Luận văn Thực trạng và giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Vĩnh Phúc

Tài liệu Luận văn Thực trạng và giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Vĩnh Phúc: LUẬN VĂN: Thực trạng và giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Vĩnh Phúc Mở đầu 1. Sự cần thiết của việc nghiên cứu. Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo ra nhiều hàng hoá và dịch vụ, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Điều kiện cần thiết và quan trọng nhất là phải thu hút được các nguồn vốn đầu tư trong nước cũng như của nước ngoài. Đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta xác định vốn trong nước là quyết định nhưng vốn đầu tư nước ngoài cũng có vai trò hết sức quan trọng. Hơn nữa ngoài ý nghĩa về vốn, thì đầu tư trực tiếp nước ngoài còn giúp cho chúng ta tiếp thu các công nghệ hiện đại và những kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nước phát triển. Vĩnh Phúc là một tỉnh Trung du miền núi, điều kiện kinh tế xã hội còn khó khăn, nguồn vốn đầu tư cho phát triển kinh tế còn hạn hẹp, có thể nói là thiếu vốn trầm trọng. ở các cơ sở sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh thiết b...

pdf96 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 968 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Thực trạng và giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Vĩnh Phúc, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Thực trạng và giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Vĩnh Phúc Mở đầu 1. Sự cần thiết của việc nghiên cứu. Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo ra nhiều hàng hoá và dịch vụ, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Điều kiện cần thiết và quan trọng nhất là phải thu hút được các nguồn vốn đầu tư trong nước cũng như của nước ngoài. Đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta xác định vốn trong nước là quyết định nhưng vốn đầu tư nước ngoài cũng có vai trò hết sức quan trọng. Hơn nữa ngoài ý nghĩa về vốn, thì đầu tư trực tiếp nước ngoài còn giúp cho chúng ta tiếp thu các công nghệ hiện đại và những kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nước phát triển. Vĩnh Phúc là một tỉnh Trung du miền núi, điều kiện kinh tế xã hội còn khó khăn, nguồn vốn đầu tư cho phát triển kinh tế còn hạn hẹp, có thể nói là thiếu vốn trầm trọng. ở các cơ sở sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh thiết bị và công nghệ đều lạc hậu, trình độ quản lý yếu kém, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp. Do vậy việc thu hút vốn đầu tư nói chung, vốn đầu tư nước ngoài nói riêng là vấn đề cấp thiết đối với tỉnh. Kể từ khi có Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (1987) đến nay, việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở tỉnh Vĩnh Phúc đã thu được những kết quả khả quan. Đầu tư trực tiếp nước ngoài bước đầu đã góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, làm thay đổi hẳn cơ cấu kinh tế. Tuy nhiên kết quả đạt được còn rất hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng và thế mạnh của Tỉnh. Đã đến lúc cần phải xem xét lại toàn bộ thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Vĩnh Phúc, tìm ra các nguyên nhân yếu kém, trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp phù hợp nhằm thu hút nhiều hơn nữa nguồn vốn quan trọng này. Từ trước đến nay chưa có một đề tài nào đề cập một cách toàn diện về công tác đầu tư trực tiếp nước ngoài ở tỉnh Vĩnh Phúc. Trong bối cảnh đó việc nghiên cứu đề tài: "Thực trạng và giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Vĩnh Phúc", hy vọng sẽ góp phần nhất định vào việc giải quyết những vấn đề cơ bản và cấp bách đặt ra trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào tỉnh Vĩnh Phúc. 2. Mục tiêu của đề tài. - Hệ thống hoá một số vấn đề có tính chất lý luận và thực tiễn về đầu tư trực tiếp nước ngoài. - Đánh giá toàn diện thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài, chỉ ra các nguyên nhân hạn chế việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại tỉnh Vĩnh Phúc. - Đề xuất một số giải pháp phù hợp để nâng cao khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào tỉnh Vĩnh Phúc. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Một số vấn đề cơ bản trong đầu tư trực tiếp nước ngoài của tỉnh Vĩnh Phúc. - Phạm vi nghiên cứu + Về không gian: Nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, có tham chiếu, so sánh với một số địa phương điển hình khác + Về thời gian: Giai đoạn 1997 - 2004 4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp luận nghiên cứu: Tác giả sử dụng phương pháp luận nghiên cứu là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. - Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Tác giả sử dụng phối hợp phương pháp thống kê, phương pháp trừu tượng hoá, phương pháp phân tích tổng hợp, và phương pháp so sánh để phân tích, đối chiếu, xử lý số liệu, tình hình và khái quát thành những luận điểm có căn cứ và lý luận thực tiễn. Tác giả cũng kế thừa các kết quả nghiên cứu đã có bổ sung những số liệu mới theo thực tiễn nghiên cứu của đề tài, nhằm làm cho luận văn rõ ràng có tính khoa học và logic hơn. 5. Dự kiến đóng góp mới của luận văn - Hệ thống hoá và làm rõ những vấn đề lý luận về thu hút FDI, vai trò của FDI đối với phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. - Phân tích, đánh giá về thực trạng thu hút FDI ở Vĩnh Phúc - Trên cơ sở kinh nghiệm của một số địa phương trong thu hút FDI rút ra những bài học cho thu hút FDI ở tỉnh Vĩnh Phúc. - Đưa ra một số nguyên tắc cơ bản trong thu hút FDI vào địa phương, và vận dụng vào thực trạng thu hút FDI ở Vĩnh Phúc từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI vào tỉnh Vĩnh Phúc. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 chương như sau: Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về thu hút FDI Chương 2: Thực trạng thu hút FDI ở Vĩnh Phúc Chương 3: Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI vào tỉnh Vĩnh Phúc Chương 1 Một số vấn đề lý luận cơ bản về thu hút FDI 1.1. Khái niệm và các hình thức của FDI 1.1.1. Khái niệm Đầu tư quốc tế hay còn gọi là đầu tư nước ngoài, là một quá trình kinh doanh trong đó vốn đầu tư được di chuyển từ quốc gia này sang quốc gia khác với mục đích sinh lời. Trong đầu tư quốc tế thường có 2 hoặc nhiều bên có quốc tịch khác nhau cùng phối hợp với nhau, để triển khai một dự án đầu tư nhằm đem lại lợi ích cho tất cả các bên. Lợi ích do hoạt động đầu tư quốc tế mang lại thường là lợi ích kinh tế, đồng thời có cả lợi ích chính trị, lợi ích văn hoá - xã hội, lợi ích về bảo vệ môi trường sinh thái. Đó là những lợi ích mà các nhà đầu tư nói riêng và các nước đầu tư trên thế giới nói chung đều hết sức quan tâm. Do vậy ngày nay hoạt động đầu tư quốc tế hình thành và phát triển với quy mô ngày càng lớn. Đầu tư quốc tế có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức cụ thể khác nhau. Trong đó người ta có thể phân loại nó theo nguồn vốn là đầu tư của tư nhân (kể cả các doanh nghiệp), đầu tư của Chính phủ và các tổ chức quốc tế hoặc có thể phân loại theo vai trò của người chủ đầu tư trong quá trình triển khai dự án đầu tư và sử dụng nguồn vốn đầu tư. Tức là phân chia thành đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Mỗi cách phân loại này có ý nghĩa khoa học và thực tiễn riêng và nó có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động đầu tư quốc tế đối với từng quốc gia trong từng giai đoạn cụ thể. Tuy nhiên trong phạm vi của luận văn tác giả chỉ xin đề cập đến loại hình đầu tư trực tiếp trong đầu tư quốc tế. Đầu tư trực tiếp trong đầu tư quốc tế còn gọi là đầu tư trực tiếp nước ngoài (Forgein Direct Investment - FDI) là một loại hình di chuyển vốn quốc tế, trong đó người chủ sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp điều hành và quản lý hoạt động sử dụng vốn. Về thực chất FDI là sự đầu tư của các công ty nước ngoài vào nước sở tại nhằm xây dựng các cơ sở sản xuất kinh doanh, các chi nhánh ở nước sở tại và làm chủ toàn bộ hoặc một phần cơ sở đó. Hay nói cụ thể các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một số vốn tối thiểu vào vốn pháp định tuỳ theo luật đầu tư của mỗi nước, từ đó chủ đầu tư nước ngoài có quyền tham gia vào việc quản lý và điều hành dự án đầu tư. Quyền quản lý dự án đầu tư phụ thuộc vào mức độ góp vốn của mỗi bên. Nếu bên nước ngoài góp 100% vốn thì doanh nghiệp hoàn toàn do chủ đầu tư nước ngoài điều hành và quản lý, nhưng doanh nghiệp đó vẫn phải hoạt động tuân theo pháp luật nước sở tại. Lợi nhuận của các chủ đầu tư nước ngoài thu được phụ thuộc vào kết quả của hoạt động kinh doanh và được chia theo tỷ lệ góp vốn trong vốn pháp định. Mức lợi nhuận này nói chung là tương đối cao nhưng cũng chịu sự rủi ro tương đối lớn. FDI được thực hiện thông qua việc xây dựng doanh nghiệp mới, mua lại từng phần hay toàn bộ doanh nghiệp đang hoạt động hoặc mua cổ phiếu để thôn tính hay sáp nhập các doanh nghiệp với nhau. Trên thực tế phần lớn FDI được thực hiện dưới dạng các công ty con hoặc các công ty liên doanh của các công ty xuyên quốc gia, đó là những công ty giữ vai trò chủ động trong quá trình đầu tư này. Do đó FDI có thể được định nghĩa là sự mở rộng phạm vi hoạt động sản xuất kinh doanh của các công ty xuyên quốc gia trên phạm vi quốc tế. Sự mở rộng đó bao gồm chuyển giao vốn, công nghệ và các kỹ năng sản xuất, bí quyết quản lý tới nước tiếp nhận đầu tư để thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh theo kế hoạch của dự án đầu tư. Nói chung FDI là một hoạt động quan trọng trong đầu tư quốc tế, nó ngày càng trở nên hết sức sôi động với quy mô ngày càng gia tăng. Đồng thời trên thế giới cũng đang diễn ra những sự thay đổi lớn cả về lĩnh vực đầu tư, về chủ đầu tư, về nơi tiếp nhận đầu tư cũng như nhiều hình thức đầu tư trực tiếp mới...v.v. Để tìm hiểu sâu hơn về FDI chúng ta cần nghiên cứu về các hình thức cơ bản của FDI. 1.1.2. Các hình thức của FDI Trên thế giới có nhiều hình thức tổ chức FDI khác nhau nhưng những hình thức được áp dụng phổ biến là: + Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hay còn gọi là hợp đồng hợp tác kinh doanh + Doanh nghiệp liên doanh + Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Tuỳ vào từng điều kiện cụ thể và tuỳ vào từng quốc gia khác nhau mà các hình thức trên đây được áp dụng khác nhau * Hợp đồng hợp tác kinh doanh Đây là hình thức đầu tư mà trong đó 2 hay nhiều bên tham gia hợp đồng ký kết thoả thuận để tiến hành một hoặc nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước nhận đầu tư trên cơ sở quy định rõ đối tượng, nội dung kinh doanh, nghĩa vụ, trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho từng bên tham gia. Hợp đồng hợp tác kinh doanh có đặc trưng là không thành lập một pháp nhân mới. Thời hạn hiệu lực của hợp đồng do các bên thoả thuận và được cơ quan có thẩm quyền của các nhà đầu tư chuẩn y. Tuy nhiên hợp đồng hợp tác kinh doanh thường có thời hạn không dài và nó không đòi hỏi vốn lớn nên những nhà đầu tư ít tiềm năng hay chọn hình thức này. * Doanh nghiệp liên doanh Đây là hình thức đầu tư trong đó hai bên cùng nhau thoả thuận góp vốn theo một tỷ lệ nhất định để thành lập một doanh nghiệp mới có hội đồng quản trị và ban giám đốc điều hành riêng. Doanh nghiệp liên doanh thường được thành lập dưới hình thức công ty TNHH, có tư cách pháp nhân và hoạt động theo quy định của pháp luật nước nhận đầu tư. Mỗi bên tham gia liên doanh có trách nhiệm đối với bên kia và doanh nghiệp liên doanh trong phạm vi phần vốn góp của mình trong vốn pháp định. Tỷ lệ vốn góp của bên (hoặc các bên nước ngoài) do các bên tham gia liên doanh thoả thuận. Theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (1987), tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài tối thiểu không dưới 30% vốn pháp định, không quy định giới hạn tối đa và trong quá trình hoạt động không được giảm vốn pháp định. Đối với các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng tại các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, các dự án đầu tư vào miền núi, vùng sâu, vùng xa, các dự án trồng rừng thì tỷ lệ này có thể thấp đến 20% nhưng phải được cơ quan cấp giấy phép đầu tư chấp nhận. Bên nước ngoài tham gia góp vốn bằng tiền nước ngoài, tiền Việt Nam, có nguồn gốc từ đầu tư tại Việt Nam, thiết bị, máy móc, nhà xưởng, công trình xây dựng, giá trị quyền sở hữu công nghiệp, bí quyết kỹ thuật, quy trình công nghệ dịch vụ kỹ thuật. Bên Việt Nam tham gia góp vốn pháp định bằng tiền Việt Nam, tiền nước ngoài, giá trị quyền sử dụng đất đai, các nguồn tài nguyên, thiết bị máy móc nhà xưởng, công trình xây dựng, giá trị quyền sở hữu công nghiệp, bí quyết kỹ thuật, quy trình công nghệ, dịch vụ kỹ thuật. Nói chung các nước nhận đầu tư thường ưa chuộng hình thức này bởi vì ngoài mục tiêu tạo nguồn vốn cho đầu tư phát triển nước chủ nhà còn có điều kiện tiếp thu được kỹ thuật, công nghệ mới, học tập được kinh nghiệm quản lý, đào tạo đội ngũ lao động và tiếp cận thị trường quốc tế. Song nước chủ nhà cũng cần phải đáp ứng được những điều kiện về vốn, trình độ quản lý doanh nghiệp cùng với người nước ngoài thì mới đảm bảo được hiệu quả mong muốn. * Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài Đây là hình thức đầu tư trong đó bên nhận đầu tư không góp vốn, toàn bộ vốn là do bên nước ngoài bỏ ra nhưng bên nhận đầu tư chịu trách nhiệm cung cấp cho bên nước ngoài các dịch vụ cần thiết như điện, nước và cho thuê đất đai, cho thuê sức lao động... Doanh nghiệp này thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài (có thể là tổ chức hoặc cá nhân người nước ngoài) được thành lập dưới hình thức công ty TNHH, có tư cách pháp nhân theo luật pháp của nước chủ nhà. Loại hình doanh nghiệp này do một hay nhiều tổ chức hoặc cá nhân người nước ngoài thành lập tại nước chủ nhà, họ tự đứng ra quản lý, tổ chức điều hành sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh cuối cùng. Hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài ngày càng được các chủ đầu tư lựa chọn nhiều hơn vì họ được tự mình quản lý, điều hành và hưởng lợi nhuận do kết quả đầu tư mang lại sau khi đã làm tròn nghĩa vụ nộp thuế với nước chủ nhà. Đối với nước chủ nhà, nhất là những nước đang phát triển do trình độ và kinh nghiệm quản lý còn hạn chế, nguồn vốn có hạn trong khi đó rất cần những dự án có số vốn đầu tư lớn, thời hạn thu hồi vốn dài mức độ mạo hiểm cao thì việc để các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư 100% vốn là rất cần thiết. Hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài còn có một vài dạng đặc biệt như + BOT: Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao + BTO: Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh + BT: Hợp đồng xây dựng - chuyển giao Những dạng hợp đồng đặc biệt này thường được áp dụng đối với các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật. Ngoài 3 hình thức chủ yếu trên, để tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, chính phủ nước nhận đầu tư còn lập ra các khu vực ưu đãi đầu tư trong lãnh thổ nước mình như: khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung, đặc khu kinh tế... Trong đó, khu chế xuất là khu vực lãnh thổ có ranh giới địa lý xác định do chính phủ nước nhận đầu tư cho phép thành lập, trong đó có thể do một hoặc một số xí nghiệp sản xuất hàng hoá phục vụ xuất khẩu hoặc thay thế hàng nhập khẩu. Trong khu chế xuất, áp dụng chế độ tự do thuế quan, tự do mậu dịch. Khu công nghiệp theo luật pháp Việt Nam quy định là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất do chính phủ thành lập hoặc cho phép thành lập. Tóm lại đầu tư trực tiếp nước ngoài được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau và mỗi hình thức đều có mặt mạnh, mặt hạn chế của nó nên cần phải đa dạng hoá các hình thức đầu tư nhằm đem lại hiệu quả cao đáp ứng mục tiêu phát triển đất nước. 1.2. Vai trò của FDI đối với việc phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam Ngày nay xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế ngày càng mở rộng và được tất cả các quốc gia trên thế giới quan tâm. Đó là quá trình mà các nền kinh tế của các nước tác động lẫn nhau, bổ xung cho nhau và phụ thuộc vào nhau. Đứng trước xu hướng đó Đảng và Nhà nước Việt Nam đã chủ trương lợi dụng "những khả năng to lớn của nền kinh tế thế giới về di chuyển vốn, mở rộng thị trường, chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý để bổ sung và phát huy có hiệu quả các lợi thế và nguồn lực trong nước. Và phương pháp hữu hiệu nhất để thực hiện chủ trương này là "Đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại" trong đó cần đặc biệt chú ý tới việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Qua gần 20 năm thực hiện luật đầu tư nước ngoài (12/1987) tại Việt Nam, chúng ta đã thu được một số kết quả đáng kể: Số lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam ngày càng tăng (tốc độ trung bình tăng 50% đến 60%); quy mô các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng lớn; cơ cấu đầu tư chủ yếu tập trung vào các ngành dầu khí, công nghiệp và dịch vụ. Các nước tư bản phát triển ngày càng đầu tư vào Việt Nam nhiều hơn. Sự gia tăng nhanh chóng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò rất lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam, làm cho nền kinh tế Việt Nam ngày càng ổn định, tăng trưởng, nâng cao trình độ kỹ thuật công nghệ, mở rộng và làm vững chắc hơn quan hệ kinh tế, tăng cường sức cạnh tranh của Việt Nam trên thị trường thế giới, tạo đà cho những bước tiến lớn hơn ở giai đoạn tiếp theo. Vai trò của FDI đối với phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam được thể hiện như sau: * FDI tạo nguồn vốn bổ sung quan trọng cho đầu tư phát triển trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam. Vốn cho đầu tư phát triển, bao gồm nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài. Đối với các nước đang phát triển nói chung và với Việt Nam nói riêng khi mà sản xuất còn ở trình độ thấp, nguồn vốn viện trợ của các nước XHCN không còn nữa, nguồn vốn đầu tư từ ngân sách còn eo hẹp, các DNNN gặp nhiều khó khăn, vốn tiềm ẩn trong dân chưa được huy động nhiều, vốn ODA còn hạn hẹp thì nguồn vốn FDI có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế của đất nước. Xét về mặt định tính, sự hoạt động của nguồn vốn FDI như là một trong những động lực gây phản ứng dây chuyền làm thúc đẩy sự hoạt động của đồng vốn trong nước. Một số chuyên gia kinh tế tính toán rằng cứ 1 đồng vốn FDI hoạt động sẽ làm cho 4 đồng vốn trong nước hoạt động theo. Như vậy FDI còn có vai trò giúp cho Việt Nam phát triển một nền kinh tế cân đối, bền vững theo yêu cầu của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. * Nguồn vốn FDI đóng góp tích cực và ngày càng lớn vào duy trì nhịp độ tăng trưởng cao và ổn định nền kinh tế. Khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý..., luôn là khu vực năng động nhất của nền kinh tế với tốc độ tăng trưởng hàng năm cao (khoảng 20% năm) đặc biệt là trong lĩnh vực công nghiệp. Chẳng hạn, năm 2004 tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực trong nước là 22,3% thì của khu vực FDI là 38,2%. Nói chung hoạt động của khu vực FDI đạt hiệu quả cao, do đó doanh thu hàng năm của khu vực này đạt cao và đóng góp vào GDP ngày càng tăng: Năm 1997 tỷ trọng trong GDP là 9,07%, năm 1998: 10,3%, năm 1999: 12,2%, năm 2000: 13,28%, năm 2004: 15,7% (theo Thời báo kinh tế Việt Nam, kinh tế Việt Nam và thế giới 2003 - 2004: Doanh thu và đóng góp của khu vực FDI vào GDP thời kỳ 1997 - 2004). * FDI làm tăng kim ngạch xuất nhập khẩu, mở rộng nguồn thu ngân sách. Cùng với hoạt động có hiệu quả trong sản xuất, kinh doanh, khu vực FDI thông qua việc sản xuất các loại hàng hoá có khả năng cạnh tranh cao đã làm cho quy mô xuất khẩu của khu vực này tăng nhanh qua các năm. Năm 1995 đạt 140 triệu USD, năm 2000 đạt 3.300 triệu USD và năm 2004 tăng lên 7.600 triệu USD. Các doanh nghiệp FDI với uy tín của mình đã giúp hàng hoá của Việt Nam được xâm nhập vào thị trường rộng lớn của thế giới, đến nay hàng hoá của nước ta đã có mặt trên 140 nước và ngày càng khẳng định chỗ đứng trên các thị trường mới như EU, Châu Mỹ, Trung Đông. Kim ngạch nhập khẩu cũng tăng qua các năm và luôn lớn hơn kim ngạch xuất khẩu (năm 1995: 1.468 triệu USD và năm 1996: 2.042 triệu USD, năm 2000: 4.351 triệu USD và năm 2004 là 8.510 triệu USD, tăng 22,1% so với năm 2000). Tuy nhiên việc nhập khẩu tăng lên tạo ra tài sản cố định và tiềm lực phát triển công nghệ cho phát triển bền vững. Nguồn thu ngân sách từ các doanh nghiệp FDI cũng tăng dần qua các năm. Năm 1996: 263 triệu, năm 2000: 317 triệu USD, năm 2004: đạt 685 triệu USD tăng 35,5% so với năm 2000. Nhờ đó làm cho ngân sách Nhà nước cân đối hơn, giảm mức bội chi ngân sách. * FDI góp phần tích cực vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam theo hướng CNH, HĐH. Phần lớn vốn FDI hiện nay là đầu tư vào khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ với năng suất lao động cao làm cho cơ cấu kinh tế Việt Nam chuyển dịch theo hướng tăng lên của công nghiệp và dịch vụ. Trong giai đoạn 1997 - 2004 tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực FDI luôn cao hơn nhiều so với toàn ngành. Và cho đến nay khu vực này đã chiếm hơn 1/3 tổng giá trị sản xuất của toàn ngành công nghiệp, do vậy có sự tác động lớn đến sự phát triển của ngành công nghiệp làm cho ngành này có tốc độ tăng trưởng cao hơn so với các ngành khác. Đồng thời làm tỷ trọng công nghiệp trong GDP tăng dần qua các năm: năm 1995 chiếm 28,6%, năm 1998 chiếm 33,49% và năm 2004 chiếm 53,25%. Trong nội bộ ngành công nghiệp, xuất hiện một số ngành mà nếu như không có FDI thì chúng ta không có điều kiện phát triển. Hiện nay có 8 ngành hàng công nghiệp trong đó các doanh nghiệp FDI chiếm xấp xỉ 100% sản phẩm (dầu khí, ô tô, đèn hình, tổng đài điện thoại, tủ lạnh...), ngoài ra còn có một số ngành hiện đại mà khu vực FDI chiếm trên 50% sản phẩm như thép, kính xây dựng....Sự phát triển các lĩnh vực này làm cho nền kinh tế được chuyển dịch theo xu hướng tích cực. Đối với ngành nông nghiệp, FDI với trên 200 dự án còn hiệu lực đã góp phần nâng cao năng lực sản xuất cho ngành nông nghiệp, chuyển giao cho lĩnh vực này nhiều cây giống, con giống, tạo ra nhiều sản phẩm chất lượng cao, góp phần thúc đẩy quá trình đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp cũng như nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm nông, lâm sản. * FDI đã góp phần giải quyết việc làm cho người lao động tham gia phát triển nguồn nhân lực, nâng cao sức mua trong nước. Tính đến cuối năm 2004, các doanh nghiệp có vốn FDI đã thu hút khoảng 73 vạn lao động trực tiếp là người Việt Nam. Bên cạnh đó còn có hàng chục vạn lao động gián tiếp thông qua các hợp đồng xây dựng, cung ứng dịch vụ có liên quan đến các dự án FDI. Hơn thế nữa số lao động làm trong hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh lại tính vào cán bộ công nhân viên của khu vực kinh tế Nhà nước, do đó, tổng số lao động làm việc liên quan đến các dự án FDI có thể lên đến hàng vạn người. FDI tạo điều kiện cho người lao động thích nghi với điều kiện lao động mới, góp phần làm lành mạnh hoá các quan hệ xã hội, tạo nên một thị trường lao động với đầy đủ các yếu tố cung cấp và cạnh tranh. Qua đó thúc đẩy sự quan tâm của xã hội đối với sự nghiệp giáo dục, đào tạo, làm chuyển đổi cơ cấu lao động và hình thành đội ngũ lao động lành nghề. Đồng thời FDI tạo điều kiện cho người lao động Việt Nam tiếp thu công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến, rèn luyện tác phong kỷ luật và kỹ năng lao động công nghiệp, thích ứng nhanh với cơ chế thị trường. Thu nhập của lao động trong các doanh nghiệp FDI cao hơn đáng kể so với các khu vực khác, khoảng 30% đến 50% tuỳ thuộc từng ngành nghề trong khu vực FDI, mức lương bình quân chung là 70USD/tháng, trong đó mức lương bình quân trong lĩnh vực dịch vụ từ 100 - 150 USD/tháng; trong ngành công nghiệp nặng từ 70 - 80USD/tháng. Như vậy tổng thu nhập của người lao động làm việc trong khu vực có vốn FDI hàng năm lên tới 300 - 400 triệu USD, làm cho đời sống xã hội ngày càng nâng cao. Về đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh, để đảm bảo cho sự hoạt động bền vững của doanh nghiệp, các nhà đầu tư nước ngoài thường tiến hành việc đào tạo cho đội ngũ cán bộ quản lý cho phù hợp với điều kiện sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời thông qua đội ngũ chuyên gia nước ngoài làm việc trong các doanh nghiệp FDI, cán bộ Việt Nam cũng sẽ tự học tập được các vấn đề về quản lý, tổ chức điều khiển có hiệu quả. * FDI làm nâng cao trình độ công nghệ, tạo lập phương thức kinh doanh mới, góp phần làm cho nền kinh tế nước ta chuyển biến tích cực. Các nhà đầu tư nước ngoài luôn đặt vấn đề lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu, do vậy để hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả họ sẽ dựa vào các dự án, những thiết bị công nghệ đồng bộ, có trình độ cơ khí hoá cao hơn các thiết bị tiên tiến đã có trong nước và thuộc loại phổ cập ở các nước trong khu vực. Các công nghệ này góp phần tạo ra những sản phẩm có chất lượng, hình thức tốt, đáp ứng được nhu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu, nhất là trong lĩnh vực sản xuất hàng tiêu dùng, dệt may, giầy dép... Một vai trò quan trọng của FDI là nếu như trước đây các doanh nghiệp Việt Nam chỉ biết sản xuất, kinh doanh thụ động theo kế hoạch của cấp trên, không cần đầu tư, cải tiến, không cần tìm hiểu thị trường, quảng cáo, tiếp thị...thì sự xuất hiện của các doanh nghiệp FDI đã thực sự làm thay đổi Việt Nam theo hướng tích cực và ngày càng thích nghi với nền kinh tế thị trường, đây là môi trường bắt buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải có đủ sức mạnh, sự độc lập tự chủ để đương đầu trong cuộc cạnh tranh tồn tại và trưởng thành. 1.3. Một số nguyên tắc cơ bản trong thu hút FDI vào địa phương. * FDI phải phục vụ cho chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Thông thường các nhà đầu tư nước ngoài, đôi khi cả bên nhận đầu tư (các quốc gia nói chung và các địa phương của quốc gia đó nói riêng), chỉ quan tâm nhiều đến hiệu quả tài chính. Bởi đứng về lợi ích riêng của nhà đầu tư thì hiệu quả cao nhất là lợi nhuận thu được, nên họ chú ý đến những vấn đề thiết thực như doanh thu, chi phí thuế, tiền thuê đất..., trong khi đó Nhà nước khuyến khích một hay nhiều dự án FDI không chỉ căn cứ vào hiệu quả tài chính, mặc dù đó là một nhân tố làm tăng nguồn thu của ngân sách Nhà nước, góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế. Nhưng điều phải quan tâm nhiều hơn để đánh giá một dự án FDI là hiệu quả kinh tế xã hội của nó và cần phải lấy hiệu quả kinh tế xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương hướng, lựa chọn các dự án và tính chất công nghệ... Trong điều kiện kinh tế xã hội của đất nước kém phát triển như hiện nay, chỉ tiêu hiệu quả kinh tế xã hội của FDI nhìn tổng thể phải đáp ứng các yêu cầu: vốn, công nghệ, tri thức và kinh nghiệm quản lý sản xuất, kinh doanh, giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho người lao động, giải quyết thị trường tiêu thụ cho sản phẩm. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là các chỉ tiêu trên đều nhất thiết phải được hội tụ đủ trong một dự án cụ thể, trong điều kiện các địa phương của nước ta, trước mắt có lẽ nên coi trọng mục tiêu tạo công ăn việc làm cho người lao động, giảm số người thất nghiệp và nâng cao đời sống nhân dân ở các địa phương. Điều đó có nghĩa là trong mối tương quan thu hút vốn và công nghệ của FDI thì tạm thời chúng ta phải chấp nhận thực tế là chưa thể có điều kiện tự do lựa chọn công nghệ tiên tiến như ý muốn. Hơn nữa, lao động được coi là một vấn đề quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội của mỗi địa phương và của toàn đất nước, việc tạo ra công ăn việc làm cũng là biện pháp hữu hiệu tích luỹ cho công nghiệp hoá, cho mua sắm công nghệ, tạo đà cho kinh doanh phát triển . Rõ ràng là mỗi địa phương đều có chiến lược và quy hoạch phát triển KT-XH riêng phù hợp với điều kiện của địa phương mình. Trong xu thế quốc tế hoá nền kinh tế hiện nay việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được các địa phương xác định là vấn đề quan trọng hàng đầu trong chiến lược phát triển. Tuy nhiên không thể lựa chọn tràn lan các dự án đầu tư mà phải chọn lọc các dựa án phù hợp, có khả năng phục vụ cho chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của địa phương, thường là các dự án đó phải đáp ứng được các vấn đề như: có tạo ra công ăn việc làm cho người dân không, có điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật ổn định không, có mang lại những tiến bộ khoa học công nghệ, nâng cao trình độ quản lý của cán bộ công nhân viên của địa phương không, có khai thác hết các tiềm năng vốn có của địa phương không, có góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương không....Nếu một dự án mà đáp ứng được những yêu cầu này thì mới có khả năng phục vụ cho sự phát triển kinh tế xã hội của từng địa phương, từ đó mới có thể làm cho địa phương có kinh tế ngày càng phát triển, đời sống xã hội ngày càng ổn định và nâng cao. Do vậy trong thu hút FDI vào địa phương cần phải chú trọng nguyên tắc đầu tiên và cơ bản nhất là FDI phải phục vụ cho chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của địa phương. * Việc thu hút FDI vào địa phương phải tuân theo chính sách thu hút FDI của Nhà nước, đồng thời phải vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của địa phương. FDI là một bộ phận cấu thành của toàn bộ hoạt động đầu tư của quốc gia, mà nguồn vốn trong nước xét về tổng thể vẫn có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. FDI không thay thế được các nguồn đầu tư khác, nhưng có thế mạnh riêng của nó. Vì vậy Đảng và Chính phủ ta kêu gọi các địa phương phải hết sức chú trọng đến việc thu hút nguồn vốn FDI, làm đòn bẩy cho nguồn vốn trong nước hoạt động tích cực hơn. Đồng thời trong quá trình thu hút vốn FDI vào địa phương cũng cần lưu ý Việt Nam là một nước có chủ quyền, có pháp luật cho nên FDI vào Việt Nam phải tuân thủ theo pháp luật Việt Nam, tuân thủ theo những quy định, kiểm tra, giám sát của các cơ quan quản lý Nhà nước. - Chính sách đất đai: + Giải quyết kịp thời những khó khăn vướng mắc về đất đai, giải phóng mặt bằng để đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án. Thí điểm việc cho phép tư nhân trong nước đã được cấp quyền sử dụng đất lâu dài, được cho nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài thuê lại đất trong thời hạn được cấp quyền sử dụng đất. + Nghiên cứu cách giải quyết yêu cầu của doanh nghiệp đầu tư thực hiện dự án lớn ở Việt Nam cần thế chấp giá trị quyền sử dụng đất đã được giao hoặc cho thuê dài hạn để vay vốn của các tổ chức tín dụng hoạt động ở nước ngoài trong trường hợp tổ chức tín dụng ở Việt Nam không có khả năng đáp ứng nhu cầu về vốn. - Chính sách thuế và hỗ trợ tài chính: Chính sách thuế và những ưu đãi tài chính gắn với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài là một yếu tố chủ yếu cấu thành tính hấp dẫn của môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài. Chính sách thuế và những ưu đãi tài chính sẽ tiếp tục hoàn thiện theo hướng có hệ thống, ổn định và thích hợp với các nước trong khu vực. Loại bỏ những hạn chế do chính sách thuế và những ưu đãi tài chính gây ra. Phát huy tích cực tác dụng của chính sách thuế và ưu đãi tài chính đối với các nhà đầu tư. - Chính sách cải cách hành chính: Đẩy mạnh cải cách hành chính liên quan đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nghiên cứu xây dựng cơ chế quản lý và tổ chức quản lý theo hướng một cửa, một đầu mối ở trung ương và địa phương để tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các bộ, ngành, địa phương quy định rõ ràng công khai các thủ tục hành chính, đơn giản hoá và giảm bớt các thủ tục hành chính không cần thiết, kiên quyết xử lý nghiêm khắc các trường hợp sách nhiễu, cửa quyền, tiêu cực và vô trách nhiệm của cán bộ công quyền. Các địa phương muốn thu hút ngày càng nhiều FDI cần phải chấp hành đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, đồng thời vận dụng phù hợp với điều kiện thực tế của mình. Bên cạnh đó các địa phương cũng cần không ngừng cố gắng cải thiện môi trường đầu tư của mình, cần xác định thông qua FDI mà địa phương có thể nhận được công nghệ và kỹ thuật tiên tiến, tiếp thu được kinh nghiệm quản lý tốt, tìm kiếm được các thị trường bên ngoài Việt Nam...., nhưng không được vì thế mà ỷ lại vào FDI mà không khai thác tối đa các lợi thế bên trong. Hơn nữa FDI chưa thể tự nó quyết định sự thành công của mục tiêu phát triển kinh tế, mà nó phải được kết hợp đồng bộ với các nguồn vốn khác như: ODA, nguồn vốn huy động rộng rãi trong nước. Có thể nói sự ổn định môi trường vĩ mô là điều kiện tiên quyết của mọi ý định và hành vi đầu tư. Đối với nước ngoài, điều này càng có ý nghĩa quan trọng hơn bao giờ hết. Để thu hút được vốn đầu tư nước ngoài, nền kinh tế nội địa phải là nơi an toàn cho sự vận động của đồng vốn đầu tư, sau đó là nơi có năng lực sinh lợi cao hơn những nơi khác, sự an toàn vốn đòi hỏi môi trường vĩ mô ổn định không gặp những rủi ro do các yếu tố chính trị xã hội gây ra. Kinh tế địa phương là một bộ phận của nền kinh tế nước ngoài, các địa phương cũng phải tạo môi trường đầu tư ổn định, có mức sinh lợi cao và đặc biệt là hạn chế tối đa rủi ro đầu tư. Có thể nói, kinh tế của mỗi địa phương là một bộ phận của nền kinh tế đất nước, việc phát triển kinh tế của mỗi địa phương góp phần làm cho nền kinh tế đất nước ngày càng phát triển hơn. Tuy nhiên đường lối phát triển kinh tế của mỗi địa phương không thể nằm ngoài chính sách phát triển kinh tế của đất nước. Trong điều kiện đầu tư nước ngoài đóng vai trò quan trọng như hiện nay, các địa phương cần có chính sách thu hút FDI sao cho vừa đảm bảo khung chính sách thu hút FDI chung của nhà nước, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương mình. Quả thực mỗi địa phương đều có những điều kiện riêng về tự nhiên, kinh tế, xã hội. Do vậy việc vận dụng sáng tạo chính sách thu hút FDI của Nhà nước và phát huy tối đa những thế mạnh riêng rẽ giúp cho địa phương thu hút được những dự án FDI có hiệu quả, đem lại nhiều nguồn lợi góp phần vào quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. * Việc thu hút FDI phải giải quyết hợp lý các mối quan hệ về lợi ích giữa các bên. Xét nhu cầu, khả năng và lợi thế của mỗi bên, hợp tác đầu tư giữa nước ta với nước ngoài thực chất là tìm điểm gặp nhau về lợi ích để hợp tác cùng nhau sản xuất kinh doanh trên nguyên tắc thoả thuận, tự nguyện, bình đẳng và cùng có lợi. Theo đó lợi ích mà mỗi bên nhận được phải phù hợp với tương quan và khả năng của bên này và bên kia trong hợp tác. Lợi ích đó còn phải có lựa chọn, so sánh với cái giá phải trả cho các đối tác khác nhau trong cùng một mục tiêu và một thời điểm. Đồng thời còn phải có tính đến những điều kiện về môi trường đầu tư, đảm bảo phát huy có hiệu quả lợi ích của mỗi bên (gồm chủ đầu tư nước ngoài, các pháp nhân Việt Nam tham gia liên doanh và Nhà nước Việt Nam) trong đó quan trọng nhất đối với nhà đầu tư nước ngoài là kinh doanh có hiệu quả và được đảm bảo an toàn vốn, lợi nhuận của họ. Trong quá trình triển khai dự án FDI phải chú ý tới những nguyên nhân dẫn đến những mâu thuẫn trong nội bộ liên doanh, mà thực chất những mâu thuẫn đó xuất phát từ khác biệt về quan hệ sở hữu. Bên nước ngoài là người sở hữu thực sự tài sản mà họ đem góp vào liên doanh, cho nên từ quan niệm, cách nhìn nhận cho đến hoạt động sản xuất kinh doanh đều thể hiện mục đích tối thượng của họ là đạt được lợi nhuận tối đa. Trong khi đó bên Việt Nam chủ yếu là các doanh nghiệp Nhà nước, còn lạc hậu và yếu kém về mọi mặt, mục đích của bên Việt Nam chủ yếu là học hỏi kinh nghiệm quản lý, tận dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật. Vì vậy trong quá trình hợp tác đầu tư các bên cần phải hết sức cân đối lợi ích của nhau để tránh mâu thuẫn, xung đột. Bên Việt Nam không nên chỉ vì lợi ích của mình mà không xét đến những mặt trái của các dự án đầu tư, những vấn đề có hại cho đời sống tự nhiên, xã hội của địa phương, của đất nước. 1.4. Kinh nghiệm (thành công và không thành công) của một số địa phương (tỉnh, thành phố) trong thu hút FDI. Vĩnh Phúc là một tỉnh mới thành lập, đang trên con đường phát triển kinh tế xã hội. Sự phát triển của tỉnh Vĩnh Phúc gắn liền với sự phát triển của các địa phương khác tạo nên sự phát triển của đất nước. Trong quá trình phát triển của mình mỗi địa phương đều đạt được những thành công và không thành công riêng, cho nên để bù đắp cho nhau cùng phát triển các địa phương cần phải học tập kinh nghiệm của nhau trong từng lĩnh vực riêng. Cũng như vậy trong việc thu hút FDI, để có thể đánh giá khách quan hơn tình hình thu hút đầu tư và đề xuất được những giải pháp thiết thực nhằm tăng cường thu hút FDI vào Vĩnh Phúc, tác giả xin đưa ra một số kinh nghiệm (thành công và không thành công) trong thu hút FDI của Hà Nội và hai tỉnh Hải Dương, Hà Tây (hai tỉnh có nhiều điều kiện tương đồng với Vĩnh Phúc) như sau: 1.4.1. Kinh nghiệm trong thu hút FDI của thành phố Hà Nội. Là thủ đô của đất nước, Hà Nội được coi là đầu tầu đi tiên phong trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, do vậy việc học tập kinh nghiệm của Hà Nội là một vấn đề mà bất cứ địa phương nào cũng quan tâm trong quá trình phát triển của mình. * Vài nét về tình hình kinh tế xã hội của Hà Nội trong thời gian qua: Về cơ cấu kinh tế, kinh tế Hà Nội đã chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH: tỷ trọng công nghiệp trong GDP tăng từ 36,4% (1998) lên 37,3% (2001), 38,8% (2002) và 41,2% (2004), tỷ trọng ngành dịch vụ tăng từ 59,6% (1998) lên 60% (2001), 68,8% (2002) và 75,1% (2004), tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm từ 4% (1998) xuống 2,7% (2001), 2,4%(2002) và 2,0% (2004). Đối với khu vực kinh tế trong nước, tỷ trọng kinh tế Nhà nước trung ương giảm từ 56,1% (1998) xuống 53,1% (2001); tỷ trọng kinh tế Nhà nước địa phương giảm từ 9,1% (1998) xuống 7,8% (2001) và 48,9% (2004).. Về vốn đầu tư: Vốn đầu tư xã hội trên địa bàn thành phố tăng mạnh, từ 13.326 triệu đồng (1998) lên 18.120 triệu đồng (2001) và 21.167 triệu đồng (2002). Vốn đầu tư trong nước tăng mạnh từ 6.095 triệu đồng (1998) lên 15.870 triệu đồng (2001) và 21.167 triệu đồng (2002) và gần 30.000 triệu đồng (2004). Trong cơ cấu vốn đầu tư xã hội, tình hình huy động vốn trong nước tăng nhanh từ 46.08% (1998) lên 88% (2001) và 89% (2004). Như vậy vốn đầu tư trong nước trên địa bàn thành phố Hà Nội có xu hướng ngày càng tăng, bước đầu thực hiện chủ trương của Đảng là khơi dậy và phát huy tối đa nội lực, quy mô vốn đầu tư cho ngành dịch vụ từ chiếm 42,2% tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm 1998 tăng đến 65,1% năm 2002 và 70,5% năm 2004; nông nghiệp tăng từ 1,2% lên 2% và 2,8%. Về văn hoá xã hội của thành phố cũng có nhiều tiến bộ: Thành phố tập trung chỉ đạo triển khai nhiều kênh thông tin, tuyên truyền, phổ biến chủ trương của Đảng và Nhà nước; đẩy mạnh công tác phòng chống tệ nạn xã hội và tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động. Bên cạnh đó hoạt động kinh tế đối ngoại được mở rộng, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được tăng cường, đảm bảo giữ vững, ổn định chính trị xã hội trong điều kiện quốc tế và một số địa phương trong nước có những vấn đề phức tạp. Nhìn chung tình hình phát triển kinh tế xã hội của thành phố Hà Nội trong thời gian qua là cơ sở đảm bảo cho một môi trường vĩ mô ổn định, thuận lợi đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi đó thành phố còn gặp không ít những khó khăn, hạn chế như: kinh tế tăng trưởng tốt nhưng chưa xứng với vị trí và tiềm năng của thủ đô, hoạt động xuất nhập khẩu gặp nhiều khó khăn do giá xuất khẩu bất ổn, thị trường bị thu hẹp, cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt, nhiều doanh nghiệp chưa chủ động cho hội nhập kinh tế quốc tế. Chi phí trung gian ở các ngành còn cao, nhất là sản xuất công nghiệp nên giá trị sản xuất tăng cao nhưng GDP không tăng tương ứng, làm hạn chế hiệu quả sản xuất. Việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi có chất lượng cao còn chậm, chưa có biện pháp đồng bộ kiểm soát sản xuất và tiêu thụ an toàn. Hệ thống hạ tầng kỹ thuật tuy được cải thiện song còn chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của thủ đô, ùn tắc và tai nạn giao thông không giảm. ý thức chấp hành kỷ cương, pháp luật của một số cán bộ, nhân dân chưa tốt. Bộ máy hành chính các cấp còn cồng kềnh, kém hiệu quả, giấy tờ hội họp còn nhiều...Những khó khăn hạn chế này cần phải được khắc phục thì mới đưa nền KT-XH của thành phố ngày càng phát triển lên được. Những tồn tại này không chỉ của riêng Hà Nội mà bất kỳ địa phương nào cũng gặp phải. Do vậy các địa phương, tỉnh, thành phố cần phải phối hợp đưa ra những biện pháp khắc phục. Đó là vấn đề cần thiết trong giai đoạn CNH, HĐH và hoà nhập kinh tế quốc tế của đất nước hiện nay. Có thể nói với tình hình kinh tế xã hội có nhiều thuận lợi và khó khăn như vậy thành phố Hà Nội đã có được những thành công, nhưng cũng không ít những vấn đề không thành công trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. * Những thành công đạt được trong thu hút FDI ở thành phố Hà Nội. Trong thời gian qua vốn FDI ở Hà Nội chủ yếu tập trung vào ngành công nghiệp, hay nói cách khác, các khu công nghiệp ở Hà Nội là nơi thu hút nhiều nhất vốn FDI. Do vậy những thành công trong thu hút FDI đều từ các khu công nghiệp trên địa bàn thành phố mang lại. Các khu công nghiệp tập trung của Hà Nội là tiền đề để thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Hà Nội. Trong tổng số hơn 61 dự án đăng ký thuê đất trong các khu công nghiệp thì chỉ có 6 dự án 100% vốn đầu tư trong nước, còn lại là các dự án có vốn đầu tư nước ngoài. Đồng thời các khu công nghiệp cũng tạo điều kiện cho việc chuyển dời các cơ sở sản xuất công nghiệp gây ô nhiễm ra ngoại thành, giúp các doanh nghiệp thiếu mặt bằng sản xuất trong nội thành tìm kiếm được mặt bằng để mở rộng sản xuất ....Như vậy rõ ràng kinh nghiệm đầu tiên trong thu hút FDI ở thành phố Hà Nội mà các địa phương khác nên học tập là xây dựng các khu công nghiệp tập trung, bởi lẽ các dự án đầu tư trong khu công nghiệp chiếm tới 90% là các dự án có vốn đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó sự hình thành và phát triển các khu công nghiệp đã giải quyết được nhu cầu bức bách về mặt bằng sản xuất cho các doanh nghiệp thực sự yên tâm đầu tư phát triển sản xuất bởi thời gian cho thuê đất trong các khu công nghiệp khá dài (thường là 50 năm), đồng thời các khu công nghiệp đều được quy hoạch nên các doanh nghiệp không còn phấp phỏng lo âu bị Nhà nước thu hồi đất hay giải phóng mặt bằng. Việc xây dựng và phát triển các khu công nghiệp còn phát huy được nội lực, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển. Các địa phương cũng nên chú trọng vào việc phát triển các cụm, khu công nghiệp vừa và nhỏ, tạo điều kiện hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc thuê đất, mở rộng sản xuất kinh doanh. Bởi lẽ ở các địa phương đa phần tập trung những doanh nghiệp vừa và nhỏ nên việc xây dựng các khu công nghiệp vừa và nhỏ là rất cần thiết cho việc phát huy nội lực của địa phương mình, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trở nên hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài, từ đó góp phần quan trọng vào sự phát triển của địa phương mình. Trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá như hiện nay ngành công nghiệp được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt chú trọng phát triển. Đi theo định hướng của Nhà nước, các tỉnh, thành phố cũng tập trung vào việc phát triển công nghiệp của mình mà đóng góp một phần không nhỏ trong quá trình phát triển công nghiệp của các địa phương là vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Sự phát triển các khu công nghiệp thu hút mạnh mẽ FDI góp phần tích cực vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của thành phố và từng quận, huyện, thúc đẩy quá trình chuyển giao, nâng cao và đổi mới công nghệ. Thành phố Hà Nội luôn luôn đi tiên phong trong quá trình phát triển kinh tế, văn hoá, chính trị, khoa học kỹ thuật trong cả nước. Do vậy những thành công của Hà Nội trong bất kỳ lĩnh vực nào cũng là những kinh nghiệm quý báu mà các địa phương, tỉnh, thành phố khác nên noi theo. Xét về lĩnh vực thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, Hà Nội đã có những thành công nhất định mà như đã nói ở trên thành công đầu tiên là việc xây dựng các khu công nghiệp tập trung, các cụm - khu công nghiệp vừa và nhỏ. Nhưng bên cạnh đó Hà Nội cũng rất thành công trong thu hút FDI nhờ vào hệ thống cơ sở hạ tầng tương đối hiện đại và thuận lợi, đội ngũ lao động có tay nghề, chuyên môn vào bậc nhất cả nước. Với vị thế và tiềm năng sẵn có của mình, Hà Nội tạo ra một môi trường hấp dẫn cho việc thu hút FDI. Vấn đề cơ sở hạ tầng và trình độ lao động cũng đóng vai trò quan trọng trong thu hút FDI. Các nhà đầu tư luôn muốn rót vốn vào những dự án thuận lợi, ít rủi ro, những dự án đó phải có tiền đề là cơ sở hạ tầng hiện đại, thu hút được những người lao động, cán bộ công nhân viên có tay nghề, chuyên môn cao. Ngày nay trình độ chuyên môn của lao động Việt Nam ngày càng nâng cao, nhưng đa phần những lao động có tay nghề lại tập trung làm việc ở Hà Nội. Thiết nghĩ các địa phương nên có những biện pháp, chính sách thu hút lao động có tay nghề vào địa phương mình đồng thời xây dựng cơ sở hạ tầng hiện đại để từng bước thu hút vốn đầu tư nước ngoài, cũng như đầu tư trong nước. * Những vấn đề chưa đạt được trong thu hút FDI ở Hà Nội. Bên cạnh những thuận lợi cho thu hút FDI, ở Hà Nội còn tồn tại không ít những khó khăn. Mà vấn đề đầu tiên bao giờ cũng là vấn đề về khung pháp lý. Một dự án đầu tư muốn được phê duyệt thì đảm bảo phải tuân thủ luật pháp của nước chủ nhà. Do vậy khung pháp lý mà thông thoáng, cụ thể thì sẽ giúp thu hút được nhiều vốn đầu tư hơn. Tuy nhiên ở Hà Nội một số văn bản pháp lý liên quan đến kinh tế còn chưa thống nhất, thiếu đồng bộ và không rõ ràng dẫn đến việc hiểu và vận dụng không thống nhất giữa các cơ quan quản lý. đây là một trong những nguyên nhân gây ra cách xử lý tuỳ tiện của các cơ quan quản lý Nhà nước và nhiều khi làm xuất hiện nhiều khiếu kiện không cần thiết, gây cản trở và làm xấu môi trường đầu tư trên địa bàn nói riêng và đối với cả nước nói chung. Bên cạnh đó cơ chế phân cấp uỷ quyền còn chưa đủ điều kiện để thực hiện cơ chế một cửa tại chỗ. Cũng như nhiều lĩnh vực khác, nguyên tắc phân cấp trong quản lý đầu tư chủ yếu dựa vào quy mô chứ không phải dựa vào tính chất của dự án. Nhiều dự án đầu tư nước ngoài chủ yếu chỉ sản xuất hàng dân dụng, không tác động đến tổng thể nền kinh tế nhưng vẫn phải có đầy đủ các thủ tục, tiến hành đầy đủ các bước gây tốn kém về thời gian và chi phí cho các nhà đầu tư. Điều đó làm hạn chế dòng vốn đầu tư vào Việt Nam. Trên thực tế, quyền hạn của chính quyền địa phương trong việc chủ động đưa ra các biện pháp khuyến khích đầu tư nước ngoài (thuế, giá đất..) bị giới hạn trong phạm vi nhỏ bé làm hạn chế tính chủ động của địa phương trong việc hoạch định chính sách. Tồn tại thứ hai trong thu hút FDI ở Hà Nội là về cơ sở hạ tầng và đất đai: trên thực tế khung giá đất ở Hà Nội còn cao khó thu hút các dự án đầu tư trong và ngoài nước. Nhiều cơn sốt đất đã tác động tiêu cực đến tình hình kinh tế của Hà Nội. Giá đất và phí quản lý ở các khu công nghiệp Hà Nội hiện nay là cao nhất cả nước, làm giảm đáng kể sức hấp dẫn của các khu công nghiệp thủ đô. Tận dụng lợi thế cơ sở hạ tầng của Hà Nội, các tỉnh giáp ranh đã xây dựng những khu công nghiệp ở ngay gần ranh giới với giá đất và phí quản lý thấp hơn nên nhiều nhà đầu tư đã chuyển các dự án đến những khu công nghiệp này thay vì đầu tư vào các khu công nghiệp ở Hà Nội. Về cơ sở hạ tầng, việc cung cấp điện, nước cho các dự án đầu tư còn chưa ổn định, việc cung cấp điện không ổn định là tình trạng phổ biến mà các doanh nghiệp phải gánh chịu, điều này làm giảm phần nào lòng nhiệt tình và quyết tâm của các nhà đầu tư vào địa bàn Hà Nội. Bên cạnh những tồn tại về khung pháp lý, về đất đai và cơ sở hạ tầng, ở Hà Nội vẫn còn có những tồn tại về thủ tục hành chính, về dịch vụ cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp và về hoạt động xúc tiến đầu tư....Nói chung thủ tục hành chính đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài rất rườm rà, thời gian giải quyết kéo dài làm tăng chi phí của các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh và làm cho các nhà đầu tư nản lòng khi tham gia đầu tư vào Hà Nội. Bên cạnh đó thông tin cho các doanh nghiệp đầu tư còn thiếu trong khi thông tin là một trong những yếu tố ngày càng trở nên quan trọng trong việc củng cố và nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Trong thu hút FDI có một vấn đề đặc biệt quan trọng là vấn đề xúc tiến đầu tư. Nếu không có hoạt động này các nhà đầu tư sẽ không biết đến tiềm năng và cơ hội của địa phương. Tuy nhiên trong thời gian qua hoạt động xúc tiến đầu tư ở Hà Nội vẫn chưa tốt, bản thân ban lãnh đạo thành phố cũng vẫn chưa thấy được tính tất yếu của hoạt động này, chưa dành cho công tác này sự quan tâm đúng mức, vì vậy mà hiệu quả thu hút đầu tư chưa cao. Trước những mặt còn chưa thành công của Hà Nội như vậy các địa phương nên tìm hiểu và tìm cách khắc phục ở địa phương mình, nên tạo cho địa phương mình có môi trường đầu tư thuận lợi với khung pháp lý cụ thể, rõ ràng; điều kiện cơ sở hạ tầng, đất đai, thủ tục hành chính đảm bảo, thông thoáng; cung cấp đầy đủ thông tin cho các doanh nghiệp và đặc biệt là cần hết sức chú trọng tới hoạt động xúc tiến đầu tư nhằm quảng bá tiềm năng và cơ hội của địa phương mình từ đó thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư hơn. 1.4.2. Kinh nghiệm của Hải Dương trong thu hút FDI: Hải Dương là một tỉnh nằm ở trung tâm vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, có vị trí thuận lợi cho phát triển kinh tế, xã hội có mạng lưới giao thông đường bộ, đường sắt, đường sông thuận tiện cho việc giao lưu kinh tế. Trong điều kiện quốc tế hoá nguồn vốn đầu tư như hiện nay tỉnh Hải Dương khá thành công trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Để đạt hiệu quả cao trong thu hút nguồn vốn trực tiếp nước ngoài, Hải Dương đã tập trung vào những vấn đề và lĩnh vực chủ yếu, như sau: Tỉnh Hải Dương không ngừng nâng cấp hạ tầng cơ sở để tạo môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư, với các biện pháp cụ thể như: tăng tỷ trọng chi cho hạ tầng cơ sở, đầu tư cho giao thông, điện, nước, thông tin liên lạc, đầu tư xây dựng khu dân cư, nâng cấp hệ thống khách sạn, du lịch.…Đa dạng hoá các hình thức đầu tư như BOT, BT, BTO, đổi đất lấy cơ sở hạ tầng, đầu tư và chuyển giao công nghệ... Trên cơ sở chuẩn bị trước và kỹ lưỡng về cơ sở hạ tầng như vậy các nhà đầu tư có thể triển khai nhanh và thuận lợi dự án của mình. Do đó Hải Dương rất thu hút các nhà đầu tư về mặt cơ sở hạ tầng. Về cơ chế chính sách: Hải Dương tiến hành cải tiến quy trình tiếp nhận dự án, tiếp tục duy trì và hoàn thiện cơ chế "một cửa" đối với các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, xúc tiến, vận động đầu tư trên tất cả các phương tiện thông tin đại chúng tại địa phương do tỉnh quản lý nhằm nâng cao sự hiểu biết và nhận thức của mọi người về đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với vấn đề FDI. Trước tình hình Internet toàn cầu tỉnh Hải Dương cũng xây dựng trang Web của mình và đẩy mạnh hoạt động giới thiệu trên Internet nhằm hỗ trợ công tác xúc tiến vận động đầu tư, chủ động hơn trong việc tìm các đối tác đầu tư. Công tác xúc tiến đầu tư còn được Hải Dương tích cực đẩy mạnh ở chỗ: cử người tham gia học hỏi kinh nghiệm cùng các đoàn xúc tiến, vận động đầu tư của chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư; lập đoàn xúc tiến và vận động đầu tư tới các cơ quan đại diện ngoại giao, đại diện thương mại của các nước tại thủ đô Hà Nội nhằm thiết lập mối quan hệ, giới thiệu tiềm năng cơ hội đầu tư, các chính sách ưu đãi của Hải Dương đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài để thông qua đó các cơ quan đại diện giới thiệu các nhà đầu tư của họ vào Hải Dương, liên tục tổ chức các cuộc gặp gỡ hàng năm của các doanh nghiệp, có tuyên dương, khen thưởng đối với những doanh nghiệp hoạt động tốt, đồng thời có hình thức xử phạt nghiêm minh đối với những doanh nghiệp vi phạm pháp luật...Bên cạnh đó tỉnh Hải Dương còn có thưởng cho tổ chức cá nhân có công giới thiệu dự án đầu tư vào Hải Dương; ngân sách của tỉnh được bố trí một phần cho công tác xúc tiến, vận động đầu tư vào địa phương.... Có thể nói công tác xúc tiến đầu tư là vô cùng quan trọng không chỉ đối với một nước nói chung trong thu hút FDI mà còn vô cùng quan trọng đối với các địa phương, đặc biệt là các địa phương đang trên đà phát triển. Với các biện pháp xúc tiến đầu tư như trên. Hải Dương ngày càng thu hút được nhiều các dự án FDI. Thiết nghĩ các địa phương khác nói chung và tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng nên học tập những biện pháp xúc tiến đầu tư này của Hải Dương trong quá trình thu hút FDI của mình. Về công tác công bố chính sách đầu tư, Hải Dương đi theo hướng ban hành các quy định về trình tự, thủ tục chấp thuận đầu tư đơn giản thuận lợi nhất đối với các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước, công bố các chương trình đầu tư lớn của tỉnh trong từng giai đoạn cụ thể nhằm kêu gọi đầu tư, rút ngắn thời gian cấp phép cho các dự án đầu tư nước ngoài xuống còn một nửa so với quy định của chính phủ, công bố rõ ràng mức tiền bồi thường, rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, quy hoạch phát triển các khu đô thị mới, khu công nghiệp, quy hoạch hạ tầng nhằm kêu gọi các nhà đầu tư có đủ điều kiện vào đầu tư. Việc công bố chính sách rõ ràng, cụ thể như vậy đã tạo rất nhiều điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong quá trình triển khai dự án của mình. Về công tác hỗ trợ các doanh nghiệp, Hải Dương tiến hành hỗ trợ về thông tin quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng của địa phương, miễn phí quảng cáo thông tin đối với các doanh nghiệp mới được thành lập. Bên cạnh đó các doanh nghiệp còn được hỗ trợ về cung cấp điện, nước ưu tiên hỗ trợ 24/24 giờ cho sản xuất của các doanh nghiệp, hỗ trợ kinh phí cho các doanh nghiệp ở quá xa ngành điện nước. Vấn đề tay nghề cho lao động của các doanh nghiệp cũng được Hải Dương đảm bảo cung ứng đủ số lao động đạt tiêu chuẩn tay nghề tới bậc 2 (theo tiêu chuẩn Việt Nam) do đó nhà đầu tư sẽ không phải mất tiền đào tạo tay nghề cho người lao động. Việc cho doanh nghiệp thuê đất cũng được áp dụng ở mức thấp nhất trong khung Nhà nước quy định... Cùng với việc hỗ trợ tối đa cho các doanh nghiệp, Hải Dương cũng rất chú trọng đến việc đảm bảo nguyên liệu cho sản xuất của các doanh nghiệp, do vậy Hải Dương liên tục phối hợp với các nhà đầu tư để tạo ra các vùng nguyên liệu, nhất là lĩnh vực chế biến nông sản thực phẩm nhằm đáp ứng yêu cầu sản xuất công nghiệp tại các doanh nghiệp, kể cả chủ trương cho các nhà đầu tư trực tiếp thuê đất nông nghiệp của nông dân theo thời vụ. Có thể nói, với các biện pháp thu hút vốn đầu tư thuận lợi như trên, tỉnh Hải Dương là một trong những địa phương thu hút đầu tư lớn của cả nước. Tính đến nay trên địa bàn tỉnh đã có hơn 40 dự án đầu tư được cấp phép với tổng vốn đăng ký hơn 513 triệu USD. Hiện nay Hải Dương vẫn không ngừng áp dụng các biện pháp hiệu quả nhằm đạt được những thành công trong thu hút FDI. Những thành công này là những kinh nghiệm quý báu để các địa phương khác noi theo. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, tình hình thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hải Dương còn bộc lộ một số hạn chế, đó là do những mặt chưa được của Hải Dương trong quá trình thu hút FDI. So với cả nước, Hải Dương là một địa điểm đầu tư hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài từ rất sớm, tuy nhiên so với các tỉnh phía Nam, Hải Dương nói riêng và các tỉnh phía Bắc nói chung vẫn còn thua kém ở các mặt như sau: Thứ nhất là về cơ chế quản lý: Các cơ quan quản lý Nhà nước ở miền Nam linh hoạt hơn, áp dụng các quy chế một cách mềm dẻo theo hướng tạo điều kiện thuận lợi, hỗ trợ cho hoạt động của doanh nghiệp. Như đã nói ở trên, ở Hải Dương thủ tục cấp giấy phép cho các nhà đầu tư nước ngoài đã được đơn giản hoá rất nhiều, tuy nhiên các nhà đầu tư vẫn còn gặp nhiều phiền phức trong khâu giải phóng mặt bằng, trong việc kiểm tra, giám sát của quá nhiều cơ quan chức năng. Thứ hai là sức mua của thị trường miền Nam lớn hơn so với miền Bắc. Người dân miền nam nhạy cảm với kinh doanh hơn, dễ hoà nhập hơn với hoạt động của cộng đồng, mức thu nhập chi phí cho tiêu dùng cũng lớn hơn. Trong khi đó người dân miền Bắc nói chung lại tiết kiệm và lo xa hơn. Chính vì vậy mà nhiều nhà đầu tư quyết định đầu tư vào các tỉnh miền Nam hơn. Tất nhiên đây là nguyên nhân thuộc về thói quen, truyền thống khác biệt giữa hai miền nhưng không phải là không thể khắc phục, chỉ có điều là không thể một sớm, một chiều, miễn là chúng ta có nhận thức và những biện pháp khắc phục đúng đắn. Ba là, những hạn chế về khả năng tham gia hợp tác kinh doanh với các nhà đầu tư nước ngoài của doanh nghiệp Hải Dương, những sai lầm trong chiến lược kinh doanh của các khu công nghiệp cũng là những nguyên nhân làm giảm tính hấp dẫn của Hải Dương đối với các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài. Mặc dù đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hải Dương trong những năm gần đây có tăng nhưng chưa tương xứng với tiềm năng và vị thế của mình. Hải Dương cần có những biện pháp mạnh tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hơn nữa, nhằm góp phần đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế trong thời gian tới. Nói chung việc thu hút và sử dụng FDI tại Hải Dương trong thời gian qua đã đạt được không ít thành công song cũng không tránh khỏi những hạn chế. Những hạn chế này một phần là do khách quan đem lại, tuy nhiên nó cũng phản ánh một thực trạng rằng còn có những sai lầm, những việc chưa làm hoặc đã làm nhưng chưa đủ mạnh trong công tác thu hút và quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài của tỉnh Hải Dương. Tất cả những mặt thành công và chưa thành công của Hải Dương như trên, đều là những kinh nghiệm quý giá cho việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các tỉnh thành khác trên cả nước. 1.4.3. Kinh nghiệm của tỉnh Hà Tây trong thu hút FDI Hà Tây là một tỉnh đồng bằng Sông Hồng - Miền Bắc Việt Nam, phía đông giáp Thủ đô Hà Nội, phía đông nam giáp tỉnh Hưng Yên, phía nam giáp tỉnh Hà Nam, phía tây giáp tỉnh Hoà Bình, phía bắc giáp hai tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ. Hà Tây là một tỉnh có vị trí chiến lược quan trọng, có điều kiện giao thông thuận lợi, là một trong 8 tỉnh vùng kinh tế trọng điểm phía bắc. Hà Tây còn là tỉnh có lực lượng lao động dồi dào (với dân số 2,5 triệu người) và trình độ dân trí cao; có nhiều ngành nghề tiểu thủ công nghiệp phát triển mạnh với hơn 1.100 làng nghề; có tiềm năng du lịch với nhiều cảnh quan, di tích lịch sử văn hoá nổi tiếng. Đã có thời nhiều nhà đầu tư nước ngoài tấp nập đến với Hà Tây vì ở đây có lợi thế hơn nhiều so với Phú Thọ và Vĩnh Phúc về nhiều mặt, và việc học tập kinh nghiệm trong thu hút đầu tư nước ngoài ở Hà Tây là việc mà nhiều tỉnh khác nên làm, trong đó có cả Vĩnh Phúc - một tỉnh giáp ranh với Hà Tây. Tuy nhiên mấy năm gần đây Hà Tây hầu như không thu hút thêm được một dự án mới nào, nguyên nhân được dư luận đã nhiều lần nhắc tới, đó là vấn đề về cơ sở hạ tầng cho các dự án đầu tư nước ngoài, trong đó khâu yếu nhất là giải phóng mặt bằng. Cơ sở hạ tầng là một trong những yếu tố quan trọng của môi trường đầu tư nước ngoài, nó là bước đầu tiên quyết định đến sự lựa chọn địa điểm đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài. Mặc dù Ban lãnh đạo tỉnh Hà Tây đã đưa ra những biện pháp khắc phục những yếu kém trên các lĩnh vực, nhất là về quản lý, sử dụng đất đai, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và xử lý dứt điểm một số vụ việc phức tạp, kéo dài. Tuy nhiên công tác quy hoạch quản lý sử dụng đất đai, đền bù giải phóng mặt bằng vẫn còn nhiều mặt trì trệ, yếu kém, để xảy ra nhiều vụ vi phạm pháp luật nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến uy tín của lãnh đạo, đến niềm tin của nhân dân và môi trường đầu tư của tỉnh, gây trở ngại cho việc triển khai một số dự án kinh tế - xã hội của Trung ương và giảm rõ rệt một số dự án đầu tư nước ngoài vào tỉnh. Có thể nói vấn đề đền bù giải phóng mặt bằng chậm chạp khó khăn là trở ngại lớn nhất của Hà Tây trong thu hút đầu tư nước ngoài. Các tỉnh thành khác nói chung và tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng cần lấy đó làm bài học kinh nghiệm trong quá trình thu hút FDI ở tỉnh mình, bởi vì vấn đề giải phóng mặt bằng luôn được coi trọng hàng đầu trong chính sách thu hút FDI ở bất kì một tỉnh thành nào. Bên cạnh yếu kém về khâu giải phóng mặt bằng, ở Hà Tây vẫn còn tồn tại một số vấn đề xã hội (giáo dục, y tế, việc làm...): tệ nạn xã hội gia tăng, đời sống nhân dân ở một số vùng còn thấp, chậm được cải thiện; tình hình an ninh nông thôn còn tiềm ẩn những nhân tố bất ổn định; giải quyết đơn thư khiếu nại của công dân còn chậm, còn để kéo dài một số vụ khiếu kiện vượt cấp, kể cả lên Trung ương. Việc củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị ở các cấp từ tỉnh đến cơ sở còn yếu, việc tuyên truyền giáo dục chủ trương đường lối chính sách của Đảng và Chính phủ cho cán bộ, đảng viên và nhân dân làm chưa tốt, chưa tạo được sự đồng thuận trong xã hội. Trên đây là những nguyên nhân khách quan có ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh cũng như làm cho môi trường đầu tư của tỉnh kém hấp dẫn hơn. Bên cạnh những nguyên nhân khách quan như trên là những nguyên nhân chủ quan cần khắc phục như sau: đó là việc xác định mục tiêu, định hướng chiến lược phát triển của tỉnh chưa thật rõ ràng, công tác quy hoạch chưa tốt, thiếu sự phối hợp, gắn kết giữa các vùng của tỉnh, giữa tỉnh Hà Tây với các tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm phía bắc và các địa phương khác; sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh Uỷ Hà Tây và một số cấp uỷ đảng từ tỉnh đến cơ sở còn yếu, kỷ cương, kỷ luật nhiều việc, nhiều lúc không nghiêm. Hiệu lực quản lý, điều hành của chính quyền còn thấp, chưa thực sự năng động, chủ động trong việc tìm các cơ chế chính sách để thu hút các nguồn lực, phát huy tiềm năng, thế mạnh của tỉnh. Một số cơ quan, đơn vị, một số Cán bộ, Đảng viên và cả một số hộ dân cư còn thiếu gương mẫu chấp hành luật pháp, dẫn đến những sai phạm, nhất là những sai phạm trong quản lý sử dụng đất đai, nhưng cấp uỷ và chính quyền còn hữu khuynh, chưa xử lý kiên quyết, kịp thời. Một số vụ việc phức tạp, kéo dài, bức xúc xảy ra trong nội bộ nhân dân hoặc giữa nhân dân với tổ chức cơ quan...chưa được tập trung chỉ đạo giải quyết khẩn trương, nghiêm minh....Những nguyên nhân chủ quan này cần phải được khắc phục ngay trong chính nội bộ của tỉnh thì mới mong cải thiện được tình hình thu hút FDI. Cụ thể là ban chấp hành, ban thường vụ và thường trực tỉnh uỷ cần đề cao hơn nữa tinh thần trách nhiệm để lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện tốt các nhiệm vụ, mục tiêu xã hội đã đề ra. Bên cạnh đó cần tiếp tục nghiên cứu xác định rõ tiềm năng, lợi thế và định hướng phát triển lâu dài của tỉnh, rà soát, bổ sung quy hoạch tổng thể, xây dựng, quy hoạch chi tiết các ngành, vùng; đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng, xây dựng hạ tầng các cụm, điểm công nghiệp trên địa bàn, nhưng cần chú ý bước đi hợp lý, xác định rõ trọng điểm từng thời gian, tránh phân tán, dàn trải. Nghiên cứu bổ sung các cơ chế, chính sách, cải thiện môi trường đầu tư để khuyến khích, thu hút mạnh đầu tư trong và ngoài nước, sớm phát huy được lợi thế của tỉnh. Đây cũng là những biện pháp mà các tỉnh thành khác cần phải học tập, bởi đó là nền tảng cho một môi trường thu hút đầu tư thuận lợi. Nói chung để thu hút FDI một cách hiệu quả nhất, tỉnh Vĩnh phúc cần học tập những kinh nghiệm thành công cũng như không thành công của những địa phương khác, cụ thể là vận dụng và phát huy những thành công đồng thời hạn chế và khắc phục những thất bại của các địa phương khác phù hợp với điều kiện thực tế của tỉnh nhà. Qua phân tích kinh nghiệm của 3 tỉnh thành lân cận với Vĩnh Phúc là Hà Nội, Hải Dương và Hà Tây có thể rút ra được những bài học quý báu về thu hút đầu tư nước ngoài, trong đó Hà Nội và Hải Dương là 2 tỉnh thành khá thành công về thu hút FDI mà Vĩnh Phúc cần phải học hỏi, vận dụng sáng tạo những biện pháp thu hút FDI của họ để thu hút FDI đạt hiệu quả cao; ngược lại, Hà Tây lại là tỉnh không thành công trong thu hút FDI, mà những yếu kém và hạn chế của Hà Tây là vấn đề Vĩnh Phúc phải tránh và khắc phục trong quá trình thu hút FDI của mình. Chương 2 Thực trạng thu hút fdi ở Vĩnh Phúc 2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh Vĩnh Phúc Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của bất kỳ một địa phương nào bao giờ cũng là một trong những nhân tố ảnh hưởng lớn đến quyết định của các nhà đầu tư. Các nhân tố này không chỉ tác động đến quy mô mà còn quy định một số đặc điểm của hoạt động đầu tư nước ngoài tại địa phương. Vì vậy trước khi nghiên cứu thực trạng thu hút FDI ở Vĩnh Phúc không thể không xem xét đến các điều kiện về tự nhiên kinh tế xã hội tại đây 2.1.1. Điều kiện tự nhiên Ví trí địa lý, điều kiện tự nhiên thuận lợi sẽ giảm được các chi phí vận chuyển, đa dạng hoá các lĩnh vực đầu tư, cung cấp được nguồn nguyên liệu đầu vào phong phú với giá rẻ và tiềm năng tiêu thụ lớn. Những yếu tố này không những làm giảm được giá thành sản phẩm mà còn thu hút được các nhà đầu tư tìm kiếm nguyên liệu tự nhiên và thị trường tiêu thụ. Do vậy nó là nhân tố đầu tiên ảnh hưởng tới quyết định của nhà đầu tư. Tỉnh Vĩnh Phúc được thành lập năm 1950 trên cơ sở hợp nhất hai tỉnh Vĩnh Yên và Phúc Yên. Tháng 3 năm 1968 Vĩnh Phúc và Phú Thọ hợp nhất thành tỉnh Vĩnh Phú. Từ tháng 1 năm 1997 Vĩnh Phúc được tái lập. Vĩnh Phúc là một tỉnh ở vùng đỉnh của châu thổ Sông Hồng, khoảng giữa của miền Bắc nước ta, khu vực chuyển tiếp giữa miền núi và đồng bằng vì vẫn có 3 vùng sinh thái: đồng bằng, trung du và miền núi. - Điểm cực bắc ở 210,350 vĩ bắc (Đạo Trù - Tam Dương) - Điểm cực nam ở 210,060 vĩ bắc (Tráng Việt - Mê Linh) - Điểm cực đông ở 1060,480 kinh đông (Ngọc Thanh - Phúc Yên) - Điểm cực tây ở 1060,19 kinh đông (Bạch Lưu - Lập Thạch) Phía Bắc giáp 2 tỉnh Thái Nguyên và Tuyên Quang, đường ranh giới là dãy núi Tam Đảo, Sáng Sơn. Phía Tây giáp tỉnh Phú Thọ, ranh giới tự nhiên là dòng chảy sông Lô. Phía nam giáp tỉnh Hà Tây - Hà Nội, ranh giới tự nhiên là dòng chảy sông Hồng. Phía Đông giáp 2 huyện Sóc Sơn, Đông Anh - Hà Nội. Vĩnh Phúc là cửa ngõ phía tây bắc của Hà Nội, có tổng diện tích tự nhiên là 1371km2, dân số gần 1,2 triệu người. Vĩnh Phúc tiếp giáp với sân bay Nội Bài - Hà Nội, là điểm đầu của quốc lộ 18 đi cảng Cái Lân (Quảng Ninh), đồng thời có đường sắt Hà Nội, Lào Cai, đường quốc lộ 2 chạy dọc tỉnh. Chảy qua Vĩnh Phúc có 4 dòng sông chính: Sông Hồng, sông Lô, sông Phó Đáy và sông Cà Lồ. Hệ thống sông Hồng là tuyến đường thuỷ quan trọng, thuận lợi cho tầu bè qua lại ngược xuôi. Vĩnh Phúc được thiên nhiên ưu đãi về khí hậu và thời tiết. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 240C, riêng Tam Đảo là 190C. Tam Đảo có nhiệt độ hàng ngày thấp hơn vùng đồng bằng bắc bộ là 50C, nhiệt độ cao nhất vào mùa hè không quá 240C, giờ nắng trung bình hàng năm là 1.300 giờ. Vĩnh Phúc có khí hậu nhiệt đới gió mùa, có 2 mùa rõ rệt, mùa nóng kéo dài từ tháng 4 đến tháng 11. Mùa khô bắt đầu từ tháng 12 và kết thúc vào tháng 3. Lượng mưa trung bình là 1.357 mm, độ ẩm trung bình là 83%, riêng vùng núi Tam Đảo có lượng mưa tới 3000 mm. Nói chung điều kiện tự nhiên của Vĩnh Phúc rất thuận lợi cho việc phát triển kinh tế, xã hội và là điều kiện đầu tiên thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. 2.1.2. Điều kiện xã hội, cơ sở hạ tầng. So với nhiều địa phương khác trong cả nước, tỉnh Vĩnh Phúc có điều kiện khá tốt về xã hội và cơ sở hạ tầng kỹ thuật. Hệ thống giáo dục đào tạo, phát triển với quy mô lớn, hiệu quả cao, hệ thống giao thông đa dạng và đồng bộ bao gồm đường sông, đường sắt, đường bộ, các dịch vụ điện, nước, bưu chính viễn thông đều rất đảm bảo. Ngoài ra các khu, cụm công nghiệp như Kim Hoa, Khai Quang, Quang Minh, Tiền Phong, Hương Canh, Xuân Hoà... với điều kiện cơ sở hạ tầng tốt hơn và những chế độ ưu đãi hơn so với những chế độ chung đã và sẽ được hình thành và phát triển, sẵn sàng đáp ứng mọi nhu cầu của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. * Giáo dục đào tạo. Do tỉnh đầu tư nhiều vào lĩnh vực giáo dục đào tạo về cơ sở vật chất và điều kiện học tập nên ngành giáo dục của tỉnh đã đạt được những kết quả đáng kể: Có quy mô giáo dục đào tạo ở các bậc học ổn định, riêng bậc tiểu học giảm 5%. Chất lượng giáo dục có nhiều tiến bộ, tỷ lệ giáo viên đạt trên chuẩn tăng đáng kể. Công tác xã hội hoá giáo dục được coi trọng. Vĩnh Phúc là tỉnh thứ 13 trong cả nước được công nhận là tỉnh đạt chuẩn phổ cập THCS. Vĩnh Phúc có số học sinh phổ thông trên 1 vạn dân là 2.252 học sinh. Giáo dục đào tạo của tỉnh được đầu tư và phát triển, hơn 95% trường học được kiên cố hoá, năm 2004 tỉnh hoàn thành phổ cập trung học cơ sở đúng độ tuổi, phấn đấu hoàn thành phổ cập phổ thông trung học vào năm 2010. Số học sinh THCS là 101.372 học sinh, số học sinh phổ thông trung học là 42.300 học sinh. Mạng lưới trường đào tạo nghề phát triển, công tác đào tạo nghề có nhiều tiến bộ. Cơ sở đào tạo thuộc lĩnh vực nghề nghiệp gồm 13 trường (7 trường trung học chuyên nghiệp và 6 trường dạy nghề). Theo số liệu Niên giám thống kê - Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc năm 2004 thì tổng số giáo viên các trường trung học chuyên nghiệp là 205 người, giáo viên các trường dạy nghề là 198 người. Tỷ lệ lao động được đào tạo nghề chiếm 22,6% dân số. Có thể nói tỉnh Vĩnh Phúc đang trên đà phát triển cho nên nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh là rất lớn. * Hoạt động khoa học - công nghệ Nhìn chung hoạt động khoa học - công nghệ của tỉnh có bước chuyển biến tốt, một số thành tựu KHCN được ứng dụng có hiệu quả trong sản xuất kinh doanh và phát triển xã hội. Vĩnh Phúc đã chú trọng ứng dụng các đề tài khoa học kỹ thuật vào sản xuất và đời sống, vào trồng trọt, chăn nuôi và đưa KHCN về nông thôn. Thực hiện đổi mới công nghệ trong sản xuất và quản lý trong ngành công nghiệp, xây dựng, đồng thời tập trung giải quyết các vấn đề môi trường đô thị và các nhà máy. Tỉnh đã đầu tư hàng tỷ đồng cho việc làm sạch môi trường, nạo vét sông hồ, trồng cây xanh ở những khu đông dân cư, dần dần cải thiện môi trường đô thị. * Hệ thống giao thông Trong những năm từ khi mới tái lập đến nay tỉnh luôn chú trọng đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, trong đó có giao thông, coi đó là bước quan trọng để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh. Hệ thống giao thông của tỉnh đa dạng và tương đối phát triển, có hệ thống đường bộ, đường thuỷ, đường sắt, từ Hà Nội đi qua tỉnh đến Lào Cai. Tỉnh là điểm đầu của quốc lộ 18 đi cảng Cái Lân (Quảng Ninh) và có đường quốc lộ 2 chạy dọc tỉnh. Vĩnh Phúc nằm gần kề sân bay quốc tế Nội Bài, là điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế đối ngoại. Bên cạnh đó hệ thống giao thông trong địa bàn tỉnh cũng được chú trọng phát triển. Đến nay đường ô tô đã vào được trung tâm 100% số xã và đến được phần lớn trung tâm các thôn xóm, đáp ứng được yêu cầu lưu thông hàng hoá và đi lại của nhân dân. Hiệu quả và chất lượng các tuyến đường được nâng lên rõ rệt, một số tiến bộ khoa học kỹ thuật được phổ biến và áp dụng trong các lĩnh vực quản lý và xây dựng giao thông. * Hệ thống điện, nước Hiện nay mạng lưới đường điện đã đến 100% số xã và tất cả các thôn, xóm, xã vùng sâu, vùng xa của tỉnh, 99% số hộ có điện sinh hoạt. Điện thương phẩm cung cấp cho các nhu cầu phát triển kinh tế xã hội và sinh hoạt không ngừng tăng. Phụ tải công nghiệp chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu điện tiêu thụ. Hệ thống điện chiếu sáng thị xã, thị trấn, thị tứ từng bước được cải thiện góp phần làm đẹp cảnh quan đô thị. Hệ thống cấp thoát nước đô thị và nước sạch nông thôn được quan tâm cải thiện, đầu tư nâng cấp để cung cấp nước sạch cho nhân dân, đảm bảo nguồn nước cho sinh hoạt, sản xuất và phát triển kinh tế xã hội. * Hệ thống y tế Cơ sở vật chất kỹ thuật cho ngành y tế từ tỉnh xuống cơ sở được củng cố, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu phòng bệnh và chữa bệnh cho nhân dân. Hoạt động khám và chữa bệnh chuyển biến tốt, quan tâm các đối tượng chính sách, người nghèo. Công tác y tế chăm sóc sức khoẻ nhân dân, công tác dân số - gia đình chăm sóc trẻ em được triển khai thực hiện tốt: Ước cả năm 2004 số trẻ em được tiêm chủng mở rộng đạt 98%, tăng 3% so với năm 2003; số lượt người được khám và điều trị lao, phong, sốt rét, bướu cổ đạt 100% kế hoạch, độ phủ muối i ốt đạt 95% vượt kế hoạch đề ra. Công tác phòng chống dịch được tỉnh đặc biệt coi trọng. Hàng năm không có bệnh dịch lớn xảy ra. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm từ 28,6% năm 2002 xuống 27% năm 2004. * Công tác xoá đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm có nhiều chuyển biến, việc thực hiện chính sách xã hội được quan tâm. Cuối năm 2004 tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh còn 8,7%, giảm 1% so với năm 2003. Cả năm 2004 giải quyết việc làm cho khoảng 18,5 ngàn lao động, vượt kế hoạch đề ra, tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị còn 2,37%, tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn đạt 81,13%. Mức giảm tỷ suất sinh đạt 0,045% đưa tỷ lệ tăng dân số tự nhiên còn 1,13%, giảm 0,04% so với năm 2003. Tỷ lệ sinh con thứ 3 còn khoảng 9,5%, giảm 1% so với năm 2003, dân số là 1.147.161 người. * Văn hoá thông tin, thể dục thể thao Tỉnh Vĩnh Phúc đã xây dựng và phát triển hệ thống phát thanh truyền hình, phục vụ công tác thông tin, tuyên truyền góp phần làm cho công tác văn hoá thông tin và các hoạt động xã hội có chuyển biến tích cực cả bề rộng và bề sâu, đáp ứng được nhu cầu tinh thần của nhân dân. Tỉnh từng bước nâng cấp cơ sở hạ tầng các điểm du lịch Tam Đảo, Tây Thiên, Đại Lải, Đầm Vạc..., trùng tu tôn tạo các di tích lịch sử, văn hoá. Phong trào thể thao quần chúng của tỉnh ngày một phát triển. Tỉnh chú trọng xây dựng cơ sở vật chất cho ngành thể dục thể thao do vậy trong năm 2003 tỉnh vinh dự được là nơi diễn ra môn đá cầu của Sea Games 22 và đã tiến hành chu đáo, chất lượng, góp phần vào thành công chung của Sea Games 22. Đây là một điều kiện rất tốt đối với việc phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. * Hệ thống quản lý Nhà nước. Kể từ khi mới tái lập đến nay Vĩnh Phúc luôn cố gắng tập trung đầu tư, từng bước cải thiện điều kiện làm việc cho các cán bộ công chức Nhà nước nhằm đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Trong đó tập trung đầu tư xây dựng trụ sở làm việc cho các huyện mới được tái lập và một số cơ quan của tỉnh còn nhiều khó khăn về cơ sở vật chất. 2.1.3. Điều kiện kinh tế Điều kiện kinh tế của địa phương là một trong những yếu tố thuộc môi trường đầu tư nước ngoài. Nó có ảnh hưởng đến quyết định của nhà đầu tư do nó có thể làm tăng khả năng sinh lãi hoặc rủi ro cho các nhà đầu tư. ở đâu có điều kiện phát triển kinh tế càng thuận lợi, có tiềm năng phát triển kinh tế càng lớn thì càng thu hút lớn đầu tư. Có thể nói mỗi địa phương, tỉnh thành có tình hình và tiềm năng phát triển kinh tế riêng. Trong phạm vi luận văn này tác giả nghiên cứu về tình hình và tiềm năng phát triển kinh tế của tỉnh Vĩnh Phúc. 2.1.3.1. Về tình hình phát triển kinh tế của tỉnh Tình hình kinh tế của Vĩnh Phúc từ khi mới tái lập đến nay đã có nhiều chuyển biến mạnh mẽ. Có thể nói khi tái lập tỉnh năm 1997 Vĩnh Phúc có rất ít các cơ sở kinh tế. Thường vụ tỉnh uỷ xác định hướng đi chính là xây dựng và phát triển công nghiệp để tạo ra tăng trưởng cao. Hướng giải quyết là chuyển dịch lao động nông nghiệp sang công nghiệp, làm sao chỉ còn ít lao động nông nghiệp trên diện tích cũ, để nông dân tăng thu nhập. Công nghiệp phát triển sẽ tăng thu ngân sách, từ đó có điều kiện đầu tư các công trình kết cấu, hạ tầng, có điều kiện chi thường xuyên, chi phát triển nông thôn. Vĩnh Phúc chú trọng gắn liền phát triển công nghiệp với phát triển nông nghiệp và dịch vụ. Nhưng nông nghiệp Vĩnh Phúc không thụ động trông chờ tác động của công nghiệp. Nông nghiệp Vĩnh Phúc có nhiều sáng tạo thông minh và chủ động, đã chú trọng đến các khâu kết cấu hạ tầng, tạo môi trường cho nông nghiệp phát triển tốt nhất trong đó đáng chú ý là làm tốt khâu thuỷ lợi, chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp. Vĩnh Phúc là tỉnh đầu tiên của Việt Nam làm tốt dự án nuôi bò lai Sind, tăng tỷ trọng chăn nuôi lên trên 31% trong giá trị nông nghiệp. Đến nay người nghèo ở Vĩnh Phúc cũng có thể nuôi được bò lai Sind. Bên cạnh đó ngành nông nghiệp của tỉnh cũng đạt được nhiều kết quả lớn và bền vững trong các dự án nuôi trồng thuỷ sản, nạc hoá đàn lợn.... Nông nghiệp chủ động tạo ra giá trị ngày càng cao bằng hệ thống lúa lai năng suất cao và các loại rau cao cấp, rau sạch... Sự nỗ lực của ngành nông nghiệp đã tác động trực tiếp đến đời sống nhân dân, thay đổi bộ mặt nông thôn theo hướng nông thôn mới, tạo ra nguồn nhân lực có trình độ học vấn, dễ dàng thích nghi và đáp ứng được nhu cầu của phát triển công nghiệp. Chính vì thế mà cơ cấu kinh tế của Vĩnh Phúc từ một tỉnh thuần nông đã chuyển biến mạnh mẽ theo hướng công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp. Trong đó ngành công nghiệp chiếm 50%, dịch vụ chiếm 30% và nông nghiệp chiếm 20%. Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế hàng năm của tỉnh đạt 14,49% (số liệu năm 2004).Giá trị tăng trưởng GDP trên địa bàn tỉnh là 17,53%. Tổng thu ngân sách trên địa bàn tỉnh là 1.765,7 tỷ đồng. Phần lớn các sản phẩm công nghiệp đều đạt mức tăng trưởng cao và tiêu thụ tốt so với năm 2003 như: ô tô các loại tăng 41,7%; xe máy các loại tăng 14%; cát sỏi tăng 56,3%; gạch ốp lát tăng 72,7%, gạch nung tăng 3,2%, săm lốp các loại tăng 14,3%; giầy thể thao tăng 15%. Bên cạnh đó, một số sản phẩm mới đã góp phần làm tăng giá trị sản xuất của ngành công nghiệp. Ngành nông nghiệp đã có bước chuyển dịch về cơ cấu sản xuất, giữ được nhịp độ tăng trưởng và có sản xuất hàng hoá. Tổng số lượng cây lương thực có hạt năm 2004 đạt 436.025,7 nghìn tấn. Giá trị toàn ngành, nông, lâm nghiệp, thuỷ sản tăng 8,5% so với năm 2003. Nét nổi bật trong sản xuất nông nghiệp năm 2004 là có sự chuyển đổi theo hướng cơ cấu sản xuất gắn với thị trường, tăng giá trị thu nhập trên một đơn vị diện tích, đa dạng hoá cây trồng, phát triển mạnh chăn nuôi và nuôi trồng thuỷ sản. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm nhưng tăng cao về số tuyệt đối. Bên cạnh công nghiệp và nông nghiệp, ngành thương mại dịch vụ của tỉnh phát triển mạnh, các ngành dịch vụ duy trì được nhịp độ tăng trưởng cao, chất lượng một số dịch vụ tốt hơn, đáp ứng được nhu cầu sản xuất và tiêu dùng. Giá trị sản xuất các ngành dịch vụ năm 2004 đạt 1.679,8 tỷ đồng, tăng 18,7% so với năm 2003. Bằng sự phát triển nhanh và hiệu quả của ngành công nghiệp, Vĩnh Phúc đã đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, giao lưu mua bán với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, do vậy đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu, tăng thu cho ngân sách địa phương. Năm 2004 kim ngạch xuất khẩu của tỉnh đạt 104 triệu USD, kim ngạch nhập khẩu đạt 330 triệu USD. Tuy kim ngạch nhập khẩu lớn hơn nhiều so với kim ngạch xuất khẩu làm cho cán cân thương mại của tỉnh không cân bằng, nhưng với một tỉnh tương đối còn non trẻ như Vĩnh Phúc, đang cần xây dựng nhiều cơ sở vật chất, tạo nền móng vững chắc cho phát triển toàn diện và lâu dài thì đó là một tình trạng hợp lý. Trong tương lai không xa Vĩnh Phúc sẽ còn phát triển mạnh mẽ về các ngành kinh tế công nghiệp, thương mại, du lịch và làng nghề bởi những tiềm năng sẵn có của mình. 2.1.3.2. Tiềm năng phát triển kinh tế. Vĩnh Phúc là một tỉnh có cả 3 miền sinh thái đồng bằng, trung du và miền núi, có điều kiện địa lý thuận lợi cho phát triển toàn diện nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ đặc biệt về du lịch. * Tiềm năng phát triển công nghiệp của tỉnh Vĩnh Phúc là một tỉnh có vị trí liền kề với thủ đô Hà Nội (Theo quy hoạch của Nhà nước thì tỉnh Vĩnh Phúc, mà cụ thể là thị xã Vĩnh Yên, thị xã Phúc Yên và huyện Mê Linh sẽ làm chùm đô thị và khu công nghiệp quanh thủ đô Hà Nội), nằm trong vùng lan toả của tam giác trọng điểm phát triển kinh tế phía bắc, giao thông đường bộ, đường thuỷ và kế cận sân bay quốc tế Nội Bài rất thuận tiện, tỉnh lại có diện tích đất đai khá lớn so với các tỉnh quanh Hà Nội, có tiềm năng và điều kiện phát triển các khu công nghiệp tập trung. Bên cạnh đó Vĩnh Phúc còn có một số ngành công nghiệp tiềm năng, có khả năng góp phần không nhỏ - trong quá trình phát triển công nghiệp của tỉnh như sau: + Ngành công nghiệp chế biến nông sản, thực phẩm như: trồng và chế biến rau quả cao cấp: dưa chuột, cà chua, hành, tỏi, su hào, bắp cải, khoai tây, khoai lang, chuối, lạc, chăn nuôi và chế biến thịt bò, thịt lợn, thịt gà... + Ngành công nghiệp cơ khí, hoá chất: sản xuất các phụ tùng, phụ kiện cho ô tô, xe máy, xe đạp, máy công cụ và máy nông nghiệp... + Công nghiệp vật liệu xây dựng như: Gạch ốp lát, sứ vệ sinh, phụ kiện bình tắm, bồn nước. + Ngành công nghiệp hàng tiêu dùng và xuất khẩu: các sản phẩm đồ da, may mặc, đồ điện, điện tử, phần mềm và máy vi tính... Do xác định rõ vai trò của ngành này trong phát triển công nghiệp mà hiện nay tỉnh đang tập trung vào các ngành này nhằm phát triển công nghiệp theo hướng CNH, HĐH một cách toàn diện với tốc độ nhanh, nhằm chuyển dịch cơ cấu hợp lý. Các ngành công nghiệp này chủ yếu được xây dựng trong 2 khu công nghiệp tập trung là Kim Hoa ( Mê Linh) và Khai Quang (Thị xã Vĩnh Yên). * Tiềm năng phát triển nông lâm nghiệp Vĩnh Phúc có tổng diện tích tự nhiên là 1371 km2: trong đó đất nông nghiệp là 64.387,17 ha chiếm 46,97%; đất lâm nghiệp 27.284,84 ha chiếm 19,91%; đất chưa sử dụng 26.750,11 ha chiếm 19,52%. Tiềm năng đất là khá lớn, lại mang đặc điểm của cả ba vùng sinh thái: Đồng bằng, trung du và miền núi nên có tiềm năng lớn cho sản xuất nông nghiệp. Nguồn nước ở Vĩnh Phúc khá dồi dào. Các dòng sông chính Sông Lô, Sông Hồng và các chi lưu của dãy núi Tam Đảo, hàng chục hồ, đầm lớn khác hình thành mật độ sông hồ tương đối cao. Diện tích tự nhiên của tỉnh không lớn nhưng có rừng quốc gia Tam Đảo với một vùng sinh thái đặc biệt. Nguồn lao động ở Vĩnh Phúc có 45 vạn người sống về nông, lâm, thuỷ sản. Trình độ dân trí của nông dân khá đồng đều, có truyền thống lao động và kinh nghiệm sản xuất. Hiện nay Vĩnh Phúc đang tận dụng tiềm năng và lợi thế của từng vùng trên địa bàn tỉnh để đẩy mạnh sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp theo vùng sinh thái bền vững. Các huyện Vĩnh Tường, Yên Lạc, Mê Linh có tiềm năng lớn về sản xuất lương thực, thực phẩm như lạc, đỗ tương, rau, đậu các loại... và tiềm năng về chăn nuôi lợn, gà, gia cầm và thuỷ sản.… Vùng bán sơn địa của các huyện Tam Đảo, Tam Dương, Lập Thạch, mũi nhọn là kinh tế vườn đồi, trang trại phát triển cây nông nghiệp dài ngày, xây dựng các vùng trồng cây ăn quả chủ yếu là vải thiều, nhãn, xoài, na dai... Nhìn chung Vĩnh Phúc có tiềm năng rất lớn về nông lâm nghiệp, do vậy nếu biết tận dụng tối đa tiềm năng này thì kinh tế của Vĩnh Phúc sẽ phát triển ngày càng mạnh mẽ hơn, đồng đều hơn giữa các ngành kinh tế trên địa bàn và ngang tầm với các địa bàn lân cận. * Tiềm năng về Thương mại của Tỉnh Vĩnh Phúc có vị trí địa lý thuận lợi cho phát triển thương mại. Nằm cạnh những trung tâm kinh tế lớn là Hà Nội, Hải Phòng, sát với các tỉnh biên giới phía Bắc, tạo khả năng phát triển thị trường rộng lớn. Bên cạnh đó việc nằm kề tam giác kinh tế trọng điểm Bắc Bộ (Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh), gần cảng biển, sân bay lớn, nhiều xí nghiệp công nghiệp dẫn đầu, nhiều cơ sở thương mại, tài chính, du lịch, đào tạo cán bộ khoa học, có ảnh hưởng lớn đối với sự phát triển nội vùng nói chung và với Vĩnh Phúc nói riêng. Mặc dù với số dân không lớn: hơn 1,1 triệu người và sức mua bình quân không mạnh nhưng với vị trí địa lý thuận lợi, Vĩnh Phúc có tiềm năng to lớn trong việc phát triển thương mại và thị trường, tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế của tỉnh. Thêm vào đó, điều kiện giao thông cũng hết sức thuận lợi: Đường quốc lộ số 2 và đường sắt Hà Nội - Lào Cai đi dọc hầu hết các huyện, thị xã, sông Hồng, sông Lô bao nửa vòng quanh tỉnh, có bến cảng Chu Phan, Vĩnh Thịnh, Đức Bác, thuận tiện cho việc vận chuyển, bốc xếp hàng hoá. Có thể nói Vĩnh Phúc thật sự có địa lợi để phát triển thương mại. Một tiềm năng không nhỏ về thương mại của Tỉnh là làng thương mại Thổ Tang thuộc huyện Vĩnh Tường. Làng thương mại Thổ Tang được hình thành từ lâu đời, rất nhạy cảm, năng động và tên tuổi của nó đã nổi tiếng khắp cả nước. Từ Thổ Tang, hàng hoá được giao lưu với tất cả các vùng trong nước và xuất khẩu sang nước ngoài. Tuy có tiềm năng thương mại rất lớn nhưng hoạt động thương mại của Vĩnh Phúc chưa thật sự tương xứng với tiềm năng vốn có của tỉnh. Hiện nay tỉnh đang có những chủ trương cụ thể nhằm thức dạy tiềm năng to lớn của thương mại Vĩnh Phúc cùng với sự phát triển của các ngành kinh tế trong tỉnh và đang từng bước đi vào thực hiện với những kết quả đáng kể. * Tiềm năng phát triển du lịch Cách Hà Nội 50 km về phía Tây Bắc, Vĩnh Phúc nổi tiếng không chỉ có khu nghỉ mát Tam Đảo, danh thắng đứng đầu phía bắc cùng với gần 500 di tích lịch sử và công trình văn hoá, trong đó có 162 di tích lịch sử, công trình văn hoá đã được Nhà nước xếp hạng. Vĩnh Phúc có đường giao thông thuỷ, bộ và hàng không thuận lợi, là tỉnh liền kề với thủ đô Hà Nội, sự giao lưu kinh tế - văn hoá đã khơi dậy những tiềm năng kinh tế du lịch với nhiều loại hình phong phú, đa dạng. Điều kiện tự nhiên xã hội cũng tạo nên những cụm mô hình du lịch ở các vùng tương đối lý tưởng, rõ nét, chứa đựng nhiều danh thắng nổi tiếng như Tam Đảo, Tây Thiên, Đại Lải, Đầm Vạc, thích nghi với các loại hình du lịch đa dạng. Danh thắng Tam Đảo là một kỳ tích thiên nhiên tuyệt diệu. Trước cách mạng tháng 8 người Pháp đã xây tại đây trên 200 biệt thự, khách sạn, nhà hàng, sân chơi thể thao, bể bơi, sàn nhảy... ở độ cao trên 1000m so với mặt biển, nhiệt độ mùa hè trung bình từ 200C - 220C với sự luân chuyển 4 mùa rõ rệt trong ngày. Tam Đảo đã trở thành điểm du lịch tham quan nghỉ mát hấp dẫn, mỗi năm thu hút hàng chục vạn khách tới nghỉ ngơi, dưỡng bệnh. Những địa danh Thác Bạc, Cầu Đá Tuyết, Am Gió, Thang Mây, Hồ Xạ Hương, đập Làng Hà và rừng cây nguyên sinh luôn thu hút khách du lịch thập phương. Cùng nằm trong rừng quốc gia Tam Đảo về phía Tây Bắc là danh thắng và di tích lịch sử văn hoá Tây Thiên, có chung điều kiện vị trí địa lý và khí hậu với khu nghỉ mát Tam Đảo. Tây Thiên cũng có thác Bạc, suối Giải oan và những cảnh ngoạn mục, vách đá rêu phong, rừng cây ba lớp động, thực vật phong phú.... Với điều kiện tự nhiên xã hội thuận lợi, tiềm năng lớn Vĩnh Phúc luôn mở rộng đón chào các du khách thập phương, bạn bè quốc tế đến tham quan và đặc biệt hơn Vĩnh Phúc luôn mang được các nhà doanh nghiệp, các tổ chức phi chính phủ, các thương gia trên thế giới và kiều bào Việt Nam ở nước ngoài hợp tác xây dựng cơ sở vật chất vào lĩnh vực du lịch. Bên cạnh những tiềm năng lớn về công - nông nghiệp, thương mại, du lịch Vĩnh Phúc còn có tiềm năng về các làng nghề nơi đây. Các làng nghề truyền thống như Rèn Lý Nhân, Mộc Bích Chu, Đá Hải Lựu, Đan lát Triệu Đề, Mộc Thanh Lãng, Gốm Hương Canh, Gốm Hiền Lễ Cao Minh luôn là niềm tự hào của Vĩnh Phúc và góp một phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế của Vĩnh Phúc từ quá khứ, hiện tại đến tương lai. Nói tóm lại những tiềm năng phát triển kinh tế của Vĩnh Phúc như trên đã mở ra một triển vọng lớn về thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài vào tỉnh. 2.2. Thực trạng thu hút FDI tại Vĩnh Phúc * Tình hình FDI tại Vĩnh Phúc Khi mới được tái lập năm 1997, Vĩnh Phúc là tỉnh thuần nông, điểm xuất phát kinh tế thấp, trong tổng GDP trên địa bàn, giá trị sản xuất nông nghiệp chiếm 52,5%, giá trị sản xuất công nghiệp - xây dựng chỉ chiếm 12,9% GDP bình quân đầu người chỉ bằng 48% bình quân cả nước, tổng thu ngân sách trên địa bàn tỉnh chỉ đạt dưới 100 tỷ đồng, điều kiện về cơ sở hạ tầng cho phát triển các khu công nghiệp hầu như không có. Xuất phát từ thực tế trên đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XII đã xác định phải: "Đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế, nhất là đối với công nghiệp, sớm thoát khỏi tình trạng kinh tế chủ yếu là nông nghiệp.... chuyển nền kinh tế theo hướng cơ cấu công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ". Với quyết tâm đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, tránh nguy cơ tụt hậu ngày càng xa hơn, nhằm tận dụng được tối đa những lợi thế về vị trí địa lý và những ưu đãi mà thiên nhiên đem lại, lãnh đạo tỉnh Vĩnh Phúc đã xác định thu hút đầu tư trong và ngoài nước là nhiệm vụ trọng tâm trong phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Giai đoạn từ 1997 đến 2000 là thời điểm diễn ra cuộc khủng hoảng tài chính khu vực Đông Nam á và Châu á, nên công tác thu hút đầu tư của cả nước nói chung cũng như trong tỉnh còn nhiều hạn chế, toàn tỉnh chỉ thu hút được 20 dự án bao gồm 13 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tư là 497,67 tỷ đồng và 7 dự án đầu tư nước ngoài đến từ các nước như Trung Quốc, Hàn Quốc, ấn độ, Singapore... với tổng vốn đầu tư là 50,24 triệu USD. Trong đó có một số dự án đã đi vào hoạt động đạt hiệu quả cao, đã giải quyết việc làm cho hàng ngàn lao động trong tỉnh. Nhận thức được vai trò của tầm quan trọng của việc phát triển các khu công nghiệp đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh, trên cơ sở khai thác tốt các tiềm năng về vị trí và các chủ trương, chính sách về thu hút đầu tư của Nhà nước, từ năm 2001 đến nay thực hiện nghị quyết đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VIII và thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2001 - 2005 là tiếp tục chủ trương khơi dậy nội lực, cải thiện môi trường đầu tư, coi trọng thu hút đầu tư cả trong và ngoài nước, tập trung cao độ chỉ đạo thực hiện tốt giải phóng mặt bằng, công tác thu hút đầu tư trên địa bàn tỉnh đã đạt được những kết quả quan trọng tạo tiền đề cho sự phát triển bền vững ổn định trong tương lai. Từ năm 2001 đến hết năm 2004 toàn tỉnh đã thu hút được 219 dự án, bao gồm 187 dự án đầu tư trong nước với tổng số vốn đầu tư là 10.122,2 tỷ đồng (tăng 14,38 lần về số dự án và 20,33 lần về số vốn đầu tư so với giai đoạn 1997 - 2000) và 32 dự án đầu tư nước ngoài với tổng số vốn đầu tư là 166,75 triệu USD (tăng 4,57 lần về số dự án và 3,31 lần về số vốn đầu tư so với giai đoạn 1997 - 2000). Các dự án này chủ yếu tập trung vào các ngành công nghiệp chế tác, các ngành chế biến nông sản thực phẩm, sản xuất vật liệu xây dựng, các ngành thu hút nhiều lao động như giày da, may mặc, nước giải khát, hoá chất.... tạo điều kiện phát huy tốt tiềm năng thế mạnh cũng như khai thác được tối đa nguồn nhân lực trẻ, dồi dào của tỉnh. Riêng 3 tháng đầu năm 2004 toàn tỉnh đã thu hút được 38 dự án, bao gồm 30 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tư là 1.540 tỷ đồng, đạt 44% về vốn đầu tư so với kế hoạch và 8 dự án FDI với tổng vốn đầu tư là 42,6 triệu USD, đạt 42,6% về vốn đầu tư so với kế hoạch. Trên đây là những nét khái quát chung về tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Vĩnh Phúc. Để tìm hiểu kỹ hơn về tình hình FDI tại Vĩnh Phúc giai đoạn 1997- 2004 ta nên xem xét trên 3 phương diện là: quy mô vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài; cơ cấu vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài theo ngành, theo hình thức đầu tư, theo đối tác đầu tư và tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài trong các khu công nghiệp, khu chế xuất của Vĩnh Phúc. Qua đó làm sáng tỏ những đặc điểm cơ bản trong hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Vĩnh Phúc. Những đặc điểm đó là căn cứ để đánh giá những thành tựu đạt được tại Vĩnh Phúc thời gian qua. 2.2.1. Tình hình cấp giấy phép và thực hiện các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Vĩnh Phúc giai đoạn 1997-2004. Trong giai đoạn 1997 - 2004 trên địa bàn tỉnh đã có 59 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp giấy phép chưa kể các dự án không nhận giấy phép đầu tư hoặc chưa rút giấy phép đầu tư khi chưa thực hiện. Tính trung bình mỗi năm có 8 dự án được cấp phép với tổng vốn đăng ký bình quân là 160,315 triệu USD/năm. Quy mô bình quân mỗi dự án được cấp phép trong thời kỳ này là 20,475 triệu USD/dự án. Những con số này cho thấy tình hình cấp phép và thực hiện các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Vĩnh Phúc giai đoạn 1997-2004 có chuyển biến rất tốt và mức độ biến động vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài qua các năm là rất lớn, góp phần làm tăng số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép của cả nước. Năm 1997 là năm Vĩnh Phúc mới được tái lập vì vậy, vốn đầu tư vào tỉnh lúc đó chủ yếu là vốn trong nước và không có một dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài nào. Tuy nhiên với nhận thức đúng đắn về vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế xã hội, tỉnh đã có những định hướng và chính sách thu hút đầu tư để từ đó số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào tỉnh ngày càng tăng. Kể từ năm 2001 đến năm 2004 số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại tỉnh tăng mạnh mẽ và hầu hết là hoạt động có hiệu quả. Sở dĩ các dự án FDI ở Vĩnh Phúc được triển khai tốt là do các dự án này đầu tư vào các địa bàn có nhiều thuận lợi trong giải phóng mặt bằng như Bình Xuyên, Khai Quang… * Tính theo mức độ thực hiện đến năm 2004 trên địa bàn tỉnh đã có 59 dự án với tổng vốn đăng ký là 511,740 triệu USD, vốn bổ sung (năm 2003) là 41,000 triệu USD và vốn pháp định là 208,881 triệu USD (tính cả các dự án đã rút giấy phép đầu tư). Bảng 2.1: Số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp giấy phép từ 1997 đến 2004 phân theo mức độ thực hiện (Tính cả các dự án đã rút giấy phép). Loại dự án Số dự án Tổng vốn đăng ký (triệu USD) Vốn pháp định (triệu USD) Vốn bổ sung năm 2003 (triệu USD) Đã hoàn thành giai đoạn đầu xây dựng cơ bản 26 351,803 132,800 29,500 Đang đầu tư xây dựng 20 84,883 40,692 11,500 Đã rút vốn, giải thể 13 75,054 35,389 Tổng số 59 511,740 208,881 41,000 Nguồn: sở KH-ĐT Vĩnh Phúc Qua số liệu ở bảng 2.1 có thể thấy mức độ thực hiện của các dự án FDI tại Vĩnh Phúc là rất lớn. Trong tổng số 59 dự án chỉ có 13 dự án đã rút vốn, giải thể còn lại 46 dự án đã đi vào thực hiện, trong đó có 26 dự án đã hoàn thành giai đoạn đầu xây dựng (với tổng vốn đăng ký là 351,803 triệu USD, tổng vốn pháp định là 132,800 triệu USD. Đồng thời năm 2003 còn bổ sung thêm 25,500 triệu USD) và 20 dự án đang đầu tư xây dựng (với tổng số vốn đăng ký là 84,883 triệu USD, tổng số pháp định là 40,692 triệu USD, đồng thời vốn bổ sung năm 2003 là 11,500 triệu USD). So sánh có thể thấy các dự án ở giai đoạn đầu xây dựng cơ bản cần nhiều vốn hơn gấp 2,0 lần các dự án đang đầu tư xây dựng cả về vốn đăng ký, vốn pháp định lẫn vốn bổ sung. Sở dĩ vậy là do Vĩnh Phúc là một tỉnh mới được tái lập, các vấn đề về cơ sở hạ tầng đều bắt đầu xây dựng mới hoàn toàn, hơn nữa xây dựng ban đầu là nền tảng vững chắc cho sự phát triển trong tương lai nên cần nhiều vốn hơn. Số dự án rút vốn, giải thể trong tổng số dự án được cấp phép trên địa bàn tỉnh chiếm 22,03% là một con số không lớn, nhưng cũng gây ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình cấp giấy phép và thực hiện các dự án FDI tại tỉnh, việc rút vốn, giải thể của một số dự án sẽ tạo tâm lý dè chừng của các nhà đầu tư đối với môi trường đầu tư của Vĩnh Phúc. Trong tương lai tỉnh Vĩnh Phúc cần có những biện pháp cụ thể để tìm hiểu rõ nguyên nhân của các dự án rút vốn giải thể để từ đó hạn chế tình trạng này. Nói về thực trạng thu hút FDI ở Vĩnh Phúc không thể phủ định một điều là với sự nỗ lực cố gắng của các cơ quan lãnh đạo, tỉnh đã thu hút được số dự án đầu tư FDI rất lớn và từ rất nhiều nước trên thế giới. Theo xếp hạng của tạp chí Vietnam Investment Review số ra ngày 6/12/2004, tính đến ngày 14/11/2004 Vĩnh Phúc là tỉnh đứng vị trí thứ 10 về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài nhiều nhất trong cả nước. Nếu xét trong các tỉnh phía Bắc, quy mô vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Vĩnh Phúc là tương đối lớn. Hiện nay với những chính sách ưu đãi đầu tư hết sức rõ ràng, thuận lợi, tỉnh Vĩnh Phúc đang trở thành một địa điểm đầu tư lớn và hấp dẫn tại miền Bắc. Điều đó còn cho thấy với những điều kiện khách quan về tự nhiên, cơ sở hạ tầng thuận lợi, và những điều kiện chủ quan về chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư, Vĩnh Phúc trở thành một trong những địa điểm hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. *Tính theo các đối tác đầu tư: Đến hết năm 2004 có các công ty và nhà đầu tư của 12 quốc gia và vùng lãnh thổ tiến hành các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. Trong đó các nhà đầu tư châu á (Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc…) chiếm một tỷ trọng rất lớn trong tổng vốn đầu tư và tổng số dự án. Bảng 2.2: Số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép từ năm 1997 đến 2004 phân theo đối tác đầu tư. (Tính cả các dự án đã rút giấy phép) TT Đối tác n- ớc ngoài Số dự án Tổng vốn đăng ký (triệu USD) Trong đó vốn pháp định (triệu USD) Vốn bổ sung năm 2003 (triệu USD) 1 Hàn Quốc 12 65,966 31,327 12,500 2 Đài Loan 11 53,559 26,221 3 Nhật Bản 9 164,325 66,323 2,520 4 Trung Quốc 9 20,529 7,388 6,000 5 Nga 7 38,612 12,818 11,000 6 Thái Lan 3 34,863 10,436 1,680 7 Mỹ 2 5,220 4,598 8 Singapore 2 21,461 9,914 9 Canada 1 1,100 0,330 10 úc 1 3,000 0,900 11 Bungari 1 3,050 2,800 12 Hồng Kông 1 2,000 1,400 Tổng số 59 413,685 171,825 33,700 Nguồn: Niêm giám thống kê - Cục thống kê Vĩnh Phúc Nhìn vào bảng trên có thể thấy từ năm 1997 đến năm 2004 trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc có 59 dự án FDI phân theo đối tác đầu tư với tổng vốn đăng ký là 413,685 triệu USD trong đó vốn pháp định là 171,825 triệu USD, đồng thời năm 2003 bổ sung thêm 33,700 triệu USD. Có thể thấy có nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào Vĩnh Phúc làm cho tình hình FDI của Vĩnh Phúc ngày càng sôi động. Trong số 12 quốc gia tham gia đầu tư vào Vĩnh Phúc, quốc gia tiến hành đầu tư trực tiếp vào Vĩnh Phúc nhiều nhất là Hàn Quốc, đứng thứ hai là Đài Loan, đứng thứ ba là Nhật Bản và Trung Quốc. Cụ thể, theo tỷ trọng trong tổng số dự án Hàn Quốc có 12 dự án, chiếm 19,67% trong tổng số dự án được cấp giấy phép đầu tư tại Vĩnh Phúc, Đài Loan, có 11 dự án chiếm 19,03% trong tổng số dự án, Nhật Bản và Trung Quốc mỗi quốc gia có 9 dự án chiếm 14,75% trong tổng số 59 dự án được cấp phép. Tính theo tổng vốn đăng ký, đứng thứ nhất là Nhật Bản với 164,325 triệu USD, trong đó vốn pháp định là 66,323 triệu USD; Hàn Quốc đứng thứ hai với 65,966 triệu USD, trong đó vốn pháp định là 31,327 triệu USD; thứ ba là Đài Loan với 53,559 triệu USD trong đó vốn pháp định là 26,221 triệu USD. Trung Quốc tuy đứng thứ ba về số dự án (9 dự án) nhưng vốn đăng ký chỉ chiếm 20,529 triệu USD với 7,388 triệu USD vốn pháp định, còn thấp hơn Singapore. Singapore chỉ có hai dự án đầu tư vào Vĩnh Phúc nhưng tổng vốn đăng ký là 21,461 triệu USD với 9,914 triệu USD vốn pháp định. So sánh có thể thấy cơ cấu vốn đầu tư trên một dự án của mỗi quốc gia là rất khác nhau. Không phải cứ có nhiều dự án đầu tư là cơ cấu vốn phải lớn. Nhìn bảng trên cơ thể thấy mặc dù Hàn Quốc có tới 12 dự án FDI vào Vĩnh Phúc nhưng tổng vốn đăng ký chỉ là 65,966 triệu USD, hay như Đài Loan có 11 dự án FDI vào Vĩnh Phúc nhưng tổng vốn đăng ký chỉ là 53,559 triệu USD, mỗi dự án có vốn là 4,869 triệu USD; nhưng Nhật Bản dù chỉ có 9 dự án mà tổng vốn đăng ký là 164,325 triệu USD, tức là mỗi dự án FDI của Nhật Bản trung bình là 18,258 triệu USD. Hay so sánh ngay Nhật Bản với Trung Quốc, Trung Quốc cũng có 9 dự án FDI đầu tư vào Vĩnh Phúc nhưng tổng vốn đăng ký chỉ là 20,529 triệu USD, mỗi dự án chỉ có vốn là 2,281 triệu USD. Ngoài ra, so sánh Mỹ với Singapore, đều là hai quốc gia có 2 dự án đầu tư FDI vào Vĩnh Phúc nhưng tổng vốn đăng ký hai dự án FDI của Mỹ là 5,220 triệu USD, mỗi dự án có vốn đăng ký là 2,610 triệu USD, trong khi hai dự án FDI của Singapore có tổng vốn đăng ký là 21,461 triệu USD (cao hơn 9 dự án FDI của Trung Quốc), mỗi dự án có vốn đăng ký là 10,731 triệu USD. Đối với các Quốc gia có 1 dự án đầu tư FDI vào Vĩnh Phúc như Canada, úc, Bungari, Hồng Kông, thì Bungari đứng đầu với tổng vốn đăng ký là 3,050 triệu USD, trong đó vốn pháp định là 2,800 triệu USD; thấp nhất là với tổng vốn đăng ký là 2 triệu USD. Từ sự phân tích trên có thể thấy: các dự án FDI của Nhật Bản có số vốn đăng ký lớn nhất, mặc dù chỉ đứng thứ ba về số dự án nhưng chủ yếu là các dự án có vốn lớn, đầu tư vào các lĩnh vực như sản xuất ô tô, xe máy, sản xuất ghế, phanh, cửa ô tô, kinh doanh khách sạn.. chủ yếu là các lĩnh vực đòi hỏi công nghệ cao, vốn lớn, dự án FDI của Hàn Quốc, có vốn trung bình mỗi dự án là 5,497 triệu USD là nhỏ hơn 3 lần so với vốn của các dự án FDI Nhật Bản. Các dự án FDI của Hàn Quốc tại tỉnh Vĩnh Phúc chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực như: sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu bao bì PP, bột và hạt canxi, CaCO3, may mặc xuất khẩu quần áo, dệt kim chất lượng cao, kinh doanh vận tải hành khách công cộng… những dự án này thường đòi hỏi nguồn vốn không cao lắm do trang thiết bị máy móc, kỹ thuật không đòi hỏi phải quá cao, lao động rẻ, tốn ít công đào tạo… Đứng thứ hai sau Nhật Bản về tổng vốn đăng ký là các dự án FDI của Singapore với vốn đăng ký trung bình của mỗi dự án là 10,731 triệu USD, lớn gấp đôi lần tổng só vốn đăng ký của các dự án FDI Hàn Quốc. Các dự án FDI của Singapore tại Vĩnh Phúc (2 dự án) đầu tư vào sản xuất xăm lốp ôtô

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Thực trạng và giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Vĩnh Phúc 2.pdf
Tài liệu liên quan