Tài liệu Luận văn Thực trạng và một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác quản lý tài chính bảo hiểm xã hội tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay: Luận văn 
Thực trạng và một số 
giải phỏp nõng cao 
chất lượng cụng tỏc 
quản lý tài chớnh 
BHXH tại Việt Nam 
trong giai đoạn hiện 
nay 
 Đại học Kinh tế quốc dân Luận văn tốt nghiệp 
LỜI MỞ ĐẦU 
Bảo hiểm xó hội (BHXH) là một chớnh sỏch lớn của Đảng và Nhà 
nước đối với người lao động, nhằm đảm bảo cuốc sống vật chất, ổn định đời 
sống cho người lao động và gia đỡnh họ trong cỏc trường hợp bị ốm đau, thai 
sản, suy giảm khả năng lao động, mất việc làm, hết tuổi lao động hoặc chết. 
Chớnh sỏch BHXH ở nước ta được thực hiện ngay từ những ngày đầu mới 
thành lập nước, 60 năm qua, trong quỏ trỡnh tổ chức thực hiện, chớnh sỏch 
BHXH ngày càng được hoàn thiện và khụng ngừng đổi mới, bổ xung cho 
phự hợp với điều kiện hiện tại của đất nước. Cựng với quỏ trỡnh đổi mới của 
nền kinh tế từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986), 
chớnh sỏch BHXH và tổ chức quản lớ hoạt động cũng cú nhiều đổi mới tớch 
cực. 
Từ việc nghiờn cứu quỏ trỡnh đổi mới của BHXH...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
68 trang | 
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1068 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Thực trạng và một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác quản lý tài chính bảo hiểm xã hội tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn 
Thực trạng và một số 
giải pháp nâng cao 
chất lượng công tác 
quản lý tài chính 
BHXH tại Việt Nam 
trong giai đoạn hiện 
nay 
 §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp 
LỜI MỞ ĐẦU 
Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một chính sách lớn của Đảng và Nhà 
nước đối với người lao động, nhằm đảm bảo cuốc sống vật chất, ổn định đời 
sống cho người lao động và gia đình họ trong các trường hợp bị ốm đau, thai 
sản, suy giảm khả năng lao động, mất việc làm, hết tuổi lao động hoặc chết. 
Chính sách BHXH ở nước ta được thực hiện ngay từ những ngày đầu mới 
thành lập nước, 60 năm qua, trong quá trình tổ chức thực hiện, chính sách 
BHXH ngày càng được hoàn thiện và không ngừng đổi mới, bổ xung cho 
phù hợp với điều kiện hiện tại của đất nước. Cùng với quá trình đổi mới của 
nền kinh tế từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986), 
chính sách BHXH và tổ chức quản lí hoạt động cũng có nhiều đổi mới tích 
cực. 
Từ việc nghiên cứu quá trình đổi mới của BHXH tôi nhận thấy BHXH 
thực sự là một chính sách quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển 
của đất nước. BHXH không những góp phần ổn định đời sống của người lao 
động mà còn khuyến khích họ tích cực lao động sản xuất tạo ra của cải cho 
xã hội, xây dựng đất nước. Trong quá trình thực hiện BHXH đã không 
ngừng phát triển cả về chất lượng lẫn số lượng. Số người tham gia ngày càng 
tăng lên, mở rộng cho các đối tượng tham gia, hoàn thiện dần hệ thống chính 
sách BHXH tiến tới thực hiện đủ các chế độ của Tổ chức lao động quốc tế 
(ILO). Đặc biệt là sự đổi mới về cơ chế quản lí từ cơ chế quản lí kế hoạch 
hoá, tập chung, bao cấp, hoàn toàn do NSNN đảm bảo đã chuyển sang cơ 
chế thực hiện có thu và quỹ hoạt động trên nguyên tắc cân bằng thu chi. 
Cách thực hiện như vậy không những giảm được gánh nặng cho NSNN mà 
còn thể hiện trách nhiệm của cả người sử dụng lao động đối với người lao 
động. Nhà nước nước đóng vai trò tổ chức thực hiện và quản lí thông qua 
BHXH Việt Nam, là hệ thống ngành dọc được tổ chức từ Trung ương đến 
địa phương. 
Bên cạnh những mặt đạt được, BHXH Việt Nam cũng còn rất nhiều 
tồn tại cần sớm được khắc phục cả về nội dung chính sách, tổ chức quản lí 
hoạt động. Đây là những đòi hỏi cấp thiết cần được nghiên cứu để góp phần 
 §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp 
hoàn thiện chính sách và tổ chức quản lí hoạt động của BHXH Việt Nam. 
Trong đó quản lí tài chính BHXH Việt Nam là một mảng lớn, cần được chú 
trọng và quan tâm vì tài chính BHXH có vững thì các chế độ trợ cấp mới 
được đảm bảo thực hiện tốt mà không dẫn đến tình trạng thâm hụt NSNN. 
Chính vì vậy với ngành học được đào tạo, sau khi về thực tập tại BHXH 
Việt Nam, tôi đã chọn đề tài: “Công tác quản lí tài chính BHXH Việt 
Nam- Thực trạng và giải pháp” để nghiên cứu công tác quản lí tài chính 
BHXH Việt Nam, với mục đích là rút ra những kết quả đạt được để phát 
huy, những tồn tại cần khắc phục. Hơn nữa thông qua đó có thể đưa ra 
những đóng góp, góp phần hoàn thiện hệ thống BHXH Việt Nam, phát huy 
tối đa chức năng của BHXH trong thời đại mới. 
Kết cấu của đề tài gồm ba chương: 
Chương I: Lí luận chung về BHXH và quản lí tài chính BHXH. 
Chương II: Thực trạng công tác quản lí tài chính BHXH tại Việt Nam hiện nay. 
Chương III: Một số giải pháp đối với công tác quản lí tài chính BHXH Việt Nam trong thời kì tới. 
 §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp 
CHƯƠNG I: LÍ LUẬN CHUNG VỀ BHXH VÀ 
QUẢN LÍ TÀI CHÍNH BHXH 
I. Những vấn đề cơ bản về BHXH. 
Tính tất yếu khách quan của BHXH. 
Sự ra đời của BHXH cũng giống như các chính sách xã hội khác luôn 
bắt nguồn từ yêu cầu thực tiễn của cuộc sống đặt ra.Từ thời xa xưa, con 
người để chống lại những rủi ro, thiên tai của cuộc sống đã biết đoàn kết 
tương trợ lẫn nhau, giúp đỡ lẫn nhau. Nhưng sự giúp đỡ này chỉ mang tính 
tự phát và với quy mô nhỏ, thường là trong một nhóm người chung quan hệ 
huyết thống. 
Khi xã hội càng ngày càng tiến bộ, đặc biệt là khi chuyển sang giai đoạn có sự phân công lao động 
xã hội, nền sản xuất xã hội lúc này đã phát triển. Cùng với nó là quan hệ xã hội giữa các cá nhân, giữa các 
cộng đồng cũng phát triển hơn. Khi đó tôn giáo bắt đầu xuất hiện, nó không chỉ với ý nghĩa giáo dục con 
người hướng thiện mà còn có các trại bảo dưỡng, hội cứu tế với mục đích từ thiện, trợ giúp nhau trong cuộc 
sống. Như vậy xét về bản chất thì hình thức tương trợ trong thời kì này đã mang tính có tổ chức và quy mô 
rộng rãi hơn. 
Từ thế kỉ thứ XVI ở Châu Âu đã xuất hiện ngành công nghiệp, những người nông dân không có 
đất phải di cư ra thành phố làm thuê cho các nhà máy ngày càng nhiều và dần trở thành công nhân. Đặc biệt 
đến thời kì cách mạng công nghiệp thì lực lượng ngày càng đông đảo và trở thành giai cấp công nhân. Nhìn 
chung họ sống không ổn định, cuộc sống chỉ dựa vào công việc với đồng lương ít ỏi, mất việc làm, ốm đau, 
tai nạn lao động ... đều có thể đe doạ cuộc sống của họ. Tình đoàn kết tương thân tương ái giữa họ đã nảy 
nở, cùng với đó là sự ra đời của các nghiệp đoàn, các hiệp hội giúp đỡ các thành viên khi bị ốm đau bệnh 
tật trong quá trình sản xuất. Bên cạnh Hội tương tế còn có Quỹ tiết kiệm được Nhà nước khuyến khích 
thành lập. Tiếp đó những quy định bắt buộc người sử dụng lao động phải chu cấp cho người lao động thuộc 
quyền quản lí khi họ gặp phải ốm đau, tai nạn lao động, mất việc... Giai cấp công nhân càng đông đảo thì 
sức ép đối với những đòi hỏi đảm bảo cuộc sống cho họ ngày càng ảnh hưởng đến đời sống chính trị của 
mỗi nước. Trước tình cảnh đó Chính Phủ mỗi nước không thể không quan tâm đến tình cảnh của người lao 
động. Những yêu cầu giảm giờ làm, cải thiện điều kiện lao động, đảm bảo cuộc sống của người lao động 
dần được quy định thành các chính sách bắt buộc đối với mỗi nước. 
Điển hình là vào năm 1850, dưới thời Thủ tướng Bismark của Đức đã giúp các địa phương thành 
lập quỹ do người công nhân đóng góp để được trợ cấp lúc rủi ro. Nguyên tắc bảo hiểm bắt buộc bắt nguồn 
từ đây, người được bảo hiểm phải tham gia đóng phí. Sau đó sáng kiến này được áp dụng rộng rãi trên khắp 
thế giới. BHXH ngày càng được hoàn thiện, thực hiện rộng khắp các nước và được Tổ chức Lao động 
Quốc tế ( ILO) thông qua trong Công ước số 102 vào tháng 4 năm 1952. BHXH ở nước ta đã manh nha 
hình thành từ thời thực dân Pháp thống trị. Sau cách mạng tháng Tám, Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ 
Cộng Hoà đã ban hành sắc lệnh 29/ SL ngày 12/3/1947 về việc thực hiện bảo hiểm ốm đau, tai nạn lao 
động, hưu trí. Đây là những viên gạch đầu tiên xây dựng nên hệ thống BHXH Việt Nam như hiện nay. 
 §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp 
2. Khái niệm BHXH. 
 Qua quá trình hình thành chúng ta có thể nhận thấy, lúc khởi đầu, BHXH chỉ mang tính chất tự 
phát, phạm vi hoạt động nhỏ hẹp, trước nhu cầu của thực tiễn thì chính sách BHXH đã nhanh chóng ra đời 
và từng bước phát triển rộng khắp. BHXH đã được từ điển bách khoa Việt Nam định nghĩa như sau: 
“ BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị mất 
hoặc giảm thu nhập do bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp, 
tuổi già, tử tuất dựa trên cơ sở một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH, có sự bảo hộ 
của Nhà nước theo pháp luật, nhằm bảo đảm an toàn đời sống cho người lao động và gia đình họ, đồng thời 
góp phần bảo đảm an toàn xã hội.” 
Qua khái niệm trên, có thể rút ra một số điểm cơ bản sau: 
- Đối tượng của BHXH chính là phần thu nhập của người lao động bị biến động, giảm hoặc mất đi do bị 
giảm hoặc mất khả năng lao động do các biến cố như đã nêu trên từ đó để giúp ổ định cuộc sống của 
bản thân người lao động và gia đình họ. Chính vì yếu tố này mà BHXH được coi là một chính sách lớn 
của mỗi quốc gia và được Nhà nước quan tâm quản lí chặt chẽ. Cũng tùy vào điều kiện kinh tế của mỗi 
nước mà các quy định về đối tượng này là có sự khác nhau nhưng cùng bảo đảm ổn đình đời sống của 
người lao động. 
- Đối tượng tham gia BHXH là gồm người lao động và cả người sử dụng lao động. Sở dĩ người lao động 
phải đóng phí vì chính họ là đối tượng được hưởng BHXH khi gặp rủi ro. Người sử dụng lao động 
đóng phí là thể hiện sự quan tâm, trách nhiệm của họ đối với người lao động. Và sự đóng góp trên là 
bắt buộc, ngoài ra còn có sự hỗ trợ của Nhà nước. 
- Để điều hoà mâu thuẫn giữa người lao động và người sử dụng lao động, để gắn bó lợi ích giữa họ, Nhà 
nước đã đứng ra yêu cầu cả hai bên cùng đóng góp và đây cũng là chính sách xã hội được thực hiện 
góp phần ổn định cuộc sống một cách hiệu quả nhất. 
Dựa vào bản chất và chức năng của BHXH mà Tổ chức Lao động Quốc tế ( ILO) cũng đã đưa ra 
một định nghĩa khác như sau: 
“ BHXH là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình 
thông qua một loạt các biện pháp công cộng (bằng pháp luật, trách nhiệm 
của Chính phủ) để chống lại tình trạng khó khăn về kinh tế và xã hội do bị 
mất hoặc giảm mất thu nhập gây ra bởi ốm đau, mất khả năng lao động, tuổi 
già, tàn tật và chết. Hơn nữa, BHXH còn phải bảo vệ cho việc chăm sóc y tế, 
sức khoẻ và trợ cấp cho các gia đình khi cần thiết.” 
Từ định nghĩa trên chúng ta thấy mục tiêu của BHXH là hướng tới sự phát triển của mỗi cá nhân 
và toàn xã hội. BHXH thể hiện sự đảm bảo lợi ích của xã hội đối với mỗi thành viên từ đó gắn kết mỗi cá 
nhân với xã hội đó. 
3. Bản chất và chức năng của BHXH. 
3.1. Bản chất của BHXH. 
 §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp 
Có thể hiểu BHXH là sự bù đắp một phần thu nhập bị mất của người 
lao động khi gặp phải những biến cố như ốm đau, tai nan lao động, bệnh 
nghề nghiệp hoặc tuổi già làm mất, giảm khả năng lao động, từ đó giúp ổn 
định cuộc sống của bản thân người lao động và gia đình họ. BHXH hiện nay 
được coi là một chính sách xã hội lớn của mỗi quốc gia, được nhà nước quan 
tâm và quản lí chặt chẽ. BHXH xét về bản chất bao gồm những nội dung sau 
đây: 
BHXH là sự cần thiết tất yếu khách quan gắn liền với sự phát triển của 
nền kinh tế. Đặc biệt đối với nền kinh tế hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị 
trường, mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động ngày 
càng phát triển. Do vậy trình độ phát triển của nền kinh tế quyết định đến sự 
đa dạng và tính hoàn thiện của BHXH. Vì vậy có thể nói kinh tế là yếu tố 
quan trọng quyết định tới hệ thống BHXH của mỗi nước. 
BHXH, bên tham gia BHXH, bên được BHXH là ba chủ thể trong mối 
quan hệ của BHXH. Bên tham gia BHXH gồm người lao động và người sử 
dụng lao động (bên đóng góp), bên BHXH là bên nhận nhiệm vụ BHXH, 
thông thường thì do cơ quan chuyên trách do Nhà nước lập ra và bảo trợ, 
bên được BHXH chính là người lao động và gia đình họ khi có đủ điều kiện 
cần thiết. Từ đó họ được đảm bảo những nhu cầu thiết yếu, giúp họ ổn định 
cuộc sống, góp phần ổn đình xã hội. 
Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động của người lao 
động có thể là những rủi ro ngẫu nhiên( tai nạn, ốm đau, bệnh nghề 
nghiệp...), cũng có thể là các rủi ro không hoàn toàn ngẫu nhiên( tuổi già, 
thai sản, ...). Đồng thời các biến cố này có thể xảy ra trong quá trình lao 
động hoặc ngoài lao động. Phần thu nhập của người lao động bị giảm hay 
mất đi từ các rủi ro trên sẽ được thay thế hoặc bù đắp từ nguồn quỹ tập trung 
được tồn tích lại do bên tham gia BHXH đóng góp và có thêm sự hỗ trợ của 
NSNN. 
3.2. Chức năng của BHXH. 
Chức năng cơ bản nhất của BHXH là thay thế, bù đắp phần thu nhập 
của người lao động khi họ gặp những rủi ro làm mất thu nhập do mất khả 
năng lao động hay mất việc làm. Rủi ro này có thể làm mất khả năng lao 
 §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp 
động tam thời hay dài hạn thì mức trợ cấp sẽ được quy định cho từng trường 
hợp. Chức năng này quyết định nhiệm vụ, tính chất và cả cơ chế tổ chức 
hoạt động của BHXH. 
Đối tượng tham gia BHXH có cả người lao động và người sử dụng lao 
động và cùng phải đóng góp vào quỹ BHXH. Quỹ này dùng để trợ cấp cho 
người lao động khi gặp phải rủi ro, số người này thường chiếm số ít. BHXH 
thực hiện cả phân phối lại thu nhập theo chiều dọc và chiều ngang, giữa 
người lao động khoẻ mạnh với người lao động ốm đau, già yếu..., giữa 
những người có thu nhập cao phải đóng nhiều với người có thu nhập thấp 
phải đóng ít. Như vậy thực hiện chức năng này BHXH còn có ý nghĩa góp 
phần thực hiện công bằng xã hội, một mục tiêu quan trọng trong chính sách 
kinh tế -xã hội của mỗi quốc gia. 
Nhờ có BHXH mà người lao động luôn yên tâm lao động, gắn bó với 
công việc, nâng cao năng suất lao động. Từ đó góp phần nâng cao năng suất 
lao động xã hội, tạo ra của cải vật chất ngày càng nhiều hơn, nâng cao đời 
sống toàn xã hội. Nếu trước đây, sự trợ giúp là mang tính tự phát, thì hiện 
nay khi xã hội đã phát triển, việc trợ giúp đã được cụ thể hoá bằng các chính 
sách, quy định của Nhà nước. Sự bảo đảm này giúp gắn bó mối quan hệ giữa 
người lao động và xã hội và càng thúc đẩy hơn nghĩa vụ của họ đối với xã 
hội. 
Trong thực tế giữa người lao động và người sử dụng lao động có những mâu thuẫn nội tại, khách 
quan về tiền lương, tiền công, thời gian lao động... BHXH đã gắn bó lợi ích giữa họ, đã điều hoà được 
những mâu thuẫn giữa họ, làm cho họ hiểu nhau hơn. Đây cũng là mối quan hệ biện chứng hai bên đều có 
lợi, người lao động thì được đảm bảo cuộc sống, người sử dụng thì sẽ có một đội ngũ công nhân hăng hái, 
tích cực trong sản xuất. Đối với Nhà nước thì BHXH là cách chi ít nhất song hiệu quả nhất vì đã giải quyết 
những khó khăn về đời sống của người lao động và góp phần ổn định sản suất, ổn định kinh tế - xã hội. 
4. Nguyên tắc hoạt động của BHXH. 
Nhìn chung hệ thống BHXH được thực hiện dựa trên các nguyên tắc sau: 
Thứ nhất là nguyên tắc đóng hưởng chia sẻ rủi ro; lấy số đông bù số ít, lấy của người đang làm 
việc bù đắp cho người nghỉ hưởng chế độ BHXH. Đây là nguyên tắc hoạt động chung của ngành bảo hiểm 
là quỹ góp chung của số đông bù cho số ít là những người thiếu may mắn gặp phải những rủi ro trong cuộc 
sống, trong lao động sản xuất. Phần thể hiện tính chính sách của Nhà nước là việc rủi ro trong BHXH 
không chỉ là những rủi ro thuần tuý như trong bảo hiểm thương mại mà còn có cả những rủi ro không mang 
tính ngẫu nhiên như: tuổi già, thai sản,... 
 §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp 
Thứ hai là mức hưởng phải thấp hơn tiền lương làm căn cứ đóng BHXH, nhưng phải đảm bảo 
được mức sống tối thiểu cho người hưởng khoản trợ cấp đó. Việc quy định trên là hoàn toàn hợp lí và cũng 
là quy định chung cho tất cả các nước, song thấp bao nhiêu còn tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, 
xã hội của mỗi nước trong mỗi thời kì khác nhau. 
Thứ ba là phải tự chủ về tài chính, đây là nguyên tắc quan trọng trong chính sách BHXH của các 
nước. Nếu chỉ hoàn toàn phụ thuộc vào Ngân sách Nhà nước (NSNN) giống như giai đoạn trước cải cách 
năm 1995 của nước ta thì đây thực sự là một gánh nặng lớn của đất nước. Việc thành lập quỹ BHXH do các 
bên tham gia BHXH đóng góp và có sự hỗ trợ của Nhà nước là hoàn toàn phù hợp. Quỹ này có thể quản lí 
theo các cách thức khác nhau song độc lập với NSNN , NSNN chỉ bù thiếu hoặc tài trợ một phần tuỳ thuộc 
vào quy định của mỗi nước khác nhau. 
5. Các chế độ của BHXH. 
Đối với mỗi nước có những hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội khác 
nhau nên BHXH được tổ chức thực hiện theo những quy định riêng khác 
nhau. BHXH được xây dựng dựa vào các nguyên tắc trên một cách thống 
nhất trên toàn thế giới và phải tuân thủ các quy định sau của tổ chức Lao 
động Quốc tế (ILO) về hệ thống chính sách BHXH. Trong Công ước 102 
được ILO thông qua ngày 4/6/1952 có quy định những quy phạm tối thiểu 
về an toàn xã hội đã đưa ra 9 chế độ sau: 
- Chăm sóc y tế. 
- Trợ cấp ốm đau. 
- Trợ cấp thất nghiệp. 
- Trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. 
- Trợ cấp tuổi già. 
- Trợ cấp thai sản. 
- Trợ cấp tàn tật. 
- Trợ cấp vì mất người trụ cột gia đình. 
 Các thành viên tham gia Công ước phải thực hiện ít nhất là 3 trong 9 
chế độ nói trên, trong đó phải có nhất thiết 1 trong năm chế độ sau đây: 
- Trợ cấp tuổi già. 
- Trợ cấp thất nghiệp. 
- Trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. 
- Trợ cấp tàn tật. 
 §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp 
- Trợ cấp vì mất người trụ cột gia đình. 
Mỗi chế độ trong hệ thống BHXH khi xây dựng phải dựa trên các cơ 
sở điều kiện kinh tế, thu nhập, tiền lương, ... Đồng thời, tuỳ từng chế độ mà 
còn phải tính đến các yếu tố sinh học, tuổi thọ bình quân, nhu cầu dinh 
dưỡng, ... để quy định các mức đóng, mức hưởng, thời gian hưởng và đối 
tượng hưởng cho hợp lí. Các chế độ BHXH có những đặc điểm chủ yếu sau 
đây: 
 + Các chế độ được xây dựng theo luật pháp của mỗi nước. 
 + Hệ thống các chế độ mang tính chất chia sẻ rủi ro, chia sẻ tài chính. 
 + Mỗi chế độ được chi trả đều căn cứ chủ yếu vào mức đóng góp của các 
bên tham gia BHXH. 
 + Phần lớn các chế độ là chi trả định kì. 
 + Đồng tiền được sử dụng làm phương tiện chi trả và thanh quyết toán. 
 + Chi trả BHXH như là quyền lợi của mỗi chế độ BHXH. 
 + Mức chi trả còn phụ thuộc vào quỹ dự trữ. Nếu quỹ dự trữ được đầu tư 
có hiệu quả và an toàn thì mức chi trả sẽ cao và ổn định. 
 + Các chế độ BHXH cần phải được điều chỉnh định kì để phản ánh hết 
sự thay đổi của điều kiện kinh tế -xã hội. 
6. Quỹ BHXH và phân loại quỹ BHXH. 
6.1. Quỹ BHXH. 
Như chúng ta đã tìm hiểu trong phần 1 ở trên thì sự ra đời của quỹ 
BHXH là một bước ngoặt lớn đối với ngành BHXH trên toàn thế giới. Quỹ 
BHXH là một quỹ tài chính độc lập, tập chung nằm ngoài NSNN và được 
hình thành từ các nguồn sau đây: 
- Người sử dụng lao động đóng góp, 
- Người lao động đóng góp, 
- Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm, 
 §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp 
- Các nguồn khác (như cá nhân và tổ chức từ thiện ủng hộ, lãi từ các 
hoạt động đầu tư quỹ nhàn rỗi). 
Trách nhiệm tham gia đóng góp BHXH cho người lao động được 
phân chia cho cả người lao động và người sử dụng lao động trên cơ sở quan 
hệ lao động. Điều này không phải sự chia sẻ rủi ro, mà là lợi ích giữa hai 
bên. Sự đóng góp một phần quỹ của người sử dụng lao động cho người lao 
động sẽ tránh được những thiệt hại kinh tế do phải chi ra một khoản tiền lớn 
khi có rủi ro xảy ra đối với người lao động mà mình thuê mướn. Đồng thời, 
nó còn góp phần giảm bớt mâu thuẫn, kiến tạo mối quan hệ tốt đẹp giữa chủ- 
thợ. Về phía người lao động, sự đóng góp của họ vừa thể hiện sự tự gánh 
chịu chính những rủi ro của chính mình, vừa có ý nghĩa ràng buộc nghĩa vụ 
và quyền lợi một cách chặt chẽ. 
Phần lớn các nước trên thế giới, quỹ BHXH đều được hình thành từ 
các nguồn nêu trên. Tuy nhiên, phương thức đóng góp và mức đóng góp của 
các bên tham gia BHXH có khác nhau tuỳ thuộc quy định của mỗi nước. 
Hiện nay mức đóng góp BHXH của người lao động và người sử dụng lao 
động hiện vẫn còn hai quan điểm. Quan điểm thứ nhất cho rằng, phải căn cứ 
vào mức lương cá nhân và quỹ lương cơ quan, doanh nghiệp. Quan điểm thứ 
hai lại cho rằng, phải căn cứ vào mức thu nhập cơ bản của người lao động 
được cân đối chung trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân để xác định mức 
đóng góp. Về mức đóng góp BHXH, mỗi nước lại có những quy định khác 
nhau. Một số nước quy định người sử dụng lao động phải chịu toàn bộ chi 
phí cho chế độ tai nạn lao động, Chính phủ trả chi phí y tế và trợ cấp gia 
đình, các chế độ còn lại cả người lao động và người sử dụng lao động cùng 
đóng góp mỗi bên một phần bằng nhau. Trong đó, một số nước khác lại quy 
định, Chính phủ bù thiếu cho quỹ BHXH hoặc chịu toàn bộ chi quản lí 
BHXH .... 
Quỹ BHXH được sử dụng để chi trả chủ yếu cho hai mục đích sau: 
thứ nhất là chi trả và trợ cấp cho các chế độ BHXH như đã nêu ở mục 5, còn 
lại là chi trả cho chi phí sự nghiệp quản lí BHXH. Trong hai khoản chi đó thì 
khoản chi thứ nhất là quan trọng và chiếm phần lớn trong quỹ BHXH. Các 
 §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp 
khoản trợ cấp này cũng được quy định về mức trợ cấp và thời gian hưởng 
một cách cụ thể và có sự khác biệt đối với từng chế độ. Tại những nước khác 
nhau thì các khoản trợ cấp này cũng được quy định khác nhau. 
6.2. Phân loại quỹ BHXH: 
Tuỳ theo mục đích và cách tổ chức của những hệ thống BHXH trên 
thế giới mà quỹ BHXH được phân loại khác nhau: 
- Phân loại theo các chế độ bao gồm: Quỹ hưu trí, tử tuất; Quỹ tai nạn 
lao động và bệnh nghề nghiệp; Quỹ thất nghiệp; Quỹ ốm đau thai sản. 
- Phân loại theo tính chất sử dụng bao gồm: Quỹ ngắn hạn để chi trả 
cho các chế độ ngắn hạn như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động làm 
mất khả năng lao động tạm thời; Quỹ dài hạn để chi trả trợ cấp cho 
các chế độ như hưu trí, tử tuất. 
- Phân loại theo đối tượng tham gia bao gồm: Quỹ cho công chức Nhà 
nước, quỹ cho lực lượng vũ trang, quỹ cho lao động trong các doanh 
nghiệp, quỹ cho các đối tượng còn lại. 
Việc phân loại quỹ như trên cần được thực hiện và cân nhắc tránh 
những tình trạng phân nhỏ quỹ dễ gây ra tình trạng mất tập trung, không có 
sự bổ xung và hỗ trợ lẫn nhau. Việc phân chia quỹ không hợp lí sẽ dẫn tới 
những ảnh hưởng xấu đến việc chi trả cho các đối tượng, đặc biệt là vấn đề 
quản lí quỹ một cách hợp lí. Dựa trên các cách tổ chức thực hiện các chế độ 
mà mỗi nước lại có những quy định khác nhau về các quỹ thành phần. Các 
quỹ thành phần phải thực sự phù hợp với hệ thống BHXH đó. 
II. Quản lí tài chính BHXH. 
1. Khái niệm chung về quản lí tài chính BHXH. 
Trước tiên chúng ta cần hiểu khái niệm về quản lí. Quản lí là những hoạt động nhằm tác động một 
cách có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lí vào một đối tượng quản lí nhất định để điều chỉnh các 
quá trình xã hội và hành vi của con người từ đó có thể duy trì được tính ổn định của đối tượng. Đối tượng 
của quản lí ở đây là tài chính BHXH, tài chính BHXH là một thuật ngữ thuộc phạm trù tài chính chỉ một 
mắt khâu tài chính tồn tại độc lập trong hệ thống tài chính quốc gia. Tài chính BHXH tham gia vào quá 
trình phân phối và sử dụng các nguồn tài chính nhằm đảm bảo cuộc sống cho người lao động và gia đình họ 
 §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp 
khi gặp rủi ro từ đó đảm bảo sự ổn định và phát triển kinh tế xã hội. Như vậy, nhìn rộng ra thì quản lí tài 
chính BHXH là việc sử dụng tài chính BHXH như một công cụ quản lí xã hội của Nhà nước. Nhà nước 
thông qua hoạt động tài chính BHXH để thực hiện mục tiêu quản lí xã hội đó là đảm bảo ổn định cuộc sống 
cho nhân dân trước những rủi ro làm giảm hoặc mất khả năng lao động hay khi về già, giúp người lao động 
yên tâm lao động sản xuất, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển. BHXH thể hiện tính ưu việt của mỗi quốc 
gia, mỗi thể chế xã hội . Còn hiểu theo nghĩa hẹp thì quản lí tài chính BHXH là quản lí thu chi BHXH. Như 
vậy quản lí tài chính BHXH chủ yếu liên quan tới việc làm thế nào để hoạt động thu chi quỹ BHXH được 
thực hiện một cách bình thường trước những biến động của môi trường. Biến động ở đây là những biến 
động về đối tượng tham gia, đối tượng hưởng, biến động của môi trường sống, môi trường kinh tế ..., 
những biến động tác động trực tiếp đến đời sống của người lao động, đến việc thu chi quỹ BHXH, ảnh 
hưởng tới sự đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH. Nội dung của quản lí tài chính BHXH chủ yếu là sự lựa chọn 
và xác định các chính sách, chế độ, quy chế về tài chính BHXH một cách hợp lí và lấy đó làm căn cứ để ra 
quyết định cụ thể của thu chi BHXH thực hiện mục tiêu của Nhà nước đặt ra. 
Khi thực hiện quản lí tài chính BHXH cần chú ý hai nguyên tắc chủ 
yếu sau: 
- Quá trình quản lí tài chính BHXH phải luôn được tính toán, so sánh và cân đối trong trạng 
thái động: Bởi vì lượng tiền mặt của quỹ biến động theo từng chế độ trợ cấp BHXH khác nhau, lượng lao 
động biến động một cách thường xuyên nên trong quản lí, đặc biệt là khâu lập kế hoạch phải chú trọng tới 
vấn đề này. Đây cũng là một đặc thù trong ngành Bảo hiểm nói chung và BHXH nói riêng vì tính đảo 
ngược chu kì kinh doanh tức là thu phí trước chi trả cho các chế độ sau. Tuy có sự hỗ trợ của NSNN, song 
quản lí tài chính BHXH phải góp phần giảm gánh nặng cho NSNN và vẫn thực hiện chính sách xã hội này 
một cách tốt nhất. 
- Quỹ BHXH phải được bảo tồn và phát triển: Như trên đã đề cập thì ngành Bảo hiểm có đặc 
thù thu phí trước, chi trả sau, thời gian đóng và thời gian hưởng có thể kéo dài, đồng tiền có giá trị về mặt 
thời gian. Do vậy cần đầu tư để bảo tồn và tăng trưởng quỹ một cách hợp lí. Để đảm bảo nguyên tắc này cơ 
quan BHXH phải tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động thu chi và quản lí quỹ thực hiện đầu tư phần quỹ 
nhàn rỗi một cách có hiệu quả và tuân thủ các nguyên tắc sau: 
+An toàn: Mục đích của quỹ là bảo đảm chi trả lương hưu và các trợ cấp BHXH cho người lao động. 
Vì vậy, quỹ dù có đầu tư vào lĩnh vực nào cũng phải đảm bảo an toàn cho khoản đầu tư đó. Đảm bảo an 
toàn là không chỉ bảo toàn vốn đầu tư về danh nghĩa, mà còn là bảo toàn về cả giá trị thực tế, điều này càng 
có ý nghĩa quan trọng trong thời kì lạm phát. Nói cách khác thì đầu tư quỹ phải lựa chọn lĩnh vực để giảm 
thiểu rủi ro. 
+ Hiệu quả: Đây là mục tiêu của việc đầu tư tăng trưởng quỹ do vậy nguyên tắc này rất quan trọng và 
phải được đi liền với nguyên tắc thứ nhất. Lãi đầu tư không chỉ góp phần đảm bảo khả năng thanh toán cho 
các khoản chi mà còn góp phần cho phép hạ tỉ lệ đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động. 
+ Khả năng thanh toán (tính lưu chuyển của vốn): Đây cũng là yêu cầu đặc thù của nghành do các 
khoản chi trả là phát sinh sau và kéo dài nên các khoản đầu tư phải đảm bảo tính thanh khoản để dễ dàng 
chi trả cho các đối tượng kịp thời. Đặc biệt tránh những khoản đầu tư dễ vướng vào những vấn đề tồn 
khoản. Các hình thức đầu tư dễ thanh khoản và an toàn thường được ưu tiên thực hiện trước. 
+ Có lợi ích kinh tế, xã hội: Là một quỹ tài chính để thực hiện chính sách xã hội, do đó trong quá trình 
đầu tư phải lưu ý đến việc nâng cao phúc lợi cho người dân, phải ra sức cải thiện chất lượng chung cho đời 
sống dân cư của đất nước. Các hình thức, hạng mục đầu tư phải đặt vấn đề hiệu quả kinh tế xã hội lên hàng 
 §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp 
đầu. Hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH khác với các hoạt động đầu tư khác với mục tiêu lợi nhuận 
làm đầu vì BHXH chính là một chính sách quan trọng trong hệ thống An sinh xã hội của mỗi nước. 
 2. Nội dung quản lí tài chính BHXH. 
Nhìn chung, quản lí tài chính BHXH bao gồm bốn nội dung cơ bản 
sau: 
- Quản lí thu BHXH. 
- Quản lí chi BHXH. 
- Quản lí hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ. 
- Quản lí cân đối quỹ BHXH. 
2.1. Quản lí thu BHXH. 
Quản lí thu giữ vai trò quan trọng và quyết định đến sự thành công của quá trình thu BHXH, từ đó 
quyết định đến sức mạnh quỹ BHXH để đảm bảo cho việc chi trả cho các chế độ trợ cấp. Trước tiên chúng 
ta phải nắm được nội dung thu gồm hai khoản thu từ người lao động và người sử dụng lao động. Đây là 
khoản thu lớn nhất và đóng vai trò quan trọng, quyết định. Các khoản thu khác như: thu từ các quỹ của các 
tổ chức, cá nhân từ thiện hay sự hỗ trợ của NSNN là nhỏ, NSNN chỉ bù đắp cho những trường hợp cần 
thiết. Hơn nữa đây là khoản thu mà tổ chức BHXH cũng không thể tự điều chỉnh được vì nó mang tính thụ 
động. Do vậy mà công tác quản lí thu chỉ tập chung vào nguồn thu từ hai đối tượng chính người lao động 
và người sử dụng lao động. Nội dung của quản lí thu lại tập chung vào ba đối tượng chính sau đây: 
Quản lí đối tượng tham gia BHXH: Đây là việc đầu tiên mà mỗi tổ chức BHXH khi thực hiện 
quan tâm đến, thường các đối tượng này được quy định rõ trong các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà 
nước. Hơn thế nữa BHXH cũng hoạt động trên nguyên tắc san sẻ rủi ro và tuân theo quy luật số đông bù số 
ít nên việc tham gia đầy đủ của các đối tượng tham gia BHXH là việc rất quan trọng. Quản lí đối tượng 
tham gia cần thực hiện các công việc sau: 
+ Quản lí số lượng đăng kí tham gia BHXH. 
+ Quản lí đối tượng bắt buộc tham gia BHXH theo quy định. 
+ Quản lí công tác cấp sổ BHXH: Vì đây là căn cứ xác định quá trình 
đóng góp, ngành nghề lao động, thời gian lao động, tên người lao động và 
một số thông tin khác. 
Quản lí quỹ lương của các doanh nghiệp: Theo những quy định hiện hành như ngày nay thì phí 
thu BHXH thường được tính theo phần trăm tổng quỹ lương của doanh nghiệp và tiền lương tháng của 
người lao động nên quỹ lương còn là cơ sở để quản lí thu một cách thuận lợi. Dựa trên quỹ lương của 
doanh nghiệp BHXH có thể đảm bảo thu đúng, thu đủ và hạn chế được tình trạng gian lận trốn đóng 
BHXH. Bên cạnh đó chính các doanh nghiệp trở thành những “đại lí” thực hiện thu và chi trả trực tiếp cho 
một vài chế độ là thực sự thuận lợi cho công tác thu phí nói riêng và công tác thực hiện các chế độ BHXH 
nói chung. 
 §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp 
Quản lí tiền thu BHXH: Các đơn vị, doanh nghiệp sẽ thực hiện nộp phí thông qua tài khoản của 
BHXH. Do vậy, BHXH khó nắm bắt được tình hình thu. Để đảm bảo thu đúng, thu đủ, kịp thời cần có 
những quy định rõ ràng về thời gian nộp, hệ thống tài khoản thu nộp phải thuận lợi và an toàn cho việc nộp. 
Việc nắm bắt tình hình thu BHXH giúp quản lí quỹ dễ dàng, kịp thời điều chỉnh và đảm bảo cho công tác 
chi trả được thực hiện một cách tốt nhất. Trong nội dung quản lí thu BHXH, tất cả các đóng góp BHXH sẽ 
được quản lí chung một cách thống nhất, dân chủ, công khai trong toàn hệ thống. 
2.2. Quản lí chi BHXH. 
Các khoản chi BHXH bao gồm các khoản chi cho các chế độ, chi quản lí và chi khác. Trong đó có 
thể nói hai khoản chi đầu là rất lớn đặc biệt là chi cho các chế độ, hơn nữa khoản chi này chính là thể hiện 
sự bảo đảm cuộc sống của chính sách BHXH. Vì vậy nhắc đến quản lí chi là nhắc đến hai nội dung chính 
sau: 
Quản lí hoạt động chi trả cho các chế độ: Mục tiêu của hoạt động quản lí chi không với mục đích 
giảm khoản chi này một cách lớn nhất có thể mà quản lí để tránh tình trạng chi sai chế độ hoặc chi không 
đúng đối tượng vừa tránh lãng phí lại đảm bảo công bằng cho các đối tượng tham gia BHXH. Do vậy, để 
đảm bảo chi trả trợ cấp đúng chế độ, đúng đối tượng, kịp thời cần có phương thức chi hợp lí, tổ chức thực 
hiện chi trả cho các chế độ thuận lợi, dễ dàng. Cũng như quản lí hoạt động thu trước tiên chúng ta phải 
quản lí những đối tượng được hưởng các chế độ BHXH. Đối tượng có thể hưởng các chế độ chính là bản 
thân người lao động hoặc người thân trong gia đình họ. Đối tượng được hưởng các chế độ trợ cấp là những 
người lao động tham gia đóng phí BHXH và gặp phải những rủi ro làm mất hoặc giảm khả năng lao động 
dẫn đến mất hoặc giảm thu nhập của họ. Các điều kiện hưởng được quy định cụ thể trong các văn bản, 
thường thì mức trợ cấp, loại trợ cấp và thời gian trợ cấp thì phụ thuộc vào mức đóng góp, thời gian đóng 
góp, mức độ hay tỉ lệ thương tật,...và chính biến cố mà người lao động gặp phải. BHXH Việt Nam muốn 
quản lí tốt cần có những văn bản quy định rõ ràng và hợp lí về các điều kiện hưởng của các loại chế độ, dựa 
trên cơ sở đó để xử lí các trường hợp cho công bằng. Đối tượng hưởng cần được xem xét và kiểm tra nhằm 
tránh tình trạng chi sai hoặc chi không hợp lí. Quản lí chi cho các chế độ cũng cần được phân loại và phân 
cấp quản lí để dễ quản lí và thực hiện chi trả cho thuận tiện. 
Quản lí chi hoạt động bộ máy: Sau chi cho các chế độ thì đây là khoản chi lớn thứ hai cần được 
quản lí. Chi quản lí có thể hiểu đơn giản là khoản chi cho bộ máy tức là trả lương cho cán bộ, chi cho đầu 
tư xây dựng cơ bản, chi mua sắm thiết bị và những tài sản cố định nhằm duy trì hoạt động của tổ chức 
BHXH. Mức chi này có thể được quy định trong điều lệ BHXH hoặc cũng có thể được lập trong NSNN. 
Khoản chi này cần được quản lí tránh những lãng phí không cần thiết. Một số nước khoản chi này được 
NSNN chi trả, một số nước lại do quỹ BHXH đảm bảo. Song nhìn chung thì chi phí quản lí là phải phù hợp 
tránh những lãng phí không cần thiết, song chi phí quản lí cũng phải đủ lớn để đảm bảo cơ sở cho hoạt 
động quản lí của BHXH được thực hiện dễ dạng. Hơn nữa lương cho cán bộ nhân viên của ngành BHXH 
phải cân bằng với các ngành khác. 
2.3. Quản lí hoạt động đầu tư nhằm bảo toàn và tăng trưởng quỹ. 
Quỹ BHXH tại một thời điểm thường có số tiền kết dư rất lớn, đây là cơ sở của những yêu cầu cần 
bảo toàn và phát triển quỹ. Như chúng ta đã biết thì quỹ thu trước, chi sau, đặc biệt trong điều kiện nền kinh 
tế thị trường với những cơ hội cũng như những rủi ro có thể xảy ra bất cứ lúc nào nên việc bảo toàn và phát 
triển quỹ lại trở thành nhu cầu bức thiết. Nếu quỹ không chú trọng đến vấn đề đầu tư có thể sẽ đứng trước 
tình trạng bội chi hay nói cách khác là chi vượt quá thu. Nếu đầu tư tăng trưởng quỹ có hiệu quả thì đây là 
một nguồn thu bổ sung rất lớn cho quỹ để đảm bảo cân đối thu chi từ đó giảm gánh nặng cho NSNN. Để 
 §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp 
hoạt động đầu tư thực hiện đúng vai trò của nó thì phải đảm bảo những nguyên tắc như an toàn, tránh rủi 
ro, có lãi và trên hết là thực hiện được lợi ích xã hội. 
2.4. Quản lí hoạt động cân đối quỹ. 
BHXH là chính sách xã hội nên khác với các loại hình bảo hiểm 
thương mại, BHXH hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận mà mục đích lớn 
nhất là ổn định cuộc sống của người lao động. Do vậy cân bằng thu chi là 
trạng thái mong muốn của mỗi nước khi triển khai thực hiện BHXH. Để cân 
đối thu chi trên thực tế thường phải có sự hỗ trợ của NSNN, đồng thời thì 
quỹ phải tìm cho mình những nguồn thu khác để đảm bảo cân bằng quỹ. 
Trong đó các khoản chi và nguồn thu đã được trình bày ở trên. Quản lí cân 
đối quỹ là việc làm hết sức quan trọng nhằm phát hiện ra những thay đổi dẫn 
đến mất cân đối để có những biện pháp khắc phục kịp thời. 
3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động quản lí tài chính BHXH. 
Đối với ngành quản trị nói chung và công tác quản lí tài chính BHXH 
nói riêng thì việc xem xét các yếu tố tác động của môi trường tới hoạt động 
của đối tượng quản lí là rất cần thiết. Các tác động của môi trường có thể 
mang đến những thách thức cũng như những cơ hội cho chính bản thân các 
hoạt động tài chính của BHXH. Muốn quản lí tốt, nhà quản trị cần nắm rõ 
những yếu tố này để đưa ra những quyết định hợp lí và có lợi nhất cho đối 
tượng quản lí. Các tác động của môi trường thường được chia làm hai loại là 
tác động của môi trường ngoài hệ thống và tác động từ môi trường trong hệ 
thống. 
Tác động từ môi trường ngoài hệ thống bao gồm các ảnh hưởng từ môi trường kinh tế- chính trị- 
xã hội của mỗi quốc gia. Nhìn rộng ra thì có thể là cả những ảnh hưởng của môi trường thế giới. Khi chúng 
ta xem xét các yếu tố của BHXH dưới giác độ của các công ước quốc tế mà Tổ chức Lao động Quốc tế ( 
ILO) đã quy định. Nhưng các nhân tố môi trường trong nước là quan trọng hơn. BHXH không chỉ là thể 
hiện tính ưu việt của mỗi Nhà nước mà chính Nhà nước cũng là chủ sử dụng lao động lớn nhất trong xã hội. 
Các chính sách, quyết định của Nhà nước tác động trực tiếp tới hoạt động quản lí. Môi trường kinh tế như 
GDP, thu nhập bình quân đầu người, giá cả, tình trạng nền kinh tế tăng trưởng hay khủng hoảng, mức sống 
tối thiểu, các dịch vụ công cộng... . Đây là các yếu tố tác động tới thu chi, cân đối quỹ BHXH sao cho phù 
hợp đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động. Bên cạch đó còn có các yếu tố như văn hoá, lối sống, 
truyền thống, trình độ nhận thức,... nó tác động đến mức độ chấp nhận, sự đồng tình thực hiện của mỗi cá 
nhân trong xã hôi. Chẳng hạn như ở nước ta có truyền thống “lá lành đùm là rách, lá rách ít đùm lá rách 
nhiều” rất phù hợp với mục đích triển khai BHXH nên được mọi người đồng tình thực hiện. Tất cả những 
yếu tố kể trên tác động tới nội dung của những quy định trong các quy chế quản lí tài chính BHXH Việt 
Nam. 
 §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp 
Những tác động của bản thân các yếu tố bên trong hệ thống như ý thức tự giác của các đối tượng 
tham gia là người lao động và đặc biệt là chủ sử dụng lao động. Yếu tố trình độ của các cán bộ trong ngành 
BHXH, điều kiện làm việc, trang thiết bị phục vụ công tác,....cũng ảnh hưởng trực tiếp đến công tác quản lí 
tài chính BHXH. Trình độ cán bộ càng cao, cơ sở vật chất kĩ thuật cang đầy đủ và hiện đại thì công tác 
quản lí tài chính BHXH càng thuận lợi, thực hiện càng có hiệu quả. 
III. Kinh nghiệm của một số nước về quản lí tài chính BHXH. 
Tính đến năm 1993, trên thế giới đã có 163 nước thực hiện chính sách BHXH, trong đó số các 
nước thực hiện chế độ hưu trí, tai nạn lao động, ốm đau, thai sản là nhiều nhất lên tới 155 nước, chiếm 
khoảng 95%, ít nhất là chế độ thất nghiệp là có khoảng 63 nước, chiếm 38,6%. Việc thực hiện các chế độ là 
tuỳ thuộc vào điều kiện tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi nước. Tuy nhiên xu hướng chung hiện 
nay là đang dần thực hiện ngày càng đầy đủ hơn các chế độ. Đối với lịch sử phát triển của ngành BHXH 
trên thế giới thì BHXH Việt Nam còn rất mới, như vậy chúng ta cần học hỏi kinh nghiệm của các nước đi 
trước. 
1. Quản lí tài chính BHXH ciủa Cộng hoà Liên bang Đức. 
So với các nước trên thế giới, Cộng hoà Liên bang Đức là nước có lịch sử phát triển được coi như 
sớm nhất. Điều luật BHXH đầu tiên đã ra đời và thực hiện từ những năm 1850. Cho đến nay, chính sách 
BHXH ở Đức bao gồm 6 chế độ sau: 
+ Bảo hiểm thất nghiệp. 
+ Bảo hiểm y tế. 
+ Bảo hiểm chăm sóc sức khoẻ cho người già và người tàn tật. 
+ Bảo hiểm ốm đau. 
+ Bảo hiểm tai nạn lao động. 
+ Bảo hiểm hưu trí. 
Hoạt động BHXH của Cộng hoà Liên bang Đức thực hiện theo ba trụ 
cột chính là: 
- Hệ thống BHXH bắt buộc. 
- Hệ thống BHXH tư nhân. 
- Hệ thống BHXH ở các xí nghiệp. 
Trong đó hệ thống BHXH bắt buộc được tổ chức theo mô hình tự 
quản, bảo đảm tài chính theo phương pháp lấy thu bù chi. Hệ thống BHXH 
tư nhân và hệ thống BHXH ở các xí nghiệp hoạt động theo Bộ luật Lao động 
của Liên bang. Tự chịu là hình thức quản lí tương đối độc lập với sự chỉ đạo 
của cơ quan quản lí Nhà nước cao nhất. Có thể hiểu rõ thông qua cơ chế 
 §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp 
quản lí chung của Quỹ hưu trí sau. Cơ quan quản lí cao nhất là một Hội 
đồng, hội động này bổ nhiệm Ban điều hành, từ Ban điều hành sẽ điều hành 
mọi hoạt động của tổ chức. Hoạt động tài chính trong năm của Quỹ hưu trí 
viên chức Liên bang diễn ra như sau: 
Vào mùa hè hàng năm, các chuyên gia của Chính phủ Liên bang, tổ 
chức BHXH, Tổng cục Thống kê sẽ dự kiến nhu cầu tài chính của năm tới 
theo phương pháp ước tính. Từ đó đưa ra dự kiến số thu, dự kiến số chi, trên 
cơ sở này xác định tỉ lệ thu cho năm tới và tiến hành đưa ra bằng một văn 
bản có hiệu lực pháp luật. Quỹ thu thường là đủ dùng chi trả cho các đối 
tượng hưởng chế độ, chi hoạt động của bộ máy quản lí và còn một khoản để 
dự trữ gọi là khoản dự trữ trần. Do sự ổn định của nền kinh tế mà khoản dự 
trữ này thường chỉ ở mức đủ chi cho các đối tượng do quỹ đảm bảo trong 
một tháng, từ năm 2001 đã rút xuống khoản 0,8 tháng. Cách này có những 
ưu điểm như: hạn chế được những tác động của môi trường kinh tế, dễ dàng 
cân đối quỹ, giảm thiểu tình trạng bội chi, không hề gây gánh nặng cho 
NSNN,... . 
Cộng hoà Liên bang Đức không có các tổ chức BHXH thực hiện cùng 
một lúc nhiều chế độ, mà thông thường mỗi tổ chức chỉ chịu trách nhiệm 
thu, chi cho một loại chế độ nhất định. Điểm đáng lưu ý ở nước này là những 
công chức Nhà nước ( những người được đề cử vào bộ máy quản lí Nhà 
nước) không phải đóng BHXH, nhưng họ được nhận lương hưu khi hết tuổi 
lao động. Khoản chi này được lấy từ nguồn thu thuế để trả. Có nhiều tổ chức 
cùng tham gia thực hiện các chế độ BHXH, đặc biệt là sự có mặt của các tổ 
chức BHXH tư nhân, có thể mang lại sự cạnh tranh giúp cho hoạt động 
ngày càng hiệu quả. 
2. Quản lí tài chính BHXH của Trung Quốc. 
 Ngay sau khi thành lập nước, Chính phủ Trung Quốc đã tiến hành 
xây dựng một hệ thống an toàn xã hội, chủ yếu bao gồm BHXH, cứu trợ xã 
hội, phúc lợi xã hội, trợ giúp xã hội. Trong các chế độ đó BHXH giữ vai trò 
quan trọng nhất. Đến năm 1994, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua 
Luật Lao động, trong đó chương IX có những quy định cải cách hệ thống 
BHXH. Các chế độ BHXH chỉ được áp dụng ở các khu vực thành thị và 
 §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp 
trong các doanh nghiệp. Tại các địa phương ở Trung Quốc đã cụ thể hoá các 
chế độ, trong đó hai chế độ là hưu trí và thất nghiệp đã được xây dựng thành 
Điều lệ, các chế độ khác về cơ bản còn là quy định tạm thời song có hiệu lực 
khá cao. 
Về nguyên tắc mỗi chế độ có một quỹ riêng. Nguồn quỹ gồm hai 
khoản: Một khoản do chủ sử dụng lao động nộp và một khoản do người lao 
động đóng. Riêng quỹ bảo hiểm tai nạn lao động thì chỉ do chủ sử dụng lao 
động đóng. NSNN sẽ hỗ trợ khi mất cân đối thu chi do các nguyên nhân bất 
khả kháng, còn các trường hợp khác tự người lao động và người sử dụng lao 
động bảo đảm. Các quỹ nhìn chung được chia làm hai phần: Phần thứ nhất 
được đưa vào tài khoản cá nhân gồm toàn bộ số tiền do người lao động đóng 
và một phần do chủ sử dụng lao động đóng; Phần thứ hai được đưa vào quỹ 
chi chung trong trường hợp cần thiết là phần đóng góp còn lại của chủ sử 
dụng lao động. Qua đây chúng ta nhận thấy hiện nay có khá nhiều nước 
quản lí quỹ theo từng chế độ, đây là phương pháp quản lí mang tính mở dễ 
thích nghi với nhiều điều kiện của từng khu vực, từng tầng lớp lao động. Đặc 
biệt việc hình thành tài khoản cá nhân, bản thân người lao động có thể nắm 
bắt được số dư cũng như họ được hưởng hoàn toàn nên có những sự điều 
chỉnh tránh tình trạng mất công bằng. Cách quản lí quỹ như vậy đã phân 
định được rõ trách nhiệm của mỗi bên do vậy tránh tình trạng lẫn lộn giữa 
các quỹ, sử dụng sai mục đích hay thất thoát. 
 §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp 
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÍ 
TÀI CHÍNH BHXH TẠI VIỆT NAM 
I. Giới thiệu chung về BHXH Việt Nam. 
1. Khái quát về sự hình thành và quá trình phát triển của 
BHXH Việt Nam 
1.1. BHXH Việt Nam giai đoạn trước 1995. 
Ngay từ đầu của cuộc kháng chiến, mặc dù còn rất nhiều khó khăn và 
phải giải quyết nhiều công việc hệ trọng của đất nước nhưng Nhà nước ta 
vẫn luôn dành sự quan tâm tới việc tổ chức thực hiện BHXH. Trước tiên 
Chính phủ cách mạng đã áp dụng chế độ hưu trí cũ của Pháp để giải quyết 
quyền lợi cho một số công chức đã làm việc dưới thời Pháp, sau đó đi theo 
kháng chiến nay đã già yếu. Sau cách mạng tháng Tám thành công do còn 
khó khăn về nhiều mặt nên chế độ chỉ được thực hiện đến năm 1949. 
Năm 1950, Hồ Chủ Tịch kí Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950 ban 
hành quy chế công chức và Sắc lệnh số 77/SL ngày 22/5/1950 ban hành quy 
chế công nhân. Theo các Sắc lệnh trên, công chức và công nhân đã có những 
quyền lợi về chế độ hưu trí. Nhìn lai chính sách BHXH giai đoạn này chúng 
ta có thể nhận thấy các chính sách được xây dựng và thực hiện ngay sau khi 
dành được độc lập tuy hoàn cảnh đất nước còn rất nhiều khó khăn. Mặt 
 §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp 
khác các chính sách triển khai thực hiện không đầy đủ, chỉ mới thực hiện 
được một số chế độ cơ bản với mức trợ cấp thấp nhằm đảm bảo cuộc sống 
tối thiểu cho bộ phận công nhân, viên chức Nhà nước. Nguồc chi 100% lấy 
từ NSNN, chưa hề có sự đóng góp của các bên. 
Đến ngày 27/12/1961, Chính phủ ban hành Điều lệ BHXH tạm thời về 
các chế độ BHXH cho cán bộ, công nhân viên kèm theo Nghị định 218/ CP. 
Tiếp theo đó là Nghị định 161/CP ngày 30/10/1964 ban hành Điêu lệ BHXH 
tạm thời đối với quân nhân. Như vậy đối tượng được tham gia BHXH đã mở 
rộng, và áp dụng cho 6 loại chế độ gồm: hưu trí, mất sức lao động, tử tuất, 
ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Như vậy là các chế 
độ của BHXH Việt Nam được triển khai khá đầy đủ từ rất sớm. Hơn nữa tài 
chính thời kì này bắt đầu quy định có sự đóng góp một phần của các xí 
nghiệp, phần còn lai vẫn do NSNN cấp. Đến năm 1985 cùng với cải cách 
tiền lương, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định 236/HĐBT có những 
sửa đổi bổ xung quan trọng như tăng tỉ lệ đóng góp của các đơn vị sản suất 
kinh doanh. Tuy vậy, thời kì này do nhiều nguyên nhân khác nhau, chủ yếu 
là sản xuất gặp khó khăn, làm ăn thua lỗ cộng với cơ chế quản lí bao cấp 
không hiệu quả nên BHXH hầu như không có thu và NSNN vẫn phải bù cấp 
là chính. Đây cũng là giai đoạn tổ chức quản lí BHXH không ổn định, ro 
nhiều Bộ ngành khác nhau đảm nhiệm ( Bộ nội vụ, Bộ Lao động Thương 
binh và Xã hôi, Bộ tài chính, Bộ Y tế và Tổng Liên đoàn lao động Việt 
Nam). Song chịu trách nhiệm quản lí chính là Bộ Lao động Thương binh và 
Xã hôi và Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam. 
Đại hội Đảng toàn quốc lần thư VI ( tháng 12/1986) đề ra đường lối 
đổi mới toàn diện, xoá bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ 
chế mới phù hợp với quy luật khách quan và trình độ phát triển của nền kinh 
tế. Cùng với sự đổi mới chung của đất nước, chính sách BHXH cũng có 
những chuyển biến. Nội dung cải cách lần này tập trung vào cải cách cơ chế 
bao cấp trong quản lí, mở ra loại hình BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện. 
Đến ngày 22/6/1993 Chính phủ ban hành Nghị định 43/CP về những quy 
định tạm thời chế độ BHXH. Trong đó có quy định tăng mức đóng BHXH 
và đặc biệt người lao động phải đóng BHXH. Cơ chế hoạt động của BHXH 
được quy định trong chương XII của Bộ Luật lao động do Quốc hội khoá IX 
 §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp 
thông qua ngày 23/6/1994, sau đó được cụ thể hoá trong Điều lệ BHXH và 
hai Nghị định 12/CP và 45/CP ban hành năm 1995. Từ đây ngành BHXH 
Việt Nam chuyển sang trang mới trong lịch sử phát triển của mình. 
1.2. BHXH Việt Nam giai đoạn sau 1995. 
Đây là giai đoạn chính sách và quản lí hoạt động BHXH có những đổi 
mới thực sự từ cơ chế tập chung, bao cấp không đóng BHXH vẫn được 
hưởng BHXH sang hoạt động theo nguyên tắc có đóng có hưởng, có chia sẻ 
rủi ro. Về quản lí hoạt động BHXH từ chỗ phân tán do nhiều cơ quan khác 
nhau đảm nhận, nay tập chung thống nhất về một đầu mối là BHXH Việt 
Nam. Trên cơ sở quy định đóng BHXH, chính sách thời kì này xác lập rõ cơ 
chế hình thành và sử dụng quỹ BHXH. Theo đó quỹ BHXH Việt Nam do 
BHXH Việt Nam quản lí chỉ chịu trách nhiệm đối với người lao động từ 
năm 1995 trở đi, còn NSNN đảm bảo chi trả cho những đối tượng nghỉ làm 
việc trước năm 1995. 
BHXH Việt Nam mở rộng đối tượng tham gia, bao gồm thêm các 
doanh nghiệp kinh tế có sử dụng 10 lao động trở lên ( hiện nay là bắt buộc 
đối với mọi doanh nghiệp có sử dụng lao động); cán bộ xã phường, thị trấn; 
các lao động làm việc trong các cơ sở Y tế, Giáo dục, Văn hoá và Thể thao 
ngoài công lập. BHXH cũng quy định lại hiện nay chỉ còn 5 chế độ trợ cấp : 
ốm đau; tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; thai sản; hưu trí và tử tuất 
(bỏ chế độ nghỉ mất sức lao động). Điều lệ BHXH và hai Nghị định 12/CP 
và 45/CP là những quy định pháp lí được thực hiện đến nay và chỉ có những 
sửa đổi nhỏ. 
Với mục đích: 
+Thực hiện cải cách tổ chức bộ máy của Chính phủ trong tình hình 
mới trong chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 
2001- 2010. 
+Phục vụ và đáp ứng yêu cầu tốt hơn cho người tham gia BHXH, 
BHYT và tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan, đơn vị, tổ chức sủ dụng 
người lao động đóng bảo hiểm theo quy định của pháp luật. 
 §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp 
+Phát triển và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực của cả hệ thống 
BHXH và BHYT. 
Ngày 24/1/2002 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 
20/2002/ QĐ- TTg về việc chuyển BHYT sang BHXH Việt Nam. 
Ngày 16/12/2002 Chính phủ ban hành Nghị định số 100/CP quy định 
chức năng, nhiệm cụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam. 
Trong đó khẳng định BHXH Việt Nam là cơ quan sự nghiệp thuộc Chính 
phủ, có chức năng thực hiện chính sách, chế độ BHXH, BHYT (gọi chung là 
BHXH) và quản lí Quỹ BHXH theo quy định của pháp luật. Đến tháng 
1/2003 Thủ tướng Chính phủ tiếp tục ra Quyết định số 02/2003/QĐ- TTg 
ban hành về quy chế quản lí tài chính đối với BHXH Việt Nam. Kèm theo 
đó là Quy chế quản lí tài chính đối với BHXH Việt Nam bao gồm những 
quy định chung áp dụng trong quản lí tài chính. 
 2. Chính sách BHXH Việt Nam từ năm 1995 đến nay. 
Nghị định số 12/CP ban hành ngày 26/1/1995 của chính phủ ban hành 
Điều lệ BHXH áp dụng đối với cán bộ, công nhân, viên chức Nhà nước và 
mọi người lao động theo loại hình BHXH bắt buộc để thực hiện thống nhất 
trong cả nước. Các chế độ BHXH trong Điều lệ này gồm có: chế độ trợ cấp 
ốm đau, chế độ trợ cấp thai sản, chế độ trợ cấp tai nạn lao động- bệnh nghề 
nghiệp, chế độ trợ cấp hưu trí, chế độ trợ cấp tử tuất. Những người làm việc 
ở những đơn vị, tổ chức sau đây là những đối tượng phải tham gia BHXH 
bắt buộc: các doanh nghiệp Nhà nước, các doanh nghiệp thuộc thành phần 
kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên, người Việt Nam 
làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các tổ chức nước 
ngoài, tổ chức quốc tế tại Việt Nam, các tổ chức kinh doanh dịch vụ, doanh 
nghiệp thuộc các cơ quan hành chính sự nghiệp, đảng đoàn thể, lực lượng vũ 
trang, các đơn vị hành chính sự nghiệp, đảng, đoàn thể, tổ chức chính trị, 
chính trị- xã hội. 
Ngày 15/7/1995 Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định 45/CP về 
Điều lệ BHXH đối với sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, binh sĩ 
quân đội nhân dân, công an nhân dân. Các chế độ BHXH này gồm có: chế 
 §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp 
độ trợ cấp ốm đau, chế độ trợ cấp thai sản, chế độ trợ cấp tai nạn lao động- 
bệnh nghề nghiệp, chế độ hưu trí, chế độ tử tuất. 
Nghị định số 09/ 1998/NĐ- CP ngày 23/1/1998 của Chính phủ sửa 
đổi, bổ xung một số điều củ Nghị định 50/CP ngày 26/7/2995 của Chính phủ 
về chế độ sinh hoạt phí đối cới cán bộ xã, phường, thị trấn. Cán bộ cấp xã 
tham gia đóng BHXH và hưởng chế độ hưu trí và mai táng là những cán bộ 
làm công tác Đảng, chính quyền và trưởng các đoàn thể: Chủ tịch Mặt trận, 
Hội trưởng hội phụ nữ, Hội trưởng hội nông dân, Hội trưởng Hội Cựu chiến 
binh, Bí thư đoàn THCS Hồ Chí Minh và các cán bộ chưc danh chuyên môn 
là Văn phòng Uỷ ban nhân dân xã, địa chính, tư pháp, tài chính- kế toán. 
Chính sách khuyến khích xã hội hoá đối với các hoạt động trong lĩnh 
vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao được quy định trong Nghị định số 73/ 
1999/ NĐ- CP ngày 19/8/1999. Nghị định này cho phép thành lập các cơ sở 
ngoài công lập dưới các hình thức như bán công, dân lập, tư nhân hoạt động 
trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao nhưng phải phù hợp với 
quy hoạch của Nhà nước, không theo mục đích thương mại và đúng theo 
quy định của của pháp luật. Người lao động làm việc trong các cơ sở ngoài 
công lập được tham gia và hưởng mọi quyền lợi về BHXH như người lao 
động trong các đơi vị công lập. 
Đối với người lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc có thời 
hạn ở nước ngoài phải tham gia BHXH bắt buộc và được hưởng các chế độ 
BHXH hưu trí và tử tuất. Điều này được quy định trong Nghị định số 
52/1999/ NĐ- CP ban hành ngày 20/9/1999. 
Ngày 15/12/2000 Chính phủ ban hành Nghị định số 77/2000/NĐ- CP 
về việc điều chỉnh mức tiền lương tối thiểu, mức trợ cấp, và sinh hoạt phí 
đối với các các đối tượng hưởng lương, phụ cấp, trợ cấp và sinh hoạt phí. 
Trong đó có quy định tăng mức tiền lương tối thiểu từ 180 000 đồng lên 210 
000 đồng/ tháng. Cùng năm đó Chính phủ cũng ban hành Nghị định số 
71/2000/ NĐ-CP quy định việc kéo dài thời gian công tác của cán bộ công 
chức đến độ tuổi nghỉ hưu. Tức là cán bộ công chức đến tuổi nghỉ hưu được 
xem xét kéo dài thêm thời gian công tác đối với các đối tượng làm công tác 
nghiên cứu, những người có học vị tiến sĩ, chức danh Giáo sư, Phó giáo sư, 
 §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp 
những người có tài năng. Thời gian kéo dài có thể từ 1 đến 5 năm với điều 
kiện cơ quan, tổ chức, đơn vị sử dụng có nhu cầu và cán bộ, công chức đó tự 
nguyện và có đủ sức khoẻ để làm việc. 
Năm 2001 Chính phủ tiếp tục ra hai Nghị định 04/2001/NĐ-CP và 
61/2001/NĐ-CP. Nghị định 04 quy định chi tiết về một số điều của Luật Sĩ 
quan Quân đội nhân dân Việt Nam năm 1999 về chế độ chính sách đối với sĩ 
quan thôi phục vụ tại ngũ, sĩ quan chuyển sang quân nhân chuyên nghiệp 
hoặc công chức quốc phòng. Nghị định 61 quy định về tuổi nghỉ hưu của 
người lao động khai thác hầm lò. Tuổi nghỉ hưu là 50, đủ 20 năm đóng 
BHXH và có ít nhất 15 năm làm công việc nêu trên. Tuổi nghỉ hưu có thể 
tăng lên nhưng không quá 55 khi người lao động không đủ số năm đóng 
BHXH. 
Nghị định 100/ 2002/ NĐ- CP ngày 06/12/2002 của Chính phủ quy 
định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt 
Nam. Trong đó nêu rõ các vị trí, chức năng, có 19 điểm quy định quyền hạn 
và nhiệm vụ của BHXH Việt Nam. 
Ngày 9/9/2003 Chính phủ ban hành Nghị định số 01/2003/NĐ- CP đã 
sửa đổi, bổ xung một số điều của Điều lệ BHXH Việt Nam. 
3. Cơ cấu tổ chức, quản lí của BHXH Việt Nam. 
Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội là cơ quan của Chính phủ thực 
hiện việc quản lí Nhà nước về BHXH: xây dựng và trình ban hành pháp luật 
về BHXH; ban hành các văn bản pháp quy về BHXH thuộc thẩm quyền; 
hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện BHXH. Chính phủ thành lập 
hệ thống tổ chức BHXH thống nhất để quản lí quỹ và thực hiện các chế độ, 
chính sách về BHXH theo quy định của pháp luật. 
Theo điều 3, Nghị định số 100/2002/ NĐ- CP có quy định: BHXH 
Việt Nam được tổ chức, quản lí theo hệ thống dọc, tập trung, thống nhất từ 
Trung ương tới địa phương, gồm có ba cấp: 
1. Cấp Trung ương là BHXH Việt Nam. 
 §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp 
2. Cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là BHXH tỉnh, thành 
phố trực thuộc Trung ương ( gọi chung là BHXH tỉnh) trực thuộc 
BHXH Việt Nam. 
3. Cấp huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh là BHXH 
huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh ( gọi chung là 
BHXH huyện) trực thuộc BHXH tỉnh. 
BHXH Việt Nam được tổ chức thành hệ thống ngành dọc từ Trung 
ương xuống địa phương. Cơ quan quản lí là Hội đồng quản lí BHXH Việt 
Nam, chịu trách nhiệm trực tiếp trước Thủ tướng Chính phủ về các hoạt 
động chỉ đạo, điều hành và quản lí của mình. Tổng giám đốc là đại diện 
pháp nhân của BHXH Việt Nam, do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm theo đề 
nghị của Hội đồng quản lí. Tổng giám đốc chịu trách nhiệm trước Thủ tướng 
Chính phủ và Hội đồng quản lí về thực hiện chính sách, chế độ BHXH và 
quản lí quỹ BHXH theo quy định của pháp luật. 
Giúp việc cho tổng giám đốc là các Phó tổng giám đốc và các phòng 
ban nghiệp vụ chuyên môn. Bộ máy quản lí giúp việc cho Tổng giám đốc tại 
BHXH Việt Nam hiện nay gồm có: 
1. Ban Chế độ chính sách BHXH. 
2. Ban Kế hoạch- Tài chính. 
3. Ban thu BHXH. 
4. Ban chi BHXH. 
5. Ban BHXH tự nguyện. 
6. Ban giám định Y tế. 
7. Ban tuyên truyền BHXH. 
8. Ban Hợp tác quốc tế. 
9. Ban Tổ chức cán bộ. 
10. Ban kiểm tra. 
11. Văn phòng. 
12. Trung tâm Nghiên cứu khoa học BHXH. 
 §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp 
13. Trung tâm Công nghệ thông tin. 
14. Trung tâm đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ BHXH. 
15. Trung tâm lưu trữ. 
16. Báo BHXH. 
17. Tạp chí BHXH. 
Theo điều 9 Nghị định 100/2002/NĐ- CP, tổ chức BHXH tỉnh và 
BHXH huyện được tổ chức và hoạt động theo quy định của Tổng giám đốc. 
BHXH tỉnh, BHXH huyện cũng có tư cách pháp nhân, có dấu, có tài khoản 
và trụ sở riêng. 
SƠ ĐỒ TỔ CHỨC BỘ MÁY QUẢN LÍ BHXH VIỆT NAM 
(Theo Nghị định số 100/2002/CP- NĐ ngày 6/12/2002 của Chính Phủ) 
CHÍNH PHỦ 
HỘI ĐỒNG QUẢN LÝ Tổng giám 
đ c 
Các Phó 
tổng giám 
- Ban chế độ, chính sách BHXH 
- Ban Kế hoạch - Tài chính 
- Ban Thu BHXH 
- Ban Chi BHXH 
- Ban BHXH tự nguyện 
- Ban Giám định y tế 
- Ban Tuyên truyền BHXH 
- Ban Hợp tác quốc tế 
- Ban Tổ chức - Cán bộ 
- Ban Kiểm tra 
- Văn phòng 
- Trung tâm Nghiên cứu khoa học BHXH 
- Trung tâm CNTT 
- Trung tâm Đào tạo và bồi dưỡng NVBHXH 
- Trung tâm lưu trữ 
- Báo BHXH 
- Tạp chí BHXH 
- Đại diện BHXHVN tại TP. HCM 
Bảo hiểm xã 
hội Việt 
Nam 
 §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp 
II. Thực trạng của công tác quản lí tài chính BHXH Việt Nam. 
1. Công tác quản lí thu. 
Quản lí thu BHXH Việt Nam bao gồm: quản lí đối tượng tham gia, 
quản lí quỹ lương của các đơn vị, quản lí tiền thu BHXH. 
1.1.Quản lí đối tượng tham gia. 
 Đối tượng tham gia là những cá nhân, tổ chức có trách nhiệm đóng 
góp để tạo lập quỹ BHXH. Hiện nay BHXH hiện chia các đối tượng này 
thành hai loại là: đối tượng tham gia BHXH tự nguyện và đối tượng tham 
gia BHXH bắt buộc. 
Đối tượng tham gia BHXH bắt buộc: là những người lao động và 
người sử dụng lao động bắt buộc phải tham gia đóng góp BHXH theo pháp 
luật BHXH. Hiện nay đối tượng áp dụng BHXH bắt buộc gồm: 
 §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp 
- Người lao động làm việc theo hợp động lao động có thời hạn đủ ba tháng 
trở lên và hợp đồng lao động không xác định thời hạn trong các doanh 
nghiệp, cơ quan, tổ chức sau: 
+ Doanh nghiệp thành lập, hoạt động theo Luật Doanh nghiệp Nhà 
nước. 
+ Doanh nghiệp thành lập, hoạt động thẹo Luật Doanh nghiệp. 
+ Doanh nghiệp thành lập, hoạt động theo Luật Đầu tư nước ngoài tại 
Việt Nam. 
+ Doanh nghiệp của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội. 
+ Hộ sản xuất, kinh doanh cá thể, tổ hợp tác. 
+ Các cơ quan hành chính, sự nghiệp, tổ chức chính trị, tổ chức chính 
trị- xã hội, tổ chức chính trị- xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội nghề nghiệp, 
tổ chức xã hội khác, lực lượng vũ trang. 
+ Cơ sở bán công, dân lập, tư nhân thuộc các ngành văn hoá, y tế, giáo 
dục, đào tạo, khoa học, thể dục, thể thao và các ngành sự nghiệp khác. 
+ Trạm y tế xã, phường, thị trấn. 
+Cơ quan tổ chức nước ngoài hoặc tổ chức quốc tế tại Việt Nam, trừ 
trường hợp Điều ước quốc tế mà nước ta kí kết hoặc tham gia có quy định 
khác. 
+ Các tổ chức khác có sử dụng lao động. 
- Cán bộ, công chưc, viên chức theo Pháp lệnh Cán bộ, công chức. 
- Người lao động, xã viên làm việc và hưởng tiền công theo hợp đồng lao 
động từ đủ ba tháng trở lên trong các hợp tác xã thành lập, hoạt động theo 
Luật Hợp tác xã. 
- Người lao động làm việc tại các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức theo các 
hợp đồng có thời hạn dưới ba tháng khi hết hợp đồng lao động mà người 
lao động tiếp tục làm việc hoặc giao kết hợp đồng mới đối với doanh 
nghiệp, tổ chức, cơ quan đó thì phải tham gia BHXH bắt buộc. 
 §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp 
- Người lao động ở trên đi thực tâp, học, công tác, điều dưỡng trong và 
ngoài nước mà vẫn hưởng tiền lương hoặc tiền công thì cũng thuộc đối 
tượng thực hiện BHXH bắt buộc. 
- Các đối tượng lao động tại các doanh nghiệp nông nghiệp, ngư nghiệp, 
lâm nghiệp, diêm nghiệp được hưởng tiền công, tiền lương theo hợp đồng 
lao động từ đủ ba tháng trở lên.( Đối với các lao động làm việc tại các 
doanh nghiệp nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp, diêm nghiệp đã thực 
hiện giao khoán đất có quy định riêng). 
Đối tượng tham gia BHXH tự nguyện: là người lao động và người sử 
dụng lao động không thuộc đối tượng quy định bắt buộc nhưng tự nguyện 
tham gia BHXH cho chính họ và người lao động của họ. Họ có những đặc 
điểm sau: 
+ Những người này thường thuộc khu vực lao động phi chính thức. 
+ Công việc của họ phần lớn là thất thường và rất lưu động. Thu nhập 
nhìn chung là thấp và không ổn định. 
+ Vì không có người sử dụng lao động nên việc tham gia BHXH của 
những đối tượng này hoàn toàn không có sự đóng góp của ai khác ngoài 
chính bản thân họ. 
Vì vậy những đối tượng này thường khó quản lí và khó thực hiện các 
công tác thu nộp cũng như chi trả cho các đối tượng. Việc triển khai thực 
hiện BHXH đối với các đối tượng này còn gặp nhiều khó khăn, song với 
mục tiêu tiến đến thực hiện BHXH toàn dân, BHXH Việt Nam đang nghiên 
cứu trển khai và áp dụng những biện pháp hữu hiệu đối với loại đối tượng 
này. 
BHXH Việt Nam có những biện pháp quản lí các đối tượng tham gia 
thông qua việc cấp sổ BHXH. Đây không chỉ là cách quản lí về số lượng mà 
còn quản lí cả thời gian công tác, ngành nghề công tác, mức đóng, từ đó làm 
căn cứ để chi trả cho các đối tượng. Việc quản lí cấp sổ được thực hiện 
thống nhất trên phạm vi cả nước, các thông tin trong sổ mang tính chính xác. 
Quản lí việc cấp sổ là trách nhiệm của cả người sử dụng lao động và cơ quan 
BHXH. Về phía người sử dụng lao động là việc quản lí danh sách người lao 
 §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp 
động được cấp sổ cùng với mức lương làm căn cứ xác định mức đóng 
BHXH và thực hiện báo cáo định kì về sự biến động số lượng lao động. Về 
phía cơ quan BHXH là theo dõi việc cấp phát sổ BHXH theo phân cấp và 
thực hiện báo cáo định kì lên cơ quan BHXH cấp trên về tình hình cấp sổ. 
Theo quy định của Việt Nam hiện nay quy trình cấp sổ do cơ quan BHXH 
cấp tỉnh thực hiện gồm sáu bước, đảm bảo tính thống nhất trong toàn quốc, 
tránh những hiện tượng khai man, trường hợp giả giấy tờ để trục lợi từ 
BHXH. Cụ thể: 
Bước 1: Lập và kiểm tra danh sách người lao động và người sử dụng 
lao động phải tham gia theo luật định. 
Bước 2: Chuẩn bị sổ cả về số lượng, chất lượng, đóng dấu giáp lai và 
ghi sổ BHXH. 
Bước 3: Cơ quan BHXH chịu trách nhiệm phổ biến cho người lao 
động linh hoạt kê khai một cách thống nhất. 
Bước 4: Xét duyệt và ghi sổ ban đầu. 
Bước 5: Kí nhận của người lao động. 
Bước 6: Kí xác nhận của người sử dụng lao động và cơ quan BHXH. 
Chúng ta có thể tìm hiểu công tác quản lí đối tượng tham gia thông 
qua bảng số liệu 1: 
Bảng 1: Tình hình tham gia BHXH Việt Nam giai đoạn 1995- 2004. 
Năm Tổng số người 
tham gia BHXH 
( người) 
Tốc độ tăng tuyệt 
đối số người 
tham gia ( người) 
 Tốc độ tăng 
tương đối số 
người tham gia 
(%) 
1995 2.275.998 --- --- 
1996 2.821.444 545.446 23,97 
1997 3.162.352 340.908 12,08 
1998 3.392.224 229.872 7,27 
 §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp 
1999 3.579.397 187.173 5,52 
2000 3.771.390 191.993 5,36 
2001 4.075.925 340.535 8,07 
2002 4.564.400 488.475 11,98 
2003 5.070.433 506.033 11,09 
2004 6.344.508 1.274.075 25,13 
 ( Nguồn BHXH Việt Nam) 
Qua bảng 1 ta thấy số người tham gia BHXH ngày càng tăng đây cũng 
là một kết quả tốt của BHXH Việt Nam. Năm 1995 mới chỉ có 2.275.998 
người tham gia đến nay BHXH Việt Nam đã có 6.344.508 người tham gia 
(ngày 31/12/2004), như vậy là chỉ trong 10 năm số người tham gia đã tăng 
lên gấp gần 3 lần. Đặc biệt là năm 2004 số người tham gia tăng 25,13% so 
với năm 2003, qua bảng trên ta có thể nhận thấy số người tham gia BHXH 
Việt Nam ngày càng tăng. Trong đó số lao động tham gia BHXH bắt buộc 
đạt 5,7 triệu người; tăng 406.000 người (tăng 8%) so với năm 2003. Trong 
đó có 122.000 người làm việc trong các doanh nghiệp quốc doanh ( tăng 
23%), 115.000 người làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước 
ngoàI (tăng 16%) và 3.723 người làm việc trong các hợp tác xã ( tăng 40%). 
Số người tham gia BHYT tự nguyện đạt 6,2 triệu, tăng 28% so với năm 
2003, trong đó có 5,9 triệu học sinh, sinh viên và 300 ngàn người là thành 
viên hộ gia đình, các hội đoàn thể. Như vậy là việc quản lí đối tượng tham 
gia có hiệu quả, sau đổi mới người lao động ý thức được tầm quan trọng 
cũng như những lợi ích mà họ nhận được. Tuy số người tham gia tăng nhanh 
song nhìn chung tại các địa phương thì công tác mở rộng đối tượng tham gia 
là còn nhiều hạn chế. Đặc biệt là các đối tượng lao động trong tổ hợp tác, hộ 
sản xuất kinh doanh cá thể thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc. 
Nhưng theo thống kê, hiện nay chỉ có khoảng 300.000 đơn vị tổ hợp tác nhỏ 
( chỉ sử dụng bình quân khoảng 3 lao động) trong số 405.562 đơn vị kinh tế 
ngoài quốc doanh, do vậy quản lí đối tượng tham gia này gặp rất nhiều khó 
khăn. 
 §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp 
1.2. Quản lí quỹ lương của doanh nghiệp. 
Với hai loại đối tượng tham gia BHXH ở nước ta hiện nay, phương 
thức thu nộp được chia thành hai loại: 
Thứ nhất là thu trực tiếp: Theo phươngthưc này cán bộ chuyên trách 
thu của cơ quan BHXH sẽ trực tiếp thu những đóng góp của những người 
tham gia BHXH. Hình thức này hay được áp dụng cho đối tượng tham gia 
BHXH tự nguyện, không có chủ sử dụng lao động. 
Thứ hai là thu gián tiếp qua đại lí thu: Đây là phương thức thu chủ yếu 
của BHXH Việt Nam. Đại lí thu của BHXH chủ yếu là các chủ sử dụng lao 
động. Trước tiên chủ sử dụng lao động thu của người lao động sau đó 
chuyển toàn bộ đóng góp của cả người lao động và người sử dụng lao động 
cho cơ quan BHXH. Thực hiện như vậy là rất thuận tiện cho cơ quan 
BHXH, vì chính chủ sử dụng lao động quản lí trực tiếp lao động của mình, 
thông qua quỹ lương của doanh nghiệp người sử dụng lao động khấu trừ 
luôn phần phí đóng BHXH của người lao động theo % mức tiền lương của 
họ. Đại lí cũng có thể là cơ quan, tổ chức, hiệp hội, đoàn thể có liên quan 
như bưu điện, ngân hàng, ... song các đại lí thu này không phổ biến. 
Như vậy quản lí quỹ lương của doanh nghiệp vừa quản lí được đối 
tượng tham gia vừa quản lí được số thu của BHXH Việt Nam. Tiền thu sẽ 
được trích theo % tổng quỹ lương của doanh nghiệp, sau đó trực tiếp chuyển 
khoản lên tài khoản của cơ quan BHXH. Đây cũng là phương thức nộp phổ 
biến nhất hiện nay. Quy định hiện nay sau khi chính thức chuyển BHYT về 
BHXH, tổng mức phí thu hiện nay là 23% tổng quỹ lương của doanh nghiệp. 
Trong đó, đóng BHXH là người lao động 5%, người sử dụng lao động 15%; 
đóng BHYT bắt buộc là người lao động 1%, người sử dụng lao động 2%. 
1.3. Quản lí tiền thu BHXH. 
Tại Việt Nam hiện nay hình thức thu nộp chủ yếu là chuyển khoản 
thông qua ngân hàng. BHXH Việt Nam hình thành các “tài khoản chuyên 
thu”, các tài khoản này được mở tại các NHNN hoặc tại Kho bạc. Tuỳ theo 
thực tế của từng địa phương mà cơ quan BHXH sẽ mở tài khoản có thể là ở 
 §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp 
cấp tỉnh hoặc cả cấp huyện. Về cơ bản BHXH sẽ không thu nộp bằng tiền 
mặt, ngân phiếu hay hiện vật, trong trường hợp đặc biệt người sử dụng lao 
động nộp bằng tiền mặt hoặc ngân phiếu thì cơ quan BHXH phải có hướng 
dẫn cụ thể để người sử dụng lao động nộp trực tiếp vào tài khoản chuyên thu 
BHXH. Định kì hàng tháng người sử dụng lao động sau khi trả lương cho 
người lao động sẽ nộp tiền BHXH bằng cách chuyển tiền từ tài khoản của họ 
ở một ngân hàng hay kho bạc sang tài khoản chuyên thu BHXH. Sau đó cơ 
quan BHXH cấp huyện và cấp tỉnh sẽ phải chuyển số thu này lên cơ quan 
BHXH cấp trên mà không được sử dụng tiền thu để chi bất cứ việc gì. 
BHXH huyện sẽ chuyển khoản vào ngày 10 và 25 hàng tháng, ngày làm việc 
cuối cùng của năm phải chuyển toàn bộ số thu lên BHXH tỉnh. BHXH tỉnh 
định kì chuyển số thu lên BHXH Việt Nam vào ngày 10, 20 và ngày cuối 
cùng của tháng. BHXH Việt Nam định kì chuyển toàn bộ số thu vào quỹ 
BHXH mở tại kho bạc Nhà nước. 
Theo điều 11, chương hai của Quy chế quản lí tài chính BHXH Việt 
Nam có quy định: “ Quỹ BHXH được quản lí thống nhất trong hệ thống 
BHXH Việt Nam, được hạch toán riêng và cân đối thu chi theo từng quỹ 
thành phần (quỹ hưu trí và trợ cấp, quỹ khám chữa bệnh tự nguyên, quỹ 
khám chữa bệnh bắt buộc).” Số dư trên tài khoản tiền gửi của quỹ BHXH tại 
ngân hàng hay kho bạc Nhà nước được hưởng lãi suất theo quy định của 
ngân hàng và kho bạc Nhà nước. 
Để đảm bảo thu đúng thời hạn BHXH Việt Nam có quy định kể từ 
ngày hạn nộp trong vòng 30 ngày người tham gia BHXH phải nộp BHXH. 
Khoảng thời gian 30 ngày này là khoảng thời gian ân hạn, nếu quá thời gian 
ân hạn mà chưa chuyển tiền thì được coi là vi phạm pháp luật BHXH và sẽ 
bị sử phạt. Hiện nay có những trường hợp vi phạm sau đây: 
- Nợ ( Chậm đóng BHXH): Đây là trường hợp vi phạm mà người tham 
gia BHXH tính đến thời điểm quy định vẫn chưa đóng BHXH. Nợ được chia 
làm ba loại: 
+ Nợ gối đầu: là trường hợp nợ mà số tiền nợ nhỏ hơn số tiền đóng 
BHXH bình quân một tháng. 
 §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp 
+ Nợ chậm đóng: là trường hợp mà số tiền nợ lớn hơn số tiền đóng 
BHXH bình quân một tháng và nhỏ hơn số tiền đóng BHXH bình quân ba 
tháng. 
+ Nợ đọng: là trường hợp mà số tiền nợ lớn hơn số tiền đóng BHXH 
bình quân ba tháng. 
Hiện nay có một số biện pháp thực hiện nhằm kiểm soát, đôn đốc 
người tham gia BHXH thực hiện nghĩa vụ của mình như sau: 
 Cơ quan BHXH phải tăng cường xuống tận đơn vị sử dụng lao 
động để nhắc nhở. 
 Nhắc nhở bằng văn bản. 
 Nếu sau một thời gian người tham gia BHXH có biểu hiện chậm 
nộp thường xuyên hoặc khi có nợ tồn đọng phát sinh cơ quan 
BHXH sẽ có biện pháp sử lí nghiêm khắc hơn và quyết định sử 
phạt theo luật định. 
- Trốn đóng BHXH: đây là trường hợp tương đối phổ biến thường xuất 
hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: khai giảm số lượng lao động, khai 
giảm thu nhập của người lao động. 
Truy thu và sử phạt là hai hình thức được cơ quan BHXH áp dụng 
nhiều nhất hiện nay. Truy thu đảm bảo cho pháp luật BHXH được tuân thủ, 
cụ thể là cơ quan BHXH được phép yêu cầu kho bạc hoặc ngân hàng trích 
chuyển từ tài khoản của người sử dụng lao động sang tài khoản chuyên thu 
của BHXH bao gồm cả tiền lãi mà không cần sự chấp thuận thanh toán của 
người sử dụng lao động. Xử phạt được BHXH thực hiện và xác định theo tỉ 
lệ % so với tiền đóng BHXH hàng tháng dựa trên cơ sở tích luỹ. Nhìn chung 
các chế tài sử phạt của Việt Nam hiện nay chưa thực sự nghiêm khắc, mới 
chỉ mang tính hành chính chưa đủ để ngăn chặn hành vi vi phạm trên. Kết 
quả thu BHXH qua mười năm từ năm 1995- 2004 được thực hiện ở bảng 2. 
Bảng 2: Tình hình thu BHXH Việt Nam giai đoạn 1995- 2004. 
Năm Số thu BHXH 
( triệu đồng) 
Tốc độ tăng tuyệt 
đối (triệu đồng) 
Tốc độ tăng 
thu tương đối 
 §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp 
(%) 
1995 788.486 --- --- 
1996 2.569.733 1.781.247 225,90 
1997 3.514.226 944.493 36,75 
1998 3.875.956 361.730 10,29 
1999 4.186.055 310.009 8,00 
2000 5.198.222 1.012.167 24,18 
2001 6.334.650 1.136.428 21,86 
2002 6.790.795 456.145 7,20 
2003 11.654.660 4.863.865 71,62 
2004 13.168.500 1.513.840 12,99 
 ( Nguồn BHXH Việt Nam) 
Như vậy số thu của BHXH những năm qua đã đạt được những kết quả 
đáng kể, số thu năm sau luôn cao hơn năm trước. Có thể thấy, ngay sau khi 
đổi mới BHXH Việt Nam đã đi vào hoạt động ổn định và có hiệu quả. Như 
trong bảng 2 thì số thu có tỉ lệ tăng hầu hết trong các năm là hai con số, đặc 
biệt là năm 2003 có số thu tăng rất cao do BHYT chính thức sát nhập vào 
BHXH. Và BHXH thực hiện thu cả phí BHYT của các lao động tham gia 
BHXH như vậy thực sự thuận tiện cho cả bên thu lẫn bên nộp. BHXH Việt 
Nam sau đổi mới đã chuyển từ đơn vị không có thu (thu không đáng kể) 
chuyển sang đơn vị có thu. Trong mười năm thực hiện, số thu năm 2004 là 
13.168.500 triệu đồng so với 788.486 triệu đồng của năm 1995. Như vậy chỉ 
trong mười năm mà số thu đã tăng lên gần 20 lần, đây là con số quả không 
nhỏ đặc biệt là so với số tăng gần 3 lần của số người tham gia. Việc tốc độ 
tăng thu BHXH lớn hơn tốc độ tăng của người tham gia cho chúng ta thấy 
phần lớn việc tăng quỹ là do tăng mức đóng góp trên đầu người. Vấn đề tăng 
thu làm tăng quỹ, từ đó giảm gánh nặng của NSNN, tăng nguồn quỹ nhàn rỗi 
để tăng đầu tư cung cấp cho thị trường vốn thông qua hoạt động đầu tư tăng 
 §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp 
trưởng quỹ. Việc này không những góp phần phát triển quỹ mà còn đóng 
góp vào sự phát triển của xã hội. 
Bên cạnh đó tình trạng trốn đóng của BHXH Việt Nam không phải là 
ít. Đặc biệt là khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh, các đơn vị kinh tế nhỏ lẻ 
sử dụng ít lao động thường xuyên trốn đóng. Tình trạng nợ đọng kéo dại ở 
một số địa phương, một số đơn vị sử dụng lao dộng vẫn còn. Theo báo cáo, 
tính đến ngày 3/9/1999, tổng số nợ đọng trên cả nước lên tới 418.144 triệu 
đồng (bình quân số nợ này tương đương với việc các đơn vị sử dụng lao 
động trong toàn quốc đóng chậm BHXH 1,6 tháng). Như vậy tình hình nợ 
đọng hiện nay là rất lớn. Đến những năm gần đây tình trạng nợ đọng BHXH 
trong công tác thu được phần nào cải thiện tình hình. Hàng năm số đơn vị 
lao động tiếp tục tham gia BHXH tại các địa phương ngày càng gia tăng. 
Năm 2003 trên toàn quốc có 17.437 đơn vị và 474.887 người tham gia. Đặc 
biệt trong năm 2003, số nợ của BHXH của các đơn vị đã giảm rõ rệt. Nếu so 
với số thu như thời kì trước thì số nợ chậm đóng chỉ bằng 0,49 tháng bình 
quân tiền thu BHXH ( tương đương với số thu bình quân trong 15 ngày). 
Trong đó số nợ chậm đóng của năm 2002 tương đương với 0,78 tháng bình 
quân tiền thu BHXH. Theo các báo cáo thì số nợ chậm đóng của năm 2003 
chủ yếu là của các doanh nghiệp đang trong quá trình đổi mới, sắp xếp lại 
hoặc doanh nghiệp bị phá sản hay giải thể. 
2. Quản lí chi BHXH. 
2.1. Chi các chế độ BHXH. 
Chi trả trợ cấp cho các chế độ BHXH hiện nay được phân loại theo 
nhiều tiêu thức khác nhau, tuy vào các góc độ mà người ta có thể xem xét 
các vấn đề dưới nhiều góc độ khác nhau. Có bốn cách phân loại chi trợ cấp 
BHXH như sau: 
- Chi trợ cấp định kì thường xuyên và trợ cấp một lần. 
- Phương thức thanh toán trợ cấp bằng tiền hay hiện vật. 
- Nguồn chi từ NSNN hay từ quỹ BHXH. 
- Chi theo trợ cấp ngắn hạn hay dài hạn. 
 §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp 
Hiện nay BHXH Việt Nam đang thực hiện chi cho các chế độ sau: 
+ Trợ cấp ốm đau. 
+ Trợ cấp thai sản. 
+ Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. 
+ Trợ cấp hưu trí. 
+ Trợ cấp tử tuất. 
+ Chi dưỡng sức phục hồi sức khoẻ. 
Để quản lí chi trợ cấp cho các chế độ của BHXH Việt Nam cần chú ý 
đến những nội dung sau đây: 
2.1.1.Phân cấp chi trả. 
Cũng như quản lí thu, quản lí chi cũng theo phân cấp theo đó cơ quan 
BHXh cấp tỉnh, huyện có trách nhiệm thực hiện kịp thời đầy đủ cho các đối 
tượng hưởng BHXH kịp thời, đầy đủ, đúng đối tượng và đúng chế độ chính 
sách. Theo quy định cơ quan BHXH cấp tỉnh chỉ chịu trách nhiệm chi trả trợ 
cấp ốm đau, thai sản và trợ cấp một lần cho các đối tượng hưởng mà đơn vị 
sử dụng mà cơ quan BHXH cấp tỉnh đã thu đóng góp. Cơ quan BHXH cấp 
huyện chi trả trợ cấp ốm đau, thai sản và các trợ cấp một lần cho các đơn vị 
sử dụng lao động mà cơ quan BHXH cấp huyện đã thu đóng góp. BHXH 
huyện cũng chi trợ cấp định kì liên quan đến các chế độ tai nạn lao động và 
bệnh nghề nghiệp, hưu tuổi già, tử tuất cho các đối tượng trên địa bàn quản lí 
và chi trả trợ cấp cho cán bộ xã phường thị trấn đã tham gia BHXH. Như 
vậy là đã có sự phân cấp cụ thể cho từng cấp quản lí, ngoài ra để thực hiện 
quản lí việc chi trả trợ cấp cơ quan BHXH các cấp còn phải lập các báo cáo 
và tổng hợp các khoản chi trợ cấp để nộp lên cơ quan BHXH cấp trên theo 
định kì. Dựa vào các báo cáo này mà cơ quan BHXH cấp trên sẽ thực hiện 
thẩm định, xét duyệt chi trợ cấp BHXH theo đúng quy định hiện hành. 
2.1.2. Phương thức chi trả. 
Như chúng ta đã biết việc chi trả trợ cấp hiện nay có hai phương thức 
chính để chi trả, mỗi phương thức đều có những ưu điểm và nhược điểm 
riêng, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh mà chúng ta nên lựa chọn cho phủ hợp. Tại 
 §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp 
Việt Nam hiện nay phương thức chi trả gián tiếp thông qua hệ thốnh đại lí 
chi trả là phổ biến nhất. Hệ thống đại lí chi trả hầu hết là quan hệ dựa trên 
hợp đồng lao động và thường là chính người sử dụng lao động, cán bộ xã 
phường, bưu điện hoặc ngân hàng. Thường các đại lí chi trả là người sử 
dụng lao động được BHXH Việt Nam sử dụng cho việc chi trả cho các trợ 
cấp ngắn hạn như ốm đau, tai nạn, bệnh nghề nghiệp... rất tiện lợi. Các đại lí 
còn lại phù hợp hơn với các chế độ dài hạn. Với điều kiện như hiện nay của 
Việt Nam thì phương thức chi trả như vậy là hợp lí, chi phí thấp, tiện lợi đối 
với người được hưởng trợ cấp. 
Cùng với sự phát triển của nước ta như hiện nay BHXH cũng cần 
nghiên cứu và xem xét tới các phương thức thanh toán khác như chi trả gián 
tiếp qua hệ thống tài khoản ngân hàng. Với sự phát triển của hệ thống ngân 
hàng như hiện nay thì tại các thành phố có thể nghiên cứu và ứng dụng chó 
phương pháp chi trả hiện đại này. Ưu điểm lớn nhất của phương thức này là 
nhanh chóng và tiết kiệm chi phí. 
2.1.3. Quản lí đối tượng được hưởng và số tiền chi trả. 
Quản lí chi trả trợ cấp BHXH yêu cầu cơ quan BHXH quản lí đối 
tượng được hưởng theo từng loại chế độ, tình hình biến động tăng giảm và 
kiểm tra xác định đúng đối tượng hưởng, quản lí số tiền chi trả theo từng kì 
thanh toán và đảm bảo an toàn nguồn tiền mặt trong suốt quá trình chi trả. 
- Quản lí người phụ thuộc: ngay từ khi thực hiện việc đăng kí tham gia 
BHXH và ghi hồ sơ, phải cập nhật các thông tin chính xác về đối tượng phụ 
thuộc đủ điều kiện hưởng trợ cấp. 
- Lập báo cáo thống kê định kì về đối tưọng hưởng BHXH riêng cho 
từng loại trợ cấp định kì hay một lần, chi tiết theo từng loại chế độ và tách 
riêng theo từng đối tượng hưởng từ NSNN hay từ quỹ BHXH. 
- Thiết kế, cải tiến và sửa đổi thủ tục xét hưởng trợ cấp đảm bảo đơn 
giảm, khoa học nhưng vẫn nhanh chóng và chính xác. Kiểm tra kĩ các điều 
kiện hưởng BHXH dựa vào các quy định về điều kiện hưởng cán bộ sẽ xem 
xét tư cách được hưởng của đối tượng và nhanh chóng ra quyết định từ chối 
hay chấp nhận trợ cấp. Để đảm bảo công việc trên được thực hiện nhanh 
 §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp 
chóng và chính xác yêu cầu cán bộ xét hưởng phải có trình độ và đạo đức tốt 
và nhận thức rõ được tầm quan trọng của công việc. 
- Thu hồi số tiền chi sai nếu có căn cứ chính xác, xác định việc giả mạo 
hồ sơ giấy tờ để được hưởng trợ cấp BHXH. Khi đó cơ quan BHXH phải 
ngừng ngay việc thực hiện chi trợ cấp và nhanh chónh thu hồi số tiền đã chi 
sai về đồng thời nhanh chóng có biện pháp xử lí thích đáng. 
Kết quả chi BHXH Việt Nam thực hiện sau đổi mới 1995 được thể 
hiện ở bảng số liệu 3. 
Bảng 3: Tình hình chi các chế độ BHXH từ 1995- 2004. 
Năm Tổng chi BHXH 
( triệu đồng) 
Tỉ trọng từ 
NSNN (%) 
Tỉ trọng từ quỹ 
BHXH (%) 
Chi 
BHYT 
(%) 
1995 1.153.984 96 4 - 
1996 4.711.054 92 8 - 
1997 5.756.618 90 10 - 
1998 5.885.055 87 13 - 
1999 5.955.971 84 16 - 
2000 7.574.775 82 18 - 
2001 9.215.061 79 21 - 
2002 9.480.875 74 26 - 
2003 15.934.778 62 31 7 
2004 16.832.957 60 29 11 
 ( Nguồn BHXH Việt Nam) 
Qua bảng 3 ta có thể nhận thấy BHXH Việt Nam số chi ngày càng 
tăng đặc biệt là từ năm 2003 khi chi BHYT được tính vào chi BHXH. Tình 
hình chi của BHXH Việt Nam có nhiều phức tạp vì những người về hưu 
trước năm 1995 còn hưởng các chế độ do NSNN cấp, quỹ BHXH chỉ chi trợ 
cấp cho các lao động về hưu sau 1995. Đặc biệt năm 2002 BHYT chính thức 
 §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp 
chuyển sang BHXH nên chi còn bao gồm cả mảng BHYT. Tỉ trọng chi từ 
nguồn ngân sách giảm, chi từ quỹ BHXH tăng đều, điều này cũng phù hợp 
với thực tiễn đối tượng chi trả của NSNN theo thời gian giảm dần, các đối 
tượng chi trả của quỹ BHXH ngày càng tăng. Theo tình hình như hiện nay 
thì chi từ NSNN sẽ giảm và theo dự tính 2050 thì các đối tượng này sẽ giảm 
hết và chi từ quỹ BHXH sẽ chiếm 100%, lúc đó NSNN chỉ đóng vài trò hỗ 
trợ trong trường hợp cần thiết. 
Năm 2004, toàn ngành giải quyết cho 93.289 người hưởng trợ cấp 
định kì, trong đó có 70.000 người hưởng chế độ hưu trí và giải quyết cho 
159.989 lượt người hưởng trợ cấp một lần tăng 20.7% so với năm 2003. Khó 
khăn trong công tác này là sau khi nghỉ lao động nhiều người đã chuyển đến 
nơi khác vậy nên việc giải quyết các trợ cấp một lần là còn nhiều tồn đọng. 
2.2. Chi quản lí hoạt động bộ máy. 
Theo quy chế tài chính hiện nay có quy định chi quản lí hoạt động của 
hệ thống BHXH Việt Nam được chia làm hai phần chính là chi thường 
xuyên và kinh phí mua sắm tài sản có định, xây dựng cơ sở vật chất. Chi 
thường xuyên là khoản chi bao gồm cả chi phí nghiên cứu khoa học, đào tạo 
và đào tạo lại. Khoản chi này được trích từ tiền sinh lời do thực hiện các 
biện pháp bảo tồn và tăng trưởng quỹ, mức trích bằng 4% trên số thực thu 
của BHXH và BHYT được áp dụng đến năm 2005. Chi xây dựng cơ sở vật 
chất, mua sắm tài sản cố định là khoản chi được trích từ tiền sinh lời do thực 
hiện các biện pháp bảo tồn và tăng trưởng quỹ. 
Chi phí quản lí của hệ thống BHXH Việt Nam do Hội đồng quản lí 
quyết định trên cơ sở định mức, tiêu chuẩn hiện hành của Nhà nước Việt 
Nam và hoạt động đặc thu của ngàn, đảm bảo nguyên tắc tiết kiệm có hiệu 
quả. BHXH Việt Nam có trách nhiệm phân bổ chi phí quản lí cho BHXH 
các cấp phù hợp với nhiệm vụ được giao, đảm bảo kinh phí phân bổ cho 
BHXH các cấp không được vượt quá so với tổng mức. 
Nội dung quản lí chi hoạt động thường xuyên tập chung vào các nội 
dung cụ thể sau: 
+ Quản lí lao động và quỹ lương đối với các đơn vị, cơ quan BHXH. 
 §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp 
+ Quản lí chi cho công tác tuyên truyền về chính sách BHXH. 
+ Quản lí chi hoạt động nghiệp vụ: chi cho công tác thu, chi BHXH; 
chi tiếp khách. 
+ Quản lí kinh phí cấp cho đào tạo và đào tạo lại cán bộ công nhân 
viên. 
+ Quản lí chi cho các chuyến công tác. 
+ Ngoài ra BHXH Việt Nam còn thực hiện quản lí chi hỗ trợ đời sống 
cho cán bộ, chi hỏi thăm các đối tượng được hưởng các chế độ. 
Chi hoạt động được BHXH Việt Nam cân đối góp phần ổn định cuộc 
sống của đội ngũ nhân viên trong ngành, cải thiện trang thiết bị làm việc 
giúp cho việc quản lí các đối tượng, lưu trữ thông tin, ... tốt hơn. Đặc biệt là 
việc nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng của BHXH như trụ sở BHXH Việt 
Nam, trụ sở BHXH ở cả các tỉnh và huyện đã được nâng cấp, xây mới và 
đang dần hoàn thiện đồng bộ. Các khoản chi là đúng với quy định của Nhà 
nước. Sau đây là những số liệu về chi quản lí trong một vài năm qua: 
Bảng 4: Tình hình chi quản lí BHXH Việt Nam giai đoạn 2001-2004. 
Năm 2001 2002 2003 2004 
Tổng chi (triệu đồng) 238.092 279.240 572.359 512.000 
Tốc độ tăng chi (%) ----- 17,28 104,97 - 10.70 
 (Nguồn BHXH Việt Nam) 
Qua bảng 4 ta có thể nhận thấy số chi quản lí của BHXH Việt Nam 
ngày càng tăng đặc biệt là số chi của năm 2003 tăng gần gấp đôi số chi của 
năm 2002. Song số chi của năm 2004 đã giảm so với năm 2004, như vậy là 
BHXH đã có những điều chỉnh kịp thời tránh được tình trạng bội chi quá 
lớn. 
3. Quản lí hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ. 
Hiện nay BHXH Việt Nam có quản lí quỹ dựa trên các tài khoản mở 
tại ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam và tại Kho bạc 
Nhà nước. Theo quy định hiện nay thì số dư trong quỹ BHXH được dùng để 
 §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp 
đầu tư tăng trưởng nhằm mục đích bảo tồn và tăng trưởng quỹ. Đây cũng là 
một hoạt động hữu hiệu để đảm bảo chi mà không phải tăng thu, hơn nữa 
đây cũng là một nguồn thu rất lớn của BHXH Việt Nam. Đối với hoạt động 
đầu tư tăng trưởng quỹ phải đảm bảo được yêu cầu an toàn, bảo tồn được giá 
trị và có hiệu quả về kinh tế- xã hội. Năm 1996 hoạt động đầu tư mới chỉ 
dừng lại ở việc nhận lãi suất 0,3% theo quy định hưởng lãi suất không kì hạn 
thì đến năm 1997 các biện pháp bảo toàn và tăng trưởng quỹ đã được mở 
rộng, hiện nay hoạt động này gồm có: 
+ Mua trái phiếu, tín phiếu, kì phiếu, công trái của Kho bạc Nhà nước 
và các ngân hàng thương mại của Nhà nước. 
+ Cho NSNN, Quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển, các ngân hàng thương mại 
của Nhà nước, ngân hàng chính sách vay. 
+ Đầu tư vào một số dự án có nhu cầu về vốn do Thủ tướng Chính 
phủ quyết định. 
Nhìn chung công tác đầu tư tăng trưởng quỹ đã được triển khai thực 
hiện ở BHXH Việt Nam, đây cũng là mảng hoạt động quan trọng và bước 
đầu đã đem lại những hiệu quả nhất định. Tại BHXH Việt Nam hoạt động 
này do Ban kế hoạch- tài chính thưc hiện, theo những đánh giá chung thì số 
tiền lãi đã có những đóng góp đáng kể vào chi tiêu xây dựng cơ sở vật chất 
kĩ thuật, tríc lập Quỹ khen thưởng, phúc lợi ... . Hoạt động đầu tư được tiến 
hành quản lí để đảm bảo được hoạt động theo đúng danh mục, quản lí quá 
trình xây dựng và thẩm định để đưa ra những phương án khả thi và có hệu 
quả nhất. Kết quả hoạt động đầu tư quỹ BHXH Việt Nam qua những năm 
vừa qua được thể hiện ở bảng 5. 
Bảng 5: Lãi hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH Việt Nam. 
Năm Lãi thu trong năm 
(triệu đồng) 
Tăng trưởng lãi 
(triệu đồng) 
Tỉ lệ tăng trưởng 
lãi (%) 
1997 209.800 209.800 
1998 472.579 262.779 78,84 
1999 665.715 193.136 40,86 
 §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp 
2000 824.164 158.449 23,80 
2001 870.942 46.778 5,68 
2002 1.300.100 360.100 41,35 
2003 1.911.000 611.000 47,00 
2004 2.197.302 268.302 14,04 
 ( Nguồn BHXH Việt Nam) 
Từ bảng trên ta có thể thấy được tình hình thực hiện của công tác đầu 
tư tăng trưởng quỹ đã có những bước tiến đáng kể. Tuy năm 2001là năm 
hoạt động có số lãi tăng lên là nhỏ nhất nhưng những năm gần đây số lãi đầu 
tư đang tăng dần, đặc biệt là năm 2004 số lãi đầu tư đã lên tới 2.197.302 
triệu đồng. Như vậy, đầu tư chiếm một vị trí quan trọng trong tổng thu 
BHXH và đặc biệt trong những năm tới chắc chắn vai trò của hoạt động đầu 
tư còn phải lớn hơn nữa. Ba năm gần đây tỉ lệ tăng trưởng lãi đầu tư của 
BHXH là tương đối cao, ổn định ở mức tỉ lệ là sấp sỉ 40%. Riêng có năm 
2004 vừa qua tỉ lệ lãi đầu tư chưa cao vì tình hình giá cả trong nước có nhiều 
biến động. Tỉ lệ lạm phát tăng khá cao, thị trường tài chính biến động mạnh. 
Sang đầu năm 2005 Nhà nước ta đã có những biện pháp đối với thì trường 
tiền tệ. Hiện nay NHNN đang sử dụng chính sách tiền tệ thắt chặt, nâng lãi 
suất đầu tư của Việt Nam đồng. Có thể trong năm 2005 này số thu lãi đầu tư 
của BHXH Việt Nam sẽ cao hơn. 
3. Quản lí hoạt động cân đối quỹ BHXH. 
Sau Nghị định 12/CP được thực hiện, quỹ BHXH Việt Nam mới 
chính thức đi vào hoạt động và được quản lí thống nhất, hạch toán độc lập 
với NSNN. BHXH là một chính sách xã hội, hệ thống BHXH hoạt động 
không vì mục tiêu lợi nhuận mà hoạt động vì mục tiêu xã hội, do vậy quỹ 
BHXH hoạt động và được bằng thu chi hợp lí (tthu bù chi). Để quản lí tốt 
việc cân đối thu chi quỹ trước hết ta phải quản lí tốt các hoạt động thu, chi 
BHXH và cả hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ. Trên lí thuyết là như vậy 
song quá trình thực hiện quả là khó khăn bởi thứ nhất là đặc trưng của ngành 
này là thu trước chi sau, các khoản chi ta không thể xác định chính xác ngay 
 §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp 
khi triển khai để xác định mức thu cho hợp lí. Hơn nữa điều kiện kinh tế xã 
hội thì luôn luôn vận động không ngừng, các biến cố có thể xảy ra mà chúng 
ta không thể điều kiển được. 
Đặc biệt là ở Việt Nam hiện nay, BHXH được hoạt động theo nguyên 
tắc tài chính PAYGO đối với chế độ hưu trí. Tức là các khoản thu trong năm 
sẽ dùng để chi trả cho các khoản chi trong năm đó. Nhìn chung hệ thống tài 
chính BHXH theo cơ chế PAYGO hầu như không có hoặc có rất ít các 
khoản tích luỹ cho các giai đoạn sau, việc quản lí là rất đơn giản. Đối với cơ 
chế quản lí tài chính này, chu kì thực hiện được chia làm 3 giai đoạn sau: 
- Giai đoạn thanh niên: là giai đoạn khoảng 20 năm sau khi bắt đầu áp 
dụng cơ chế nay (ở Việt Nam là khoảng thời gian từ 1995- 2015). Giai đoạn 
này chưa có nhiều người về hưu, số người tham gia tăng, như vậy là số 
người phụ thuộc ít, tỉ lệ thay thế cao dẫn đến tỉ lệ đóng góp thấp. 
- Giai đoạn già hoá: là khoảng 30 năm tiếp theo giai đoạn thanh niên (ở 
Việt Nam là khoảng thời gian từ 2015- 2045). Giai đoạn này số người về 
hưu tăng, tỉ lệ phụ thuộc tăng, để đảm bảo cân đối thu chi người ta có thể 
dùng hai cách hoặc giảm tỉ lệ thay thế hoặc là tăng tỉ lệ đóng góp. 
- Giai đoạn già hoá hoàn toàn: là giai đoạn khoảng trên 50 áp dụng chế 
độ PAYGO như vậy ở Việt Nam là khoảng từ 2045 trở đi. Giai đoạn này tỉ 
lệ phụ thuộc tăng lên rất cao và tỉ lệ đóng góp buộc phải tăng lên. 
Theo dự báo thì BHXH Việt Nam đến khoảng năm 20036 là bắt đầu 
chuyển sang giai đoạn già hoá (tức là thu không đủ chi, số dư quỹ sẽ âm). 
Dự tính, quỹ BHXH Việt Nam sẽ phát triển đến tận năm 2022, tại đây số dư 
quỹ sẽ lớn nhất. Nếu tỉ lệ tham gia BHXH thực hiện theo xu thế như hiện 
nay thì đối tượng tham gia BHXH đến năm 2020 vào khoảng 15 triệu người, 
đến năm 2030 là 22,4 triệu người và năm 2040 là khoảng 31 triệu người. 
Tương đương với đó, số dư dự kiến của BHXH Việt Nam vào năm 2022 là 
khoảng 200.000 tỷ đồng, sau đó sẽ giảm dần và đến năm 2036 dự kiến sẽ 
âm. Do vậy vấn đề nêu ra hiện nay là quỹ BHXH đang tồn dư lớn, BHXH 
Việt Nam ngay từ lúc này nên thực hiện các biện pháp, hoạch định chính 
sách cho tương lai thâm hụt quỹ không xa. 
 §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp 
Chế độ quản lí tài chính như vậy có ưu điểm là đơn giản song lại cũng 
có nhiều nhược điểm cần khắc phục như sự tồn tại quỹ, quyền lợi của người 
lao động và ngay cả những tác động không tốt đến nền kinh tế. Tuy nhiên ở 
nước ta, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy đây là lựa chọn chuyển cơ chế 
quản lí tài chính sang cơ chế quản lí có đầu tư. Thực hiện các hoạt động đầu 
tư để giảm những hạn chế của cơ chế quản lí này. Như vậy đầu tư là việc 
làm rất quan trọng đối với việc cân đối quỹ BHXH cả hiện nay và trong 
tương lai. Thu từ đầu tư có thể giúp bảo toàn giá trị quỹ và giúp chúng tăng 
trưởng bù đắp được sự mất giá của đồng tiền do lạm phát. Chúng ta có thể 
thấy được hoạt động cân đối quỹ BHXH Việt Nam được thực hiện trong 
những năm qua: 
Bảng 6: Tình hình cân đối quỹ BHXH Việt Nam từ 1995- 2004. 
 ( triệu đồng) 
Năm Số dư năm 
trước 
Số thu trong 
năm 
Tổng thu Tổng chi Số dư cuối 
năm 
1995 0 788486 788486 41954 746532 
1996 746532 2569733 3316265 383150 2933115 
1997 2933115 3724269 6657384 693525 5963862 
1998 5963862 4394569 10358431 971630 9386801 
1999 9386801 4867167 14253968 1200351 13053635 
2000 13053635 6032387 19086022 1606783 17479239 
2001 17479239 7229810 24709049 2381915 22327134 
2002 22327134 8117437 30444571 2606542 50165163 
2003 50165163 13565660 63730823 6150010 57580813 
2004 57580813 15365802 73046615 7021000 66025615 
 ( Nguồn BHXH Việt Nam) 
Bảng cân đối cho ta cái nhìn tổng quan về hoạt động tài chính của 
BHXH Việt Nam. Chúng ta có thể nhận thấy số dư quỹ hiện nay của chúng 
 §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp 
ta đang rất lớn vì tình hình thu vào nhiều mà chi thì ít do có sự hỗ trợ rất lớn 
từ NSNN. Qua đó ta nhận thấy, đối với tình hình như hiện nay hoạt động 
đầu tư tăng trưởng quỹ cần phát huy hơn nữa. Số dư quỹ cuối năm tăng lên 
đều đặn, số dư tính đến tháng 12/2004 lên tới 66025615 triệu đồng, đây là 
con số rất lớn so với năm 1995. Tốc độ tăng tổng thu quỹ lớn hơn tổng chi 
quỹ, đây là lí do khiến cho số dư quỹ tăng cao. Hơn nữa như chúng ta biết 
BHXH Việt Nam đang trong giai đoạn đầu của cơ chế PAYGO nên việc số 
dư quỹ cao là hoàn toàn hợp lí. Điều cần thiết hiện nay là cần có những biện 
pháp hợp lí nhằm khắc phục những nhược điểm của chế độ quản lí tài chính 
này. Số dư quỹ ngày càng tăng, theo tỉ lệ tăng số dư quỹ như hiện nay có lẽ 
chỉ khoảng năm 2030 là số dư quỹ đạt được mức 200.000 tỷ đồng, mức cao 
nhất theo dự báo. 
III. Đánh giá chung về công tác quản lí tài chính BHXH 
Việt Nam. 
1. Những kết quả đạt được. 
1.1. Hình thành hệ thống pháp lí làm cơ sở cho cơ chế quản lí tài chính 
BHXH: 
 Từ ngay sau 1995, Chính phủ đã ban hành hàng loạt các Nghị định về 
BHXH quy định và hoàn thiện dần các quy chế quản lí cũng như hoạt động 
của ngành nói chung và của tài chính BHXH nói riêng. Đây chính là nền 
tảng, là định hướng quan trọng trong quá trình thực hiện chính sách BHXH. 
Hơn nữa trong quá trình hoạt động hệ thống pháp lí của BHXH Việt Nam 
luôn được sửa đổi bổ xung cho phù hợp với sự thay đổi của điều kiện kinh 
tế, xã hội. Hệ thống BHXH Việt Nam ngày càng phát triển với số người 
tham gia BHXH tăng, năm 1995 mới có 2.275.998 người tham gia BHXH 
thì tính cho đến cuối năm 2004 số người tham gia đã lên tới 6.344.508 người 
(tăng gần 3 lần). Như vậy là chính sách đổi mới là hoàn toàn phù hợp và 
phát huy được hiệu quả hoạt động. Điều này thể hiện trong kết quả đạt được 
trong mọi mặt, song trong khuôn khổ của đề tài chỉ xin đề cập đến khía cạnh 
quản lí tài chính của BHXH Việt Nam. 
1.2. Hình thành quỹ BHXH được quản lí tập trung và độc lập với NSNN. 
 §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp 
Trước đây quỹ BHXH chỉ tồn tại trên danh nghĩa và hầu như không 
có thu, nguồn chi trả cho các chính sách phụ thuộc vào NSNN. Hiện nay 
BHXH đã hình thành nên quỹ BHXH, độc lập với NSNN. Thu BHXH từ hai 
đối tượng là người lao động và người sử dụng lao động với quy định trích 
nộp theo % lương của người lao động và quỹ lương của doanh nghiệp. Hoạt 
động thu chi được thực hiện tương đối thuận lợi chi phí thấp mà hiệu quả 
công việc cao. Việc phân cấp thu chi theo ba cấp, thu bằng chuyển khoản, 
thực hiện chi trả thông qua đaị lí là rất phù hợp với điều kiện của Việt Nam 
hiện nay. Mức chi BHXH dựa trên những căn cứ thực tế, mức lương tối 
thiểu tính làm căn cứ đảm bảo được mức sống tối thiểu cho người lao động. 
Tỉ lệ hưởng BHXH Việt Nam là tương đối cao so với các nước trên thế giới 
thể hiện chức năng phân phối lại thu nhập của BHXH. Quỹ BHXH hiện nay 
luôn tăng trưởng qua các năm, quỹ đang thay thế dần các khoản chi với tỉ 
trọng chi từ quỹ BHXH tăng, giảm tỉ trọng chi từ NSNN. Việc ra đời và phát 
triển quỹ BHXH Việt Nam là bước ngoặt lớn trong sự phát triểm của ngành 
BHXH, đánh dấu sự chuyển biến về cơ chế quản lí. 
1.3 . Công tác thu được phân cấp, tổ chức thu hợp lí an toàn qua hệ thống 
tài khoản thu BHXH Việt Nam. 
Cấp Trung ương, cấp khu vực, cấp cơ sở là ba phân cấp quản lí của hệ 
thống BHXH Việt Nam dựa trên phân cấp hành chính. Trên cơ sở phân cấp 
này hoạt động thu, chi của BHXH được triển khai rộng khắp cả nước. Việc 
thực hiện thu chủ yếu là thông qua chuyển khoản từ tài khoản của doanh 
nghiệp vào tài khoản thu BHXH lập tại Kho bạc Nhà nước, hay ngân hàng 
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt nam. Hình thức thu nộp trên vừa 
đảm bảo tính an toàn, chính xác lại giúp cho các doanh nghiệp và cơ quan 
BHXH thực hiện dễ dàng. Kết quả là số thu của BHXH Việt Nam năm sau 
luôn tăng hơn năm trước, giảm tình trạng nợ đóng, trốn đóng, chậm đóng. 
Từ đó quỹ BHXH được ổn định, thực hiện theo đúng kế hoạch quản lí, bảo 
tồn và tăng trưởng quỹ, đảm bảo được khả năng chi trả của quỹ BHXH. 
1.4 . Thực hiện chi trả các chế độ vừa nhanh chóng, kịp thời vừa đảm bảo 
tính chính xác. 
 §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp 
Hiện nay BHXH Việt Nam cũng như các ban ngành trong cả nước 
đang thực hiện tốt công tác đơn giảm hoá thủ tục hành chính. Việc xét duyệt 
các hồ sơ hưởng các loại chế độ đã dần được đổi mới, thủ tục nhanh chóng, 
đơn giảm nhưng vẫn hiệu quả. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng 
từ 1/1/2005 theo quy trình xét duyệt mới, việc xét duyệt hồ sơ được thực 
hiện ở BHXH tỉnh bằng chương trình tin học, BHXH Việt Nam chỉ theo dõi, 
chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện của BHXH tỉnh. Công tác chi 
trả được thực hiện chủ yếu thông qua hệ thống đại lí là chủ sử dụng lao động 
đối với các chế độ ngắn hạn, cán bộ xã phường với các chế độ dài hạn. Việc 
chi trả hiện nay thực hiện kịp thời giúp người lao động đảm bảo cuộc sống 
của họ. Quỹ BHXH đang có số chi chiếm tỉ trọng ngày càng cao, dần thay 
thế NSNN trong vai trò chi trả các chế độ. Sau khi sát nhập BHYT sang 
BHXH, công tác thu chi thực hiện đơn giản gọn nhẹ, giảm được chi phí quản 
lí vì các đối tượng phải tham gia BHXH thì đồng thời cũng phải tham gia 
BHYT. Các khoản chi vào công tác nghiên cứu, ứng dụng công nghệ thông 
tin vào quản lí BHXH đã làm giảm các loại chi phí quản lí khác. 
1.5. Quỹ đã có thu từ hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ, giảm được nhược 
điểm của cơ chế quản lí PAYGO. 
Từ sau 1997 BHXH Việt Nam thực sự có thu từ hoạt động đầu tư tăng 
trưởng quỹ. Đây là một hoạt động đóng vai trò vị trí thực sự quan trọng 
không những làm tăng thu mà còn góp phần bảo toàn khả năng chi trả của 
quỹ BHXH. Tuy thu từ đầu tư chưa cao song đảm bảo an toàn, không để xảy 
ra thất thoát, nó đã thể hiện sự đúng đắn trong quản lí tài chính BHXH. Đặc 
biệt như điều kiện nước ta hiện nay chỉ số giá tiêu dùng tương đối cao (tỉ lệ 
lạm phát cao) có thể dẫn tới việc Nhà nước phải quy định lại mức lương tối 
thiểu. Như vậy nếu không có sự đầu tư bảo toàn và tăng trưởng quỹ thì sự bù 
thiếu cho những chênh lệch khi nộp và khi hưởng là không có. Hơn nữa, 
hoạt động đầu tư còn mang lại không những lợi ích về mặt kinh tế mà cả về 
mặt xã hội. Các dự án đầu tư có thể mang đến việc làm cho nhiều lao động 
thất nghiệp giảm gánh nặng cho xã hội ... . Việc đầu tư đã được thực hiện 
theo đúng danh mục đầu tư, đúng hạn mức đầu tư và đảm bảo an toàn, tăng 
trưởng quỹ BHXH góp phần đảm bảo khả năng chi trả cho các chế độ. 
 §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp 
2. Những tồn tại cần khắc phục và nguyên nhân. 
2.1. Việc số người tham gia còn ít đặc biệt là tình trạng trốn tham gia, trốn 
đóng, nợ đọng phí BHXH còn rất phổ biến. 
Hiện nay theo quy định thì số lao động bắt buộc tham gia là rất lớn 
song số người tham gia BHXH tính đến thời điểm này là chưa cao. Tình 
trạng trốn tham gia BHXH của các đối tượng, đặc biệt là khối doanh nghiệp 
ngoài quốc doanh, những công ty tư nhân, cổ phần, trách nhiệm hữu hạn vừa 
và nhỏ là tương đối cao. Thứ nhất là tình trạng khai giảm, khai thiếu số lao 
động trong doanh nghiêp, trường hợp thứ hai là không tham gia hoàn toàn. 
Tồn tại tình trạng trên một phần do sự thiếu tích cực của chủ sử dụng lao 
động, một phần do sự quản lí chưa chặt của cơ quan ban ngành có liên quan. 
Chưa có sự phối kết hợp cần thiết giữa các đơn vị quản lí, bên cạnh đó các 
chế tài pháp luật cũng chưa có những biện pháp sử phạt nghiêm minh đối 
với tình trạng này. 
Các doanh nghiệp hiện nay trong việc đóng phí BHXH vẫn diễn ra 
tình trạng khai giảm quỹ lương của doanh nghiệp để trốn đóng . Đặc biệt 
hơn là tình trạng nợ đọng, nợ chậm đóng còn nhiều. Tình trạng trên còn tồn 
tại là do cơ quan BHXH Việt Nam chưa có những biện pháp quản lí hữu 
hiệu, các quy định về xử phạt là chưa thực sự nghiêm khắc. 
2.2. Trong công tác chi trả BHXH Việt Nam còn nhiều hiện tượng sai sót 
trong xét duyệt, tình trạng tồn đọng trong giải quyết chế độ vẫn tồn tại. 
Qua việc kiểm tra các hồ sơ xét hưởng BHXH Việt Nam còn phát 
hiện những trường hợp xét duyệt sai, như xét duyệt không đúng chế độ, 
chính sách, tính toán sai, thiếu giấy tờ,... . Trong những năm qua BHXH Việt 
Nam thông qua công tác thẩm định đã trả lại không ít hồ sơ để BHXH tỉnh 
bổ xung, hoàn chỉnh lại. Có tình trạng này là do công tác đào tạo, hướng dẫn 
nâng cao nghiệp vụ chưa được quan tâm đúng mức. 
Tình trạng tồn đọng trong giải quyết các chế độ còn phổ biến, tức là 
các đối tượng đặc biệt là các đối tượng được hưởng trợ cấp một lần sau khi 
nghỉ việc đã chuyển đến nơi khác gây ra rất nhiều khó khăn cho công tác chi 
trả. Đây là những hạn chế do nguyên nhân khách quan, hiện nay đang được 
 §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp 
khắc phục bằng cách đưa những thông tin đó lên các phương tiện thông tin 
đại chúng của địa phương để đối tượng được hưởng chế độ được biết. 
2.3. Công tác đầu tư bảo tồn và phát triển quỹ tuy đã có thu nhưng còn 
hạn chế lợi nhuận từ đầu tư còn rất nhỏ. 
Vấn đề ở đây là hiệu quả đồng vốn bỏ ra là chưa cao, lí do chủ yếu 
các hoạt động đầu tư còn theo chỉ định của Chính phủ. Các quy định về hạng 
mục đầu tư còn hạn hẹp, hình thức đầu tư đơn điệu. Các ngân hàng được 
phép vay mới chỉ bó hẹp trong các ngân hàng Nhà nước: NH Nông nghiệp 
và Phát triển nông thôn, NH Công thương, NH Ngoại thương, NH Đầu tư và 
Phát triển. Trong quản lí đầu tư BHXH Việt Nam chưa có sự phân định trách 
nhiệm rõ ràng, chưa có bộ phận chuyên môn quản lí nghiệp vụ này mà chỉ 
mới giao cho Ban Kế hoạch- tài chính đảm nhiệm. 
Hoạt động đầu tư hiện nay vẫn hoàn toàn thụ động
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
Luận văn- Thực trạng và một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác quản lý tài chính BHXH tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.pdf