Tài liệu Luận văn Thực trạng về các khu kinh tế cửa khẩu vùng Đông Bắc: 1
Luận văn 
THỰC TRẠNG VỀ CÁC 
KHU KINH TẾ CỬA 
KHẨU VÙNG ĐÔNG BẮC 
2
Phần I: KHU KINH TẾ CỬA KHẨU VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐỐI 
VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN VÙNG ĐÔNG BẮC 
I. Một số khái niệm về khu kinh tế cửa khẩu: 
1. Khái niệm: 
Thuật ngữ khu kinh tế cửa khẩu mới được dùng ở Việt Nam trong 
một số năm gần đây khi quan hệ kinh tế-thương mại Việt Nam và Trung 
Quốc đã có những bước phát triển mới, đòi hỏi phải có mô hình kinh tế phù 
hợp nhằm khai thác các tiềm năng, thế mạnh kinh tế của hai nước thông 
qua các cửa khẩu biên giới. Bên cạnh đó Việt Nam còn có biên giới với 
Lào và Campuchia, tuy họ là các quốc gia nhỏ, còn khó khăn về kinh tế, 
nhưng lại có vị trí hết sức quan trọng là nằm trong tiểu vùng sông Mêkông. 
Giữa các quốc gia thuộc tiểu vùng sông Mêkông đang có nhiều dự án xây 
dựng cầu, đường thúc đẩy phát triển kinh tế theo tuyến hành lang Đông-
Tây trên cơ sở dòng chảy tự nhiên của sông Mêkông. Tât cả các điều kiện 
thuận lợi trên chỉ có thể phát huy tốt nếu có các...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
96 trang | 
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1329 | Lượt tải: 1
              
            Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Thực trạng về các khu kinh tế cửa khẩu vùng Đông Bắc, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Luận văn 
THỰC TRẠNG VỀ CÁC 
KHU KINH TẾ CỬA 
KHẨU VÙNG ĐÔNG BẮC 
2
Phần I: KHU KINH TẾ CỬA KHẨU VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐỐI 
VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN VÙNG ĐÔNG BẮC 
I. Một số khái niệm về khu kinh tế cửa khẩu: 
1. Khái niệm: 
Thuật ngữ khu kinh tế cửa khẩu mới được dùng ở Việt Nam trong 
một số năm gần đây khi quan hệ kinh tế-thương mại Việt Nam và Trung 
Quốc đã có những bước phát triển mới, đòi hỏi phải có mô hình kinh tế phù 
hợp nhằm khai thác các tiềm năng, thế mạnh kinh tế của hai nước thông 
qua các cửa khẩu biên giới. Bên cạnh đó Việt Nam còn có biên giới với 
Lào và Campuchia, tuy họ là các quốc gia nhỏ, còn khó khăn về kinh tế, 
nhưng lại có vị trí hết sức quan trọng là nằm trong tiểu vùng sông Mêkông. 
Giữa các quốc gia thuộc tiểu vùng sông Mêkông đang có nhiều dự án xây 
dựng cầu, đường thúc đẩy phát triển kinh tế theo tuyến hành lang Đông-
Tây trên cơ sở dòng chảy tự nhiên của sông Mêkông. Tât cả các điều kiện 
thuận lợi trên chỉ có thể phát huy tốt nếu có các mô hình kinh tế thích hợp, 
trong đó phải kể đến khu kinh tế cửa khẩu. 
Để đưa ra được khái niệm về khu kinh tế cửa khẩu, cần phải dựa 
trên cơ sở của nhiều khái niệm có liên quan. Khái niệm được đề cập đến 
đầu tiên là “giao lưu kinh tế qua biên giới”, từ trước đến nay khái niệm về 
“giao lưu kinh tế qua biên giới” thường được hiểu theo nghĩa hẹp là các 
hoạt động trao đổi thương mại, trao đổi hàng hoá giữa cư dân sinh sống 
trong khu vực biên giới, hoặc giữa các doanh nghiệp nhỏ đóng tại các địa 
bàn biên giới xác định, thuộc tỉnh có cửa khẩu biên giới. Thương mại qua 
các cửa khẩu biên giới có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức khác 
nhau: trao đổi hàng hoá qua các cặp chợ biên giới, nơi cư dân 2 bên biên 
giới thực hiện các hoạt động mua/bán hàng hoá trên cơ sở tuân thủ các quy 
định của Nhà nước về tổng khối lượng hoặc tổng giá trị trao đổi. Địa điểm 
cho các cặp chợ này do chính quyền của cả 2 bên thỏa thuận. Hoặc là các 
3
hoạt động thương mại biên giới thực hiện dưới dạng trao đổi hàng hoá giữa 
hai xí nghiệp nhỏ tại địa phương với các đối tác của mình ở bên kia biên 
giới. Thông thường, đây là các hoạt động trao đổi hàng hoá với giá trị 
không lớn lắm. Trong khi đó, hiểu theo nghĩa rộng, giao lưu kinh tế qua 
biên giới bao gồm các dạng hoạt động trao đổi kinh tế, kĩ thuật qua các cửa 
khẩu biên giới, trong đó các hoạt động trao đổi thương mại là một trong 
những yếu tố cấu thành. Trong vòng hơn một thập kỉ vừa qua , nội dung 
của giao lưu kinh tế đã có những thay đổi lớn và trở thành các hoạt động 
hợp tác kinh tế, kĩ thuật ngày càng đầy đủ và toàn diện hơn. Trong đó, các 
hoạt động giao lưu kinh tế không chỉ đơn thuần là việc buôn bán, trao đổi 
hàng hoá thông thường mà còn bao gồm cả các hoạt động hợp tác kỹ thuật, 
xuất và nhập khẩu dịch vụ, thực hiện các liên doanh xuyên biên giới, các 
doanh nghiệp 100% vốn đầu tư của phía bên kia biên giới, buôn bán các 
trang thiết bị kỹ thuật, liên doanh phát triển cơ sở hạ tầng, du lịch qua biên 
giới, v..v… Như vậy, có thể trao đổi hàng hoá đơn giản thành các hoạt 
động hợp tác sản xuất kinh doanh. Tại một số nước (như Trung Quốc, Thái 
Lan) xu hướng này ngày càng trở nên rõ ràng và trở thành hướng đi chính, 
dẫn tới việc thành lập các khu mậu dịch tự do biên giới, hoăc thành lập các 
khu hợp tác kinh tế khu vực và quốc tế. 
Các lý thuyết kinh tế học phát triển đã chỉ rõ rằng giao lưu kinh tế 
qua biên giới với tư cách là một hình thức mở cửa kinh tế giữa các nước 
láng giềng có thể mang lại nhiều lợi thế cho các nước này. Sơ lược có thể 
đưa ra bốn lợi thế như sau: Thứ nhất, các nước láng giềng có ưu thế về vị 
trí địa lý, khoảng cách nối liền qua biên giới sẽ làm giảm nhiều chi phí giao 
thông vận tải và liên lạc; các vùng biên giới lại thường là các vùng có 
nguồn tài nguyên dồi dào, sản vật quý đa dạng, là những tiền đề tốt để phát 
triển thương mại và du lịch. Thứ hai, khu vực các cửa khẩu biên giới trên 
bộ hiện còn chưa phải đối mặt với cạnh tranh thương trường ở mức gay gắt 
như các vùng cửa khẩu hàng không hàng hải, mà chỉ là một thị trường mới 
4
mở, mang tính chất bổ sung cho các nhu cầu của nhau. Thứ ba, các nước 
láng giềng có trình độ phát triển không quá chênh lệch về cơ cấu ngành 
nghề, sản phẩm, nguyên liệu, nhu cầu thị trường. Thứ tư, buôn bán biên 
giới trên bộ có thể có những hình thức đa dạng hơn so với buôn bán qua 
các cửa khẩu hàng không, hàng hải. Nhân dân vùng biên giới hai nước qua 
lại buôn bán, giao lưu, làm thúc đẩy nhu cầu quan hệ, trao đổi chính thức ở 
cấp Nhà nước. 
Giao lưu kinh tế tại khu vực các cửa khẩu biên giới là hình thức tiếp 
cận mới để thực hiện mục tiêu mở rộng hợp tác kinh tế giữa các nước láng 
giềng. Cho đến nay, lịch sử hợp tác kinh tế đã biết đến nhiều hình thức liên 
kết kinh tế thông thường. Trong đó, ở trình độ cao, phải kể đến các hình 
thức như: 
- Khu vực thương mại tự do 
- Liên minh thuế quan 
- Thị trường chung 
- Liên minh kinh tế 
Trong khi đó, tại các vùng, các địa phương có trình độ phát triển 
kinh tế còn thấp, các hoạt động hợp tác kinh tế còn được thực hiện dưới 
nhiều dạng thức khác nhau. Trong đó phải kể đến là: 
- Các vùng tăng trưởng: là hình thức hợp tác kinh tế mới giữa các 
vùng nằm kề nhau về mặt địa lý của các nước làng giềng, cho phép đạt 
được mục tiêu tăng trưởng nhanh hơn về thời gian, thấp hơn về chi phí. 
Đồng thời, chúng còn có các ưu điểm khác nhau cho phép khai thác các thế 
mạnh bổ sung của mỗi nước thành viên, tận dụng hiệu quả kinh tế qui mô 
lớn. 
- Các thỏa thuận về thương mại miễn thuế: cũng là một hình thức 
liên kết thương mại được xem xét tại một số nước đang phát triển ở châu Á 
(ví dụ: giữa Ấn Độ và Nêpan. Trung Quốc và một số nước láng 
giềng,vv…). Những thỏa thuận này có thể dẫn đến việc thực hiện các qui 
5
định về miễn thuế quan cho một số loại hàng hoá được trao đổi gữa các 
nước thành viên, và thậm chí có thể làm tiền đề cho một liên minh thuế 
quan về sau. 
- Các đặc khu kinh tế (như khu chế suất, khu công nghiệp tập trung) 
được áp dụng tại nhiều nước Đông Á và Đông-Nam Á trong vài thế kỉ gần 
đây, và ở Việt Nam hiện nay, cũng là một trong những hình thức đặc thù 
này. 
Yếu tố chính qui định sự khác biệt về mức độ hợp tác và các hình 
thức được lựa chọn là sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế của các 
nước đang thực hiện liên kết. Tính đa dạng trong các loại hình và yếu tố 
quyết định sự cho sự lựa chọn một mô hình cụ thể phụ thuộc vào trình độ 
phát triển kinh tế, những điều kiện cần và đủ để quyết định hình thức này 
hay hình thức kia sao cho phù hợp hơn và có hiệu quả hơn. 
Do đó, thông qua các hình thức, các cấp độ phát triển khác nhau của 
liên kết kinh tế, căn cứ theo đặc điểm của một loại hình kinh tế gắn liền với 
cửa khẩu, cho phép áp dụng những chính sách riêng trong một phạm vi 
không gian và thời gian xác định mà ở đó đã có giao lưu kinh tế biên giới 
phát triển… sẽ hình thành khu kinh tế cửa khẩu. Vì vậy, có thể hiểu khu 
kinh tế cửa khẩu là một không gian kinh tế xác định, gắn với cửa khẩu, có 
dân cư hoặc không có dân cư sinh sống và được thực hiện những cơ chế 
chính sách phát triển riêng, phù hợp với đặc điểm ở đó nhằm đưa lại hiệu 
quả kinh tế-xã hội cao hơn do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết 
định thành lập. Hay khu kinh tế cửa khẩu có thể được hiểu là một vùng 
lãnh thổ bao gồm một hoặc một số cửa khẩu biên giới được Chính phủ cho 
áp dụng một số chính sách ưu đãi, khuyến khích phát triển kinh tế-xã hội 
nhằm tăng cường giao lưu kinh tế với các nước, tạo nguồn thu cho ngân 
sách Nhà nước và đầu tư chuyển đổi cơ cấu kinh tế các địa phương có cửa 
khẩu. 
6
2. Những điểm giống và khác nhau giữa khu kinh tế cửa khẩu với các 
khu kinh tế khác. 
Nội hàm của khái niệm về khu kinh tế cửa khẩu đã đề cập ở trên 
cho ta thấy, nó có một số điểm giống và khác nhau so với một số mô hình 
kinh tế như khu công nghiệp, khu chế xuất… Và thông qua sự so sánh này 
chúng ta sẽ có cái nhìn toàn diện hơn về mô hình khu kinh tế cửa khẩu. 
- Trên thế giới có nhiều cách hiểu và tiếp cận khác nhau về khu 
công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao. Đối với Việt Nam các khái 
niệm trên được hiểu một cách thống nhất theo cơ chế KCN, KCX, KCNC 
ban hành kèm theo NĐ số 36/Chính phủ ngày 24/4/1997. Các khái niệm 
được hiểu như sau: 
Khu chế xuất là khu chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các 
dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới 
xác định không có dân cư sinh sống, được hưởng một chế độ ưu tiên đặc 
biệt của Chính phủ, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định 
thành lập. 
- Khu công nghiệp là khu tập trung các doanh nghiệp chuyên sản 
xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, 
có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, được hưởng một 
số chế độ ưu tiên của Chính phủ hay địa phương, do Chính phủ hoặc Thủ 
tướng Chính phủ quyết định thành lập. Khu công nghiệp là mô hình kinh tế 
linh hoạt hơn, hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, là đối tượng đầu tư chủ 
yếu vào các khu công nghiệp vì họ hi vọng vào thị trường nội địa, một thị 
trường mới, có dung lượng lớn để tiêu thụ hàng hoá của mình. Hơn nữa, 
việc mở của thị trường nội địa cũng phù hợp với xu hướng tự do hóa mậu 
dịch trên thế giới và khu vực… Việc cho phép tiêu thụ hàng hoá tại thị 
trường trong nước không những tạo nên yếu tố kích thích cạnh tranh sản 
xuất trong nước từ đó nâng cao khả năng xuất khẩu mà còn góp phần tích 
cực đẩy lùi và ngăn chặn hàng nhập lậu. 
7
- Khu công nghệ cao là khu tập trung các doanh nghiệp công nghệ 
kỹ thuật cao và các đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ cao, 
gồm nghiên cứu - triển khai khoa học – công nghệ, đào tạo và các dịch vụ 
có liên quan, có ranh giới địa lý xác định được hưởng một số chế độ ưu tiên 
nhất định, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. 
- Đặc khu kinh tế là một khu vực không gian kinh tế, mà ở đó thiết 
lập một chế độ ưu tiên riêng, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ 
thành lập. Chế độ ưu tiên này được hình thành nhờ một loạt các điều kiện 
ưu đãi nhất định (như được miễn giảm các loại thuế, nới lỏng qui tắc thuế 
quan và ngoại hối…), nhằm thúc đẩy các hoạt động sản xuất, kinh doanh 
hoặc nghiên cứu khoa học trong khu vực. 
Như vậy, khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao là 
ba loại của đặc khu kinh tế, chúng có những đặc điểm khác nhau xuất phát 
từ sự khác nhau về mục đích, đối tượng tham gia hay mối liên kết của 
chúng đối với nền kinh tế. Qua các khái niệm trên có thể thấy một số điểm 
giống và khác nhau giữa khu kinh tế cửa khẩu với các loại hình kinh tế trên 
là: 
- Điểm giống nhau, trước hết về tư cách pháp nhân, chúng được 
thành lập do quyết định của Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ và được 
hưởng một số chế độ ưu đãi của Chính phủ hoặc chính quyền địa 
phương,có một không gian kinh tế hay một vị trí xác định. Ngoài ra, các 
hình thức kinh tế này đều nhằm mục đích nâng cao hiệu quả, thúc đẩy phát 
triển kinh tế vùng, địa phương, thông qua việc phát huy đặc điểm hoạt động 
của từng loại hình này đối với vùng, địa phương, hay kinh tế cả nước. 
- Điểm khác nhau cơ bản giữa khu kinh tế cửa khẩu với các hình 
thức kinh tế này, là ở vị trí và điều kiện hình thành. Để thành lập khu kinh 
tế cửa khẩu trước hết phải gắn với vị trí cửa khẩu, đây là khu vực có dân 
hoặc không có dân sinh sống, có các doanh nghiệp trong nước ngoài. Hơn 
nữa, mực đích thành lập khu kinh tế cửa khẩu nhằm ưu tiên phát triển 
8
thương mại, xuất nhập khẩu, dịch vụ, du lịch và công nghiệp. Trong đó, 
qua trọng nhất là hoạt động thương mại, dịch vụ, bao gồm: hoạt động xuất, 
nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, vận chuyển hàng hoá quá cảnh, kho ngoại 
quan, cửa hàng miễn thuế… Như vậy, nguồn hàng hóa trao đổi ở đây có thể 
là tại chỗ, hoặc từ nơi khác đưa đến, khác với khu công nghiệp và khu chế 
xuất. Do đó các chính sách ưu tiên cũng khác nhau, phù hợp với đặc thù 
của vùng, địa phương nơi các loại hình này được thành lập. 
II. Mô hình phát triển khu kinh tế cửa khẩu. 
1. Mô hình không gian. 
Các khu kinh tế cửa khẩu đều có đặc điểm chung về hành chính là 
nơi tiếp giáp hai hay nhiều quốc gia, có vị trí địa lý riêng trên đất liền, biển, 
sông hồ…. nằm trong tài liệu phân chia biên giới theo Hiệp Định và được 
Nhà nước cho áp đặt một số chính sách riêng. 
1.1. Nguyên tắc chung của mô hình không gian: 
- Tôn trọng chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải, thuỷ, thềm lục địa, vùng 
trời theo hiệp định đã ký và các quy ước quốc tế. 
- Các hoạt động ở khu vực phải xét đến yếu tố địa lý, tự nhiên để 
không làm tổn hại đến lợi ích các bên về các mặt, chú ý đến lĩnh vực môi 
trường. 
- Bảo đảm sự phối hợp tốt nhất các yếu tố tự nhiên để các bên cùng 
có lợi. 
- Cần có sự bàn bạc cụ thể khi triển khai các hoạt động trong khu 
vực nhằm tạo ra sự hợp tác các nguồn lực của các bên. 
- Tìm kiếm các các yếu tố tương đồng, tìm kiếm và hướng tới các vị 
trí mà ở đó có mối liên hệ tốt trong nội địa để bù đắp các thiếu hụt về 
nguồn lực, về trao đổi hàng hoá. 
- Tránh các vị trí bất lợi, vị trí để tội phạm hoạt động hoặc có thể 
xảy ra tranh chấp, lấn chiếm, vị trí dễ nảy sinh mâu thuẫn. 
1.2. Một số mô hình không gian: 
9
Mô hình đường thẳng: Đây là mô hình tốt, một mặt giảm tập trung 
cao về biên giới, đồng thời là nơi sử dụng hàng hoá nhập khẩu và tạo ra 
hàng xuất khẩu dựa trên cơ sở lợi thế về mặt giao thông. Để đáp ứng về 
điều đó các bên phải có tuyến đường bộ, đường sắt, đường sông, hoặc liền 
bờ biển, ngoài ra trên các tuyến giao thông đó cần hình thành các, khu công 
nghiệp, đô thị, bến cảng ở mỗi bên với cự ly hợp lý, có mối liên hệ kinh tế 
mật thiết với khu kinh tế cửa khẩu. Mô hình này gần như đã tồn tại một 
cách “tự nhiên” trong lịch sử, từ một lối mòn dân chúng qua lại sau đó nhu 
cầu trao đổi tăng giao thông phát triển trở thành cửa khẩu. Có thể cho rằng 
mô hình này là cơ sở của các mô hình khác. (hình 1a) 
Mô hình quát giao nhau ở cán: là mô hình dựa trên hai bên có hành 
loạt các đô thị, khu công nghiệp, các vùng sản xuất nhưng cách biên giới 
một khoảng do tự nhiên hoặc quy ước một cách phù hợp, việc trao đổi hàng 
hoá đều tập trung về khu kinh tế theo đường giao thông gần nhất. Mô hình 
này có tính tập trung cao về thương mại, có thể gọi là cảng khô hay khu 
thương mại tự do. (hình1b) 
Mô hình quạt giao nhau ở cánh: là mô hình mà biên giới có các 
khu đô thị, khu công nghiệp tập trung, hàng hoá hai bên được trao đổi một 
cách phân tán ở nhiều cặp chợ biên giới. Mô hình này thích hợp với biên 
giới có địa hình phẳng đông dân cư để có thể xây dựng các phố biên giới 
dài hàng km. (hình 1c) 
Mô hình lan toả: là mô hình dựa trên cơ sở tập quán sinh hoạt của 
dân cư nên mô hình này mang tính tự phát và phát triển theo yêu cầu lợi 
dụng các yếu tố tự nhiên. Mô hình này thích hợp với các cặp chợ, thị trấn 
biên giới, hay các công trình hạ tầng do hai bên hợp tác, hoặc sẵn có. 
Sơ đồ 1: Sơ đồ các mô hình không gian 
10
 1a. Mô hình đường thẳng 1b. Mô hình quạt giao nhau ở 
cán 
11
1c. Mô hình quạt giao ở cánh 1d. Mô hình lan tỏa 
1.3. Mô hình một khu kinh tế cửa khẩu: 
Là mô hình căn cứ vào nhu cầu phát triển kinh tế của mỗi nước, khả 
năng giao lưu với nước thứ ba nhờ hệ thống giao thông như đường bộ, sân 
bay bến cảng đường thủy; dựa trên các điều kiện tự nhiên thuận lợi các 
nước sẽ bố trí các cặp cửa khẩu quốc tế, quốc gia và địa phương. 
Mô hình này được dựa trên một số các nguyên tắc như: thuận lợi 
cho việc kiểm soát các phương tiện, người và hàng hoá qua lại, trong đó 
cần có sự phối hợp hỗ trợ về các tiện ích công cộng như điện, nước, chiếu 
sáng, cây xanh, môi trường. Ngoài ra cần có dịch vụ tốt cho sự lưu trú của 
người cũng như của hàng hoá và các phương tiện quá cảnh,... Có hai mô 
hình cụ thể sau: 
- Mô hình đối xứng: là mô hình được xây dựng theo định hướng 
phát triển của mỗi bên và thoả thuận quốc gia, mỗi bên xây dựng khu kinh 
tế cửa khẩu độc lập, cạnh tranh phát triển, do vậy nó có nét đối xứng mỗi 
bên có kết cấu hạ tầng giống nhau do đó chúng có những điểm bố trí tương 
đồng với nhau về kết cấu bao gồm: khu dân cư, khu thương mại, khu sản 
xuất, khu vui chơi giải trí, khu hành chính. 
12
Sơ đồ 2: Sơ đồ mô hình khu kinh tế cửa khẩu đối xứng 
Khu sản xuất Các cửa kiểm soát Khu hành chính Khu thương mại và 
dịch vụ 
Dải phân cách 
Khu sản xuất Các cửa kiểm soát Khu hành chính Khu thương mại và 
dịch vụ 
Mô hình đặc biệt: đây là mô hình liên kết hai giai đoạn, tạo ra vùng 
lãnh thổ đặc biệt, hai bên có thể thoả thuận bằng một hiệp ước, theo đó chỉ 
ra vùng lãnh thổ hợp lý, có hàng rào, không có dân cư sinh sống. Điểm 
khác biệt về nguyên tắc của mô hình là hình thành một công ty kinh doanh 
hạ tầng cho thuê toàn bộ các tiện ích trong khu theo danh mục ngành nghề 
kinh doanh. Mô hình này có lợi thế khai thác tốt nhất hạ tầng và có khả 
năng thu hút đầu tư quốc tế. Tuy nhiên cơ chế qui định trách nhiệm và lợi 
ích mỗi bên cần được phân định một cách thật rõ ràng. 
Sơ đồ 3: Sơ đồ khu kinh tế cửa khẩu đặc biệt 
Khu sản xuất 
(công ty liên 
doanh đầu tư 
phát triển và 
kinh doanh hạ 
tầng thuê đất) 
Các cửa kiểm 
soát 
Khu hành chính Khu thương 
mại và dịch 
vụ 
Đường phân cách 
Khu sản xuất 
(công ty liên 
doanh đầu tư 
phát triển và 
kinh doanh hạ 
Các cửa kiểm 
soát 
Khu hành chính Khu thương 
mại và dịch 
vụ 
13
tầng thuê đất) 
2. Mô hình thể chế. 
2.1. Nguyên tắc chung: 
- Tôn trọng luật pháp quốc tế, các hiệp định thoả thuận, quốc gia, 
khu vực trên cơ sở bảo đảm hoà bình, thịnh vượng và cùng có lợi. 
- Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. 
- Chủ động thông báo cho nhau cùng hợp tác, thiện chí giải quyết 
những vướng mắc dựa trên sự tôn trọng truyền thống và tập quán, bản sắc 
văn hóa của mỗi dân tộc. 
- Tạo điều kiện tốt nhất cho các doanh nghiệp, các nhà đầu tư và 
dân chúng làm ăn. 
- Phân cấp giải quyết các vấn đề phát sinh thường xuyên cho các 
cấp chính quyền khu vực theo nguyên tắc đối xứng. 
Giữa các quốc gia có chung biên giới cần có sự trao đổi thông tin 
một cách thường xuyên về tình hình xây dựng cơ chế, chính sách phát triển 
khu kinh tế cửa khẩu của mỗi nước, để cùng phối hợp điều chỉnh và thực 
hiện cho phù hợp. Những nội dung mà các bên cùng quan tâm là : 
- Khảo sát thực tế nguồn lực trong khu vực qui ước như điều kiện tự 
nhiên, kinh tế-xã hội, văn hóa, dân tộc và tập quán, các ưu thế và các hạn 
chế. 
- Những vấn đề về cơ chế chính sách chung như đường lối, chủ 
trương, chính sách, những văn bản pháp lý, các hiệp định, mô hình thể chế 
tại các khu vực cửa khẩu. 
- Các chính sách cụ thể trong hoạt động xuất nhập khẩu, các biểu 
thuế và thủ tục hải quan, xuất nhập cảnh đối với người và phương tiện; 
những văn bản quy định về đầu tư nước ngoài vào khu vực này, cũng như 
các biện pháp đảm bảo an ninh, trật tự và các biện pháp bảo vệ môi trường 
cho sự phát triển khu kinh tế cửa khẩu. 
14
- Các văn kiện thỏa thuận dự kiến đưa ra trao đổi và phân cấp hợp 
tác. Các dự án đầu tư hỗn hợp và danh sách các đối tác trực tiếp tham gia. 
2.2. Vùng giao thoa các chính sách khuyến khích 
 Các khu kinh tế cửa khẩu thuộc khu vực hành chính đến cấp cơ sở 
(thôn, tổ dân phố) được chính quyền Trung ương phân cấp quản lý theo 
hướng khuyến khích phát triển hơn các vùng khác nhưng không phải khu 
hành chính riêng như các đặc khu kinh tế vì vậy khu kinh tế cửa khẩu là 
vùng giao thoa chính sách. 
2.3. Một cửa áp dụng cho hình thức phân cấp quản lý : 
Một trong những vấn đề được mọi nguời quan tâm và lo ngại đó là 
vấn đề trong việc ra vào khu kinh tế cửa khẩu và xuất nhập cảnh. Cần phải 
có sự công khai công việc và thống nhất trong các đơn vị làm dịch vụ về 
vấn đề thu lệ phí. 
Các khu kinh tế cửa khẩu có nhiều hình thức và phân cấp quản lý 
khác nhau nhưng đều theo nguyên tắc một cửa cho các hoạt động đầu tư và 
thương mại. 
- Cửa khẩu độc lập, hình thành theo điều ước quốc tế mà chính phủ 
nước sở tại phê chuẩn giao cho ngành hải quan quản lý có qui chế riêng. 
- Khu thương mại tự do trong đó có khu công nghiệp tự do cấp tỉnh 
hoặc cấp quốc gia, khu vực này không có dân cư, hàng hoá vào được miễn 
thuế, việc chuyển đổi hàng hoá như thay đổi nhãn hiệu, bao bì, lắp ráp,… 
không chịu sự giám sát của hải quan và khi tái xuất hoặc nhập khẩu phải 
lập sổ sách chịu sự giám sát của hải quan, phải nộp thuế. 
Khu kinh tế cửa khẩu cấp tỉnh trong đó có khu thương mại tự do 
như trên, có dân cư và có đặc quyền riêng về đầu tư và thương mại, ở vùng 
thuận lợi có sân bay, bến cảng có thể hình thành đặc khu kinh tế với vùng 
lãnh thổ rộng, thiết chế hành chính riêng. 
3. Mô hình của một khu kinh tế cửa khẩu không có dân. 
15
Cửa khẩu mỗi nước có bốn cửa. Xu hướng tự do hoá thương mại, 
hàng hóa, trong danh mục thoả thuận được tự do vào khu, chỉ thu phí và 
phía bên kia miễn thuế nhập khẩu. Chỉ kiểm soát hàng hoá xuất ra khỏi khu 
để vào nội địa việc này phụ thuộc chính sách của mỗi nước. 
Thu phí theo danh mục niêm yết đối với hàng hoá từ nội địa vào 
khu và từ phía bên kia nhập vào khu. 
Quy định loại hàng hoá sản xuất kinh doanh trong khu được miễn 
kiểm soát của hải quan, không phải chịu bất kì loại thuế nào nhưng phải trả 
tiền thuế đất và các dịch vụ theo mức cao hơn nội địa, chịu thuế khi xuất 
khỏi khu vào nội địa; kê khai nộp lệ phí khi xuất sang bên kia 
Có cửa thì chỉ có một cửa thu thuế và ba cửa thu phí. Thu lệ phí 
vào một lần trong đó có lệ phí sử dụng các tiện ích công cộng trong khu 
không phải trả tiền như bãi đỗ xe trong ngày, vệ sinh công cộng cho cá 
nhân, bảo đảm an ninh trật tự… và được miễn thuế, lệ phí khi mang hàng 
hoá theo cá nhân về nội địa và khi xuất cảnh. 
Sơ đồ 4: Sơ đồ khu kinh tế cửa khẩu không có dân. 
 Đường 
 phân 
 cách 
Kiểm 
soát 
nhập 
khẩu 
vào nội 
địa, nộp 
Miễn 
thuế 
nhập, kê 
khai nộp 
phí 
Khuyến 
khích 
xuất 
khẩu, kê 
khai, nộp 
lệ phí 
Vào tự 
do chỉ 
phai nộp 
lệ phí 
Vào tự 
do chỉ 
phai nộp 
lệ phí 
Khuyến 
khích 
xuất 
khẩu, kê 
khai, nộp 
lệ phí 
Kiểm 
soát 
nhập 
khẩu 
vào nội 
địa, nộp 
Miễn 
thuế 
nhập, kê 
khai nộp 
phí 
Khu kinh tế cửa khẩu nước Khu kinh tế cửa khẩu nước 
16
III. Vai trò và vị trí của các khu kinh tế cửa khẩu 
Khu kinh tế cửa khẩu (KKTCK) ở Việt Nam ra đời phù hợp với 
quan điểm đổi mới mở cửa, hội nhập nền kinh tế thế giới của Đảng và Nhà 
nước trong những năm trở lại đây. Khu kinh tế cửa khẩu đầu tiên ở Việt 
Nam là KKTCK Móng Cái được thành lập ngày 18/9/1996 theo Quyết định 
675 /TTg của Thủ tướng Chính phủ. Trong thời gian qua, hoạt động của 
khu KTCK đã đóng một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình phát 
triển nền kinh tế của tỉnh, của vùng khi có KTCK nói riêng và của cả nước 
nói chung. Đối với những nước có nền kinh tế hàng hóa chưa phát triển 
như Việt Nam thì việc phát triển khu kinh tế cửa khẩu sẽ mở rộng quy mô 
thị trường, tăng cường giao lưu hàng hóa, kích thích sản xuất và tăng tính 
cạnh tranh cho các sản phẩm hàng hóa. Ngoài ra việc phát triển khu KTCK 
sẽ tạo bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế mới theo hướng tích cực, tăng tỉ 
trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỉ trọng nông nghiệp trong tổng GDP. 
Với những đóng góp không nhỏ đối với phát triển kinh tế xã hội trong thời 
gian qua các khu KTCK đã ngày càng khẳng định rõ vai trò và vị trí của 
mình. 
1. Đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân 
Các khu kinh tế cửa khẩu được hình thành nhằm mục đích phát huy 
lợi thế về quan hệ kinh tế-thương mại cửa khẩu biên giới, thu hút các kênh 
hàng hoá, đầu tư, thương mại, dịch vụ và du lịch từ các nơi trong cả nước 
từ nước ngoài vào nội địa thông qua cơ chế chính sách ưu đãi tại các khu 
kinh tế cửa khẩu. Chính sự thu hút này đã làm cho các ngành, các địa 
phương trong cả nước, tùy theo quy mô, sự hấp dẫn của cơ chế chính sách 
ưu đãi thực hiện sự chuyển dịch sản xuất, lưu thông hàng hoá cho phù hợp. 
Bên cạnh đó khi mô hình khu kinh tế cửa khẩu được phát huy tốt sẽ tạo ra 
sự lưu thông hàng hoá giữa trong và ngoài nước nhằm khai thác thị trường 
rộng lớn của nước bạn. Hơn nữa, trong các lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ 
và và du lịch cũng có những đòi hỏi tương tự, cần phải mở rộng quan hệ 
17
hợp tác quốc tế để nhanh chóng hội nhập với các nước trong khu vực và 
trên thế giới. Điều này càng có ý nghĩa đối với nền kinh tế hàng hoá chậm 
phát triển, thị trường còn nhỏ hẹp, sức mua thấp, khả năng cạnh tranh trước 
mắt của nền kinh tế còn thấp kém như Việt Nam. 
Việc hình thành khu kinh tế cửa khẩu đã làm phong phú thêm tính đa 
dạng hóa của các loại hình khu kinh tế đặc biệt như khu công nghiệp, khu 
chế xuất, khu kinh tế mở được xây dựng tại nước ta trong thời kì đổi mới 
vừa qua. Và cũng chính việc hình thành các khu kinh tế cửa khẩu đã hình 
thành một mô hình phát triển kinh tế nhằm khơi dậy và phát huy khu kinh 
tế cửa khẩu tiềm năng của địa bàn có điều kiện đặc thù là có các cửa khẩu. 
Khu KTCK có sức thu hút đầu tư khá mạnh mẽ không chỉ các nhà 
đầu tư trong nước mà cả các nhà đầu tư nước ngoài. Để mở rộng sản xuất 
kinh doanh, tăng trưởng kinh tế nhằm thực hiện kế hoạch phát triển vùng 
của Chính phủ. Bên cạnh đó, khu KTCK góp phần tích cực vào chuyển 
dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra một hệ thống cơ sở hạ tầng mới, hiện đại, có giá 
trị lâu dài ở địa phương. Mặt khác, khu KTCK còn góp phần làm tăng 
nguồn thu cho ngân sách địa phương giảm bớt sự phụ thuộc, trông chờ vào 
ngân sách Nhà nước. Hơn nữa còn đóng góp cho ngân sách Nhà nước ở 
cửa khẩu có doanh thu lớn, qua đó nâng cao được tỉ lệ tích luỹ đầu tư cho 
tương lai, đồng thời nâng cao đời sống của đồng bào vùng biên giới thông 
qua việc tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng khu KTCK, nâng cao dân trí đồng 
bào biên giới thông qua việc tiếp xúc với các hoạt động kinh tế, thị trường, 
qua đó lan toả tới đồng bào biên giới các địa bàn xa hơn. 
Bên cạnh đó, quá trình phát triển các khu KTCK tác động thúc đẩy 
mạnh mẽ quá trình giao lưu kinh tế giữa Việt Nam với các nước trong khu 
vực và trên thế giới. Nó có tác dụng như chiếc cầu nối kinh tế Việt Nam 
với kinh tế thế giới, nhằm đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế, góp phần 
quan trọng trong việc thực hiện quan điểm phát triển giai đoạn 2001-2002 
mà Đảng ta đã đề ra trong Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX là: “Gắn 
18
chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tựchủ với chủ động hội nhập kinh tế 
quốc tế”. 
2. Đối với sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 
Khu KTCK hình thành sẽ tạo ra sự phân công lao động theo hướng 
chuyển lao động hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp sang lĩnh vực phi 
nông nghiệp, tạo điều kiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương theo 
hướng phát triển các ngành thương mại, dịch vụ, du lịch, công nghiệp, hỗ 
trợ phát triển đối với dịch vụ trong nước thông qua việc đẩy mạnh giao lưu 
kinh tế với các nước láng giềng; tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh 
tế, kiểm tra giám sát các hoạt động, phát hiện và xử lý các vi phạm. Điều 
đó thể hiện khi môi trường kinh tế phát triển thuận lợi khu KTCK cũng là 
nơi thể hiện sự giao thoa về các chính sách kinh tế đối ngoại củ các quốc 
gia có đường biên giới chung. Vì vậy những nhu cầu về kinh tế cả cho sản 
xuất và tiêu dùng trong phạm vi hẹp, trực tiếp phục vụ cho nhu cầu tại chỗ 
của địa phương, vùng lân cận; trong phạm vi rộng nó sẽ trực tiếp đáp ứng 
nhu cầu của địa phương, các vùng trong cả nước thông qua sự luân chuyển 
các kênh hàng hóa từ khu vực KTCK đến các nơi và ngược lại theo sự vận 
động của quan hệ cung cầu và giá cả trên thị trường đối với các chủng loại 
hàng hóa trao đổi ở đây. Do đó với phạm vi ảnh hưởng càng lớn, khu 
KTCK càng phát triển, nó sẽ tác động càng mạnh mẽ tới việc chuyển dịch 
cơ cấu kinh tế, thúc đẩy phân công lao động, làm cho thị trường được thông 
suốt trong cả nước, khai thác tối đa những tiềm năng và thế mạnh của vùng. 
Ngoài ra đối với một số tỉnh miền núi biên giới phía Đông Bắc nơi 
có khu KTCK nó còn góp phần đẩy nhanh xu hướng đô thị hoá, hình thành 
những thị trấn, thị tứ, các khu thương mại dịch vụ … 
3. Đối với quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hoá đất nước 
Phát triển các khu KTCK là một trong những chủ trương đúng đắn 
của Đảng và Nhà nước ta nhằm xây dựng một mô hình kinh tế mới, thúc 
đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước. Các khu KTCK thúc 
19
đẩy quá trình hiện đại hoá thông qua việc ứng dụng công nghệ mới và trình 
độ quản lý hiện đại trong hoạt động thương mại, dịch vụ và sản xuất, tạo ra 
những yếu tố để liên kết các doanh nghiệp đầu tư trong nước cũng như 
ngoài nước, góp phần tích cực vào việc nâng cao giá trị kim ngạch xuất 
khẩu, tăng thu ngoại tệ; thực hiện phân công lao động góp phần chuyển 
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 
4. Đối với phát triển xã hội 
Sự tác động đối với kinh tế kinh tế của các khu kinh tế cửa khẩu 
cũng thực chất là tác động đến phát triển xã hội, nhằm hướng tới mục tiêu 
phát triển xã hội là nâng cao phúc lợi xã hội cho con người. Các khu KTCK 
còn góp phần giải quyết vấn đề việc làm tạo sự ổn định cho cuộc sống của 
nhân dân qua việc đào tạo và nâng cao tay nghề cho lực lượng lao động xã 
hội, hình thành nhiều trung tâm tạo việc làmmới, phát triển kinh tế gắn văn 
minh, tiến bộ và công bằng xã hội. Với sự tác động có tính lan toả mạnh mẽ 
thì các khu KTCK sẽ thúc đẩy phát triển xã hội rất hiệu quả, đặc biệt là các 
vùng biên giới cửa khẩu còn đang gặp rất nhiều khó khăn. 
5. Đối với an ninh quốc phòng 
Việc hình thành các khu kinh tế cửa khẩu sẽ thu hút dân cư đến làm 
ăn, sinh sống, tạo thành những khu tập trung dân cư, một số đô thị biên giới 
góp phần làm tăng thêm tiềm lực kinh tế, quốc phòng tại tuyến biên giới. 
Đời sống của nhân dân tại địa bàn các khu kinh tế cửa khẩu sẽ được thay da 
đổi thịt tạo thêm lòng tin về chính quyền và về các chính sách của Đảng và 
Nhà nước. Ngoài ra, các lực lượng công an, hải quan, biên phòng tại khu 
kinh tế cửa khẩu được tăng cường năng lực cũng như trang thiết bị, do đó 
hoạt động bảo vệ biên giới, chủ quyền Quốc gia, đảm bảo an ninh, quốc 
phòng sẽ được nâng cao về nhiều mặt. 
Như vậy việc thành lập khu KTCK có tác động nhiều mặt đối với 
sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước như tổ chức lại cơ cấu kinh tế 
vùng lãnh thổ, bố trí dân cư, nâng cao mức sống nhân dân, phát triển cơ sở 
20
hạ tầng kỹ thuật và xã hội cho khu vực. 
IV. KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN KHU KTCK Ở MỘT SỐ NƯỚC 
Có thể nhận thấy rằng hầu hết các quốc gia có sử dụng các loại hình 
kinh tế này đều nhận thấy vai trò to lớn của nó trong thúc đẩy phát triển 
kinh tế hàng hóa nhờ tính đặc thù về cơ chế, chính sách của từng mô hình 
kinh tế. Mức độ ảnh hưởng và phạm vi tác động thường tỉ lệ thuận với quy 
mô phát triển của từng loại mô hình này về giá trị, tỉ trọng đóng góp trong 
GDP cũng như hiệu quả toàn diện về mặt kinh tế - xã hội do phát triển các 
loại hình kinh tế này mang lại. Sự tác động của các khu kinh tế cửa khẩu 
tới việc phát triển kinh tế có được là nhờ các chức năng đặc thù về ưu đãi 
xuất, nhập khẩu, các cơ chế chính sách khuyến khích về công nghiệp, nông 
nghiệp và dịch vụ, du lịch. phát triển các loại hình này cũng đồng nghĩa với 
việc thúc đẩy xuất, nhập khẩu công nghiệp, nông nghiệp, du lịch và dịch vụ 
phát triển, đây là cơ sở kinh tế hàng hóa trong nước phát triển. 
1. Kinh nghiệm của Trung Quốc 
Sau hơn 20 năm mở cửa, tuy đã bắt đầu được khai phát một cách 
tích cực, khu vực biên giới Trung Quốc nhìn chung vẫn lạc hậu và có 
khoảng cách xa với các vùng ven biển. Việc kiên trì theo đuổi đường lối 
mở cửa và những biến đổi trong phát triển kinh tế ở Trung Quốc và thế giới 
đã buộc nước này phải điều chỉnh và hoàn thiện chính sách này theo hướng 
đẩy nhanh mở cửa vùng biên giới nội địa để phối hợp phát triển với các 
vùng duyên hải. Chính vì vậy, đã có một số chính sách phát triển mới ra 
đời: chính sách cải cách mở cửa không chỉ dựa vào nguồn tài chính của 
chính phủ trung ương mà còn “nới quyền, nhường lợi” cho các địa phương, 
xí nghiệp, và các chính sách ưu đãi khác để phát triển kinh tế tại các khu 
vực lãnh thổ khác nhau. Các chính sách này được thực hiện với những nội 
dung không giống nhau, tuỳ thuộc vào đặc thù của từng khu vực. 
Việc mở cửa vùng biên giới đất liền nhằm khai thác thị trường, tiêu 
thụ hàng công nghiệp địa phương và cung cấp nguyên vật liệu cho ngành 
21
công nghiệp Trung Quốc, thực hiện “tam khứ nhất bổ” (Tam khứ: xuất 
khẩu hàng hóa, lao động, thiết bị, kỹ thuật; Nhất bổ: lấy về những mặt hàng 
thiếu hoặc khan hiếm ở Trung Quốc) cũng là một trong số những chính 
sách mới kể trên. Tư tưởng chủ đạo của Trung Quốc trong việc mở cửa 
vùng biên giới là cho phép các tỉnh hợp tác kinh tế trực tiếp với các nước 
láng giềng, theo nhiều hướng, nhiều hình thức và nhiều con đường, tuỳ 
điều kiện cụ thể của từng tỉnh đó. 
* Chính sách biên mậu của Trung Quốc 
Hoạt động kinh tế biên mậu (KTBM) là kết quả tất yếu khách quan 
của quá trình hợp tác và giao lưu kinh tế giữa các quốc gia có chung đường 
biên giới với nhau. Đây cũng là một trong những hình thức thương mại 
truyền thống của Trung Quốc. Là một bộ phận hữu cơ trong hoạt động 
thương mại quốc tế của Trung Quốc, KTBM đóng một vai trò quan trọng 
trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các khu vực biên giới nói riêng 
cũng như tăng cường và mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế nói chung. 
 Quá trình phát triển kinh tế biên mậu của Trung Quốc 
Trung Quốc là một nước có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc 
triển khai và xúc tiến hoạt động biên mậu (HĐBM). Dựa vào lợi thế có 
đường biên giới trải dài và tiếp giáp với nhiều quốc gia, HĐBM của Trung 
Quốc có một lịch sử phát triển lâu đời. Sau khi nước Cộng hoà Nhân dân 
Trung Hoa (PRC) được thành lập. Chính phủ Trung Quốc đã lần lượt ký 
kết các hiệp định thương mại với Liên Xô (cũ), Việt Nam, Triều Tiên, ấn 
Độ và các quốc gia có chung đường biên khác từ những năm đầu của thập 
kỷ 50. Tuy nhiên, trong thập kỷ 60 và 70, hoạt động này đã bị tạm ngưng 
một thời gian do một số vấn đề trong và ngoài nước. Đến đầu thập kỷ 80, 
cùng với sự cải cách và mở cửa của Trung Quốc cũng như việc nối lại quan 
hệ chính trị với các quốc gia có chung đường biên. HĐBM lại được tiếp tục 
và chuyển sang giai đoạn phát triển mới: 
22
- Giai đoạn khôi phục và mở rộng (1982-1991) 
Năm 1982, các tỉnh biên giới phía Bắc Trung Quốc đã nối lại quan 
hệ thương mại với vùng miền Đông Liên xô (cũ). Năm 1988, Chính phủ 
Trung Quốc đã ban hành một số chính sách ưu đãi đối với HĐBM. Nhờ đó 
tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động thương mại các tỉnh biên giới của Trung 
Quốc, làm cho phạm vi và quy mô của HĐBM đã được mở rộng đáng kể 
trong giai đoạn này. 
- Giai đoạn phát triển (1992-1995): 
Năm 1992, Trung Quốc đã thực hiện một số chính sách để đẩymạnh 
việc trao đổi hàng hóa với Liên Xô (cũ) vàcác nước Đông Âu. Năm 1993, 
lầm đầu tiên kim ngạch xuất nhập khẩu trong HĐBM (gồm cả hình thức 
trao đổi hàng) đạt mức cao nhất là hơn 5 tỷ USD. Tuy nhiên, do sự bất ổn 
của thị trường cùng với việc xuất hiện các sản phẩm xuất khẩu kém chất 
lượng đã buộc Chính phủ Trung Quốc phải thực hiện các biện pháp để ổn 
định lại trật tự trong HĐBM vào năm 1994. 
- Giai đoạn điều chỉnh và tiêu chuẩn hoá (1996 đến nay) 
Để đảm bảo sự ổn định trong hoạt động thương mại, Chính phủ 
Trung Quốc đã ban hành Quy định về các vấn đề liên quan đến HĐBM vào 
năm 1996. Nhờ việc ban hành quy định này đã chuẩn hoá sự quản lý đối 
với HĐBM. Trong thời gian điều chỉnh ban đầu,hoạt động này đã bị giảm 
sút nhưng sau đó được phục hồi từ năm 1999 và duy trì được mức độ tăng 
trưởng ổn định sau năm 2000. 
Nhìn chung, kim ngạch xuất nhập khẩu trong hoạt động KTBM của 
Trung Quốc biến động theo mô hình tăng trưởng làn sóng. Năm 1993, kim 
ngạch xuất nhập khẩu trong hoạt động KTBM đã đạt mức kỷ lụclà5,512 tỷ 
USD, chiếm tới 2,63% trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước. 
Tuy trong thời gian sau đó (1994-1998) đã có sự giảm sút nhưng đến năm 
1999, kim ngạch xuất nhập khẩu qua biên giới của Trung Quốc lại đạt được 
quy mô như năm 1993. Và xu thế tăng trưởng này tiếp tục được duy trì đều 
23
đặn từ sau năm 2000. Ước tính, năm 2003 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu 
qua biên giới đạt khoảng 71 tỷ USD (tăng hơn 35% so với năm 2002). 
chiếm 1% trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước. Các hàng hóa 
xuất khẩu chủ yếu trong hoạt động KTBM của Trung Quốc là các sản 
phẩm nông sản như: gạo. rau, hoa quả, các sản phẩm dệt may, sản phẩm 
công nghiệp nhẹ ,… trong khi Trung Quốc chủ yếu nhập khẩu nguyên liệu 
thô như gỗ, thép, bột giấy, khoáng sản, các kim loại không chứa sắt, phân 
bón … 
Các hình thức trao đổi trng hoạt động KTBM của Trung Quốc rất 
phong phú và đa dạng, và phụ thuộc vào đặcđiểm kinh tế - xã hội của các 
quốc gia có chung đường biên giới. Nhìn chung, theo quy định của Chính 
phủ Trung Quốc, hai hình thức chủ yếu trong trao đổi KTBM là: 
- Hình thức trao đổi hàng hóa của dân cư vùng biên giới: Hình thức 
trao đổi này được chính phủ quy định trong phạm vi 20km tính từ đường 
biên giới với một giá trị hạn mức trao đổi tối đa. Hình thức này được sử 
dụng phổ biến, thuận tiện với nhiều ưu đãi về thuế quan nhằm hỗ trợ cho 
các tỉnh biên giới phát triển cũng như tạo điều kiện cải thiện đời sống nhân 
dân. 
- Hình thức thương mại tiểu ngạch: Là hoạt động buôn bán giữa các 
doanh nghiệp Trung Quốc với các doanh nghiệp hoặc tổ chức kinh doanh 
các nước có chung đường biên giới tại khu vực cửa khẩu. Hình thức này 
được tập trung quản lý thống nhất và chịu sự điều chỉnh của các chính sách 
thương mại. 
2. Thái Lan 
Thái Lan có đường biên giới khá dài, các hoạt động trao đổi kinh tế 
- thương mại cửa khẩu biên giới khá sôi động trong thời gian qua với các 
nước láng giềng là Campuchia, Myanmar, Lào, Malaysia. Có thể thấy rằng, 
thông qua việc khai thác lợi thế thương mại cửa khẩu biên giới, hàng hóa 
24
của Thái Lan đã xâm nhập rất mạnh sang các nước láng giềng. Nhìn chung, 
các hoạt động này được thực hiện dưới hai hình thức chủ yếu là thương mại 
chính thức và thương mại phi chính thức. Thương mại biên giới chính thức 
là các hoạt động biên giới theo các quy định của luật pháp (các quy chế, 
hoặc các hiệp định, thoả thuận đã được hai chính phủ ký kết). Các hoạt 
động này thường phải chịu những khoản thuế quan nhất định, được ghi 
chép trong hệ thống sổ sách của các cơ quan có thẩm quyền về xuất nhập 
khẩu. 
Thương mại biên giới phi chính thức bao gồm các hoạt động giao 
lưu thương mại qua đường biên giới không phải qua (hoặc trốn tránh) các 
thủ tục hải quan, thường là nhằm mục tiêu trốn chạy việc kiểm soát thương 
mại, hay trốn thuế hải quan và các sắc thuế khác, kể cả thuế thu nhập. Việc 
trốn tránh các thủ tục hải quan ở các vùng biên giới này được thực hiện dễ 
dàng nhờ các điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý và quan hệ gần gũi của dân 
chúng ở hai bên đường biên. 
Phần lớn các hàng xuất khẩu theo đường phi chính thức từ Thái Lan 
là các hàng tiêu dùng, các dụng cụ gia đình, thuốc tây, các loại xe gắn máy 
và phụ tùng. Hàng nhập khẩu phi chính thức vào Thái Lan là đá quý, các 
hàng lương thực thực phẩm sơ chế hoặc chưa chế biến,. các dụng cụ điện 
gia dụng, rượu mùi, thuốc lá, gia súc và các hàng nông sản. Theo ước tính, 
hiện nay kim ngạch thương mại phi chính thức chiếm khoảng từ 1/3 đến 
trên 1,0 lần so với thương mại chính thức giữa Thái Lan và lào, lớn gấp đôi 
thương mại chính thức giữa Thái Lan và Myanmar và giữa Thái với 
Malaysia. Điều cần chú ý là các hàng hóa được buôn bán theo con đường 
phi chính thức này bao gồm cả những sản phẩm được chế tạo từ những 
nước khác chứ hông chỉ là từ nước láng giềng có đường biên giới với Thái 
Lan (ví dụ như rượu, thuốc lá, các đồ điện gia dụng …). 
25
BẢNG: MẬU DỊCH BIÊN GIỚI CỦA THÁI LAN VỚI CÁC 
NƯỚC LÁNG GIỀNG 
Đơn vị: Triệu bath 
Năm 
Lào Campuchia Mianma Malaysia 
Tổng 
kim 
ngạch 
Cán cân 
thương 
mại 
Tổng 
kim 
ngạch 
Cán cân 
thương 
mại 
Tổng 
kim 
ngạch 
Cán cân 
thương 
mại 
Tổng 
kim 
ngạch 
Cán cân 
thương 
mại 
1988 1882 264 15 13 797 -21 5684 1400 
1989 2793 459 91 -87 1468 -408 8799 3071 
1991 2904 -254 …. …. 2671 1693 …. …. 
1992 2770 412 2791 -2053 4069 -867 50035 ….. 
1993 4128 608 3700 24 5468 1264 54252 …. 
1994 6511 2603 3914 477 7945 2781 66261 31272 
1995 10284 6060 6398 4 5906 3602 38779 24265 
1997 12893 8893 8271 477 
Nguồn: Văn phòng thư ký thường trực Bộ Thương mại Thái Lan 
Các hình thức tổ chức kinh tế biên mậu của Thái Lan khá đa dạng và 
phong phú, với sự thông thoáng và đơn giản trong nhiều thủ tục hải quan. 
Nhờ có sự ưu đãi hợp lý của Nhà nước với mức độ quan tâm phù hợp đã 
càng tạo ra sự hấp dẫn trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực dịch vụ và 
du lịch đang trong đà tăng trưởng mạnh. Với nhiều thoả thuận ở cấp quốc 
gia trongviệc phát triển quan hệ thương mại biên giới, theo hướng khai thác 
tốt hơn những đặc điểm kinh tế - xã hội củakhu kinh tế cửa khẩu, tìm kiếm 
các mô hình kinh tế linh hoạt hơn với các chính sách cởi mở nhằm tăng 
cường trao đổi giao lưu thương mại giữa các nước, mở rộng và phát triển 
nhiều hình thức hoạt động kinh tế k hác. Để từ đó hình thành một số vùng 
kinh tế, gắn với các cửa khẩu tạo điều kiện phát triển nhanh hơn để lôi kéo 
26
các khu vực lân cận cùng phát triển thông qua sự phát triển có tính chất lan 
toả. 
3. Về Tây Âu và Bắc Mỹ 
Có thể nhận thấy rằng hầu hết các quốc gia có sử dụng các loại hình 
kinh tế này đều nhận thấy vai trò to lớn của nó trong thúc đẩy phát triển 
kinh tế hàng hóa nhờ tính đặc thù về cơ chế, chính sách của từng mô hình 
kinh tế. Mức độ ảnh hưởng và phạm vi tác động thường tỉ lệ thuận với quy 
mô phát triển của từng loại mô hình này về giá trị, tỉ trọng đóng góp trong 
GDP cũng như hiệu quả toàn diện về mặt kinh tế - xã hội do phát triển các 
loại hình kinh tế này mang lại. Sự tác động của các khu kinh tế cửa khẩu 
tới việc phát triển kinh tế có được là nhờ các chức năng đặc thù về ưu đãi 
xuất, nhập khẩu, các cơ chế chính sách khuyến khích về công nghiệp, nông 
nghiệp và dịch vụ, du lịch. phát triển các loại hình này cũng đồng nghĩa với 
việc thúc đẩy xuất, nhập khẩu công nghiệp, nông nghiệp, du lịch và dịch vụ 
phát triển, đây là cơ sở kinh tế hàng hóa trong nước phát triển. 
Hình thức quan hệ thương mại qua biên giới đã được một số nước sử 
dụng thành công. Ở Bắc Mỹ, lợi dụng những những điểm khác biệt về chế 
độ thuế giữa Mỹ và Canada, Mỹ đã chủ động mở nhiều điểm bán hàng giữa 
biên giới hai nước, khai thác những điểm hạn chế về thuế quan để thu lợi 
cho mình. Hơn nữa, trong quan hệ hai nước, Mỹ và Canada đã phối hợp 
xây dựng hàng loạt các xí nghiệp gia công, chế tác theo hình thức liên 
doanh trên tuyến biên giới. Một số nước khác cũng sử dụng hình thức này, 
như quan hệ Mêhicô và Mỹ, với nhiều thị trường tự do được xây dựng, 
trong đó có những ưu đãi về cơ chế chính sách, thuế và mậu dịch, tạo điều 
kiện thúc đẩy quan hệ kinh tế - thương mại qua cửa khẩu biên giới. 
Đối với các nước Tây Âu, có đặc điểm về lãnh thổ là các nước tiếp giáp 
nhau có khoảng cách qua lại gần. Trên cơ sở những chính sách chung của 
khối EEC, nhiều quốc gia đã xây dựng những chính sách nhằm phối 
hợpchặt chẽ hơn về kinh tế và thương mại. Năm 1992, theo thống kê của 
27
Cộng đồng chung châu Âu, kim ngạch buôn bán biên giới tăng 550 tỉ mác 
Đức so với năm 1980. Nước Pháp, một nền kinh tế phát triển mạnh ở châu 
Âu cũng chủ trương khai thác những thế mạnh trên các tuyến biên giới 
trong trao đổi kinh tế - thương mại. Pháp đã xây dựng nhiều khu kinh tế mở 
ở biên giới phía Đông, biến khu vực này trở thành trung tâm kinh tế phát 
triển. 
Phần II THỰC TRẠNG VỀ CÁC KHU KINH TẾ 
CỬA KHẨU VÙNG ĐÔNG BẮC 
I. Tổng quan chung về vùng Đông Bắc 
1. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên 
1.1 Vị trí địa lý, địa hình khí hậu : 
Vùng Đông Bắc tiếp giáp với Đồng Bằng Sông Hồng, Tây Bắc, 
biển Đông và Trung Quốc. Đây là một vị trí hết sức thuận lợi trong việc 
đẩy mạnh giao lưu kinh tế giữa các vùng và đặc biệt là nước láng giềng 
Trung Quốc. Việc tiếp giáp với Đồng Bằng Sông Hồng và có một lãnh thổ 
28
gắn với vùng phát triển kinh tế trọng điểm Bắc Bộ với những trung tâm đô 
thị lớn như Hà Nội, Hải Phòng đã cho thấy tiềm năng rất lớn của vùng sau 
này. Dự báo đến năm 2010 dân số Trung Quốc vào khoảng 1,3 tỷ người sẽ 
có nhiều khả năng trở thành cường quốc kinh tế của thế giới. Khu vực 
Đông, Đông Nam Trung Quốc đang phát triển vào loại nhanh nhất khu vực. 
Trong đó Quảng Đông và một phần vùng ven biển Quảng Tây, đảo Hải 
Nam đang bứt lên với tốc độ nhanh. Việc Hồng Kông đã được sát nhập trở 
lại với Trung Quốc và Ma Cao cũng đã được trả lại về Trung Quốc sẽ tạo 
ra một dải ven biển phát triển hùng hậu, sẽ có những ảnh hưởng lớn từ phía 
này đối với quá trình đi lên của Đông Bắc. Lúc đó, Đông Bắc bị cuốn vào 
quá trình phát triển, hợp tác và đứng trước những cơ hội và thách thức lớn. 
Vùng Đông Bắc của Việt Nam có địa hình chia cắt phức tạp, ở phía 
Tây có những dãy núi chạy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, đặc biêt dãy 
Hoàng Liên Sơn có đỉnh núi Fanxipăng cao hơn 3000 m, chia cắt Tây Bắc 
với Đông Bắc Bắc Bộ. Ở phía Đông của Đông Bắc có nhiều dãy núi cao 
hình cánh cung tạo nên địa hình hiểm trở. Đông Bắc tuy vẫn nằm ở vùng 
khí hậu nhiệt đới, nhưng chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc và khí hậu 
phân dị tạo ra nhiều tiểu vùng sinh thái cho phép phát triển nhiều loại cây 
trồng, vật nuôi đa dạng phong phú, trong đó có những loại đặc sản có giá trị 
kinh tế cao. 
Chính sự độc đáo về vị trí địa lý kinh tế của vùng Đông Bắc mà các 
tỉnh tính toán và lựa chon cần xem xét hết các vấn đề khai thác các yếu tố 
tự nhiên để phát triển nền nông, lâm nghiệp sinh thái nhiệt đới bền vững. 
1.2 Đông Bắc là một trong những vùng giàu tài nguyên khoáng sản : 
Có thể nói rằng tài nguyên khoáng sản của vùng thuộc loại bậc nhất 
nước ta hiện nay với những loại tài nguyên khoáng sản có ý nghĩa quan 
trọng đối với quốc gia như : than, apatít, sắt, đồng, chì, kẽm, thiếc,v…v… 
là những tài nguyên quan trọng để phát triển công nghiệp khai khoáng. 
29
Đông Bắc có vùng than Quảng Ninh lớn nhất nước ta với chủ yếu là 
antraxit chất lượng tốt. Nếu tính đến độ sâu 300 m thì vùng này có trữ 
lượng than thăm dò tới khoảng 3,5 tỷ tấn trong đó mỏ lộ thiên khoảng 195 
triệu tấn. Ngoài than Quảng Ninh còn có than lửa dài tập trung ở Na 
Dương, Thái Nguyên với trữ lượng khá. 
Đông Bắc là vùng duy nhất ở nước ta có mỏ apatít với trữ lượng lớn 
và tập trung. Tổng trữ lượng dự báo khoảng 2,1 tỷ tấn, đủ đáp ứng cho nhu 
cầu sản xuất phân lân phục vụ phát triển nông nghiệp ở nước ta và có thể 
dành để xuất khẩu một phần. 
Đồng chì kẽm là những loại khoáng sản tuy không lớn nhưng tập 
trung chủ yếu ở vùng Đông Bắc. Nếu được đầu tư khai thác tốt, với trữ 
lượng tuy không lớn nhưng có thể đáp ứng một phần quan trọng nhu cầu 
trong nước. 
Thiếc tập trung lớn ở tỉnh Tĩnh Túc (Cao Bằng), Sơn Dương 
(Tuyên Quang). Một số điểm quặng nằm rải rác ở các địa phương. Cần 
nâng cao chất lượng khai thác và tuyển, luyện, nâng cao mức độ sạch của 
thiếc, kim loại quí như đồng, vonphram, titan… 
Ngoài ra, Đông Bắc còn có các loại khoáng sản như pirit, sắt, vàng 
đá quí, đất hiếm, đá granit, đá xây dựng, đá vôi xi măng, nước khoáng 
v..v… Đây cũng là những loại khoáng sản có tiềm năng, là thế mạnh để 
phát triển công nghiệp khai khoáng và chế biến khoáng sản của Đông Bắc 
và cả nước. 
1.3 Tài nguyên du lịch đặc sắc 
Vùng Đông Bắc có tiềm năng du lịch rất phong phú, đa dạng và có 
sức hấp dẫn chẳng những với du khách trong nước, mà còn với khác du 
lịch nước ngoài. Có khả năng tiếp nhận lớn khách du lịch và đáp ứng các 
yêu cầu của nhiều loại hình du lịch với các đối tượng khác nhau. 
Về mặt tự nhiên, vùng này có rất nhiều cảnh đẹp. Cảnh thiên nhiên 
núi rừng hùng vĩ, biển thơ mông, đặc biệt có Vịnh Hạ Long ( Quảng Ninh) 
30
một danh thắng nổi tiếng thế giới. Khách du lịch tới đây sẽ bị lôi cuốn 
trước vẻ đẹp của tạo hóa, kỳ thú của một thế giới đảo đá vôi muôn hình 
muôn vẻ, nửa nổi, nửa chìm trong vịnh biển. Bãi biển Trà Cổ dài, thoải, 
nước trong và quanh năm lộng gió. Đồng thời có nhiều cảnh quan hấp dẫn 
như hồ Thác Bà, hồ Ba Bể, hồ Núi Cốc…. Thác nước Bản Dốc, Đầu Đẳng 
và núi Các Mác, suối Lê Nin và các cánh rừng già nguyên sinh như khu 
rừng cấm Tam Đảo với hệ sinh thái rừng nhiệt đới làm thoả mãn trí tò mò 
của các du khách với lòng say mê nghiên cứu của các nhà khoa học. 
Về mặt văn hoá lịch sử, vùng này phản ánh bề dày lịch sử Việt 
Nam. Những di tích khảo cổ học chứng minh cho nền văn hoá Đông Sơn, 
Hạ Long nổi tiếng từ hồi tiền sử, những di tích lịch sử qua các triều đại của 
nước ta còn được bảo toàn hoặc phục hồi như khu rừng Trần Hưng 
Đạo,khu Cao Bằng Pắc Pó và nhiều danh thắng lịch sử khác rất có giá trị về 
khoa học và giáo dục truyền thống, truyền bá kiến thức. Bên cạnh đó với 
những lễ hội truyền thống như Hội Đền Hùng, Hội Lim… mang đậm đà 
bản sắc dân tộc đã tạo ra điều kiện thuận lợi cho khách du lịch, thăm quan, 
tìm hiểu và nghiên cứu. 
2. Dân số và nguồn nhân lực 
Vùng Đông Bắc có số dân khoảng 12,9 triệu người vào năm 2004 
chiếm 14,5% dân số cả nước. Dân số của vùng tăng nhanh nhưng nhịp độ 
tăng dân số đã có xu hướng giảm dần, tuy nhiên mức sinh của dân số vùng 
Đông Bắc còn cao hơn so với trung bình của cả nước và các vùng khác. 
Vùng Đông Bắc có cơ cấu dân tộc đa dạng nhất trong cả nước với 
40 dân tộc anh em cùng sinh sống. Các dân tộc ít người sống tập trung trên 
những địa bàn nhất định thuận lợi cho việc thực hiện chính sách và tổ chức 
cuộc sống phù hợp với đặc điểm tập quán, lối sống và trình độ vủa mỗi dân 
tộc, nhưng cũng khó khăn trong việc đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào đời 
sống vì trình độ dân trí của đồng bào quá thấp. 
31
Trình độ học vấn và chuyên môn khoa học kỹ thuật trung bình của 
dân cư nguồn nhân lực ở Đông Bắc khá cao tương đương với trình độ trung 
bình của cả nước. Có đến 53,7% tổng số nguồn nhân lực đã tốt nghiệp 
PTCS trở lên cao hơn mức trung bình của cả nước. Tuy nhiên còn có một tỉ 
lệ không nhỏ nguồn nhân lực không biết chữ và chưa tốt nghiệp PTCS chủ 
yếu là các đồng bào các dân tộc ít người. 
Trong vùng có một số khu tập trung công nghiệp với lịch sử hình 
thành hàng chục năm nên có đội ngũ chuyên môn kỹ thuật nghiệp vụ khá 
đông đảo. Toàn vùng có trên 60 vạn người đã qua đào tạo, chiếm 12% tổng 
số lao động tương đương với trình độ trung bình của cả nước trong đó có 
trên 8 vạn người có trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên. Tuy nhiên lại có 
sự chênh lệch lớn về trình độ học vấn và chuyên môn khoa học kỹ thuật 
của nguồn nhân lực giữa các tỉnh trong vùng. Và có sự khác biệt lớn về 
trình độ học vấn giữa các dân tộc, đặc biệt là người Dao, người Hmông có 
tỉ lệ trẻ em 5-19 tuổi đi học là rất thấp trong khi tỉ lệ mù chữ lại rất cao. 
Cơ cấu phân công lao động xã hội của vùng còn rất lạc hậu, khu 
vực nông lâm nghiệp chiếm tỉ trọng cao, trình độ trang thiết bị kĩ thuật của 
người lao động còn thấp kém nên không đủ sức khai thác các thế mạnh của 
vùng, năng suất lao động rất thấp chỉ bằng 65% mức bình quân chung của 
cả nước. Ngoài ra Đông Bắc có tỷ lệ dân số đô thị thấp và không đồng đều 
giữa các tỉnh. 
3. Đánh giá khái quát về thực trạng kinh tế – Xã hội vùng Đông Bắc 
Trong những năm gần đây nền kinh tế của vùng Đông Bắc đã có 
những nét khởi sắc đặc biệt ở một số tỉnh thực hiện mô hình khu kinh tế 
cửa khẩu được áp dụng một số các chính sách ưu đãi. Đời sống nhân dân 
được cải thiện một cách nhanh chóng, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã 
hội cơ bản được giữ vững. Tuy nhiên nền kinh tế vùng Đông Bắc còn tồn 
tại nhiều mặt yếu kém cần được giải quyết và khắc phục. 
32
Điểm xuất phát còn đang ở mức thấp. Tổng GDP toàn vùng hiện 
chỉ bằng khoảng 7,5% so với cả nước. Nhịp độ tăng trưởng GDP thấp kéo 
dài trong nhiều năm. Từ năm 1991 đến 1994 nhịp độ tăng trưởng GDP đạt 
khoảng 5,9% năm là thấp so với cả nước (7,9% năm). Từ 1994 đến nay 
nhịp độ tăng trưởng GDP đạt 6,7%, nhịp độ tăng trưởng đã cao hơn rất 
nhiều nhưng vẫn ở mức thấp hơn so với cả nước. Trong khi đó dân số vẫn 
tăng khoảng 2% nên GDP bình quân đang ở mức thấp hơn so với mức 
trung bình của cả nước. Tỉ suất hàng hoá thấp, sản phẩm hàng hoá còn ít cả 
về chủng loại và khối lượng, hầu hết là những sản phẩm hàng hoá thông 
thường, chất lượng không cao và khả năng cạnh tranh của nhiều sản phẩm 
còn kém. Tuy nhiên có những sản phẩm hàng hoá chiếm tỉ trọng lớn trong 
cả nước như chè, hồi, quế, sơn, than, apatít và phân lân, giấy. 
GDP bình quân đầu người đă thấp nhưng lại không đồng đều giữa 
các khu vực và tầng lớp dân cư. GDP/người của nhân khẩu nông nghiệp chỉ 
bằng khoảng 62% mức trung bình của toàn vùng. 
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm, nông- lâm nghiệp còn chiếm 
tỉ trọng lớn. Công nghiệp tuy có những nơi được phát triển sớm, chủ yếu là 
công nghiệp khai khoáng và chế biến nông- lâm sản, nhưng nhìn chung ở 
phần lớn lãnh thổ của Đông Bắc công nghiệp chưa phát triển. Năm 2004 
công nghiệp mới thu hút 10,5% lao động xã hội và đóng góp 18% GDP của 
vùng. Trình độ trang thiết bị kỹ thuật thấp, sản phẩm công nghiệp mới còn 
ít, chất lượng còn chưa cao nên mặc dù có ý nghĩa quan trọng đối với đóng 
góp thu ngân sách Nhà nước nhưng vai trò công nghiệp chưa lớn, nhất là 
chưa khai thác các tiềm năng về thị trường, về khoáng sản cũng như lợi thế 
khác biệt của vùng để phát triển kinh tế. 
Các ngành dịch vụ nhất là dịch vụ ở khu vục nông thôn chưa phát 
triển và hiệu quả thấp. Du lịch có tiềm năng lớn nhưng phát triển chậm và 
còn nặng về khai thác tự nhiên cho nên hiệu quả thấp. Thương nghiệp nhất 
là thương mại biên giới có phát triển khá hơn nhưng vẫn còn nhỏ bé. 
33
Thương nghiệp hoạt động chưa rộng khắp, giao lưu kinh tế còn hạn chế, 
nhiều khu vực ở Đông Bắc đang thiếu vắng dịch vụ thương nghiệp. 
Ngoài ra, do vùng Đông Bắc là vùng đồi núi có địa hình cao so với 
mặt nước biển và bị chia cắt bởi nhiều dãy núi và sông suối đồng thời điều 
kiện khí hậu phân dị, chính điều này đã tác động làm cho phát triển theo 
lãnh thổ có sự chênh lệch lớn. Do đó sẽ tạo ra sự phức tạp trong quản lý và 
việc phát triển cơ sở hạ tầng cũng gặp nhiều khó khăn. 
II. Các nhân tố tác động đến sự phát triển khu kinh tế cửa khẩu 
1. Nhân tố tự nhiên và trình độ phát triển kinh tế-xã hội 
1.1 Vị trí địa lý 
Việc lựa chọn xây dựng các khu kinh tế cửa khẩu, trước hết căn cứ 
vào điều kiện tự nhiên xã hội, đó phải là những nơi có thuận lợi về vị trí, 
Phù hợp với giao lưu kinh tế – thương mại biên giới, là cầu nối giữa kinh tế 
trong nước với kinh tế nước ngoài. Các cửa khẩu nằm trên vùng Đông Bắc 
ở những vị trí tương đối thuận lợi, các khu kinh tế cửa khẩu thường nằm ở 
các thị trấn, thị tứ và đầu mối giao thông như quốc lộ 1A dài 168 km từ Hà 
Nội đến Hữu Nghị, đường sắt Côn Minh – Lào Cai… Đây được coi là 
những yếu tố hết sức quan trọng cho sự tồn tại và phát triển lâu dài của khu 
kinh tế cửa khẩu. Bởi vì, do đặc điểm của nó, hoạt động thương mại- dịch 
vụ là một trong những nội dung cơ bản trong sự phát triển của khu kinh tế 
cửa khẩu, muốn vậy phải có nguồn hàng hóa, dịch vụ từ nội địa được vận 
chuyển đến để trao đổi qua cửa khẩu biên giới đồng thời phải có hệ thống 
giao thông thuận lợi để đưa hàng hóa nhập khẩu từ bên ngoài vào trong 
nước. Hơn nữa, do nhiều nét tương đồng về khí hậu, môi trường sinh thái, 
trình độ phát triển, cho nên đòi hỏi phải có các chủng loại hàng hóa đáp 
ứng được nhu cầu trao đổi, có loại được sản xuất tại chỗ, có loại được khai 
thác trong nội địa theo nguyên tắc xuất những hàng hóa mà thị trường bạn 
cần mà ta có lợi thế và nhập những hàng hóa chúng ta chưa có khả năng 
34
đáp ứng cho thị trường trong nước. Chính vì thế yếu tố địa lý là rất quan 
trọng. 
1.2 Yếu tố xã hội và trình độ phát triển. 
Bên cạnh yếu tố địa lý thì các vấn đề xã hội, trình độ dân trí, phong 
tục tập quán, cũng ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển khu kinh tế cửa khẩu. 
Mặc dù, các khu kinh tế cửa khẩu vùng Đông Bắc nằm ở những nơi đô thị 
hóa, có trình độ phát triển cao hơn so với các vùng khác trong vùng nhưng 
nhìn tổng thể thì đây vẫn là khu vực khó khăn với trên 30 dân tộc sinh 
sống. 
Trình độ dân trí ở đây nhìn chung còn rất thấp với tỉ lệ mù chữ cao, 
trình độ văn hóa thấp. Số lao động qua đào tọa chỉ chiếm 5% lực lượng lao 
động của vùng, đáng chú ý là trong số này chủ yếu là giáo viên và bác sỹ. 
Do trình độ lao động thấp, chủ yếu là lao động giản đơn dựa vào kinh 
nghiệm là chính, không qua đào tạo nên năng suất lao động thấp, giá trị cá 
biệt của hàng hóa cao nhưng chất lượng của sản phẩm còn hạn chế, vì thế 
khả năng cạnh tranh của sản phẩm sẽ rất khó khăn khi trao đổi hàng hóa 
qua cửa khẩu. Cơ cấu kinh tế vẫn còn ở mức lạc hậu, nông – lâm nghiệp 
vẫn chiếm tỉ trọng cao khoảng 55%, do đó thu nhập bình quân đầu người 
vẫn ở mức thấp.Vấn đề này sẽ dẫn đến hàng loạt các khó khăn khác như : 
Đời sống văn hoá tinh thần không được đảm bảo, các dịch vụ xã hội còn 
thiếu và ở mức yếu kém. Đây là những khó khăn cho việc phát triển giao 
lưu kinh tế qua cửa khẩu biên giới và nó cũng tác động không nhỏ đến sự 
phát triển khu kinh tế cửa khẩu. 
2. Bầu không khí chính trị của các nước trong khu vực và trực tiếp là 
quan hệ hữu nghị thân thiên giữa Việt Nam và Trung Quốc 
Đây là một nhân tố mang tính khách quan, qui định sự hình thành 
và phát triển các khu kinh tế cửa khẩu vùng Đông Bắc nói riêng và biên 
giới phía Bắc nói chung, không chỉ hiện nay mà cả trong tương lai. Một 
Đông Nam Á hòa bình hữu nghị và hợp tác sẽ là môi trường tốt để đẩy 
35
mạnh giao lưu hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và các nước. Trong các quan 
hệ này Trung Quốc có vị trí trực tiếp và ảnh hưởng to lớn tới các quan hệ 
khác. Việt Nam và Trung Quốc là hai quốc gia có truyền thông hữu nghị 
lâu đời đều lựa chọn con đường theo định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự 
lãnh đạo của Đảng Cộng Sản, nhân dân hai nước đặc biệt là cư dân sống ở 
khu vực biên giới từ lâu đã có quan hệ tốt đẹp qua lại thăm thân, trao đổi 
hàng hóa qua cửa khẩu, qua đường mòn biên giới ngoài vấn đề chính trị – 
xã hội, trong phát triển kinh tế, Việt Nam và Trung Quốc còn có nhiều 
điểm tương đồng về trình độ phát triển, cùng trong quá trình chuyển từ kế 
hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường. Cơ cấu hàng hóa, tập quán tiêu 
dùng cũng có nhiều điểm bổ sung cho nhau. Hơn nữa, điều quan trọng là có 
nhu cầu mở rộng hợp tác để phát triển. Do đó việc hai nước kí Hiệp Định 
phân chia đường biên giới trên bộ và được Quốc Hội hai nước phê chuẩn 
và đầu năm 2000 là môi trường tốt để đẩy mạnh hợp tác toàn diện giữa hai 
quốc gia. 
Do đặc điểm của mô hình khu kinh tế cửa khẩu, sự hình thành và 
phát triển của nó phụ thuộc chặt chẽ vào sự ổn định chính trị, an ninh biên 
giới trong từng nước, giữa các nước có đường biên giới chung và các nước 
trong khu vực. Đây là một thực tế giải thích vì sao mô hình này ở một số 
nước đã thực hiện rất thành công nhưng ở Việt Nam mãi đến 1996 mới tiến 
hành thí điểm. Hơn nữa thực tiễn lịch sử ở Việt Nam cũng đã chứng kiến 
nhiều thời kì, khi quan hệ giữa hai nước lắng xuống khu vực biên giới trở 
thành điểm nóng về an ninh, chính trị, trật tự- an toàn xã hội, phải đóng cửa 
hàng loạt các cửa khẩu biên giới, và khi đó trao đổi thương mại hầu như 
không có. Vì vậy vấn đề này không chỉ có vai trò quan trọng sống còn, có ý 
nghĩa quyết định đến sự hình thành và phát triển khu vực cửa khẩu. Mà 
trong tương lai, khi qui mô của loại hình này mở rộng, các hoạt động 
thương mại xuất nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, hoạt động dịch vụ du lịch, 
trao đổi thông tin tư vấn. Hội trợ phát triển thì sự liên kết không chỉ trực 
36
tiếp giữa hai quốc gia, mà đòi hỏi sự tham gia có tính chất khu vực, nơi đây 
sẽ thực sự là cầu nối, là kênh quan trọng hỗ trợ cho nền kinh tế hội nhập, 
mở cửa theo xu thế toàn cầu hóa và cạnh tranh diễn ra gay gắt giữa các 
nước, các nền kinh tế trong khu vực và thế giới. 
3. Tác động của chính sách kinh tế đối ngoại và quan hệ kinh tế Việt 
Nam Trung Quốc. 
Sự phát triển của các khu kinh tế cửa khẩu phụ thuộc trực tiếp vào 
chính sách kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Từ khi thực hiện 
chính sách đổi mới năm 1986 đến nay đường lối đối ngoại mở rộng của 
chúng ta : " Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước ", trên nguyên tắc: 
bình đẳng, cùng có lợi; tôn trọng chủ quyền và không can thiệp và công 
việc nội bộ của nhau; giữ vững độc lập; chủ quyền dân tộc; kiên định sự 
lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội… Trên những định hướng cơ 
bản đó, chúng ta chủ trương giữ vững các thị trường truyền thống, đồng 
thời tìm kiếm và mở rộng thị trường ra các nước, các khu vực khác trên thế 
giới. Trong đó, Trung Quốc được coi là thị thị trường truyền thống, có 
nhiều tiềm năng, là thị trường lớn với hơn 1,3 tỉ dân, có nhiều nét tương 
đồng với Việt Nam. Việc thực thi một chính sách đối ngoại đa phương hóa, 
đa dạng hóa các hình thức kinh tế đối ngoại cho phép Việt Nam tìm kiếm 
nhiều mô hình, hình thức kinh tế đa dạng, năng động. Trong đó, bên cạnh 
các hoạt động xuất, nhập khẩu; hoạt động hợp tác, đầu tư nước ngoài; hoạt 
động chuyển giao công nghệ; hoạt động tài chính, tiền tệ quốc tế; hoạt động 
dịch vụ du lịch thu ngoại tệ…, các hình thức này kết hợp đa dạng, đan xen 
với nhau, hỗ trợ nhau cùng phát triển. Từ đó nhiều mô hình kinh tế mới ra 
đời, kết hợp được nhiều ưu điểm trong tổ chức, hoạt động của các hình 
thức kinh tế đối ngoại, như khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ 
cao, khu kinh tế cửa khẩu … Điều quan trọng hơn với chính sách kinh tế 
đối ngoại rộng mở, nền kinh tế thực sự chuyển động theo xu hướng hội 
nhập, mở cửa nhiều hơn đối với các nước láng giềng, các nước trong khu 
37
vực, cũng như nhiều nơi khác trên thế giới. Việt Nam đă dần tạo lập được 
khoảng 10 mặt hàng mũi nhọn, có lợi thế từ đặc điểm truyền thống của 
kinh tế trong nước, nhưng có khả năng thâm nhập và thị trường quốc tế. 
Tuy năng lực cạnh tranh của các sản phẩm trong nước còn đang hạn chế, 
nhưng điểm yếu này đang từng bước được khắc phục. Chính sách kinh tế 
đối ngoại hiện nay được coi là tiền đề tốt để hỗ trợ cho việc hình thành và 
phát triển các khu kinh tế cửa khẩu nói chung và các khu kinh tế cửa khẩu 
vùng Đông Bắc nói riêng. 
Mặt khác, sự hình thành và phát triển các khu kinh tế cửa khẩu 
vùng Đông Bắc còn phụ thuộc trực tiếp vào quan hệ kinh tế – thương mại 
Việt – Trung trong những năm gần đây và trong tương lai. 
4. Mức độ mở rộng quan hệ thị trường trong nước và áp lực cạnh tranh 
quốc tế 
Đây cũng là nhân tố tác động không nhỏ đến sự phát triển của khu 
kinh tế cửa khẩu. Trên thực tế những năm từ 1996 đến nay, việc thí điểm 
một số chính sách tại các khu kinh tế cửa khẩu cũng phản ánh rõ điều này. 
Mặt khác, về lý thuyết, việc hình thành và phát triển khu kinh tế cửa 
khẩu có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại đối với việc phát triển kinh 
tế hàng hóa, mức độ và qui mô mở rộng các quan hệ thị trường cũng là môi 
trường quan trong để khu kinh tế cửa khẩu tồn tại và phát triển, đến lượt 
nó, khu kinh tế cửa khẩu ra đời sẽ đóng vai trò là cầu nối, tác động trở lại 
đối với việc phát triển kinh tế hàng hóa trong nước, là cửa ngõ để nền kinh 
tế hội nhập với khu vực và thế giới. Vì vậy, nói đến việc mở rộng các quan 
hệ thị trường ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay, trước hết là việc hình 
thành đầy đủ và đồng bộ các loại thị trường, tạo ra khuôn khổ pháp lý để 
thị trường hoạt động đúng với vai trò và chức năng của nó trong nền kinh 
tế. 
Hiện nay và trong những năm tiếp theo, khi xu hướng toàn cầu hóa 
mạnh mẽ và sâu rộng hơn, Việt Nam tham gia đầy đủ hơn vào các tổ chức 
38
thương mại khu vực và quốc tế, tham gia nhiều hơn và các thị trường của 
các quốc gia phát triển, thì áp lực cạnh tranh đối với sản xuất và trao đổi 
thương mại quốc tế, trong đó có khu kinh tế cửa khẩu càng trở nên gay gắt. 
Bởi vì, xét về bản chất trong quan hệ kinh tế quốc tế, hiệu quả kinh tế chỉ 
đạt được khi trao đổi diễn ra bình đẳng, mỗi quốc gia chỉ xuất hàng hóa nào 
mà thị trường quốc tế cần, những hàng hóa mà trong nước có lợi thế, đưa 
lại giá trị chính sách biệt thấp hơn, có khả năng cạnh tranh. Ngược lại, nếu 
chỉ xuất hàng thô, hàng được sản xuất với công nghệ lạc hậu, thị trường 
quốc tế không cần thì hoặc là thua thiệt, hoặc là hàng hóa ứ đọng, ảnh 
hưởng đến sản xuất trong nước, thậm chí biến thị trường trong nước trở 
thành nơi tiêu thụ hàng hóa ế thừa của các quốc gia phát triển hơn. Khi đó, 
vai trò và hiệu quả của việc hình thành và phát triển khu kinh tế cửa khẩu 
sẽ mất tác dụng. 
Trong quan hệ kinh tế quốc tế, trình độ phát triển kinh tế thị trường, 
khả năng cạnh tranh của mỗi nước cũng được phản ánh thông qua quan hệ 
thương mại. Thông qua hoạt động này, Nhà nước sẽ điều chỉnh các chính 
sách phát triển nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ trong nước cho phù 
hợp. Bởi vì, đây cũng là kênh quan trọng phản hồi những thông tin của thị 
trường quốc tế đối với nền kinh tế của mỗi nước. Đối với quan hệ thương 
mại qua các cửa khẩu biên giới Việt – Trung, những đặc điểm này cũng 
được phản ánh đầy đủ cả về phạm vi và tính chất trong trao đổi thương mại 
giữa hai nước. Áp lực cạnh tranh gay gắt của hàng hóa Trung Quốc đối với 
hàng hóa vủa Việt Nam, đòi hỏi chúng ta phải không ngừng nâng cao sức 
sản xuất trong nước, khả năng cạnh tranh của các sản phẩm cùng loại. Mặt 
khác, trong thời gian đầu, khả năng cạnh tranh của sản phẩm nội địa cũng 
kém cùng với những hạn chế về quản lý, chống buôn lậu và gian lận 
thương mại, đã gây thiệt hại không nhỏ cho nền kinh tế, trong đó có trao 
đổi hàng hóa qua các khu kinh tế cửa khẩu. 
39
III. Phân tích các chính sách phát triển kinh tế với việc phát triển khu 
kinh tế cửa khẩu vùng Đông Bắc. 
Các chính sách thí điểm được áp dụng tại các khu kinh tế cửa khẩu 
đã mang lại rất nhiều những kết quả khả quan và ngày càng thể hiện vị trí 
và vai trò quan trọng của mình. Cho đến nay sau khi có Quyết định của Thủ 
tướng Chính phủ số 53/2001/QĐ-TTg thì các khu kinh tế cửa khẩu đang 
thực hiện các chính sách thí điểm theo các Quyết định trước đây của Thủ 
tướng Chính phủ nay chuyển sang thực hiện theo Quyết định này. 
1. Chính sách đầu tư và xây dựng cơ sở hạ tầng 
 Chính sách đầu tư và xây dựng cơ sở hạ tầng có vai trò rất quan 
trọng trong việc tạo ra môi trường đầu tư để thu hút sự đầu tư không chỉ 
các doanh nghiệp trong nước mà cả các doanh nghiệp ngoài nước. Và đặc 
biệt đối với loại hình khu kinh tế cửa khẩu thì chính sách đầu tư và xây 
dựng cơ sở hạ tầng có ý nghĩa hết sức quan trọng bởi nó ảnh hưởng trực 
tiếp đến việc ra quyết định đầu tư của các doanh nghiệp. 
Trong thời gian thực hiện thí điểm các chính sách ở các khu kinh tế 
cửa khẩu thì chính sách đầu tư được thể hiện thông qua một số các qui 
định, các Quyết định mang tính bổ sung, và qua các thông tư. Với một số 
các nội dung cơ bản như sau: Ngoài quyền được hưởng các ưu đãi theo qui 
chế hiện hành, các nhà đầu tư trong và ngoài nước còn được hưởng thêm 
một số ưu đãi như : 
- Chủ đầu tư được giảm 50% giá thuê đất và mặt nước so với khung 
giá hiện hành của Nhà nước đang áp dụng tại các khu kinh tế cửa khẩu. 
- Các chủ đầu tư được hưởng mức thuế ưu đãi ở một số ngành nghề, 
lĩnh vực kinh doanh nhất định. 
- Các chủ đầu tư nước ngoài được xét giảm nộp thuế chuyển lợi 
nhuận ra nước ngoài trong từng trường hợp cụ thể. 
Với các ưu đãi trên đã tạo ra sự thông thoáng, hấp dẫn có sức thu 
hút các doanh nghiệp của nhiều tỉnh, nhiều vùng trong cả nước đến đó kinh 
40
doanh xuất nhập khẩu, dịch vụ và đóng góp không nhỏ cho ngân sách của 
tỉnh và Nhà nước. Qua đó góp phần tạo ra tăng trưởng nhanh cho chính các 
khu kinh tế cửa khẩu điều đó càng cho chúng ta thấy được vai trò khá quan 
trọng của các chính sách đầu tư. Tuy nhiên các chính sách đầu tư trên mới 
chỉ là thí điểm nên nó còn một số điểm chưa phù hợp. Vì thế việc thu hút 
đầu tư còn hạn chế, các nhà kinh doanh trong nước tại các địa phương 
ngoài vùng biên giới, các nhà đầu tư nước ngoài còn chưa mạnh dạn đầu tư 
vào các khu kinh tế cửa khẩu. 
Để thúc đẩy quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng tại các khu vực cửa 
khẩu thực hiện thí điểm thì được phép thành lập công ty xây dựng và phát 
triển cơ sở hạ tầng là doanh nghiệp Nhà nước. Trong thời gian đến năm 
2000 mỗi năm Nhà nước đầu tư riêng qua ngân sách tỉnh có các khu kinh tế 
cửa khẩu không dưới 50% tổng số thu ngân sách trong năm trên địa bàn 
khu vực cửa khẩu đó. Cơ chế đầu tư trở lại không dưới 50% số thu ngân 
sách trên địa bàn khu kinh tế cửa khẩu đã đem lại một lượng vốn đầu tư lớn 
cho địa phương. Thậm chí có nơi lượng vốn này còn cao hơn cả số ngấn 
sách đầu tư cho các khu vực khác trong toàn tỉnh. Cơ chế này đã tạo điều 
kiện cải tạo, nâng cấp, phát triển nhanh chóng cơ sở hạ tầng, góp phần tích 
cực vào việc tạo ra một diện mạo mới, khang trang hơn tại khu kinh tế cửa 
khẩu, làm tăng thêm niềm tự hào của nhân dân trong các quan hệ giao lưu 
kinh tế, chính trị, ngoại giao, văn hóa, xã hội với nước láng giềng; đồng 
thời tạo thêm động lực để nuôi dưỡng và tăng thêm nguồn thu ngân sách 
Nhà nước tại khu kinh tế cửa khẩu. 
Tổng số vốn đầu tư và danh mục các công trình cơ sở hạ tầng được 
đầu tư từ vốn ngân sách do ủy ban nhân dân tỉnh có các khu kinh tế cửa 
khẩu đề nghị, Bộ Kế hoạch và Đầu tư quyết định sau khi có ý kiến thỏa 
thuận của Bộ Tài chính. 
Chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu kinh tế cửa khẩu. 
- Căn cứ số thực thu ngân sách Nhà nước hàng năm tại khu kinh tế 
41
cửa khẩu Nhà nước đầu tư trở lại để xây dựng cơ sở hạ tầng khu kinh tế 
cửa khẩu theo các mức sau đây. Đối với các khu kinh tế cửa khẩu thực hiện 
thu ngân sách dưới 50 tỷ đồng/năm thì được đầu tư trở lại 100%. Đối với 
các khu kinh tế cửa khẩu có số thực hiện thu ngân sách từ 50 tỷ đồng/năm 
trở lên thì được đầu tư trở lại 50 tỷ đồng và 50% số thực thu còn lại. Đối 
với các khu kinh tế cửa khẩu đã thực hiện 5 năm (kể từ khi thực hiện thí 
điểm) và có số thực thu ngân sách trên 100 tỷ đồng/năm thì được đầu tư trở 
lại không quá 50% số thực thu. 
- Các khu kinh tế cửa khẩu được vay vốn ưu đãi Nhà nước (quỹ hỗ 
trợ phát triển) để phát triển cơ sở hạ tầng và được sử dụng nguồn vốn quy 
định theo điều khoản đã nêu. 
- Các khu kinh tế cửa khẩu có số thực thu ngân sách thấp, ủy ban 
nhân dân tỉnh bố trí trong kế hoạch ngân sách hàng năm để đầu tư. Việc 
đầu tư các công trình hạ tầng tại khu kinh tế cửa khẩu do ủy ban nhân dân 
tỉnh quyết định theo các quy định hiện hành, trên cơ sở quy hoạch, kế 
hoạch được duyệt. 
- Nếu các công trình hạ tầng trên địa bàn khu kinh tế cửa khẩu đã 
được đầu tư đồng bộ, hoàn chỉnh thì được dùng nguồn vốn còn lại được 
quy định để đầu tư hỗ trợ các công trình ngoài địa bàn khu kinh tế cửa khẩu 
nhưng có liên quan và phục vụ trực tiếp khu kinh tế cửa khẩu. Chủ tịch ủy 
ban nhân dân tỉnh chịu trách nhiệm về quyết định đầu tư của mình, đồng 
thời thông báo cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư để tổng hợp, theo dõi chung. 
2. Chính sách thuế 
Chính sách về thuế có vai trò rất quan trọng trong việc khuyến 
khích các nhà đầu tư tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh tại địa bàn 
khu kinh tế cửa khẩu. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của các nhà 
đầu tư khi tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh. Các ưu đãi về 
thuế được thể hiện trong Quyết định của Thủ tướng Chính phủ với các nội 
dung cơ bản như sau : 
42
- Về thuế lợi tức: Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thực 
hiện nộp thuế lợi tức theo thuế suất quy định tại giấy phép đầu tư ; các 
doanh nghiệp trong nước áp dụng thuế suất, thuế lợi tức quy định cho từng 
ngành nghề theo quy định tại Luật thuế lợi tức, Luật khuyến khích đầu tư 
trong nước trong thời gian hoạt động của doanh nghiệp. Trong thời hạn 4 
năm kể từ khi doanh nghiệp bắt đầu phải nộp thuế lợi tức, doanh nghiệp chỉ 
phải nộp thuế với mức thuế suất thấp nhất trong khung thuế suất theo quy 
định phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có vốn 
đầu tư nước ngoài được áp dụng thuế suất lợi tức 10% trong thời hạn 4 năm 
kể từ khi doanh nghiệp bắt đầu phải phải nộp thuế lợi tức theo quy định 
hiện hành của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Các doanh nghiệp 
trong nước được áp dụng thuế suất lợi tức 25%trong thời hạn 4 năm kể từ 
khi doanh nghiệp bắt đầu phải nộp thuế lợi tức theo quy định hiện hành của 
Luật thuế lợi tức. Mọi ưu đãi về giảm thuế lợi tức sau khi kết thức thời hạn 
miễn thuế lợi tức vẫn theo quy định hiện hành tại các Luật thuế lợi tức, 
Luật khuyến khích đầu tư trong nước, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt 
Nam, nhưng được tính toán trên cơ sở thuế suất xác định ở trên trong thời 
hạn thuế suất đó được áp dụng. 
- Về thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài: Các chủ đầu tư nước 
ngoài khi đầu tư thành lập doanh nghiệp và kinh doanh tại khu vực cửa 
khẩu Móng Cái nếu chuyển lợi nhuận ra nước ngoài thì chỉ phải nộp thuế 
chuyển lợi nhuận ra nước ngoài với thuế suất 5% (áp dụng cho chủ đầu tư 
lựa chọn để hưởng các ưu đãi đầu tư theo Luật khuyến khích đầu tư trong 
nước hoặc theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam). 
Với các ưu đãi về thuế trên đã tạo ra một sự thông thoáng để 
khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Tuy nhiên việc áp dụng 
các chính sách về thuế ở các khu kinh tế cửa khẩu vẫn còn thể hiện nhiều 
bất cập và chưa thực sự yên tâm cho các nhà đầu tư. 
IV. Thực trạng của các khu kinh tế cửa khẩu vùng Đông Bắc 
43
1. Quá trình hình thành các khu kinh tế cửa khẩu vùng Đông Bắc. 
1.1 Vài nét về đặc điểm và sự hình thành các cửa khẩu phía Bắc 
* Thời kì trước đổi mới : 
- Giao lưu kinh tế với bên ngoài qua các cửa khẩu trên bộ phía Bắc 
gắn liền với sự thăng trầm của lịch sử mối quan hệ truyền thống, lâu đời 
giữa Việt Nam và Trung Quốc. Từ xa xưa các triều đại phong kiến đã mở 
nhiều điểm để nhân dân địa phương hai bên biên giới qua lại, buôn bán và 
có những chính sách trao đổi hàng hóa, thuế khóa cụ thể. Thời kì Pháp 
thống trị Việt Nam, Chính quyền địa phương và triều đình phong kiến Mãn 
Thanh (Trung Quốc) đã kí kết nhiều văn bản liên quan đến cột mốc biên 
giới và buôn bán qua các cửa khẩu hai nước. Bản "Điều ước Việt Nam năm 
1885" và "Chương trình hợp tác tuần tra biên giới năm 1896" qui định mỗi 
bên lập 25 đồn trú (trong đó có 19 điểm trên bộ và 6 điểm dưới biển) đồng 
thời là những điểm họp chợ, trao đổi hàng hóa trên biên giới. Phần lớn 
những điểm này được giữ đến ngày nay 
- Đến năm 1950 hai nước Việt Nam và Trung Quốc chính thức thiết 
lập ngoại giao. Tháng 4/ 1952 hai nước thông qua " Bị vong lục mậu dịch 
" những năm sau đó lại kí tiếp các nghị định thư về buôn bán, trong đó có 
ấn dịnh mở ba cặp cửa khẩu và 28 điểm trao đổi hàng hóa. Theo thỏa thuận 
có 2 hình thức buôn bán là tiểu ngạch dân gian (giữa nhân dân hai bên vùng 
biên giới) và các công ty quốc doanh của các địa phương dọc đường biên. 
Những năm 1965 – 1975 trên biên giới đã có 28 cặp cửa khẩu (trong đó có 
4 cửa khẩu quốc tế, 10 cặp cửa khẩu quốc gia và 14 cặp cửa khẩu tiểu 
ngạch). Tháng 2/1979 chiến tranh biên giới phía Bắc xảy ra, từ đó quan hệ 
giao lưu kinh tế gữa hai nước bị gián đoạn. 
* Thời kì đổi mới và mở cửa kinh tế : 
- Những năm 1986 – 1990 tình hình quan hệ hai nước đã bắt đầu 
dịu đi và với sự thỏa thuận của chính phủ địa phương hai bên thì hàng chục 
cặp cửa khẩu tiểu ngạch và nhiều đường mòn đã được mở để nhân dân hai 
44
bên biên giới qua lại và trao đổi hàng hóa. Song hoạt động còn mang tính 
dân gian, tự phát. Để đáp ứng nguyện vọng giao lưu của nhân dân 2 nước 
Ban Bí Thư Trung Ương Đảng (khóa IV) đã ra thông báo 118/TB-TW ngày 
19/11/1988. Hội đồng Bộ trưởng đã có chỉ thị số 32/CT ngày 21/2/1989, số 
405 ngày 19/11/1990 để chấn chỉnh công tác quản lý vùng biên giới phía 
Bắc. Tiếp đó cuộc gặp gỡ cấp cao giữa 2 Đảng và Nhà nước (tháng 
11/1991) đã thống nhất chủ trương "khép lại quá khứ, mở ra tương lai" bắt 
đầu thời kì mới bình thưòng hóa và mở cửa. 
- Thực hiện chủ trương trên, ngày 7/11/1991 đại diện Chính phủ hai 
nước kí "Hiệp định tạm thời về giải quyết các công việc trên biên giới…". 
Sau Hiệp định, Chính phủ đã phê duyệt mở 21 cặp cửa khẩu với Trung 
Quốc và số lượng các cặp cửa khẩu tính đến năm 1994 là 25 cặp cửa khẩu. 
Điều đó thể hiện sự nỗ lực của cả hai bên trong quá trình nhằm cải thiện 
giao lưu kinh tế giữa hai nước. 
- Để tăng cường giao lưu kinh tế với Trung Quốc cũng như nhằm 
đưa ra một chính sách quản lý phát triển cho phù hợp. Một trong sự thay 
đổi quan trọng đầu tiên là chủ trương thực hiện chính sách thí điểm ở một 
số cửa khẩu điều đó thể hiện qua việc xây dựng thí điểm khu kinh tế cửa 
khẩu. 
1.2 Quá trình hình thành các khu kinh tế cửa khẩu vùng Đông Bắc. 
Để khuyến khích phát triển khu vực biên giới, ngày 18/9/1996, Thủ 
tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 675/TTg cho phép áp dụng thí 
điểm một số cơ chế chính sách tại khu vực cửa khẩu Móng Cái đặt mốc cho 
việc hình thành và phát triển các khu kinh tế cửa khẩu trong cả nước. Tính 
đến tháng 1/1999 đã có thêm 8 khu kinh tế cửa khẩu được áp dụng thuộc 
các tỉnh : Lạng Sơn, Lào Cai, Cao Bằng, Kiên Giang, Hà Tĩnh, Tây Ninh, 
Quảng Trị, Kon Tum. 
Chủ trương xây dựng các khu kinh tế cửa khẩu biên giới Việt – 
Trung cùng nhằm đón trước triển vọng to lớn của quan hệ kinh tế – thương 
45
mại Việt –Trung trong thời gian tới. Bởi vì hiệu quả các khu kinh tế cửa 
khẩu chỉ phát huy được khi quan hệ kinh tế – thương mại được hai nước 
thực sự quan tâm và phát triển ở mức độ nhất định. Hơn nữa khi các quan 
hệ này càng phát triển thì khu kinh tế cửa khẩu sẽ đóng vai trò là khu kinh 
tế mở, cùng động lực kinh tế để kéo các khu vực xung quanh phát triển, 
góp phần thúc đẩy nhanh hơn nữa quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa 
ở các vùng núi phía Bắc Việt Nam nói riêng và cả nước nói chung. Tuy 
nhiên, số lượng cửa khẩu và vùng địa lý được phép xây dựng khu kinh tế 
cửa khẩu chung trên các tuyến biên giới đất liền của cả nước, cho đến nay 
mới chỉ là 10 mặc dù hiện nay một số địa phương đang tiếp tục đề nghị 
được Chính phủ cho phép xây dựng các khu kinh tế cửa khẩu. 
Vùng Đông Bắc Việt Nam có 5 tỉnh giáp với Trung Quốc là : 
Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang và Lào Cai. Và trong đó có 4 
khu vực địa lý được Chính phủ chính thức cho phép xây dựng khu kinh tế 
cửa khẩu, đó là khu kinh tế cửa khẩu ở các tỉnh Quảng Ninh, Lạng Sơn, 
Cao Bằng và Lào Cai. Điểm đáng chú ý là, các khu kinh tế cửa khẩu biên 
giới phía Bắc Việt Nam đều nằm ở vùng Đông Bắc và cũng là các khu kinh 
tế cửa khẩu được xây dựng đầu tiên ở nước ta với tư cách là thí điểm một 
mô hình kinh tế mới. 
Bảng 1 : Các vùng địa lý biên giới Đông Bắc Việt Nam 
 được phát triển khu kinh tế cửa khẩu. 
Khu 
vực cửa 
khẩu 
Phạm vi hành chính các địa phương thuộc 
khu kinh tế cửa khẩu của Việt Nam 
Cửa khẩu phía 
Trung Quốc 
1. 
Móng 
Cái 
(Quảng 
Ninh) 
- Thị xã Móng Cái 
- Các xã: Hải Xuân, Hải Hòa, Bình Ngọc, 
Trà Cổ, Ninh dương, Vạn Ninh, Hải Yến, 
Hải Đông, Hải Tiến, Vĩnh Trung, Vĩnh 
Thực 
Đông Hưng tỉnh 
QuảngTây- 
Trung Quốc 
2. Lạng 
Sơn 
- Cửa khẩu Đồng Đăng (đường sắt); 
- Cửa khẩu Hữu Nghị (đường bộ), gồm thị 
Hữu Nghị 
Quan- Quảng 
46
trấn Đồng Đăng và xã Bảo Lam- huyện Cao 
Lộc; 
Tây- Trung Quốc 
3. Cao 
Bằng 
- Cửa khẩu quốc gia Tà Lùng và Xã Tà 
Lùng- huyện Quảng Hà. 
- Cửa khẩu Hùng Quốc và xã Hùng Quốc 
huyện Trà Lĩnh. 
- Cửa khẩu Sóc Giang và xã Sóc Hà- huyện 
Quảng Hà. 
Thủy Khẩu 
Long Bảng- 
Quảng Tây 
Bình Mãng 
4. Lào 
Cai 
- Cửa khẩu quốc tế Lào Cai gồm: phường 
Lào Cai, Phố Mới, Cóc Lếu, Duyên Hải; xã 
Vạn Hòa, thôn Lục Cẩu, xã Đông Tuyển (thị 
xã Lào Cai), thôn Na Mo xã Bản Phiệt- 
huyện Bảo Thắng. 
- Cửa khẩu Mường Khương: gồm toàn bộ xã 
Mường Khương. 
Hà Khẩu- 
Vân Nam- 
Trung Quốc 
Kiều Dâu 
Nguồn: Tổng hợp theo các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 
từ năm 1996 đến nay. 
* Nội dung chính sách thí điểm tại các khu kinh tế cửa khẩu: 
- Mỗi một khu kinh tế cửa khẩu đều có những đặc thù riêng vốn có 
nên những chính sách thực hiện thí điểm tại các khu kinh tế cửa khẩu 
không thể hoàn toàn đồng nhất và nó được dựa trên các cở sở các điểm 
chung nhất sau: 
- Qui định về mặt địa bàn của các khu kinh tế cửa khẩu trên cơ sỏ 
khai thác tối ưu về địa lý kinh tế, xã hội của cửa khẩu 
- Cho phép phát triển đồng bộ các loại hình hoạt động thương mại 
như: Xuất nhập khẩu, thương mại nhập tái xuất, vận chuyển hàng quá cảnh, 
kho ngóại quan, cửa hàng miễn thuế, hội chợ triển lãm, các cửa hàng giới 
thiệu sản phẩm, các cơ sở sản xuất, gia công hàng xuất khẩu, các chi nhán 
đại diện các công ty trong nước ngoài nước,chợ cửa khẩu. 
- Phát triển du lịch với thủ tục xuất, nhập cảnh phù hợp với đạc 
điểm vùng biên giới theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho công dân hai 
47
nước giáp khu vực khu kinh tế cửa khẩu và công dân nước thứ ba qua lại, 
tạm trú tại khu khu kinh tế cửa khẩu. 
- Qui định về đầu tư ngân sách Nhà nước cho khu khu kinh tế cửa 
khẩu. Trong khoảng thời gian xác định (thường là 5 năm), Nhà nước đầu tư 
riêng cho ngân sách Tỉnh có khu khu kinh tế cửa khẩu một tỷ lệ nhất định 
(thường là không dưới 50%) từ tổng số ngân sách trong năm trên địa bàn 
khu kinh tế cửa khẩu cho xây dựng cơ sở hạ tầng tại khu khu kinh tế cửa 
khẩu. 
- Quyết định khung khổ các chính sách về tài chính, tiền tệ phù hợp 
với đặc điểm vùng biên. 
- Qui định các vấn đề về quản lý Nhà nước với khu kinh tế cửa 
khẩu. 
* Việc hình thành các khu kinh tế cửa khẩu bao gồm bốn mục tiêu 
- Một là phát triển kinh tế tại các địa bàn khu vực cửa khẩu trên cơ 
sỏ khuyến khích, hỗ trợ, tạo điều kiện, tạo địa bàn thuận lợi để các doanh 
nghiệp trong cả nước đầu tư kinh doanh trên địa bàn khu vực cửa khẩu; qua 
đó tạo điều kiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương theo hướng 
phát triển các ngành thương mại, dịch vụ, du lịch, công nghiệp 
- Hai là nâng cao đời sống nhân dân taị các khu vực cửa khẩu và 
các khu vực kề cận, góp phần nâng cao dân trí đông bào cùng biên thông 
qua việc tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng và phát triển giao lưu kinh tế qua 
các khu kinh tế cửa khẩu 
- Ba là thực hiên chiến lược gắn việc giữ vững an ninh chín trị quốc 
phòng, trật tư an toàn xã hội, chủ quyền quốc gia với việc phát triển kinh tế, 
nâng cao đời sống và trình độ dân trí của nhân dân nhằm tạo thêm thế vững 
mạnh về quốc phòng an ninh trên tuyến biên giới nói chung và trên địa bàn 
các cửa khẩu nói riêng. 
48
- Bốn là thực hiện tốt hơn việc điều hòa, phối hợp về quản lý Nhà 
nước đối với khu kinh tế cửa khẩu; nâng cao hiệu quả và hiệu lực quản lý 
Nhà nước tại địa bàn. 
Và sau giai đoạn thử nghiệm ngày 19/4/2001, Thủ tướng Chính phủ 
đã ban hành quyết định 53/2001/QĐ_ TTg cho phép chính thức thực hiện 
một số chính sách đối với khu kinh tế cửa khẩu biên giới. 
2. Thực trạng về các khu kinh tế cửa khẩu vùng Đông Bắc . 
2.1 Thực trạng các khu kinh tế cửa khẩu vùng Đông Bắc 
2.1.1 Khu kinh tế cửa khẩu Móng Cái 
Ngày 18/9/1996 Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định 675-TTg 
cho “áp dụng thí điểm một số chính sách tại khu vực cửa khẩu Móng Cái”. 
Sau nhiều năm thực hiện, được sự quan tâm giúp đỡ của các Bộ ngành 
trung ương; Cùng với quyết tâm chỉ đạo triển khai thực hiện của tỉnh 
Quảng Ninh, nên đã thu được kết quả tích cực trên các lĩnh vực tại địa bàn 
huyện Hải Ninh (nay là thị xã Móng Cái) cũng như tỉnh Quảng Ninh về các 
mặt như: 
- Về thương mại-xuất nhập khẩu: Đã bước đầu hình thành các khu 
thương mại dịch vụ, từng bước đáp ứng các nhu cầu phát triển mới: mở 
rộng chợ Móng Cái, xây dựng mới các phố thương mại, cửa hàng miễn 
thuế, kho ngoại quan, phát triển các cơ sở dịch vụ (ngân hàng, bưu điện, 
khách sạn, nhà hàng...). Theo “Báo cáo tổng kết hai năm thực hiện Quyết 
định 675/TTg của Thủ tướng Chính phủ” của UBND tỉnh Quảng Ninh 
(ngày 10/3/1999), tổng kim ngạch hàng hóa xuất nhập khẩu bình quân hàng 
năm tăng 27%. Trong đó hàng xuất khẩu tăng 34%, hàng nhập khẩu tăng 
6%. Hàng chuyển tải, tạm nhập tái xuất, kho ngoại quan tăng 129%. Kim 
ngạch xuất khẩu lớn gấp 3-4 lần kim ngạch nhập khẩu. Tổng kim ngạch 
xuất khẩu năm 2002 đạt 248,3 triệu USD, bằng 83% kế hoạch, tăng 6,1% 
so với năm 2001, trong đó: xuất khẩu địa phương (kim ngạch thực xuất, 
không tính kim ngạch tạm nhập tái xuất) 56,4 triệu USD, vượt kế hoạch 
49
16% tăng 20%. Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2003 là 264,4 triệu USD, 
năm 2004 là 279,7 triệu USD. Tốc độ tăng bình quân từ năm 2001-2004 là 
trên 6% 
Số lượng người Trung Quốc sang buôn bán, làm ăn tại chợ Móng 
Cái và thuê điểm mở cửa hàng buôn bán kinh doanh vẫn được duy trì. Các 
công ty, các doanh nghiệp tư nhân, các hộ buôn bán nhỏ theo Nghị định 66 
tăng bình quân 33% năm. Số lượng các chi nhánh, đại diện của các doanh 
nghiệp trong và ngoài tỉnh tại khu vực cửa khẩu Móng Cái cũng tăng 
nhanh. Hiện nay, đã có hai cửa hàng miễn thuế tại cửa khẩu Bắc Luân và 
một điểm bán hàng tại cảng Vạn Gia đã được đưa vào hoạt động. Bốn kho 
ngoại quan và kho chờ xuất. 
- Xuất nhập cảnh và du lịch: Từ ngày thành lập cho đến tháng 
11/1998, đã có trên 73 nghìn lượt người Trung Quốc vào Quảng Ninh bằng 
giấy thông hành xuất nhập cảnh. Trong đó chủ yếu là khách du lịch (chiếm 
98%) và một số người nhập cảnh với mục đích tìm hiểu kinh doanh. So với 
thời kỳ 1994-1995, con số này tăng 4,8 lần. Khách du lịch Trung Quốc vào 
Việt nam nhìn chung thực hiện tốt các quy định của Nhà nước về nhập 
cảnh, xuất cảnh, cư trú, đi lại, cho đến nay tại địa bàn Móng Cái chưa có 
trường hợp nào đáng tiếc xảy ra. Thực tế cho thấy khách đi tham quan, du 
lịch bằng giấy thông hành được quản lý chặt chẽ hơn so với đi bằng hộ 
chiếu. Số lượng khách lữ hành năm 1997 tăng 37.350 lượt người (195%); 
năm 1998 so với năm 1997 tăng 3 981 lượt người (8,5%). Doanh thu từ du 
lịch lữ hành năm 1998 tăng gấp 2 lần năm 1997. Vào năm 2002 tổng số 
khách du lịch đạt 2,34 triệu lượt khách, tăng 18,9% so với cùng kỳ trong 
đó: khách quốc tế 921,2 nghìn lượt khách (chiếm 39% tổng số khách) tăng 
35,6%; khách lưu trú ước đạt 954,4 ngàn lượt khách, tăng 27,2% so với 
cùng kỳ trong đó: khách quốc tế 564,5 ngàn lượt khách, tăng 74,1% tổng 
doanh thu du lịch ước đạt 7 64,1 tỷ đồng, tăng 50,4%. Năm 2003 tổng số 
khách du lịch đạt 2,78 triệu lượt khách tăng 19% so với năm 2002, năm 
50
2004 tổng số khách du lịch đạt 3,34 triệu lượt khách tăng trên 20% so với 
năm 2003. 
- Thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước: Trên địa bàn khu cửa 
khẩu Móng Cái hiện có trên 10 dự án được cấp phép với tổng số vốn đầu tư 
80 triệu USD. Trong đó có 2 dự án được cấp phép từ trước, và trên 7 dự án 
được cấp phép sau Quyết định 675-TTg. Bên cạnh đó, hiện còn 2 dự án đã 
hoàn thành hồ sơ đang chờ cấp phép,trong đó có một dự án xin bổ sung 
ngành nghề kinh doanh và tăng vốn đầu tư với tổng số vốn dự kiến lên đến 
30 triệu USD. Ngoài ra, còn có hàng chục doanh nghiệp trong nước (chủ 
yếu đó là các doanh nghiệp từ thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội) đang 
làm thủ tục thuê đất để chuẩn bị kinh doanh. 
- Xây dựng cơ sở hạ tầng: Từ khi được áp dụng cơ chế thí điểm 
bằng nguồn vốn được đầu tư riêng qua ngân sách tỉnh, đến 12/1998 đã tập 
trung xây dựng 56 dự án phát triển khu vực cửa khẩu Móng Cái với tổng số 
vốn 201 tỷ đồng. Chủ yếu đầu tư vào các ngành giao thông, điện, cấp thoát 
nước, và các công trình phúc lợi xã hội khác. Đã đưa vào sử dụng 10 cầu 
trên quốc lộ 18A (Móng Cái-Tiên Yên), 2 bến cảng, 1 bến xe, 55 km đường 
bộ: 173 km đường dây cáp 0,4 KV, và 125 trạm biến áp các loại, 83 km 
đường dây tải 22 KV, cấp điện cho sản xuất kinh doanh và sinh hoạt ở khu 
vực cửa khẩu. Một nhà máy cấp nuớc công suất 5.400m2/ngày, một hệ 
thống cấp nước cho cư dân thị xã, một hệ thống thoát nước 24 km, đã được 
đưa vào sử dụng. Xây dựng mới 60 phòng học cho các trường phổ thông và 
1 nhà trẻ (300 cháu), nâng cấp bệnh viện đa khoa; Xây mới 5000 m2 nhà 
cấp 2- cấp 3 cho các cơ quan chính quyền và các cơ quan quản lý khu cửa 
khẩu. 
- Về mặt xã hội: từ một khu vực nghèo của một huyện miền núi 
biên giới, với kinh tế nông nghiệp, tự cấp tự túc là chủ yếu, Móng Cái nay 
đã biến thành một khu vực phát triển mạnh, với cơ cấu kinh tế hoàn toàn 
thay đổi. Móng Cái đã trở thành một khu đô thị có tốc độ phát triển nhanh, 
51
hạ tầng cơ sở tăng nhiều. Đời sống của dân chúng được cải thiện rõ rệt, 
nhất là về các điều kiện vật chất: thu nhập bình quân đầu người đã tăng từ 
360 USD lên 472 USD vào năm 2002. Tỷ lệ người nghèo giảm từ 17% 
xuống còn 11%. 
Chúng ta có thể khẳng định rằng Móng Cái là một trong những cửa 
khẩu quốc tế quan trọng nhất trên biên giới phía Bắc Việt Nam trong việc 
giao lưu với Trung Quốc và các nước khác trong khu vực. Đặc biệt, Móng 
Cái tiếp giáp với thị xã Đông Hưng là khu kinh tế mở của tỉnh Quảng Tây, 
Trung Quốc. Khu kinh tế này đang được xây dựng thành một thành phố 
lớn, hiện đại, đa chức năng và được xác định là cửa ngõ để Trung Quốc đi 
vào thị trường Đông Nam Á. 
Móng Cái có hệ thống đường bộ, đường biển giao lưu trong nước và 
quốc tế thuận lợi. Vùng ven biển có thể xây dựng các cảng nhỏ, (cả cảng du 
lịch và cảng thương mại) Mũi Ngọc, Thọ Xuân. Đặc biệt cảng Vạn Gia là 
cảng chuyển tải xuất nhập khẩu giữa hai nước Việt-Trung qua khu vực này. 
Móng Cái đã có 1 sân bay nhỏ có thể nâng cấp để phục vụ việc đi lại 
bằng hàng không. Nhiều công trình hạ tầng quan trọng như hệ thống thông 
tin viễn thông, lưới điện 110 kv, đường 18A nối với thành phố Hạ Long, 
cảng biển Vạn Gia, chợ, khách sạn, trung tâm hội chợ triển lãm, công viên.. 
đã được đầu tư nâng cấp. 
Móng Cái có bãi biển Trà Cổ nổi tiếng với bãi cát phẳng, chạy dài 
17km. Khu du lịch Trà Cổ, Vĩnh Thực gắn với quần thể du lịch Hạ Long-
Bái Tử Long càng tạo ra sức hấp dẫn mạnh mẽ. Trong quy hoạch tổng thể 
phát triển khu vực Móng Cái được phân thành 3 chức năng: khu thương 
mại quốc tế, khu du lịch và khu công nghiệp. 
Với những lợi thế của mình, Móng Cái là khu vực cửa khẩu giàu 
tiềm năng. Nhằm đưa Móng Cái thành địa bàn có sức thu hút nhà đầu tư, 
doanh nghiệp trong và ngoài nước. 
52
Mặc dù có những mặt tích cực nêu trên thì còn có nhiều tồn tại hạn 
chế Quyết định 675-TTg và 103-TTg áp dụng vào Móng Cái còn rất hạn 
hẹp, không đồng bộ, mặt khác Nghị định số 57/CP ngày 31/7/1998 của Thủ 
tướng Chính phủ và các Nghị định, thông tư giảm thuế để khuyến khích 
xuất khẩu và đầu tư thì Quyết định 675-TTg và 103-TTg chính sách ưu đãi 
không còn nữa nên chưa tạo ra bước phát triển nhanh, mạnh ,vững chắc ở 
khu vực Móng Cái về các lĩnh vực, đặc biệt về kinh tế và lợi thế của cửa 
khẩu Móng Cái về thương mại – xuất nhập khẩu, du lcịh, dịch vụ, cảng 
biển.. chưa được nhiều mặt. Mặt khác, mấy năm qua, Trung Quốc đã tập 
trung xây dựng khu khai phát Đông Hưng (tiếp giáp với Móng Cái) thành 
một khu kinh tế cửa khẩu phát triển với cơ chế chính sách ữu đãi đặc biệt là 
đối tựợng hợp tác cạnh tranh trực tiếp về phát triển kinh tế – xã hội đối với 
thị xã Móng Cái của ta. 
2.1.2. Khu kinh tế cửa khẩu Lạng Sơn 
Lạng Sơn có 2 cửa khẩu quốc tế là cửa khẩu đường sắt Đồng Đăng 
và cửa khẩu đường bộ Hữu Nghị; có 2 cửa khẩu quốc gia là Chi Ma (huyện 
Lộc Bình), Bình Nghi (huyện Tràng Định), cửa khẩu Tân Thanh và 7 cặp 
chợ biên giới với Trung Quốc. Lạng Sơn có 10 huyện và 1 thành phố, 266 
xã, phường, thị trấn. 
Ngày 11/9/1997, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định 748/TTg 
cho phép áp dụng thí điểm một số cơ chế chính sách mới tại khu vực các 
cửa khẩu biên giới giữa Lạng Sơn và Trung Quốc. Việc triển khai thực hiện 
Quyết định của Thủ tướng đã được tỉnh xác định là một trong những nhiệm 
vụ trọng tâm, nên đã tập trung lực lượng để thực hiện. Sau một thời gian 
thực hiện, đã đạt được một số kết quả ban đầu: 
- Về xuất nhập cảnh (XNC) và du lịch: UBND Tỉnh đã cùng với các 
ngành hữu quan thống nhất công tác quản lý XNC và hoạt động của người 
nước ngoài trên địa bàn thông qua các Quyết định số 314 UB QĐ ngày 
11/3/1998 của UBND tỉnh về việc ban hành “Qui định tạm thời về XNC tại 
53
khu vực Đồng Đăng, Hữu Nghị, Tân Thanh” và “Qui chế phối hợp tạm thời 
quản lý khách XNC qua ba cửa khẩu và quản lý hoạt động của người nước 
ngoài trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn” : Hướng dẫn người Trung Quốc và người 
nước ngoài khác nhập cảnh và tạm trú tại khu vực thí điểm; cấp giấy phép 
cho người Trung Quốc vào các địa điểm khác trong tỉnh; Cấp giấy thông 
hành cho người Việt Nam sang huyện biên giới của Trung Quốc; quản lý 
người qua lại các cặp chợ tại khu vực cửa khẩu Tân Thanh. Quyết định số 
468/UB ngày 18/4/1998 của UBND tỉnh qui định việc thu và sử dụng phụ 
phí du lịch để đầu tư phát triển du lịch trên địa bàn; chỉ định Công ty Du 
lịch- XNC làm đầu mối đưa đón khách bằng thẻ du lịch, vv... Hoạt động du 
lịch tăng nhanh, bình quân tăng từ 13-18%/năm về lượng khách. Doanh thu 
du lịch tăng khá, bình quân 15%/năm, lượng khách du lịch năm 2000 đến 
Lạng Sơn trên 180.00 lượt người, trong đó riêng khách quốc tế đã lên đến 
hơn 60.000 lượt người. Năm 2004 lượng khách du lịch đến Lạng Sơn ước 
đạt khoảng 301.800 người đây là một con số đáng khích lệ. Kể từ khi 
Quyết định số 53/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành vào ngày 
19/4/2001 đã tạo đà cho sự phát triển khu kinh tế cửa khẩu Lạng Sơn ngày 
một mạnh mẽ hơn. 
- Về thương mại- xuất nhập khẩu (XNK): Công tác xuất nhập khẩu đã 
có sự tăng trưởng khá, đến nay đã có hơn 350 doanh nghiệp trong cả nước 
tham gia hoạt động thương mại, xuất nhập khẩu qua khu vực cửa khẩu biên 
giới của Lạng Sơn trong khi năm 1996 có 240 doanh nghiệp trong cả nước 
thực hiện xuất nhập khẩu qua Lạng Sơn, năm 1998 là 268 và năm 1999 là 
300 doanh nghiệp. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu 4 năm đạt 1.400 triệu 
USD. Điều đáng chú ý là hoạt động ngoại thương qua khu vực cửa khẩu 
Lạng Sơn luôn suất siêu, các sản phẩm thuộc nhóm hàng nông-lâm hải sản, 
thủ công mỹ nghệ.. là chủ yếu, tạo điều kiện cho sản xuất chế biến phát 
triển (năm 1997: tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 303 triệu USD, trong 
đó xuất khẩu đạt 205 triệu USD, năm 2000: tổng kim ngạch xuất nhập khẩu 
54
đạt xấp xỉ 700 triệu USD, trong đó xuất khẩu đạt gần 500 triệu USD). Năm 
2004 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt khoảng 1421 triệu USD. Một số 
doanh nghiệp trong nước đã có sự liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp 
ở Lạng Sơn để tổ chức sản xuất vùng nguyên liệu, chế biến sản phẩm tại 
nơi sản xuất, nhằm nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu, tạo được công ăn 
việc làm cho nhiều lao động… Để tạo đà cho việc thúc đẩy hoạt động 
thương mại Lạng Sơn đã khai trương phòng quản lý xuất nhập khẩu theo 
Quyết định số 0679/QĐ-BTM ngày 1/6/2004 của Bộ thương mại. Phòng 
quản lý xuất nhập khẩu khu vực Lạng Sơn thực hiện cấp giấy chứng nhận 
xuất xứ hàng hoá mẫu E tại thành phố Lạng Sơn cho các doanh nghiệp và 
thương nhân trong và ngoài tỉnh xuất khẩu hàng hoá nông sản, trái cây Việt 
Nam sang thị trường Trung Quốc qua các cửa khẩu của Lạng Sơn và toàn 
quốc từ 01/02/2005. 
- Về hoạt động đầu tư: Cho tới năm 2004 có trên 10 dự án đầu tư 
đã và đang triển khai tại khu kinh tế cửa khẩu với tổng số vốn lên đến hàng 
trăm tỉ đồng, trong đó là phần lớn là các dự án đầu tư nước ngoài. Hiện nay 
tại Tân Thanh có hàng chục đơn vị trong nước đã đăng kí thuê đất đầu tư 
và một số đơn vị của Việt Nam đã và đang làm thủ tục liên doanh với các 
công ty nước ngoài vốn đầu tư trên 15 triệu USD. Số vốn đầu tư nước 
ngoài vào khu vực cửa khẩu tuy còn nhỏ bé nhưng đã nói lên sự hấp dẫn 
của khu kinh tế cửa khẩu này, vì thời gian xây dựng chưa nhiều và còn 
nhiều việc đang tiếp tục triển khai. Công tác tổ chức thu ngân sách đã có 
nhiều tiến bộ, tăng trưởng khá hơn, thường năm sau cao hơn năm trước, và 
vượt chỉ tiêu kế hoạch trên giao. Từ đó có nguồn để đầu tư trở lại cho việc 
xây dựng cơ sở hạ tầng, dịch vụ phục vụ cho công tác xuất nhập khẩu và 
các hoạt động thương mại trên địa bàn. Trong hơn sáu năm tính từ khi 
thành lập khu kinh tế cửa khẩu, tổng số vốn được đầu tư trở lại cho khu 
kinh tế cửa khẩu hơn 1000 tỷ đồng. 
55
- Về xây dựng cơ sở hạ tầng: Cho đến tháng 1 năm 2000, đã triển 
khai thực hiện giá trị khối lượng hoàn thành là 150,830 tỷ đồng; đã bàn 
giao đưa vào sử dụng 54 dự án được phê duyệt với tổng đầu tư là 292,201 
tỷ đồng. Trong đó, dự án giao thông có 15 hạng mục với số vốn 138,6 tỷ 
đồng; dự án điện nước có 10 hạng mục với số vốn 36,4 tỷ đồng; dự án giáo 
dục y tế có 5 hạng mục, với số vốn 24,8 tỷ đồng; các công trình công cộng 
và quản lý nhà nước có 24 hạng mục với số vốn 92,5 tỷ đồng. Các cơ sở 
vật chất được xây dựng nhanh, quy hoạch được xây dựng và xét duyệt kỹ, 
từ đó các tuyến đường giao thông được xăy dựng và mở rộng, nâng cấp tốt 
hơn, hệ thống đường nội thị ở cửa khẩu được xây dựng cơ bản hoàn thành, 
hệ thống cấp, thoát nước được xây dựng, điện chiếu sáng, thông tin liên lạc 
được đảm bảo, nhiều khách sạnm khu thương mại, nhà nghỉ và các cơ sở 
dịch vụ khác được xây dựng mới, đảm bảo điều kiện phục vụ tốt hơn. Đã 
chú trọng tập trung ưu tiên một được số dự án đầu tư phục vụ đảm bảo 
quốc phòng an ninh khu vực và các dự án kết hợp kinh tế với quốc phòng. 
Một số khu du lịch cũng được khôi phục hoặc đầu tư xây dựng mở rộng 
nhe: khu du lịch Mẫu Sơn-thuộc xã biên giới huyện Lộc Bình, nằm trên độ 
cao 1200m so với mặt nước biển, khu du lịch thắng cảnh Tam-Nhị Thanh, 
thành nhà Mạc, và nhiều cơ sở dịch vụ du lịch khác ở Đồng Đăng, Hữu 
Nghị v.v… 
 Các tuyến Quốc lộ trên địa bàn đã được xây dựng: 
+ Quốc lộ 1A: là tuyến Quốc lộ xuyên Việt, từ cửa khẩu Hữu Nghị 
Quan qua địa phận Lạng Sơn về Hà Nội 
+ Quốc lộ 1B: Lạng Sơn qua Thái Nguyên 
+ Quốc lộ 4B: Lạng Sơn đi Cao Bằng 
+ Quốc lộ 4A: Lạng Sơn qua Tiên Yên đến thị xã Móng Cái-Quảng 
Ninh 
+ Quốc lộ 31: Đình Lập-Bắc Giang 
+ Quốc lộ 279: Bắc Cạn-Bình Gia (Lạng Sơn) 
56
+ Các tuyến đường sắt: 
+ Đường sắt liên vận quốc tế Hà Nội-Trung Quốc chạy qua địa phận 
Lạng Sơn khoảng trên 100 km. 
+ Đường sắt Lạng Sơn-Na Dương 
Con đường thông thương giữa các khu kinh tế cửa khẩu của Lạng 
Sơn với các địa bàn khác trong nước cũng như ngoài nước là khá thuận tiện 
với chất lượng ngày càng được nâng cao. 
- Về thu ngân sách: Trong 2 năm 1997-1998, số thu trên địa bàn thí 
điểm đạt bình quân 154 tỷ đồng. Năm 1999, số thu trên địa bàn đạt 276,704 
tỷ đồng, chiếm 67% tổng thu ngân sách của tỉnh Lạng Sơn. Từ năm 2001 
đến nay mỗi năm số thu từ khu kinh tế cửa khẩu tăng 15-25% so với năm 
trước. Năm 2002 số thu từ khu kinh tế cửa khẩu đạt 687,5 tỉ đồng; năm 
2003 đạt 825 tỉ đồng; năm 2004 đạt xấp xỉ 950 tỉ đồng. Con số này thể hiện 
công tác quản lý nguồn thu, chống buôn lậu và gian lận thương mại được 
thực hiện tốt nhờ đó mà tạo ra môi trường thông thoáng cho hoạt động 
thương mại xuất nhập khẩu phát triển, làm nguồn thu ở mức cao mặc dù 
thời điểm đó kinh tế các nước trong khu vực đang bị khủng hoảng. 
Các kết quả trên cho thấy sự nỗ lực của các cấp các ngành địa 
phương trong việc tổ chức thực hiện, quản lý và phối hợp một cách nghiêm 
túc trong thời gian qua. Trong thời gian gần đây nếu được Chính phủ cho 
phép Lạng Sơn tiếp tục thực hiện các chính sách đã được ban hành với sự 
điều chỉnh bổ sung cho thích hợp với tình hình thực tế thì trong vòng vài 
năm trước mắt bộ mặt khu vực cửa khẩu biên giới sẽ có sự thay đổi cơ bản 
theo chiều hướng tạo điều kiện cho sự hội nhập của nước ta với khu vực và 
thế giới, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện, nền kinh tế tỉnh phát 
triển lên một trình độ mới vững chắc. 
Tuy nhiên đ
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
Luận văn- THỰC TRẠNG VỀ CÁC KHU KINH TẾ CỬA KHẨU VÙNG ĐÔNG BẮC.pdf