Tài liệu Luận văn Thực trạng và một số giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn tại ngân hàng công thương Hoàn Kiếm: Luận văn 
Thực trạng và một số giải 
pháp nhằm tăng cường huy 
động vốn tại Ngân Hàng 
Công Thương Hoàn Kiếm 
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 
LỜI NÓI ĐẦU 
 Mục tiêu mà Đảng và Nhà nước ta đặt ra cho đến năm 2020 là phải 
hoàn thành nhiệm vụ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước đưa Việt Nam 
từ một nước nông nghiệp trở thành một nước công nghiệp tiên tiến. 
 Để thục hiện được mục tiêu này thì vốn là một trong những yếu tố rất 
quan trọng, vốn là tiền đề cho sự tăng trưởng kinh tế, mức tăng trưởng kinh tế 
phụ thuộc vào qui mô và hiệu quả vốn đầu tư. Vì vậy để đáp ứng nhu cầu 
phát triển và cạnh tranh các doanh nghiệp việt nam cũng đòi hỏi phải được 
mở rộng, phát triển với quy mô ngày càng lớn, đổi mới dây truyền công nghệ, 
nâng cao chất lượng hàng hoá, dịch vụ, vươn lên cạnh tranh với hàng hoá, 
dịch vụ của các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Bởi vậy nhu cầu 
vốn đầu tư cho nền kinh tế ngày càng tăng. Một địa chỉ quen thuộc và tiện ích 
nhấ...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
96 trang | 
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1306 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Thực trạng và một số giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn tại ngân hàng công thương Hoàn Kiếm, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn 
Thực trạng và một số giải 
pháp nhằm tăng cường huy 
động vốn tại Ngân Hàng 
Công Thương Hoàn Kiếm 
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 
LỜI NÓI ĐẦU 
 Mục tiêu mà Đảng và Nhà nước ta đặt ra cho đến năm 2020 là phải 
hoàn thành nhiệm vụ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước đưa Việt Nam 
từ một nước nông nghiệp trở thành một nước công nghiệp tiên tiến. 
 Để thục hiện được mục tiêu này thì vốn là một trong những yếu tố rất 
quan trọng, vốn là tiền đề cho sự tăng trưởng kinh tế, mức tăng trưởng kinh tế 
phụ thuộc vào qui mô và hiệu quả vốn đầu tư. Vì vậy để đáp ứng nhu cầu 
phát triển và cạnh tranh các doanh nghiệp việt nam cũng đòi hỏi phải được 
mở rộng, phát triển với quy mô ngày càng lớn, đổi mới dây truyền công nghệ, 
nâng cao chất lượng hàng hoá, dịch vụ, vươn lên cạnh tranh với hàng hoá, 
dịch vụ của các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Bởi vậy nhu cầu 
vốn đầu tư cho nền kinh tế ngày càng tăng. Một địa chỉ quen thuộc và tiện ích 
nhất mà người cần vốn nghĩ đến đó là các Ngân hàng thương mại. 
 Vốn cho đầu tư phát triển có thể được tạo thành từ nhiều nguồn, tuy 
nhiên trong điều kiện thị trường tài chính nước ta đang trong giai đoạn bước 
đầu hình thành và phát triển thì huy động vốn qua kênh ngân hàng vẫn là phổ 
biến và hiệu quả nhất. Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp đặc biệt 
chuyên kinh doanh tiền tệ, hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại 
vừa với danh nghĩa là một tổ chức hạch toán kinh tế - kinh doanh, vừa với vai 
trò trung gian tài chính. Với vai trò trung gian tài chính, Ngân hàng thương 
mại tập trung mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế và phân 
phối chúng cho các nhu cầu đầu tư, sản xuất kinh doanh và các nhu cầu khác 
của các doanh nghiệp và cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế theo các nguyên 
tắc tín dụng. 
 Nhu cầu vốn đầu tư ngày càng tăng của nền kinh tế cũng tương đương 
với việc huy động vốn của các Ngân hàng thương mại phải được tăng cường, 
mở rộng cho phù hợp. Mặt khác việc tăng cường huy động và sử dụng vốn 
hợp lý cũng giúp cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng được an toàn, 
hiệu quả hơn. 
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 
 Cùng với sự phát triển chung của nền kinh tế, nhu cầu về vốn ngày càng 
tăng và đòi hỏi phải được đáp ứng nhanh chóng kịp thời. Do vậy, trong thời 
gian tới để phát huy hơn nữa vai trò của mình và đáp ứng cho sự phát triển 
của nền kinh tế cũng như cho chính bản thân hệ thống ngân hàng, việc huy 
động vốn cho kinh doanh trong tương lai chắc chắn sẽ được đặt lên hàng đầu 
đối với các ngân hàng thương mại và NHCT Hoàn Kiếm cũng không là ngoại 
lệ. Vấn đề tìm ra những giải pháp để hoàn thiện công tác huy động vốn là rất 
thiết thực và cấp bách. 
 Nhận thức được tầm quan trọng đó, với những kiến thức đã được học ở 
trường, cùng với những kiến thức thu nhận được trong thời gian thực tập, tìm 
hiểu tình hình thực tế tại NHCT Hoàn Kiếm vừa qua, em đã mạnh dạn chọn 
đề tài: “Một số giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn tại Ngân Hàng 
Công Thương Hoàn Kiếm ”. Làm luận văn tốt nghiệp cho mình. 
Luận văn được trình bày theo 3 chương với nội dung cơ bản như sau: 
Chương I : Hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại. 
Chương II : Thực trạng huy động vốn tại Ngân hàng Công Thương Hoàn 
Kiếm. 
Chương III : Một số giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn tại Ngân 
Hàng Công Thương Hoàn Kiếm. 
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 
CHƯƠNG I 
HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG 
THƯƠNG MẠI 
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NHTM. 
Ngân hàng thương mại (NHTM) ra đời và phát triển gắn liền với các 
hoạt động sản xuất kinh doanh của nhân dân và nền kinh tế. Trong các nước 
phát triển hầu như không có một công dân nào là không có quan hệ giao dịch 
với một Ngân hàng thương mại nhất định nào đó. NHTM được coi như là 
một định chế tài chính quen thuộc trong đời sống kinh tế. Khi nền kinh tế 
càng phát triển thì hoạt động dịch vụ của Ngân hàng càng đi sâu vào tận cùng 
những ngõ ngách của nền kinh tế và đời sống con người. Mọi công dân đều 
chịu tác động từ các hoạt động của Ngân hàng, dù họ chỉ là khách hàng gửi 
tiền, một người vay hay đơn giản là người đang làm việc cho một doanh 
nghiệp có vay vốn và sử dụng các dịnh vụ Ngân hàng. 
Ngân hàng thương mại là một sản phẩm độc đáo của nền sản xuất hàng 
hoá trong kinh tế thị trường, một tổ chức có tầm quan trọng đặc biệt trong 
nền kinh tế. Bản chất, chức năng, các hoạt động nghiệp vụ của các ngân hàng 
hầu như là giống nhau song quan niệm về ngân hàng lại không đồng nhất 
giữa các nước trên thế giới. 
1.1.1. NHTM và vai trò của NHTM đối với sự phát triển của nền kinh tế. 
1.1.1.1. Khái niệm. 
 Để đưa ra được một khái niệm chính xác và tổng quát nhất về NHTM, 
người ta thường phải dựa vào tính chất và mục đích hoạt động của nó trên thị 
trường tài chính, và đôi khi còn kết hợp tính chất, mục đích và đối tuợng hoạt 
động. Ví dụ: Theo Luật Ngân hàng của Pháp, năm 1941 định nghĩa: “Ngân 
hàng là những xí nghiệp hay cơ sở nào hành nghề thường xuyên nhận của 
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 
công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác số tiền mà họ dùng 
cho chính họ vào các nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính”. 
Hay theo như Luật Ngân hàng của Ấn Độ năm 1959 đã nêu: “ Ngân hàng là 
cơ sở nhận các khoản tiền ký thác để cho vay hay tài trợ, đầu tư”... 
Như vậy, mặc dù có nhiều cách thể hiện khác nhau về định nghĩa 
NHTM, nó tuỳ thuộc vào tập quán pháp luật của từng quốc gia, từng vùng 
lãnh thổ nhưng khi đi sâu phân tích, khai thác nội dung của từng định nghĩa 
đó, người ta dễ dàng nhận thấy rằng: Tất cả các NHTM đều có chung một 
tính chất đó là việc nhận tiền ký thác - tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn, để 
sử dụng vào các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu và các dịch vụ kinh doanh 
khác của chính Ngân hàng. 
Trên thế giới các ngân hàng thương mại hoạt động với chức năng, 
nghiệp vụ khá giống nhau, đó là việc: nhận tiền gửi ký thác, tiền gửi không 
kỳ hạn và có kỳ hạn để sử dụng vào các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu và các 
nghiệp vụ kinh doanh khác của chính ngân hàng. Để phân loại các Ngân hàng 
thương mại ta có thể dựa trên các tiêu chi sau: 
* Căn cứ vào hình thức sở hữu: Các Ngân hàng thương mại được phân thành: 
- Ngân hàng sở hữu tư nhân: Là ngân hàng được thành lập bằng vốn của một 
cá nhân. Đây là các ngân hàng nhỏ, thường chỉ hoạt động trong phạm vi một 
địa phương với đối tượng phục vụ chủ yếu là những người trong địa phương. 
- Ngân hàng sở hữu của các cổ đông: Là ngân hàng được hình thành từ nguồn 
vốn thông qua tập trung phát hành cổ phiếu. Những người nắm giữ cổ phiếu 
này chính là những người chủ của ngân hàng. Họ có quyền tham gia vào các 
hoạt động của ngân hàng và được chia lãi cổ tức. Do huy động từ nhiều người 
nên các ngân hàng này có vốn chủ sở hữu lớn, có các hình thức kinh doanh 
đa dạng. 
- Ngân hàng sở hữu nhà nước: Là loại hình ngân hàng có vốn chủ sở hữu 
thuộc về Nhà nước. Đây là loại hình ngân hàng có thể nói là an toàn nhất, rất 
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 
ít khi bị phá sản. Tuy nhiên, các ngân hàng này nhiều khi phải thực hiện 
những nhiệm vụ nhà nước giao, ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của 
ngân hàng. 
* Căn cứ theo tính chất hoạt động 
- Ngân hàng chuyên doanh và ngân hàng đa năng. 
Ngân hàng chuyên doanh là ngân hàng hoạt động theo hướng chuyên 
doanh, thường chỉ cung cấp một số dịch vụ ngân hàng nhất định. 
Ngân hàng đa năng là ngân hàng cung cấp mọi dịch vụ ngân hàng. Đây 
là xu hướng chủ yếu hiện nay của các ngân hàng thương mại. 
- Ngân hàng bán buôn và ngân hàng bán lẻ. 
Ngân hàng bán buôn là loại hình ngân hàng mà hoạt động của nó chủ 
yếu thực hiện đối với các khách hàng lớn. Số lượng các giao dịch của ngân 
hàng bán buôn nhỏ song về giá trị một dịch vụ lại lớn. 
Ngân hàng bán lẻ là loại hình ngân hàng mà hoạt động chủ yếu của nó 
thực hiện đối với các khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khách hàng 
cá nhân. Số lượng các giao dịch của ngân hàng bán lẻ lớn song giá trị một 
giao dịch thường nhỏ. 
* Căn cứ theo cơ cấu tổ chức 
Ngân hàng sở hữu công ty và ngân hàng không sở hữu công ty. Sự 
phân chia này là do pháp luật ở nhiều nước cấm không cho ngân hàng trực 
tiếp tham gia vào một số hoạt động kinh doanh như: buôn bán chứng khoán, 
bất động sản... nên các ngân hàng tổ chức ra các công ty riêng, có tư cách 
pháp nhân để kinh doanh. 
Việt Nam, với việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, thực hiện 
nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ 
nghĩa, mọi người được tự do kinh doanh, bình đẳng trước pháp luật. Nhà 
nước ta quan niệm: (Theo điều 20 Luật các Tổ chức tín dụng của Việt nam 
ban hành 02/ 1997/QH 10) “Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp được 
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 
thành lập theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật để 
hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ Ngân hàng với nội dung nhận tiền 
gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán”. 
*Hiện nay, ở Việt Nam có các loại hình ngân hàng sau: 
- Ngân hàng thương mại quốc doanh: Đây là các ngân hàng giữ vai trò chủ 
đạo trong hệ thống ngân hàng ở nước ta. Các ngân hàng này được nhà nước 
cấp vốn và hoạt động chịu sự quản lý của nhà nước. Ngoài việc tiến hành 
kinh doanh bình thường: huy động vốn, cho vay và các dịch vụ khác, ngân 
hàng còn phải thực hiện các nhiệm vụ khi nhà nước giao cho. Hiện nay có 
các ngân hàng thương mại quốc doanh sau: Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát 
triển nông thôn, Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam, Ngân hàng Công 
Thương Việt Nam, Ngân hàng Đầu Tư và Phát triển Việt Nam, Ngân hàng 
chính sách xã hội, Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long. 
- Ngân hàng thương mại cổ phần: Đây là các ngân hàng được thành lập và 
hoạt động theo luật công ty cổ phần. Sở hữu ngân hàng là các cổ đông, họ 
cùng nhau góp vốn để hình thành và hoạt động theo quy định của pháp luật. 
- Ngân hàng liên doanh: Là ngân hàng được thành lập trên cơ sở hợp đồng 
liên doanh. Vốn điều lệ là vốn góp của bên ngân hàng Việt Nam và bên ngân 
hàng nước ngoài, có trụ sở chính tại Việt Nam và chịu sự điều chỉnh của pháp 
luật Việt Nam. 
- Chi nhánh ngân hàng nước ngoài: Là một bộ phận của ngân hàng nước 
ngoài (ngân hàng nguyên xứ) hoạt động tại Việt Nam, chịu sự điều chỉnh của 
pháp luật Việt Nam. 
- Ngân hàng đầu tư: Ngân hàng đầu tư hoạt động với mục tiêu đầu tư trung và 
dài hạn, cũng vì sự phát triển nhưng thông qua hình thức đầu tư gián tiếp 
thông qua các giấy tờ có giá. 
- Ngân hàng phát triển: Ngân hàng phát triển có nét đặc trưng nổi bật là 
những ngân hàng này tập trung vốn huy động trung, dài hạn và đầu tư trung, 
dài hạn vì sự phát triển. Hoạt động đầu tư của loại ngân hàng này chủ yếu đầu 
tư trực tiếp qua các dự án. 
- Ngân hàng chính sách: Là những ngân hàng thương mại 100% vốn Nhà 
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 
nước hoặc ngân hàng thương mại cổ phần Nhà nước( gồm sở hữu Nhà nước 
và sở hữu của các tổ chức kinh tế quốc doanh) được lập ra để phục vụ những 
chính sách của Nhà nước. Loại ngân hàng này không hoạt động vì mục tiêu 
lợi nhuận. 
-Ngân hàng hợp tác: Ngân hàng hợp tác hay gọi rộng ra là những tổ chức tín 
dụng hợp tác, là những tổ chức tín dụng thuộc sở hữu tập thể, được các thành 
viên tự nguyện lập lên không phải vì mục tiêu lợi nhuận mà vì mục tiêu 
tương trợ lẫn nhau về vốn và dịch vụ ngân hàng. 
1.1.1.2. Vai trò của NHTM đối với sự phát triển của nền kinh tế 
a. Ngân hàng là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế 
 Ngân hàng thương mại ra đời là tất yếu của nền sản xuất hàng hoá. Sản 
xuất hàng hoá phát triển, lưu thông hàng hoá ngày càng mở rộng, trong xã hội 
xuất hiện người thì có vốn nhàn rỗi, ngượi thì cần vốn để tiến hành các hoạt 
động sản xuất kinh doanh. Điều này giải quyết bằng cách nào? NH thương 
mại ra đời là chìa khoá giúp cho người cần vốn có được vốn và người có vốn 
tạm thời nhàn rỗi có thể kiếm được lãi từ vốn. Các ngân hàng cũng cân đối 
được vốn trong nền kinh tế giúp cho các thành phần kinh tế cùng nhau phát 
triển. Các ngân hàng đứng ra huy động vốn tạm thời nhàn rỗi từ các doanh 
nghiệp, các cá nhân sau đó sẽ cung ứng lại cho nơi cần vốn để tiến hành tái 
sản xuất với trang thiết bị hiện đại hơn, tạo ra sản phẩm tốt hơn. có lợi nhuận 
cao hơn. Xã hội càng phát triển nhu cầu vốn cần cho nền kinh tế càng tăng, 
không một tổ chức nào có thể đáp ứng được. Chỉ có ngân hàng - một tổ chức 
trung gian tài chính mới có thể đứng ra điều hoà, phân phối vốn giúp cho tất 
cả các thành phần kinh tế cùng nhau phát triển nhịp nhàng, cân đối. 
b. Ngân hàng là cầu nối giữa doanh nghiệp và thị trường 
 Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp không phải là cứ sản 
xuất bất cứ cái gì mà phải luôn trả lời được 3 câu hỏi: sản xuất cái gì? sản 
xuất như thế nào ? và sản xuất cho ai? Có nghĩa là sản xuất theo tín hiệu của 
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 
thị trường. Thị trường yêu cầu các doanh nghiệp phải sản xuất ra các sản 
phẩm với chất lượng tốt hơn, mẫu mã đẹp hơn, phù hợp với thị hiếu của 
người tiêu dùng. Để được như vậy các doanh nghiệp phải được đầu tư bằng 
dây truyền công nghệ hiện đại, trình độ cán bộ, công nhân lao động phải được 
nâng cao... Những hoạt động này đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng 
vốn đầu tư lớn và để đáp ứng được thì chỉ có các ngân hàng. Ngân hàng sẽ 
giúp cho các doanh nghiệp thực hiện được các cải tiến của mình, có được các 
sản phẩm có chất lượng, giá thành rẻ, nâng cao năng lực cạnh tranh. 
c. NHTM là công cụ đièu tiết vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước. 
Trong nền kinh tế thị trường, NHTM với tư cách là trung tâm tièn tệ 
của toàn bộ nền kinh tế, đảm bảo sự phát tiển hài hoà cho tất cả các thành 
phần kinh tế khi tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh, có thể nói mỗi sự 
giao động của Ngân hàng đều gây ảnh hưởng ít nhiều đến các thành phần 
kinh tế khác. Do vậy sự hoạt động có hiệu quả của NHTM thông qua các 
nghiệp vụ kinh doanh của nó thực sự là công cụ tốt để Nhà nứơc tiến hành 
điều tiết vĩ mô nền kinh tế. 
Thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các Ngân hàng trong 
hệ thống, NHTM đã trực tiếp góp phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng 
trong lưu thông. Mặt khác với việc cho các thành phần trong nền kinh tế vay 
vốn, NHTM đã thực hiện việc dẫn dắt các luồng tiền, tập hợp và phân chia 
vốn của thị trường, điều kiển chúng một cách có hiệu quả, bảo đảm cung cấp 
đầy đủ kịp thời nhu cầu vốn cho quá trình tái sản xuất cũng như thực thi vai 
trò điều tiết gián tiếp vĩ mô nền kinh tế. 
d. Ngân hàng thương mại là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính 
quốc tế. 
Ngày nay, trong su hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới với việc 
hình thành hàng loạt các tổ chức kinh tế, các khu vực mậu dịch tự do, làm 
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 
cho các mối quan hệ thương mại, lưu thông hàng hoá giữa các quốc gia trên 
thế giới ngày càng được mở rộng và trở nên cần thiết, cấp bách. Nền tài chính 
của một quốc gia cần phải hoà nhập với nền tài chính thế giới. Các ngân hàng 
thương mại là trung gian, cầu nối để tiến hành hội nhập. Ngày nay, đầu tư ra 
nước ngoài là một hướng đầu tư quan trọng và mang lại nhiều lợi nhuận. 
Đồng thời các nước cần xuất khẩu những mặt hàng mà mình có lợi thế so 
sánh và nhập khẩu những mặt hàng mà mình thiếu. Các ngân hàng thương 
mại với những nghiệp vụ kinh doanh như : nhận tiền gửi, cho vay, bảo lãnh... 
và đặc biệt là các nghiệp vụ thanh toán quốc tế, đã góp phần tạo điều kiện, 
thúc đẩy ngoại thương không ngừng được mở rộng và phát triển. 
1.1.2. Các nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng thương mại 
NHTM hiện đại hoạt động với ba nghiệp vụ chính đó là: nghiệp vụ huy 
động vốn, nghiệp vụ sử dụng vốn và các nghiệp vụ trung gian khác. Ba 
nghiệp vụ này có quan hệ mật thiết, tác động hỗ trợ thúc đẩy nhau cùng phát 
triển, tạo nên uy tín và thế mạnh cạnh tranh cho các NHTM, các nghiệp vụ 
này đan xem lẫn nhau trong quá trình hoạt động của Ngân hàng, tạo nên một 
chỉnh thể thống nhất trong quá trình hoạt động kinh doanh của NHTM. 
1.1.2.1. Nghiệp vụ huy động vốn. 
Nghiệp vụ này phản ánh quá trình hình thành vốn cho hoạt động kinh 
doanh của NHTM, cụ thể bao gồm các nghiệp vụ sau: 
* Nghiệp vụ tiền gửi: 
Đây là nghiệp vụ phản ánh hoạt động Ngân hàng nhận các khoản tiền 
gửi từ các doanh nghiệp vào để thanh toán hoặc với mục đích bảo quản tài 
sản mà từ đó NHTM có thể huy động được. Ngoài ra NHTM cũng có thể huy 
động các khoản tiền nhàn rỗi của cá nhân hay các hộ gia đình được gửi vào 
ngân hàng với mục đích bảo quản hoặc hưởng lãi trên số tiền gửi. 
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 
* Nghiệp vụ phát hành giấy tờ có giá: 
 Các NHTM phần lớn sử dụng nghiệp vụ này để thu hút các khoản vốn 
có tính thời hạn tương đối dài và ổn định, nhằm đảm bảo khả năng đầu tư, 
khả năng cung cấp đủ các khoản tín dụng mang tính trung và dài hạn vào nền 
kinh tế. Hơn nữa, nghiệp vụ này còn giúp các NHTM giảm thiểu rủi ro và 
tăng cường tính ổn định vốn trong hoạt động kinh doanh. 
* Nghiệp vụ đi vay: 
Nghiệp vụ đi vay được các NHTM sử dụng thường xuyên nhằm mục 
đích tạo vốn kinh doanh cho mình bằng việc vay các tổ chức tín dụng trên thị 
trường tiền tệ và vay Ngân hàng nhà nước dưới các hình thức tái chiết khấu 
hay vay có đảm bảo... Trong đó các khoản vay từ Ngân hàng nhà nước chủ 
yếu nhằm tạo sự cân đối trong điều hành vốn của bản thân NHTM khi mà nó 
không tự cân đối được nguồn vốn trên cơ sở khai thác tại chỗ. 
* Nghiệp vụ huy động vốn khác: 
Ngoài ba nghiệp vụ huy động vốn cơ bản kể trên, NHTM còn có thể 
tạo vốn kinh doanh cho mình thông qua việc nhận làm đại lý hay uỷ thác vốn 
cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Đây là khoản vốn huy động 
không thường xuyên của NHTM, thường để nhận được khoản vốn này đòi 
hỏi các Ngân hàng phải lập ra các dự án cho từng đối tượng hoặc nhóm đối 
tượng phù hợp với đối tượng các khoản vay. 
* Vốn chủ sở hữu của NHTM : 
Đây là vốn thuộc quyền sở hữu của NHTM. Lượng vốn này chiếm tỷ 
trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng, song lại là điều kiện pháp lý 
bắt buộc khi bắt đầu thành lập ngân hàng. Do tính chất thường xuyên ổn định, 
ngân hàng có thể sử dụng nó vào các mục đích khác nhau như trang bị cơ sở 
vật chất, nhà xưởng, mua sắm tài sản cố định phục vụ cho bản thân 
ngân hàng, cho vay, đặc biệt là tham gia đầu tư góp vốn liên doanh. Trong 
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 
thực tế khoản vốn này không ngừng được tăng lên từ kết quả hoạt động kinh 
doanh của bản thân Ngân hàng mang lại. 
1.1.2.2. Nghiệp vụ sử dụng vốn. 
Đây là nghiệp vụ phản ánh quá trình sử dụng vốn của NHTM vào các 
mục đích khác nhau nhằm đảm bảo an toàn kinh doanh cũng như tìm kiếm lợi 
nhuận. Nghiệp vụ tài sản có bao gồm các nghiệp vụ cụ thể sau: 
* Nghiệp vụ ngân quỹ: 
Nghiệp vụ này phản ánh các khoản vốn của NHTM được dùng vào với 
mục đích nhằm đảm bảo an toàn về khả năng thanh toán hiện thời cũng như 
khả năng thanh toán nhanh của NHTM và thực hiện quy định về dự trữ bắt 
buộc do Ngân hàng Nhà nước đề ra. 
* Nghiệp vụ cho vay: 
 Cho vay là hoạt động quan trọng nhất của Ngân hàng thương mại. NH 
thương mại đi vay để cho vay, do đó có cho vay được hay không là vấn đề 
mà mọi NH thương mại đều phải tìm cách giải quyết. Thông thường lợi 
nhuận từ hoạt động cho vay này chiếm tới 65- 70% trong tổng lợi nhuận của 
ngân hàng. Nghiệp vụ cho vay có thể được phân loại bằng nhiều cách: theo 
thời gian có cho vay ngắn hạn, cho vay trung hạn và dài hạn, theo hình thức 
đảm bảo có cho vay có đảm bảo, cho vay không có đảm bảo, theo mục đích 
có cho vay bất động sản, cho vay thương mại, cho vay cá nhân, cho vay nông 
nghiệp, cho vay thuê mua... 
* Nghiệp vụ đầu tư tài chính: 
Bên cạnh nghiệp vụ tín dụng, các NHTM còn dùng số vốn huy động 
được từ dân cư, từ các tổ chức kinh tế - xã hội để đầu tư vào nền kinh tế dưới 
các hình thức như : hùn vốn, góp vốn, kinh doanh chứng khoán trên thị 
trường... và trực tiếp thu lợi nhuận trên các khoản đầu tư đó. 
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 
* Nghiệp vụ khác 
 Ngân hàng thương mại thực hiện các hoạt động king doanh như: kinh 
doanh ngoại tệ, vàng bạc và kim khí, đá quý; thực hiện các dịch vụ tư vấn, 
dịch vụ ngân quỹ; nghiệp vụ uỷ thác và đại lý; king doanh và dịch vụ bảo 
hiểm... 
1.1.2.3. Nghiệp vụ trung gian khác 
 Ngoài hai nghiệp vụ cơ bản trên ngân hàng còn thực hiện một số 
nghiệp vụ khác như: 
* Dich vụ trong thanh toán: Có thể nói ngân hàng là thủ quỹ của nền kinh tế. 
Các doanh nghiệp , tổ chức kinh tế sẽ không phải mất thời gian sau khi mua 
hoặc bán hàng hoá và dịch vụ bởi việc thanh toán sẽ được ngân hàng thực 
hiện một cách nhanh chóng và chính xác. 
* Dịch vụ tư vấn, môi giới: Ngân hàng đứng ra làm trung gian mua bán 
chứng khoán, tư vấn cho người đầu tư mua bán chứng khoán, bất động sản... 
* Các dịch vụ khác: Ngân hàng đứng ra quản lý hộ tài sản; giữ hộ vàng, tiền; 
cho thuê két sắt, bảo mật... 
1.2. VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 
1.2.1. Khái niệm về vốn của ngân hàng thương mại 
Ngân hàng thương mại là một tổ chức trung gian tài chính với các chức 
năng cơ bản là: trung gian tín dụng, trung gian thanh toán và chức năng tạo 
tiền.Để thực hiện được các chức năng này và đi vào hoạt động một cách có 
hiệu quả và có lợi nhuận thì đòi hỏi ngân hàng thương mại phải có một lượng 
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 
vốn hoạt động nhất định. 
 Các nhà kinh tế đã đưa ra khái niệm về vốn của NHTM như sau: 
 “ Vốn của ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do bản thân 
ngân hàng thương mại tạo lập hoặc huy động được dùng để cho vay, đầu tư 
hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác ”. 
Khái niệm trên đã nói đầy đủ những thành phần tạo nên vốn của ngân 
hàng thương mại. Về thực chất vốn của ngân hàng thương mại là bao gồm 
các nguồn tiền tệ của chính bản thân ngân hàng và của những người có vốn 
tạm thời nhàn rỗi. Họ chuyển tiền vào ngân hàng với các mục đích khác 
nhau: hoặc lấy lãi, hoặc nhờ thu, nhờ chi hay là dùng các sản phẩm dịch vụ 
khác của ngân hàng. Đây chính là họ chuyển quyền sử dụng vốn cho ngân 
hàng và số tiền mà ngân hàng phải trả hay làm các dịch vụ chính là cái giá 
của quyền sử dụng các giá trị tiền tệ đó. Nhờ việc có được nguồn vốn, các 
ngân hàng có thể tiến hành kinh doanh: cho vay, bảo lãnh, cho thuê...Nói 
chung vốn của ngân hàng chi phối toàn bộ và quyết định đối với việc thực 
hiện các chức năng của ngân hàng thương mại. 
1.2.2. Cơ cấu vốn của Ngân hàng thương mại 
Vốn của ngân hàng thương mại bao gồm: 
 - Vốn chủ sở hữu. 
 - Vốn huy động. 
 - Vốn đi vay. 
 - Vốn khác. 
Mỗi loại vốn đều có tính chất và vai trò riêng trong tổng nguồn vốn hoạt động 
của ngân hàng và đều có những tác động nhất định đến hoạt động kinh doanh 
của NHTM. 
1.2.2.1. Vốn chủ sở hữu 
Đây là nguồn vốn thuộc quyền sở hữu của chính ngân hàng, ngân hàng 
có toàn quyền sử dụng gồm các trang thiết bị, cơ sở vật chất, trang thiết bị, 
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 
nhà cửa...Đây là nguồn vốn khá quan trọng, trước hết nó tạo uy tín cho chính 
ngân hàng. Ngân hàng có to, đẹp, bề thế thì mới tạo được cảm giác an toàn 
kho khách hàng khi đến giao dịch. Đối với mỗi ngân hàng, nguồn hình thành 
và nghiệp vụ hình thành loại vốn rất đa dạng tuỳ theo tính chất sở hữu, năng 
lực tài chính của chủ ngân hàng, yêu cầu và sự phát triển của thị trường. 
a. Nguồn vốn hình thành ban đầu 
Trước khi tiến hành kinh doanh, theo quy định của pháp luật, ngân 
hàng phải có một lượng vốn nhất định, đó là vốn pháp định (hay vốn điều lệ). 
Tuỳ theo hình thức sở hữu, do nhà nước cấp nếu là ngân hàng quốc doanh, do 
cổ đông đóng góp nếu là ngân hàng cổ phần, do các bên đóng góp nếu là 
ngân hàng liên doanh và của cá nhân nếu là ngân hàng tư nhân. 
b. Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động 
Vốn chủ sở hữu của ngân hàng không ngừng được tăng lên theo thời 
gian nhờ có nguồn vốn bổ sung. Nguồn bổ sung này có thể từ lợi nhuận hay 
từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm...Nguồn vốn bổ sung này tuy 
không thường xuyên song đối với các ngân hàng lớn từ lâu đời thì nguồn bổ 
sung này chiếm một tỷ lệ rất lớn. 
c. Các quỹ 
Trong quá trình hoạt động, ngân hàng có nhiều quỹ. Mỗi quĩ có một 
mục đích riêng: Quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tổn thất, quỹ bảo toàn 
vốn, quỹ phúc lợi, quĩ khen thưởng...Nguồn để hình thành nên các quỹ là từ 
lợi nhuận. Các quỹ này thuộc toàn quyền sử dụng của ngân hàng. 
d. Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần 
Các khoản vay nợ trung và dài hạn, ổn định có khả năng chuyển đổi 
thành cổ phần thì được coi là một bộ phận vốn chủ sở hữu của ngân hàng. 
Ngân hàng có thể sử dụng vốn theo các mục đích kinh doanh của mình như 
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 
có thể đầu tư vào nhà cửa, đất đai và có thể không phải hoàn trả khi đến hạn. 
1.2.2.2. Vốn huy động 
Vốn huy động là bộ phận lớn nhất trong tổng nguồn vốn của ngân hàng 
thương mại. Với việc huy động vốn, ngân hàng có được quyền sử dụng vốn 
và có trách nhiệm phải hoàn trả cả gốc lẫn lãi đúng hạn cho người gửi. Ngân 
hàng có thể huy động vốn từ dân cư, các tổ chức kinh tế – xã hội... với nhiều 
hình thức khác nhau. 
a. Tiền gửi thanh toán ( tiền gửi giao dịch ) 
Đây là khoản tiền của các doanh nghiệp và cá nhân gửi vào ngân hàng 
với mục đích là sử dụng các dịch vụ thanh toán của ngân hàng. Khoản tiền 
gửi thanh toán này có thể được trả lãi ( trả lãi thấp ) hoặc không được trả lãi 
tuỳ thuộc vào mỗi ngân hàng. Người gửi tiền vào ngân hàng để nhờ ngân 
hàng thu hộ tiền, trả hộ tiền... với một mức phí thấp. Các ngân hàng có thể sử 
dụng các số dư tiền gửi khách hàng vào các hoạt động của mình. 
b. Tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội 
Nhiều doanh nghiệp, tổ chức xã hội có các hoạt động thu, chi tiền theo 
các chu kỳ xác định. Họ gửi tiền vào ngân hàng để hưởng lãi. Tuy khoản tiền 
này không tiện lợi bằng tiền gửi thanh toán ( do khi cần tiền phải đến ngân 
hàng để rút ) nhưng bù lại tiền gửi có kỳ hạn lại có lãi suất cao hơn tuỳ theo 
độ dài của kỳ hạn được ghi trên hợp đồng. 
c. Tiền gửi tiết kiệm của dân cư 
Trong cộng đồng dân cư luôn có những người có khoản tiền tạm thời 
nhàn rỗi. Họ gửi tiền vào ngân hàng nhằm thực hiện các mục đích bảo toàn 
và sinh lời đối với những khoản tiền đó. Người gửi tiết kiệm sẽ có sổ tiết 
kiệm xác định rõ thời gian và hình thức trả lãi đã thoả thuận với ngân hàng. 
Hiện nay tiền gửi tiết kiệm là khu vực tiềm năng đồng thời là nơi cạnh tranh 
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 
gay gắt giữa các ngân hàng, để thu hút nguồn tiền này các ngân hàng luôn 
đưa ra các hình thức huy động đa dạng như tiết kiệm bằng VNĐ, bằng vàng 
và bằng ngoại tệ, với lãi suất cạnh tranh hấp dẫn và với nhiều kỳ hạn để 
người gửi có nhiều cơ hội lựa chọn cho phù hợp, tiện ích nhất. 
d. Tiền gửi của các ngân hàng khác 
Đây là nguồn tiền gửi có qui mô thường nhỏ, giữa các ngân hàng luôn 
có tiền gửi của nhau. Mục đích của việc gửi tiền này là để đảm bảo thanh 
toán thuận tiện, phục vụ tối đa lợi ích cho khách hàng của mình. 
1.2.2.3. Vốn đi vay 
Bên cạnh việc huy động tiền gửi, nhiều lúc các ngân hàng cũng phải đi 
vay để đảm bảo thanh toán, đảm bảo dự trữ bắt buộc... Các ngân hàng có thể 
vay ở: 
a. Vay ngân hàng Nhà nước ( ngân hàng trung ương ) 
Khi các ngân hàng thương mại có nhu cầu cấp bách về vốn thì người 
dang tay cứu giúp sẽ là ngân hàng trung ương. Hình thức vay chủ yếu là tái 
chiết khấu ( hay tái cấp vốn ). Các ngân hàng thương mại sẽ mang các trái 
phiếu mà mình đã chiết khấu lên ngân hàng trung ương để tái chiết khấu. 
Thông thường các ngân hàng trung ương chỉ cho tái chiết khấu những trái 
phiếu có chất lượng, thời hạn ngắn và phù hợp với mục tiêu của Nhà nước 
trong từng thời kỳ. 
b. Vay các tổ chức tín dụng khác 
Đây là các khoản vay mượn lẫn nhau giữa các ngân hàng hoặc giữa 
ngân hàng với các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Hình 
thức vay này rất đơn giản, ngân hàng vay chỉ cần liên hệ trực tiếp với ngân 
hàng cho vay hoặc thông qua ngân hàng đại lý. Các khoản vay có thể không 
cần thế chấp hoặc thế chấp bằng các chứng khoán của kho bạc. Các khoản 
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 
vay này thông thường có thời hạn ngắn chủ yếu chỉ để giải quyết những nhu 
cầu tức thời. 
c. Vay trên thị trường vốn 
Các ngân hàng có thể phát hành giấy nợ (kỳ phiếu, tín phiếu, trái 
phiếu) trên thị trường vốn để huy động vốn trung và dài hạn nhằm đáp ứng 
các nhu cầu cho vay trung và dài hạn và các nhu cầu đầu tư khác. Những 
ngân hàng lớn có uy tín hoặc trả lãi cao sẽ có khả năng vay được nhiều hơn 
các ngân hàng nhỏ. Các ngân hàng nhỏ thường vay gián tiếp thông qua các 
ngân hàng đại lý hoặc được sự bảo lãnh của ngân hàng đầu tư. Khả năng vay 
mượn này phụ thuộc nhiều vào trình độ phát triển của thị trường tài chính, 
các hình thức phát hành, chuyển đổi, thời hạn của các công cụ nợ... 
1.2.2.4. Vốn khác 
a. Nguồn uỷ thác 
Ngân hàng thương mại thực hiện các dịch vụ uỷ thác qua đó làm tăng 
nguồn vốn của ngân hàng như uỷ thác đầu tư, uỷ thác cho vay, uỷ thác cấp 
phát, uỷ thác giải ngân và thu hộ... 
b. Nguồn trong thanh toán 
Các khoản thanh toán không dùng tiền mặt như: L/C, uỷ nhiệm thu, uỷ 
nhiệm chi... hay ngân hàng là đầu mối trong đồng tài trợ cũng giúp ngân hàng 
làm tăng nguồn vốn của mình. 
c. Nguồn khác 
Gồm các khoản phải nộp, phải trả như: thuế chưa nộp, lương chưa trả... 
1.2.3. Vai trò của hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại. 
1.2.3.1.Đối với toàn bộ nền kinh tế 
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 
Tiết kiệm và đầu tư là những cơ sở nền tảng của nền kinh tế. Tiết kiệm 
và đầu tư có mối quan hệ nhân quả, tiết kiệm góp phần thúc đẩy, mở rộng 
phát triển sản xuất kinh doanh, tăng cường đầu tư và đầu tư cũng góp phần 
khuyến khích tiết kiệm. Nhưng trong nền kinh tế các khoản tiết kiệm thường 
nhỏ, lẻ và người tiên phong trong việc tập hợp vốn hiệu quả nhất chính là các 
ngân hàng thương mại. Thông qua các kênh huy động vốn, các khoản tiết 
kiệm chuyển thành đầu tư góp phần làm tăng hiệu quả của nền kinh tế. 
Đối với những người có vốn nhàn rỗi: Việc huy động vốn của ngân 
hàng trước hết sẽ giúp cho họ những khoản tiền lãi hay có được các dịch vụ 
thanh toán đồng thời các khoản tiền không bị chết, luôn được vận động, quay 
vòng. 
 Đối với những người cần vốn: Họ sẽ có cơ hội mở rộng đầu tư, phát 
triển sản xuất kinh doanh từ chính nguồn vốn huy động của ngân hàng. 
Việc huy động vốn của ngân hàng giúp cho nền kinh tế có được sự cân 
đối về vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Các cơ hội đầu tư luôn có điều 
kiện để thực hiện. Quá trình tái sản xuất mở rộng sẽ được thực hiện dễ dàng 
hơn với việc huy động vốn của các ngân hàng thương mại. Tuy việc huy 
động vốn có thể thực hiện bằng nhiều kênh: thị trường chứng khoán, ngân 
sách nhà nước...nhưng trong điều kiện nước ta hiện nay thì huy động vốn qua 
các ngân hàng thương mại vẫn là hình thức chủ yếu và quan trọng nhất. 
1.2.3.2. Đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại. 
a. Vốn là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh 
Để bước vào hoạt động kinh doanh thì đầu tiên ngân hàng phải cần có 
vốn. Ngoài lượng vốn bắt buộc phải có, ngân hàng phải huy động từ các 
nguồn khác. Ngân hàng đi vay để cho vay. Vậy để có hoạt động cho vay thì 
phải có thứ để mà cho vay. Nguồn vốn phản ánh tiềm năng và sức mạnh của 
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 
ngân hàng. Đối với những ngân hàng lớn, việc tham gia tài trợ cho những dự 
án lớn luôn dễ dàng hơn các ngân hàng nhỏ. Vốn không chỉ là phương tiện 
kinh doanh mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu của ngân hàng thương 
mại. Nói cách khác, không có vốn thì ngân hàng không thể thực hiện được 
các nghiệp vụ kinh doanh của mình. 
b. Vốn quyết định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động khác của 
ngân hàng. 
Hoạt động tín dụng của ngân hàng phụ thuộc vào vốn của ngân hàng. 
Ngân hàng có nhiều vốn sẽ có ưu thế cạnh tranh hơn so với ngân hàng ít vốn. 
Có được nhiều vốn ngân hàng sẽ có điều kiện để đưa ra các hình thức tín 
dụng linh hoạt, có điều kiện để hạ lãi suất từ đó sẽ làm tăng quy mô tín dụng. 
Các ngân hàng lớn, nhiều vốn thường có rất nhiều các dịch vụ ngân hàng. 
Phạm vi hoạt động kinh doanh của họ sẽ rộng hơn nhiều các ngân hàng nhỏ. 
Chính vì vậy càng khẳng định rõ tầm quan trọng của vốn trong hoạt động 
kinh doanh của ngân hàng. 
c. Vốn quyết định khả năng thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân hàng trên 
thương trường 
Các ngân hàng lớn trên thế giới là các ngân hàng có uy tín, luôn được 
ca ngợi và nể trọng. Điều kiện đầu tiên để xây dựng được uy tín của ngân 
hàng chính là vốn của ngân hàng. Có nhiều vốn, khả năng thanh toán của 
ngân hàng luôn được đảm bảo, các khách hàng luôn cảm thấy yên tâm khi 
giao thiệp với ngân hàng. Trong nên kinh tế bất ổn hiện nay, khả năng thanh 
toán luôn được các ngân hàng ưu tiên hàng đầu và để được như vậy thì các 
ngân hàng luôn tìm cách huy động được nhiều vốn hơn. 
d. Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng 
Trong thời đại kinh tế cạnh tranh khốc liệt như hiện nay, vốn là điều 
kiện để các ngân hàng tham gia cạnh tranh. Nó giúp cho ngân hàng mở rộng 
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 
quy mô hoạt động, tăng cường quan hệ với các đối tác. Đồng thời nó lôi kéo 
khách hàng mới, giữ chân các khách hàng truyền thống. Doanh số của ngân 
hàng tăng lên đồng thời làm tăng nguồn vốn của ngân hàng. Vốn của ngân 
hàng lớn giúp cho ngân hàng có khả năng tài chính dồi dào để cạnh tranh với 
các ngân hàng khác: hạ lãi suất, linh hoạt về thời hạn tín dụng, hình thức trả 
lãi...Các dịch vụ ngân hàng sẽ ngày càng được cải tiến, phát triển và được 
thực hiện tốt hơn. 
1.3. CÁC HÌNH THỨC HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG 
THƯƠNG MẠI 
Một hoạt động không thể thiếu của các ngân hàng thương mại là tiến 
hành huy động vốn để ngân hàng đi vào hoạt động. Quá trình huy động vốn 
đó hầu như đều giống nhau ở các ngân hàng nhưng để phân loại các hình thức 
huy động thì lại rất khác nhau. Điều này còn phụ thuộc vào các tiêu chí được 
lựa chọn để phân loại. 
1.3.1. Phân loại căn cứ theo thời gian 
Phân loại theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì nó 
liên quan mật thiết đến tính an toàn và khả năng sinh lợi của nguồn vốn huy 
động cũng như thời gian phải hoàn trả khách hàng. Theo thời gian, hình thức 
huy động được chia thành: 
1.3.1.1. Huy động ngắn hạn 
Đây là hình thức huy động chủ yếu trong các ngân hàng thương mại 
thông qua việc phát hành các công cụ nợ ngắn hạn trên thị trường tiền tệ và 
các nghiệp vụ nhận tiền gửi ngắn hạn, tiền gửi thanh toán....Phần lớn số này 
được dùng để cho vay ngắn hạn ( dưới 1 năm ) hoặc được chuyển hoán kỳ 
hạn để thực hiện cho vay trung hạn. Do thời gian ngắn nên lãi suất huy động 
ngắn hạn thường thấp, tuy nhiên tính ổn định lại kém. 
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 
1.3.1.2. Huy động trung hạn 
Đây là nguồn huy động vốn ngân hàng qua phát hành các công cụ nợ 
trung hạn trên thị trường vốn hoặc nhận tiền gửi trung hạn (từ 1 đến 5 năm). 
Vốn huy động này ngân hàng có thể sử dụng tương đối dài và thuận tiện. Tuy 
nhiên lãi suất huy động nguồn này thường cao hơn nguồn ngắn hạn. Nguồn 
huy động trung hạn rất quan trọng và cần thiết để ngân hàng thực hiện các 
hoạt động đầu tư, thay đổi công nghệ và cho vay trung, dài hạn với lãi suất 
cao. 
1.3.1.3. Huy động dài hạn 
Đây là hoạt động huy động vốn dài hạn của ngân hàng trên thị trường 
vốn, với nguồn huy động này ngân hàng có thể sử dụng dễ dàng, có tính ổn 
định cao ( từ 5 năm trở lên ). Do vậy lãi suất mà ngân hàng phải trả cũng rất 
cao. 
1.3.2. Phân loại căn cứ theo đối tượng huy động 
1.3.2.1. Huy động vốn từ dân cư 
Đây là một khu vực huy động đầy tiềm năng cho các ngân hàng. Ngân 
hàng huy động từ các khoản tiền nhàn rỗi của dân chúng và sau đó chuyển 
đến cho những người cần vốn để mở rộng đầu tư, kinh doanh. Nguồn huy 
động từ dân cư thường khá ổn định . 
1.3.2.2. Huy động vốn từ các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội 
Đây là nguồn huy động được đánh giá là rất lớn, chiếm tỷ trọng cao 
trong tổng nguồn vốn. Để tiết kiệm thời gian và chi phí trong thanh toán, các 
doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ hầu hết đều có tài khoản trong ngân hàng. Các 
doanh nghiệp khi bán được hàng hoá đều gửi tiền vào ngân hàng và rút ra khi 
cần. Chu kỳ rút tiền của các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội không giống 
nhau. Vì vậy ngân hàng luôn có trong tay một khoản tiền lớn mà mình có thể 
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 
sử dụng một cách tương đối thuận lợi. Tuy nhiên độ lớn của khoản tiền này 
phụ thuộc nhiều vào các dịch vụ, các tiện ích mà ngân hàng mang lại khi 
khách hàng sử dụng các dịch vụ. Điều này khiến cho việc huy động vốn từ 
các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội gắn liền với việc mở rộng, cải tiến 
các dịch vụ ngân hàng. 
1.3.2.3. Huy động vốn từ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác 
Trong quá trình hoạt động các ngân hàng thường có các khoản tiền gửi 
ở lẫn nhau để thuận tiện trong giao dịch, thanh toán... Ngoài ra việc vay lẫn 
nhau giữa các ngân hàng cũng làm tăng nguồn vốn huy động. Điều này tuy 
không thường xuyên song là cần thiết trong hoạt động kinh doanh của mỗi 
ngân hàng thương mại. Khi xuất hiện việc thiếu hụt dự trữ hay khả năng 
thanh toán bị đe doạ... các ngân hàng thương mại có thể vay lẫn nhau. Quá 
trình vay này là một thoả thuận tín dụng giữa hai bên. Quá trình tăng vốn huy 
động này có thể được thực hiện ở trên thị trường nội tệ hay thị trường ngoại 
tệ. Trong số những người cho ngân hàng vay có một người đặc biệt. Đó là 
ngân hàng trung ương. Ngân hàng trung ương đóng vai trò là người cho vay 
cuối cùng để cứu cho các ngân hàng thương mại khỏi các trục trặc xảy ra. 
Huy động vốn từ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác tuy cũng khá dễ 
dàng nhưng số lượng thường không nhiều và chi phí huy động thường cao 
hơn. Do vậy, hình thức này các ngân hàng sử dụng không nhiều. 
1.3.3. Phân loại theo bản chất các nghiệp vụ huy động vốn 
Hình thức phân loại này là hình thức chủ yếu được các ngân hàng 
thương mại sử dụng hiện nay. Phân loại theo nghiệp vụ huy động vốn rõ ràng 
tạo sự thuận tiện cho ngân hàng khi tiến hành huy động. Các hình thức huy 
động bao gồm: 
1.3.3.1. Huy động vốn qua nghiệp vụ nhận tiền gửi 
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 
a. Huy động tiền gửi không kỳ hạn 
Đây là phần tiền huy động tương đối quan trọng ở những nước phát 
triển có tỷ lệ thanh toán không dùng tiền mặt cao. Mục đích của các khoản 
tiền gửi này không phải là để lấy lãi mà chủ yếu dùng để thanh toán. Khách 
hàng gửi tiền phần lớn là những tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp, các cá 
nhân làm ăn buôn bán phải thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ liên tục. Người 
gửi tiền có thể rút tiền ra bất cứ lúc nào hoặc để trả cho người thứ ba. Hình 
thức rút có thể là tiền mặt hay lấy qua hình thức thanh toàn bằng séc. Đặc biệt 
người gửi tiền có thể không cần trực tiếp đến ngân hàng lấy mà có thể rút qua 
các máy rút tiền tự động ( máy ATM ). Ngân hàng thường bảo quản loại tiền 
gửi này trên hai tài khoản: tài khoản thanh toán và tài khoản vãng lai: 
+ Tài khoản thanh toán là loại tài khoản tiền gửi mà chủ tài khoản có 
toàn quyền sử dụng số tiền trên tài khoản nhưng chỉ trong phạm vi số dư tiền 
gửi. Loại tài khoản này luôn luôn có số dư có. 
+ Tài khoản vãng lai là tài khoản có thể dư có hoặc dư nợ, thường 
được sử dụng cho các tổ chức kinh tế. Số dư có thể hiện tiền gửi của khách 
hàng còn số dư nợ thể hiện khoản tín dụng ngân hàng cấp cho khách hàng 
vay. 
Với mục đích chủ yếu khi gửi tiền là để sử dụng các dịch vụ ngân hàng 
nên mức lãi suất mà ngân hàng trả cho người gửi tiền là rất thấp, thậm chí 
không phải trả lãi. Tuy nhiên ở nhiều nước có tỷ lệ thanh toán không dùng 
tiền mặt thấp ( trong đó có Việt Nam ) và để tăng mức động viên tiền gửi, 
ngân hàng vẫn trả lãi cho tiền gửi này ( có những thời điểm được trả ngang 
bằng với lãi suất tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn ). Tỷ lệ huy động từ nguồn 
này sẽ là khá cao nếu ngân hàng có các dịch vụ đa dạng, sản phẩm ngân hàng 
chất lượng cao, hệ thống mạng lưới rộng rãi đáp ứng tốt các nhu cầu của 
người gửi tiền. 
b. Huy động tiền gửi có kỳ hạn 
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 
Là các tiền gửi của các tổ chức kinh tế, cá nhân gửi vào ngân hàng và 
rút ra sau một thời hạn nhất định. Khoản này thường gắn với các tổ chức kinh 
tế có chu kỳ kinh doanh gần như xác định, thời gian thanh toán tiền ổn định, 
ít có sự biến động. Phần tiền gửi này ngân hàng sử dụng dễ dàng nên mức lãi 
suất mà ngân hàng phải trả cũng cao hơn. Người gửi tiền ngoài mục đích sử 
dụng các dịch vụ ngân hàng còn có mục đích kiếm lời. Do đó, sự thay đổi lãi 
suất sẽ có tác động rất nhanh và rõ nét đối với nguồn vốn huy động của ngân 
hàng. 
ở Việt Nam, hình thức tiền gửi có kỳ hạn bằng các chứng chỉ tiền gửi ( 
mà chúng ta vẫn gọi là kỳ phiếu ngân hàng có mục đích ) với các thời hạn 3 
tháng, 6 tháng, 1 năm, 2 năm... ngày càng phổ biến, đã và đang phát huy vai 
trò hay việc tạo vốn cho các ngân hàng. 
c. Huy động tiền gửi tiết kiệm 
Đây là hình thức phổ biến nhất, lâu đời nhất của các ngân hàng thương 
mại. Bao gồm các loại sau: 
- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn. 
 Hình thức này gần giống như huy động tiền gửi không kỳ hạn. Tuy 
nhiên so với tiền gửi không kỳ hạn thì số dư của phần này ổn định hơn, ít 
biến động hơn nên ngân hàng phải trả lãi suất cao hơn. 
-Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: 
Đây là loại hình tiết kiệm phổ biến nhất, quen thuộc nhất ở nước ta. 
Người gửi tiền gửi vào ngân hàng và rút ra sau những thời hạn xác định: 3 
tháng, 6 tháng... Người gửi không được rút trước, nếu rút trước hạn thì sẽ bị 
phạt. Đây là những khoản tiền có tính ổn định rất cao nên ngân hàng phải trả 
khách hàng với lãi suất gần như là cao nhất. Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay, 
để tăng sức cạnh tranh, thu hút được vốn các ngân hàng đã rất linh hoạt trong 
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 
việc khách hàng rút ra trước thời hạn. Có ngân hàng thì tính lãi cho khách 
hàng với lãi suất không kỳ hạn, có ngân hàng vẫn tính với lãi suất đó với số 
ngày gửi thực tế... 
- Tiền gửi tiết kiệm có thời hạn dài. 
Loại hình này khá phổ biến ở những nước phát triển nhưng ở nước ta 
còn khá mới mẻ. Người gửi có thể gửi tiền vào bất cứ lúc nào và chỉ được rút 
ra khi đến hạn ( thời hạn tương đối dài ). Loại hình này giúp cho ngân hàng 
có nguồn vốn ổn định để có thể đầu tư trung và dài hạn. 
1.3.3.2. Huy động vốn qua nghiệp vụ đi vay 
Hình thức này ngày càng chiếm vai trò quan trọng trong môi trường 
kinh doanh đầy biến động như hiện nay. Các ngân hàng thương mại có thể 
vay từ nhiều nguồn: 
a. Vay từ các tổ chức tín dụng 
Đó là các khoản vay thông thường mà các ngân hàng vay lẫn nhau trên 
thị trường liên ngân hàng hay thị trường tiền tệ. Các ngân hàng thường xây 
dựng các mối quan hệ tốt để khi thiếu hụt vốn có thể vay lẫn nhau chứ không 
vay ngân hàng trung ương. 
b. Vay từ ngân hàng trung ương 
Khi ngân hàng thương mại xảy ra tình trạng thiếu hụt dự trữ bắt buộc 
hay mất khả năng thanh toán thì người cuối cùng mà các ngân hàng có thể 
cầu cứu là ngân hàng trung ương. Ngân hàng trung ương cho vay dưới hình 
thức tái chiết khấu thương phiếu. Các ngân hàng thương mại có thể mang các 
thương phiếu lên ngân hàng trung ương để vay. Tuy nhiên việc vay này cũng 
có một số khó khăn do ngân hàng trung ương chỉ cho ngân hàng thương mại 
một hạn mức tái chiết khấu và việc cho vay này lại nằm trong định hướng của 
chính sách tài chính quốc gia. Dẫu sao đây cũng là một hình thức bổ sung 
vốn cho ngân hàng thương mại cực kỳ quan trọng trong những thời điểm nhất 
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 
định. 
1.3.3.3. Huy động qua phát hành các công cụ nợ 
Đây là hình thức huy động vốn có hiệu quả khá cao của các ngân hàng 
thương mại. Trong qúa trình hoạt động, ở những thời điểm nhất định, ngân 
hàng thấy cần phải huy động thêm vốn trước những cơ hội kinh doanh đầy 
hấp dẫn. Điều đó có nghĩa là ngân hàng huy động vốn ở thế chủ động, có 
nghĩa là có đầu ra mới tính đầu vào. Ngân hàng xác định rõ quy mô vốn huy 
động, loại tiền huy động và đưa ra các mức chi phí hợp lý làm cho việc tạo 
vốn của ngân hàng thành công nhanh chóng. Để vay trên thị trường, ngân 
hàng có thể phát hành kỳ phiếu và trái phiếu. 
Trái phiếu ngân hàng là một giấy tờ có giá, xác nhận khoản nợ của 
khách hàng đối với người chủ ngân hàng với những cam kết như thanh toán 
một số tiền xác định vào một ngày xác định trong tương lai với thời hạn xác 
định cho trước. Trái phiếu được phát hành trong toàn bộ hệ thống ngân hàng, 
chủ yếu là để huy động vốn trung và dài hạn. 
Kỳ phiếu: kỳ phiếu ngân hàng là một loại giấy tờ nhận nợ ngắn hạn do 
ngân hàng phát hành nhằm huy động vốn trong dân, chủ yếu là để phục vụ 
cho những kế hoạch kinh doanh xác định của ngân hàng như một dự án, một 
chương trình kinh tế... 
1.3.3.4. huy động vốn qua các hình thức khác. 
Để tăng cường huy động vốn nhàn rỗi từ dân cư, các tổ chức kinh tế, 
các doanh nghiệp, các ngân hàng thương mại còn sử dụng các hình thức khác 
về dịch vụ xã hội: làm dịch vụ bảo lãnh, đại lý phát hành chứng khoán, trung 
gian thanh toán, đầu mối trong hợp đồng đồng tài trợ... Nền kinh tế càng phát 
triển, các dịch vụ trên càng mang lại cho ngân hàng những nguồn huy động 
lớn giúp cho ngân hàng có thể kinh doanh một cách an toàn và hiệu quả. 
1.4. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG 
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 
VỐN CỦA NHTM 
 Trong cả môi trường tự nhiên và xã hội, mỗi sự vật, hiện tượng đều có 
những tác động đến sự vật, hiện tượng khác và đồng thời cũng phải chịu 
những tác động ngược trở lại. Việc huy động vốn của các ngân hàng cũng 
vậy. Vấn đề đặt ra cho chúng ta là phải nhận thức được những yếu tố tác 
động đến việc huy động vốn. Những tác động này rất phong phú, đa dạng. 
Dựa vào bản chất của các tác động ta chia các yếu tố đó thành những yếu tố 
khách quan và các yếu tố chủ quan. 
1.4.1. Yếu tố khách quan 
Đây là các yếu tố mà khi tác động đến ngân hàng sẽ không thể chống 
được, đó là các rủi ro không thể tránh. Ngân hàng chỉ có thể nhận thức, dự 
báo và tìm cách giảm thiểu các rủi ro khi nó xảy ra. 
1.4.1.1. Pháp luật, chính sách của Nhà nước 
Pháp luật được đặt ra là để điều chỉnh mọi quan hệ xã hội. Do vậy tất 
cả mọi hoạt động của ngân hàng đều chịu sự điều chỉnh của luật pháp. Cụ thể 
là Luật các tổ chức tín dụng (1997), Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng 
và công ty tài chính (1990), Luật ngân hàng Nhà nước Việt Nam (1998), các 
văn bản pháp luật khác như: chỉ thị, thông tư...Lĩnh vực hoạt động của ngân 
hàng là vô cùng quan trọng trong nền kinh tế, vì vậy các hoạt động của ngân 
hàng luôn được Nhà nước quản lý chặt chẽ bằng các văn bản pháp quy. Mỗi 
văn bản đều có ảnh hưởng sâu sắc đến hoạt động của Ngân hàng, cụ thể là 
hoạt động huy động vốn. 
Chính phủ đề ra chính sách tiền tệ quốc gia và hệ thống ngân hàng là 
công cụ đắc lực để thực hiện. Chẳng hạn khi nền kinh tế lạm phát tăng, Nhà 
nước có chính sách thắt chặt tiền tệ bằng cách tăng lãi suất tiền gửi để thu hút 
tiền ngoài xã hội thì lúc đó ngân hàng thương mại huy động vốn dễ dàng hơn. 
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 
Hoặc khi Nhà nước có chính sách khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất thì 
ngân hàng khó huy động vốn hơn vì người có tiền nhàn rỗi họ bỏ tiền vào 
sản xuất có lợi hơn gửi ngân hàng 
Các quy định của pháp luật đòi hỏi các ngân hàng thương mại luôn 
phải tuân thủ. Pháp luật quy định số tiền huy động của ngân hàng không được 
lớn hơn 20 lần vốn chủ sở hữu. Hay thông qua tỷ lệ dự trữ bắt buộc chính phủ 
điều chỉnh việc cung ứng tiền cho nền kinh tế. Việc điều chỉnh tỷ lệ dự trữ 
bắt buộc hay lãi suất tái chiết khấu là tuỳ theo định hướng phát triển của từng 
thời kỳ. Các chính sách đầu tư, ưu đãi, ưu tiên phát triển mũi nhọn... cũng ảnh 
hưởng sâu sắc tới việc huy động vốn của ngân hàng thương mại. Nói chung 
bất cứ ngân hàng thương mại nào khi cần huy động vốn đều phải xem xét các 
quy định của luật pháp. 
1.4.1.2. Tình hình chính trị – kinh tế – xã hội trong và ngoài nước 
Có thể nói đây là yếu tố khách quan đối với tất cả các ngành nghề kinh 
tế, không riêng gì ngân hàng. Sự ổn định chính trị cả trong và ngoài nước có 
tác động rất rõ. Các cuộc bãi công, biểu tình, sụp đổ chính phủ luôn kéo theo 
tình trạng huy động vốn của ngân hàng bị trì trệ bởi người dân không còn tin 
tưởng. Ngược lại, sự đồng tâm, nhất trí, ổn định trong bộ máy lãnh đạo sẽ 
làm cho các ngân hàng thương mại huy động vốn được dễ dàng. Như 
Achentina năm 2002, sau khi có những vấn đề về chính trị, người dân kéo 
đến ngân hàng rút tiền ồ ạt làm cho cả hệ thống ngân hàng chao đảo. Và cuộc 
chiến Irac gần đây cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới trong đó có sự 
khó khăn về huy động vốn của ngân hàng thương mại. 
Nền kinh tế ở vào trạng thái tăng trưởng hay suy thoái đã tác động tới 
việc huy động vốn của ngân hàng. ở tình trạng tăng trưởng, người dân cần 
nhiều vốn để đầu tư mở rộng quy mô, trang thiết bị. Các ngân hàng phải huy 
động nhiều vốn và càng có điều kiện để huy động do tích luỹ được nhiều hơn. 
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 
Ngược lại ở tình trạng suy thoái, sản xuất đình trệ, đầu tư bị thu hẹp, ngân 
hàng huy động vốn khó khăn. 
1.4.1.3. Tâm lý, thói quen tiêu dùng của người gửi tiền 
Tập quán tiêu dùng của người dân có tầm ảnh hưởng rất quan trọng đối 
với việc huy động vốn của ngân hàng. Rõ ràng ở những vùng, người dân 
thường có thói quen gửi tiền vào ngân hàng thì ngân hàng sẽ huy động được 
dễ dàng hơn nhiều ở những vùng người dân thường hay cất trữ tiền trong nhà 
bằng vàng, bất động sản... Đồng thời ngay thói quen thanh toán khi mua hàng 
hoá cũng góp phần làm tăng hay giảm nguồn vốn huy động của ngân hàng. ở 
nhiều nước phát triển, việc thanh toán không dùng tiền mặt là phổ biến, hầu 
như người dân nào cũng có tài khoản trong ngân hàng và ngân hàng là cái gì 
đó không thể thiêú trong cuộc sống. Ngược lại, ở một số nước, thói quen 
thanh toán bằng tiền mặt vẫn còn ăn sâu thì nguồn vốn huy động của ngân 
hàng sẽ gặp khó khăn. Các tập quán tiêu dùng này khó có thể được thay đổi 
ngay một sớm một chiều. Do đó để mở rộng nguồn huy động, các ngân hàng 
phải nỗ lực hết mình: cải cách quy trình, thủ tục, phát triển chính sách khách 
hàng... 
Một trong những đặc tính của cộng đồng dân cư đó là tính lan truyền 
nhanh chóng. Cuộc đổi tiền năm 1985 – 1986 với tốc độ lạm phát chóng mặt 
600-700 % đã khiến người gửi tiền kéo ồ ạt đến ngân hàng để rút. Điều này 
đã kéo theo sự sụp đổ của hơn 7500 quỹ tín dụng nhân dân và làm cả hệ 
thống ngân hàng lao đao. Đồng thời gần đây các vụ bê bối, tham nhũng liên 
quan đến các ngân hàng như dệt Nam Định, vụ Tamexco, Minh Phụng-
Epco...đã làm suy giảm uy tín của các ngân hàng trong con mắt của người gửi 
tiền. Nó không tạo cho người gửi tiền cảm giác an toàn và nó đã làm hạn chế 
khả năng hoạt động của các ngân hàng. 
Một trong những lý do nữa là người dân chưa hiểu biết nhiều về các 
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 
hoạt động của ngân hàng, các tiện ích mà ngân hàng có thể cung cấp. Điều 
này đòi hỏi các ngân hàng phải tăng cường tuyên truyền sâu rộng, quảng cáo, 
quảng bá về các hoạt động của mình, các lợi ích của người gửi tiền cũng như 
các thủ tục cần thiết. 
1.4.2. Yếu tố chủ quan 
1.4.2.1. Chiến lược kinh doanh của ngân hàng 
Chiến lược kinh doanh có thể nói là đường lối, phương hướng hoạt 
động cho một ngân hàng. Mỗi ngân hàng có một chiến lược kinh doanh khác 
nhau. Điều này phụ thuộc vào từng điểm mạnh, điểm yếu, khả năng cũng như 
hạn chế của ngân hàng. Chiến lược kinh doanh xác định quy mô huy động có 
thể mở rộng hay thu hẹp, cơ cấu vốn có thể thay đổi về tỷ lệ các loại nguồn, 
chi phí hoạt động có thể tăng hay giảm . 
Chiến lược kinh doanh có liên quan đến huy động vốn bao gồm: Chính 
sách về giá cả, lãi suất tiền gửi, tỷ lệ hoa hồng và phí dịch vụ. Đây là các yếu 
tố quan trọng. Với việc lãi suất huy động tăng thì sẽ dẫn đến nguồn vốn vào 
ngân hàng tăng, rất lớn. Nhưng đồng thời thì hiệu quả của việc huy động vốn 
có thể giảm do chi phí huy động tăng. Do đó số lượng nguồn vốn huy động 
được sẽ phụ thuộc chủ yếu vào chiến lược kinh doanh hay đúng hơn là phụ 
thuộc vào chính bản thân ngân hàng. 
1.4.2.2. Năng lực và trình độ của cán bộ ngân hàng 
Không chỉ riêng ngân hàng mà trong bất cứ hoạt động nào, ngành nghề 
nào, yếu tố con người cũng phải được đặt lên hàng đầu. Các cán bộ nhân viên 
ngân hàng có năng lực sẽ phán đoán, xử lý chính xác các tình huống sẽ làm 
cho các hoạt động huy động vốn được thực hiện một cách tốt đẹp. Trình độ 
của cán bộ ngân hàng cao sẽ làm cho các thao tác nghiệp vụ được thực hiện 
nhanh chóng và hiệu quả. Thái độ trong tiếp xúc của nhân viên với khách 
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 
hàng cũng rất quan trọng. Nó có thể lôi kéo khách hàng làm tăng nguồn vốn 
huy động đồng thời cũng có thể làm khách hàng rơì bỏ gây ra những hậu quả 
vô cùng nghiêm trọng trong hoạt động của ngân hàng, trước hết là trong khâu 
huy động vốn. Các nhân viên ngân hàng là những người mang hình ảnh cho 
cả ngân hàng. Do đó, để tăng cường huy động vốn thì một điều cực kỳ quan 
trọng là các nhân viên ngân hàng phải có đủ những tiêu chí của một nhân 
viên ngân hàng chuyên nghiệp: Hiểu biết khách hàng, Hiểu biết nghiệp vụ, 
Hiểu biết quy trình, Hoàn thiện phong cách phục vụ. 
1.4.2.3. Uy tín của ngân hàng 
Đó là hình ảnh của ngân hàng trong lòng khách hàng, là niềm tin của 
khách hàng đối với ngân hàng. Uy tín của mỗi ngân hàng được xây dựng, 
hình thành trong cả một quá trình lâu dài. Người gửi tiền khi gửi thường lựa 
chọn những ngân hàng lâu đời chứ không phải là những ngân hàng mới thành 
lập. Ngân hàng lớn thường được ưu tiên lựa chọn so với các ngân hàng nhỏ. 
Hình thức bảo hiểm tiền gửi làm tăng độ an toàn, tăng uy tín của ngân hàng. 
Một điều quan trọng ở nước ta là hình thức sở hữu cũng có ảnh hưởng quan 
trọng tới huy động vốn. Các ngân hàng quốc doanh bao giờ cũng có độ an 
toàn cao hơn cho người gửi tiền, uy tín của các ngân hàng thương mại quốc 
doanh cao hơn so với các ngân hàng khác. Những ngân hàng có uy tín luôn 
chiếm được lòng tin của khách hàng là tiền đề cho việc họ huy động được 
những nguồn vốn lớn hơn với chi phí rẻ hơn và tiết kiệm được thời gian. 
1.4.2.4. Trình độ công nghệ ngân hàng 
Có thể nói công nghệ ngân hàng hiện đại khác xa so với trước đây. 
Việc áp dụng máy tính là một cuộc cách mạng trong hoạt động của ngân 
hàng. Nhờ có hệ thống tin học hiện đại, ngân hàng có thể thu thập thông tin 
về khách hàng, về thị trường tốt. Từ đó, có thể hoạch định ra các hình thức 
huy động, thời gian huy động, hình thức trả lãi... Mặt khác, nhờ hệ thống 
thông tin tốt khiến cho ngân hàng có thể nâng cao hiệu quả huy động vốn. 
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 
Các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng trở nên phổ 
biến, đó là một xu thế tất yếu. Việc thanh toán không dùng tiền mặt sẽ khiến 
cho các ngân hàng ngày càng gắn liền với các hoạt động xã hội. Ngoài ra 
mạng lưới phục vụ cho việc huy động vốn cũng tác động tới việc huy động 
vốn của ngân hàng. Mạng lưới huy động rộng rãi, tạo điều kiện cho người gửi 
tiền. Mạng lưới hẹp thì sẽ gây khó khăn cho khách hàng có tiền nhàn rỗi gửi 
vào ngân hàng, chi phí giao dịch lớn, mất nhiều thời gian. 
Nhìn chung có rất nhiều những yếu tố ảnh hưởng đến việc huy động 
vốn của ngân hàng. Các yếu tố này tác động đến mọi hoạt động, ảnh hưởng 
đến kết quả kinh doanh của ngân hàng. Mỗi ngân hàng khi hoạt động đều cần 
phải tiến hành nghiên cứu, tìm hiểu. Những yếu tố tác động này có tính hai 
mặt: có thể có tác động tích cực đồng thời có thể tác động tiêu cực tới ngân 
hàng. Ngân hàng nào xác định đúng, chính xác các yếu tố tác động sẽ huy 
động được vốn lớn với chi phí rẻ, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động. 
CHƯƠNG II 
THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG 
CÔNG THƯƠNG HOÀN KIẾM 
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 
2.1. KHÁI QUÁT SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NGÂN 
HÀNG CÔNG THƯƠNG HOÀN KIẾM 
Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm là một chi nhánh của Ngân hàng 
Công thương Việt Nam, có trụ sở tại số 37 Hàng Bồ quận Hoàn Kiếm - Hà 
Nội. Đây là khu vực nằm ở trung tâm thủ đô Hà Nội, là trung tâm kinh tế - 
Văn hoá - Chính trị của thủ đô, là mơi giao lưu buôn bán nhộn nhịp nhất 
thành phố. Mặt khác, đây còn là nơi tập trung của rất nhiều vằn phòng đại 
diện của các Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Trước đây Ngân hàng là 
một chi nhánh của Ngân hàng Nhà nước với nhiệm vụ chính là bảo đảm nhu 
cầu về vốn cho các đơn vị ngoài quốc doanh và tập thể trên địa bàn quận. 
Nhưng do nhu cầu đổi mới kinh tế cùng với sự chuyển đổi chung của hệ 
thống Ngân hàng Việt Nam (năm 1988) từ hệ thống Ngân hàng một cấp sang 
hệ thống Ngân hàng hai cấp, chi nhánh Ngân hàng quận Hoàn Kiếm cũng 
được thay đổi cả về chức năng và nhiệm vụ và trở thành Ngân hàng Công 
thương Hoàn Kiếm là một chi nhánh của NHCT Việt Nam với chức năng 
hoạt động chính là kinh doanh tiền tệ và thực hiện các dịch vụ Ngân hàng. Và 
từ đó đến nay Ngân hàng đã thực sự đi vào hoạt động kinh doanh trên cơ sở 
tự hạch toán kinh doanh. 
 Trải qua quá trình 15 năm hoạt động cho đến nay Ngân hàng đã hoàn 
toàn hoà nhập được với hoạt động chung của cả hệ thống Ngân hàng trong cơ 
chế thị trường. Không những chỉ đứng vững trong cạnh tranh mà còn không 
ngừng mở rộng và phát triển với hiệu quả ngày càng cao. Hiện nay ngân hàng 
có cơ cấu, tổ chức như sau: 
 NHCT Hoàn Kiếm có 227 cán bộ trên tổng số hơn 1,2 vạn cán bộ của 
toàn bộ hệ thống NHCT. Trong đó có 40,8% có trình độ đại học và trên đại 
học, còn lại đều đã được đào tạo qua hệ cao đẳng, trung học chuyên ngành 
ngân hàng. NHCT Hoàn Kiếm có 9 phòng, hoạt động theo chức năng riêng 
đã được phân công theo sự chỉ đạo điều hành của Ban giám đốc gồm: 
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 
Giám đốc: Nguyễn Hữu Thuỷ: phụ trách về lao động – tiền lương, 
phòng kinh doanh đối ngoại, phòng kiểm tra nội bộ . 
Phó giám đốc: Phạm Thị Mai: phụ trách phòng kinh doanh kiêm chủ 
tịch công đoàn của chi nhánh. 
Phó giám đốc: Lê Tuyết Mai: phụ trách phòng kế toán – tài chính, 
phòng giao dịch Đồng Xuân, phòng vi tính. 
Phó giám đốc: Nguyễn Thị Huy: phụ trách phòng Nguồn vốn, phòng 
ngân quỹ, phòng tổ chức – hành chính. 
 Phòng kinh doanh: Đây là phòng kinh doanh tổng hợp, thực hiện các 
nghiệp vụ cho vay đối với các khách hàng là các tổ chức và cá nhân thuộc 
mọi thành phần kinh tế, dưới hình thức là các khoản vay ngắn, trung và dài 
hạn, cho vay uỷ thác, cho vay theo dự án. Đồng thời cũng thực hiện chức 
năng giám sát và quản lý việc sử dụng vốn. 
 Phòng kinh doanh đối ngoại: thực hiện 2 chức năng chính là thanh 
toán quốc tế (thanh toán xuất nhập khẩu bằng các phương thức mở tài khoản, 
nhờ thu và L/C) và kinh doanh ngoại tệ (thanh toán, chuyển tiền cho các 
khách hàng, chủ yếu là mua bán ngoại tệ để phục vụ cho các doanh nghiệp 
XNK), hạch toán kế toán các nghiệp vụ ngoại tệ, làm đầu mối thanh toán séc 
du lịch, thẻ tín dụng quốc tế, thu chi tiền mặt ngoại tệ cho các đơn vị, thực 
hiên việc giải ngân cho một số dự án do NHCTVN chỉ định. 
 Phòng giao dịch Đồng Xuân: do trên địa bàn quận Hoàn Kiếm có khu 
chợ Đồng Xuân nên NHCTHK đã tổ chức ra một phòng riêng để phục vụ cho 
các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Phòng này hoạt động như một chi 
nhánh ngân hàng, tự hạch toán thu chi độc lập và có lãi. Hiện nay phòng giao 
dịch Đồng Xuân đang có kế hoạch mở rộng thành một chi nhánh NHCT gần 
tương tụ như chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm. 
 Phòng nguồn vốn: cân đối tổng hợp: làm nhiệm vụ xây dựng kế hoạch 
cân đối và tổng hợp về nguồn vốn và sử dụng vốn; huy động mọi nguồn vốn 
tiết kiệm từ các tổ chức và cá nhân thuộc mọi thành phân kinh tế; thực hiện 
chế độ thông tin, lập kế hoạch tài chính, tổng hợp, phân tích, báo cáo về mọi 
tình hình hoạt động kinh doanh của NHCTHK theo yêu cầu của Giám đốc 
NHCT Việt Nam. Hiện nay chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm có tất cả 11 quỹ tiết 
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 
kiệm. Mỗi quỹ tiết kiệm đều có 1 bộ máy gồm: Trưởng quỹ, thủ quỹ và kế 
toán. 
 Phòng kế toán-tài chính: thực hiện hạch toán kế toán các nghiệp vụ 
thanh toán bằng VND, lên cân đối tổng hợp. Phòng có 5 tổ công tác chịu 
trách nhiệm về các chức năng riêng biệt: Tổ kế toán nội bộ, Tổ thanh toán 
viên, Tổ thanh toán liên ngân hàng, Tổ thanh toán bù trừ và Tổ tiết kiệm. 
 Phòng ngân quỹ: quản lý tồn quỹ, thực hiện thu chi theo lệnh về tiền 
mặt VND và ngoại tệ, bảo quản và phân phối các chứng từ có giá. 
 Phòng kiểm tra nội bộ: thực hiện kiểm soát nội bộ là nhiệm trọng tâm 
của phòng, ngoài ra còn thanh tra các vụ việc có liên quan, các thao tác 
nghiệp vụ nhằm ngăn chặn các rủi ro xảy ra từ chính các cán bộ ngân hàng. 
 Phòng vi tính: quản lý và xử lý các dữ liệu kế toán, kết nối mạng nội bộ, 
ngoài ra còn thực hiện việc bảo dưỡng, lắp đặt các máy tính phục vụ cho việc 
tổng hợp, cân đối, sao kê cho mạng máy tính phòng kế toán. 
 Phòng tổ chức-hành chính: thực hiện các công việc về hành chính quản 
trị như các doanh nghiệp khác, bảo đảm cơ sở vật chất cho hoạt động kinh 
doanh của các phòng ban; quản lý, sắp xếp và điều chuyển nhân sự, bảo đảm 
tiền lương cho cán bộ nhân viên, tham mưu cho lãnh đạo về xét tuyển và đề 
bạt cán bộ. 
 Các phòng trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, phối hợp với nhau để 
thực hiện tốt các hoạt động của ngân hàng. Cơ cấu tổ chức của các phòng ban 
ngày càng được cải tiến để ngày càng phục vụ tốt hơn cho nhiệm vụ của một 
ngân hàng đa năng, hiện đại và ngày càng có nhiều sản phẩm mới, đáp ứng 
được các nhu cầu của khách hàng trong cơ chế thị trường. 
2.2. THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG CÔNG 
THƯƠNG HOÀN KIẾM 
Tất cả các Ngân hàng thương mại để đi vào hoạt động phải cần huy 
động vốn. Hoạt động huy động vốn (nghiệp vụ tài sản nợ) trong mỗi Ngân 
hàng không nằm riêng lẻ mà cùng với các nghiệp vụ tài sản có và các dịch vụ 
khác hình thành nên định hướng hoạt động chung của Ngân hàng. Huy động 
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 
vốn là cơ sở, tạo cho Ngân hàng có nguồn vốn kinh doanh để thu được lợi 
nhuận. 
Nhận thức được vấn đề đó, NHCT Hoàn Kiếm đã coi việc huy dộng 
vốn là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Toàn thể cán bộ công nhân viên của 
Ngân hàng đã có những cố gắng vượt bậc để thực hiện mục tiêu trên. Trong 
những năm qua, nguồn vốn mà NHCT Hoàn Kiếm huy động được luôn ổn 
định năm sau cao hơn năm trước. Nguồn vốn huy động được dồi dào không 
những đáp ứng được nhu cầu ở chi nhánh mà còn đựơc điều chuyển về hội sở 
chính, góp phần điều hoà vốn chung trong toàn hệ thống. Đội ngũ nhân viên 
ngân hàng với trình độ chuyên môn cao, phương pháp làm việc hiện đại, khoa 
học...đã góp phần làm giảm chi phí huy động. So với các chi nhánh khác, chi 
phí huy động của Ngân hàng gần như là thấp nhất. Đồng thời huy động được 
vốn nhiều nhưng nguồn vốn huy động của chi nhánh vẫn được đánh giá là có 
độ an toàn cao. Đây là kết quả của việc đa dạng hoá các hình thức huy động, 
linh hoạt về lãi suất, hình thức trả lãi, nâng cao chất lượng các dịch vụ Ngân 
hàng. Ngân hàng luôn tích cực tìm kiếm nguồn vốn có chất lượng để phục vụ 
cho mục đích kinh doanh của mình. 
2.2.1.Tình hình huy động vốn tại NHCT Hoàn Kiếm 
Trong những năm qua hoạt động huy động vốn của NHCT Hoàn kiếm 
đã đạt được những thành tích xuất sắc. Nguồn vốn của ngân hàng luôn dồi 
dào, năm nào cũng hoàn thành vượt mức kế hoạch đặt ra. Ta có thể thấy qua 
bảng sau: 
Bảng2.1.KHỐI LƯỢNG VỐN HUY ĐỘNG THEO KẾ HOẠCH(đơn vị: triệu đồng) 
 Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 
Nguồn vốn huy động theo kế hoạch 1.753.712 2.803.075 4.500.000 
Nguồn vốn thực tế huy động được 2.335.896 4.297.992 5.060.689 
Mức chênh lệch tuyệt đối + 582.184 +1.494.917 + 560.689 
Mức chênh lệch tương đối 33,19% 51,86% 12,45% 
Nguồn số liệu: phòng Kế toán NHCT Hoàn Kiếm 
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 
Năm 2000. Ngân hàng đặt ra chỉ tiêu huy động vốn tăng 15% so với 
năm 1999 (1.753.712 triệu đồng). Nhưng trên thực tế chi nhánh đã huy động 
được 2.335.896 triệu đồng vượt 33,19% kế hoạch đặt ra. Trong năm Ngân 
hàng đã bước đầu áp dụng phương thức giao dịch tức thời trên máy vi tính tại 
một số quỹ, đội ngũ nhân viên với phong cách phục vụ văn minh, lịch sự, 
đúng quy trình, tận tình, chu đáo đã chiếm được lòng tin của số lượng khách 
hàng ngày càng tăng. Đây là cơ sở giúp cho Ngân hàng có số dư tiền gửi tăng 
mặc dù lãi suất huy động của Ngân hàng thường thấp hơn các Ngân hàng 
khác trên cùng địa bàn. Năm 2001 Ngân hàng đặt ra chỉ tiêu huy động vốn 
tăng 20% so với năm 2000 tức khoảng 2.803.075 triệu đồng. Trong năm 
Ngân hàng đã huy động được 4.297.992 triệu đồng, vượt 51,86% kế hoạch 
đặt ra. Năm 2002 Ngân hàng đặt ra chỉ tiêu huy động tổng nguồn vốn là 
4.500.000 triệu đồng. Trong năm Ngân hàng đã huy động được 5.060.689 
triệu đồng, vượt 12,45% kế hoạch đặt ra. 
Qua bảng trên ta thấy nguồn vốn huy động của Ngân hàng năm nào 
cũng cao hơn so với kế hoạch đặt ra. Năm 2001 nguồn vốn huy động của 
Ngân hàng tăng vọt so với năm 2000 và năm 2002 tăng chậm hơn. Gọi là 
tăng chậm, song so với các chi nhánh khác hay các đơn vị khác trên địa bàn, 
tốc độ tăng trưởng nguồn vốn của NHCT Hoàn Kiếm là quá lý tưởng. Tổng 
nguồn vốn huy động của Ngân hàng thường cao hơn hẳn các đơn vị khác trên 
điạ bàn quận. Sự tăng trưởng lớn về nguồn vốn đã khẳng định uy tín và vị thế 
của Ngân hàng trên thương trường. Ta có thể thấy rõ sự tăng trưởng qua bảng 
sau: 
Bảng 2.2. KHỐI LƯỢNG VỐN HUY ĐỘNG(đơn vị: triệu đồng) 
 Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 
Tổng vốn huy động 1.524.967 2.335.896 4.297.992 5.060.689 
Lượng vốn huy động gia 
tăng sau mỗi năm 
 +810.929 +1.962.096 +762.697 
Tỷ lệ gia tăng năm sau so 
với năm trước 
 53,17% 83,99% 17.74% 
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 
Nguồn số liệu: Phòng Kế toán NHCT Hoàn Kiếm 
Khối lượng vốn huy động của NHCT Hoàn Kiếm có thể nói là ở mức 
đáng kinh ngạc. Chỉ sau 2 năm nguồn vốn huy động đã tăng gấp đôi. Năm 
2000, khối lượng vốn huy động của Ngân hàng tăng 53,17% so với năm 
1999. Đặc biệt năm 2001, tỷ lệ trên là 83,99%. Đến năm 2002, khối lượng 
vốn huy động chỉ tăng 17,74%. Ta có thể thấy rõ một điều là nguồn vốn năm 
nào cũng tăng, song không ổn định. Chỉ tính riêng năm 2001, nguồn vốn huy 
động đã tăng gần gấp đôi so với năm 2000. 
Với tổng nguồn vốn lớn và ổn định, chi nhánh có đủ khả năng đáp ứng 
mọi nhu cầu về vốn của khách hàng, đồng thời chuyển vốn về NHCT Việt 
Nam, góp phần điều hoà toàn hệ thống và tham gia thị trường vốn. Có thể nói 
trong lúc việc huy động vốn gặp rất nhiều khó khăn, sự cạnh tranh lãi suất 
quyết liệt, lãi suất huy động liên tục tăng trong khi lãi suất cho vay không thể 
tăng cùng tốc độ, thì đây là kết quả rất đáng khích lệ. Có được kết quả trên là 
vì ngay từ khi nguồn vốn còn dồi dào, Ngân hàng đã xác định nhu cầu vốn 
đầu tư cho nền kinh tế là rất lớn, vốn không bao giờ thừa cho một nền kinh tế 
đang phát triển như Việt Nam, nên đã xác định một chiến lược tăng trưởng 
vốn lâu dài. 
2.2.1.1. Về nguồn huy động vốn 
Một trong những thế mạnh của NHCT Hoàn Kiếm, đó là nguồn huy 
động vốn rất đa dạng. Hiện nay NHCT Hoàn Kiếm huy động vốn chủ yếu 
bằng các nguồn như : 
-Tiền gửi của các tổ chức kinh tế (tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn) 
-Tiền gửi của đân cư ( tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi không kỳ hạn) 
-Phát hành các công cụ nợ 
- Nguồn đi vay 
- Các nguồn huy động khác 
Một trong những điều đặc biệt ở NHCT Hoàn Kiếm, đó là trong cơ cấu 
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 
tiền gửi thì tiền gửi của tổ chức kinh tế có tỷ trọng khá lớn. Nó thể hiện vai 
trò, vị thế của chi nhánh Hoàn Kiếm so với các đơn vị khác trên địa bàn. 
Khách hàng là các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế của chi nhánh Hoàn 
Kiếm là rất lớn. Từ lâu chi nhánh đã thấy được tầm quan trọng của lượng 
khách hàng này và đã có những giải pháp hữu hiệu để thu hút. Nhưng như thế 
không có nghĩa là tiền gửi của dân cư không quan trọng. Bên cạnh đó là 
nguồn phát hành các công cụ nợ, tiền gửi của các tổ chức tín dụng khác... Cơ 
cấu trong huy động vốn của NHCT Hoàn Kiếm khá đa dạng và phong phú, 
thể hiện qua bảng sau: 
Bảng 2.3. CƠ CẤU NGUỒN VỐN HUY ĐỘNG (đơn vị: triệu đồng) 
Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 
Chỉ tiêu 
Số dư 
Tỷ 
trọng 
(%) 
Số dư 
Tỷ 
trọng(
%) 
Số dư 
Tỷ 
trọng 
(%) 
Tiền gửi của các tổ 
chức kinh tế 
371.847 15,94 1.065.158 24,78 1.456.202 28,77 
Tiền gửi của dân 
cư 
530.686 22,71 602.946 14,04 625.620 12,38 
Phát hành các 
công cụ nợ 
3 17.399 0,4 102.468 2,02 
Nguồn đi vay 1.280.171 54,8 2.500.030 58,16 30 
Nguồn vốn khác 153.189 6,55 112.459 2,62 2.876.368 56,83 
Tổng 2.335.896 100 4.297.992 100 5.060.689 100 
Nguồn số liệu: Phòng nguồn vốn NHCT Hoàn Kiếm cung cấp 
Ta thấy qua các năm tiền gửi của tổ chức kinh tế có xu hướng tăng dần 
và tăng khá nhanh vào các năm 2001 và năm 2001. Năm 2000, tiền gửi của 
các tổ chức kinh tế chỉ chiếm 15,94% tổng nguồn vốn nhưng đến năm 2001 
chiếm đến 24,78% . Đây là cố gắng rất lớn của chi nhánh. Bước vào năm 
2001, năm đầu của kế hoạch 5 năm (2001- 2005), nhận thức được những thời 
cơ và thách thức khi mở cửa, hội nhập kinh tế với nước ngoài. Ngân hàng đã 
cùng doanh nghiệp suy nghĩ, tháo gỡ những khó khăn, đưa ra các loại hình 
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 
dịch vụ mới, đáp ứng một cách tốt nhất cho doanh nghiệp về thanh toán, bảo 
lãnh... Chính vì vậy trong con mắt của các tổ chức kinh tế, Ngân hàng là một 
người bạn đáng tin cậy, có thể chia sẻ, giúp đỡ doanh nghiệp trong kinh 
doanh. Không thụ động ngồi chờ khách hàng tìm đến với mình, Ngân hàng 
luôn chủ động tìm kiếm các khách hàng mới. Có rất nhiều các khách hàng lớn 
như: Tổng công ty Than Việt Nam, Tổng công ty Điện Lực Việt Nam, Công 
ty Đầu tư Phát triển nhà Hà Nội, Công ty Phát triển hạ tầng... với số dư tiền 
gửi ở Ngân hàng lên tới hàng trăm tỷ đồng. Ngoài ra phần lớn khách hàng là 
các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ cá thể. 
Tiền gửi của khu vực dân cư bao gồm tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi 
không kỳ hạn. Nguồn tiền gửi của dân cư qua các năm vẫn tăng song có xu 
hướng giảm dần về tỷ trọng. Nếu như năm 2000, số dư tiền gửi là 530 tỷ và 
chiếm tỷ trong là 22,71% thì các con số tương ứng trong năm 2001 là 602 tỷ 
và 14,04%. Như vậy về số tuyệt đối là tăng gần 1/5 so với năm trước song về 
tỷ trọng lại giảm gần một nửa. Đây là do năm 2001, chi nhánh ngoài huy 
động vốn từ dân cư đã đẩy mạnh thu hút từ nhiều nguồn khác và đạt được 
nhiều thắnh lợi. Tiếp đà năm 2001, đến năm 2002. nguồn vốn huy động vẫn 
tăng song tỷ trọng lại giảm. Điều này cho thấy đi đôi với việc tăng tổng 
nguồn vốn thì cần phải rất chú trọng và cải thiện việc huy động tiền gửi từ 
dân cư. 
Về phát hành các công cụ nợ. Thực ra việc phát hành này cũng là huy 
động từ khu vực dân cư. Ngân hàng phát hành các kỳ phiếu, trái phiếu theo 
định hướng chung của NHCT Việt Nam. Đây là khu vực mà có tốc độ tăng 
ngoạn mục nhất. Năm 2000, việc phát hành các công cụ nợ của Ngân hàng 
chỉ thu được vỏn vẹn 3 triệu đồng. Một con số quá khiêm tốn. Đến năm 2001 
đã nhảy vọt lên 17 tỷ và năm 2002 là hơn một trăm tỷ. 
Ngoài ra nguồn vốn đi vay của chi nhánh cũng rất lớn, vào các năm 
2000 và 2001 chiếm hơn 50% tổng nguồn vốn. Song đến năm 2002 nguồn 
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 
vay này chỉ chiếm không đáng kể trong tổng nguồn vố. Đây là do trong năm, 
Ngân hàng có nhiều hợp đồng tín dụng và nguồn vốn từ các đơn vị khác 
trong hệ thống do không có đầu ra nên được điều chuyển về. 
Nguồn vốn khác của Ngân hàng cũng rất lớn , trong năm 2000 và năm 
2001 chỉ chiếm vài % nhưng đến năm 2002 chiếm tới hơn 50% tổng nguồn 
vốn. Ngân hàng cho vay được nhiều, đầu tư có hiệu quả nên các ngân hàng 
khác, chi nhánh khác có nguồn vốn nhiều không cho vay được đã uỷ thác cho 
Ngân hàng sử sụng. Nguồn vốn uỷ thác này rất lớn thể hiện được uy tín và vị 
thế của chi nhánh trên thương trường. 
2.2.1.2. Về kỳ hạn huy động vốn 
Xét về mặt thời gian Ngân hàng huy động vốn theo hai loại : không kỳ 
hạn và có kỳ hạn. Hình thức có kỳ hạn của Ngân hàng rất đa dạng, đáp ứng 
được mọi nhu cầu của người gửi. Năm 2002, chi nhánh mở thêm thời hạn huy 
động mới là 2 tháng và hiện nay Ngân hàng đang huy động với các thời hạn 
sau: 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng và trên 12 tháng. 
Thời hạn đa dạng đã đáp ứng mọi mục đích của người gửi tiền: gửi với mục 
đích sinh lợi, gửi với mục đích thanh toán, gửi với mục đích an toàn... Ngân 
hàng tạo mọi thuận lợi cho người gửi tiền. Ngân hàng cũng nhận được sự tán 
thưởng, đánh giá cao của khách hàng thể hiện qua kết quả huy động: 
Bảng 2.4. NGUỒN VỐN HUY ĐỘNG THEO KỲ HẠN (đơn vị: triệu đồng) 
Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 
Chỉ tiêu 
Số dư 
Tỷ 
trọng 
(%) 
Số dư 
Tỷ 
trọng 
(%) 
Số dư 
Tỷ 
trọng 
(%) 
Vốn không 
kỳhạn 
166.108 7,12 353.416 8,22 464.485 9,18 
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 
Vốn ngắn 
hạn 
1.785.224 76,42 3.566.086 82,97 3.889.729 76,86 
Vốn trung 
và dài hạn 
384.564 16,46 378.490 8,81 706.475 13,96 
Tổng 2.335.896 100 4.297.992 100 5.060.689 100 
Nguồn số liệu: Phòng nguồng vốn NHCT Hoàn Kiếm cung cấp 
Nguồn huy động không kỳ hạn của Ngân hàng qua các năm đều tăng. 
Tỷ trọng trong tổng nguồn vốn ngày càng được tăng cường một cách khá đều 
đặn. Trong cơ cấu của nguồn tiền gửi không kỳ hạn này thì chủ yếu là tiền 
gửi của các tổ chức kinh tế, chiếm khoảng 95%. Nguồn tiền gửi của khu vực 
dân cư rất ít. Nó phản ánh đặc điểm của nguồn tiền gửi không kỳ hạn. Nguồn 
tiền gửi không kỳ hạn chủ yếu được các tổ chức kinh tế sử dụng với mục đích 
phục vụ cho việc thanh toán. Còn đối với dân cư, mục đích chủ yếu là để lấy 
lãi, nên họ gửi vào các khoản mục có kỳ hạn. 
Trong tổng nguồn vốn huy động của Ngân hàng tính theo thời gian, thì 
nguồn vốn ngắn hạn luôn rất lớn, chiếm khoảng 75 - 80% tổng nguốn vốn. 
Nguồn vốn ngắn hạn này huy động từ dân cư, doanh nghiệp và được các ngân 
hàng khác điều chuyển đến. Ngày nay các doanh nghiệp cũng có xu hướng 
gửi tiền vào các khoản mục ngắn hạn: 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng... thay vào 
chỉ gửi vào tiền gửi không kỳ hạn như trước kia. Các doanh nghiệp đã tính 
toán kỹ lưỡng chu kỳ kinh doanh của mình, từ đó tìm ra giải pháp tối ưu để 
tối đa hoá lợi nhuận. 
Khoản tiền huy động từ nguồn trung và dài hạn là quan trọng đối với 
bất cứ Ngân hàng nào. Đây là nguồn chủ yếu để Ngân hàng tiến hành cho 
vay trung và dài hạn. Lãi suất cho vay trung và dài hạn rất cao, từ đó Ngân 
hàng kiếm dược nhiều lợi nhuận. Lấy nguồn huy động trung và dài hạn để 
cho vay trung và dài hạn là một cách để giảm bớt rủi ro thanh khoản và rủi ro 
lãi suất. Nguồn vốn trung và dài hạn của Ngân hàng không nhiều, chiếm một 
tỷ trọng nhỏ. Năm 2001 nguồn này còn bị giảm sút so với năm 2000 và có 
tăng trong năm 2002. Tuy nhiên so với các khoản cho vay trung và dài hạn 
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 
thì không tương xứng. Tỷ lệ cho vay trung và dài hạn của chi nhánh ngày 
càng tăng và đến năm 2002 đạt mức cao hơn so với cho vay ngắn hạn. Ngân 
hàng đã áp dụng việc chuyển hoán kỳ hạn nguồn. Đây là một con dao hai lưỡi 
và Ngân hàng phải hết sức quan tâm tới an toàn tín dụng. 
2.2.1.3. Về chi phí huy động vốn 
Trên con đường hội nhập và phát triển, nguồn vốn cần cho đầu tư, phát 
triển kinh tế là luôn cần thiết. Trong khi các đơn vị khác, việc huy động vốn 
gặp khó khăn và để tăng sức cạnh tranh, họ luôn tăng lãi suất huy động. 
NHCT Hoàn Kiếm với lãi suất huy động không cao hơn, song lại huy động 
được một nguồn vốn lớn, đã chứng tỏ được uy tín của mình đối với khách 
hàng, tạo vị thế phát triển vững chắc. 
Chi phí huy động bao gồm ngoài phần lãi phải trả còn có những khoản 
khác như: lương nhân viên, trang bị máy đếm tiền, máy soi tiền, tiền thuê trụ 
sở, các chi phí hành chính khác... Trong đó phần lãi phải trả là bộ phận chủ 
yếu của chi phí huy động. NHCT Hoàn Kiếm huy động vốn theo khung lãi 
suất do Tổng giám đốc NHCT Việt Nam quy định trong từng thời kỳ. Khác 
với các Ngân hàng cổ phần, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, lãi suất luôn 
được điều chỉnh theo kiểu phá giá. Lãi suất huy động của chi nhánh không 
cao hơn song vẫn thu hút được đông đảo khách hàng. Chi nhánh luôn nghiên 
cứu tìm ra các biện pháp để giảm các chi phí khác trong chi phí huy động. 
Mục tiêu đặt ra là phải làm sao để tốc độ tăng của lợi nhuận phải lớn hơn tốc 
độ tăng cuả chi phí. Và Ngân hàng đã thực hiện một cách xuất sắc mục tiêu 
trên. Kết quả là, năm 2000 lợi nhuận hạch toán là 23 tỷ đồng và đến năm 
2002 là 42,2 tỷ đồng. Ngân hàng xác định thế mạnh trong cạnh tranh sẽ là ở 
khâu dịch vụ. Từ đó Ngân hàng nâng cao chất lượng các dịch vụ, hấp dẫn, lôi 
cuốn đuợc nhiều khách hàng mới đồng thời luôn quan tâm, giữ chân các 
khách hàng truyền thống. 
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 
2.2.2. Các hình thức huy động vốn tại NHCT Hoàn Kiếm 
2.2.2.1. Huy động vốn từ các quỹ 
NHCT Hoàn Kiếm là một trong số 115 chi nhánh trên toàn quốc của 
NHCT Việt Nam. Là một Ngân hàng thuộc sở hữu Nhà Nước, NHCT Việt 
Nam có vốn pháp định do Nhà Nước cấp. ở cấp chi nhánh song hàng năm 
NHCT Hoàn Kiếm vẫn có những khoản vốn huy động được từ chính các quỹ 
tại đơn vị. Ngân hàng trích lập các quỹ từ lợi nhuận sau thuế như: quỹ dự trữ 
bổ xung vốn điều lệ, quỹ dự phòng tài chính, quỹ phúc lợi, quỹ đào tạo, quỹ 
khen thưởng... Nguồn huy động từ các quỹ này có ý nghĩa rất lớn. Đây là 
nguồn của chính đơn vị, đơn vị sử dụng nên không phải trả lãi như các nguồn 
huy động khác. Hơn nữa nguồn này còn thể hiện tình hình hoạt động kinh 
doanh hiệu quả của đơn vị. Tại chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm, nguồn vốn huy 
động từ các quỹ trong các năm qua như sau: 
Bảng 2.5. NGUỒN VỐN HUY ĐỘNG TỪ CÁC QUỸ (đơn vị: triệu đồng) 
Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 
Nguồn vốn huy động từ các quỹ 129 275 417 
Lượng vốn gia tăng giữa các năm +146 +142 
Tỷ lệ gia tăng giữa các năm (%) 113,17 49,81 
Nguồn số liệu: Phòng nguồn vốn NHCT Hoàn Kiếm cung cấp 
So sánh với tổng nguồn vốn huy động, vốn huy động từ các quỹ tại chi 
nhánh chỉ chiếm một phần rất nhỏ. Tuy nhiên nguồn vốn này đang ngày càng 
gia tăng với tốc độ khá nhanh. Năm 2002, nguồn vốn huy động từ cac quỹ 
tăng hơn gấp đôi năm 2000 (khoảng 113,17%) . Năm 2002, vốn huy động từ 
các quỹ lại tăng gấp rưỡi so với năm 2001. ở đây ta chưa xét đến khía cạnh 
tuyệt đối mà chỉ nói đến khía cạnh tương đối. Nó chứng tỏ một điều rằng 
NHCT Hoàn Kiếm đang kinh doanh rất có lãi. Bởi nguồn của các quỹ này là 
từ lợi nhuận sau thuế, Ngân hàng dùng khoản này để kinh doanh vừa kinh tế 
lại vừa an toàn cho chính Ngân hàng. Hơn nữa ta thấy tốc độ gia tăng của các 
quỹ khác này rất đáng kể. Điều này chứng tỏ ngoài việc cố gắng hết sức việc 
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 
huy động vốn từ bên ngoài, Ngân hàng cũng hết sức chú ý việc phát huy nội 
lực của chính mình. Đây là một điều đúng với tất cả các doanh nghiệp. Đặc 
biệt với Ngân hàng, việc kinh doanh gặp nhiều rủi ro không lường trước được 
thì lại càng quan trọng. 
2.2.2.2. Huy động vốn từ các khoản tiền gửi 
a. Tiền gửi thanh toán 
Đứng ở cấp độ một chi nhánh, có thể nói NHCT Hoàn Kiếm là một 
chi nhánh đứng hàng đầu trong việc quan hệ với các khách hàng lớn. Đây 
không phải là ngẫu nhiên mà là kết quả của một chiến lược huy động vốn lâu 
dài, trong đó rất coi trọng đến các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế. Các khách 
hàng lớn là những tổng công ty, các tổ chức kinh tế có tình hình tài chính 
lành mạnh, quy mô làm ăn lớn. Có thể kể ra như: Tổng công ty Than Việt 
Nam, Tổng công ty Điện lực Việt Nam, các tổng công ty 90, 91, công ty đầu 
tư và phát triển Nhà Hà Nội, Điện lực Hà Nội... Ngoài ra số lượng khách 
hàng là các công ty vừa và nhỏ rất nhiều: Công ty thương mại và dịch vụ 
Thái Dương, HTX bốc xếp Đồng Xuân, Công ty Quyết Thắng CCB, Công ty 
TNHH Liên Thao... Đây là những tổ chức kinh tế đóng góp phần lớn nguồn 
tiền gửi không kỳ hạn cho Ngân hàng. Ta xem bảng sau: 
Bảng 2.6. NGUỒN TIỀN GỬI THANH TOÁN THEO ĐỐI TƯỢNG 
 (đơn vị: triệu đồng) 
Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 
Chỉ tiêu 
Số dư 
Tỷ 
trọng 
(%) 
Số dư 
Tỷ 
trọng 
(%) 
Số dư 
Tỷ 
trọng 
(%) 
Tiền gửi thanh 
toán của các tổ 
chức kinh tế 
158.391 95,36 344.273 97,42 455.168 98 
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 
Tiền gửi thanh 
toán của dân cư 
 7.717 4,64 9.143 2,58 9.317 2 
Cộng 166.108 100 353.416 100 464.485 100 
Nguồn số liệu: Phòng kinh doanh NHCT Hoàn Kiếm cung cấp 
Qua bảng ta có thể thấy được nguồn tiền gửi thanh toán tại Ngân hàng 
hầu như là của các tổ chức kinh tế. Điều này là phù hợp với đặc điểm của 
nguônd. Các tổ chức kinh tế trong quá trình kinh doanh của mình, nguồn tiền 
đến và đi rất bất chợt, khó đoán trước. Các tổ chức kinh tế thay vì giữu tiền 
tại cơ quan, họ mang đến gửi Ngân hàng. Tại đây họ thực hiện các dịch vụ 
thanh toán của Ngân hàng, tiết kiệm thời gian cho mình. Đồng thời họ vẫn 
được hưởng một khoản lãi nhỏ (hiện nay Ngân Hàng quy định lãi suất không 
kỳ hạn đối vơí VND là 0,2%/tháng). Điều này giải thích vì sao nguồn tiền gửi 
thanh toán chủ yếu là của các tổ chức kinh tế. Tiền gửi thanh toán của dân cư 
chủ yếu là của một số ít hộ dân buôn bán cá thể (các hộ buôn bán ở chợ Đồng 
Xuân, một số cửa hàng vàng, bạc trên địa bàn quận). Các hộ này cũng có nhu 
cầu như các tổ chức kinh tế song qua ccác năm, số này nhỏ dần trong tỷ 
trọng. Năm 2000 chiếm 4,64% nhưng đến năm 2002 chỉ còn 2%. Trong khi 
đó tiền gửi của các tổ chức kinh tế ngày càng tăng, đến năm 2002, chiếm 
98% tổng tiền gửi thanh toán. Đây có lẽ là xu hướng chung cho một nền kinh 
tế mở cửa, khi mà quá trình lưu thông hàng hoá giữa các vùng, giữa các nước 
ngày càng được mở rộng, thúc đẩy mạnh mẽ. 
Trong cơ cấu tiền gửi thanh toán chủ yếu là đồng nội tệ, đồng ngoại tệ 
chiếm một tỷ trọng nhỏ: 
Bảng 2.7. NGUỒN TIỀN GỬI THANH TOÁN THEO LOẠI TIỀN 
 (đơn vị: triệu đồng) 
Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 
Chỉ tiêu 
Số dư 
Tỷ trọng 
(%) 
Số dư 
Tỷ trọng 
(%) 
Số dư 
Tỷ trọng 
(%) 
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 
1.VND 156.221 94.04 344.485 97,47 455.631 98,09 
2.Ngoại tệ 9.887 5,96 8.931 2,53 8.854 1,91 
 Tổng 166.108 100 353.416 100 464.485 100 
Nguồn số liệu: Phòng kinh doanh NHCT Hoàn Kiếm cung cấp 
Đồng nội tệ trong tiền gửi thanh toán có xu hướng tăng qua các năm. 
Về số tuyệt đối thì tăng khoảng gấp rưỡi, còn về tỷ trọng thì tăng từ 94,04% 
năm 2000 lên 98,09% vào năm 2002. Đồng ngoại tệ thì ngày càng giảm đi về 
tỷ trọng từ 5,96% năm 2000 xuống còn 1.91% vào năm 2002. Điều này đặt ra 
cho Ngân Hàng một vấn đề lớn: Ngân Hàng phải tăng cường quan hệ với các 
công ty liên doanh, công ty có vốn đầu tư nước ngoài...Ngân Hàng cũng phải 
tìm kiếm, thu hút những doanh nghiệp XNK. Bởi nếu khách hàng là những 
người làm ăn với nước ngoài nhiều thì Ngân Hàng sẽ có một số lượng lớn 
ngoại tệ trong tay, sử dụng vào các mục đích của mình. Đây là cách huy động 
ngoại tệ rấy hay lại đỡ tốn kém hơn các hình thức khác. 
Nguồn tiền gửi thanh toán của chi nhánh ngày càng có vai trò quan 
trọng. Số lượng tăng lên rất nhanh. Đó là do các dịch vụ của Ngân Hàng được 
thực hiện rất tốt. Việc thanh toán được thực hiện theo phương châm: Nhanh- 
chính xác- an toàn. Để nguồn tiền gửi thanh toán tăng trưởng một cách vững 
chắc , trong thời gian tới Ngân Hàng cần quan tâm nhiều đối với các doanh 
nghiệp ngoài quốc doanh, hoàn thiện mọi dịch vụ để thực sự trở thành: "Kho 
giữ tiền" của mọi doanh nghiệp trên điạ bàn quận. 
b. Tiền gửi có kỳ hạn của các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội 
Nguồn tiền gửi này xét về mặt tiện ích thì không bằng tiền gửi thanh 
toán, song lại có lãi cao hơn hẳn. Người gửi tiền ở đây khôngđược quyền rút 
tiền bất cứ lúc nào mà chỉ được rút tiền khi đến hạn. Các doanh nghiệp, tổ 
chức xã hội có nhu cầu chi trả tiền theo một chu kỳ xác định: 1 tháng, 2 
tháng... Họ có thể gửi vào khoản mục này vừa đáp ứng cho nhu cầu của mình 
vừa có lãi cao. Ngày nay các doanh nghiệp chuyển bớt từ khoản mục tiền gửi 
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 
thanh toán sang tiền gửi ngắn hạn ngaỳ càng nhiều. Kết quả là các Ngân 
Hàng thu được nguồn này rất lớn, cụ thể tại chi nhánh như sau: 
Bảng 2.8. NGUỒN TIỀN GỬI CÓ KỲ HẠN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP, 
TỔ CHỨC KINH TẾ THEO KỲ HẠN (đơn vị: triệu đồng) 
Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 
Chỉ tiêu 
Số dư 
Tỷ 
trọng 
(%) 
Số dư 
Tỷ 
trong 
(%) 
Số dư 
Tỷ 
trọng 
(%) 
1.Ngắn hạn 
(dưới12 tháng) 
213.171 99,85 720.538 99,95 1.000.463 99,95 
2.Trung, dài hạn 
(trên12tháng) 
285 0,14 347 0,05 571 0,05 
 Tổng 213.456 100 720.885 100 1.001.034 100 
Nguồn số liệu: Phòng nguồn vốn NHCT Hoàn Kiếm cung cấp 
Tiền gửi có kỳ hạn, kỳ hạn càng dài thì lãi suất càng cao song trong cơ 
cấu của nguồn này thì gần như toàn bộ là ngắn hạn. Đây là một điều dễ giải 
thích. Doanh nghiệp là doanh nghiệp, có nghĩa là vốn có được phải được 
dùng để sản xuất kinh doanh chứ không đơn thuần là chỉ để gửi Ngân Hàng 
lấy lãi. Tỷ suất lợi nhuận bình quân trong kinh doanh lớn hơn lãi suất của 
Ngân Hàng. Các khách hàng của chi nhánh, ví dụ như tổng công ty Điện Lực 
Việt Nam gửi ngắn hạn sau đó họ lấy từng tháng để trả lương. Đây lầ một 
hình thức vô cùng thuận tiện. Với hình thức này Ngân hàng đã khắc phục 
được yếu điểm của tiền gửi thanh toán. Đó là nguyên nhân vì sao chỉ sau một 
năm, từ 2000 đến 2001, nguồn tiền gửi ngắn hạn của doanh nghiệp đã tăng 
3,38 lần từ 213 tỷ lên 720 tỷ đồng. Năm 2002 nguồn này đạt hơn 1000 tỷ 
đồng. Có thể khẳng địng đây sẽ là xu hướng trong thời gian tới. Các doanh 
nghiệp sẽ vừa kinh doanh, vừa tính toán sao cho đạt được lợi nhuận tối đa với 
nguồn vốn của mình. Đây cũng khẳng định uy tín của chi nhánh với các 
doanh nghiệp trên địa bàn. Trên quận Hoàn Kiếm, trụ sở của các Ngân Hàng, 
các chi nhánh Ngân Hàng khác rất nhiều nhưng các doanh nghiệp vẫn tìm 
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 
đến với Ngân Hàng thể hiện qua số dư tiền gửi của doanh nghiệp ngày càng 
tăng. Năm 2002 so với năm 2001 tăng 38,86% và so với năm 2000 tăng hơn 
5 lần. Quả thật là một con số trong mơ đối với nhiều chi nhánh, đơn vị khác. 
Số dư tiền gửi trung và dài hạn của các doanh nghiệp, tổ chức xã hội 
không lớn. Số dư này chủ yếu là của một số công ty do trong năm không tìm 
được hướng đầu tư, để tránh tìng trạng ứ đọng vốn, đã gửi vào Ngân Hàng. 
Nguồn này tuy cũng tăng qua các năm song tỷ trọng ngày càng nhỏ dần. Năm 
2000 chiếm 0,14% nguồn tiền gửi có kỳ hạn của các doanh nghiệp, tổ chức 
xã hội. Năm 2001 chiếm 0,05% và năm 2002 cũng vậy. Đứng ở địa vị Ngân 
Hàng thì Ngân Hàng mong ngày càng có nhiều nguồn này. Bởi vì Ngân Hàng 
có thể sử dụng một cách dễ dàng do kỳ hạn cố định. Hơn nữa số tiền nay lại ở 
trong một số ít các công ty, không phức tạp nhỏ lẻ như tiền gửi tiết kiệm nên 
có điều kiện làm giảm các chi phí khác trong chi phí huy động. 
Trong các năm qua Ngân Hàng ngày càng tạo điều kiện thuận lợi hơn 
cho các doanh nghiệp. Tiền gửi có kỳ hạn có lãi suất cao hơn so với tiền gửi 
thanh toán. các doanh nghiệp đã tận dụng điều này và đã nghiên cứu, tính 
toán chu kỳ kinh doanh của mình để chuyển một phần tiền gửi thanh toán 
sang tiền gửi có kỳ hạn. Ngân hàng có một lượng tiền để có thể sử dụng một 
cách ổn định hơn và doanh nghiệp có lãi hơn. Đây là một trong nhiều cách 
thức nhằm đa dạng hoá hình thức huy động, thu hút thật nhiều nguồn vốn của 
chi nhánh. Tỷ trọng tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp, tổ chức xã hội trong 
tổng nguồn vốn huy động tăng lên rất nhanh. Năm 2000 trong tổng nguồn 
vốn huy động 2.335.896 triệu đồng thì tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp 
chiếm 9,13%. Năm 2001 con số này là 16,77%, năm 2002 là 19,78%. điều 
đáng nói ở đây là trong khi tổng nguồn vốn huy động tăng lên gấp hơn hai 
lần tử năm 2000 đến năm 2002 thì tỷ trọng cũng tăng lên hơn hai lần. Điều 
này càng khẳng định tầm quan trọng của nguồn tiền gửi có kỳ hạn của các 
doanh nghiệp, các tổ chức xã hội. Tuy nhiên cũng như tiền gửi thanh toán, 
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 
nguồn tiền gửi này lại có sự chênh lệch rất lớn giữa các loại tiền. 
Bảng 2.9. NGUỒN TIỀN GỬI CÓ KỲ HẠN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP 
VÀ TỔ CHỨC XÃ HỘI THEO LOẠI TIỀN (đơn vị: triệu đồng) 
Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 
Chỉ tiêu 
Số dư 
 Tỷ 
trọng 
(%) 
Số dư 
Tỷ 
trong 
(%) 
Số dư 
Tỷ 
trong 
(%) 
1.VND 188.368 88,24 690.873 95,84 962.916 96,20 
2.Ngoại tệ 25.088 11,76 30.012 4,16 38.118 3,8 
Tổng 213.456 100 720.885 100 1.001.034 100 
Nguồn số liệu: Phòng nguồn vốn NHCT Hoàn Kiếm cung cấp 
Trong số khách hàng- doanh nghiệp của chi nhánh, hầu hết là các 
doanh nghiệp có môi trường làm ăn ở trong nước. Các khách hàng lớn như 
tổng công ty Điện lực Việt Nam cũng ít làm ăn với nước ngoài. Điều này 
được thể hiện qua tiền gửi có kỳ hạn của các doanh nghiệp chủ yếu là nội tệ. 
Tỷ trọng này tăng nhanh trong năm 2001 và dần ổn định ở mức cao trong 
năm 2002 (96,2%). Ngoại tệ thì ngày càng nhỏ đi từ 11,76% năm 2000 đến 
4,16% năm 2001 và 3,8% năm 2002. Để thu hút nguồn ngoại tệ nhiều hơn 
nữa, Ngân Hàng phải chú ý đến các đối tượng thuộc thành phần kinh tế ngoài 
quốc doanh. Một điều thuận tiện cho Ngân Hàng là trên địa bàn có rất nhiều 
cửa hàng vàng bạc, rất nhiều khách du lịch nước ngoài. Ngân Hàng nếu lôi 
cuốn đựoc hầu hêt số khách này thì chắc hẳn sẽ có một nguồn ngoại tệ dồi 
dào dư sức đáp ứng cho các khách hàng là những đơn vị XNK. Đi đôi với 
tăng nguồn ngoại tệ thu hút mạnh hơn nữa nguồn nội tệ cũng rất quan trọng. 
Ngân Hàng phải đề ra các chính sách về giao tiếp khuếch trương, chính sách 
về Marketing ngân hàng. ít nhất Ngân Hàng cũng phải thắng trên sân nhà, tức 
là phải thu hút được hầu hết các công ty, doanh nghiệp trên địa bàn làm 
khách hàng của chi nhánh. Làm được điều này trong một môi trường có đọ 
cạnh tranh rất cao như địa bàn Hoàn Kiếm là rất khó. Song có như vậy Ngân 
Hàng mới thu hút được khoản tiền gửi có kỳ hạn của một lượng doanh 
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 
nghiệp, tổ chức xã hội rất lớn trên địa bàn. Từ đó chi nhánh có một nguồn 
vốn dồi dào để thực hiện các hoạt động đầu tư, cho vay, gia tăng mức lợi 
nhuận cho mình. 
c. Tiền gửi tiết kiệm 
Có thể nói nghiệp vụ huy động tiền gửi tiết kiệm là nghiệp vụ có đầu 
tiên của bất cứ Ngân hàng nào từ xưa đến nay. Các tầng lớp dân cư đều có 
khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng (các khoản tiền tiết kiệm). Trong điều 
kiện có khả năng tiếp cận với Ngân hàng, họ đều có thể gửi tiết kiệm nhằm 
thực hiện các mục tiêu bảo toàn và sinh lời đối với các khoản tiết kiệm, đặc 
biệt là nhu cầu bảo toàn. Nhằm thu hút ngày càng nhiều tiền tiết kiệm, các 
Ngân hàng đều cố gắng khuyến khích dân cư thay đổi thói quen giữ vàng và 
tiền mặt tại nhà bằng cách mở rộng mạng lưới huy động, đưa ra các hình thức 
huy động đa dạng và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn (ví dụ như tiền gửi với các 
kỳ hạn khác nhau, tiết kiệm bằng ngoại tệ, bằng vàng...). Chính vì vậy đây là 
khu vực có mức độ cạnh tranh cao nhất giữa các Ngân hàng và các tổ chức 
tín dụng khác. 
Hiện nay, NHCT Hoàn Kiếm có 11 quỹ tiết kiệm, các quỹ này trực 
thuộc phòng Nguồn vốn và được phân bố dải rác trên địa bàn. Ngay từ đầu 
chi nhánh đã hết sức coi trọng công tác đặc biệt này. Nó được thể hiện qua 
việc các quỹ tiết kiệm đều được ưu tiên trang bị các máy móc thiết bị, môi 
trường sạch đẹp, khang trang... Ngay trong phòng Nguồn vốn về mặt nhân sự 
có 54 người thì chỉ có 6 người làm trên phòng, còn lại tất cả đều xuống các 
quỹ tiết kiệm. Ngân hàng thường xuyên tổ chức tập huấn, đào tạo trình độ 
nghiệp vụ cho các nhân viên ở các quỹ tiết kiệm. Về các mặt lương thưởng, 
trợ cấp... chi nhánh cũng đều hết sức quan tâm, chú ý. Kết quả của những 
việc làm trên là nguồn tiền gửi tiết kiệm ngày càng tăng, phát triển với một sự 
vững chắc ổn định qua từng năm. 
Bảng 2.10. TIỀN GỬI TIẾT KIỆM (đơn vị: triệu đồng) 
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 
Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 
1.Tiền gửi tiết kiệm 358.717 530.686 602.946 625.621 
2.Lượng TGTK gia 
tăng giữa các năm 
 + 171.969 + 72.260 + 22.675 
3.Tỷ lệ gia tăng giữa 
các năm 
 47,94 13,61 3,71 
Nguồn số liệu: Phòng nguồn vốn NHCT Hoàn Kiếm cung cấp 
Nguồn tiền gửi tiết kiệm của Ngân hàng là rất quan trọng. Nguồn này 
đáp ứng phần lớn cho hoạt động tín dụng. Qua các năm nguồn tiền gửi tiết 
kiệm của Ngân Hàng đều tăng song tốc độ tăng chậm dần. Nếu như năm 
2000 so với năm 1999 tăng đến 47,94% thì năm 2002 so với năm 2001 chỉ 
tăng 3,76%. Điều này phản ánh môi trường huy động tiền gửi tiết kiệm ngày 
càng khó khăn. Những năm 2000 đổ về trước việc huy động tiền gửi tiết kiệm 
của Ngân Hàng tương đối dễ dàng, đối thủ cạnh tranh của Ngân Hàng còn ít. 
Càng về sau với sự tham gia của nhiều tổ chức tín dụng trên địa bàn như: 
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Nông Nghiệp, chi nhánh 
Citibank...đã làm cho sự cạnh tranh ngày càng tăng. Tốc độ gia tăng tiền gửi 
tiết kiệm của chi nhánh có giảm song về số tuyệt đối thì vẫn ở mức cao. Ngân 
hàng vẫn khẳng định được vị thế vững chắc của mình trên địa bàn quận Hoàn 
Kiếm. Nếu xét về tỷ trọng trong tổng nguồn vốn huy động thì tiền gửi tiết 
kiệm có xu hướng ngày càng giảm dần. Năm 2000, tỷ trọng tiền gửi tiết kiệm 
trong tổng nguồn vốn là 22,71%. Năm 2001, tỷ lệ này còn 14,02% và năm 
2002 là12,36%. Như vậy tốc độ tăng của tiền gửi tiết kiệm không tăng nhanh 
hơn tốc độ của nguồn vốn huy động. Đây là một vấn đề cần xem xét lại. Để 
rõ hơn ta tìm hiểu về tiền gửi tiết kiệm theo kỳ hạn: 
Bảng 2.11. TIỀN GỬI TIẾT KIỆM THEO KỲ HẠN (đơn vị: triệu đồng) 
Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 
Số dư 
Tỷ 
trọng 
(%) 
Số dư 
Tỷ 
trọng 
(%) 
Số dư 
Tỷ 
trọng 
(%) 
1.TGTK không kỳ 
hạn 
7.717 1,46 9.143 1,53 9.317 1,5 
2.TGTK từ 1 đến 
6 tháng 
74.882 14,11 104.670 17,35 117.552 18,79 
3.TGTK từ 6 đến 
9 tháng 
223.498 42,11 223.337 37,04 219.196 35,03 
4.TGTK từ 12 
tháng trở lên 
224.589 42,32 265.796 44,08 279.556 44,68 
 Tổng 530.686 100 602.946 100 625.621 100 
Nguồn số liệu: Phòng nguồn vốn NHCT Hoàn Kiếm cung cấp 
Kỳ hạn của các khoản tiền gửi mà Ngân hàng đưa ra khá phong phú. 
Hiện nay tại chi nhánh có các kỳ hạn sau: tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, 
tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 
tháng, 18 tháng, 24 tháng. Về tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, thực chất đây 
là khoản tiền gửi tiết kiệm thông thường. Nguồn này có số dư không lớn và ít 
biến động qua các năm ( khoảng 1,5% tiền gửi tiết kiệm). Hầu hết mục đích 
của người gửi tiền vào đây là để lấy lãi nên họ gửi với kỳ hạn dài (thời hạn 
càng dài lãi suất càng cao). Tiền gửi tiết kiệm từ 1- 3 tháng có xu hướng tăng 
qua các năm. Năm 2000 đạt 14,11% tổng số tiền gửi tiết kiệm. Năm 2002 đạt 
khoảng 18,7%. Điều này là kết quả của việc đa dạng các kỳ hạn gửi tiền. 
Năm 2001, tiền gửi tiết kiệm không có kỳ hạn 2 tháng. Năm 2002, Ngân hàng 
mở thêm kỳ hạn này và đã được khách hàng rất hoan nghênh. Nhờ đó nguồn 
tiền gửi tiết kiệm đã tăng lên. Ta thấy tốc độ tăng khá đều đã khẳng định xu 
thế của nguồn này sẽ tăng trong tương lai. Đối với tiền gửi tiết kiệm kỳ hạn 
6- 9 tháng thì lại ngược lại, đang có xu hướng giảm dần trong thời gian gần 
đây. Từ 42,115 trong tổng số tiền gửi tiết kiệm năm 2000 xuống còn 37,04% 
năm 2001 và 35,03% năm 2002. Tuy vậy số dư của nguồn này vẫn lớn. Hình 
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 
thức này vẫn đáp ứng được các nhu cầu của khách hàng. 
Chiếm tỷ trọng lớn nhất và là nguồn quan trọng nhất trong tiền gửi tiết 
kiệm là nguồn tiền gửi tiết kiệm trung và dài hạn. Đây là nguồn chủ yếu dể 
dùng cho vay trung và dài hạn, mang lại lợi nhuận cao. Nguồn này có xu 
hướng ngày càng tăng. Huy động được nhiều nguồn này chứng tỏ chi nhánh 
đã có uy tín cao đối với khách hàng. Người dân có tin tưởng Ngân Hàng thì 
họ mới gửi vốn trung và dài hạn, một bộ phận rất không an toàn do yếu tố 
làm phát. Để gia tăng nguồn trung và dài hạn này đòi hỏi Ngân hàng phải 
phục vụ tốt hơn nữa, mở rộng tuyên truyền, quảng cáo đến từng người dân để 
thu hút sự chú ý, lòng tin của họ. Đây là cơ sở cho sự phát triển vững chắc 
sau này. 
Một trong những sáng tạo của chi nhánh là trong năm qua chi nhánh đã 
đưa ra hình thức tiết kiệm dự thưởng. Đây là một hình thức mới đối với ngay 
cả nhân viên trong Ngân hàng. Tuy nhiên nó cũng đem lại những thành quả 
bước đầu: 
Tiết kiệm dự thưởng bằng VND (đơn vị: triệu đồng) 
+ Kỳ hạn 6 tháng: 20.717 
+ Kỳ hạn9 tháng: 447 
+ Kỳ hạn 12 tháng: 7.178 
Nguồn vốn thu được tuy không nhiều song quan trọng là qua đó, khách 
hàng biết đến Ngân hàng nhiều hơn, một hình thức quảng cáo rất tốt. Nhưng 
trong loại hình tiết kiệm dự thưởng, kỳ hạn Ngân hàng đưa ra còn chưa đa 
dạng. Ngay cả đợt tiết kiệm dự thưởng hiện tại mà Ngân hàng đang mở ra từ 
1/4/2003 đến 30/6/2003 cũng chỉ có kỳ hạn 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng. Ngân 
hàng có thể mở thêm kỳ hạn hơn nữa để thu hút khách hàng. Đồng thời với 
việc tăng thêm kỳ hạn, Ngân hàng có thể nghiên cứu đưa ra hình thức tiết 
kiệm dự thưởng bằng USD. Có như vậy mới thu hút được nhiều nhất tiền gửi 
tiết kiệm có thể. 
Về loại tiền gửi tiết kiệm, năm 2000 chi nhánh đã có một bước đột phá 
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 
là nhận tiền gửi bằng EUR. Tiền gửi tiết kiệm bằng EUR có kỳ hạn 3 tháng, 6 
tháng, 12 tháng. Đây là một bước tiến tới đa dạng các đồng tiền Ngân hàng 
huy động. 
Bảng 2.12. TGTK BẰNG EUR THEO THỜI HẠN (đơn vị: triệu đồng) 
Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 
Chỉ tiêu 
Số dư 
Tỷ 
trọng 
(%) 
Số dư 
Tỷ 
trọng 
(%) 
Số dư 
Tỷ 
trọng 
(%) 
1.TGTK 
không kỳ hạn 
2.TGTK ngắn 
hạn 
75.059 33,85 97.004 37,72 102.161 39,29 
3.TGTK trung 
và dài hạn 
146.665 66,15 160.104 62,28 157.848 60,71 
Tổng 221.714 100 257.108 100 260.009 100 
Nguồn số liệu: Phòng nguồn vốn NHCT Hoàn Kiếm cung cấp 
Có thể thấy mục đích chủ yếu của người gửi tiền là để hưởng lãi nên số 
dư tiền gửi trung và dài hạn lớn hơn hẳn nguồn ngắn hạn. Thường là gần gấp 
đôi. Nguồn tiền gửi tiết kiệm ngắn hạn bằng ngoại tệ có xu hướng tăng dần, 
năm 2000 chiếm 33,85% thì năm 2002 là 39,29%. Ngược lại nguồn tiền gửi 
tiết kiệm trung và dài hạn bằng ngoại tệ lại có xu hướng giảm dần. Tuy nhiên 
vẫn còn ở mức cao. Trong số tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ , nguồn tiền gửi 
không kỳ hạn là không có. Do vậy nguồn tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ có 
tính ổn định rất cao. Trong tổng số 268949 tỷ đồng thu được thì nguồn tiền 
gửi do dân cư chiếm phần lớn (khoảng 82,43%). Tỷ lệ này luôn ở mức cao và 
chiếm tỷ trọng 86,84% vào năm 2001 và 84,69% vào năm 2002. 
Đặc biệt hình thức tiết kiệm bằng EUR, tuy chỉ mới bắt đầu thực hiện 
vào tháng 2/2002, nhưng đã thể hiện đây là một hình thức huy động đầy tiềm 
năng trong tương lai. 
Bảng 2.13. TGTK BẰNG EUR (đơn vị: EUR) 
Luận văn tốt nghiệp Trần Ngọc Anh - TCDN 41D 
Năm 2002 
TGTK bằng EUR 
Số dư Tỷ trọng (%) 
 1.Kỳ hạn 3 tháng 22.734,69 19,55 
 2.Kỳ hạn 6 tháng 53.825 46,24 
 3.Kỳ hạn 12 tháng 39.820 34,21 
 Tổng 116.379,69 100 
Nguồn số liệu: Phòng nguồn v
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
Luận văn- Thực trạng và một số giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn tại Ngân Hàng Công Thương Hoàn Kiếm.pdf