Bên 
cạnh đó, việc Chính phủ hạn chế cấp giấy phép đầu tư đối với các dự án kinh 
doanh trò chơi có thưởng đã khiến cho nhiều dự án lớn đầu tư trong lĩnh vực 
dịch vụ du lịch gặp khó khăn trong việc xin cấp giấy phép đầu tư. 
Việc phân cấp cấp phép và quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài nêu 
trên đã dẫn tới tình trạng các địa phương đã ban hành những chính sách ưu 
đãi vượt khung ưu đãi chung của nhà nước, hay còn gọi là “xé rào”, để cạnh 
tranh thu hút FDI, tạo sự bất bình đẳng và ảnh hưởng xấu đến lợi ích chung 
của quốc gia. Việc phối hợp giữa Trung ương và địa phương trong giải quyết 
vướng mắc của nhà đầu tư nước ngoài đôi lúc còn chưa chặt chẽ, nhiều 
trường hợp kéo dài, gây ảnh hưởng xấu tới môi trường đầu tư. 
Sau khi Luật Đầu tư 2005 có hiệu lực, và nhất là Nghị định 
108/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 quy định chi tiết và hướng dẫn 
thi hành một số điều của Luật Đầu tư đã có sự phân cấp khá mạnh mẽ, theo 
hướng giao quyền cho địa phương tự quyết định cấp phép, Bộ Kế hoạch và 
Đầu tư tập trung khâu hậu kiểm, hỗ trợ nghiệp vụ chuyên môn. 
Theo Luật Đầu tư 2005, Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền chấp 
thuận chủ trương đầu tư các dự án đầu tư không phân biệt nguồn vốn, quy mô 
đầu tư trong các lĩnh vực xây dựng và kinh doanh hàng không, vận tải hàng 
không; xây dựng và kinh doanh cảng biển quốc gia; thăm dò, khai thác, chế 
biến dầu khí và thăm dò, khai thác khoáng sản; phát thanh, truyền hình; kinh 
doanh casino; sản xuất thuốc lá điếu; thành lập các cơ sở đào tạo đại học; 
thành lập khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao và khu kinh tế. 
Các dự án đầu tư không thuộc danh mục trên, không phân biệt nguồn vốn và 
quy mô vốn đầu tư từ 1.500 tỷ đồng Việt Nam trở lên trong các lĩnh vực như 
kinh doanh điện, chế biến khoáng sản, luyện kim; xây dựng kết cấu hạ tầng 
đường sắt, đường bộ, đường thủy nội địa; sản xuất kinh doanh rượu, bia. Các 
dự án có vốn đầu tư nước ngoài trong các lĩnh vực kinh doanh vận tải biển, 
thiết lập mạng và cung cấp dịch vụ bưu chính, chuyển phát, viễn thông và 
Internet, thiết lập mạng truyền dẫn phát sóng; in ấn, phát hành báo chí, xuất 
bản; thành lập cơ sở nghiên cứu khoa học độc lập. Trường hợp các dự án đầu 
tư nêu trên nằm trong quy hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt 
hoặc ủy quyền phê duyệt, đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật 
và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên thì cơ quan cấp Giấy chứng 
nhận đầu tư thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đầu tư, không phải trình 
Thủ tướng Chính phủ để chấp thuận đầu tư. 
UBND cấp tỉnh cấp Giấy chứng nhận đầu tư đối với dự án FDI đầu tư 
ngoài KCN, KCX... Ban Quản lý KCN, KCX, khu công nghệ cao, khu kinh tế 
thực hiện việc đăng ký đầu tư, cấp giấy chứng nhận đầu tư đối với dự án đầu 
tư vào các KCN, KCX... bao gồm cả các dự án đầu tư đã được Thủ tướng 
Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư. 
Về xúc tiến đầu tư, UBND tỉnh có quyền và trách nhiệm lập dự án thu 
hút FDI và tổ chức các hoạt động xúc tiến đầu tư đối với các dự án này. 
Về thủ tục hành chính, chính quyền địa phương có quyền chủ động 
thực hiện các mô hình tổ chức và quản lý thủ tục hành chính theo hướng 
phục vụ tốt hơn về thủ tục cho các nhà đầu tư nói chung, trong đó có nhà 
đầu tư nước ngoài. 
Về chính sách, các nhà đầu tư nước ngoài được hưởng những ưu đãi của 
tỉnh giống như các nhà đầu tư trong nước [28]. 
Như vậy, xu hướng chung trong phân cấp chính sách và quản lý FDI 
cũng theo hướng ngày càng phân cấp mạnh hơn cho cấp tỉnh. 
Trên thực tế, các tỉnh đã có sự đua tranh nhau trong cải thiện môi 
trường đầu tư (bao gồm cả môi trường thể chế hành chính và môi trường 
chính sách) và đã tạo ra sự cạnh tranh thu hút đầu tư khá mạnh mẽ. Đây là đặc 
điểm rất đáng chú ý trong việc thu hút đầu tư trong giai đoạn tới. 
 1.4. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG VỀ CHÍNH SÁCH 
THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI 
 1.4.1. Kinh nghiệm của Bình Dương 
Bình Dương là một tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ, nằm trong vùng 
kinh tế trọng điểm phía Nam, được tách ra từ tỉnh Sông Bé vào ngày 
1/1/1997. Bình Dương có vị trí gần thành phố Hồ Chí Minh, một trung tâm 
kinh tế hàng đầu của cả nước. Bình Dương đã tận dụng lợi thế về vị trí địa lý, 
kết cấu hạ tầng và quỹ đất, mạnh dạn chuyển đổi những vùng đất sản xuất 
nông nghiệp, đất quốc phòng kém hiệu quả để đầu tư xây dựng các KCN và 
cụm công nghiệp, xem đây là một hướng đi cơ bản để thu hút vốn đầu tư. Từ 
năm 1997 đến năm 2005, tỉnh xây dựng thêm 9 KCN thành lập mới và diện 
tích đất tăng thêm trên 1.700ha, nâng số KCN trên địa bàn lên 16 khu, với 
tổng diện tích là 3.275 ha. Ngoài ra, tỉnh còn đang phát triển xây dựng kết cấu 
hạ tầng và xúc tiến kêu gọi đầu tư dự án Khu liên hợp Công nghiệp - Dịch vụ 
và Đô thị Bình Dương có diện tích 4.196 ha nằm cạnh trung tâm thị xã Thủ 
Dầu Một [44]. 
Ngoài ra, Bình Dương còn tập trung nguồn lực xây dựng và phát triển 
kết cấu hạ tầng kinh tế. Về chính sách và quản lý, Bình Dương là tỉnh đã có 
những cải cách hành chính, xây dựng được bộ máy quản lý nhà nước được coi 
là thông thoáng, minh bạch nhất, cấp phép và làm các thủ tục liên quan nhanh 
nhất. Kết quả là, thu hút FDI của Bình Dương đã tăng rất nhanh. Từ năm 
2001 đến nay, Bình Dương vẫn giữ nhịp độ thu hút FDI và tiếp tục là một 
trong 5 địa phương đứng đầu cả nước về thu hút FDI. Tính đến tháng 11 năm 
2006, Bình Dương đã thu hút được 1.254 dự án với 5,98 tỷ USD vốn đăng ký, 
chiếm 18,5% về số dự án; 10,1% tổng vốn đăng ký và 6,8% tổng vốn FDI 
thực hiện của cả nước [6]. 
Bài học từ kinh nghiệm Bình Dương cho thấy, Bình Dương thu hút FDI 
lớn, ngoài vị trí địa lý thuận lợi còn có các yếu tố về quản lý, chính sách. 
Trong những năm qua, các cấp, các ngành của tỉnh không ngừng cải tiến thủ 
tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư từ khâu tìm hiểu cơ hội 
đầu tư đến cấp giấy phép, triển khai thực hiện dự án và khi doanh nghiệp đã 
đi vào hoạt động. Bên cạnh đó, kết cấu hạ tầng của tỉnh được đầu tư đồng bộ 
và hiện đại, đáp ứng ngày càng tốt yêu cầu phục vụ sản xuất kinh doanh. Bộ 
máy quản lý, cấp phép đầu tư được phân công nhiệm vụ cụ thể, rõ ràng và 
năng động. Bình Dương có 3 đầu mối cấp phép đầu tư nước ngoài: UBND 
tỉnh uỷ quyền cho Sở Kế hoạch và Đầu tư, và hai Ban Quản lý các KCN. Sở 
Kế hoạch và Đầu tư cấp phép các dự án ngoài KCN, các Ban Quản lý KCN 
cấp phép đầu tư vào KCN. Gắn liền với phân cấp quản lý, Bình Dương còn 
thực hiện quy chế làm việc, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng cá 
nhân, đơn vị trong bộ máy quản lý FDI. 
Bình Dương cũng đã cải cách thủ tục hành chính rất mạnh mẽ, nhất là 
trong thủ tục cấp phép đầu tư. UBND tỉnh đã ban hành quyết định về thủ tục, 
trình tự và thời gian xét duyệt, cấp phép dự án FDI, thời gian giải quyết các 
thủ tục hành chính có liên quan để triển khai nhanh dự án, tạo điều kiện thuận 
lợi nhất cho các nhà đầu tư nước ngoài đến đầu tư tại Bình Dương. Trong quá 
trình thực hiện các thủ tục hành chính cho một dự án, các cơ quan của tỉnh 
luôn cố gắng giảm bớt các khâu trung gian không cần thiết, rút ngắn thời gian 
thẩm định, cấp phép đầu tư. Lãnh đạo tỉnh bố trí lịch công tác đi thăm và làm 
việc thường xuyên tại các doanh nghiệp FDI, kịp thời tháo gỡ khó khăn, 
vướng mắc cho nhà đầu tư. Tỉnh cũng đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư 
thông qua việc tổ chức các hội nghị, hội thảo xúc tiến đầu tư tại Singapore và 
một số nước khác trên thế giới. 
 1.4.2. Kinh nghiệm của Đồng Nai 
Khai thác, phát huy lợi thế, tiềm năng của mình, Đồng Nai đã và đang 
phấn đấu trở thành vùng đất an toàn và hiệu quả cho FDI. Tỉnh Đồng Nai nằm 
trong vùng kinh tế trọng điểm năng động nhất Việt Nam, thuộc vùng ít bão lụt 
thiên tai, địa hình chủ yếu là đất đồi cao nên không tốn nhiều chi phí trong 
việc san lấp mặt bằng, xử lý nền móng công trình, thuận lợi cho việc đầu tư 
phát triển công nghiệp và xây dựng công trình với chi phí thấp. Đồng Nai ở 
vào vị trí rất thuận lợi, chỉ cách thành phố Hồ Chí Minh khoảng 25 km, các 
nhà đầu tư tại Đồng Nai có thể sử dụng các công trình kết cấu hạ tầng và hệ 
thống dịch vụ hiện có của thành phố Hồ Chí Minh như sân bay, bến cảng, hệ 
thống viễn thông, khách sạn và các dịch vụ khác. 
Lãnh đạo tỉnh Đồng Nai đã quán triệt sâu sắc quan điểm cho rằng, 
muốn thu hút được nhiều vốn FDI thì cần phải có quy hoạch, chính sách và 
kết cấu hạ tầng tốt. Đồng Nai là địa phương có KCN đầu tiên tại vùng Nam 
Bộ Việt Nam (khu công nghiệp Biên Hòa). Tỉnh đã quy hoạch và đầu tư phát 
triển 23 khu công nghiệp mới, với tổng diện tích là 8.500 ha, trong đó Thủ 
tướng Chính phủ đã phê duyệt 16 khu công nghiệp với diện tích 4.085ha, trở 
thành địa phương dẫn đầu trong cả nước trong việc xây dựng phát triển KCN. 
Kết cấu hạ tầng tại các KCN này đã và đang được xây dựng đồng bộ, gần 
60% diện tích đất cho thuê và đang sẵn sàng đón nhận các nhà đầu tư trong và 
ngoài nước. Tỉnh cho phép chủ đầu tư các KCN thoả thuận với nhà đầu tư 
nước ngoài ứng trước tiền thuê đất trong KCN, nhằm tạo nguồn vốn xây dựng 
cơ sở hạ tầng ban đầu [44]. 
Về quản lý và thủ tục hành chính, tỉnh đã mạnh dạn tổ chức lại bộ máy 
các cơ quan trực tiếp quản lý FDI, coi đây là lĩnh vực trọng điểm của cải cách 
hành chính. 
Kết quả đến 20/11/2006, Đồng Nai đã vươn lên trở thành tỉnh đứng thứ 
3 toàn quốc về thu hút FDI, với 779 dự án, tổng vốn đăng ký trên 9,06 tỷ 
USD, chiếm 11,5% số dự án; 15,3% tổng vốn đăng ký; 14,2% vốn đầu tư thực 
hiện của cả nước [6]. 
Ngoài những nguyên nhân khách quan tạo nên những kết quả đáng kể 
trong thu hút FDI của Đồng Nai, nguyên nhân chủ quan cũng rất quan trọng. 
Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Đồng Nai đồng tâm nhất trí tìm các biện 
pháp hợp lý nhất để thu hút vốn FDI trong khuôn khổ quy định của pháp luật. 
Trong quá trình triển khai thực hiện, khi gặp khó khăn trở ngại, cùng nhau có 
trách nhiệm giải quyết. Công tác xúc tiến đầu tư được đẩy mạnh bằng nhiều 
hình thức, thường xuyên gặp gỡ và tháo gỡ vướng mắc cho nhà đầu tư, cải 
tiến lề lối làm việc của cán bộ công chức có liên quan. Thực hiện huy động 
vốn trong xã hội để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KCN bằng nhiều phương 
thức. Quy trình thủ tục cấp phép đầu tư rõ ràng, không làm mất nhiều thời 
gian của nhà đầu tư. Tỉnh chú trọng công tác đào tạo nghề, giới thiệu việc làm 
cho người lao động do vậy luôn chủ động cung cấp nguồn lao động có chất 
lượng làm việc cho các nhà đầu tư. 
 1.4.3. Kinh nghiệm của Vĩnh Phúc 
Năm 1997, Vĩnh Phúc được tái lập, trở thành đơn vị hành chính trực 
thuộc Trung ương. Ban đầu, Vĩnh Phúc cũng là tỉnh kém phát triển, có nhiều 
khó khăn, giá trị sản xuất công nghiệp chỉ chiếm khoảng 15% trong cơ cấu 
kinh tế, đứng thứ 41/61 tỉnh, thành phố về giá trị sản xuất công nghiệp. Đến 
nay, sau 10 năm thu hút đầu tư và phát triển kinh tế, Vĩnh Phúc trở thành một 
trong những tỉnh, thành phố có giá trị sản xuất công nghiệp cao nhất nước. 
Nguồn lực phát triển chủ yếu của Vĩnh Phúc là nhờ thu hút vốn FDI, đặc biệt 
là vốn đầu tư của những tập đoàn lớn đến từ Nhật Bản như Honda, Toyota. 
Riêng vốn đầu tư của các doanh nghiệp Nhật Bản đã chiếm tới trên 500 triệu 
USD [44]. Tính đến 20/11/2006, Vĩnh Phúc thu hút được 109 dự án FDI với 
tổng vốn đăng ký 858,4 triệu USD, đứng thứ 10 trong cả nước và đứng thứ 4 
so với các tỉnh phía Bắc [6]. Tuy không phải là địa phương thu hút FDI lớn 
nhất ở miền Bắc, nhưng vì Vĩnh Phúc là tỉnh nhỏ, những đóng góp của khu 
vực FDI cho tỉnh Vĩnh Phúc là rất lớn, và được coi là địa phương có kinh 
nghiệm và thành tựu trong thu hút vốn FDI. 
Phân tích yếu tố cho thấy, bên cạnh những thuận lợi như vị trí địa lý, 
giao thông thuận lợi, gần các trung tâm lớn của miền Bắc, quỹ đất còn dồi 
dào, chưa được khai thác, Vĩnh Phúc còn biết đổi mới môi trường đầu tư, thực 
hiện “trải thảm đỏ” để thu hút FDI. Vĩnh Phúc đã đi trước các địa phương 
khác một bước trong việc thực hiện xúc tiến đầu tư, đặc biệt là đối với các 
nhà đầu tư Nhật Bản. Vĩnh Phúc đã chú trọng vào hoạt động này và đầu tư 
kinh phí để thực hiện. Tỉnh đã thông qua các nhà đầu tư Nhật Bản đang làm 
ăn tại Việt Nam tổ chức các cuộc gặp gỡ với các nhà đầu tư tại Nhật Bản. 
Vĩnh Phúc cũng đã sớm quy hoạch các KCN, tự đầu tư ngân sách để tiến hành 
đền bù, giải phóng mặt bằng, xây dựng kết cấu hạ tầng và công khai cơ chế, 
thủ tục, chính sách để mời gọi các nhà đầu tư. Tỉnh đã xây dựng được 11 
KCN, cụm công nghiệp, đồng thời hình thành cơ chế ưu đãi để các nhà đầu tư 
có cơ hội lựa chọn khu vực đầu tư. Nhiều KCN hiện nay đã lấp đầy 100% 
diện tích. Các KCN của Vĩnh Phúc được bố trí tại những vị trí thuận lợi về 
giao thông vận tải đường bộ, đường sắt, đường thủy, hàng không; thế đất cao, 
không bị ngập úng; cạnh các khu đô thị có dịch vụ đạt tiêu chuẩn cao; gần 
nguồn nhân lực dồi dào. Vĩnh Phúc thuyết phục được các nhà đầu tư còn do 
việc cải cách hành chính quyết liệt, ngay các nhà đầu tư thận trọng như Nhật 
Bản cũng thấy vừa lòng. Từ năm 2002, Vĩnh Phúc đã thành lập Ban Quản lý 
các KCN và thu hút đầu tư. Vận động, thu hút đầu tư là một trong những 
nhiệm vụ trọng tâm của Ban này. Đến nay có nhiều địa phương đã làm như 
Vĩnh Phúc, nhưng vào thời điểm năm 2002 thì chưa có nhiều địa phương làm 
được như Vĩnh Phúc. Thời gian cấp phép đầu tư giảm 1/3 so với quy định 
chung của cả nước. Một số nhà đầu tư nói rằng, họ rất ấn tượng trước những 
cố gắng của chính quyền tỉnh Vĩnh Phúc trong việc giải quyết nhanh nhất thủ 
tục hành chính liên quan đến đất đai, mã số thuế, khắc dấu, xây dựng, thủ tục 
xuất nhập khẩu, hải quan… những ưu đãi về thuế và hỗ trợ đền bù giải phóng 
mặt bằng. So với một số tỉnh, thành phố phía Bắc, Vĩnh Phúc được ghi nhận 
là đã triển khai công tác giải phóng mặt bằng khá nhanh chóng. 
Tuy nhiên, trong cơ chế áp dụng của Vĩnh Phúc, cũng giống như ở Bình 
Dương và Đồng Nai, có một số hạn chế trong chính sách, quản lý, thu hút FDI 
như ban hành chính sách ưu đãi vượt khung quy định chung của Chính phủ, 
xuất hiện dạng "đầu tư chui", "KCN chui", nhiều dự án do không đánh giá 
chính xác về thiết bị công nghệ, tác động môi trường nên gây ô nhiễm môi 
trường trầm trọng; phần lớn là các dự án sử dụng rất nhiều lao động phổ 
thông nên gây ra nhiều áp lực về vấn đề xã hội trên địa bàn. 
 1.4.4. Bài học kinh nghiệm rút ra đối với Đà Nẵng 
Từ kinh nghiệm của ba tỉnh nêu trên, có thể rút ra một số bài học kinh 
nghiệm như sau: 
Thứ nhất, dưới góc độ của một tỉnh, thành phố cần có nhãn quan nhạy 
bén về kinh tế, chính trị, nắm bắt thời cơ, thuận lợi, thấy rõ những khó 
khăn, thách thức của địa phương mình để đề ra được chủ trương, biện pháp, 
chính sách đúng đắn, kịp thời, tập trung nguồn lực, giải quyết dứt điểm. 
Chủ trương, biện pháp, chính sách khi đã đề ra phải được quán triệt thông 
suốt, đầy đủ từ cấp tỉnh xuống đến cấp cơ sở, tạo ra sự thống nhất và quyết 
tâm cao nhất trong việc tổ chức thực hiện, bảo đảm sự thành công của biện 
pháp chính sách. 
Thứ hai, các chủ trương, định hướng lớn phải được nhanh chóng cụ thể 
hóa thành các kế hoạch thực hiện, các biện pháp chính sách một cách đồng 
bộ. Các biện pháp chính sách về khuyến khích thu hút FDI phải rõ ràng, rành 
mạch, cụ thể, chú ý điều kiện cụ thể ở địa phương và phù hợp với pháp luật. 
Cơ chế chính sách phải đồng bộ, thể hiện tính khuyến khích và tính cạnh 
tranh cao, phải tôn trọng quy luật cạnh tranh và xu hướng tự do hóa trong thu 
hút đầu tư, phù hợp với tiến trình hội nhập; đồng thời tạo điều kiện, khuyến 
khích sự chủ động, sáng tạo của các đơn vị cũng như người thực hiện. 
Thứ ba, công tác chỉ đạo, điều hành phải thông suốt, thống nhất, có nền 
nếp, kỷ cương trong bộ máy công quyền, tạo được niềm tin và độ tin cậy đối 
với nhà đầu tư. Phải luôn luôn hướng về nhà đầu tư và doanh nghiệp để nhanh 
chóng tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư. Mọi 
thủ tục hành chính phục vụ cho hoạt động đầu tư phải gọn nhẹ, không làm 
tăng chi phí, gây phiền hà, sách nhiễu cho nhà đầu tư. 
Thứ tư, có tổ chức, bộ máy, đội ngũ cán bộ làm công tác kinh tế đối 
ngoại nói chung và FDI nói riêng tinh thông về nghiệp vụ, am hiểu về kinh tế 
đối ngoại, trong sạch về phẩm chất, đạo đức. Vì đây chính là cầu nối quan 
trọng giữa nhà đầu tư nước ngoài với địa phương, là nguyên nhân của mọi 
nguyên nhân thành công hay thất bại. 
Chương 2 
THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ VÀ CÁC BIỆN PHÁP 
THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở ĐÀ NẴNG 
 2.1. THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI 
 2.1.1. Tình hình dự án đăng ký 
Cùng với đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta, Đà Nẵng coi 
việc thu hút, sử dụng FDI là công cụ, đòn bẩy quan trọng thúc đẩy sự nghiệp 
phát triển kinh tế - xã hội và công cuộc CNH, HĐH thành phố. Kể từ năm 
1988 đến nay, nhất là 10 năm gần đây, khi Đà Nẵng trở thành đơn vị hành 
chính trực thuộc Trung ương, thành phố đã đạt được một số kết quả nhất định 
trong thu hút vốn FDI. 
Năm 2006 (tính đến ngày 20 tháng 11), cùng với cả nước, tình hình dự 
án FDI ở Đà Nẵng tiếp tục có chuyển biến đáng kể, thu hút 15 dự án với tổng 
vốn đầu tư đăng ký là 231,58 triệu USD (bảng 2.1). Tính từ 1988 đến 
20/11/2006, Đà Nẵng có 90 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư 735,73 
triệu USD và là một trong những địa phương có số dự án đăng ký cao của cả 
nước (phụ lục 1) cũng như vùng kinh tế trọng điểm miền Trung (phụ lục 5). 
Bảng 2.1. Mô tả số lượng dự án FDI đăng ký trên địa bàn Đà Nẵng 
qua các thời kỳ từ 1997 – 2006 
Thời kỳ Số dự án Vốn đầu tư đăng ký (triệu USD) 
1997 - 2000 14 65,4 
2001 - 2005 53 300,5 
Năm 2006 15 231,6 
Cộng (1997 - 2006) 82 597,5 
Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Đà Nẵng. 
Thời kỳ 1997 - 2000: Khi Đà Nẵng tách lập, trực thuộc Trung ương 
cũng là lúc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực xảy ra. Dòng FDI vào khu 
vực Đông Nam Á giảm mạnh. Do vậy, ở Đà Nẵng trong thời kỳ này chỉ có 14 
dự án mới được đăng ký với tổng vốn đầu tư 65,4 triệu USD; quy mô vốn đạt 
trung bình 4,7 triệu USD/dự án. Trong thời kỳ này, FDI vào Việt Nam nói 
chung và Đà Nẵng nói riêng bị sút giảm rõ rệt. Ngoài nguyên nhân khủng 
hoảng kinh tế khu vực, môi trường đầu tư của nước ta đã xấu đi nhiều do 
chính sách vĩ mô và bộ máy công quyền chậm được cải tiến, gây mất lòng tin 
ở các nhà đầu tư nước ngoài. 
Thời kỳ 2001 - 2005: năm 2001 bắt đầu có dấu hiệu phục hồi, số dự án 
và vốn đăng ký trên địa bàn Đà Nẵng cao hơn năm 1999 và tiếp tục tăng đến 
năm 2003. Năm 2004, tình hình đăng ký dự án lại giảm nhưng vốn đầu tư vẫn 
cao hơn năm 2002 và năm 2003. Năm 2005 số dự án và vốn đăng ký đạt cao 
nhất trong cả thời kỳ. Tính chung cả thời kỳ này, có 53 dự án đăng ký với tổng 
vốn đầu tư là 300,5 triệu USD, quy mô vốn trung bình đạt 5,7 triệu USD/dự án; 
tăng trung bình 1 triệu USD/dự án so với thời kỳ 1997 - 2000 (bảng 2.1). 
Phân tích nguyên nhân ta có thể thấy rõ, từ năm 2001, với những cải 
cách mạnh mẽ của Chính phủ Việt Nam về môi trường đầu tư, cuộc khủng 
hoảng tài chính - tiền tệ khu vực đã dần phục hồi, các nhà đầu tư nước ngoài 
tiếp tục đẩy mạnh đầu tư ở nước ta nói chung và Đà Nẵng nói riêng. Đồng 
thời, môi trường đầu tư của thành phố được cải thiện đáng kể; công tác vận 
động và thu hút đầu tư được đẩy mạnh. Trung tâm Xúc tiến đầu tư Đà Nẵng 
được thành lập và đi vào hoạt động cùng với việc thành phố Đà Nẵng ban 
hành những chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư thông thoáng, nên hoạt 
động thu hút vốn FDI tại thành phố đã có những bước chuyển biến tích cực và 
đạt được kết quả như trên. 
Kết quả là, năm 2005, Đà Nẵng được xếp thứ 7 trong cả nước về tình 
hình đăng ký dự án FDI, tổng cộng trong năm có 18 dự án với vốn đầu tư 
đăng ký 105,5 triệu USD, quy mô vốn trung bình gần 5,9 triệu USD/dự án, 
cao hơn mức bình quân chung của cả nước (bảng 2.2). Năm 2006, tính đến 
20/11, Đà Nẵng có 15 dự án đăng ký với vốn đầu tư đăng ký 231,58 triệu 
USD, quy mô vốn trung bình đạt 15,4 triệu USD/dự án là mức cao nhất từ 
trước tới nay, tăng gần gấp 3 lần so với các thời kỳ trước. 
Bảng 2.2. So sánh vốn FDI đăng ký của Đà Nẵng với một số địa phương 
khác trong cả nước năm 2005 
 ĐVT: triệu USD 
STT Địa phương Số dự án TVĐT VĐT/dự án 
1 Hà Nội 103 1.250,419 12,140 
2 Bà Rịa - Vũng Tàu 12 713,410 59,451 
3 Đồng Nai 87 428,320 4,923 
4 TP Hồ Chí Minh 243 409,416 1,685 
5 Bình Dương 140 344,484 2,461 
6 Hải Phòng 21 177,941 8,473 
7 Đà Nẵng 18 105,500 5,861 
 Cả nước 801 4.017.642 5,016 
Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư. 
 2.1.2. Tình hình triển khai thực hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài 
Nghiên cứu đánh giá tình hình triển khai các dự án FDI có vai trò rất 
quan trọng, cho phép thấy được môi trường đầu tư và các chính sách của 
chính quyền có hấp dẫn thực sự hay không. Nhiều địa phương cấp phép đầu 
tư cho nhiều dự án có quy mô rất lớn nhưng chỉ là những dự án treo; trên 
thực tế, việc triển khai thực hiện đầu tư rất chậm, thậm chí không có dấu 
hiệu triển khai. 
Ở Đà Nẵng, sau khi đã được cấp phép, phần lớn các dự án FDI đều 
được triển khai tích cực; một số dự án sau một thời gian hoạt động đã xin điều 
chỉnh tăng vốn đầu tư hay gia hạn thời gian đầu tư. Tính đến 20/11/2006, 
trong số 90 dự án FDI đang có hiệu lực trên địa bàn, có 53 dự án đã hoàn 
thành giai đoạn đầu tư xây dựng và đi vào hoạt động sản xuất, kinh doanh, 
chiếm 58,9% số dự án còn hiệu lực và 49,8% tổng vốn đầu tư đăng ký. Tỷ lệ 
dự án đã vận hành sản xuất, kinh doanh của Đà Nẵng là khá cao vì hầu hết 
các dự án còn lại mới được cấp phép đang làm thủ tục xây dựng hoặc đang 
trong giai đoạn xây dựng. Tính chung trên toàn địa bàn, có 24 dự án đang 
trong thời gian xây dựng, chiếm 26,7% số dự án và 34,7% vốn đầu tư đăng ký 
(bảng 2.3). 
Bảng 2.3. Tình hình triển khai thực hiện dự án FDI trên địa bàn Đà Nẵng 
(tính đến 20/11/2006) 
Mức độ thực hiện Số dự án 
Vốn đầu tư 
đăng ký 
(USD) 
Vốn thực 
hiện 
(USD) 
Tỷ lệ tính 
trên tổng số 
dự án (%) 
Hoàn thành giai 
đoạn đầu tư xây 
dựng, đã đi vào sản 
xuất, kinh doanh 
53 366.167.696 321.000.000 58,9 
Đang đầu tư xây 
dựng 24 255.486.766 30.000.000 26,7 
Mới cấp Giấy chứng 
nhận đầu tư 04 82.349.824 4,4 
Không triển khai, 
tạm dừng do vi 
phạm qui định, pháp 
luật 
09 31.733.000 10,0 
Tổng cộng (dự án 
còn hiệu lực đến 
tháng 20/11/2006) 
90 735.737.286 351.000.000 100,0 
Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Đà Nẵng. 
Đáng chú ý là chỉ có 4 dự án mới được cấp giấy chứng nhận đầu tư, 
chưa triển khai, và 9 dự án không triển khai, tạm dừng do vi phạm qui định, 
pháp luật. Một số dự án triển khai chậm do nhiều nguyên nhân khác nhau về 
vốn, về mặt bằng chủ yếu là các dự án về du lịch, hay do khó khăn về thị 
trường tiêu thụ sản phẩm đối với các dự án sản xuất. 
Như vậy, tình hình triển khai dự án FDI của Đà Nẵng là rất khả quan 
xét cả về tốc độ triển khai, tỷ lệ số dự án triển khai và tỷ lệ vốn thực hiện. 
 2.1.3. Phân tích động thái về số lượng dự án và vốn đầu tư thực hiện 
2.1.3.1. Động thái về số lượng dự án 
Bảng 2.4 cho biết số liệu về số dự án cấp phép trên địa bàn Đà Nẵng. 
Bảng 2.4. Số dự án FDI được cấp phép và vốn đầu tư thực hiện trên địa 
bàn Đà Nẵng thời kỳ 1997 – 2006 
Năm 
Số dự án 
đăng ký mới 
Vốn đầu tư đăng ký 
(triệu USD) 
Vốn thực hiện lũy kế 
(triệu USD) 
1997 6 28,80 145,00 
1998 4 33,50 180,00 
1999 2 1,58 191,52 
2000 2 1,50 174,14 
2001 6 13,03 144,17 
2002 8 51,86 150,96 
2003 12 75,23 155,59 
2004 9 54,85 156,82 
2005 18 105,50 221,00 
2006 15 231,58 351,00 
Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Đà Nẵng. 
Theo bảng 2.4, thời kỳ 1997 - 2000, số dự án đăng ký cao nhất đạt 
được vào năm 1997 với 6 dự án, chiếm gần 43% tổng số dự án đăng ký 
trong cả thời kỳ. Số lượng dự án đầu tư đăng ký từ năm 1998 bắt đầu giảm 
nhanh qua các năm 1999, 2000 và đến năm 2000 chỉ có 2 dự án đăng ký, 
chiếm 14,3% số dự án cả thời kỳ, và chỉ bằng 1/3 số dự án đăng ký vào 
năm 1997. Tính chung cả thời kỳ này, số dự án đầu tư đăng ký giảm trung 
bình 27,7%/năm. 
Thời kỳ 2001 - 2005, tổng số dự án đăng ký đạt cao với 53 dự án, tăng gần 
4 lần thời kỳ 1997 - 2000, tăng liên tục qua các năm từ năm 2001 đến năm 2003, 
năm 2004 giảm nhẹ và đạt mức thấp nhất với 9 dự án, sau đó tiếp tục tăng mạnh 
vào năm 2005, chủ yếu là các dự án trong khu công nghiệp (phụ lục 4), là năm có 
số dự án đăng ký cao nhất với 18 dự án, chiếm 41,9% số dự án của cả thời kỳ 
2001 - 2005. Năm 2006, số dự án đăng ký mới vẫn tiếp tục duy trì ở mức cao, tính 
đến 20/11/2006 đã có 15 dự án đăng ký, hơn số dự án của cả thời kỳ 1997 - 2000. 
Điều đó chứng tỏ môi trường đầu tư và kinh doanh ở Đà Nẵng đã được cải thiện 
rất đáng kể, và số dự án đầu tư đăng ký có xu hướng tăng. 
2.1.3.2. Động thái về vốn đầu tư thực hiện 
Vốn thực hiện của các doanh nghiệp FDI tính đến 20/11/2006 đạt 351 
triệu USD, chiếm 47,7% tổng vốn đầu tư đăng ký. 
Biểu đồ 2.1 cho ta thấy rõ hơn động thái vốn đầu tư thực hiện. 
Biểu đồ 2.1. Động thái về số dự án và vốn FDI thực hiện ở Đà Nẵng 
6 4 2 2 6 8
12 9
18 15
28,8 33,5
1,58 1,5
13,03
51,86
75,23
54,85
105,5
231,58
477,5 464,2
391,65
371,14
230,8
264,36
338,97
397,39
506,44
735,73
145 221
156,82
155,59
150,96
144,17
174,14191,52180
351
0
50
100
150
200
250
Năm 1997 Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006
0
100
200
300
400
500
600
700
800
Số dự án Vốn đầu tư Vốn đầu tư lũy kế Vốn thực hiện lũy kế
 Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Đà Nẵng 
Thời kỳ 1997 - 2000: vốn đầu tư thực hiện tăng qua các năm 1998, 1999 
nhưng sau đó đến năm 2000 lại giảm xuống đột ngột, nguyên nhân do một số 
dự án sau khi đã xây dựng xong cơ sở hạ tầng nhưng công ty mẹ khó khăn về 
tài chính nên phải rút về trong năm này. Lũy kế đến năm 2000, lượng vốn 
thực hiện đạt 174,1 triệu USD, chiếm vào khoảng 46,9% tổng vốn đầu tư 
đăng ký. Năm 1998 vốn đầu tư thực hiện đạt cao nhất với 15 triệu USD, 
chiếm 75% vốn đầu tư thực hiện cả thời kỳ. 
 Thời kỳ 2001 - 2005: vốn đầu tư thực hiện tuy có tăng so với thời kỳ 
1997 - 2000 nhưng không đáng kể, vốn đầu tư thực hiện bình quân cả thời kỳ 
2001 - 2005 tăng khoảng 5 triệu USD/năm, chậm hơn tốc độ tăng vốn đầu tư 
của các thành phần kinh tế khác cũng như tốc độ tăng vốn đầu tư chung toàn 
xã hội. Tuy nhiên, nếu xét riêng giai đoạn 2004 - 2006, đặc biệt năm 2006, 
vốn đầu tư thực hiện đạt mức kỷ lục với 130 triệu USD, cao hơn số vốn đầu 
tư thực hiện từ 1997 - 2005, chiếm 37% tổng vốn đầu tư thực hiện từ 1988 - 
2006 và 50,4% tổng vốn đầu tư thực hiện từ 1997 - 2006. 
Phân theo ngành kinh tế, vốn đầu tư thực hiện tính đến 20/11/2006, 
ngành công nghiệp, xây dựng đạt mức cao nhất với 206,2 triệu USD, chiếm 
58,7%; dịch vụ khách sạn, du lịch đạt 124 triệu USD, chiếm 35,3%; các dịch 
vụ khác đạt 18 triệu USD, chiếm 5,1%; ngành nông nghiệp chỉ đạt 2,8 triệu 
USD, chiếm 0,9% tổng số vốn đầu tư thực hiện. 
 2.1.4. Phân tích vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài phân bổ theo 
ngành kinh tế, hình thức đầu tư, và nước đầu tư 
2.1.4.1. Phân theo ngành kinh tế 
Bảng 2.5 về cơ cấu FDI phân theo ngành kinh tế cho thấy, FDI trên địa 
bàn Đà Nẵng thời gian qua có sự chuyển dịch phù hợp với cơ cấu kinh tế theo 
ngành kinh tế của Đà Nẵng đã được xác định là công nghiệp - dịch vụ - nông 
nghiệp. Vốn đầu tư đăng ký tập trung chủ yếu trong 2 ngành công nghiệp và 
dịch vụ. Bảng 2.5 cho thấy, trong tổng số 90 dự án FDI, đứng đầu là ngành 
công nghiệp, xây dựng có tới 65 dự án đầu tư chiếm 72,2% tổng số dự án và 
65,7% tổng vốn đầu tư. Tiếp theo là ngành dịch vụ, có 22 dự án chiếm 24,4% 
số dự án và 33,9% tổng vốn đầu tư. Ngành nông, lâm, ngư nghiệp chỉ có 3 dự 
án chiếm 3,4% số dự án và 0,4% về tổng vốn đầu tư. Như vậy, trong cơ cấu vốn 
FDI ở Đà Nẵng, ngành công nghiệp là chủ yếu. Vốn thu hút vào ngành nông, 
lâm, ngư nghiệp rất thấp và đây cũng chính là tình hình chung của cả nước. 
Phân tích cơ cấu FDI theo ngành kinh tế ở Đà Nẵng và cả nước có thể 
rút ra kết luận rằng, xu hướng chung là các nhà đầu tư nước ngoài chú trọng 
đến các ngành, lĩnh vực có khả năng thu hồi vốn nhanh, lợi nhuận cao. Ngành 
nông nghiệp do chịu nhiều rủi ro, nhất là trong điều kiện thời tiết, khí hậu ở 
miền Trung nói chung, Đà Nẵng nói riêng rất khắc nghiệt, giá cả sản phẩm 
nông nghiệp bấp bênh, lợi nhuận thấp nên thu hút được rất ít dự án đầu tư. 
Bảng 2.5. Số dự án FDI được cấp giấy phép tính đến 20/11/2006 
phân theo ngành kinh tế ở Đà Nẵng 
STT Ngành kinh tế Số dự án Vốn đầu tư 
đăng ký (USD) 
Vốn thực hiện 
(USD) 
1 Nông nghiệp 03 2.800.000 2.800.000 
2 Công nghiệp, xây dựng 65 483.602.102 206.200.000 
3 Dịch vụ 22 249.335.184 142.000.000 
 Tổng cộng 90 735.737.286 351.000.000 
Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Đà Nẵng. 
Thực tế cho thấy, đầu tư FDI vào Đà Nẵng chủ yếu tập trung vào những 
lĩnh vực có khả năng thu lợi nhuận cao, thu hồi vốn nhanh, khai thác thị 
trường nội địa dễ, các ngành đòi hỏi công nghệ đơn giản như sản xuất chính 
phẩm; chế biến nông, lâm, thuỷ sản; du lịch, khách sạn, nhà hàng. Số dự án 
đầu tư chiều sâu, đòi hỏi công nghệ cao, công nghệ sạch rất ít. Trong lĩnh vực 
sản xuất công nghiệp, các dự án đầu tư chủ yếu tập trung vào việc gia công 
các sản phẩm may mặc. 
2.1.4.2. Phân theo hình thức đầu tư 
Biểu đồ 2.2 về cơ cấu FDI theo hình thức đầu tư cho thấy, phần lớn dự 
án có hình thức 100% vốn nước ngoài, chiếm 74,4% về số dự án và 64,4% về 
tổng vốn đầu tư đăng ký. Hình thức liên doanh chiếm 22,2% về số dự án và 
31,8% về tổng vốn đầu tư đăng ký. Hợp đồng hợp tác kinh doanh chiếm 3,4% 
về số dự án và 3,8% về tổng vốn đầu tư đăng ký. 
Biểu đồ 2.2: Cơ cấu vốn FDI đăng ký phân theo hình thức đầu tư ở Đà Nẵng 
64,40%
31,80%
3,80%
100% vốn nước ngoài Liên doanh Hợp đồng HTKD 
Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Đà Nẵng. 
Do hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài là chủ yếu, nên hạn chế 
nhiều trong việc học tập kinh nghiệm quản lý, kinh doanh cũng như kiểm soát 
hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài. 
So với cơ cấu FDI theo hình thức đầu tư trong phạm vi cả nước, về cơ 
bản có cùng xu hướng, trong đó hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài chiếm 
tỷ trọng lớn nhất trong các hình thức đầu tư, tiếp theo là hình thức liên doanh. 
Các hình thức đầu tư khác như hợp đồng hợp tác kinh doanh, BOT, công ty 
cổ phần, công ty quản lý vốn chiếm tỷ trọng không đáng kể. Số liệu ở bảng 
2.6. dưới đây có thể cho ta thấy điều này. 
Bảng 2.6. Cơ cấu FDI phân theo hình thức đầu tư của cả nước 
tính đến 20/11/2006 
Hình thức đầu tư 
Dự án Vốn đầu tư 
Số dự án Tỷ lệ % VĐT(triệu USD) Tỷ lệ % 
100% vốn NN 5.144 76,05 34.118 57,75 
Liên doanh 1.407 20,80 19.814 33,55 
Hợp đồng HTKD 196 2,90 4.320 7,31 
BOT 4 0,06 440 0,75 
Công ty cổ phần 12 0,18 276 0,47 
Công ty quản lý vốn 1 0,01 98 0,17 
Tổng số 6.764 100,00 59.066 100,00 
Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài – 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
Luận văn- Những giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Đà Nẵng trong giai đoạn hiện nay.pdf