Tài liệu Luận văn Thực trạng và một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng công tác giải quyết khiếu nại trong bảo hiểm con người phi nhân thọ tại công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex: II 
Luận văn 
Thực trạng và một số kiến 
nghị nhằm nâng cao chất 
lượng công tác giải quyết 
khiếu nại trong bảo hiểm con 
người phi nhân thọ tại công ty 
cổ phần bảo hiểm Petrolimex 
LỜI NÓI ĐẦU 
 Cuộc sống là cái quý nhất của con người. Mà cuộc sống là cuộc vận động 
tổng hoà của cơ thể sống trong môi trường không gian và thời gian nhất định. 
Trong khoảng không gian và thời gian nào đó, người ta có thể hoàn toàn khoẻ 
mạnh, sung mãn, tràn đầy sinh lực nhưng ai có thể đoán được vào một thời khắc 
khác trong tương lai, họ có thể gặp tai nạn, bị bệnh tật, ốm đau, thậm chí cả tử 
vong. Nếu đây là những trụ cột trong gia đình, ai sẽ thay họ chăm lo cho những 
người thân yêu khi không may họ gặp rủi ro? 
 So với các biện pháp khác như phòng tránh, tiết kiệm, cứu trợ…thì bảo 
hiểm được coi là biện pháp hữu hiệu nhất và bảo hiểm con người đã ra đời nhằm 
bảo đảm ổn định đời sống cho mọi thành viên trong xã hội trước những rủi ro, 
tai nạn bất ngờ đối với thân thể, tính mạ...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
108 trang | 
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1265 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Thực trạng và một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng công tác giải quyết khiếu nại trong bảo hiểm con người phi nhân thọ tại công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
II 
Luận văn 
Thực trạng và một số kiến 
nghị nhằm nâng cao chất 
lượng công tác giải quyết 
khiếu nại trong bảo hiểm con 
người phi nhân thọ tại công ty 
cổ phần bảo hiểm Petrolimex 
LỜI NÓI ĐẦU 
 Cuộc sống là cái quý nhất của con người. Mà cuộc sống là cuộc vận động 
tổng hoà của cơ thể sống trong môi trường không gian và thời gian nhất định. 
Trong khoảng không gian và thời gian nào đó, người ta có thể hoàn toàn khoẻ 
mạnh, sung mãn, tràn đầy sinh lực nhưng ai có thể đoán được vào một thời khắc 
khác trong tương lai, họ có thể gặp tai nạn, bị bệnh tật, ốm đau, thậm chí cả tử 
vong. Nếu đây là những trụ cột trong gia đình, ai sẽ thay họ chăm lo cho những 
người thân yêu khi không may họ gặp rủi ro? 
 So với các biện pháp khác như phòng tránh, tiết kiệm, cứu trợ…thì bảo 
hiểm được coi là biện pháp hữu hiệu nhất và bảo hiểm con người đã ra đời nhằm 
bảo đảm ổn định đời sống cho mọi thành viên trong xã hội trước những rủi ro, 
tai nạn bất ngờ đối với thân thể, tính mạng, sức khoẻ… 
 Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, nghiệp vụ Bảo hiểm con 
người ngày càng được quan tâm, xây dựng và phát triển lớn mạnh tương ứng với 
vị trí của nó trong thị trường bảo hiểm phi nhân thọ. Do đó việc nghiên cứu sâu 
sát nhằm mở rộng hơn nữa thị trường đầy tiềm năng của loại hình bảo hiểm này 
là cần thiết. Hoạt động chủ yếu của bảo hiểm chính là bù đắp các tổn thất cho 
người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm nên công tác giải quyết khiếu 
nại luôn được tất cả các công ty bảo hiểm đề cao, coi đó là khâu quan trọng nhất 
trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Vì lý do đó, trong thời gian thực tập tại 
công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (PJICO), tôi đã chọn đề tài: 
 “Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng công tác giải quyết khiếu 
nại trong bảo hiểm con người phi nhân thọ tại công ty cổ phần bảo hiểm 
Petrolimex (PJICO)” cho luận văn tốt nghiệp. 
 Đề tài ngoài lời nói đầu và kết luận được chia làm ba phần: 
 Phần I: Lý thuyết cơ bản về giải quyết khiếu nại trong bảo hiểm con người 
phi nhân thọ. 
 Phần II: Thực trạng công tác giải quyết khiếu nại các nghiệp vụ bảo hiểm 
con người tại PJICO. 
 Phần III: Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng công tác giải quyết 
khiếu nại các nghiệp vụ bảo hiểm con người tại PJICO. 
 Đề tài được hoàn thành với sự hướng dẫn tận tình của cô giáo - Thạc sỹ 
Tôn Thị Thanh Huyền và sự giúp đỡ, cung cấp nguồn tài liệu của các anh, chị 
văn phòng khu vực 1 của công ty PJICO. 
 Hà Nội tháng 5 năm 2004 
LuËn v¨n tèt nghiÖp 
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B 1 
PHẦN I: 
LÝ THUYẾT CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC GIẢI QUYẾT KHIẾU 
NẠI TRONG BẢO HIỂM CON NGƯỜI PHI NHÂN THỌ 
I. Khái quát chung về bảo hiểm con người phi nhân thọ 
1. Sự cần thiết của bảo hiểm con người 
 Nhu cầu an toàn đối với các cá nhân và tổ chức trong xã hội là vĩnh cửu. 
Trong suốt cuộc đời mình con người luôn tìm cách để bảo vệ chính bản thân và 
tài sản trước những bất hạnh của số phận và những biến cố bất ngờ trong sản 
xuất kinh doanh. Ngay từ thời cổ đại đã xuất hiện nhiều tổ chức gần giống với 
bảo hiểm, chẳng hạn người Ba-bi-lon đã đưa ra những quy tắc tổ chức phương 
tiện vận tải bằng xe kéo để phân chia các thiệt hại do mất cắp và bị thương cho 
các thương gia cùng gánh chịu. Hoặc vào thế kỷ thứ V trước công nguyên Pê-ri-
clex đã tổ chức Hội đoàn tương hỗ nhằm hoạt động trợ giúp cho các thành viên 
và gia đình của họ trong các trường hợp bị tử vong, ốm đau, bệnh tật hay hoả 
hoạn. Cũng ngay từ thời Trung cổ đã xuất hiện những bản cam kết bảo đảm an 
toàn cho các khoản tiền bỏ ra mua - bán tù binh, nô lệ của các ông chủ nếu 
không may những người này bị chết cái chết khác với tự nhiên. Những tù binh, 
nô lệ tuy là con người nhưng được quy đổi thành một giá trị nhất định song đây 
được coi là hình thức sơ khai nhất của bảo hiểm con người. Như vậy, bảo hiểm 
con người đã được triển khai cách nay đã rất lâu, và xã hội càng phát triển thì 
loại hình bảo hiểm này càng đựơc triển khai một cách rộng rãi tương xứng với 
tầm quan trọng và sự đóng góp to lớn của nó đối với xã hội. 
 Với mục đích đảm bảo cho người dân, người lao động hạn chế được 
phần nào những thiệt hại do bị tai nạn, ốm đau, bệnh tật…BHXH, BHYT đều 
được thực hiện ở các nước và được coi như là quyền của con người. Tuy nhiên, 
đối tượng được bảo hiểm và phạm vi bảo đảm cho các rủi ro còn rất hạn hẹp. 
Con người còn quan tâm những vấn đề khác nảy sinh trong cuộc sống như: 
 Việc thoả mãn những nhu cầu trong cuộc sống và phát triển của con người 
phụ thuộc vào chính khả năng lao động của họ. Nhưng thực tế là không phải lúc 
nào con người cũng gặp thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và mọi điều kiện sinh 
LuËn v¨n tèt nghiÖp 
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B 2 
sống bình thường. Có rất nhiều trường hợp gặp khó khăn như bất ngờ ốm đau, bị 
tai nạn, bệnh tật…làm mất hoặc giảm thu nhập hoặc các điều kiện sinh sống 
khác đặc biệt là rủi ro của người trụ cột trong gia đình. Khi rơi vào những 
trường hợp này, các nhu cầu cần thiết trong cuộc sống không vì thế mà mất đi 
trái lại có cái còn tăng lên, thậm chí còn xuất hiện thêm một số nhu cầu mới như 
chi phí khám chữa bệnh và điều trị khi ốm đau…Do đó, để tránh những khó 
khăn về tài chính, đảm bảo sự ổn định cho đời sống, đối với cá nhân và gia đình, 
việc tiết kiệm chi tiêu hiện tại để phòng xa, chuẩn bị điều kiện cho con cái học 
hành là một biện pháp có nhiều ý nghĩa tốt đẹp. 
 Hơn nữa, rủi ro không loại trừ bất kỳ cá nhân nào, do đó muốn hoạt động 
sản xuất kinh doanh không bị gián đoạn ảnh hưởng tới mục tiêu tối đa hoá lợi 
nhuận, các chủ sử dụng lao động ngoài việc tham gia đóng BHXH theo quy định 
bắt buộc của pháp luật, còn đóng cho người lao động một số nghiệp vụ bảo hiểm 
con người như bảo hiểm tai nạn con người 24/24, bảo hiểm trợ cấp nằm viện và 
phẫu thuật, bảo hiểm sinh mạng…Hành động này sẽ giúp lợi ích giữa hai bên 
thuê và được thuê gắn bó với nhau hơn, hoạt động kinh doanh sẽ mang lại hiệu 
quả mong muốn. Với nghiệp vụ bảo hiểm khách du lịch hoặc bảo hiểm tai nạn 
hành khách, các chủ xe sẽ yên tâm hơn khi đưa đón khách trên các tuyến đường 
theo một hành trình nhất định. Sự thật là cho đến nay đã có nhiều công ty tham 
gia bảo hiểm con người cho cán bộ công nhân viên. Tại PJICO, có thể kể đến 
một số công ty như là Công ty Hon da Việt Nam (Vĩnh Phúc), Xí nghiệp vận 
dụng toa xe khách, các trường học từ bậc mầm non cho đến phổ thông cũng tích 
cực tham gia bảo hiểm cho học sinh, giáo viên như tiểu học Bạch Mai, trung học 
Trương Định, Hai Bà Trưng…. 
 Hiện nay, các cuộc cách mạng công nghiệp rồi cách mạng thông tin đã 
đưa nền kinh tế toàn cầu phát triển đến chóng mặt. Thu nhập của đại bộ phận 
dân chúng được tăng lên đáng kể so với cách đây hai ba thập niên. Thu nhập 
tăng giúp con người có điều kiện chăm sóc cho bản thân và gia đình. Nhu cầu 
cũng trở nên phong phú hơn trước, ngày càng có nhiều người mong muốn được 
bảo đảm an toàn trong hiện tại và tương lai. Bên cạnh BHXH, BHYT các dịch 
vụ bảo hiểm con người trong bảo hiểm thương mại đã ra đời là hết sức cần thiết. 
Nó tuân theo đúng quy luật cung- cầu của thị trường, đáp ứng mọi nhu cầu của 
các tầng lớp dân cư trong xã hội. 
 Bên cạnh đó, việc lo cho cho tuổi già hoặc khi về hưu đang là vấn đề 
được xã hội quan tâm và coi trọng. Một số người có thu nhập chủ yếu từ lương 
LuËn v¨n tèt nghiÖp 
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B 3 
hưu, khi nghỉ làm thu nhập bị hạn chế. Một số người lại không có lương, phải 
sống nhờ vào con cái hay phải lao động vất vả để kiếm sống. Không ai muốn 
sống một tuổi già đau yếu, bệnh tật, phụ thuộc hay là gánh nặng của người thân. 
Vì vậy việc tiết kiệm các khoản chi tiêu hiện tại, bỏ ra những khoản tiền nhỏ để 
đảm bảo sự ổn định cho cuộc sống trong tương lai là điều cần thiết. 
 Bảo hiểm con người là một trong ba loại hình BHTM, là hình thức bổ 
sung hữu hiệu nhất cho BHXH, BHYT nhằm đảm bảo ổn định đời sống cho mọi 
thành viên trong xã hội trước những rủi ro, tai nạn bất ngờ đối với thân thể, tính 
mạng, sự giảm sút hoặc mất thu nhập và đáp ứng một số nhu cầu khác của người 
tham gia bảo hiểm. So với BHXH, các nghiệp vụ bảo hiểm con người trong 
BHTM có đối tượng tham gia rộng hơn nhưng vẫn có thể thay thế BHXH trong 
những trường hợp, những khu vực của nền kinh tế - những nơi mà BHXH chưa 
được thực hiện hoặc có nhưng không bù đắp đủ cho phần thu nhập bị giảm sút 
của người lao động. Mặc dù những người lao động này được hưởng trợ cấp của 
BHXH, nhưng đôi khi có những rủi ro, những nhu cầu nằm ngoài phạm vi của 
BHXH, hoặc những khoản trợ cấp của bảo hiểm xã hội không đáp ứng được 
những nhu cầu khắc phục thiệt hại. Phần chênh lệch và thiếu hụt ấy sẽ được bù 
đắp bởi BHTM. 
 Vì một số lý do trên, rõ ràng là các nghiệp vụ bảo hiểm con người trong 
BHTM sẽ có vai trò rất quan trọng giúp mọi người chống lại những bấp bênh 
của cuộc sống trong sự đa dạng và phức tạp của rủi ro. 
 2. Đặc điểm chung của bảo hiểm con người phi nhân thọ (BHCN PNT) 
 Bảo hiểm con người bao gồm tất cả các nghiệp vụ bảo hiểm có đối tượng 
được bảo hiểm là tuổi thọ, tính mạng, tình trạng sức khoẻ con người hoặc các sự 
kiện liên quan đến cuộc sống con người và có ảnh hưởng tới cuộc sống con 
người. Được chia thành hai loại là bảo hiểm con người nhân thọ và bảo hiểm 
con người phi nhân thọ, bảo hiểm con người đã và đang tích cực đáp ứng các 
nhu cầu phong phú của khách hàng. 
 Bảo hiểm con người có đặc điểm chung là khi thanh toán tiền bảo hiểm 
“nguyên tắc khoán” được áp dụng vì khi tổn thất xảy rất khó xác định được 
chính xác thiệt hại về mặt vật chất do tính mạng, sức khỏe con người là vô giá. 
Do vậy việc trả tiền bảo hiểm của nhà bảo hiểm chỉ mang ý nghĩa là thực hiện 
nghĩa vụ đã cam kết với người được bảo hiểm chứ không phải là bồi thường tổn 
thất xảy ra. Số tiền bảo hiểm nhiều hay ít là do các bên tham gia hợp đồng thoả 
LuËn v¨n tèt nghiÖp 
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B 4 
thuận, tuỳ theo mức thu nhập, khả năng tài chính, điều kiện kinh tế và nhu cầu 
của người tham gia bảo hiểm. 
 Tuy nhiên trong bảo hiểm con người, vẫn còn một số nghiệp vụ sử dụng 
nguyên tắc bồi thường như trong bảo hiểm thiệt hại, chẳng hạn như: nghiệp vụ 
bảo hiểm trợ cấp nằm viện và phẫu thuật, bảo hiểm chi phi y tế… 
 Trong khi các nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ chỉ được ra đời và phát triển 
khi nền kinh tế-xã hội hội tụ đủ những điều kiện nhất định thì BHCN PNT ra 
đời sớm hơn, với mục đích chủ yếu là góp phần khắc phục hậu quả khi đối 
tượng tham gia bảo hiểm gặp rủi ro, từ đó góp phần ổn định tài chính cho người 
tham gia. Vì vậy BHCN PNT có một số đặc điểm cơ bản sau: 
 Hậu quả của những rủi ro mang tính chất thiệt hại vì rủi ro bảo 
hiểm ở đây là tai nạn, bệnh tật, ốm đau thai sản liên quan đến thân thể và 
sức khoẻ con người. 
 Người được bảo hiểm thường được quy định trong một khoảng tuổi 
nào đó. Các công ty bảo hiểm không chấp nhận bảo hiểm cho những 
người có độ tuổi quá thấp hoặc quá cao do việc quản lý rủi ro rất phức tạp. 
 So với bảo hiểm nhân thọ, thời hạn bảo hiểm con người phi nhân 
thọ ngắn hơn và thường chỉ trong vòng một năm, thậm chí có nghiệp vụ 
thời hạn bảo hiểm chỉ có trong vài ngày hoặc vài giờ đồng hồ như bảo 
hiểm tai nạn hành khách. Vì vậy phí bảo hiểm thường được gộp vào đóng 
một lần khi kí kết hợp đồng bảo hiểm. Ngoài ra cũng có những hợp đồng 
được nộp thành hai lần trong một năm như bảo hiểm trách nhiệm dân sự 
và bảo hiểm vật chất xe… 
 Các nghiệp vụ BHCN PNT thường được triển khai kết hợp với các 
nghiệp vụ bảo hiểm khác trong cùng một hợp đồng bảo hiểm. Việc triển 
khai kết hợp này sẽ làm giảm chi phí khai thác, chi phí quản lý…tạo điều 
kiện cho công ty bảo hiểm giảm phí, nâng cao khả năng cạnh tranh trên 
thị trường bảo hiểm. 
 Bảo hiểm con người phi nhân thọ được coi là loại hình bảo hiểm bổ 
sung hữu hiệu nhất cho BHXH, BHYT. 
3. Một số khái niệm cơ bản 
3.1 Tai nạn thân thể 
LuËn v¨n tèt nghiÖp 
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B 5 
 Là bất kỳ thiệt hại thân thể nào do hậu quả duy nhất và trực tiếp của một 
lực mạnh bất ngờ từ bên ngoài tác động lên thân thể con người. 
 Thiệt hại về thân thể có thể là tử vong hoặc thương tích thân thể, nhưng 
tử vong do tai nạn khác với tử vong do bệnh tật. 
 Hậu quả duy nhất và trực tiếp gây ra tai nạn là do các vật thể hữu hình tác 
động lên thân thể con người. Những thương tật xảy ra do ngộ độc thức ăn, trúng 
gió cũng là bất ngờ nhưng không phải là tai nạn được bảo hiểm. 
 Sự tử vong và những thương tổn phải hoàn toàn độc lập với ý muốn của 
người được bảo hiểm. Nếu người được bảo hiểm chủ ý gây thương tổn hoặc tự 
tử không được coi là rủi ro được bảo hiểm. 
 Mối quan hệ nhân quả giữa tác động bên ngoài với sự tử vong và thương 
tổn phải được xác lập trên thực tế, tức là nguyên nhân gây nên hậu quả phải cụ 
thể và gắn kết. 
3.2 Bệnh tật 
 Là sự biến chất về sức khoẻ do bất cứ nguyên nhân nào. Nó có thể bao 
gồm cả sự lây nhiễm, tai nạn. Bệnh tật thường diễn biến theo một quá trình từ 
nhẹ đến nặng ở bên trong con người, có thể là các loại bệnh mãn tính, bẩm sinh, 
cấp tính phát sinh trước khi ký hợp đồng bảo hiểm và phát sinh trong thời gian 
có hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm. Việc phân loại như thế giúp công ty bảo 
hiểm đánh giá chính xác rủi ro để từ đó quyết định chấp nhận hay khước từ bảo 
hiểm, tránh được sự trục lợi bảo hiểm và đảm bảo được các nguyên tắc trong 
hoạt động kinh doanh. 
3.3 Mất khả năng lao động 
 Khi con người bị ốm đau, tai nạn, bệnh tật có thể dẫn đến hậu quả là mất khả 
năng lao động. Mất khả năng lao động có thể được chia thành hai loại là: 
 - Mất khả năng lao động tạm thời: Là trạng thái người lao động phải ngưng 
việc trong một thời gian nhất định. Khi điều trị xong, sức khoẻ được phục hồi 
như ban đầu và có khả năng lao động trở lại. 
 - Mất khả năng lao động vĩnh viễn: Là trạng thái người lao động phải 
ngừng việc vĩnh viễn mặc dù đã được điều trị, phẫu thuật nhưng sức khoẻ vẫn 
không thể được phục hồi lại, vì thế không thể làm được việc như cũ. 
LuËn v¨n tèt nghiÖp 
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B 6 
 Cơ quan giám định y khoa là nơi xác định tỷ lệ phần trăm suy giảm sức 
khoẻ, từ đó xác nhận khả năng lao động. Đối với những ngành nghề khác nhau 
thì quy định về khả năng lao động trên cơ sở tỷ lệ phần trăm suy giảm sức khoẻ 
là khác nhau. 
3.4 Chi phí y tế 
 Là tất cả các khoản chi phí phát sinh liên quan đến người bệnh. Các chi 
phí này được chia làm ba loại như sau: 
 - Chi phí phát sinh trực tiếp tại cơ sở y tế như chi phí khám chữa bệnh và 
kiểm tra sức khoẻ, chi phí điều trị và phẫu thuật, chi phí thuốc men, nằm viện… 
 - Chi phí chuyển viện, đưa đón bệnh nhân… 
 - Chi phí chăm sóc nuôi dưỡng bệnh nhân sau khi điều trị. 
3.5 Bệnh viện 
 Là một cơ sở khám chữa bệnh được nhà nước công nhận mà ở đấy có khả 
năng và có phương tiện chẩn đoán, điều trị và phẫu thuật, có điều kiện điều trị 
nội trú và có phiếu theo dõi sức khoẻ hàng ngày cho bệnh nhân. 
3.6 Nằm viện 
 Là việc người được bảo hiểm cần lưu trú ít nhất 24 giờ ở trong bệnh viện 
để điều trị khỏi lâm sàng, bao gồm cả việc sinh đẻ hoặc điều trị trong thời kỳ có 
thai. 
3.7 Phẫu thuật 
 Là một phương pháp khoa học để điều trị thương tật hoặc bệnh tật được 
thực hiện bởi những phẫu thuật viên có bằng cấp thông qua những ca mổ bằng 
tay với các dụng cụ y tế hoặc máy móc y tế trong bệnh viện. 
3.8 Bệnh đặc biệt 
 Là những bệnh như ung thư và u các loại, huyết áp, tim mạch, viêm loét 
dạ dày, viêm xoang, viêm gan, viêm đa khớp mãn tính… 
3.9 Bệnh có sẵn 
 Là bệnh tật có từ trước ngày bắt đầu bảo hiểm và do bệnh này người 
được bảo hiểm: 
LuËn v¨n tèt nghiÖp 
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B 7 
a) Được điều trị trong vòng ba năm trước 
b) Triệu chứng bệnh tật đã thấy xuất hiện hoặc nhận thấy bệnh 
tật này đã có. 
LuËn v¨n tèt nghiÖp 
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B 8 
4. Các nghiệp vụ bảo hiểm con người phi nhân thọ 
 Bảo hiểm con người phi nhân thọ được triển khai rất đa dạng và linh 
hoạt tuỳ theo tình hình cụ thể ở từng nước. Và ngay cả trong một nước thì việc 
triển khai cũng có sự khác nhau giữa các thời kỳ, giữa các công ty bảo hiểm về 
một số nội dung cơ bản như: phạm vi, phí, số tiền bảo hiểm và thủ tục bảo 
hiểm…Điều này cũng khá dễ hiểu vì BHTM hoạt động kinh doanh vì mục tiêu 
lợi nhuận trong khuôn khổ pháp luật của mỗi nước. Vì thế nội dung của phần 
này chỉ xin đề cập đến một số nghiệp vụ chủ yếu mang tính phổ biến ở công ty 
PJICO như: bảo hiểm tai nạn con người, bảo hiểm trợ cấp nằm viện và phẫu 
thuật, bảo hiểm học sinh, bảo hiểm khách du lịch… 
4.1 Bảo hiểm tai nạn con người 24/24 
 Khi người được bảo hiểm bị tai nạn thuộc phạm vi bảo hiểm, nhà bảo hiểm 
sẽ chi trả tiền bảo hiểm cho họ trên cơ sở phí bảo hiểm đã được đóng khi kí kết 
hợp đồng giữa hai bên. 
 - Đối tượng tham gia bảo hiểm: PJICO nhận bảo hiểm cho mọi công dân 
Việt Nam từ 16 đến 70 tuổi và người nước ngoài đang học tập và công tác, làm 
việc tại Việt Nam trong độ tuổi trên, trừ những người đang bị bệnh thần kinh và 
đang bị tàn phế hoặc bị thương tật vĩnh viễn từ 50% trở lên. 
 - Phạm vi bảo hiểm: Là những tai nạn xảy ra tại Việt Nam do một lực bất 
ngờ ngoài ý muốn từ bên ngoài tác động lên thân thể người được bảo hiểm và là 
nguyên nhân trực tiếp làm cho người được bảo hiểm bị chết hoặc bị thương tật. 
Những hành vi cố ý gây ra tai nạn, vi phạm pháp luật… không thuộc trách 
nhiệm bảo hiểm. 
 - Phí bảo hiểm và số tiền bảo hiểm căn cứ vào biểu phí do Bộ Tài Chính quy 
định. Phí bảo hiểm nộp bằng loại tiền nào thì số tiền bảo hiểm được trả bằng loại 
tiền ấy. 
 Mỗi cá nhân hoặc đơn vị có thể lựa chọn các mức trách nhiệm bảo hiểm 
tương ứng với số phí bảo hiểm áp dụng đối với một người trong năm như sau: 
BẢNG 1: Tỷ lệ phí bảo hiểm tai nạn con người 24/24 
Số tiền bảo hiểm 1-20 triệu 21-50 triệu 51-70 triệu 70-100 triệu 
Tỷ lệ phí 0,28% 0,42% 0,56% 0,75% 
 (Nguồn: PJICO) 
LuËn v¨n tèt nghiÖp 
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B 9 
 - Chi trả tiền bảo hiểm: Khi sự kiện được bảo hiểm xảy ra người được 
bảo hiểm hoặc người thừa kế hợp pháp sẽ phải có đầy đủ các loại giấy tờ có liên 
quan theo quy định. Nếu hồ sơ hợp lệ, việc thanh toán tiền bảo hiểm sẽ được 
thực hiện trong vòng 21 ngày kể từ ngày có hồ sơ trên. 
4.2 Bảo hiểm trợ cấp nằm viện và phẫu thuật 
 Đây thực chất là loại hình bảo hiểm y tế nhưng có phạm vi rộng hơn, 
mang đến lợi ích to lớn cho con người. Bởi khi phát sinh các rủi ro ốm đau, bệnh 
tật phải điều trị và phẫu thuật trong khi đó, chi phí cho các dịch vụ khám chữa 
bệnh, điều trị và phẫu thuật có xu hướng ngày càng tăng do kỹ thuật và các 
phương tiện hội chẩn của ngành y tế ngày càng tinh xảo và hiện đại, các loại 
thuốc đặc trị và biệt dược có giá “cắt cổ”, bảo hiểm trợ cấp nằm viện và phẫu 
thuật sẽ bảo hiểm cho một phần các chi phí trên. 
- Người tham gia bảo hiểm: những người từ 12 tháng tuổi cho đến 65 tuổi và 
những người trên 65 tuổi đã được bảo hiểm theo nghiệp vụ này liên tục ít nhất là 
từ năm 60 tuổi, trừ những người bị bệnh thần kinh, ung thư, bị tàn phế hoặc 
thương tật vĩnh viễn từ 80% trở lên, những người đang điều trị bệnh tật, thương 
tật. 
 - Phạm vi bảo hiểm: Khi người được bảo hiểm gặp những rủi ro ốm đau, 
bệnh tật, thương tật thân thể do tai nạn, thai sản phải nằm viện hoặc phải phẫu 
thuật, hoặc là bị chết khi đang nằm viện hoặc phẫu thuật. PJICO không chịu 
trách nhiệm trong các trường hợp điều dưỡng, an dưỡng các bệnh bẩm sinh hoặc 
những chỉ định phẫu thuật có từ trước ngày bắt đầu bảo hiểm, những rủi ro do cố 
ý, do say rượu, sử dụng ma tuý… 
 - Phí bảo hiểm và số tiền bảo hiểm: Do Bộ Tài Chính ban hành, có nhiều 
mức khác nhau giúp người tham gia dễ dàng lựa chọn cho phù hợp với khả năng 
tài chính của mình. Phí bảo hiểm của loại hình bảo hiểm này phụ thuộc vào độ 
tuổi, giới tính, số tiền bảo hiểm, tình trạng sức khoẻ… 
 - Chi trả tiền bảo hiểm: Nghiệp vụ này áp dụng nguyên tắc bồi thường. 
Số tiền chi trả được xác định trên cơ sở chi phí thực tế phát sinh, vì thế phần lớn 
các công ty bảo hiểm đều chi trả tiền bảo hiểm theo định mức. Có nghĩa là họ 
đưa ra các tỷ lệ định mức cho mỗi ngày điều trị trong bệnh viện và tỷ lệ trả tiền 
phẫu thuật, tỷ lệ định mức về số ngày được trợ cấp. Tất cả các định mức này 
được ghi trong hợp đồng bảo hiểm. Khi người tham gia bảo hiểm có đầy đủ các 
LuËn v¨n tèt nghiÖp 
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B 10 
giấy tờ như giấy chứng nhận bảo hiểm, giấy ra viện, các hoá đơn, chứng từ điều 
trị hợp lệ… sẽ được thanh toán tiên bảo hiểm đúng theo quy định. 
4.3 Bảo hiểm sinh mạng cá nhân 
 - Đối tượng bảo hiểm: bao gồm công dân Việt Nam từ 16-70 tuổi, những 
người trên 70 tuổi đã được bảo hiểm theo quy tắc này liên tục ít nhất là từ năm 
69 tuổi. Những người bị bệnh thần kinh, tàn phế hoặc bị thương tật vĩnh viễn từ 
50% trở lên, hoặc đang trong thời gian điều trị bệnh tật, tai nạn không thuộc 
phạm vi trách nhiệm bảo hiểm. 
 - Phạm vi bảo hiểm: bảo hiểm trong trường hợp chết đối với người được 
bảo hiểm trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Những trường hợp chết do người 
được bảo hiểm vi phạm pháp luật, hành động do người thừa kế hợp pháp của 
người được bảo hiểm hoặc người thừa kế…không thuộc phạm vi trách nhiệm 
bảo hiểm. 
 - Phí bảo hiểm được quy định trong hợp đồng bảo hiểm hoặc giấy chứng 
nhận bảo hiểm căn cứ vào “biểu phí và số tiền bảo hiểm” do Bộ Tài Chính ban 
hành (Xem phụ lục 1). 
 - Chi trả tiền bảo hiểm: Khi yêu cầu trả tiền bảo hiểm, người thừa kế hợp 
pháp phải gửi các chứng từ sau đây cho PJICO trong vòng 06 tháng kể từ ngày 
xảy ra sự kiện bảo hiểm: 
 + Giấy yêu cầu trả tiền bảo hiểm 
 + Giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc bản sao (trích) danh sách người 
tham gia bảo hiểm 
 + Giấy chứng tử 
 + Giấy xác nhận quyền thừa kế hợp pháp 
 Nếu quá thời hạn 06 tháng mà chưa đủ hồ sơ thì sẽ không thuộc trách nhiệm 
bồi thường của công ty bảo hiểm. PJICO có trách nhiệm thanh toán số tiền bảo 
hiểm trong vòng 21 ngày cho người thừa kế hợp pháp kể từ ngày nhận được hồ 
sơ hợp lệ. Trường hợp người được bảo hiểm không có người thừa kế hợp pháp, 
PJICO sẽ thanh toán mọi chi phí cho cơ quan, chính quyền địa phương hoặc 
người đã đứng ra tổ chức điều trị, mai táng nhưng không vượt quá số tiền bảo 
hiểm. 
LuËn v¨n tèt nghiÖp 
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B 11 
4.4. Bảo hiểm kết hợp con người 
 Nghiệp vụ này được xây dựng trên cơ sở các quy tắc bảo hiểm có 
liên quan đã được Bộ Tài Chính ban hành là quy tắc bảo hiểm tai nạn con người 
24/24 , quy tắc bảo hiểm sinh mạng cá nhân, quy tắc bảo hiểm trợ cấp nằm viện 
và phẫu thuật… 
 - Đối tượng tham gia bảo hiểm: Mọi công dân Viêt Nam từ 12 tháng tuổi 
đến 65 tuổi trừ những người bị thương tật vĩnh viễn 50% trở lên, những người bị 
bệnh nan y… 
 - Phạm vi bảo hiểm: Bảo hiểm cho các rủi ro kết hợp đối với sức khoẻ, 
tính mạng con người (kết hợp ABC, AB, AC, BC) trong đó: 
 Điều kiện bảo hiểm A: Sinh mạng 
 Điều kiện bảo hiểm B: Tai nạn 
 Điều kiện bảo hiểm C: Trợ cấp nằm viện và phẫu thuật 
 - Phí bảo hiểm và số tiền bảo hiểm: Phí bảo hiểm được thu theo quy định 
của Bộ Tài Chính và số tiền bảo hiểm tuỳ thuộc vào sự thoả thuận hai bên tham 
gia hợp đồng. 
 - Ta có biểu tỉ lệ của phí bảo hiểm như sau: 
 BẢNG 2: Tỷ lệ phí bảo hiểm kết hợp con người 
 Đơn vị: % 
 Nhóm tuổi 
Điều kiện bảo hiểm 
1-15 16-40 41-60 Trên 60 
Điều kiện A 
Điều kiện B 
Điều kiện C 
0,60 
0,23 
0,38 
0,34 
0,23 
0,40 
1,30 
0,23 
0,63 
3,85 
0,23 
1,00 
Bảo hiểm kết hợp 1,21 0,97 2,16 5,08 
 (Nguồn: PJICO) 
 - Chi trả tiền bảo hiểm: Tuân theo các quy định như bảo hiểm trợ cấp nằm 
viện phẫu thuật và bảo hiểm tai nạn 24/24… 
4.4 Bảo hiểm tai nạn hành khách 
LuËn v¨n tèt nghiÖp 
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B 12 
 Những năm gần đây, khi nền kinh tế phát triển, cơ sở hạ tầng giao thông 
được mở rộng, nâng cấp, hoàn thiện, nhu cầu đi du lịch của các tầng lớp dân cư 
trong xă hội ngày càng tăng. Song số vụ tai nạn giao thông cũng leo thang đến 
chóng mặt, mỗi năm có đến 21.000 người chết do tai nạn giao thông đường bộ 
(theo báo Tiền Phong số 70/2004). Theo số liệu thống kê thế giới, hàng năm có 
hơn 70% lượng hành khách tham gia giao thông là những nhân vật có vị trí chủ 
chốt trong gia đình, cơ quan và xí nghiệp. Bảo hiểm hành khách ra đời và được 
triển khai dưới hình thức bắt buộc, nhằm bảo vệ cho tính mạng và tình trạng sức 
khoẻ của tất cả hành khách đi trên phương tiện giao thông kinh doanh chuyên 
trở hành khách, không phân biệt lứa tuổi, nghề nghiệp, chỉ cần họ có vé hoặc 
được miễn, giảm vé theo quy định. 
 Nghiệp vụ này chỉ có thời hạn hiệu lực bảo hiểm trong khoảng thời gian 
từ khi bắt đầu cho đến lúc kết thúc hành trình du lịch và phí bảo hiểm được tính 
luôn vào giá vé. Nó phụ thuộc vào số tiền bảo hiểm, loại phương tiện vận 
chuyển, đặc điểm và độ dài tuyến đường chuyên trở. 
4.5 Bảo hiểm học sinh 
 Nghiệp vụ bảo hiểm này là nghiệp vụ bảo hiểm hỗn hợp tai nạn với trợ 
cấp nằm viện và phẫu thuật, do đối tượng tham gia bảo hiểm lớn nên phí bảo 
hiểm đã được giảm đi đáng kể. 
 Với mục đích trợ giúp cho học sinh và gia đình các học sinh một số tiền 
nhất định để nhanh chóng khắc phục khó khăn và phục hồi sức khoẻ sớm trở lại 
trường lớp khi không may các em gặp rủi ro, tai nạn và tạo lập mối quan hệ chặt 
chẽ giữa nhà trường và gia đình học sinh…nghiệp vụ bảo hiểm học sinh đã được 
triển khai rộng khắp nước ta và đã tỏ rõ được tác dụng to lớn của nó. 
- Người được bảo hiểm: là tất cả mọi học sinh từ nhà trẻ mẫu giáo đến các 
sinh viên đại học. Những học sinh ở tuổi thành niên, bản thân các em đã là 
những người tham gia bảo hiểm. Còn đối với học sinh vị thành niên, người tham 
gia có thể là bố mẹ, anh chị hoặc người đỡ đầu. Người tham gia bảo hiểm ở đây 
không bị hạn chế bởi tuổi tác, mức độ thân thích hay mức độ tàn tật. 
- Phạm vi bảo hiểm: bị chết trong mọi trường hợp, bị tai nạn, thương tật, 
ốm đau, bệnh tật phải nằm viện điều trị và phẫu thuật. Tuy nhiên, những trường 
hợp học sinh đến tuổi thành niên chết do tự tử, do tiêm chích ma tuý, hay cố ý vi 
phạm pháp luật hoặc các phẫu thuật các bệnh bẩm sinh…không thuộc phạm vi 
LuËn v¨n tèt nghiÖp 
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B 13 
bảo hiểm. 
- Số tiền bảo hiểm: được ấn định thành nhiều mức cho người tham gia bảo 
hiểm dễ dàng lựa chọn phù hợp với khả năng tài chính của từng người theo quy 
định của Bộ Tài Chính. 
- Phí bảo hiểm và chi trả bảo hiểm: về nguyên tắc cũng giống như bảo hiểm 
tai nạn con người và bảo hiểm trợ cấp nằm viện và phẫu thuật do đây là nghiệp 
vụ bảo hiểm kết hợp của hai loại trên. 
II. Giải quyết khiếu nại trong bảo hiểm con người phi nhân thọ 
 Theo thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm, khi có các sự kiện bảo hiểm 
xảy ra, doanh nghiệp bảo hiểm phải có trách nhiệm và nghĩa vụ bồi thường hoặc 
chi trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm. Để được bồi 
thường hoặc chi trả, bên tham gia bảo hiểm tiến hành khiếu nại đòi bồi thường 
và chi trả đối với doanh nghiệp bảo hiểm. Văn bản khiếu nại thường là giấy yêu 
cầu đòi bồi thường hoặc chi trả. Giải quyết khiếu nại một cách chủ động, nhanh 
chóng, chính xác, hợp lý là sự biểu hiện cụ thể trách nhiệm và nghĩa vụ của 
doanh nghiệp bảo hiểm đối với khách hàng. 
 Để xác định được chính xác số tiền chi trả hoặc bồi thường thì việc đầu 
tiên là phải tiến hành giám định tổn thất. Do vậy, nội dung chính của công việc 
giải quyết khiếu nại bao gồm 2 khâu là: 
 + Giám định tổn thất 
 + Giải quyết bồi thường, chi trả 
1. Giám định tổn thất 
 Giám định là việc xác định nguyên nhân, mức độ thiệt hại để từ đó xác 
định trách nhiệm của mỗi bên đối với tổn thất. 
1.1 Nguyên tắc chung của công tác giám định tổn thất 
 Công tác này phải được tiến hành sớm nhất sau khi nhận được thông 
báo tổn thất. Nếu không tiến hành giám định sớm thì lý do của việc chậm trễ 
phải được thể hiện trong biên bản giám định. Việc tiến hành giám định sớm là 
để hạn chế tổn thất, hạn chế trục lợi bảo hiểm và đó là cơ sở để tiến hành bồi 
thường chi trả nhanh chóng. 
 Quá trình giám định phải có sự hiện diện và ký xác nhận của các bên 
LuËn v¨n tèt nghiÖp 
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B 14 
liên quan: Người tham gia bảo hiểm, cán bộ giám định… Nguyên tắc này nhằm 
mục đích đưa ra một biên bản giám định trung thực, khách quan, có tính hợp 
pháp để tránh kiện cáo, tranh chấp. 
 Trong trường hợp công ty không thể tiến hành giám định trực tiếp thì 
có thể nhờ bên khác giám định hộ. 
 Nếu người tham gia bảo hiểm và công ty bảo hiểm không thống nhất 
với nhau về kết quả giám định thì có thể thuê một bên khác là các công ty giám 
định chuyên nghiệp tiến hành giám định lại. Chi phí cho việc này tuỳ thuộc vào 
kết quả giám định. Nếu kết quả khác so với kết luận lúc đầu thì Nhà bảo hiểm 
phải chịu chi phí và ngược lại. 
1.2 .Mục tiêu của giám định 
 Công tác giám định là khâu hết sức quan trọng trong bảo hiểm con 
người phi nhân thọ, nhằm đạt được các mục tiêu sau đây: 
 - Đảm bảo đánh giá chính xác mức độ tai nạn xảy ra cho bản thân người 
được bảo hiểm sau khi đã xác định được phạm vi trách nhiệm bảo hiểm. 
 - Thực hiện giám định nhanh chóng để có thể tiến hành việc bồi thường, 
chi trả bảo hiểm nhằm khắc phục phần nào những tổn thất do rủi ro gây ra cho 
người được bảo hiểm. 
1.3. Nội dung thực hiện quá trình giám định 
 Sau khi xảy ra sự kiện được bảo hiểm thì người tham gia bảo hiểm phải 
thông báo cho doanh nghiệp bảo hiểm biết. Quy định này vừa nhằm tạo điều 
kiện thuận lợi cho công tác giám định đồng thời đảm bảo quyền lợi của người 
tham gia. Giám định bảo hiểm chỉ chấp nhận yêu cầu giám định khi tai nạn, rủi 
ro thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm. Với số lượng người tham gia đông, 
phân bố không tập trung nên hầu hết các vụ rủi ro, tai nạn xảy ra, các chuyên 
viên bảo hiểm trên địa bàn phải kết hợp với mạng lưới công tác viên tại các cơ 
quan, trường học để lập hồ sơ bảo hiểm và gửi về văn phòng hoặc trên công ty. 
Vì vậy công tác này rất phức tạp, đòi hỏi phải đi lại nhiều.. Tuy nhiên, trong hầu 
hết các công ty, việc giải quyết hồ sơ tai nạn cho khách hàng phải đảm bảo giải 
quyết nhanh, tránh tình trạng tồn đọng hồ sơ, làm khách hàng phải mệt mỏi vì 
chờ đợi dẫn đến kêu ca, mất sự tín nhiệm. 
 - Có thể khái quát quy trình giám định theo các bước sau: 
LuËn v¨n tèt nghiÖp 
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B 15 
 + Chuẩn bị giám định: Chuẩn bị đầy đủ các loại giấy tờ cần thiết liên 
quan đến đối tượng bảo hiểm như: Đơn bảo hiểm, giấy ra viện, sổ khám chữa 
bệnh, các phim chụp X quang… với sự tham gia, cộng tác của các y- bác sỹ, nhà 
trường, cơ quan… 
 + Tiến hành giám định: Công việc giám định phải được tiến hành khẩn 
trương, ý kiến chuyên viên giám định đưa ra phải chuẩn xác, hợp lý, nhất quán. 
Phải tập trung vào các công việc sau: 
 . Kiểm tra lại đối tượng giám định 
 . Phân trả lại tổn thất 
 . Xác định mức độ tổn thất 
 . Nguyên nhân gây ra tổn thất 
 Trên cơ sở những thông tin thu được trong quá trình giám định, giám 
định viên cần cố gắng tìm ra nguyên nhân gây tai nạn và xác định mức độ thiệt 
hại. Điều quan trọng nhất là phải tìm ra nguyên nhân trực tiếp gây tai nạn. 
Nguyên nhân trực tiếp là động lực chính làm cho một chuỗi tai nạn. Và công 
việc xác định trên hoàn toàn không phải dễ dàng, nó đòi hỏi cẩn trọng, tỉ mỉ, và 
kết luận phải trên những cơ sở rõ ràng, minh bạch. 
 + Lập biên bản giám định: Sau khi giám định xong, giám định viên phải 
lập được biên bản giám định mô tả chi tiết nhất về tổn thất và phải thể hiện được 
mối quan hệ nhân quả giữa nguyên nhân và hậu quả thiệt hại. Nội dung chủ yếu 
của biên bản giám định là thời gian và địa điểm xảy ra tai nạn, tình trạng thiệt 
hại, thương tật của nạn nhân, thời gian địa điểm tiến hành giám định các bên 
tham gia giám định như giám định viên của công ty bảo hiểm người đại diện 
hợp pháp cuả người tham gia, điều khoản chữ ký các bên… 
 Biên bản giám định là tài liệu chủ yếu để xét duyệt bồi thường hoặc chi 
trả tiền bảo hiểm. Vì vậy nội dung văn bản này phải đảm bảo tính trung thực, 
chính xác, rõ ràng cụ thể. Các tài liệu phù hợp với thực trạng và không được 
mâu thuẫn khi đối chiếu với các giấy tờ có liên quan. 
1.4 Giám định viên 
 Giám định viên là người thực hiện công việc giám định còn được gọi là 
chuyên viên giám định. Ở những nước phát triển, chuyên viên giám định do 
LuËn v¨n tèt nghiÖp 
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B 16 
doanh nghiệp bảo hiểm trực tiếp chỉ định và lựa chọn. Nhưng phần lớn các 
chuyên viên giám định là nhân viên của bản thân các doanh nghiệp bảo hiểm. 
 - Một giám định viên phải đảm bảo đáp ứng được các yêu cầu sau: 
 + Am hiểu quy tắc, điều khoản bảo hiểm, có hiểu biết các vấn đề chuyên 
môn khác liên quan các nghiệp vụ cần giám định. 
 + Có kinh nghiệm thực tiễn, giác quan nhạy bén trong xử lý tình huống. 
 + Tiến hành công việc giám định một cách minh mẫn, chính xác, trung 
thực, kịp thời. 
 + Giám định viên phải độc lập với các quyền lợi có liên quan. 
 - Giám định viên có nhiệm vụ là: 
 + Khi giám định cùng phối hợp với người được bảo hiểm và cơ quan 
chức năng (nếu có) thu thập tài liệu, bằng chứng có liên quan đến tai nạn, rủi ro 
để điều tra lập biên bản giám định. Biên bản này phải đảm bảo phản ánh một 
cách đầy đủ, trung thực, khách quan các thiệt hại xảy ra. 
 + Có trách nhiệm hướng dẫn người tham gia thu thập đầy đủ những giấy 
tờ, chứng từ cần thiết để khiếu nại bồi thường, tiến hành khắc phục hậu quả tổn 
thất. 
2. Bồi thường và chi trả tiền bảo hiểm 
 Thực hiện tốt công tác bồi thường và chi trả tiền bảo hiểm sẽ bảo vệ lợi 
ích chính đáng của khách hàng, nâng cao chất lượng phục vụ và là cách quảng 
cáo có hiệu quả nhất làm tăng uy tín và ảnh hưởng tích cực đến kết quả kinh 
doanh của công ty bảo hiểm. Bởi vì “Nếu giải quyết bồi thường hoặc chi trả 
nhanh chóng và chính xác, khách hàng cũng sẽ nhanh chóng khắc phục được 
những tổn thất về mặt tài chính để từ đó ổn định cuộc sống, ổn định sản xuất 
kinh doanh và nâng cao niềm tin với doanh nghiệp bảo hiểm. Từ đó, doanh 
nghiệp bảo hiểm giữ được khách hàng truyền thống và mở ra triển vọng khai 
thác được những khách hàng tiềm năng trong tương lai."( Jêrôme Yeafman- 
Trường quốc gia Bảo hiểm Pari). 
2.1 Khái niệm 
LuËn v¨n tèt nghiÖp 
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B 17 
 Bồi thường là sự kết bù đắp của người bảo hiểm đối với những thiệt hại 
của người tham gia bảo hiểm khi sự kiện được bảo hiểm xảy ra gây thiệt hại cho 
người được bảo hiểm. 
2.2 Yêu cầu công tác chi trả tiền bảo hiểm 
 Việc giải quyết chi trả tiền bảo hiểm phải đáp ứng các yêu cầu sau: 
 - Nhanh chóng, kịp thời: Nhằm giúp khách hàng sớm ổn định đời sống, 
sức khoẻ. 
 - Chính xác: Công tác bồi thường phải tuân theo những điều kiện, điều 
khoản cuả hợp đồng bảo hiểm và thiệt hại thực tế. 
 - Công bằng, nhân đạo : Phải dựa trên tình huống tai nạn, quan hệ hợp 
tác mà giải quyết bồi thường linh hoạt, thoả mãn yêu cầu hợp lý của khách hàng. 
2.3 Quy trình bồi thường và chi trả 
 - Mở hồ sơ khách hàng: Khi nhận được biên bản giám định tổn thất và 
các giấy tờ có liên quan, bộ phận giải quyết bồi thường phải mở hồ sơ khách 
hàng và ghi lại theo thứ tự số hồ sơ (số hợp đồng) và thời gian. Sau đó kiểm tra, 
đối chiếu với bản hợp đồng gốc về các thông tin liên quan đến bản kê khai tổn 
thất. Tiếp theo phải thông báo cho khách hàng là đã nhận được đầy đủ các giấy 
tờ có liên quan. Nếu thiếu loại giấy tờ nào phải thông báo để nhanh chóng bổ 
sung hoàn thiện hồ sơ bồi thường. Việc kiểm tra các chứng từ trong hồ sơ khiếu 
nại sẽ cho công ty bảo hiểm biết: sự kiện xảy ra có thuộc phạm vi bảo hiểm hay 
không và theo quy tắc, giấy chứng nhận bảo hiểm thì phải trả bao nhiêu tiền cho 
khiếu nại, mức khấu trừ áp dụng cho mỗi loại. Trong trường hợp hồ sơ khiếu nại 
không thuộc phạm vi bảo hiểm hoặc hết thời hạn khiếu nại, công ty bảo hiểm sẽ 
từ chối chi trả tiền bảo hiểm. 
 - Xác định số tiền chi trả 
 Sau khi hoàn tất hồ sơ bồi thường của khách hàng bị tổn thất hoặc cần 
phải chi trả, bộ phận giải quyết bồi thường phải tính toán số tiền chi trả được xác 
định căn cứ vào: 
 + Biên bản giám định tổn thất và bản kê khai tổn thất 
 + Điều khoản, điều kiện của hợp đồng bảo hiểm 
 + Bảng theo dõi số phí bảo hiểm đã nộp 
LuËn v¨n tèt nghiÖp 
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B 18 
 + Thực tế chi trả của người thứ 3 (nếu có) 
 + Số tiền vay trên hợp đồng (nếu có) 
 - Thông báo chi trả tiền bảo hiểm 
 Xác định xong số tiền chi trả, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ thông báo chấp 
nhận bồi thường và đề xuất các hình thức bồi thường cho khách hàng. ở loại 
hình bảo hiểm con người, các công ty bảo hiểm thường chi trả bảo hiểm cho 
khách hàng bằng tiền mặt. Nếu số tiền chi trả quá lớn, doanh nghiệp bảo hiểm 
có thể thoả thuận với khách hàng về kỳ hạn thanh toán, thời gian, lãi suất trả 
chậm… 
 Các vụ tổn thất phải đảm bảo được giải quyết bồi thường hoặc chi trả 
nhanh chóng, ngay sau khi khách hàng tập hợp được các giấy tờ chứng minh cần 
thiết cùng với đơn khiếu nại hoặc ngay sau khi chuyên viên giám định xác định 
được số tiền thiệt hại do tổn thất xảy ra và lập biên bản giám định. Tuy nhiên, có 
một số trường hợp, việc thanh toán bồi thường, chi trả đòi hỏi thời gian dài, 
khiến khách hàng mệt mỏi, phật ý. Chẳng hạn như: 
 + Số tiền thiệt hại phải chi trả không thể xác định được ngay vì người bị 
thương cần có thời gian bình phục và số tiền bồi thường thiệt hại kinh doanh chỉ 
có thể biết được sau khi doanh nghiệp hoạt động trở lại. 
 + Trách nhiệm, nguyên nhân gây thiệt hại không thể xác định được ngay 
nên các bên phải thoả thuận và gây tranh chấp buộc toà án phải can thiệp… 
 + Có nhiều bên thụ hưởng tiền bồi thường, đòi hỏi phải tính tóan, phân 
bổ kéo dài… 
 Khi những trường hợp trên xảy ra đòi hỏi doanh nghiệp bảo hiểm phải 
giải quyết và xử lý theo nguyên tắc mềm dẻo, hạn chế đến mức thấp nhất sự can 
thiệp của toà án. Có như vậy mới giữ được uy tín cho doanh nghiệp bảo hiểm, 
hạn chế chi phí bồi thường bởi vì một sự dàn xếp đạt được nhanh chóng sẽ có 
lợi hơn là quyết định xét xử sau nhiều năm tố tụng. Do đó trong phần II Lý 
thuyết về giải quyết khiếu nại, xin được đề cập đến một vấn đề là giải quyết đơn 
thư khiếu nại của doanh nghiệp bảo hiểm đối với khách hàng. 
3. Giải quyết đơn, thư khiếu nại 
3.1. Các loại đơn khiếu nại 
LuËn v¨n tèt nghiÖp 
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B 19 
 Thông thường trong một doanh nghiệp bảo hiểm thường gặp phải một số 
loại đơn thư khiếu nại sau: 
 - Khiếu nại một công ty bảo hiểm từ chối trả tiền bảo hiểm với lý do tổn 
thất không thuộc trách nhiệm bảo hiểm. 
 - Khiếu nại khi khách hàng cho rằng việc giải quyết bồi thường bảo hiểm 
là chưa thoả đáng. 
 - Khiếu nại vì cho rằng doanh nghiệp bảo hiểm chậm trả tiền bồi thường 
bảo hiểm (thường trong những trường hợp cần có sự tham gia của các cơ quan 
chức năng). 
 - Khiếu nại, góp ý về những vấn đề liên quan tới cung cách phục vụ 
khách hàng của doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH). 
 - Khiếu nại, góp ý về công tác quản lý đại lý bảo hiểm của DNBH đặc 
biệt trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ. 
 - Khiếu nại về phí bảo hiểm như đề nghị giảm phí, không thay đổi phí 
trong bảo hiểm phi nhân thọ. 
 - Khiếu nại, góp ý về nội dung, quy tắc, điều khoản bảo hiểm mà doanh 
nghiệp đang sử dụng. 
3.2 Nguyên nhân khiếu nại. 
 Việc tìm hiểu nguyên nhân khiếu nại đóng vai trò quan trọng để giải 
quyết thành công khiếu nại, bao gồm các nguyên nhân khách quan và chủ quan: 
 - Nguyên nhân khách quan: Một số khách hàng khi tham gia bảo hiểm đã 
kê khai không đúng, không đủ, thiếu trung thực vào giấy yêu cầu bảo hiểm khi 
xảy ra sự kiện được bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm có quyền từ chối một 
phần hoặc toàn bộ trách nhiệm bảo hiểm. Khi đó dễ dẫn đến tranh chấp, khiếu 
nại. 
 Một số nghiệp vụ bảo hiểm cá nhân và bảo hiểm con người, người được 
bảo hiểm có thể gặp khó khăn trong việc cung cấp bằng chứng, tài liệu có xác 
nhận của cơ quan chức năng về giải quyết bồi thường bảo hiểm. 
 “ Trong trường hợp hợp đồng bảo hiểm có điều khoản không rõ ràng thì 
điều khoản đó được giải thích theo hướng có lợi cho bên mua bảo hiểm” 
LuËn v¨n tèt nghiÖp 
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B 20 
 ( Điều 21 Luật kinh doanh Bảo hiểm) 
 Đó là quy định có tính ưu việt nhằm bảo vệ lợi ích của người được bảo 
hiểm. Nhưng đây cũng là một nguyên nhân dễ làm phát sinh khiếu nại 
 Như vậy, doanh nghiệp bảo hiểm không những phải quy định rõ ràng các 
nội dung của quy tắc, điều khoản bảo hiểm mà còn cần giải thích tuyên truyền 
để khách hàng có thể hiểu được nội dung của quy tắc, điều khoản bảo hiểm 
tránh sự ngộ nhận hoặc hiểu sai. 
 - Nguyên nhân chủ quan: Một nguyên nhân chính làm phát sinh khiếu nại 
là người được bảo hiểm không hiểu đầy đủ về những quy định trong hợp đồng 
bảo hiểm cũng như các quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình theo hợp đồng. 
Trong những trường hợp đó, người được bảo hiểm thường muốn làm sao để lợi 
ích của mình được bảo vệ một cách tối ưu, được bồi thường càng nhiều càng tốt. 
Và khi đó họ dễ tiến hành khiếu kiện. 
 Có một số khách hàng muốn khiếu nại để bảo vệ quan điểm cá nhân của 
mình. Họ muốn số tiền bồi thường, thủ tục giải quyết bồi thường phải được thực 
hiện theo đúng ý họ, theo niềm tin của họ. Khiếu nại được viết thường với 
những lời lẽ đe doạ, kiện tụng. 
 Khiếu nại phức tạp thường là khiếu nại có kèm theo nội dung tố cáo 
những hành vi, vi phạm tại đơn vị giải quyết bồi thường. Bên cạnh việc bảo vệ 
quyềt lợi của mình, người khiếu nại muốn những hành vi vi phạm của cán bộ 
giải quyết bồi thường phải bị xử lý khi tiến hành khiếu nại. 
 Có những khiếu nại không bắt nguồn từ ý chí khách hàng mà từ ý muốn 
của chủ thể bên ngoài. Thông qua khiếu nại để thực hiện những mục đích khác 
như cạnh tranh không lành mạnh, hạ uy tín đối thủ… Đây là loại khiếu nại phức 
tạp nhất bởi vì bên khiếu nại thường có những cá nhân có trình độ nghiệp vụ về 
hoạt động kinh doanh bảo hiểm đứng sau hỗ trợ. 
3.3 Cơ sở giải quyết khiếu nại 
 - Cơ sở pháp lý: Bao gồm những thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm, 
quy tắc bảo hiểm, điều khoản bảo hiểm. Bên cạnh đó là các quy định liên quan 
đến Luật kinh doanh bảo hiểm, Bộ luật dân sự, pháp lệnh hợp đồng kinh tế, pháp 
lệnh chuyên ngành. 
LuËn v¨n tèt nghiÖp 
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B 21 
 Thủ tục và cách thức giải quyết khiếu nại từ phía khách hàng luôn được 
doanh nghiệp bảo hiểm và người được bảo hiểm thoả thuận trong hợp đồng. 
Ngoài quy định về thời hạn khiếu nại, trong hợp đồng bảo hiểm luôn quy định rõ 
cách thức giải quyết khiếu nại là thương lượng giữa các bên trong trường hợp 
không thể giải quyết bằng thương lượng được một trong các bên có quyền yêu 
cầu đưa tranh chấp ra giải quyết tại toà án theo thủ tục tố tụng dân sự, kinh tế. 
Quan hệ giữa người khiếu nại và người bị khiếu nại trong những trường hợp trên 
là bình đẳng. Thực hiện máy móc việc giải quyết khiếu nại theo thủ tục hành 
chính mệnh lệnh trong trường hợp này là không đúng với bản chất khiếu nại. 
 Việc đưa ra cơ sở pháp lý để giải quyết khiếu nại bảo hiểm là một công 
việc không khó. Vấn đề khó là làm sao để người khiếu nại chấp nhận cách giải 
quyết đó, không khiếu nại tiếp. Mỗi khiếu nại cần một biện pháp giải quyết 
riêng. Tìm ra được biện pháp giải quyết phù hợp là đã đảm bảo được phần thắng 
công việc giải quyết khiếu nại. 
LuËn v¨n tèt nghiÖp 
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B 22 
4. Một số vấn đề về trục lợi bảo hiểm 
4.1 Khái niệm trục lợi bảo hiểm 
 Trục lợi bảo hiểm là hành vi cố tình gian dối, lừa đảo có thể có chủ ý 
ngay từ khi tham gia bảo hiểm hoặc phát sinh sau khi đã xảy ra rủi ro cho đối 
tượng bảo hiểm nhằm chiếm đoạt một số tiền từ doanh nghiệp bảo hiểm mà 
đáng lý ra họ không được hưởng. Đây là một sự gian lận trong bảo hiểm và là 
vấn đề nhức nhối đối với các doanh nghiệp bảo hiểm. Trục lợi bảo hiểm diễn ra 
ở hầu hết các nghiệp vụ bảo hiểm và bất cứ nước nào đã triển khai BHTM thì ở 
nước đó sẽ có trục lợi bảo hiểm, phổ biến đến nỗi hàng năm trên thế giới họ đã 
thống kê về tình hình trục lợi cũng như trao đổi thông tin, tổ chức các buổi hội 
thảo thường kỳ liên quan đến chống gian lận bảo hiểm. 
4.2 Nguyên nhân và hậu quả của trục lợi bảo hiểm 
 Về nguyên nhân: Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến hiện tượng trục lợi 
bảo hiểm. Tuy nhiên, có thể kể đến một số nguyên như sau: 
 + Do những kẽ hở pháp luật và do thực hiện pháp luật không nghiêm, 
thiếu sự kiểm tra, kiểm soát và xử lý nên nhiều người nảy sinh hành vi gian lận. 
Ví dụ các nghiệp vụ bảo hiểm mà luật kinh doanh bảo hiểm quy định bắt buộc 
như bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba, 
nhưng các chủ xe không tham gia bảo hiểm vì không có sự kiểm tra xử phạt. 
 + Thị trường bảo hiểm luôn sôi động, phức tạp, tình hình cạnh tranh 
ngày càng khốc liệt nên các doanh nghiệp bảo hiểm luôn phải giữ bí mật thông 
tin. Việc trao đổi những thông tin cần thiết về khách hàng giữa các doanh nghiệp 
bảo hiểm hầu như không có. Vì vậy, một đối tượng tài sản nào đó có thể tham 
gia bảo hiểm ở nhiều doanh nghiệp bảo hiểm. Khi rủi ro tổn thất xảy ra họ đã 
được nhận tiền bồi thường ở tất cả các công ty bảo hiểm. 
 + Nhận thức của người dân về pháp luật còn nhiều yếu kém, nhất là 
những văn bản pháp quy về bảo hiểm. Nhiều người dân nhận thức còn rất mơ hồ 
về bảo hiểm và họ cho rằng quỹ bảo hiểm giống như quỹ phúc lợi. Cho nên đã 
có rất nhiều trường hợp nói sai sự thật để giúp nạn nhân nhận quyền lợi bảo 
hiểm. 
 + Không gian địa lý cũng là nơi phát sinh gian lận bảo hiểm. Đối với 
những tổn thất xảy ra ở xa, hoang vắng, ít người qua lại (đối với bảo hiểm xe cơ 
LuËn v¨n tèt nghiÖp 
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B 23 
giới, tàu thuyền), khó có thể giữ nguyên hiện trường, sự thay đổi tình tiết hiện 
trường có lợi cho người tham gia bảo hiểm là rất dễ xảy ra. 
 + Do lỗi vô tình hay cố ý của các nhân viên bảo hiểm. Họ có thể vô tình 
ghi sai ngày tham gia bảo hiểm trên giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc do thiếu 
trách nhiệm đã không đánh giá đúng mức độ trầm trọng của rủi ro cũng có thể 
nhân viên bảo hiểm thông đồng với khách hàng để trục lợi bảo hiểm. Họ có thể 
đánh giá cao mức độ tổn thất hoặc vạch đường đi nước bước cho khách hàng lợi 
dụng các kẽ hở về giấy tờ, về thủ tục giám định, bồi thường để trục lợi. 
 + Do sự thông đồng giữa những người tham gia bảo hiểm có hành vi 
gian lận với những người có liên quan như y, bác sỹ, những người làm chứng 
trong các tai nạn, rủi ro… Ví dụ như mua chuộc bác sỹ để dựng lên bệnh án 
hoặc làm giả, kê những đơn thuốc đắt tiền để đòi được số tiền bảo hiểm nhiều 
hơn… khá phổ biến trong loại hình bảo hiểm con người 
 - Hậu quả của trục lợi bảo hiểm: Theo Hiệp hội các hãng bảo hiểm châu 
Âu, hàng năm họ bị thiệt hại vì trục lợi bảo hiểm không dưới 10 tỷ USD , chiếm 
gần 2,5% số phí bảo hiểm. Chỉ riêng các vụ gian lận về cháy, mất cắp xe hơi, 
mất trộm tại nhà, hàng năm các hãng bảo hiểm ở Pháp đã thiệt hại tới gần 10 tỷ 
France (theo giáo trình Quản trị kinh doanh bảo hiểm). Một vài con số như thế 
tuy chưa khái quát được hết tác hại nghiêm trọng của trục lợi bảo hiểm đối với 
kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm nhưng cũng đủ làm 
cho các nhà bảo hiểm phải giật mình vì lượng thất thoát đi là khá lớn. Ở nước ta 
hiện nay, chưa có công ty bảo hiểm nào thống kê được chính xác hàng năm 
doanh nghiệp mình bị trục lợi mất bao nhiêu . 
 - Có thể kể đến một số hậu quả do trục lợi bảo hiểm gây ra như sau : 
 + Đối với doanh nghiệp bảo hiểm hậu quả có thể tính toán được do hành 
vi trục lợi bảo hiểm là làm giảm lợi nhuận hiệu quả kinh doanh bị hạn chế. 
Thậm chí còn tác động xấu đến uy tín của doanh nghiệp . 
 + Đối với khách hàng là những người trung thực sẽ bị thiệt thòi về quyền 
lợi bởi vì phí bảo hiểm mà họ phải nộp lại dùng để trả cho những khoản tiền 
gian lận không được phát hiện ra. Do vậy doanh nghiệp nào có nhiều vụ gian lận 
thì sẽ có phí bảo hiểm cao hơn những doanh nghiệp kiên quyết chống và loại trừ 
những kẻ trục lợi bảo hiểm . 
LuËn v¨n tèt nghiÖp 
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B 24 
 + Đối với xã hội gian lận bảo hiểm là một nguy cơ về đạo đức, làm tha 
hoá, biến chất cán bộ nhà nước, làm cho môi trường kinh doanh thiếu lành mạnh 
và thiếu sự công bằng. Điều đó dẫn đến tình trạng coi thường pháp luật, gây rối 
trật tự an ninh xã hội . 
4.3. Các biện pháp phòng chống trục lợi bảo hiểm . 
 Trên thế giới, việc phòng chống trục lợi bảo hiểm được các doanh nghiệp 
bảo hiểm hết sức coi trọng. Nhiều doanh nghiệp bảo hiểm đã thành lập các đội, 
các ban phòng chống trục lợi bảo hiểm của riêng mình và ở nhiều nước đã áp 
dụng một cách khá hiệu quả các biện pháp sau : 
 - Không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo hiểm. Đối với những 
nghiệp vụ bảo hiểm mà pháp luật quy định bắt buộc khách hàng phải tham gia 
cần có sự phối hợp với các cơ quan chức năng để kiểm tra theo dõi và đưa ra 
những mức tiền phạt thích đáng cao hơn mức phí bảo hiểm mà họ phải nộp . 
 - Doanh nghiệp bảo hiểm phải tổ chức các đầu mối quản lý, theo dõi kiểm 
tra chặt chẽ các cán bộ, các đại lý và cộng tác viên bảo hiểm. Một mặt phải 
nhắc nhở họ thực hiện đúng chức năng quyền hạn nhiệm vụ. Mặt khác phải đề ra 
những cơ chế quản lý phù hợp: phí bảo hiểm thu được trong ngày, cuối ngày 
phải nộp; giấy chứng nhận bảo hiểm cấp trong ngày phải thông báo cho doanh 
nghiệp bảo hiểm vào cuối ngày; khi khách hàng tham gia bảo hiểm với số tiền 
lớn là bao nhiêu thì phải báo cáo về doanh nghiệp bảo hiểm kiểm tra theo dõi … 
 - Quá trình giám định và bồi thường, chi trả bảo hiểm phải thực hiện 
đúng nguyên tắc và trình tự mỗi khâu: nếu thấy nghi ngờ một loại giấy tờ nào 
đó hoặc không rõ thời gian, không gian trong các vụ tổn thất cần xác minh lại 
ngay. Nếu thấy cần thiết phải báo ngay để doanh nghiệp bảo hiểm tổ chức xác 
minh, điều tra cho rõ. Ngoài phương án điều tra độc lập, cần tranh thủ sự giúp 
đỡ của các bên có liên quan như: chính quyền địa phương, công an, y bác sỹ và 
những người làm chứng... 
 - Nếu phát hiện có sự gian lận cần phải theo dõi chặt chẽ đối tượng, tổ 
chức điều tra xác minh chính xác và nhờ các cơ quan chức năng can thiệp. Kinh 
nghiệm của nhiều nước cho thấy cần tập trung điều tra những đối tượng sau: 
 + Những người tham gia bảo hiểm với nhiều loại hình khác nhau và ở 
nhiều doanh nghiệp bảo hiểm khác nhau 
LuËn v¨n tèt nghiÖp 
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B 25 
 + Tai nạn xảy ra gần với ngày kí hợp đồng hoặc tai nạn xảy ra ngay sau 
khi khách hàng mua bảo hiểm với số tiền bảo hiểm lớn. 
 + Số vụ tai nạn tăng cùng một địa điểm. 
 + Số vụ tai nạn xảy ra do cùng một nguyên nhân. 
 + Giấy yêu cầu bảo hiểm không phải do chính người được bảo hiểm 
hoặc người thụ hưởng bảo hiểm đề nghị. 
 + Quan tâm giáo dục ý thức, trách nhiệm, tính kỷ luật trong tất cả các 
khâu công việc do cán bộ nhân viên kể cả đại lý và công tác viên trong doanh 
nghiệp. Bên cạnh đó phải có chính sách đãi ngộ thoả đáng với họ, thưởng phạt 
phải hết sức nghiêm túc và có nề nếp. 
 Tuy vậy, việc theo dõi phòng chống gian lận bảo hiểm không được làm 
ảnh hưởng đến các công việc khác trong hoạt động kinh doanh. Nhất là không 
được chậm trễ trong quá trình thanh toán bảo hiểm cho khách hàng vì tuyệt đại 
đa số khách hàng là những người trung thực. 
LuËn v¨n tèt nghiÖp 
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B 26 
PHẦN II: 
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI CÁC 
NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM CON NGƯỜI TẠI PJICO 
I. Vài nét về công ty PJICO. 
1. Lịch sử ra đời và phát triển . 
 Từ năm 1994 về trước, trên thị trường bảo hiểm nước ta duy nhất chỉ có một 
doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo kiểu"một mình một chợ", đó là Tổng 
Công Ty (TCT) Bảo Việt thuộc Bộ Tài Chính. Nhưng cùng với sự phát triển của 
nền kinh tế xã hội, đến nay trên thị trường đã có gần 20 doanh nghiệp cùng hoạt 
động, cạnh tranh và tăng tốc. Công ty bảo hiểm xăng dầu PJICO là một trong 
những doanh nghiệp thành đạt đó. 
 Hai năm sau khi chính phủ ban hành Nghị định số 100/NĐ-CP ngày 
18/12/1993 thì PJICO ra đời, với các thành viên sáng lập có tiềm lực kinh tế 
mạnh như các TCT: thép, xăng dầu, đường sắt, ngân hàng ngoại thương Việt 
Nam, công ty tái bảo hiểm quốc gia, công ty vật tư và thiết bị toàn bộ, điện tử 
Hà Nội, công ty TNHH thiết bị an toàn. Công ty có tổng vốn đầu tư là 55 tỷ 
đồng, tiền ký quỹ là 2 tỷ đồng. Tổng vốn đầu tư được chia thành 27.500 cổ 
phần, mệnh giá cổ phiếu là 2.000.000 đ Việt Nam, cụ thể là: 
BẢNG 3: Danh sách các cổ đông chính của PJICO và tỷ lệ vốn góp (năm 1995) 
 Cổ đông Tỷ lệ 
(%) 
Vốn góp 
(tr.đ) 
Cổ phiếu 
(tờ) 
1. Tổng công ty xăng dầu Việt Nam 
2. Ngân hàng ngoại thương Việt Nam 
3. Tổng công ty thép Việt Nam 
4. Công ty tái bảo hiểm quốc gia 
5. Công ty vật tư và thiết bị toàn bộ 
6. Công ty TNHH thiết bị an toàn 
7. Công ty điện tử Hà Nội 
8. Cá nhân khác 
51 
10 
6 
8 
3 
0,5 
2 
19,5 
28.050 
5.500 
3.300 
4.400 
1.650 
275 
1.100 
10.725 
4.025 
2.750 
1.650 
2.200 
825 
138 
550 
5.362 
 ( Nguồn: công ty PJICO) 
LuËn v¨n tèt nghiÖp 
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B 27 
 Với giấy chứng nhận đủ tiêu chuẩn và điều kiện kinh doanh bảo hiểm số 
06-TC/GCN ngày 17/5/1995 của Bộ tài chính, giấy chứng nhận đăng ký kinh 
doanh số 060256 ngày 15/6/1995 của Sở kế hoạch Hà Nội, PJICO có thời hạn 
họat động là 25 năm. Hết thời hạn, nếu muốn tiếp tục hoạt động, PJICO phải xin 
gia hạn. Nhiệm vụ chủ yếu của PJICO trong thời gian đầu là thực hiện bảo hiểm 
cho các công ty thành viên. 
 PJICO là công ty cổ phần đầu tiên hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực bảo 
hiểm phi nhân thọ. Khi ra đời, trong những ngày đầu hoạt động, PJICO đã trải 
qua rất nhiều khó khăn khi cơ chế luật pháp chưa hoàn thiện, khách hàng chủ 
yếu ở dạng tiềm năng, đội ngũ cán bộ nhân viên còn ít ỏi, kinh nghiệm chưa có 
nhiều, thêm vào đó là nguồn vốn hoạt động chỉ có hơn 30 tỷ đồng, song dưới sự 
lãnh đạo đúng đắn kịp thời của hội đồng quản trị, sự ủng hộ của các cổ đông 
sáng lập và hơn hết là sự nỗ lực phấn đấu của toàn thể cán bộ, nhân viên PJICO 
đã nhanh chóng tiếp cận thị trường triển khai hơn 50 loại hình dịch vụ bảo hiểm, 
tập trung vào các lĩnh vực "nóng" như giao thông vận tải, xăng dầu, xây dựng và 
lắp đặt công trình, xuất nhập khẩu hàng hóa, vận chuyển. Từ các nghiệp vụ bảo 
hiểm xe cơ giới, bảo hiểm rủi ro kinh doanh, hỏa hoạn, lắp đặt, xây dựng công 
trình, đến bảo hiểm cho người lao động…PJICO luôn thực hiện nghiêm túc, lấy 
chất lượng và chữ tín làm đầu để thu hút, phát triển khách hàng. Trên thương 
trường cạnh tranh, PJICO luôn chủ động đến với khách hàng bằng những việc 
làm thiết thực, hỗ trợ khách hàng sớm vượt qua hoạn nạn, khó khăn. Mọi doanh 
nghiệp và người dân đều thấu hiểu mua bảo hiểm là một nhu cầu tất yếu, có lợi 
trước hết cho chính mình, bởi việc mua đó chính là sự phân tán rủi ro, nâng cao 
độ an toàn trong sản xuất và kinh doanh. 
 Nhờ vậy, chỉ trên dưới 10 điểm kinh doanh đặt ở các thành phố lớn của 
những năm đầu thành lập đến đầu năm 2004 này- nghĩa là sau gần 9 năm hoạt 
động, PJICO đã có gần 40 chi nhánh trong đó năm 2003 tăng tốc phát triển mới 
12 chi nhánh. Từ cực Bắc- Cao Bằng, Lạng Sơn đến tận Kiên Giang đất mũi Cà 
Mau của đất nước. Có thể nói ở đâu cũng có "bàn tay" nhân nghĩa của PJICO. 
Từ chỗ khách hàng của công ty chỉ là cổ đông đến nay công ty đã có hàng nghìn 
khách hàng thuộc tất cả các lĩnh vực, ngành nghề, các thành phần kinh tế. Cơ 
cấu khách hàng tiếp tục phát triển theo hướng bền vững. Tất cả các lĩnh vực bảo 
hiểm chủ đạo như xây dựng, lắp đặt, hàng hóa, tàu biển, xe cơ giới, con người 
đều tăng đáng kể lượng khách hàng mới ngoài các khách hàng truyền thống. 
Ngoài các khách hàng tại các trung tâm kinh tế lớn như Hà Nội, thành phố Hồ 
LuËn v¨n tèt nghiÖp 
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B 28 
Chí Minh, thị trường khai thác tại các địa phương khác của PJICO đã được mở 
rộng. Công ty đã và đang thiết lập được quan hệ hợp tác tốt với nhiều khách 
hàng lớn, tiềm năng trên tất cả các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế (giao 
thông, điện lực, xi măng, sắt thép, hóa chất, khoáng sản, hàng hóa, đóng tàu, xây 
dựng, công nghiệp, khách sạn, XNK, xăng dầu, ngân hàng…). Tỷ trọng doanh 
thu ngoài cổ đông lên đến 90%. Giờ đây PJICO đã thực sự trở thành một công ty 
bảo hiểm quốc gia đa ngành. 
 Từ khi thành lập đến nay, trải qua gần 9 năm hoạt động và phát triển, PJICO 
đã chia theo vốn góp các cổ đông và các khoản thuế phải nộp ngân sách nhà 
nước. Tổng doanh thu phí sau gần 9 năm kinh doanh đạt khoảng 300 tỷ với tỷ lệ 
tăng trưởng phí trung bình đạt 39%/năm. 
2. Cơ cấu tổ chức bộ máy. 
 PJICO là một doanh nghiệp bảo hiểm, có tổ chức, có tư cách pháp nhân hoạt 
động trong mối quan hệ chặt chẽ giữa các thành viên, giữa các bộ phận doanh 
nghiệp nhằm cùng thực hiện một mục đích chung dưới sự lãnh đạo và quản lý 
thống nhất của ban lãnh đạo. 
 Cơ cấu tổ chức là hình thức tồn tại của tổ chức biểu thị sự sắp xếp các bộ 
phận được chuyên môn hóa với trách nhiệm và quyền hạn nhất định, có mối liên 
hệ mật thiết với nhau... nhằm thực hiện chức năng quản lý. 
 Cơ cấu tổ chức doanh nghiệp phải đáp ứng yêu cầu chiến lược kinh doanh 
của doanh nghiệp đó, cũng có nghĩa là việc hình thành cơ cấu tổ chức phải đảm 
bảo tính hiệu quả và linh hoạt, không cứng nhắc, có thể thay đổi thích hợp với 
các điều kiện ảnh hưởng do môi trường hoạt động của doanh nghiệp luôn luôn 
thay đổi. 
 Tổ chức một doanh nghiệp với mô hình hợp lý là nội dung của thực hiện 
chiến lược kinh doanh, nhưng mặt khác bộ máy tổ chức là công cụ rất quan 
trọng để thực hiện chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Với ý nghĩa đó, tổ 
chức của một doanh nghiệp để thực hiện mục tiêu chiến lược đề ra. 
 Một mô hình tổ chức của doanh nghiệp phải đáp ứng được các yêu cầu cơ 
bản trên và PJICO không phải là ngoại lệ. PJICO có trụ sở chính đặt tại số 22 
Láng Hạ- Đống Đa, Hà Nội, hoạt động kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật. 
Đây chính là nơi xây dựng chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, điều hành 
các hoạt động đối nội, đối ngoại của PJICO. 
LuËn v¨n tèt nghiÖp 
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B 29 
 Dưới trụ sở chính là hệ thống các phòng ban. Văn phòng chi nhánh có trách 
nhiệm thực hiện các hoạt động kinh doanh theo phân cấp của quản lý doanh 
nghiệp. PJICO có cơ cấu tổ chức tuân thủ chặt chẽ theo trật tự cơ cấu của một 
công ty cổ phần, điều đó được thể hiện qua mô hình sau đây: 
P. Tái bảo hiểm 
VPBH chi 
nhánh miền 
nam 
Tổng giám đốc 
Phó TGĐ Phó TGĐ 
P.BH hàng hải P. Tổng hợp P.Bồi thường 
P.Kế toán P. Tổ chức 
P.BH phi hàng 
hải 
P.BH tài sản VPBH phía 
băc +miền trung 
P.Đầu tư tín 
dụng 
Ban thanh tra 
pháp chế 
Tổng đại lý, đại lý, cộng tác viên 
bảo hiểm 
Đại hội cổ đông 
Hội đồng quản trị 
LuËn v¨n tèt nghiÖp 
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B 30 
Hình 1: Cơ cấu tổ chức bộ máy PJICO 
 Với mô hình cơ cấu tổ chức bộ máy như trên, PJICO tỏ ra hết sức năng động, 
linh hoạt trước những thay đổi của môi trường kinh doanh, nắm bắt và phục vụ 
kịp thời, chu đáo các nhu cầu của khách hàng. Đây chính là một trong những 
nhân tố chủ yếu đưa PJICO đến với thành công như hiện nay. 
II. Kết quả hoạt động kinh doanh 
1. Thuận lợi và khó khăn 
 1.1 Thuận lợi 
PJICO được sự hỗ trợ lớn của các cổ đông thành viên trong những ngày đầu 
mới thành lập. Đây là một trong những thuận lợi lớn của PJICO, giúp công ty có 
thể đứng vững trên thị trường khi kinh doanh trong ngành bảo hiểm còn nhiều 
mới mẻ. 
Là công ty cổ phần đầu tiên hoạt động kinh doanh ngay sau nghị định 100-
CP của chính phủ, tuy còn gặp nhiều khó khăn nhưng PJICO đã nhanh chóng 
chiếm được một thị phần nhất định, tạo điều kiện cho sự phát triển ổn định và 
vững chắc sau này. 
PJICO là một trong những công ty bảo hiểm có chất lượng dịch vụ tốt trên 
thị trường, được khách hàng tín nhiệm. Để có chất lượng dịch vụ tốt, thuận tiện 
ngoài sự năng động, làm việc hết mình của đội ngũ cán bộ nhân viên thì công ty 
còn có đội ngũ lãnh đạo tốt, có nhận thức đúng đắn trong việc thực hiện các cam 
kết với khách hàng. Ở PJICO, lãnh đạo công ty thường xuyên kiểm soát chất 
lượng dịch vụ, đồng thời yêu cầu các bộ phận giải quyết bồi thường phải có cam 
kết hỗ trợ nhau. Bộ phận bán hàng, bộ phận marketing thường xuyên cập nhật 
những thay đổi của các đối thủ cạnh tranh và tập hợp các ý kiến khách hàng để 
xem xét điều chỉnh, đảm bảo chất lượng dịch vụ luôn dẫn đầu. Nhờ đó, hệ thống 
chất lượng và dịch vụ bán hàng và hệ thống marketing thường xuyên cập nhật 
những thay đổi của các đối thủ cạnh tranh và phản ánh những ý kiến khách hàng 
để điều chỉnh, đảm bảo chất lượng dịch vụ luôn dẫn đầu. 
Ngoài ra công ty còn có mối quan hệ tốt đối với các công ty bảo hiểm, tái 
bảo hiểm lớn trên thế giới. Điều này tạo điều kiện cho PJICO có thể nhận bảo 
hiểm cho các hợp đồng bảo hiểm có số tiền bảo hiểm lớn do đã có sự hậu thuẫn 
của các công ty tái bảo hiểm trên. 
LuËn v¨n tèt nghiÖp 
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B 31 
Sự hiểu biết của người dân về bảo hiểm cũng đã được cải thiện nhờ đó PJICO dễ 
dàng khai thác để bán các sản phẩm bảo hiểm hơn. 
LuËn v¨n tèt nghiÖp 
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B 32 
 1.2 Khó khăn 
 Theo đánh giá của thế giới, Việt Nam vẫn còn là một nước nghèo, đang phát 
triển, thu nhập bình quân đầu người đã tăng khá cao so với những năm trước 
song trình độ dân trí chưa cao. Người dân vẫn còn rất dè dặt khi tham gia bảo 
hiểm, bởi vì đối với họ việc tham gia bảo hiểm một cách tự nguyện không phải 
là nhu cầu cấp thiết so với các nhu cầu khác của đời sống. Đối với các doanh 
nghiệp cũng thế, họ phải tự quản lý đồng vốn, tự trang trải khi gặp khó khăn nên 
mặc dù có ý thức muốn đảm bảo đời sống cho nhân viên, muốn nhân viên làm 
việc với chế độ đãi ngộ tốt nhất để bảo vệ an toàn cho hoạt động kinh doanh của 
mình nhưng do thực tế hiệu quả đạt được, họ rất ít khi tham gia bảo hiểm con 
người cho các thành viên.Vì lẽ đó mà số lượng công ty ký hợp đồng bảo hiểm 
con người tại PJICO chỉ dừng lại con số khiêm tốn nếu đem ra so sánh với tổng 
số công ty đang tạo ra hàng triệu công ăn việc làm cho người lao động trên thị 
trường. Một số công ty tham gia bảo hiểm con người thì lại là những vị khách 
hàng khó tính, luôn đòi hỏi các dịch vụ bảo hiểm có uy tín, nhanh nhậy, linh 
động và khi có rủi ro xảy ra với người được bảo hiểm thì phải nhanh chóng được 
tiến hành để không ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Đó là điều dễ 
hiểu trong khi thị trường luôn sôi động với sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa các 
công ty bảo hiểm . 
 Trong quá trình phát triển đi lên như vậy, không phải PJICO luôn thuận 
buồm xuôi gió. Trong mỗi một cơ cấu, một tổ chức luôn tồn tại những vấn đề 
bất cập, những khó khăn nhất định, PJICO không nằm ngoài quy luật đó. Không 
có gì là bất biến, chính sự thay đổi nhanh đến chóng mặt của thi trường, của nhu 
cầu người mua bảo hiểm đòi hỏi quy trình kinh doanh của công ty phải biến đổi 
cho phù hợp với thực tế. Ta có thể kể đến một số khó khăn mà công ty dang gặp 
phải là: 
 Thứ nhất: Khó khăn về thị trường 
 Sau khi ban hành nghị định 100 CP ngày 18/02/1993, tiếp đó là nghị định 
74CP ngày 14/06/1997, cho phép nhiều doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh 
tế, kể cả doanh nghiệp nước ngoài tham gia kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam, 
các công ty lâm vào tình trạng cạnh tranh gay gắt, lôi kéo khách hàng của nhau. 
Việc mở rộng hoạt động của các công ty bảo hiểm nước ngoài trên thị trường 
như Allianz-AGF, Sam sung-Vina, Incombank-Asia...càng làm tăng tính cạnh 
tranh, dẫn đến phí bảo hiểm bị giảm xuống đáng kể. Sự cạnh tranh không lành 
LuËn v¨n tèt nghiÖp 
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B 33 
mạnh thậm chí còn khiến một số công ty bảo hiểm hạ phí xuống dưới mức cho 
phép, gây nguy hiểm không chỉ bản thân công ty đó mà còn cả rủi ro cho khách 
hàng tham gia do khả năng đảm bảo bảo hiểm thấp. Việc ban hành luật kinh 
doanh bảo hiểm, những văn bản hướng dẫn thực thi bảo hiểm của nhà nước 
chứng tỏ rằng Việt Nam đánh giá cao tiềm năng của lĩnh vực bảo hiểm và coi 
bảo hiểm thực sự là một công cụ quan trọng để phát triển có định hướng nền 
kinh tế-xã hội. Với tiềm năng của một thị trường với gần 80 triệu dân còn rất 
lớn, với sự góp mặt của nhiều công ty bảo hiểm nữa, không chỉ riêng PJICO mà 
các doanh nghiệp bảo hiểm khác sẽ luôn phải đối đầu với sự cạnh tranh nhằm 
phân chia thị trường bảo hiểm trong bối cảnh hội nhập quốc tế. 
 Khung pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm chưa hoàn thiện, chưa 
có cơ chế quản lý tài chính phù hợp vừa nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý, tương 
thích với các hoạt động bảo hiểm phát triển vừa đảm bảo sự giám sát chặt chẽ, 
chống mọi sự lợi dụng, trục lợi của các bên liên quan trong hoạt động này. 
 Hoạt động nghiên cứu thị trường, tìm hiểu nhu cầu của khách hàng chưa 
được chú trọng phát triển. Với hơn 50 nghiệp vụ, sản phẩm bảo hiểm do PJICO 
cung cấp có thể gọi là đa dạng, phong phú. Đây đều là các nghiệp vụ mà hầu hết 
các công ty bảo hiểm phi nhân thọ đều tích cực triển khai. Tuy nhiên, để tạo 
tiếng tăm trên thị trường, PJICO không chỉ phải tạo chất lượng phục vụ tốt, chu 
đáo mà còn cần phải đầu tư nghiên cứu sản phẩm mới, mặc dù công việc này rất 
phức tạp, đòi hỏi chuyên môn cao nhưng đây sẽ là một trong các yếu tố làm 
PJICO khác biệt với các doanh nghiệp bảo hiểm khác. Khó khăn này một phần 
vì PJICO thiếu những chuyên viên định phí bảo hiểm có trình độ cao, một phần 
vì chưa được quan tâm đầu tư xác đáng. 
 Thứ hai: Khó khăn về trình độ quản lý và chuyên môn của cán bộ nhân viên 
Là một công ty cổ phần mới được thành lập, PJICO được sự hỗ trợ lớn của 
các cổ đông thành viên nhưng công ty cũng gặp không ít khó khăn trong việc tổ 
chức quản lý bộ máy. Khi mới được thành lập, ban quản trị của công ty đều là 
cán bộ chủ chốt trong các công ty góp vốn, sự am hiểu tinh tường về bảo hiểm 
vì thế bị hạn chế. Cùng với sự phát triển ngày càng lớn mạnh của PJICO, các 
kiến thức về chuyên ngành bảo hiểm càng được trau dồi và đạt được những kết 
quả khá tốt. Nhưng bảo hiểm là ngành kinh doanh dịch vụ tài chính, để thu được 
thành công như mong đợi thì việc quản lý, tổ chức công ty không phải là công 
việc dễ dàng. 
LuËn v¨n tèt nghiÖp 
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B 34 
Bên cạnh đó, trình độ chuyên môn của cán bộ nhân viên trong công ty cũng 
là một vấn đề nổi cộm. Phần lớn họ đã được đào tạo qua về bảo hiểm, có tuổi trẻ 
và sự năng động, thích ứng nhanh được với thị trường. Một điều dễ nhận thấy là 
không phải ai cũng xuất sắc trong công việc. Tình trạng cán bộ bảo hiểm bị hạn 
chế bởi kỹ năng bán hàng, khả năng giao tiếp về ngoại ngữ, trình độ sử dụng vi 
tính, bề dày kinh nghiệm còn khá phổ biến và đã ảnh hưởng nhất định đến hiệu 
quả kinh doanh của toàn công ty . 
 Thứ ba : Khó khăn về tài chính 
Để kinh doanh được trong nghành bảo hiểm cần một lượng vốn rất lớn do 
đặc điểm của sản phẩm là phải trích lập quỹ dự phòng bồi thường.Với tiềm lực 
về tài chính hùng hậu, công ty bảo hiểm sẽ dễ dàng nhận bảo hiểm cho các công 
trình hay tài sản có giá trị lớn. Nếu không may rủi ro xảy ra, công ty vẫn có thể 
chi trả cho khách hàng đầy đủ như cam kết. Khi thành lập, PJICO có tổng số vốn 
điều lệ là 55 tỷ đồng, số vốn này cho phép công ty có thể nhận bảo hiểm cho 
những tài sản, công trình có giá trị nhỏ và trung bình. Với những hợp đồng có số 
tiền bảo hiểm quá lớn, công ty lại phải phụ thuộc vào khả năng nhận tái bảo 
hiểm của các công ty khác, đặc biệt là các công ty bảo hiểm nước ngoài như 
ERC, Hanover, Munich Re…Thực tế là đã có khá nhiều hợp đồng được PJICO 
ký kết khi có sự hậu thuẫn của các công ty trên. 
Trên đây đề cập đến một số khó khăn của toàn công ty. Khó khăn thì nhiều 
nhưng những gì mà PJICO đạt được trong những năm vừa qua đang là lời giải 
cho bài toán đó. 
2. Kết quả hoạt động kinh doanh 
 Bước vào hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm từ năm 1995 
nhưng đến nay PJICO đã có tới 36 chi nhánh và gần 1000 văn phòng, đại diện, 
tổng đại lý, đại lý trải khắp cả nước. Với phương châm luôn có mặt tận hiện 
trường để giúp đỡ, chia sẻ rủi ro với khách hàng bằng hệ thống dịch vụ nhanh 
nhất và tốt nhất, trong suốt khoảng thời gian gần 9 năm hoạt động, tốc độ tăng 
trưởng doanh thu bình quân của PJICO là 39%/ năm. 
 Theo ông Trần Nghĩa Vinh- tổng giám đốc PJICO cho biết để có được hệ 
thống dịch vụ có chất lượng như hôm nay, công ty đã phải đầu tư mạnh vào 3 
yếu tố: con người, quy trình phục vụ, hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật mà trước 
hết là hệ thống công nghệ thông tin kinh doanh dịch vụ tài chính và bảo hiểm 
LuËn v¨n tèt nghiÖp 
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B 35 
phải có công nghệ thông tin hiện đại. Chỉ trong vòng chưa đầy một năm kể từ 
giữa năm 2002 từ một đơn vị lạc hậu về công nghệ thông tin nay PJICO đã thực 
sự trở thành một công ty có hệ thống công nghệ thông tin hiện đại. Hệ thống này 
không chỉ là việc đầu tư vào cơ sở vật chất cho mạng thông tin mà còn là việc 
đào tạo và tổ chức ứng dụng cho hơn 500 con người để sử dụng một cách thành 
thạo, thường xuyên. Đồng thời qua hệ thống này, toàn bộ quy trình quản lý đã 
được tái cấu trúc hợp lý để việc trao đổi thông tin thực sự hiệu quả, đáp ứng tốt 
nhất nhu cầu điều hành chung. 
 Xét về tổng doanh thu: qua gần 9 năm hoạt động mức doanh thu của PJICO 
không ngừng tăng lên, do nhiều nguồn khác nhau đó là: 
 - Doanh thu từ hoạt động kinh doanh bảo hiểm gốc. 
 - Doanh thu từ hoạt động nhận và nhượng tái bảo hiểm. 
 - Doanh thu từ họat động đầu tư tài chính. 
 - Doanh thu từ hoạt động khác (Thu hoa hồng nhượng tái, thu phí nhận tái). 
 Để thấy rõ hết kết quả kinh doanh của PJICO, ta có thể nhìn vào bảng sau. 
BẢNG 4: Doanh thu của PJICO (1999-2003) 
Đơn vị: Tỷ đồng 
Năm 1999 2000 2001 2002 2003 
Tổng doanh thu 114,7 133 166,9 215,3 409 
DT phí BH gốc 92,4 110 137,6 177,8 337,9 
DT từ đầu tư 8,15 7,15 8,56 9,69 18,4 
DT hoạt động khác 14,15 15,85 20,74 27,81 52,70 
 (Nguồn: báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh) 
Hình 2: Đồ thị doanh thu của PJICO giai đoạn 1999 - 2003 
LuËn v¨n tèt nghiÖp 
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B 36 
0
5 0
1 0 0
1 5 0
2 0 0
2 5 0
3 0 0
3 5 0
4 0 0
4 5 0
1 9 9 9 2 0 0 0 2 0 0 1 2 0 0 2 2 0 0 3
N ¨ m
T û ® å n g
T æ n g d o a n h t h u
D T p h Ý B H g è c
D T t õ ® Ç u t
D T h o ¹ t d é n g k h ¸ c
Nhận xét: 
Về tổng doanh thu: 
 Một điều rõ ràng là tổng doanh thu PJICO có sự tăng trưởng ổn định và 
tăng đều qua các năm với tốc độ khá cao. Năm 2002 là năm mà nền kinh tế thế 
giới có nhiều biến động lớn đặc biệt là sau vụ khủng bố 11/9 tại Mỹ và đã nhiều 
ảnh hưởng tiêu cực đến nhiều ngành kinh tế nước ta trong đó có ngành bảo 
hiểm.Nhưng PJICO đạt tổng doanh thu kinh doanh trên 200 tỷ đồng, tăng trưởng 
27.1% so với năm 2001, nộp ngân sách gần 16 tỷ đồng, chia lãi cổ tức 1.25%/ 
tháng, khả năng tài chính tiếp tục được củng cố vững chắc với tổng vốn kinh 
doanh đạt gần 200 tỷ đồng. 
 Thế nhưng, nếu năm 2002 là năm PJICO đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất 
trong giai đoạn 1998-2002 thì đến năm 2003 là một năm có tốc độ tăng trưởng 
cao nhất kể từ khi thành lập đến nay, đạt được những thành công đáng ghi nhận 
và mang tính đột phá. Tốc độ tăng trưởng doanh thu cao gần 90%, gấp 3.3 lần 
mức tăng chung của thị trường trong đó văn phòng công ty tăng trưởng tới 2.14 
lần, các chi nhánh trên toàn quốc đều tăng trưởng khá từ 30%-60%. Năng lực tài 
chính được nâng cao nhờ việc trích lập các quỹ dự phòng và bổ sung vốn cổ 
đông tăng hơn 150%, tổng vốn và tài sản tăng gần 2 lần so với năm 2002 và đến 
nay công ty có số vốn tích lũy tăng 10 lần so với vốn ban đầu. Nghiệp vụ bảo 
hiểm đa dạng, phong phú. Uy tín và thương hiệu PJICO ngày càng được nhân 
rộng, vững chắc. 
Về doanh thu phí bảo hiểm gốc: 
LuËn v¨n tèt nghiÖp 
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B 37 
 Đây là nguồn thu chủ yếu trong tổng doanh thu của công ty. Năm 2001 
doanh thu phí bảo hiểm gốc chiếm tỷ trọng 82,44%, sang năm 2003 chiếm là 
82,62%. Tốc độ tăng trưởng của doanh thu phí bảo hiểm gốc cũng tăng đều qua 
các năm: năm 2001 có tốc độ tăng so với năm 2000 là 22,6%, năm 2003 tốc độ 
này là 47,3%. Đạt được điều này là do công ty có sản phẩm bảo hiểm thì đa 
dạng, phong phú, chất lượng phục vụ tốt và chu đáo nên đã khai thác được nhiều 
khách hàng. 
Về hoạt động đầu tư: 
 Chiếm tỷ trọng khá nhỏ trong tổng doanh thu phí bảo hiểm: năm 2001 
chiếm tỷ trọng 5,13%, năm 2003 chiếm 4,5%. Tuy vậy, nguồn thu từ hoạt động 
này không nhỏ, năm 2003 thu được khoảng 18,4 tỷ đồng từ việc đầu tư nguồn 
vốn nhàn rỗi. Doanh thu từ hoạt động đầu tư của công ty tăng trưởng khá đồng 
đều, góp phần làm tăng nguồn vốn kinh doanh, nâng cao khả năng cạnh tranh và 
giảm phí bảo hiểm. 
 Về các hoạt động khác: 
 Doanh thu từ các hoạt động khác càng tăng theo các năm và chiếm tỷ trọng 
khá lớn. Năm 2003 đạt 52,7 tỷ, chiếm 12,9% trong cơ cấu tổng doanh thu chứng 
tỏ hoạt động trong các lĩnh vực này ngày càng có hiệu quả. 
 Do hoạt động kinh doanh bảo hiểm có đặc điểm là chu trình kinh doanh 
đảo ngược nên các công ty bảo hiểm thường có khoản quỹ bảo hiểm (được xem 
như là khoản nợ chưa đến hạn phải trả cho khách hàng) rất lớn. Mặc dù môi 
trường đầu tư ở Việt Nam còn hạn hẹp, rủi ro cao nhưng PJICO vẫn luôn chú 
trọng và sử dụng tối đa các nguồn vốn nhàn rỗi để đầu tư sao cho vừa có hiệu 
quả vừa an toàn vào các hạng mục đầu tư được luật pháp cho phép. 
 Như vậy, với kết quả họat động kinh doanh đem lại, hàng năm PJICO đã 
chi trả lãi cổ tức cho các cổ đông là 14.4%/năm cao gấp 1.5-2 lần lãi suất tiền 
gửi ngân hàng. Cho đến nay mỗi cổ đông đã thu hồi được trên 64% số vốn góp 
ban đầu không kể phần tích lũy giữ lại trích cho các quỹ dự phòng và quỹ dự trữ 
của công ty. Ngoài ra, PJICO cũng luôn thực hiện tốt nghĩa vụ đối với nhà nước, 
đúng hạn và đầy đủ trung bình khoảng 13 tỷ/ năm. 
 Hoạt động đối ngoại và tái bảo hiểm cũng góp phần tích cực vào việc nâng 
cao chất lượng dịch vụ của PJICO trong những năm qua. Sự năng động, linh 
hoạt, sáng tạo của tái bảo hiểm là hậu phương vững chắc cho hoạt động kinh 
LuËn v¨n tèt nghiÖp 
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B 38 
doanh bảo hiểm gốc và để mang lại lợi ích thiết thực cho khách hàng. Thông qua 
hoạt động tái bảo hiểm, các tập đoàn bảo hiểm lớn trên thế giới đã công nhận 
PJICO là công ty bảo hiểm có năng lực chuyên môn cao và đang có những thành 
công lớn trong những năm gần đây. Nhờ đó các tập đoàn tái bảo hiểm hàng đầu 
thế giới như: Munich Re, Swiss Re, Hannover Re, ERC …đã quyết định đầu tư 
thêm 40% năng lực nhận tái bảo hiểm cho PJICO, giúp PJICO có điều kiện phục 
vụ khách hàng tốt hơn. Toàn bộ tài sản của khách hàng từ tàu biển, hàng hóa, 
các công trình xây dựng, tài sản của các chủ đầu tư khi tham gia tại PJICO đã 
được các tập đoàn tái bảo hiểm lớn trên thế giới đảm bảo về tài chính. Năm 
2003, nhiều khách hàng từ lĩnh vực liên doanh hoặc 100% vốn đầu tư nước 
ngoài đã đến với PJICO và mua bảo hiểm tại công ty như Harbin Power (dự án 
nhiệt điện Cao Ngạn trị giá 85,5 triệu USD), VIMAS (khách sạn 5 sao Sheraton 
trị giá 60 triệu USD), Hà Nội Lake View, Castrol Việt Nam, Sun Red River 
Tower, Hanoi Melia… 
 Sự thành công của PJICO là do nhiều yếu tố mang lại. Nhưng quan trọng 
nhất việc giải quyết cho khách hàng một cách nhanh chóng hoặc thỏa đáng. 
Nhận thức sâu sắc vấn đề này, công ty luôn coi đó là nhiệm vụ trọng tâm hàng 
đầu trong hoạt động kinh doanh của mình, coi đây không chỉ thuần túy là vấn 
đề đền bù tài chính mà còn là sự quan tâm, chia sẻ tình cảnh khó khăn mỗi khi 
khách hàng không may gặp rủi ro. Hàng năm, PJICO đã giải quyết bồi thường 
hàng nghìn vụ tổn thất với giá trị hàng trăm tỷ đồng, giúp khách hàng nhanh 
chóng ổn định đời sống và sản xuất. Những năm gần đây, nhiều vụ tổn thất như: 
cháy kho xăng dầu K131(21 tỷ); cháy xí nghiệp may xuất khẩu Bình Thạnh (5.4 
tỷ); vụ đắm 11 nghìn tấn phân urê của Vêgecam Hải Phòng (1.4 triệu USD); các 
tổn thất lớn do hậu quả của cơn bão số 5 tại đồng bằng Sông Cửu Long năm 
1997 và trận lụt thế kỷ ở miền Trung cuối năm 1999… Đã được PJICO giải 
quyết kịp thời và thỏa đáng. 
 Trong năm 2002, công ty đã giải quyết nhanh chóng, chính xác hợp lý hàng 
chục nghìn vụ bồi thường cho khách hàng với tổng số tiền bồi thường hơn 77 tỷ 
đồng (chiếm 44% tổng phí thu) qua đó góp phần ổn định kinh doanh và khả 
năng tài chính cho các đối tượng khách hàng khi có tổn thất thuộc trách nhiệm 
bảo hiểm xảy ra. 
 Đến năm 2003 có nhiều vụ tổn thất lớn cũng đã được PJICO bồi thường 
như bồi thường vụ đắm tầu Geomoskoy tại Đài Loan với số tiền 5 tỷ, phối hợp 
với chủ tầu và bỏ ra chi phí gần 5 tỷ đồng để tiến hành cứu hộ tàu Cửu Long 01 
LuËn v¨n tèt nghiÖp 
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B 39 
mắc cạn tại Đà Nẵng chỉ trong gang tấc mà nếu xảy ra thiệt hại sẽ lên tới hàng 
chục triệu USD và gây ô nhiễm nghiêm trọng khu vực biển Đà Nẵng, vụ đâm va 
tầu Petrolimex 01 với số tiền bồi thường 300 nghìn USD, bồi thường hàng chục 
tỷ đồng cho hàng trăm vụ tổn thất trên tuyến đường Hồ Chí Minh cũng như giải 
quyết bồi thường hàng vạn lượt xe cơ giới một cách nhanh chóng và thỏa đáng. 
Các khách hàng khi tham gia bảo hiểm tại PJICO hầu hết đều cảm thấy hài lòng 
về chất lượng phục vụ của công ty. 
 Cùng với sự tăng trưởng không ngừng thì thị phần của PJICO cũng có sự 
phát triển khá vững chắc. Trong khi năm 2003 thị phần của các đối thủ cạnh 
tranh trực tiếp trên thị trường giảm so với năm 2002 thì thị phần của PJICO lại 
tăng tới 2,55%, đây là một kết quả đáng trân trọng. Sự lựa chọn, chuyển dịch, 
tăng giảm của khách hàng là thước đo, là sự đánh giá chính xác nhất đối với 
doanh nghiệp kinh doanh trên thương trường. Thước đo kinh doanh thành đạt 
của PJICO không phải là tìm mọi cách để móc túi, điều tiết thu nhập của khách 
hàng mà là bằng mọi biện pháp tiếp cận tuyên truyền, hướng dẫn để khách hàng 
giảm bớt hoặc loại trừ rủi ro, tự nguyện đến với công ty, bảo đảm cả hai cùng có 
lợi. Thành quả đạt được trong thời gian qua của PJICO là kết quả tinh thần làm 
chủ phát huy hết nội lực của hơn 500 cán bộ, công nhân viên trong công ty, 
trước hết phải kể đến Hội đồng quản trị và Ban giám đốc điều hành năng động 
dám nghĩ, dám làm theo quy luật kinh tế thị trường cạnh tranh và hội nhập. 
 Về mặt xã hội, sự ra đời của PJICO đã tạo ra công ăn việc làm cho hàng 
trăm lao động trên địa bàn Hà Nội và tại các địa phương mà công ty đặt chi 
nhánh, văn phòng. Đời sống của cán bộ nhân viên luôn được ban lãnh đạo quan 
tâm và ngày càng được cải thiện. Về mặt trình độ, PJICO có đội ngũ nhân viên 
trẻ có chuyên môn. Ngoài ra, công ty cũng thực hiện chính sách đưa cán bộ đi 
đào tạo nghiệp vụ, chuyên môn ở nước ngoài và ở các công ty bảo hiểm lớn 
trong nước. Đến nay, hầu hết các cán bộ nhân viên đều qua phổ cập cơ bản về 
các nghiệp vụ bảo hiểm. Điều này rất quan trọng vì nó là tiền đề cho việc thúc 
đẩy các hoạt động kinh doanh bảo hiểm một cách có hiệu quả hơn, đem lại 
nguồn doanh thu cao hơn cho PJICO. Qua tìm hiểu được biết các nhân viên rất 
tin tưởng và yên tâm làm việc để đóng góp cho công ty. Năm 2003, thu nhập của 
người lao động gấp hơn 1,5 lần so với năm ngoái. Sức lao động của cán bộ nhân 
viên ở công ty không thua kém bất kì một công ty nào nhưng bù lại thành quả 
của họ cũng rất được trân trọng, thu nhập của họ thuộc hàng cao nhất trong 
ngành bảo hiểm việt Nam. 
LuËn v¨n tèt nghiÖp 
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B 40 
3. Kết quả và hiệu quả kinh doanh của BHCN PNT 
3.1 Vai trò của BHCN PNT 
Ngay từ khi thành lập vào ngày 18/12/1995, loại hình bảo hiểm con người 
đã được PJICO đưa vào kinh doanh và coi đó là một trong những mũi nhọn phát 
triển. Mặc dù đây là các nghiệp vụ bảo hiểm không sinh lời nhằm phục vụ cho 
cộng đồng dân sinh: bảo hiểm con người, học sinh, giáo viên… song rất được 
ban lãnh đạo công ty đầu tư, chú trọng phát triển. 
 Một trong các khảo sát về nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ trong vòng 6 
tháng đầu năm của 3 năm trở lại đây cho thấy lượng phí cao nhất thuộc về 
nghiệp vụ bảo hiểm ô tô và xe máy, kế đến đó là nghiệp vụ bảo hiểm con người 
và đứng thứ 3 là nghiệp vụ bảo hiểm cháy. Mức độ cạnh tranh trong lĩnh vực 
bảo hiểm con người có thể biểu hiện ở hình thức giảm mạnh phí bảo hiểm. Theo 
quy định của bộ tài chính, so với biểu phí mà các công ty được phê chuẩn được 
phép kinh doanh, khi xét thấy cần thiết, hàng năm công ty có thể điều chỉnh mức 
phí và mức trách nhiệm cho phù hợp với tình hình biến động giá cả thị trường 
(tăng, giảm khoảng 25%). Vận dụng linh hoạt quyết định đó của bộ tài chính, 
PJICO cũng có những kế hoạch phù hợp. Chẳng hạn như để tham gia vào thị 
trường bảo hiểm học sinh- vốn là mảnh đất độc quyền của Bảo Việt từ hơn chục 
năm nay- PJICO đã đến từng trường từ mầm non, mẫu giáo, tiểu học, cho đến 
trung học để đưa các bản chào phí bảo hiểm với giá ưu đãi hơn hẳn Bảo Việt. 
Kết quả là một phần thị trường bảo hiểm học sinh đã thuộc về PJICO. Với 
nguyên tắc bồi thường nhân đạo và thiện chí, PJICO đã tiến hành bồi thường 
cho các em nhanh chóng, đầy đủ và linh hoạt. Đồng nghĩa với việc đó là uy tín 
của PJICO cũng được khẳng định chắc chắn trên thị trường. 
 Năm 2003, doanh thu từ các nghiệp vụ bảo hiểm con người đạt trên 33 tỷ, 
chiếm 9,933% trong cơ cấu doanh thu,ss tăng trưởng 26,2% so với năm trước. 
Đây là một con số không nhỏ, góp phần lớn vào tốc độ tăng trưởng chung của 
công ty. 
 Với tỷ trọng như thế cùng với mục đích phục vụ cộng đồng dân sinh, 
mang tính chất nhân văn nhân đạo, bảo hiểm con ngừơi là một trong những 
nghiệp vụ bảo hiểm chính mà PJICO đang triển khai. Với số lượng khách hàng 
tham gia đông đảo, việc triển khai phát triển lĩnh vực này là một trong những 
cách giúp PJICO quảng bá thương hiệu của doanh nghiệp mình một cách hiệu 
quả nhất. Ở một số vùng nông thôn đã quá quen với Bảo Việt trong bảo hiểm 
LuËn v¨n tèt nghiÖp 
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B 41 
học sinh, cán bộ khai thác của PJICO đã phải chấp nhận cái tên gọi "Bảo Việt 
PJICO" chỉ để đáp ứng được mục đích của mình là bán được bảo hiểm và để các 
thầy cô giáo và phụ huynh học sinh hiểu được PJICO cũng là một công ty bảo 
hiểm. Thương hiệu PJICO sẽ tồn tại song hành cùng với sản phẩm, dịch vụ của 
doanh nghiệp, khẳng định đẳng cấp sản phẩm của doanh nghiệp, cho phép 
doanh nghiệp tiếp cận với các loại khách hàng khác nhau, là nguồn củng cố khả 
năng cạnh tranh, giúp nâng cao uy tín cũng như lợi nhuận của doanh nghiệp. Do 
đó, việc đầu tư cho phát triển nghiệp vụ bảo hiểm con người là điều cần thiết và 
có ảnh hưởng tích cực đến sự thành công của PJICO. 
3.2 Kết quả khai thác 
Qua khoảng thời gian 5 năm, tình hình khai thác tại PJICO tỏ ra khá năng 
động, với tốc độ khai thác tăng trưởng trung bình là 20%, doanh thu phí từ các 
nghiệp vụ bảo hiểm con người không ngừng tăng lên. Ta có thể thấy rõ trong 
bảng sau: 
BẢNG 5: Tỷ trọng doanh thu phí từ các nghiệp vụ BHCN PNT tại PJICO 
(1999-2003) 
 Năm 
Chỉ tiêu 
Đơn vị 1999 2000 2001 2002 2003 
Tổng doanh thu phí Triệu 
dồng 
92.433 109.987 137.641 177.839 337.894 
Doanh thu BHCN 
PNT. Trong đó: 
1.BHHS 
2.BHKHCN 
3.BHTNCN24/24 
4.BHDL 
5.BHTCNV&PT 
6 Các nghiệp vụ 
BHCN PNT khác 
Triệu 
đồng 
12.945 
5.307 
3.805 
1.832 
636 
621 
1.364 
15.864 
6.641 
4.709 
2.013 
872 
764 
1.628 
19.839 
7.863 
5.056 
2.536 
1.368 
845 
2.171 
24.756 
10.925 
6.728 
2.735 
1.000 
912 
2.456 
33.565 
14.600 
8.468 
5.396 
1..208 
1.236 
2.657 
LuËn v¨n tèt nghiÖp 
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B 42 
Tỷ trọng % 14,00 14,42 14,41 13,92 9,933 
 (Nguồn: PJICO) 
Nhìn vào bảng ta thấy năm 2002 doanh thu đạt là 24,756 tỷ, tăng trưởng so 
với năm 2001 là 19,86%. Có sự tham gia tăng nhanh đến như vậy là vì năm 
2003, PJICO gặt hái được rất nhiều thành công trong các lĩnh vực: từ khai thác, 
đề phòng hạn chế tổn thất, giám định bồi thường, công tác quảng bá tiếp thị sản 
phẩm đã được chú trọng, đầu tư nên đã thu hút được nhiều khách hàng tham gia 
bảo hiểm. Số người tham gia đều đã góp phần quan trọng nâng cao doanh thu 
phí của PJICO lên, đạt trên 33 tỷ đồng. 
Ta cũng thấy năm 2003 trong cơ cấu doanh thu, các nghiệp vụ bảo hiểm 
con người đạt 9,933% và có xu hướng giảm dần (năm 1999 là 14%). Điều này là 
do các nghiệp vụ bảo hiểm con người không có khả năng sinh lời nhiều, số 
lượng khách hàng tham gia đông nhưng tỷ lệ chi bồi thường đã chiếm một phần 
lớn trong doanh thu phí, lại thêm các khoản chi hoa hồng, chi quản lý, chi dự trữ 
… làm cho lợi nhuận thu được từ việc khai thác nghiệp vụ này không lớn bằng 
các nghiệp vụ khác. Tuy nhiên, với tỷ trọng 9,933% trong cơ cấu tổng doanh thu 
cũng là một con số không nhỏ đóng góp vào kết quả kinh doanh chung toàn 
công ty. Để quảng bá thương hiệu, gây dựng uy tín với khách hàng, trong những 
năm tới PJICO phải tiếp tục giữ vững thị phần hiện có của mình, đẩy mạnh việc 
khai thác các khách hàng tiềm năng vốn rất dồi dào trên thị trường. 
Trong các nghiệp vụ trên thì nghiệp vụ học sinh có doanh thu phí thu về 
cao nhất, chiếm 14,6 tỷ đồng. Hiện nay thị trường bảo hiểm học sinh đã được 3 
công ty bảo hiểm triển khai nghiệp vụ là Bảo Việt (70% thị phần) Bảo Minh 
(20% thị phần) và PJICO (10% thị phần). Sự cạnh tranh diễn ra khá gay gắt và 
số học sinh đến trường ngày một tăng, năm 2002 có 780.029 học sinh trên địa 
bàn Hà Nội với số học sinh tham gia bảo hiểm là 336.310 người (chiếm 
43,11%). Đi liền với số học sinh gia tăng là nguồn thu phí cũng gia tăng lên một 
cách nhanh chóng. Với 10% thị phần nhưng PJICO có tốc độ tăng trưởng mạnh 
(30%/ năm) và ngày càng được công chúng thừa nhận với phong cách phục vụ 
khách hàng nhiệt tình, chu đáo. Với hệ thống phí mà bộ tài chính phê duyệt, bảo 
hiểm học sinh có 2 mức phí là 20 nghìn đồng/học sinh/năm vùng dân cư có thu 
nhập trung bình trở lên hoặc 10 nghìn đồng/học sinh/năm đối với các vùng dân 
cư có thu nhập thấp. Đây quả là con số không nhỏ tính trên toàn thị trường bảo 
hiểm. Tuy nhiên các nhà bảo hiểm đều nói rằng tại thời điểm này, chiến lược 
LuËn v¨n tèt nghiÖp 
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B 43 
kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm học sinh của công ty không đặt vấn đề lợi 
nhuận lên hàng đầu và thực tế đây là sản phẩm bảo hiểm mang tính nhân đạo, 
hơn nữa thực tế chi phí chỉ đủ bù đắp nếu không muốn nói là âm do việc đền bù 
cho bảo hiểm học sinh khá lớn. Năm 2003, tốc độ tăng trưởng bảo hiểm học sinh 
của PJICO đạt 25,17%. 
Sau nghiệp vụ bảo hiểm học sinh, nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người 
cũng có sự gia tăng phí đáng kể, tốc độ gia tăng phí bảo hiểm là 20,54% với năm 
2002. Lý do là ngày càng nhiều người dân, cán bộ nhân viên thấy được những 
ưu thế hơn hẳn của nghiệp vụ này so với các nghiệp vụ bảo hiểm con người như 
bảo hiểm trợ cấp và phẫu thuật, lại được sự quảng cáo của các cán bộ bảo hiểm 
trong công tác khai thác thực hiện tốt nên có số lượng người tham gia ngày một 
đông. 
Năm 2003 cùng với việc ban hành bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự 
chủ xe cơ giới, PJICO đã khai thác thêm một lượng đáng kể khách hàng mua 
bảo hiểm cho xe máy kèm theo bảo hiểm tai nạn người ngồi, làm cho bảo hiểm 
tai nạn con người tăng trưởng mạnh (49,3%), doanh thu phí đạt hơn 5 tỷ đồng . 
 Các nghiệp vụ còn lại đều có tốc độ tăng trưởng khá mạnh; bảo hiểm du 
lịch khai thác được nhiều khách hàng mới như công ty du lịch thương mại Đống 
Đa, chi nhánh du lịch Hạ Long, Dragon Travel… đạt trên 1,3 tỷ năm 2003; bảo 
hiểm trợ cấp nằm viện và phẫu thuật đạt 1,236 tỷ; các nghiệp vụ BHCN PNT 
khác đạt 2,657 tỷ. 
3.3 Hiệu quả kinh doanh các nghiệp vụ BHCN PNT 
Mục đích hoạt động của bất cứ một doanh nghiệp nào trên thị trường là 
đảm bảo kinh doanh có lãi do đó họ tìm mọi cách phát triển doanh thu và giảm 
chi phí. Các khoản chi phải đảm bảo hết sức tiết kiệm, chi đúng mục đích và 
theo đúng quy định của Bộ Tài Chính. Từ những con số thống kê về kết quả 
hoạt động có thể thấy được hoạt động của các nghiệp vụ BHCN PNT tại PJICO 
như sau: 
BẢNG 6: Hiệu quả kinh doanh các nghiệp vụ BHCN PNT (1999-2003) 
 Đơn vị: Triệu đồng 
 Năm 
Chỉ tiêu 
1999 2000 2001 2002 2003 
LuËn v¨n tèt nghiÖp 
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B 44 
Doanh thu phí nghiệp vụ 12.945 15.864 19.839 24.756 33.565 
Tổng chi phí nghiệp vụ 10.202 12.893 15.870 19.448 25.819 
1.BHHS 4.965 5.890 6.743 8.950 12.405 
2.BHKHCN 2.426 3.935 4.438 5.524 6.125 
3.BHTNCN24/24 1.264 1.490 2.044 2.141 3.885 
4.BHDL 343 315 588 600 689 
5.BHTCNV&PT 472 558 549 602 828 
6.Các nghiệp vụ BHCN 
PNT khác 
732 905 1.508 1.631 1.889 
Hd(đ/đ) 1,22 1,23 1,25 1,27 1,30 
 (Nguồn : PJICO) 
Trong đó: Chi phí bao gồm : 
 + Chi trả tiền bảo hiểm. 
 + Chi hoa hồng. 
 + Chi lập các quỹ. 
 + Chi quản lý. 
 + Các khoản chi phí khác. 
 Hiệu quả theo doanh thu: 
 Hd = Error! 
 Nhận xét: Qua các chỉ tiêu doanh thu phí, tổng chi phí nghiệp vụ và lợi 
nhuận nghiệp vụ ta thấy trong thời gian 5 năm ta thấy cả doanh thu và tổng chi 
phí của các nghiệp vụ bảo hiểm con người đều tăng lên nhưng tốc độ tăng của 
doanh thu phí cao hơn tốc độ tăng của tổng chi do đó ta có thể thấy lợi nhuận 
của các nghiệp vụ này tăng lên qua các năm. Đặc biệt là năm 2003, lợi nhuận đạt 
hơn 7,3 tỷ đồng (tăng 27,68% so với năm 2002) có được điều này là do năm 
2003 đã thực hiện tuyên truyền tốt công tác đề phòng hạn chế tổn thất, các 
khoản chi khác được thực hành tiết kiệm nên lợi nhuận tăng nhanh. 
Về mặt hiệu quả: Để đánh giá chính xác kết quả hoạt động kinh doanh của 
các nghiệp vụ bảo hiểm con người phi nhân thọ, ta cần phải xem xét một số chỉ 
tiêu hiệu quả sau: 
LuËn v¨n tèt nghiÖp 
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B 45 
- Hiệu quả theo doanh thu: (Hd) phản ánh vốn một đồng chi phí bỏ ra sẽ 
góp phần tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu. 
Ta thấy năm 1999 cứ 1 đồng chi phí bỏ ra sẽ góp phần tạo ra được 1,22 
đồng doanh thu Đến năm 2003 cứ 1 đồng chi phí bỏ ra góp phần tạo ra 1,29 
đồng doanh thu . 
Như vậy đạt hiệu quả cao nhất trong 5 năm qua là năm 2003 cả về hiệu quả 
theo doanh thu và hiệu quả theo lợi nhuận. Trong năm này doanh thu phí thu về 
cao, số tiền bồi thường ở mức cho phép (70%), bên cạnh đó do thực hiện tốt các 
công tác khác nên đạt hiệu quả kinh doanh cao. Thực tế đặt ra là phải tiếp tục 
phát huy những kết quả đạt được trong năm 2003, ngoài ra tích cực tìm kiếm các 
biện pháp phát triển kinh doanh bằng cách tiết kiệm các chi phí, chi đúng mục 
đích. Đối với các nghiệp vụ bảo hiểm con người, việc thực hiện tốt công tác khai 
thác, chi đề phòng hạn chế tổn thất có hiệu quả và thực hiện công tác giám định 
chi trả bảo hiểm chính xác, trung thực, khách quan là cách tốt nhất để giảm chi 
phí, tăng hiệu quả kinh doanh. 
III. Thực trạng giải quyết khiếu nại trong BHCN PNT ở PJICO 
1. Đặc điểm công tác giải quyết khiếu nại trong BHCN PNT 
Bảo hiểm con người là một loại hình của bảo hiểm thương mại nhưng do có 
đối tượng được bảo hiểm là con người nên có những đặc điểm khác biệt so với 
các nghiệp vụ bảo hiểm khác. Do đó công tác giải quyết khiếu nại, nghiệp vụ 
này cũng có những điểm riêng, đòi hỏi được nghiên cứu để nhận thức rõ hơn về 
tính chất và vai trò của công tác này trong toàn bộ quá trình hoạt động kinh 
doanh nghiệp vụ bảo hiểm con người: 
 Thứ nhất là: Với những rủi ro, tổn thất là tính mạng tình trạng sức khỏe 
của người tham gia hay các chi phí liên quan đến việc khám chữa bệnh, thường 
là sau khi đã khắc phục tổn thất hay chữa chạy thì người tham gia mới thông báo 
tổn thất cho nên việc giám định tình trạng tổn thất của người tham gia chủ yếu là 
công tác xác minh tính trung thực của hồ sơ khiếu nại. Trong đó tính trung thực 
của những giấy tờ liên quan đến quá trình khám chữa bệnh của bệnh viện hay 
biên bản khám nghiệm hiện trường của công an là quan trọng nhất. 
 Thứ hai là: Trong hồ sơ khiếu nại bồi thường phải có giấy chứng từ hay 
giấy chứng nhận thương tật, giấy khám bệnh và giấy ra viện của các cơ sở khám 
chữa bệnh hợp pháp do rủi ro được bảo hiểm liên quan đến tính mạng và tình 
LuËn v¨n tèt nghiÖp 
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B 46 
trạng sức khỏe của con người. Cho nên, khi khiếu nại bồi thường người được 
bảo hiểm hay người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm phải chứng minh được tổn 
thất của mình thông qua chứng nhận của những cơ quan y tế nơi người được bảo 
hiểm đến khám chữa bệnh. 
Thứ ba là: Do đối tượng bảo hiểm chính là tính mạng và sức khỏe con 
người cho nên phương án bồi thường là thanh toán bằng tiền và là một số tiền 
được ấn định từ trước trả cho người có quyền lợi bảo hiểm để bù đắp những 
thiệt hại tài chính của họ. Cần phải giải quyết khiếu nại nhanh chóng để chi trả 
cho người tham gia bảo hiểm kịp thời giúp họ ổn định về mặt tài chính cũng như 
về mặt tinh thần. 
 Thứ tư là: Trong bảo hiểm con người không áp dụng nguyên tắc thuế 
quyền người thứ ba truy đòi bồi thường cho nên trong công tác giám định bồi 
thường không cần phải quan tâm đến trách nhiệm người thứ ba. 
2. Thực trạng công tác giám định các nghiệp vụ bảo hiểm con người tại 
PJICO 
 Mục đích chính của công tác giám định và bồi thường thiệt hại là xác định 
nguyên nhân gây ra tổn thất có thuộc trách nhiệm bảo hiểm hay không, tính toán 
chính xác mức độ tổn thất thực tế và số tiền chi trả, bồi thường có thể thuộc 
trách nhiệm bảo hiểm để có cơ sở giải quyết khiếu nại nhanh chóng, chính xác 
va công bằng cho khách hàng. Ngoài ra thông qua viẹc giám định có thể đề xuất 
với người được bảo hiểm những biện pháp nhằm hạn chế đến mức thấp nhất hậu 
quả của tổn thất đã xảy ra và ngăn ngừa những tổn thất phát sinh trong tương lai, 
giúp cho cán bộ khai thác làm tốt hơn công tác đánh giá rủi ro trước khi nhận 
bảo hiểm đối với những dịch vụ có tính chất tương tự. 
 Về phía công ty bảo hiểm phải có trách nhiệm giám định mọi tổn thất mà 
khách hàng thông báo cho công ty một cách nhanh nhất. Trong quá trình giám 
định, để tạo điều kiện thuận lợi cho việc giám định được nhanh chóng, chính xác 
thì giám định viên phải tạo không khí tin cậy và hợp tác, nhưng tuyệt đối không 
đưa ra bất kỳ cam kết nào về số tiền chi trả hoặc thông báo cho khách hàng về 
cách tính toán số tiền chi trả để tránh trường hợp khách hàng đưa ra thông tin sai 
lệch. Về phía người được bảo hiểm phải có trách nhiệm kê khai trung thực, đầy 
đủ các điều quy định trong yêu cầu bảo hiểm và nộp phí bảo hiểm đúng, đủ theo 
quy định tại hợp đồng bảo hiểm, trung thực trong việc khai báo, cung cấp các 
chứng từ chính xác về rủi ro được bảo hiểm xảy ra. 
LuËn v¨n tèt nghiÖp 
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B 47 
 Để có được cái nhìn toàn diện hơn về thực trạng công tác giám định tại 
PJICO, ta đi sâu vào các hoạt động cụ thể sau: 
2.1. Tiếp nhận thông tin khiếu nại từ khách hàng 
 Trong các nghiệp vụ bảo hiểm con người để bảo đảm quyền lợi cũng như 
giúp cho người tham gia nhanh chóng được ổn định về mặt tài chính, PJICO yêu 
cầu người được bảo hiểm hoặc người có quyền lợi bảo hiểm phải thông báo 
khiếu nại cho công ty một cách nhanh nhất trong một thời hạn nhất định đã được 
quy định khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. 
 Thông thường người tham gia bảo hiểm tại văn phòng, đại lý nào thì phải 
thông báo khiếu nại trả tiền bảo hiểm ở tại đó. Việc thông báo có thể thực hiện 
bằng nhiều cách như đến trực tiếp thông báo, thông báo bằng văn bản, điện tín, 
fax nhưng phổ biến nhất là thông báo bằng điện thoại với các vụ tổn thất với các 
vụ nhỏ, trung bình và đến gặp trực tiếp với các vụ lớn. Trường hợp tiếp nhận 
thông tin về tai nạn con người ở mức độ nghiêm trọng, cán bộ tiếp nhận thông 
tin cần phải thông báo với cán bộ lãnh đạo để cấp trên xử lý tình hình. Sau khi 
nhận được thông báo khiếu nại của khách hàng, cán bộ bồi thường có thể tìm 
hiểu các thông tin về mức độ thiệt hại của khách hàng, xem xét nó có thuộc 
phạm vi trách nhiệm bảo hiểm hay không. Nếu trường hợp thiệt hại xảy ra được 
xác định không thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm thì phải thông báo chính 
thức bằng văn bản cho người được bảo hiểm kèm theo những giải thích thỏa 
đáng. 
 Trong các nghiệp vụ bảo hiểm con người, đối tượng bảo hiểm đông và họ 
thường ký kết hợp đồng lớn hoặc theo nhóm. Hợp đồng nhỏ có thể từ 50-100 
người tham gia như Xí nghiệp vận dụng toa xe khách (84người), Công ty xây 
lắp giao thông công chính (154 người) đến những hợp đồng có số lượng người 
tham gia tương đối lớn như các hợp đồng bảo hiểm học sinh, giáo viên có thể từ 
400-600 người như PTCS Tân Định (573 người), Trường PTTH Hai Bà Trưng( 
452 người)…Đặc biệt có hợp đồng bảo hiểm cho người lao động lên đến mấy 
nghìn người của công ty Honda Việt Nam (4.475 người). Địa bàn hoạt động rất 
rộng, do đó việc thông tin khiếu nại cho cán bộ bảo hiểm thường thông qua đại 
lý. Thường thì mỗi một đơn vị tham gia theo nhóm lớn như trên sẽ có một người 
đại diện đứng ra lập danh sách thu tiền bảo hiểm và sẽ chịu trách nhiệm với tư 
cách là một đại lý bảo hiểm, ăn hoa hồng. Người đại lý này có thể là kế toán của 
công ty hay có thể là cán bộ y tế tại các đơn vị đó. Khi có bồi thường, cán bộ 
LuËn v¨n tèt nghiÖp 
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B 48 
bảo hiểm sẽ hướng dẫn khách hàng hoàn thiện đầy đủ các giấy tờ cần thiết trong 
hồ sơ bảo hiểm. Việc đầu tiên là lấy bản kê khai của khách hàng về rủi ro xảy ra 
qua việc khai báo trong " Giấy yêu cầu trả tiền bảo hiểm" do PJICO cung 
cấp.Theo nguyên tắc, người được bảo hiểm có trách nhiệm khai báo trung thực, 
chính xác về rủi ro được bảo hiểm xảy ra bao gồm tên, địa chỉ, ngày tai nạn xảy 
ra, nguyên nhân tai nạn ( khai báo cụ thể, chi tiết bị tai nạn…), hậu quả…Bản 
khai này phải có xác nhận của nhà trường hoặc chính quyền nơi xảy ra tai nạn và 
người tham gia bảo hiểm hoặc người đại diện của họ phải kí xác nhận về lời 
khai của mình nhằm phục vụ cho công tác giám định. 
 Mỗi bộ hồ sơ khỉếu nại các nghiệp vụ bảo hiểm con người bao gồm những 
chứng từ sau: 
1. Giấy yêu cầu trả tiền bảo hiểm (kèm xác nhận việc xảy ra) 
2. Giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc trích sao danh sách tham gia 
bảo hiểm. 
3. Các chứng từ y tế: giấy ra vào viện, phiếu điều trị, phiếu mổ 
(trường hợp có phẫu thuật) và các chứng từ y tế liên quan khác. 
4. Giấy báo tử của bệnh viện trong trường hợp chết. 
5. Giấy xác nhận quyền thừa kế hợp pháp. 
6. Tờ trình giải quyết bồi thường. 
7. Biên nhận tiền bảo hiểm. 
8. Bản thanh toán tiền bảo hiểm. 
9. Biên bản tai nạn. 
Theo yêu cầu PJICO trả tiền bảo hiểm, người được bảo hiểm hoặc người 
thừa hưởng tiền bảo hiểm phải gửi cho PJICO các chứng từ (1-5) trong vòng 
một tháng kể từ ngày người được bảo hiểm điều trị khỏi bệnh hoặc chết. 
Trường hợp người được bảo hiểm và người thừa hưởng tiền bảo hiểm có 
hành động không trung thực trong việc khai báo, thu thập các chứng từ trong hồ 
sơ bồi thường, PJICO có quyền xem xét lại hoặc phối hợp với các cơ quan chức 
năng để giải quyết. Tùy theo mức độ vi phạm của người được bảo hiểm và 
người thừa hưởng tiền bảo hiểm PJICO có quyền từ chối một phần hoặc toàn bộ 
LuËn v¨n tèt nghiÖp 
TrÇn Thu Hång -B¶o hiÓm K42B 49 
số tiền bảo hiểm. Trong trường hợp đương sự có dấu hiệu vi phạm pháp luật 
PJICO có trách nhiệm đề nghị cơ quan pháp luật xem xét, giải quyết. 
Do đối tượng tham gia đông, lại có hệ thống đại lý vận động tương đối tốt, 
cán bộ giám định không phải trực tiếp xuống hiện trường đối với tất cả các 
trường hợp mà có thể phối hợp với các đơn vị liên quan để lập hồ sơ tai nạn, 
bệnh tật tại phòng cảnh sát giao thông, bệnh viện, cơ quan...điều đó giúp cho 
công ty giảm được phần nào sự phức tạp do đi lại, tiết kiệm được chi phí, thời 
gian liên lạc. Đồng thời việc này cũng dẫn đến việc lập hồ sơ giả, không hợp lệ 
để đòi bồi thường. Do vậy cần sự có mặt của công tác xác minh hồ sơ. 
2.2 Xác minh hồ sơ 
Xem xét các giấy tờ có hợp lệ đầy đủ và trung thực không. Người giám 
định phải rất chú trọng đến nguyên nhân của tai nạn xảy ra. Đây là 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
Luận văn- Thực trạng và một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng công tác giải quyết khiếu nại trong bảo hiểm con .pdf