Tài liệu Luận văn Thực trạng phân cấp quản lý ngân sách nhà nước và giải pháp hoàn thiện chế độ phân cấp quản lý ngân sách nhà nước ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay: Luận văn 
Thực trạng phân cấp quản lý 
ngân sách nhà nước và giải pháp 
hoàn thiện chế độ phân cấp quản 
lý NSNN ở Việt Nam trong điều 
kiện hiện nay 
 3 
MỤC LỤC 
MỞ ĐẦU 4 
CHƯƠNG 1. HỆ THỐNG NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ 
THỊ TRƯỜNG 
I. Bản chất và vai trò của ngân sách nhà nước trong nền kinh tế thị trường 
5 
1.Bản chất của ngân sách nhà nước trong nền kinh tế thị trường 5 
2. Vai trò của ngân sách nhà nước trong nề kinh tế thị trường 6 
 2.1 Đặc điểm của cơ chế kinh tế thị trường 6 
 2.2 Vai trò của ngân sách nhà nước trong cơ chế thị trường 8 
II. hệ thống ngân sách nhà nước 10 
CHƯƠNG 2. PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ THỰC 
TRẠNG PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT 
NAM 
I.Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước 13 
 1. Sự cần thiết và tác dụng của phân cấp quản lý ngân sách nhà nước 13 
 2. Khái niệm và các nguyên tắc phân cấp quản lý ngân sách nhà nước 14 
 3 .Nội dung phân cấp quản lý ngân sách nhà nước 16 
II. Thực trạng phân cấp qu...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
57 trang | 
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1593 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Thực trạng phân cấp quản lý ngân sách nhà nước và giải pháp hoàn thiện chế độ phân cấp quản lý ngân sách nhà nước ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn 
Thực trạng phân cấp quản lý 
ngân sách nhà nước và giải pháp 
hoàn thiện chế độ phân cấp quản 
lý NSNN ở Việt Nam trong điều 
kiện hiện nay 
 3 
MỤC LỤC 
MỞ ĐẦU 4 
CHƯƠNG 1. HỆ THỐNG NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ 
THỊ TRƯỜNG 
I. Bản chất và vai trò của ngân sách nhà nước trong nền kinh tế thị trường 
5 
1.Bản chất của ngân sách nhà nước trong nền kinh tế thị trường 5 
2. Vai trò của ngân sách nhà nước trong nề kinh tế thị trường 6 
 2.1 Đặc điểm của cơ chế kinh tế thị trường 6 
 2.2 Vai trò của ngân sách nhà nước trong cơ chế thị trường 8 
II. hệ thống ngân sách nhà nước 10 
CHƯƠNG 2. PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ THỰC 
TRẠNG PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT 
NAM 
I.Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước 13 
 1. Sự cần thiết và tác dụng của phân cấp quản lý ngân sách nhà nước 13 
 2. Khái niệm và các nguyên tắc phân cấp quản lý ngân sách nhà nước 14 
 3 .Nội dung phân cấp quản lý ngân sách nhà nước 16 
II. Thực trạng phân cấp quản lý ngân sách nhà nước ở Việt nam 29 
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CHẾ ĐỘ PHÂN CẤP QUẢN 43 
LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 
KẾT LUẬN 55 
 4 
MỞ ĐẦU 
 Với mục tiêu “quản lý thống nhất nền tài chính quốc gia, xây dựng 
Ngân sách Nhà nước (NSNN) lành mạnh, củng cố kỷ luật tài chính, sử 
dụng tiết kiệm, có hiệu quả tiền của của Nhà nước; tăng tích luỹ để thực 
hiện công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước theo định hướng XHCN, đáp 
ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân; 
đảm bảo quốc phòng, an ninh, đối ngoại”, luật NSNN-một đạo luật quan 
trọng trong hệ thống tài chính- đã được Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 9 
thông qua ngày 20-3-1996; sau đó được sửa đổi, bổ sung bởi luật số 
06/1998/QH 10 ngày 20-5-1998, đánh dấu mốc lịch sử quan trọng trong 
công tác quản lý, điều hành NSNN ở nước ta, tạo cơ sở pháp lý cao nhất 
cho hoạt động của NSNN. 
 Sau bốn năm thực hiện luật NSNN, thực tiễn đã khẳng định vai trò của 
luật trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội. Hoạt động NSNN dần 
được quan tâm không chỉ từ phía các cơ quan quản lý Nhà nước mà còn từ 
phía người dân và các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cũng dựa trên cơ sở 
phản hồi từ phía người dân và doanh nghiệp, luật đã bộc lộ nhiều bất cập 
không chỉ giữa văn bản và thực tế áp dụng mà cả những bất cập trong công 
tác chỉ đạo điều hành. Một trong những nguyên nhân dẫn đến những bất 
cập trên là việc quyết định phân chia nguồn thu, nhiệm vụ chi tiêu cho các 
cấp ngân sách và phân giao nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cơ quan trong bộ 
máy quản lý Nhà nước vẫn còn tồn tại nhiều nhược điểm cần xem xét lại. 
 Để góp phần tiếp tục hoàn chỉnh hơn nữa luật NSNN nói chung và chế 
độ phân cấp quản lý nhân sách nói riêng, tác giả chọn đề tài: “Những bất 
cập và giải pháp hoàn thiện chế độ phân cấp quản lý NSNN ở Việt nam 
trong điều kiện hiện nay”. Từ đó muốn thông qua thực tiễn để làm sáng tỏ 
những cái được và chưa được của chế độ phân cấp quản lý cả về phương 
diện pháp lý (các văn bản liên quan đến NSNN) và công tác chỉ đạo điều 
hành, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện luật, đáp ứng yêu 
cầu phát triển kinh tế, xã hội trong thời kỳ đổi mới, phát huy tối đa hiệu 
 5 
quả của NSNN trong việc điều chỉnh nền kinh tế theo những mục tiêu đã 
đặt ra. 
CHƯƠNG I: HỆ THỐNG NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ PHÂN CẤP 
QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC. 
I. Bản chất và vai trò của NSNN trong nền kinh tế thị trường. 
1. Bản chất của NSNN. 
 Trong tiến trình lịch sử, NSNN với tư cách là một phạm trù kinh tế đã 
ra đời và tồn tại từ lâu. Là một công cụ Tài chính quan trọng của Nhà 
nước, NSNN xuất hiện dựa trên cơ sở hai tiền đề khách quan là tiền đề Nhà 
nước và tiền đề kinh tế hàng hoá- tiền tệ. 
 Trong lịch sử loài người, Nhà nước xuất hiện là kết quả của cuộc đấu 
tranh giai cấp trong xã hội. Nhà nước ra đời tất yếu kéo theo nhu cầu tập 
trung nguồn lực tài chính vào trong tay Nhà nước để làm phương tiện vật 
chất trang trải cho các chi phí nuôi sống bộ máy Nhà nước và thực hiện các 
chức năng kinh tế, xã hội của Nhà nước. Bằng quyền lực của mình, Nhà 
nước tham gia vào quá trình phân phối tổng sản phẩm xã hội. Trong điều 
kiện kinh tế hàng hoá- tiền tệ, các hình thức tiền tệ trong phân phối như: 
thuế bằng tiền, vay nợ…được Nhà nước sử dụng để tạo lập quỹ tền tệ riêng 
có: NSNN. Như vậy, NSNN là ngân sách của Nhà nước, hay Nhà nước là 
chủ thể của ngân sách đó. 
 NSNN là khái niệm quen thuộc theo nghĩa rộng mà bất kỳ người dân 
nào cũng biết được, song lại có rất nhiều định nghĩa khác nhau về NSNN: 
 Theo quan điểm của Nga: NSNN là bảng thống kê các khoản thu và 
chi bằng tiền của Nhà nước trong một giai đoạn nhất định. 
 Một cách hiểu tương tự, người Pháp cho rằng: NSNN là toàn bộ tài 
liệu kế toán mô tả và trình bày các khoản thu và kinh phí của Nhà nước 
trong một năm. 
 6 
 Có thể thấy rằng các quan điểm trên đều cho thấy biểu hiện bên ngoài 
của NSNN và mối quan hệ mật thiết giữa Nhà nước và NSNN. 
 Trong hệ thống tài chính, NSNN là khâu chủ đạo, đóng vai trò hết sức 
quan trọng trong việc duy trì sự tồn tại của bộ máy quyền lực Nhà nước. 
Tại Việt nam, định nghĩa về NSNN được nêu rõ trong luật NSNN 
(20/3/1996): NSNN là toàn bộ các khoản thu và chi của Nhà nước trong 
dự toán đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được 
thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ 
của Nhà nước.(Điều1- luật NSNN). 
 Trong thực tiễn, hoạt động NSNN là hoạt động thu (tạo lập) và chi tiêu 
(sử dụng) quỹ tiền tệ của Nhà nước, làm cho nguồn tài chính vận động giữa 
một bên là các chủ thể kinh tế, xã hội trong quá trình phân phối tổng sản 
phẩm quốc dân dưới hình thức giá trị và một bên là Nhà nước. Đó chính là 
bản chất kinh tế của NSNN. Đứng sau các hoạt động thu, chi là mối quan 
hệ kinh tế giữa Nhà nước và các chủ thể kinh tế, xã hội. Nói cách khác, 
NSNN phản ánh mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với các chủ thể trong 
phân phối tổng sản phẩm xã hội, thông qua việc tạo lập, sử dụng quỹ tiền tệ 
tập trung của Nhà nước, chuyển dịch một bộ phận thu nhập bằng tiền của 
các chủ thể đó thành thu nhập của Nhà nước và Nhà nước chuyển dịch thu 
nhập đó đến các chủ thể được thực hiện để thực hiện các chức năng, nhiệm 
vụ của Nhà nước. 
2. Vai trò của Ngân sách Nhà nước trong nền kinh tế thị trường. 
2.1. Đặc điểm của cơ chế kinh tế thị trường. 
 Mọi hệ thống kinh tế đều được tổ chức theo cách này hay cách khác để 
huy động tối đa các nguồn lực của xã hội và sử dụng có hiệu quả nguồn lực 
đó nhằm sản xuất ra các hàng hoá và dịch vụ thoả mãn nhu cầu của xã hiội. 
Việc sản xuất ra những loại hàng hoá gì, được tiến hành theo phương pháp 
nào là tốt nhất, việc phân phối hàng hoá được sản xuất ra đáp ứng tốt cho 
 7 
nhu cầu của xã hội, đó là vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế, xã hội. Lực 
lượng nào quyết định những vấn đề cơ bản đó? Trong nền kinh tế mà 
người ta gọi là Kinh tế chỉ huy, các vấn đề cơ bản đó được cơ quan của 
Nhà nước quyết định. Còn trong nền kinh tế mà vấn đề cơ bản của nó do 
thị trường quyết định được gọi là Kinh tế thị trường. 
 Trong nền kinh tế hàng hoá có một loạt những quy luật kinh tế vốn có 
của nó hoạt động như: quy luật giá trị, quy luật cung- cầu, quy luật cạnh 
tranh, quy luật lưu thông tiền tệ…và lợi nhuận là động lực cơ bản của sự 
vân động đó. Các quy luật biểu hiện sự tác động của mình thông qua thị 
trường. Nhờ sự vân động của hệ thống giá cả thị trường mà diễn ra sự thích 
ứng tự phát giữa khối lượng và cơ cấu của sản xuất với khối lượng và cơ 
cấu nhu cầu của xã hội. 
 Có thể hiểu cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết kinh tế hàng hoá do 
sự tác động của các quy luật kinh tế, cơ chế đó giải quyết ba vấn đề cơ bản 
của tổ chức kinh tế là sản xuất cái gì, như thế nào và cho ai. Cơ chế thi 
trường bao gồm các nhân tố cơ bản là cung cầu và giả cả thị trường. Thực 
tế khó đánh giá đầy đủ ưu điểm và khuyết tật của cơ chế thị trường. Nhìn 
chung nó có các ưu điểm cơ bản sau: 
 * Cơ chế thị trường kích thích hoạt động của các chủ thể kinh tế và 
tạo đIều kiện thuận lợi cho sự hoạt động tự do của họ. Do đó làm cho nền 
kinh tế phát triển năng động, phát huy được các nguồn lực của xã hội vào 
phát triển kinh tế. 
 * Cạnh tranh buộc nhà sản xuất phải hao phí lao động cá biệt đến 
mức thấp nhất có thể được bằng cách áp dụng kỹ thuật và công nghệ mới 
vào sản xuất, nhờ đó mà thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao 
năng suất lao động, nâng cao chất lượng và số lượng hàng hoá. 
 * Sự tác động của cơ chế thị trường đưa đến sự thích ứng tự phát 
giữa khối lượng và cơ câú sản xuất với khối lượng và cơ cấu nhu cầu xã 
 8 
hội, nhờ đó có thể thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của cá nhân và sản xuất về 
hàng ngàn, hàng vạn loại sản phẩm khác nhau. 
 * Trong cơ chế thị trường tồn tại sự đa dạng của các thị trường. Bên 
cạnh thị trường hàng hoá đã xuất hiện từ lâu là các thị trường về vốn, lao 
động… phục vụ cho sản xuất kết hợp với hệ thống giá cả linh hoạt vận 
động theo quan hệ cung cầu của hàng hoá, dịch vụ. 
 Lịch sử phát triển của sản xuất xã hội dã chứng minh rằng cơ chế thị 
trường là cơ chế điều tiết nền kinh tế hàng hoá đạt hiệu quả kinh tế cao. 
Song, cơ chế thị trường không phải là hiện thân của sự hoàn hảo mà chứa 
đựng trong nó nhều trục trặc. 
 Mục đích hoạt động của các doanh nghiệp lá tối đa hoá lợi nhuận. 
Ngành nào, lĩnh vực nào có khả năng đem lại lợi nhuận cao thì các doanh 
nghiệp sẽ đổ xô vào sản xuất mặt hàng, lĩnh vực đó. Từ đó dẫn đến sự phát 
triển mất cân đối giữa các khu vực,các ngành nghề trong nền kinh tế quốc 
dân. 
 Hơn nữa, vì lợi nhuận, các doanh nghiệp sẵn sàng lạm dụng tài 
nguyên, gây ô nhiễm môi trường sống của con người mà xã hội phải gánh 
chịu, do đó, hiệu quả kinh tế, xã hội không được đảm bảo. 
 Có những mục tiêu xã hội mà dù cơ chế thị trường hoạt động tốt 
cũng không thể đạt được. Sự tác động của cơ chế thị trường dẫn đến sự 
phân hoá giàu, nghèo, tác động xấu đến đạo đức và tình người. 
 Với một loạt các khuyết tật trên, ngày nay, trên thực tế không tồn tại cơ 
chế thị trường thuần tuý, mà thường có sự can thiệp của Nhà nước, khi đó 
nền kinh tế gọi là Nền kinh tế hỗn hợp. 
2.2. Vai trò của Ngân sách Nhà nước trong cơ chế thị trường. 
 9 
 Tất cả những khiếm khuyết của cơ chế thị trường đòi hỏi có sự can 
thiệp của Nhà nước là tất yếu, là một nhu cầu khách quan nhằm khôi phục 
lai những cân đối và mở đường cho sức sản xuất phát triển. 
 Trong cơ chế điều chỉnh của Nhà nước, bên trong kết cấu của nó, ngoài 
việc tổ chức một cách khoa học, thì những công cụ tài chính, tiền tệ, kế 
hoạch, luật pháp được coi là những công cụ điều chỉnh cơ bản và quan 
trọng. 
 NSNN là một trong những công cụ hữu hiệu để Nhà nước đIều chỉnh vĩ 
mô nền kinh tế, xã hội. Mục tiêu của NSNN không phải để Nhà nước đạt 
được lợi nhuận như các doanh nghiệp và cũng không phải để bảo vệ vị trí 
của mình trước các đối thủ cạnh tranh trên thị trường. NSNN ngoài việc 
duy trì sự tồn tại của bộ máy Nhà nước còn phải xây dựng cơ sở hạ tầng 
kinh tế, xã hội để tạo ra môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt 
động. 
 NSNN được sử dụng như là công cụ tác động vào cơ cấu kinh tế nhằm 
đảm bảo cân đối hợp lý của cơ cấu kinh tế và sự ổn định của chu kỳ kinh 
doanh. Trước xu thế phát triển mất cân đối của các ngành, lĩnh vực trong 
nền kinh tế, thông qua quỹ ngân sách, Chính phủ có thể áp dụng các chính 
sách ưu đãi, đầu tư vào các lĩnh vực mà tư nhân không muốn đầu tư vì hiệu 
quả đầu tư thấp; hoặc qua các chính sách thuế bằng việc đánh thuế vào 
những hàng hoá, dịch vụ của tư nhân có khả năng thao túng trên thị trường; 
đồng thời, áp dụng mức thuế suất ưu đãi đối với những hàng hoá mà Chính 
phủ khuyến dụng. Nhờ đó mà có thể đảm bảo sự cân đối, công bằng trong 
nền kinh tế. 
 Giá cả trên thị trường biến động dựa vào quy luật cung cầu của hàng 
hoá, dịch vụ. NSNN cũng được sử dụng như là công cụ đảm bảo sự ổn 
định giá cả của thị trường. Chẳng hạn, khi Chính phủ muốn bảo hộ cho 
những người có thu nhập thấp, Chính phủ sẽ đặt giá trần là mức giá cao 
nhất mà người bán được phép đưa ra và mức này thường là thấp hơn mức 
 10 
giá cân bằng trên thị trường, khi đó tất yếu sẽ dẫn đến sự thiếu hụt trên thị 
trường. để duy trì hiệu lực của giá trần thì Chính phủ lại tiếp tục can thiệp 
bằng cách cung phần thiếu của hàng hoá, lượng hàng hoá này được lấy từ 
quỹ dự trữ của Nhà nước thuộc NSNN, tức là trong khoản chi ngân sách 
phải có khoản dự phòng này. Trái lại khi Chính phủ muốn bảo hộ cho 
người sản xuất, muốn hàng hoà của một ngành nào đó được khuyến khích 
thì sẽ đặt giá sàn là mức giá thầp nhất mà người bán được phép đưa ra và 
mức này thường lớn hơn giá cân bằng trên thị trường. Điều này sẽ dẫn đến 
sự dư thừa hàng hoá trên thị trường và khi đó là sự can thiệp của Chính phủ 
bằng cách mua hết lượng hàng thừa. Khoản tiền sử dụng để thanh toán cho 
người bán cũng là từ NSNN. 
 Một vai trò được coi là không kém phần quan trọng của NSNN là giải 
quyết các vấn đề xã hội: bất công, ô nhiễm môi trường…Chẳng hạn trước 
vấn đề công bằng xã hội. Chống lại sự bất công là cần thiết cho một xã hội 
văn minh và ổn định, Chính phủ thường sử dụng các biện pháp tác động tới 
thu nhập để thiết lập lai sự công bằng xã hội. Điều chỉnh thu nhập của các 
nhóm dân cư khác nhau bằng cách trợ cấp thu nhập cho những người có 
thu nhập thấp hoặc hoàn toàn không có thu nhập. Một cách khác, Chính 
phủ có thể sử dụng biện pháp tác động gián tiếp đến thu nhập bằng cách 
tạo khả năng tạo thu nhập cao hơn dựa vào năng lực của bản thân. theo 
đánh giá thì đây là biện pháp tích cực nhất, đồng thời làm tăng thu nhập 
quốc dân; nói cách khác, nó làm cho một số người dân giàu lên mà không 
ai nghèo đi; hoặc qua chính sách thuế thu nhập, sử dụng mức thuế suất cao 
đối với người có thu nhập cao và ngược lại. 
 Như vậy, vai trò của NSNN là rất lớn. Vấn đề đặt ra là việc tổ chức quy 
mô, cơ cấu và quản lý NSNN như thế nào để phát huy được vai trò của nó. 
II. Hệ thống ngân sách nhà nước 
 Luật NSNN ra đời là sự phản ánh pháp lý cơ chế quản lý NSNN ở 
nước ta, thể chế hoá những chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng từ Đại 
 11 
hội VI, VII, VIII, là công cụ pháp lý để quản lý NSNN có hiệu lực và hiệu 
quả, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật tài chính. Hệ thống NSNN và 
phân cấp quản lý NSNN là nội dung cốt lõi trong mối quan hệ giữa ngân 
sách trung ương và ngân sách địa phương đã được phản ánh rõ ràng trong 
luật dựa trên quan điểm của Đảng và Nhà nước ta: tăng cường tính tập 
trung, thống nhất, tính liên tục của điều hành vĩ mô, lãnh đạo tập trung đi 
đôi với việc mở rộng trách nhiệm và quyền hạn, phát huy tính chủ động, 
sáng tạo của địa phương đối với những vấn đề mà các địa phương có khả 
năng xử lý có hiệu quả. 
 Hệ thống NSNN được hiểu là tổng thể các cấp ngân sách có mối quan 
hệ hữu cơ với nhau trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thu, chi của mỗi cấp 
ngân sách. 
 Tại nước ta, tổ chức hệ thống NSNN gắn bó chặt chẽ với việc tổ chức 
bộ máy Nhà nước và vai trò, vị trí của bộ máy đó trong quá trình phát triển 
kinh tế xã hội của đất nước theo Hiến pháp. Mỗi cấp chính quyền có một 
cấp ngân sách riêng cung cấp phương tiện vật chất cho cấp chính quyền đó 
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình trên vùng lãnh thổ. Việc hình 
thành hệ thống chính quyền Nhà nước các cấp là một tất yếu khách quan 
nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trên mọi vùng lãnh thổ 
của đất nước. Chính sự ra đời của hệ thống chính quyền Nhà nước nhiều 
cấp đó là tiền đề cần thiết để tổ chức hệ thống ngân sách nhà nước nhiều 
cấp. 
 Cấp ngân sách được hình thành trên cơ sở cấp chính quyền Nhà nước, 
phù hợp với mô hình tổ chức hệ thống chính quyền Nhà nước ta hiện nay, 
hệ thống ngân sách nhà nước bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách 
địa phương: 
 * Ngân sách trung ương phản ánh nhiệm vụ thu, chi theo ngành và giữ vai 
trò chủ đạo trong hệ thống ngân sách nhà nước. Nó bắt nguồn từ vị trí, vai 
trò của chính quyền trung ương được Hiến pháp quy định đối với việc thực 
 12 
hiện các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Ngân sách trung 
ương cấp phát kinh phí cho yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ của 
Nhà nước trung ương (sự nghiệp văn hoá, sự nghiệp an ninh quốc phòng, 
trật tự an toàn xã hội, đầu tư phát triển…). Nó còn là trung tâm điều hoà 
hoạt động ngân sách của địa phương. Trên thực tế, ngân sách trung ương là 
ngân sách của cả nước, tập trung đại bộ phận nguồn tài chính quốc gia và 
đảm bảo các nhiệm vụ chi tiêu có tính chất huyết mạch của cả nước. ngân 
sách trung ương bao gồm các đơn vị dự toán của cấp này, mỗi bộ, mỗi cơ 
quan trung ương là một đơn vị dự toán của ngân sách trung ương.Ngân 
sách trung ương bao gồm: 
 - Ngân sách cấp tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương (gọi 
chung là ngân sách cấp tỉnh). 
- Ngân sách cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi 
chung là ngân sách cấp huyện). 
- Ngân sách cấp xã, phường, thị trấn (gọi chung là ngân sách cấp 
xã). 
* Ngân sách địa phương là tên chung để chỉ các cấp ngân sách của các cấp 
chính quyền bên dưới phù hợp với địa giới hành chính các cấp. Ngoài ngân 
sách xã chưa có đơn vị dự toán, các cấp ngân sách khác đều bao gồm một 
số đơn vị dự toán của cấp ấy hợp thành. 
 + Ngân sách cấp tỉnh phản ánh nhiệm vụ thu, chi theo lãnh thổ, đảm 
bảo thực hiện các nhiệm vụ tổ chức quản lý toàn diện kinh tế, xã hội của 
chính quyền cấp tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương. Chính quyền cấp 
tỉnh cần chủ động, sáng tạo trong việc động viên khai thác các thế mạnh 
trên địa bàn tỉnh để tăng nguồn thu, đảm bảo chi và thực hiện cân đối ngân 
sách cấp mình. 
 + Ngân sách cấp xã, phường, thị trấn là đơn vị hành chính cơ sở có 
tầm quan trọng đặc biệt và cũng có đặc thù riêng: nguồn thu được khai thác 
 13 
trực tiếp trên địa bàn và nhiệm vụ chi cũng được bố tríđể phục vụ cho mục 
đích trực tiếp của cộng đồng dân cư trong xã mà không thông qua một 
khâu trung gian nào. Ngân sách xã là cấp ngân sách cơ sở trong hệ thống 
NSNN, đảm bảo điều kiện tài chính để chính quyền xã chủ động khai thác 
các thế mạnh về đất đai, phát triển kinh tế, xã hội, xây dựng nông thôn 
mới, thực hiện các chính sách xã hội, giữ gìn an ninh, trật tự trên địa bàn. 
 Trong hệ thống ngân sách Nhà nước ta, ngân sách trung ương chi phối 
phần lớn các khoản thu và chi quan trọng, còn ngân sách địa phương chỉ 
được giao nhiệm vụ đảm nhận các khoản thu và chi có tính chất địa 
phương. Quan hệ giữa các cấp ngân sách được thực hiện theo nguyên tắc 
sau: 
 Ngân sách trung ương và ngân sách các cấp chính quyền địa phương 
được phân định nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ thể.Thực hiện việc bổ sung 
từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới để đảm bảo công bằng, phát 
triển cân đối giữa các vùng, các địa phương. Số bổ sung này là khoản thu 
của ngân sách cấp dưới.Trường hợp cơ quan quản lý Nhà nước cấp trên uỷ 
quyền cho cơ quan quản lý Nhà nước cấp dưới thực hiện nhiệm vị chi 
thuộc chức năng của mình, thì phải chuyển kinh phí từ ngân sách cấp trên 
cho ngân sách cấp dưới để thực hiện nhiệm vụ đó.Ngoài việc bổ sung 
nguồn thu và uỷ quyền thực hiện nhiệm vụ chi, không được dùng ngân 
sách cấp này để chi cho nhiệm vụ của ngân sách cấp khác trừ trường hợp 
đặc biệt theo quy định của Chính phủ. 
 14 
CHƯƠNG II: PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ THỰC 
TRẠNG PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM 
I. Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước: 
1. Sự cần thiết và tác dụng: 
 Chế độ phân cấp và quản lý ngân sách ở nước ta ra đời từ năm 1967, tới 
nay đã qua nhiều lần bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với từng giai đoạn lịch 
sử nhất định nhằm giải quyết nhiều vấn đề phát sinh trong quan hệ giữa 
ngân sách trung ương và chính quyền các cấp trong quản lý NSNN. 
 NSNN được phân cấp quản lý giữa Chính phủ và các cấp chính quyền 
địa phương là tất yếu khách quan khi tổ chức hệ thống NSNN gồm nhiều 
cấp. Điều đó không chỉ bắt nguồn từ cơ chế kinh tế mà còn từ cơ chế phân 
cấp quản lý về hành chính. Mỗi cấp chính quyền đều có nhiệm vụ cần đảm 
bảo bằng những nguồn tài chính nhất định mà các nhiệm vụ đó mỗi cấp đề 
xuất và bố chí chi tiêu sẽ hiệu quả hơn là có sự áp đặt từ trên xuống. Mặt 
khác, xét về yếu tố lịch sử và thực tế hiện nay, trong khi Đảng và Nhà nước 
ta đang chống tư tưởng địa phương, cục bộ … vẫn cần có chính sách và 
biện pháp nhằm khuyến khích chính quyền địa phương phát huy tính độc 
lập, tự chủ, tính chủ động, sáng tạo của địa phương mình trong quá trình 
phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn. Có một số khoản thu như: tiền cho 
thuê mặt đất, mặt nước đối với doanh nghiệp, tiền cho thuê và tiền bán nhà 
thuộc sở hữu Nhà nước, lệ phí trước bạ, thuế môn bài,…giao cho địa 
phương quản lý sẽ hiệu quả hơn. 
 Phân cấp quản lý NSNN là cách tốt nhất để gắn các hoạt động của 
NSNN với cac hoạt động kinh tế, xã hội một cách cụ thể và thực sự nhằm 
tập trung đấy đủ và kịp thời, đúng chính sách, chế độ các nguồn tài chính 
quốc gia và phân phối sử dụng chúng công bằng, hợp lý, tiết kiệm và có 
hiệu quả cao, phục vụ các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội của 
đất nước. Phân cấp quản lý NSNN đúng đắn và hợp lý không chỉ đảm bảo 
 15 
phương tiện tài chính cho việc duy trì và phát triển hoạt động của các cấp 
chính quyền ngân sách từ trung ương đến điah phương mà còn tạo điều 
kiện phát huy được các lợi thế nhiều mặt của từng vùng, từng địa phương 
trong cả nước. Nó cho phép quản lý và kế hoạch hoá NSNN được tốt hơn, 
điều chỉnh mối quan hệ giữa các cấp chính quyền cũng như quan hệ giữa 
các cấp ngân sách được tốt hơn để phát huy vai trò là công cụ điều chỉnh 
vĩ mô của NSNN. Đồng thời, phân cấp quản lý NSNN còn có tác động 
thúc đẩy phân cấp quản lý kinh tế, xã hội ngày càng hoàn thiện hơn. 
 Tóm lại phân cấp ngân sách đúng đắn và hợp lý, tức là việc giải quyết 
mối quan hệ giữa chính quyền Nhà nước trung ương và các cấp chính 
quyền địa phương trong việc xử lý các vấn đề hoạt động và điều hành 
NSNN đúng đắn và hợp lý sẽ là một giải pháp quan trọng trong quản lý 
NSNN. 
2. Khái niệm và các nguyên tắc phân cấp quản lý NSNN. 
 Phân cấp quản lý NSNN là việc giải quyết mối quan hệ giữa các cấp 
chính quyền Nhà nước về vấn đề liên quan đến việc quản lý và điều hành 
NSNN. 
 Để chế độ phân cấp quản lý mang lại kết quả tốt cần phải tuân thủ các 
nguyên tắc sau đây: 
 Một là: phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế, xã hội của đất nước. Phân 
cấp quản lý kinh tế, xã hội là tiền đề, là điều kiện để thực hiện phân cấp 
quản lý NSNN. Quán triệt nguyên tắc này tạo cơ sở cho việc giải quyết 
mối quan hệ vật chất giữa các cấp chính quyền qua việc xác định rõ nguồn 
thu, nhiệm vụ chi của các cấp. Thực chất của nguyên tắc này là giải quyết 
mối quan hệ giữa nhiệm vụ và quyền lợi, quyền lợi phải tương xứng với 
nhiệm vụ được giao. Mặt khác, nguyên tắc này còn đảm bảo tính độc lập 
tương đối trong phân cấp quản lý NSNN ở nước ta. 
 16 
 Hai là: ngân sách trung ương giữ vai trò chủ đạo, tập trung các nguồn 
lực cơ bản để đảm bảo thực hiện các mục tiêu trọng yếu trên phạm vi cả 
nước. Cơ sở của nguyên tắc này xuất phát từ vị trí quan trọng của Nhà 
nước trung ương trong quản lý kinh tế, xã hội của cả nước mà Hiến pháp 
đã quy định và từ tính chất xã hội hoá của nguồn tài chính quốc gia. 
Nguyên tắc này được thể hiện: 
 - Mọi chính sách, chế độ quản lý NSNN được ban hành thống nhất và 
dựa chủ yếu trên cơ sở quản lý ngân sách trung ương. 
 - Ngân sách trung ương chi phối và quản lý các khoản thu, chi lớn 
trong nền kinh tế và trong xã hội. Điều đó có nghĩa là: các khoản thu chủ 
yếu có tỷ trọng lớn phải được tập trung vào ngân sách trung ương, các 
khoản chi có tác động đến quá trình phát triển kinh tế, xã hội của cả nước 
phải do ngân sách trung ương đảm nhiệm. Ngân sách trung ương chi phối 
hoạt động của ngân sách địa phương, đảm bảo tính công bằng giữa các địa 
phương. 
 Ba là: phân định rõ nhiệm vụ thu, chi giữa các cấp và ổn định tỷ lệ phần 
trăm (%) phân chia các khoản thu, số bổ sung từ ngân sách cấp trên cho 
ngân sách cấp dưới được cố định từ 3 đến 5 năm. Hàng năm, chỉ xem xét 
điều chỉnh số bổ sung một phần khi có trượt giá và một phần theo tốc độ 
tăng trưởng kinh tế. Chế độ phân cấp xác định rõ khoản nào ngân sách địa 
phương được thu do ngân sách địa phương thu, khoản nào ngân sách địa 
phương phải chi do ngân sách địa phương chi. Không để tồn tại tình trạng 
nhập nhằng dẫn đến tư tưởng trông chờ, ỷ lai hoặc lạm thu giữa ngân sách 
trung ương và ngân sách địa phương. Có như vậy mới tạo điều kiện nâng 
cao tính chủ động cho các địa phương trong bố trí kế hoạch phát triển kinh 
tế, xã hội. Đồng thời là điều kiện để xác định rõ trách nhiệm của địa 
phương và trung ương trong quản lý NSNN, tránh co kéo trong xây dựng 
kế hoạch như trước đây. 
 17 
 Bốn là: đảm bảo công bằng trong phân cấp ngân sách. Phân cấp ngân 
sách phải căn cứ vào yêu cầu cân đối chung của cả nước, cố gắng hạn chế 
thấp nhất sự chênh lệch về văn hoá, kinh tế, xã hội giữa các vùng lãnh thổ. 
 18 
3. Nội dung của phân cấp quản lý NSNN. 
 Dựa trên cở quán triệt những nguyên tắc trên, nội dung của phân cấp 
quản lý NSNN được quy định rõ trong chương II và III của luật NSNN bao 
gồm: 
 Nội dung thứ nhất là phân cấp các vấn đề liên quan đế quản lý, điều 
hành NSNN từ trung ương đến địa phương trong việc ban hành, tổ chức 
thực hiện và kiểm tra, giám sát về chế độ, chính sách. 
 Tiếp theo là phân cấp về các vấn đề liên quan đế nhiệm vụ quản lý và 
điều hành NSNN trong việc ban hành hệ thống biểu mẫu, chứng từ về trình 
tự và trách nhiệm của các cấp chính quyền trong xây dựng dự toán ngân 
sách, quyết toán ngân sách và tổ chức thực hiện kế hoạch NSNN. 
Cụ thể: 
 Quốc hội quyết định tổng số thu, tổng số chi, mức bội chi và các nguồn 
bù đắp bội chi; phân tổ NSNN theo từng loại thu, từng lĩnh vực chi và theo 
cơ cấu giữa chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển, chi trả nợ. Quốc hội 
giao cho Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định phương án phân bổ ngân 
sách trung ương cho từng bộ, ngành và mức bổ sung từ ngân sách trung 
ương cho từng tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Như vậy, Quốc hội 
quyết định những vấn đề then chốt nhất về NSNN, đảm bảo cơ cấu thu, chi 
NSNN hợp lý và cân đối NSNN tích cực, đồng thời giám sát việc phân bổ 
ngân sách trung ương và ngân sách của các địa phương. 
 Uỷ ban thường vụ Quốc hội có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ của 
Quốc hội giao về quyết định phương án phân bổ ngân sách trung ương, 
giám sát việc thi hành pháp luật về NSNN. 
 Chính phủ trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ quốc hội các dự án luật, 
pháp lệnh và các dự án khác về NSNN; ban hành các văn bản pháp quy về 
NSNN; lập và trình Quốc hội dự toán và phân bổ NSNN, dự toán điều 
 19 
chỉnh NSNN trong trường hợp cần thiết; giao nhiệm vụ thu, chi ngân sách 
cho từng bộ, ngành; thống nhất quản lý NSNN đảm bảo sự phối hợp chăth 
chẽ giữa các cơ quan quản lý ngành và địa phương trong việc thực hiện 
NSNN; tổ chức kiểm tra việc thực hiện NSNN; quy định nguyên tắc, 
phương pháp tính toán số bổ sung nguồn thu từ ngân sách cấp trên cho 
ngân sách cấp dưới; quy định chế độ quản lý quỹ dự phòng NSNN và quỹ 
dự trữ tài chính; kiểm tra nghị quyết của Hội đồng nhân dân về dự toán và 
quyết toán NSNN; lập và trình Quốc hội quyết toán NSNN và quyết toán 
các công trình cơ bản của Nhà nước. 
 Bộ tài chính chuẩn bị các dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác về 
NSNN trình chính phủ; ban hành các văn bản pháp quy về NSNN theo 
thẩm quyền; chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện chức năng thống 
nhất quản lý NSNN; hướng dẫn kiểm tra các bộ, cơ quan khác ở trung 
ương và địa phương xây dựng dự toán NSNN hàng năm; đề xuất các biện 
pháp nhằm thực hiện chính sách tăng thu, tiết kiệm chi NSNN; chủ trì phối 
hợp với các bộ, ngành trong việc xây dựng các chế độ, tiêu chuẩn, định 
mức chi NSNN; thanh tra, kiểm tra tài chính với tất cả các tổ chức, các đơn 
vị hành chính, sự nghiệp và các đối tượng khác có nghĩa vụ nộp ngân sách 
và xử dụng ngân sách; quản lý quỹ NSNN và các quỹ khác của Nhà nước; 
lập quyết toán NSNN trình Chính phủ. 
 Bộ kế hoạch và đầu tư có nhiệm vụ trình Chính phủ dự án kế hoạch 
phát triển kinh tế, xã hội của cả nước và cân đối chủ yếu của nền kinh tế 
quốc dân, trong đó có cân đối tài chính tiền tệ, vốn đầu tư xây dựng cơ bản 
làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch tài chính, ngân sách; phối hợp với 
bộ tài chính lập dự toán và phương án phân bổ NSNN trong lĩnh vực phụ 
trách; phối hợp với bộ tài chính và các bộ ngành hữu quan kiểm tra đánh 
giá hiệu quả của vốn đầu tư các công trình xây dựng cơ bản. 
 Ngân hàng Nhà nước có nhiệm vụ phối hợp với bộ tài chímh trong 
việc lập dự toán NSNN đối với kế hoạch và phương án vay để bù đắp bội 
 20 
chi NSNN; tạm ứng cho NSNN để xử lý thiếu hụt tạm thời quỹ NSNN 
theo quyết định của thủ tướng Chính phủ. 
 Các bộ, ngành khác có nhiệm vụ phối hợp với bộ tài chính, UBND cấp 
tỉnh để lập, phân bổ, quyết toán NSNN theo ngành, lĩnh vực phụ trách ; 
kiểm tra theo dõi tình hình thực hiện ngân sách thuộc ngành, lĩnh vực phụ 
trách; báo cáo tình hình thực hiện và kết quả sử dụng ngân sách thuộc 
ngành, lĩnh vực phụ trách; phối hợp với bộ tài chính xây dung định mức 
tiêu chuẩn chi NSNN thuộc ngành, lĩnh vực phụ trách. 
 Hội đồng nhân dân có quyền quyết định dự toán và phân bổ ngân sách 
địa phương, phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương; quyết định các 
chủ trương, biện pháp để triển khai thực hiện ngân sách địa phương; quyết 
định điều chỉnh dự toán ngân sách địa phương trong thời gian cần thiết; 
giám sát việc thực hiện ngân sách đã quyết định. Riêng đối với HĐND cấp 
tỉnh, ngoài những nhiệm vụ, quyền hạn nêu trên còn được quyền quyết 
định thu, chi lệ phí, phụ thu và các khoản đóng góp của nhân dân theo quy 
định của pháp luật. 
 Uỷ ban nhân dân lập dự toán và phương án phân bổ ngân sách địa 
phương, dự toán điều chỉnh NSĐP trong trường hợp cần thiết trình HĐND 
cùng cấp quyết định và báo cáo cơ quan tài chính cấp trên trực tiếp. Kiểm 
tra nghị quyết của HĐND cấp dưới về dự toán ngân sách và quyết toán 
ngân sách. Tổ chức thực hiện NSĐP và báo cáo về NSNN theo quy định. 
Riêng đối với cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, UBND còn có 
nhiệm vụ lập và trình HĐND quyết định việc thu phí, lệ phí, phụ thu, huy 
động vốn trong nước cho đầu tư xây dựng cơ bản thuộc địa phương quản 
lý. 
 Như vậy, luật đã quy định tương đối rõ ràng về nhiệm vụ, quyền hạn 
của các cơ quan, chính quyền Nhà nước trong lĩnh vực NSNN. đặc biệt đối 
với HĐND và UBND các cấp đã có sự đổi mới theo hướng tăng tính tự 
chủ, sáng tạo của địa phương trong việc phát huy tiềm năng hiện có, bồi 
 21 
dưỡng và tăng thu cho ngân sách cấp mình, từ đó chủ động bố trí chi tiêu 
hợp lý, có hiệu quả theo kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của địa phương, 
phù hợp với quy hoạch tổng thể và chế độ thu, chi thống nhất của Nhà 
nước. Điều này cơ bản cũng phù hợp với phương hướng đổi mới chức 
năng, nhiệm vụ của HĐND và UBND được Quốc hội và Chính phủ đề ra 
trong kỳ hội nghị HĐND và UBND toàn quốc. 
 Về các khoản thu NSNN: 
 Thu NSNN là số tiền mà nhà nước huy động vào NSNN và không bị 
ràng buộc bởi trách nhiệm hoàn trả trực tiếp. Phần lớn các khoản thu này 
đều mang tính chất cưỡng bức. Với đặc điểm đó, thu NSNN khác với các 
nguồn thu của các chủ thể khác (doanh nghiệp, tư nhân…) vì nó gắn với 
quyền lực của nhà nước. 
 Theo phân loại thống kê của liên hiệp quốc, thu NSNN gồm hai loại: 
 - Các khoản thu từ thuế, trong đó chia ra thuế trực thu và thuế gián thu. 
 - Các khoản thu ngoài thuế như phí, lệ phí và các khoản thu từ hoạt 
động kinh tế của Nhà nước và các khoản chuyển giao vào NSNN khác. 
 Tại Việt nam, trước đây, việc phân chia nội dung thu của các cấp ngân 
sách dựa vào cơ sở kinh tế của chính quyền tức là những tổ chức kinh tế 
do trung ương quản lý thì nguồn thu của các tổ chức này tập trung vào 
ngân sách trung ương, các tỏ chức kinh tế do địa phương quản lý thì sẽ ghi 
thu vào ngân sách địa phương. Điều này đã dẫn đến tình trạng xây dựng 
chồng chéo các cơ sở kinh tế của trung ương và địa phương, tranh giành 
nguồn nguyên vật liệu, thị trường tiêu thụ sản phẩm. Mặt khác, nó không 
gắn trách nhiệm của các cấp chính quyền địa phương trong việc quan tâm 
tới những tổ chức kinh tế do trung ương quản lý ở địa phương. Do vậy, để 
khắc phục những nhược điểm trên, chế độ phân cấp được điều chỉnh theo 
hướng thay đổi tỷ lệ ghi thu vào ngân sách trung ương và ngân sách địa 
 22 
phương nhưng do vẫn dựa trên cơ sở cũ nên nguồn thu vẫn không được 
đảm bảo. 
 Hiện nay, theo luật NSNN sửa đổi, việc phân chia nội dung thu NSNN 
không dựa vào tính chất sở hữu, tổ chức của cơ sở kinh tế mà theo cơ chế: 
 * Mỗi cấp ngân sách đều có các khoản thu được hưởng 100%. Như vậy, 
có thể giúp chính quyền địa phương chủ động bố trí cân đối ngân sách cấp 
mình 
 * Các khoản thu được phân chia theo tỷ lệ điều tiết giữa các cấp ngân 
sách. 
 Trước đây, tỷ lệ điều tiết này được xác định bởi công thức: 
 X= [(Q- T): K]*100 
Trong đó: X :là tỷ lệ điều tiết các khoản thu. 
T :là tổng số chi theo nhiệm vụ được giao. 
Q :là tổng số thu cố định. 
K :là thuế doanh thu và thuế nông nghiệp. 
Công thức trên bị đánh giá là thiếu cơ sở khoa học, không chính xác về mặt 
toán học và kinh tế dẫn đến bất công bằng giữa nhiều địa phương, số tỉnh 
có tỷ lệ điều tiết tính ra vượt quá 100% là quá lớn nên ngân sách nhiều địa 
phương bội thu, trong khi đó ngân sách TƯ bội chi. 
 Hiện nay, luật quy đinh: 
 * Tỷ lệ phần trăm phân chia các khoản thu giữa ngân sách trung ương 
và ngân sách từng tỉnh do Chính phủ quyết định và nó được áp dụng chung 
đối với tất cả các khoản thu được phân chia và được xác định riêng cho 
từng tỉnh. 
 23 
Các khoản thu được phân chia gồm: 
 Thuế giá trị gia tăng không kể thuế giá trị gia tăng thu từ hàng hoá 
nhập khẩu và thu từ hoạt động xổ số kiến thiết. 
 Thuế thu nhập doanh nghiệp không kể thuế thu nhập doanh nghiệp 
của các đơn vị hạch toán toàn ngành và thuế thu nhập doanh nghiệp thu từ 
hoạt động xổ số kiến thiết. 
 Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao. 
 Thuế chuyển thu nhập ra nước ngoài của các tổ chức, cá nhân nước 
ngoài có vốn đầu tư tại Việt nam 
 Thu sử dụng vốn ngân sách của các doanh nghiệp nhà nước không 
kể thu sử dụng vốn ngân sách từ hoạt động xổ số kiến thiết. 
 Việc xác định tỷ lệ phần trăm phân chia được thực hiện như sau: 
Gọi: 
- Tổng số chi ngân sách các cấp chính quyền địa phương(không bao bồm 
số bổ sung) là A. 
- Tổng số các khoản thu ngân sách các cấp chính quyền địa phương hưởng 
100% (không bao gồm số bổ sung) là B. 
- Tổng số các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm giữa các cấp chính 
quyền địa phương được hưởng là C. 
- Tổng số các khoản thu được phân chia giữa NSTƯ và ngân sách tỉnh là 
D. 
Nếu A-(B+C)< D thì tỷ lệ phần trăm phân chia được tính theo công thức: 
 Tỷ lệ phần trăm = [(A-B)+C]: D * 100% 
 24 
Nếu A-(B+C) > D thì tỷ lệ phần trăm chỉ được tính bằng 100% và phần 
chênh lệch sẽ thực hiện cấp bổ sung. 
Nếu A-(B+C) =D thì tỷ lệ phần trăm là 100% và tỉnh tự cân đối. 
 * Tỷ lệ phần trăm phân chia các khoản thu giữa ngân sách các cấp chính 
quyền địa phương do UBND tỉnh quy định. 
Các khoản thu phân chia: 
- Thuế chuyển quyền sử dụng đất. 
- Thuế nhà, đất. 
- Tiền sử dụng đất. 
- Thuế sử dụng đất nông nghiệp. 
- Thuế tài nguyên. 
- Lệ phí trước bạ. 
- Thuế tiêu thụ đặc biệt hàng sản xuất trong nước thu vào các mặt hàng bài 
lá, hành mã, vàng mã và các dịch vụ kinh doanh vũ trường, mát xa, ka ra ô 
kê, kinh doanh gôn, bán thẻ hội viên và vé chơi gôn, trò chơi bằng các máy 
giắc pót, kinh doanh vé đặt cược đua ngựa, đua xe. 
 PHÂN ĐỊNH NGUỒN THU GIỮA NSTƯ VÀ NGÂN SÁCH TỈNH. 
 NGÂN SÁCH TRUNG ƯƠNG NGÂN SÁCH ĐỊA PHƯƠNG 
 25 
Các khoản thu 
100% 
1.thuế GTGT hàng nhập khẩu 
2.thuế xuất, nhập khẩu 
3.thuế tiêu thụ đặc biệt (trừ 
một số mặt hàng, dịch vụ) 
4.thuế thu nhập doanh nghiệp 
của đơn vị hạch toán toàn 
nghành 
5.thu từ dầu khí 
6.thu nhập từ vốn góp của 
nhà nước, tiền thu hồi vốn 
của nhà nước từ các cơ sở 
kinh tế 
7.các khoản do Chính phủ 
vay, viện trợ không hoàn lại 
của Chính phủ các nước 
8.các khoản phí, lệ phí theo 
quy định 
9.thu kết dư NSTƯ 
10.các khoản thu khác. 
1.tiền cho thuê đất 
2.tiền cho thuê và bán nhà 
thuộc sở hữu Nhà nước 
3.lệ phí trước bạ 
4.thu từ hoạt động xổ số kiến 
thiết 
5.viên trợ không hoàn lai của 
nước ngoài trực tiếp cho địa 
phương 
6.các khoản phí, lệ phí theo 
quy định 
7.các khoản đóng góp tự 
nguỵện của cá nhân, tổ chức 
trong và ngoài nước 
8.thu kết dư NSĐP 
9.thu bổ sung từ NSTƯ 
10.các khoản thu khác theo 
quy định. 
Các khoản thu 
phân chia theo 
tỷ lệ phần trăm 
giữa NSTƯ và 
ngân sách tỉnh. 
1.thuế GTGT (trừ thuế GTGT hàng nhập khẩu và hoạt động sổ 
xố kiến thiết) 
2.thuế thu nhập doanh nghiệp (trừ các đơn vị hạch toán toàn 
ngành và hoạt động xổ số kiến thiết) 
3.thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao 
4.thuế chuyển thu nhập ra nước ngoài 
5.thu từ sử dụng vốn ngân sách của các DNNN. 
 26 
Các khoản thu 
phân chia giữa 
tỉnh, huyện, xã 
1.thuế chuyển quyền sử dụng đất 
2.thuế nhà đất 
3.thuế sử dụng đất nông nghiệp 
4.thuế tài nguyên 
5.thuế tiêu thụ đặc biệt với hàng sản xuát trng nước thu vào 
vàng mã, kinh doanh vũ trường, mát xa,… 
tỷ lệ phân chia do UBND tỉnh quy định. 
 Về các khoản chi NSNN 
 Chi NSNN là số tiền mà Nhà nước chi từ quỹ ngân sách để thực hiện 
chức năng và nhiệm vụ của mình. Có nhiều cách để xác định cơ cấu chi 
NSNN. Chẳng hạn, để thấy rõ hơn vai trò của NSNN đối với phát triển các 
ngành kinh tế đất nước, đặc biệt là các ngành mũi nhọn thì cơ cấu chi 
NSNN được phân theo ngành kinh tế quốc dân (ngành công nghiệp, nông 
nghiệp, lâm nghiệp, giao thông vận tải, thương mại, dịch vụ…). Nếu để 
đảm bảo cho Quốc hội có thể thấy rõ ngay nhuồn ngân sách phân bổ cho 
mỗi cơ quan Nhà nước, chi ngân sách Nhà nước được phân loại theo tổ 
chức của cơ quan Nhà nước (theo từng bộ, cơ quan Nhà nước Trung ương, 
cơ quan Nhà nước địa phương…). Nếu để đáp ứng yêu cầu kiểm tra, kiểm 
soát của Nhà nước đối với việc lập dự toán, quyết định dự toán, thực hiện 
phân cấp và quản lý, sử dụng kinh phí NSNN cho từng mục đích và từng 
đối tượng cụ thể, người ta phân loại theo mục đích sử dụng cuối cùng: chi 
lương, phụ cấp lương, chi mua sắm hàng hoá, dịch vụ…Nói chung, mỗi 
cách phân loại đều có mục đích và ý nghĩa riêng, chúng có nét chung là 
cho biết một cách toàn diện ảnh hưởng ngắn hạn hoặc dài hạn của việc chi 
tiêu quốc gia vào phát triển kinh tế, thấy rõ mục đích kinh tế, xã hội mà 
Chính phủ đang theo đuổi. 
 27 
 Theo luật NSNN, nội dung chi NSNN được phân loại theo tổ chức kinh 
tế, từ ngân sách trung ương đến ngân sách các cấp địa phương đều có các 
khoản chi cơ bản giống nhau: 
Chi thường xuyên: là những khoản chi hết sức cần thiết và không thể trì 
hoãn, phải thực hiện thường xuyên hàng tháng, hàng năm để duy trì sự tồn 
tại của bộ máy Nhà nước. 
Chi đầu tư, phát triển: là những khoản chi để hình thành tài sản cố định 
như mua sắm tài sản cố định, đầu tư xây dựng các công trình kinh tế mũi 
nhọn, xây dung cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội, xây dựng nhà cửa, đầu tư vào 
các động sản tài chính, sửa chữa lớn tài sản cố định, chi trả nợ gốc tiền 
vay… những khoản chi này gắn với việc điều chỉnh vĩ mô của Nhà nước, 
tạo môi trường và điều kiện cho các TPKT hoạt động và phát triển. 
 Sự khác nhau cơ bản giữa hai nhóm chỉ tiêu trên thể hiện ở chỗ: chi 
thường xuyên có tính chất tiêu hao trực tiếp, còn chi đầu tư phát triển có 
tính chất thu hồi trong những điều kiện nhất định. 
 Theo thứ tự ưu tiên thì chi thường xuyên được ưu tiên trước hết, sau đó 
mới đến chi đầu tư phát triển. Thứ tự ưu tiên này cũng chỉ có ý nghĩa tương 
đối vì nếu cứ ưu tiên chi thường xuyên dễ dẫn đến phá vỡ cơ cấu kinh tế, 
và nếu cứ ưu tiên chi đầu tư phát triển dễ đẫn đến làm tăng thâm hụt 
NSNN. 
 Cả ngân sách trung ương và ngân sách địa phương đều có hai khoản chi 
trên, tuy nhiên, giữa chúng cũng có sự khác nhau về quy mô, phạm vi của 
các khoản chi. Chi đầu tư phát triển của ngân sách trung ương là những 
khoản chi có quy mô lớn, có tác dụng đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân, 
các khoản chi này nhìn chung là khó xác định chủ đầu tư và các công trình 
phúc lợi công cộng. Còn các khoản chi của ngân sách địa phương chỉ đầu 
tư cho những công trình, mục tiêu được thực hiện trong phạm vi địa 
phương đó. Ngoài ra, có một số khoản chi thuộc đặc thù chức năng của 
 28 
ngân sách trung ương thì ngân sách trung ương đảm nhiệm: trả nợ vay, chi 
an ninh quốc phòng, chi về ngoại giao… 
Về số bổ sung từ nhân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới: 
Gồm hai loại: 
 * Số bổ sung để cân đối ngân sách gồm số bổ sung ổn định trong suốt 
thời kỳ nhất định và số bổ sung tăng thêm hàng năm một phần theo tỷ lệ 
trượt giá và một phần theo tốc độ tăng trưởng kinh tế 
 * Số bổ sung theo mục tiêu. 
 Có thể nói, với những nội dung trên, hệ thống NSNN và chế độ phân 
cấp và quản lý NSNN đã bước đầu tạo cơ sở, điều kiện, hành lang pháp lý 
cho công tác quản lý, điều hành hoạt động NSNN có hiệu lực và có hiệu 
quả, theo những chuẩn mực nhất định, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ 
của NSNN trong cơ chế kinh tế mới ở nước 
 PHÂN CẤP NHIỆM VỤ CHI NGÂN SÁCH TRUNG ƯƠNG VÀ NGÂN SÁCH 
TỈNH. 
LĨNH VỰC NGÂN SÁCH TRUNG ƯƠNG NGÂN SÁCH TỈNH 
1.Chi xây dựng cơ bản 
- Các công trình kinh tế then 
chốt quan trọng. 
- Các công trình hạ tầng cơ 
sở 
2.Chi vốn lưu động. 
3.Chi trả nợ (trong và ngoài 
nước). 
NSTƯ đảm nhận các công 
trình hạ tầng cơ sở không có 
khả năng thu hồi vốn do 
trung ương quản lý. 
Các xí nghiệp trong và ngoài 
nước do trung ương quản lý. 
Hầu hết NSTƯ đảm nhận chi 
trả nợ nước ngaòi. 
NSĐP đảm nhận các công 
trình hạ tầng cơ sở do địa 
phương quản lý. 
Các xí nghiệp do địa phương 
quản lý. 
Trả nợ trong nước, địa 
phương đảm nhận phần huy 
động xây dựng cơ sở hạ tầng. 
 29 
4.Chi dự trữ Nhà nước. 
Hầu hêt NSTƯ đảm nhiệm. 
1.C hi quản lý Nhà nước. 
2.Chi sự nghiệp kinh tế 
nông nghiệp, thuỷ lợi 
Lâm nghiệp 
Giao thông 
Kiến thiết thị chính. 
3.Chi sự nghiệp giáo dục phổ 
thông 
Chi hoạt động thường xuyên 
giáo dục 
Chi chương trình mục tiêu 
4.Chi sự nghiệp đào tạo 
Các trường đại học. 
Các trường trung học 
5.Chi y tế 
Toàn bộ bộ máy quản lý Nhà 
nước của trung ương 
Duy trì bảo vệ đê điều trung 
ương 
Duy tu, tu bổ các đường giao 
thông, các công trình kiến 
thiết do trung ương quản lý. 
Một số công trình quan trọng 
như xoá mù chữ, giáo dục 
miền núi… 
Các trường đại học đa ngành 
Một số trường PTTH khu vực 
Các cơ sở y tế chữa bệnh 
trung ương 
Nghiên cứu khoa học cơ bản 
Các sự nghiệp văn hoá quần 
chúng do trung ương quản lý 
Toàn bộ bộ máy Nhà nước 
của địa phương 
Bảo vệ đê điều, hỗ trợ làm 
thuỷ lợi, thuỷ nông 
Sửa chữa các đường giao 
thông địa phương 
Chi toàn bộ các trường tự 
tiểu học trở lên, kể cả mẫu 
giáo. 
Các trường trung học, dạy 
nghề 
Cơ sở chữa và khám bệnh do 
địa phương quản lý 
Nghiên cứu ứng dụng 
 30 
6.Chi nghiên cứu khoa học 
7.Chi văn hoá thông tin 
8.Chi thể dục, thể thao 
9.Chi quốc phòng, an ninh 
10.Chi hỗ trợ Đảng, đoàn, hội 
11.Chi trợ cấp ngân sách xã 
12.Chi khác 
Toàn bộ hoạt động chính quy 
Các tổ chức thuộc trung ương 
Tuỳ thuộc khả năng của 
NSTƯ 
Các sự nghiệp văn hoá quần 
chúng do địa phương quản lý 
Dân quân du kích và tuyển 
quân 
Các tổ chức thuộc địa 
phương 
Tuỳ thuộc vào phân bổ của 
NSTƯ 
II. Thực trạng phân cấp quản lý NSNN ở Việt nam hiện nay. 
 Phân cấp ngân sách là phân định trách nhiệm và quyền hạn, nghĩa vụ và 
lợi ích giữa các cơ quan chính quyền Nhà nước các cấp trong hệ thống 
NSNN. Tại Việt nam, kể từ sau khi có luật NSNN, cơ chế phân cấp đã có 
sự thay đổi một cách căn bản, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho chính quyền 
địa phương trong việc chủ động khai thác nguồn thu và bố trí chi tiêu. 
 Với sự thống nhất từ trên xuống về các khái niệm, nội dung, nguyên tắc 
quản lý, hệ thống NSNN đã đồng nhất cách hiểu, tư duy trong quá trình 
vận hành trong thực tế. Nét mới là ổn định nguồn thu và nhiệm vụ chi của 
mỗi cấp chính quyền theo luật (chỉ thay đổi khi Quốc hội sửa luật), khắc 
phục được tính không ổn định trong phân định nguồn thu và nhiệm vụ chi. 
Trước đây, về thu, hầu như năm nào Chính phủ cũng điều chỉnh nguồn thu, 
tỷ lệ điều tiết một số khoản thu giữa trung ương và địa phương. Việc điều 
chỉnh này chủ yếu bằng quyết định, chỉ thị (các văn bản dưới luật) của thủ 
tướng Chính phủ nên hiệu lực pháp lý không cao. Có những nguồn thu, 
năm thì để lại cho địa phương, năm thì thu về trung ương (thuế xuất, nhập 
khẩu tiểu ngạch, thu cấp quyền sử dụng đất…). Về chi, cũng thướng xuyên 
sửa đổi các nhiệm vụ chi (như chi trợ cấp khó khăn thường xuyên và đột 
 31 
xuất cho cán bộ trung ương; chi cho bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân; 
quản lý công tác định canh, định cư và xây dựng vùng kinh tế mới, đo đạc 
và quản lý ruộng đất…có năm được xác định là nhiệm vụ của trung ương, 
có năm lại là của địa phương). 
 Luật đã khẳng định nguyên tắc: ngân sách cấp trên nắm giữ các nguồn 
thu chủ yếu và đảm nhận các nhiệm vụ chi quan trọng hơn cấp dưới, các 
nguồn thu của ngân sách cấp dưới không đủ đáp ứng nhu cầu chi thì được 
cấp bổ sung và không được sử dụng ngân sách cấp nàt để chi cho nhiệm vụ 
của ngân sách cấp khác. Do đó, xét về định tính, tuy cả ngân sách trung 
ương và ngân sách địa phương (tỉnh) đều có mười khoản thu 100% nhưng 
ngân sách trung ương nắm giữ các nguồn thu quan trọng và chiếm tỷ 
trọng lớn trong cơ cấu thu của cả nước. Thực tiễn trong mấy năm gần đây, 
tỷ trọng của ngân sách trung ương chiếm khoảng 70% tỷ trọng chung của 
NSNN(năm 1999, quyết toán thu ngân sách trung ương là 58918 tỷ đồng 
và ngân sách địa phương thu là 19571 tỷ), chủ yếu là thu từ các xí nghiệp 
quốc doanh, các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (đặc biệt là lĩnh vực 
dầu khí) từ thuế xuất, nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt hàng nhập khẩu, 
thuế GTGT hàng nhập khẩu và thu từ viện trợ không hoàn lại. Từ chỗ tập 
trung các nguồn thu chủ yếu vào ngân sách trung ương nên các nhiệm vụ 
chi của nó cũng khá nặng nề (năm 1999, tổng chi ngân sách trung ương 
quyết toán là 52206 tỷ đồng và ngân sách địa phương là 38766 tỷ đồng) 
chủ yếu là chi đầu tư phát triển (xây dựng cơ bản, hỗ trợ vốn cho doanh 
nghiệp nhà nước, các chương trình quốc gia), chi trả nợ, viện trợ, chi 
thường xuyên(quốc phòng, an ninh, lương hưu, bảo đảm xã hội…). 
 Từ khi đưa luật NSNN vào thực tiễn, nhiều địa phương đã ý thức được 
trách nhiệm phải đảm bảo nguồn thu gắn với tăng trưởng và phát triển kinh 
tế ở địa phương thì mới có thể đảm nhận tốt nhiều nhiệm vị chi. Đồng thời, 
nhận thức được, khi đời sống của đại đa số nhân dân ở địa phương khá lên 
thì ngân sách địa phương mới đảm bảo được hầu hết các nhiệm vụ chi về 
giáo dục, y tế, văn hoá, xã hội…Do đó, các khoản thu của ngân sách địa 
 32 
phương nhìn chung được tập trung thu đúng, thu đủ, kịp thời, giảm bớt sự 
phân tán nguồn thu nên số thu ngày càng ổn định và nguồn thu ngày càng 
được mở rộng. 
 Luật NSNN một mặt đề cao vai trò của ngân sách trung ương, mặt khác 
để đảm bảo khả năng cân đối của ngân sách các cấp địa phương, luật đã thu 
hẹp dần các khoản thu của ngân sách trung ương được hưởng 100%. Quá 
trình thu hẹp này còn diễn ra khi Quốc hội sửa đổi luật ngân 
sách(20/5/1998), một mặt thay đổi thuế doanh thu bằng thuế GTGT, thuế 
lợi tức bằng thuế thu nhập doanh nghiệp; mặt khác điều chỉnh nguồn thu, 
nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách, trong đó hai khoản thu từ thuế sử 
dụng đất nông nghiệp và thuế tài nguyên (trừ dầu khí) được đẻe lại 100% 
cho ngân sách địa phương (theo luật cũ là phân chia giữa ngân sách trung 
ương và ngân sách địa phương). đồng thời, tăng thêm các khoản thu cho 
NSĐP, đặc biệt là cấp huyện và đô thị về thuế tiêu thụ đặc biệt (trước đây 
trung ương thu 100%), thu đối với hàng sản xuất trong nước thu vào các 
mặt hàng bài lá, vàng mã, kinh doanh vũ trường…đã tạo điều kiện làm 
phong phú nguồn thu của NSĐP. 
QUY MÔ THU NSNN 
 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 
NSĐP 38.8. 36 43.1 39.4 28.3 29.5 33 33.3 33.5 33.2 
NSTƯ 61.2 64 56.9 60.6 71.7 70.5 67 66.7 66.5 66.8 
 Bên cạnh những tỉnh đạt yêu cầu thu còn có nhiều tỉnh, thành phố thụ 
động trong khai thác các nguồn thu của mình, để tồn đọng thu trong nhiều 
năm. kết quả kiểm tra năm 1996 qua 10 tỉnh, thành phố cho thấy cả 10 tỉnh, 
thành phố chi mới thực hiện được 97.3% kế hoach thu Chính phủ giao, mà 
khả năng thực tế có thể thu hoàn thành vượt mức kế hoạch đề ra, nhiều 
nguồn thu chưa được khai thác hết. Năm 1995 (trước khi có luật) có 1/3 số 
 33 
tỉnh, thành tự cân đối được ngân sách, còn lại không tự cân đối được, 
nhưng đến năm 1997 đã có 50% số tỉnh tự cân đối được. 
 Trước thực trạng phân cấp, quản lý ngân sách đó, tình hình thu, chi 
NSNN đã đạt được nhiều kết quả: 
 Về thu NSNN không những đảm bảo đủ nguồn thu cho chi tiêu thường 
xuyên của nhà nước mà còn giành ra một phần tích luỹ cho đầu tư phát 
triển, tăng cường dự trữ, củng cố tiềm lực tài chính. Bình quân 10 năm 
(1991-2000), tỷ suất thu NSNN so với GDP đạt 20.2%, tăng khá so với 
mức 13.4% giai đoạn 1986-1990. Những năm cuối thế kỷ, quy mô của 
NSNN tăng gấp khoảng 2.6 đến 2.9 lần so với năm 1991. Xét về số tuyệt 
đối, tính theo giá hiện hành, thu NSNN năm 2000 tăng gấp 7.7 lần năm 
1999. Nếu loại trừ yếu tố lạm phát, quy mô tuyệt đôi thu NSNN vẫn còn 
tăng gấp 2.6 lần năm 1991. Trong đó, số thu từ thuế, phí và lệ phí ngày 
càng lớn và chiếm tỷ trọng quyết định trong tổng thu NSNN, bình quân đạt 
khoảng 95% đến 98% tổng thu. Thành tựu này không chỉ do luật NSNN 
đem lại mà còn đánh dấu sự tiến bộ của ngành thuế, đồng thời khẳng định 
chiều hướng phát triển đúng đắn của công cuộc chuyển đổi kinh tế, cải 
cách thuế. 
 Trong các năm 1991, 1992, tốc độ thu NSNN năm sau luôn cao hơn 
năm trước. Cao nhất là năm 1992, thu NSNN bằng 198% năm 1991. Số 
thực thu NSNN trong những năm này phản ánh rõ rệt hiện tượng tăng 
trưởng nhanh của nền kinh tế. Từ năm 1993, tốc độ tăng thu năm sau so 
với năm trước tuy vẫn tăng nhưng mức tăng lại giảm dần và chậm lại, giảm 
từ 98.1% năm 1992 so vơi năm 1991 xuống 3.1% năm 1998 so với 1997, 
sau đó lại được nhích lên và điều này được lý giải do có luật NSNN mà các 
khpản thu được tập hợp kịp thời vào NSNN. 
 Về chi NSNN: chi NSNN diễn biến thất thường trong những năm đầu 
thập niên 1990. Năm 1990, tổng chi NSNN đạt 20% GDP, năm 1991 giảm 
xuống còn 15%, sau đó lại đột ngột tăng lên tới gần 30% GDP vào năm 
 34 
1993. Đây là hậu quả của cơ chế tập trung nhưng phân tán. Trước khi có 
luật NSNN, ngân sách của mỗi cấp chính quyền gồm hai phần: của chính 
bản thân cấp chính quyền đó và của cấp dưới. Cách quản lý như vậy về 
hình thức thì tập trung nhưng trên thực tế lại rất phân tán. Trung ương chỉ 
giao nhiệm vụ thu mà không giao nhiệm vụ chi cho các địa phương. Hệ 
thống định mức tiêu chuẩn do trung ương ban hành bị vi phạm dẫn đến tuỳ 
tiện trong quản lý ngân sách, gây thất thoát và lãng phí nguồn lực. Từ năm 
1994, đặc biệt là sau năm 1995, tổng chi NSNN so với GDP liên tục giảm. 
Trong 5 năm, tỷ trọng chi NSNN đã giảm từ 29.4% GDP năm 1993 xuống 
22.7% năm 1998. Các năm 1999, 2000, dù đã áp dụng các biện pháp kích 
cầu nhưng chi so với GDP chỉ đạt 22.5%. Tuy nhiên, nếu xét cả thời kỳ 10 
năm, tính theo giá hiện hành, quy mô tuyệt đối chi NSNN năm 2000 tăng 
gấp 8.5 lần so với năm 1991. Nếu loại trừ yếu tố lạm phát, quy mô tuyệt 
đối chi NSNN năm 2000 vẫn tăng 2.9 lần năm 1991. 
 Thực tiễn cuộc sống đa dạng và phong phú hơn nhiều so với các quy 
định của luật pháp, luật NSNN cũng không phải là ngoại lệ. Trong quá 
trình thực thi luật, bên cạnh những thành tựu đạt được là những hạn chế, 
bất cập phát sinh, đặc biệt là khi luật đang ở giai đoạn còn phải tiếp tục 
xem xét và hoàn thiện, những bất cập cần phải được phát hiện và giải quyết 
kịp thời. 
II. Đánh giá thực trạng phân cấp và quản lý NSNN ở Việt nam: 
1. Bất cập giữa văn bản và thực tế áp dụng. 
 Đây là những bất cập trong quá trình triển khai, vân hành luật NSNN. 
Những nét chung là: 
 Do nền kinh tế có những biến động nên giữa văn bản và thực tế thường 
không khớp nhau, lệch pha dẫn đến sự lạc hậu, hiệu lực điều chỉnh thấp 
của nhiều văn bản khi đưa vào cuộc sống. Hơn nữa, nhiều văn bản, ngoài 
bỏ sót đối tượng điều chỉnh, chưa dự kiến hết các tác động điều chỉnh trong 
 35 
nền kinh tế, các quan hệ kinh tế quốc tế còn quy định quá chung chung nên 
thực tế việc chấp hành luật là áp dụng các văn bản dưới luật. Các văn bản 
này lại quá nhiều nên sự chồng chéo, trùng lắp, thậm chí là vô hiệu hoá quy 
định lẫn nhau là khó tránh khỏi. Một nguyên nhân khác là do năng lực của 
bản thân hệ thống. Dù chất lượng cán bộ làm công tác tài chính, kế toán, 
thuế, kho bạc nhà nước,…đã không ngừng được nâng cao, bộ máy tổ chức 
đang từng bước tinh gọn để phát huy tốt hiệu quả. Tuy vậy với yêu cầu 
quản lý NSNN trong tình hình hiện nay, đội ngũ cán bộ tài chính ở cơ sở, 
nhất là từ xã, phường đến quận, huyện, thành phố vẫn còn phải hoàn thiện. 
 Các văn bản hướng dẫn luật nói chung là luôn thiếu sự thống nhất nên 
dễ dẫn đến sự hiểu sai, hiểu nhầm, khó đưa luật vào cuộc sống, nhiều quy 
định chưa sát với thực tế, chưa chỉ rõ những quy định cũ cần bác bỏ. Ngoài 
ra, khi có luật, có nhiều điều mới song văn bản của cấp dưới, sự giải thích 
của cấp co thẩm quyền, các thủ tục hành chính lại gò bó trở lại. 
 Trên đây là những nét chung thường gặp phải nảy sinh giữa luật và thực 
tế khi áp dụng, đối với luật NSNN quy định về hệ thống và phân cấp quản 
ly NSNN có những nét riêng. 
Chế định luật về hệ thống NSNN 
 Quyết định hệ thống NSNN gồm bốn cấp: trung ương- tỉnh- huyện- xã là 
phù hợp vời Hiến pháp 1992 và luật tổ chức HĐND và UBND các cấp 
(1994), đồng thời, nó gắn với nhiệm vụ, quyền hạn của các cấp chính 
quyền. 
 Tuy nhiên, hệ thống trên là lồng ghép, thể hiện ở tính bao hàm của ngân 
sách cấp trên đối với ngân sách cấp dưới, cấp dưới lại bao hàm cấp dưới 
nữa. Nó thể hiện rõ trong quy trìng lập, duyệt, tổng hợp dự toán và phân bổ 
ngân sách, cấp trên vẫn can thiệp vào công việc của cấp dưới, trung ương 
can thiệp vào công việc của địa phương; phân bổ ngân sách cấp dưới phải 
phù hợp với ngân sách cấp trên theo từng lĩnh vực và khi tập hợp chung thì 
 36 
phải tổng mức đã được Quốc hội thông qua, không được bố trí tăng giảm 
các khoản chi trái với định mức được giao, do vậy đã không khuyến khích 
các địa phương ban hành chính sách, chế độ, biện phàp nhằm thực hiện tố 
dự toán NSNN. Mặt khác, các định mức, tiêu chuẩn do trung ương giao 
nhiều khi không sát với thực tế điạ phương. Điều này vừa hạn chế tính chủ 
động, sáng tạo của ngân sách cấp dưới vừa là nguyên nhân dẫn đến sự thoả 
hiệp, thương lượng trong quá trình lập dự toán và quá trình quản lý NSNN. 
Hiện nay, cả nước có 10387 ngân sách xã, phường, thị trấn; 604 ngân sách 
huyện quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, 61 ngân sách tỉnh, thành phố trực 
thuộc trung ương. Do có tính chất như trên nên trên thực tế, quá trình lập 
tổng hợp dự tóan NSNN rất khó đảm bảo đúng trình tự và thời gian do phải 
trải qua nhiều đầu mối và làm nhiều thủ tục phức tạp. 
 Mặc dù đã được phân định nguồn thu và nhiệm vụ chi giữa các cấp rõ 
ràng nhưng hiện nay do khả năng quản lý của một số cấp nhích quyền địa 
phương chưa tương xứng với nhiệm vụ được giao nên mức độ tự chủ ngân 
sách còn hạn chế. 
Chế định luật về phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân 
sách. 
 Với cơ chế phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa NSTƯ với ngân sách 
tỉnh, tỉnh với các cấp NSĐP khác đã có những thay đổi căn bản so với khi 
chưa có luật. Khuynh hướng chung là tăng tính chủ động nguồn thu, nhiệm 
vụ chi cho các cấp ngân sách cơ sở. 
 Về tiêu thức phân định nguồn thu. 
 Cách phân chia nguồn thu giữa các cấp ngân sách như hiện nay chủ yếu 
dựa theo tiêu thức tính chất, mức độ của các khoản thu chứ chưa thật chú ý 
đến đặc điểm của đối tượng quản lý thu. Tuy có đơn giản hơn, song nếu chỉ 
phân chia theo sắc thuế sẽ dẫn đến tình trạng một số khoản thu nhỏ, phân 
tán, khó quản lý, gắn với cấp thấp lại được phân về cho cấp cao. Điều này 
 37 
thường làm hạn chế nỗ lực của cơ quan thuế cũng như của chính quyến cơ 
sở trong việc khai thác đầy đủ nguồn thu đó, vì tâm lý của cơ quan thuế 
ngại va chạm và coi thường các nguồn thu nhỏ, lẻ, còn chính quyền cơ sở 
thì lại có thái độ thờ ơ đối với những khoản hoặc không phải của mình 
hoặc chỉ được một phần nhỏ. 
 Chẳng hạn, trong nội dung phân cấp nguồn thugiữa các cấp ngân sách, 
mỗi cấp ngân sách đếu có những nguồn thu được hưởng 100%, mặc dù 
theo nguyên tắc NSTƯ nắm giữ các nguồn thu quan trọng nhưng một số 
nguồn thu nế giao cho ngân sách cơ sở (huyện, xã) thì hiệu quả thu sẽ cao 
hơn, hạn chế được tình trạng thất thu trong thực tế. Ví dụ: 
 Đối với thuế tiêu thụ đặc biệt, trừ những khoản giành lại cho ngân sách 
đại phương (các dịch vụ tiêu thụ đặc biệt mặt hàng bài lá, vàng mã, hàng 
mã) thì còn những khoản phát sinh từ những cơ sở sản xuất kinh doanh thủ 
công, phân tán ở các xã, phường vốn là những khoản mà trung ương được 
hưởng 100% (thuế tiêu thụ đặc biệt thu từ sản xuất thuốc lá, rượu, bia…). 
Do đó, sự thất thu từ những khoản này là điều dễ hiểu. 
 Thuế GTGT (không kể thuế GTGT đối với hàng nhập khẩu) và thuế thu 
nhập doanh nghiệp (trừ thuế thu nhập doanh nghiệp của những doanh 
nghiệp hạch toán toàn ngành) là khoản thu được phân chia theo tỷ lệ phần 
trăm giữa trung ương và cấp tỉnh. Theo luật thì trung ương và tỉnh hưởng 
mỗi bên một phần từ những khoản thu này. Đối với tỉnh và trung ương thì 
đâp là khoản chiếm tỷ trọng nhỏ ngưng đối với ngân sách huyện, xã thì đây 
lại là nguồn thu quan trọng. Song, tính chất quan trọng của nó lại phụ thuộc 
vào tỷ lệ điều tiết phân chia mà cấp trên quy định cho họ được hưởng. Nếu 
tỷ lệ này càng xa 100% bao nhiêu thì nỗ lực tìm cách tăng thu của họ càng 
giảm đi bấy nhiêu. 
 Việc ổn định nguồn thu lâu dài cho địa phương. 
 38 
 Việc ổn định nguồn thu lâu dài cho địa phương là bước tiến rất quan 
trọng trong luật NSNN, được pháp lý hoá ở mức cao nên tạo điều kiện cho 
địa phương chủ động xây dựng, bố trí và điều hành nhân sách cấp mình. 
Tuy nhiên, cơ cấu nguồn thu và nhiệm vụ chi của NSĐP không chỉ phụ 
thuộc vào sự tăng trưởng kinh tế mà còn bị tác động rất nhiều của các yếu 
tố ngoại lai nên việc ổn định này đôi khi gây bị động cho cả trung ương và 
địa phương. 
 Qua nghiên cứu lịch sử chế độ phân cấp trước đây thấy rằng: chế độ 
phân cấp quản lý NSNN đều ra đời trong điều kiện kinh tế tương đối ổn 
định (mặc dù là sự ổn định trong bao cấp) và phù hợp với những mục tiêu, 
nhiệm vụ đặt ra trong mỗi thời kỳ. Chẳng hạn, với chủ trương xây dựng 
huyện thành “pháo đài Xã hội chủ nghĩa” dựa trên cơ chế quản lý kinh tế 
kế hoạch hoá toàn diện và trực tiếp đã là một trong những nguyên nhân ra 
đời Nghị quyết 108/CP (năm 1976) về phân cấp ngân sách cho địa phương 
mà nét nổi bật là phải tạo cho huyện trở thành một cấp ngân sách độc lập. 
Thế nhưng, kế hoạch 5 năm (1976-1980) không đạt được mục tiêu, tốc độ 
phát triển kinh tế chậm lại và đến cuối kỳ kế hoạch, đất nước bắt đầu lâm 
vào khủng hoảng. Trong bối cảnh đó, quan hệ NSTƯ và NSĐP lại thêm 
căng thẳng mà nhiều nhà quản lý và khoa học đánh giá nổi bật là hiện 
tượng “phá rào” của nhiều địa phương. 
 Tiếp theo thời kỳ suy thoái, bước vào thập kỷ 80, nền kinh tế nước ta có 
dấu hiệu đi lên, có những điểm sáng nhất định do thực hiện cơ chế khoán 
trong nông nghiệp (nghị quyết 10 và chỉ thị 100), nghị quyết 125/CP về kế 
hoạch ba phần trong công nghiệp đã tác động vào cơ chế phân cấp quản lý 
NSNN. Yêu cầu về ổn định nguồn thu cho NSĐP lại nổi lên và nghị quyết 
138/CP (năm 1983) ra đời. Theo đó tỷ lệ điều tiết được giữ ổn định từ 3 
đến 5 năm. Đến năm 1985, cuộc tổng điều chỉnh giá- lương- tiền đã làm 
đảo lộn toàn bộ cơ cấu thu chi NSNN. Việc vận hành cơ chế giá không 
thống nhất giữa các địa phương dẫn tới tình trạng giành giật nguồn thu qua 
chênh lệch giá của NSNN. Khi nguồn chênh lệch giá giảm dần thì các địa 
 39 
phương đề nghị sửa lại tỷ lệ điều tiết, sửa không chỉ một lần một năm mà 
thậm chí hai, ba lần một năm. 
 Như vậy, trong lịch sử phân cấp quản lý NSNN đã có ổn định nguồn 
thu và nhiệm vụ chi và tỷ lệ điều tiết từ 3 đến 5 năm cho chính quyền địa 
phương. Thế nhưng, việc thực hiện đã không mang lại kết quả như mong 
muốn, một phần do nên kinh tế còn đang trong giai đoạn khủng hoảng, một 
phần chưa có cơ sở pháp lý tối cao để đảm bảo chắc chắn việc ổn định nên 
khi thực hiện chỉ mang tính hình thức, nửa vời. Thêm vào đó, mục đích của 
ổn định nguồn thu là để đảm bảo NSĐP chủ động xây dựng, bố trí và điều 
hành ngân sách cấp mình, tuy nhiên trên thực tế, luật vẫn chưa tạo được thế 
chủ động thực sự cho các cấp ngân sách ở địa phương, đáng chú ý nhất là 
cơ sở để tính toán, phân bổ để giao nhiệm vụ thu chi cho các ngành, cấp 
chưa đầy đủ và chính xác. Vì vậy, việc phân cấp nhiệm vụ thu chi cho các 
cấp, ngành, tỉnh còn chưa thực hiện ổn định được tối thiểu 3 năm theo quy 
định của luật NSNN. 
 Về vấn đề tỷ lệ phần trăm phân chia các khoản thu giữa các cấp ngân 
sách. 
 Sẽ hết sức phức tạp nếu thực hiện đầy đủ những quy định về tỷ lệ phần 
trăm phân chia cho các cấp NSĐP. Theo điều 39 của luật NSNN và điều 28 
của Nghị định 87/CP (19/12/1996) và Nghị định 51/1998/NĐ-CP 
(18/7/1998) thì ngân sách các địa phương có thể có các loại tỷ lệ sau đây: 
 * Tỷ lệ phân chia cho ngân sách từng tỉnh về 5 khoản thu: thuế GTGT, 
thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, 
thuế chuyển thu nhập ra nước ngoài, thuế về sử dụng vốn ngân sách. Các tỷ 
lệ này do Chính phủ quy định cho từng tỉnh, thành phố và là tỷ lệ thống 
nhất cho cả 5 khoản thu thuộc diện phân chia. 
 * Tỷ lệ phân chia giữa ngân sách tỉnh với ngân sách từng huyện, quận, 
thị xá, thành phố thuộc tỉnh và ngân sách xã, phường, thị trấn đối với một 
 40 
phần của 5 khoản thu mà ngân sách càp tỉnh được phân chia; tỷ lệ này do 
chính quyền tỉnh quy định. 
 * Tỷ lệ phân chia giữa ngân sách tỉnh với ngân sách từng huyện, quận, 
thị xã, thành phố thuộc tỉnh và ngân sách xã, phường, thị trấn đối với 7 
khoản thu thuộc loại phân chia giữa ngân sách các cấp này (thuế sử dụng 
đất nông nghiệp, thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế tài nguyên, thuế nhà 
đất, tiền sử dụng đất, lệ phí trước bạ nhà đất, thuế tiêu thụ đặc biệt hàng 
sản xuất trong nước thu vào một số mặt hàng); tỷ lệ này do cấp tỉnh quy 
định. 
 Rõ ràng là việc xác định tỷ lệ điều tiết phân chia cho từng địa phương 
hết sức phức tạp. Để việc tính toán chính xác đòi hỏi phải có sự trung thực 
của từng địa phương và cán bộ phải có năng lực, trình độ chuyên môn. 
 Về phân định chi và tính toán số bổ sung: 
 Đối với nhiệm vụ chi có tính chất không thường xuyên hoặc các khoản 
chi đột xuất phát sinh thì chưa có cơ sở để xác định nhu cầu chi loại này. 
Đồng thời, việc ổn định nhu cầu chi này từ 3 đến 5 năm liệu có vững chắc 
hay không? Nếu không vững chắc thì khó có thể ổn định được số bổ sung 
từ ngân sách cấp trên. nhu cầu chi cũng như số bổ sung từ ngân sách cấp 
trên được xác định cho năm đầu tiên của thời kỳ ổn định nên việc bảo vệ 
được kế hoạch trong giai đoạn này là hết sức quan trọng đối với địa 
phương. Nếu nhiệm vụ chi bảo vệ ở mức cao, dự kiến nhiệm vụ thu cố 
định ở mức khiêm tốn thì tỷ lệ phân chia các khoản thu giành cho địa 
phương hoặc số được cấp bổ sung sẽ lớn. Trên thực tế, những căn cứ tính 
toán số bổ sung phần lớn mang nặng tính chất ước lệ, chủ yếu là định tính, 
phụ thuộc nhiều vào ý muốn chủ quan của người lập, cơ quan duyệt, thiếu 
các chuẩn mực định lượng (địa phương được bổ sung phải có dân số là 
bao nhiêu, mức thu nhập bình quân đầu người, trình độ học vấn, sức khoẻ, 
vị trí địa lý, mức độ cung cấp các dịch vụ, số thuế tính trên đầu người…). 
Do vậy, việc ổn định số bổ sung từ 3 đến 5 năm có thể đem lại tác động 
 41 
không mong muốn vì địa phương nào thương lượng tốt ngay từ khâu đầu, 
có lợi thì yên tâm hưởng lợi trong 3 đến 5 năm; ngược lại, địa phương nào 
thương lượng yếu thì đành chịu thiệt thòi cũng trong từng ấy năm để chờ 
đến thời kỳ ổn định sau. 
 Về cơ chế tính thưởng vượt quá dự toán thu. 
 Đây là vấn đề phải xem xét lại. Theo khoản 4 điều 62 của luật NSNN 
thì cơ sở chủ yếu của quy định này là nhằm tạo đòn bẩy vật chất kích thích 
các địa phương tăng cường hơn nữa các biện pháp quản lý để tăng thu đối 
với các khoản thuộc diện phân phố giữa trung ương và tỉnh. Theo quyết 
định của Thủ tướng Chính phủ số 03/2000/QĐ_TTg (4/1/2000) về cơ chế 
thưởng và cấp lại do thực hiện vượt dự toán thu năm 2000 cho địa phương 
thì đối với thuế tiêu thụ đặc biệt hàng sản xuất trong nước sẽ thưởng 100% 
số vượt dự toán; đối với thuế xuất nhập khẩu và tiêu thụ đặc biệt hàng nhập 
khẩu, số vượt dự toán từ 20 tỷ trở lên do Chính phủ giao được hưởng 
100%, trên 20 tỷ thưởng thêm 50% số vượt thêm và tổng số thưởng tối đa 
là 50 tỷ. Thoạt nhìn thì có vẻ hợp lý, song xem xét kỹ thì ngược lại và 
không khoa học. 
 * Thuế xuất nhập khẩu và tiêu thụ đặc biệt phát sinh bao nhiêu trước 
hết phụ thuộc vào chính sách thuế đã ban hành. Về mặt luật pháp nói 
chung cũng như theo luật NSNN nói riêng thì không thể cho phép thu 
nhiều hơn hoặc ít hơn so với luật định. 
 * Số thu này phụ thuộc vào tình hình xuất nhập khẩu, tình hình sản 
xuất kinh doanh các mặt hàng chịu thuế, đây là yếu tố hoàn toàn khách 
quan đối với ngành thuế. Số thu này có tăng lên so với trước cũng không 
phải nỗ lực chủ quan của các cơ quan địa phương. 
 * Dự toán thu chi là dự báo ước lượng, con số này thường cao hay thấp 
hơn thực tế. Do đó không là cơ sở để đánh giá thành tích được. Khi đã coi 
dự toán là cơ sở đánh giá thành tích sẽ dẫn đến co kéo trong quá trình lập 
dự toán, giao chỉ tiêu kế hoạch giữa trung ương và các tỉnh vì thiếu cơ sở 
 42 
để xác định số dự toán một cách chính xác và vì việc này đụng chạm đến 
lợi ích các bên liên quan. Sẽ không có địa phương nào muốn dự toán thu 
các khoản thuế cao hơn. Dự toán càng thấp thì càng có cơ hôị được hưởng 
khoản trích thưởng. Việc trích thưởng không phải lúc nào cũng đem lại 
được kết quả kích thích xuôi chiều vì mối lợi do trích thưởng là mối lợi 
chung của địa phương. Đôi khi, sức hút của quyền lợi chung bị ảnh hưởng, 
chi phối và bị điều khiển bởi những vụ lợi riêng trong quá trình hành thu 
làm cho việc tăng thu so với dự toán không còn là mục tiêu hấp dẫn nữa. 
 Chế định luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, chủ tịch nước, 
chính phủ và các cơ quan khác của Nhà nước và trách nhiệm của các tổ 
chức cá nhân về NSNN. 
 Có thể nói, luật đã quy định một cách tương đối rõ ràng về nhiệm vụ, 
quyền hạn của các cơ quan chính quyền nhà nước trong lnhx vực NSNN. 
Đặc biệt đối với HĐND và UBND các cấp đã có sự đổi mới theo hướng 
tăng tính tự chủ, sáng tạo của địa phương trong việc phát huy tiềm năng 
hiện có, bồi dưỡng và tăng thu cho ngân sách cấp mình, từ đó, chủ động bố 
trí chi tiêu hợp lý, có hiệu quả theo kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của 
địa phương, phù hợp với quy hoạch tổng thể về chế độ thu chi thống nhất 
trong cả nước. Điều này cơ bản phù hợp với phương hướng đổi mới chức 
năng, nhiệm vụ của HĐND và UBND được Quốc hội và Chính phủ đề ra 
trong kỳ hội nghị HĐND và UBND toàn quốc. 
 Tuy nhiên, trên thực tế, sự phối hợp giữa các cơ quan còn nhiều hạn 
chế; một số nhiệm vụ, quyền hạn còn mang tính hình thức; một số quan hệ, 
chức năng và nhiệm vụ chưa rõ ràng, nhất là trong quá trình phân bổ 
NSNN do nhiều cơ quan đều muốn tham gia vào quá trình này đã làm mờ 
nhạt vai trò của cơ quan Tài chính (ví dụ trong việc phân bổ NSNN theo 
lĩnh vực chi đầu tư xây dựng cơ bản và chi chương trình quốc gia hiện vẫn 
có sự chia sẻ trách nhiệm giữa ba cơ quan: Bộ kế hoạnh và đầu tư, Bộ tài 
chính, Cơ quan quản lý chương trình quốc gia). 
 43 
 Tai các địa phương, hoạt động của HĐND và UBND còn phải xét lại. 
Chẳng hạn ở khâu chấp hành NSNN, luật quy định sau khi dự toán NSNN 
được Quốc hội quyết định, căn cứ các nhiệm vụ thu chi được cấp trên giao, 
UBND trình HĐND cùng cấp quyết định dự toán NSĐP và phương án 
phân bổ ngân sách cấp mình. Như vậy là có sự trùng lặp. Quốc hội đã 
quyết định dự toán trong đó bao hàm cả NSTƯ và NSĐP, vậy việc HĐND 
quyết định lại dự toán NSĐP chỉ là hình thức và thực tế quyền quyết định 
dự toán và phân bổ NSĐP của HĐND chỉ là “ hư quyền”...đó cũng là một 
trong các lý do làm HĐND chưa phát huy được vai trò cơ quan quyền lực 
nhà nước ở địa phương và theo nhiều ý kiến thì HĐND chỉ là “ bình hoa 
chậu cảnh” trong hoạt động của bộ máy nhà nước ở địa phương. 
 Việc điều hành của UBND các cấp nhiều nơi chưa phát huy được nhân 
tố tích cực và hạn chế tự phát tiêu cực của kinh tế thị trường trên địa bàn 
lãnh thổ. Quản lý vốn, đất đai, tài sản nhà nước chưa chặt chẽ để thất thoát, 
lãng phí nghiêm trọng, quyền làm chủ của nhân dân bị vi phạm ở nhiều 
nơi, chưa phát huy hết khả năng của các TPKT trên địa bàn. 
 Quan hệ cộng tác,lề lối làm việc giữa các cơ quan cấp trên, cấp dưới 
chưa đủ sáng tỏ cũng hạn chế tác động của NSNN. Chẳng hạn việc xác 
định tỷ lệ phân chia các nguồn thu hoặc số bổ sung từ ngân sách cấp trên 
cho ngân sách cấp dưới chỉ là kỹ thuật cân đối ngân sách, nhưng việc quyết 
định số bổ sung lại do Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc HĐND quyết 
định, đã tạo ra sự thiếu thống nhất trong thẩm quyền quyết định NSNN. 
Chế định luật về dự phòng ngân sách và quỹ dự trữ tài chính. 
 Thực tế cho thấy việc lập dự toán NSNN không thể dự kiến hết được 
các nhu cầu chi trong năm. Hơn nữa, việc đề phòng những bất trắc có thể 
xảy ra như thiên tai, địch hoạ…nên dự phòng và dự trữ tài chính là cần 
thiết. 
 Theo quy định tại điều 9 luật NSNN thì dự toán chi NSTƯ và NSĐP 
phải bố trí khoản dự phòng từ 3 đến 5 % tổng số chi để đáp ứng các nhu 
 44 
cầu chi phát sinh đột xuất trong năm ngân sách. Chính phủ, UBND cấp 
tỉnh được lập quỹ dự trữ tài chính từ các nguồn tăng thu, kết dư ngân sách 
và bố trí trong dự toán chi ngân sách hàng năm. Quỹ dự trữ tài chính được 
sử dụng để đáp ứng các nhu cầu chi khi nguồn thu chưa được tập trung kịp 
thời và phải hoàn trả ngay trong năm ngân sách. 
 Quỹ dự phòng và dự trữ tài chính có vai trò hết sức quan trọng đảm bảo 
cho việc điều hành NSNN chủ động, hạn chế nhiều bất lợi từ khách quan. 
Tuy nhiên việc sử dụng quỹ dự trữ ở địa phương còn hết sứ tuỳ tiện, sai 
mục đích thâm chí còn cho vay nợ kéo dài nhiều năm chưa thu hồi được 
gây thất thoát hàng tỷ đồng. 
 Mặt khác, trước đay quỹ dự trữ tài chính chỉ được hình thành từ nguồn 
kết dư, nay theo luật đã được mở rộng nhiều nguồn hơn nhưng theo phản 
ánh của nhiều địa phương do phải đáp ứng nhu cầu chi đúng, chi đủ và kịp 
thời trong khi nguồn thu NSNN không dàn đều trong năm nên thường 
xuyên quỹ này bị thâm hụt. 
2. Nguyên nhân: 
 Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại trên có thể quy thành hai 
nguyên nhân về mặt khách quan và chủ quan như sau: 
 * Về mặt khách quan: do tổ chức hệ thống hành chính ở nước ta chưa 
phù hợp, chức năng, nhiệm vụ của mỗi cấp chính quyền chưa sát với thực 
tế quản lý trên địa bàn lãnh thổ nên phần nào gây khó khăn cho việc phân 
cấp quản lý NSNN; hơn nữa cũng chưa tiến hành việc phân loại các đơn vị 
hành chính theo những tiêu thức như quy mô, diện tích, dân số, chỉ số phát 
triển…để làm cơ sở cho phân cấp NSNN công bằng hợp lý hơn cũng như 
bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới. Việc cơ cấu lại bộ 
máy hành chính nột cách khoa học, phù hợp với đòi hỏi để khắc phục 
những bất cập trong chế độ phân cấp quản láy NSN là quan trọng. 
 * Về mặt chủ quan có thể có nhiều nguyên nhân như do nguồn thu phân 
định giữa các cấp ngân sách còn chưa thích hợp nên chưa khuyên khích, 
 45 
tạo động lực để địa phương tăng thêm nguồn thu cho ngân sách cấp mình 
và quan tâm đến nguồn thu chung; do nhận thức chưa đủ về luật NSNN 
nên nhiều nơi vẫn làm theo truyền thống và cách suy nghĩ của riêng mình; 
do việc hướng dẫn thực hiện còn chậm trễ, một số khiếm khuyết trong các 
văn bản pháp quy. 
 46 
 CHƯƠNG III: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CHẾ ĐỘ 
PHÂN CẤP QUẢN LÝ NSNN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY. 
 Phân cấp quản lý NSNN là vấn đề lớn, phức tạp đòi hỏi phải được 
nghiên cứu giải quyết thoả đáng theo nguyên tắc rõ ràng, ổn đinh, công 
bằng, hợp lý, đảm bảo lợi ích của cả trung ương và địa phương. Nghị quyết 
Trung ương 3 (khoá VIII) nêu: ”phân định trách nhiệm, thẩm quyền giữa 
các cấp chính quyền theo hướng phân cấp rõ hơn cho địa phương, kết hợp 
chặt chẽ quản lý ngành và quản lý lãnh thổ, thực hiện đúng nguyên tắc tập 
trung dân chủ” đã cho thấy quan điểm đổi mới phân cấp quản lý NSNN 
hiện nay không chỉ nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp thúc đẩy tăng trưởng 
kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc, mà còn phải khuyến khích 
và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các cấp chính quyền địa phương làm chủ 
ngân sách cấp mình. 
 Xuất phát từ nhận thức về đặc điểm và tính chất của pháp luật, việc tôn 
trọng các quy định của luật NSNN là hết sức cần thiết, đảm bảo sự hiện 
hữu của pháp chế tài chính. Song để xử lý những bất cập đã nêu trong giai 
đoạn hiện nay,ngoài việc vân dụng những quy định đã có trong luật NSNN 
và các luật có liên quan thì cũng không loaị trừ khả năng xem xét vận 
dụng đặc điểm hoàn cảnh cụ thể, những chính sách, chế độ và những quy 
định khác. Bởi vì thực tiễn cuộc sống đa dạng và phong phú hơn nhiều so 
với quy định của luật pháp. Trong nhiều tình huống thường nảy sinh xung 
đột giữa “cái hợp pháp” và “cái hợp lý”, khi vận dụng cái này thì không 
đạt được cái kia và ngược lại. 
 Nếu căn cứ vào tính chất của các quan hệ mà luật NSNN điều chỉnh, có 
thể thấy nổi bật hai quan hệ: 
 - Quan hệ giữa ngân sách các cấp trong việc phân định nguồn thu, 
nhiệm vụ chi, số bổ sung, tỷ lệ điều tiết… 
 - Quan hệ về lập, chấp hành, quyết toán NSNN. 
 47 
 Những vấn đề bất cập nảy sinh cũng xoay quanh hai mối quan hệ này. 
Đối với mỗi quan hệ có những phương án giải quyết các bất cập khác 
nhau.Trong khuôn khổ bài viết này sẽ đề xuất một số giải pháp nhằm giải 
quyết bất cập liên quan đến mối quan hệ đầu tiên. 
 Hoàn thiện NSĐF trên cơ sở xoá bỏ dần tính bao hàm của NS cấp 
trên đối với ngân sách cấp dưới: 
 Giải quyết vấn đề này thực chất là giải quyết mối quan hệ giữa 
chính quyền Trung ương và chính quyền đia phương (tỉnh, huyện, xã). Các 
nước có một nguyên tắc rất quan trọng trong việc hoàn thiện NSĐF là đảm 
bảo cho địa phương có tính chủ động, độc lập quyết định và xây dựng ngân 
sách cấp mình trên cơ sở luật pháp ổn định, thống nhất. 
 Tuy mỗi nước có một bộ máy hành chính được tổ chức khác nhau, song 
nhìn chung trên thế giới có hai hình thức tổ chức nhà nước cơ bản: Nhà 
nước liên bang và Nhà nước đơn nhất. Theo đó, hệ thống NSNN được chế 
định trong luật cũng có hai xu hướng khác biệt: đối với nhà nước liên bang 
thì quản lý NSNN theo xu hướng phân quyền (Đức, Mỹ…); đối với nhà 
nước đơn nhất thì lại quản lý NSNN theo xu hướng tập quyền (Pháp, 
Nhật…). 
 Trong bối cảnh quốc tế hoá sâu rộng, lựa chon mô hình tổ chức bộ máy 
nhà nước thích hợp là công việc hết sức khó khăn. Việc quản lý NSNN ở 
bất kỳ nhà nước tổ chức theo hình thức nào cũng có sự phân công trách 
nhiệm và quyền hạn giữa chính quyền các cấp. Đối với các nước có hệ 
thống luật pháp hoàn chỉnh thì việc phân định này khá dễ dàng,song nó thật 
sự là một phức tạp đối với những nước còn thiếu luật hoặc luật pháp không 
đồng bộ. Nhìn chung, luật pháp các nước đều quy định mỗi cấp chính 
quyền là một cấp NS. Các cấp NS có quyền độc lập với nhau và độc lập 
tương đối với NSTƯ, được tự lập, xét duyệt và tự quản lý NS cấp mình. 
Tuy nhiên, luật pháp các nước cũng ghi nhận NSTƯ đóng vai trò chủ đạo, 
tức là có các nguồn thu quan trọng nhất đống thời phải đảm nhận các 
 48 
nhiệm vụ chi chủ yếu. Tính ràng buộc của NSĐP vào NSTƯ thể hiện ngoài 
sự ràng buộc pháp luật thì về mặt kinh tế, NSĐP được nhận trợ cấp từ 
NSTƯ dựa trên cơ sở tuân thủ những nguyên tắc, chuẩn mực rõ ràng, hợp 
lý và những đIều kiện nhất định. 
 Tại Việt nam, mối quan hệ giữa chính quyền trung ương và chính quyền 
địa phương trong quản lý NSNN là vấn đề được lưu tâm từ nhiều năm nay. 
Quan điểm của Đảng và nhà nước ta trong việc xử lý mối quan hệ giữa 
trung ương và địa phương là tăng cường tính tập trung thống nhất, tính liên 
tục của điều hành vĩ mô, lãnh đạo tập trung đi đôi với việc mở rộng trách 
nhiệm và quyền hạn của địa phương đối với những vấn đề mà các cấp địa 
phương có khả năng xử lý có hiệu quả. Như vậy, tính tập trung thống nhất 
theo quan điểm hiện nay là hoàn toàn khác về chất so với cơ chế tập trung 
quan liêu bao cấp trước đây đã hạn chế tính chủ động, năng động của cấp 
địa phương và cơ sở. Tập trung để tạo ra sức mạnh tăng trưởng kinh tế và 
giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc. 
 Dựa trên những quy định của Hiến pháp năm 1992 thể chế hoá cơ chế 
phân công, phân nhiệm thẩm quyền và sự phối hơp giữa các cơ quan nhà 
nước trung ương và địa phương sẽ là cơ sở cho việcđổi mới một cách cơ 
bản hệ thống chính quyền địa phương hiện nay. Và phương hướng của kế 
hoạch đổi mới này là phải đảm bảo tính chất đồng bộ và hệ thống và có căn 
bản chứ không phải là cục bộ, chắp vá thì mới có thể khắc phục được 
những nhược điểm hiện nay về hành chính và đảm bảo tính hiệu quả của 
NSNN trong tương lai. 
 Trước tiên, cần đẩy mạnh việc thực hiện các giải pháp đã được Chính 
phủ đề ra trong Hội nghị HĐND và UBND toàn quốc (9/1998), cụ thể là: 
 -Tiến hành phân loại các đơn vị hành chính theo quy mô, diện tích, 
dân số và đặc điểm, chỉ số phát triển kinh tế, xã hội làm cơ sở cho việc xây 
dựng chính sách cho phù hợp với từng loại đơn vị hành chính. 
 49 
 -Tổ chức một cách tinh gọn, hợp lý bộ máy chính quyền, không nhất 
thiết trung ương có bộ, ngành nào thì địa phương cũng phải có sở, ban, 
ngành tương ứng và không nhất thiết ở địa phương nào cũng có cơ quan 
chuyên môn thuộc UBND như nhau. 
 - Thí điểm mô hình tổ chức bộ máy hành chính đô thị, bộ máy hành 
chính nông thôn để nâng cao hiệu quả hoạt động của chính quyền địa 
phương. 
 - Kiện toàn chính quyền cơ sở, nhất là xã, phường, thị trấn đảm bảo 
thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn được giao, phát huy dân chủ ở cơ sở, bố 
trí lại cán bộ phù hợp với đặc điểm tình hình, dân số ở từng cấp và phù hợp 
với khả năng của NSĐP. 
 - Hình thành hệ thống hành chính ổn định, chuyên môn hoá cao trên cơ 
sở phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, nội dung cụ thể của chính quyền các 
cấp trong quản lý kinh tế, xã hội, tạo điều kiện cho địa phương phát huy 
tiềm năng, thế mạnh trên địa bàn lãnh thổ. 
 Mặt khác, cần tổ chức bộ máy chính quyền địa phương theo hướng lấy 
nguyên tắc tập trung dân chủ làm nguyên tắc chủ đạo, đồng thời vận dụng 
những mặt hợp lý của những nguyên tắc mới: nguyên tắc tự quản với mục 
tiêu làm cho chính quyền trung ương chỉ nên tập trung sức lực của mình 
vào những chức năng, nhiệm vụ có tính chất chiến lược, hàm lượng chất 
xám cao với những trách nhiệm và thẩm quyền dứt khoát và sòng phẳng. 
 Về phương diện hệ thống NSNN, mặc dù luật NSNN đã quy định rõ về 
số cấp ngân sách hiện nay, nhưng vẫn còn rất nhiều người quan tâm đến 
vấn đề này, thậm chí có một số ý kiến và đưa ra các giai pháp để hạn chế 
số cấp đó. Đó cũng có thể coi là vấn đề cần cân nhắc nhưng vấn đề quan 
trọng nhất không phải là số cấp mà là hiệu quả hoạt động của chúng. Thực 
tiễn ở nhiều nước cho thấy, có nước số cấp ngân sách nhiều nhưng hoạt 
động rất có hiệu quả, ngược lại có nước có số cấp ngân sách ít nhưng hoạt 
 50 
động lại không có hiệu quả. Hiệu quả hoạt động đó phụ thuộc vào nhiều 
nhân tố mhưng trước hết là chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền của các 
cấp hành chính đại phương có rõ ràng, mạch lạc theo thuyết dọc và sự phối 
hợp ngang hay không? Có tính độc lập tương đối trong thực hiện nhiệm vụ 
hay không? Chức năng, nhiệm vụ đó có được trọn gói hay không? Đó là 
những đIều kiện căn bản để đánh giá chất lượng hoạt động của chính 
quyền đại phương một cách chính xác. 
 Dựa trên duy trì số cấp chính quyền hiện nay (4 cấp), hệ thống NSNN 
cũng nên duy trì như hiện nay (4 cấp NS). Chỉ có điều phải định rõ chức 
năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của mỗi cấp chính quyền phù hợp với thực tế 
quản lý trên địa bàn. Nhiệm vụ cụ thể của các cấp chính quyền đại phương 
nên chia làm 3 loại: 
- Những nhiệm vụ bắt buộc gắn với nguồn tài chính công. 
- Những nhiêm vụ bắt buộc gắn với nguồn tài chính công bổ sung 
của cấp trên uỷ quyền cho cấp dưới nhằm bỏ đi lối làm việc không công. 
- Những nhiệm vụ có tính tự quản do chính quyền từng cấp đề ra và 
tự quyết định phù hợp với đặc thù của địa phương và không trái với pháp 
luật. 
 Như vậy, chính quyền địa phương là bộ phận không thể thiếu được 
trong kết cấu của bộ máy nhà nước, đồng thời đảm bảo được các nguyên 
tắc sau: 
- Trung ương lãnh đạo thống nhất theo hiến pháp và pháp luật. 
- Địa phương có quyền chủ động trong khuôn khổ pháp luật. 
- Địa phương chịu sự kiểm tra, giám sát của trung ương. 
 Như vậy, cần đổi mới một cách căn bản và sâu sắc tổ chức bộ máy của 
hệ thống hành chính mới góp phần khắc phục sự lồng ghép can thiệp của 
 51 
cấp trên vào cấp dưới, thực sự tạo điều kiện cho ngân sách cấp dưới quyền 
chủ động sáng tạo, khai thác, quản lý, bồi bổ nguồn thu và bố trí nhiệm vụ 
chi hợp lý. Chỉ có điều cần được thể chế hoá bằng các quy định của luật 
pháp. 
 52 
 Cải cách hệ thống quản lý thuế: 
 Quản lý thuế thực chất là quản lý nguồn thu của NSNN vì thuế là 
nguồn thu chủ yếu của NSNN. Mục tiêu chính của cải cách quản lý thuế 
trong giai đoạn này là thúc đẩy sự tuân thủ tự nguyện các quy định về thuế 
của đối tượng nộp thuế, tăng cường hiệu quả công tác quản lý thuế và công 
tác thanh tra, kiểm tra thuế, thực hiện tự động hoá công tác xử lý thông tin 
thuế phát hiên nhanh chóng các trường hợp vi phạm về thuế mhằm hạn chế 
tình trạng trốn thuế, đảm bảo tăng thu cho NSNN. 
 Những đặc điểm của hệ thống quản lý thu thuế trong giai đoạn là: 
 Hệ thống thông tin tuyên truyền về thuế phải đầy đủ và thuận lợi cho đối 
tượng nộp thuế (ĐTNT), hệ thống chính sách, thủ tục và các mẫu biểu quy 
đinh về thuế phải đơn giản, dễ hiểu, đơn nghĩa đẻ ĐTNT có đủ khả năng 
thực hiện việc tự tính thuế, tự khai thuế của mình một cách chính xác, đầy 
đủ. 
 Hệ thống xử lý thông tin thuế trên máy tính là một yếu tố không thể thiếu 
được trong công tác quản lý hiện đại trên cơ sở tự tính thuế. Máy tính sẽ 
thực hiện đúng các chức năng tính toán theo các quy định về thuế, tính nợ, 
tính phạt với tốc độ nhanh chóng và chính xác, loại bỏ yếu tố chủ quan của 
cá nhân và phát hiện nhanh chóng những trường hợp không tuân thủ các 
quy định về thuế. 
 Việc áp dụng các hình thức phạt đối với các hành vi vi phạm sẽ được thực 
hiện nghiêm minh với sự trợ giúp đắc lực của hệ thống máy tính kịp thời 
cung cấp các thông tin về các trường hợp vi phạm về thuế (không kê khai 
thuế, kê khai sai thuế, không nộp đủ tiền thuế…). 
 Công tác thanh tra, kiểm tra về thuế phải được tăng cường cùng với việc 
xây dựng hệ thống tự động phân tích thông tin, chọn lựa đối tượng cần 
kiểm tra, thanh tra thuế. Ngành thuế sẽ thực hiện cưỡng chế thuế đối với 
 53 
hành vi vi phạm để tăng cường tính hiệu lực của các quyết định xử phạt 
hành chính về thuế. 
 Cơ cấu tổ chức quản lý thu thuế của ngành thuế được xây dựng theo 
nguyên tắc chức năng, mỗi bộ phận khác nhau sẽ thực hiện các chức năng 
khác nhau trong quy trình quản lý thu thuế, giảm thiểu mối quan hệ trực 
tiếp giữa cá nhân cán bộ thuế với ĐTNT trong trường hợp ĐTNT chấp 
hành đúng các quy định về thuế. Trình độ cán bộ thuế được nâng cao và 
chuyên môn hoá theo từng chức năng. 
 Mô hình của hệ thống quản lý thu thuế trong giai đoạn này như sau: 
 Các doanh nghiệp và hộ kinh doanh lớn sẽ thực hiện tự tính, tự khai thuế. 
Các hộ kinh doanh nhỏ nộp thuế theo mức ấn định thuế của cơ quan 
thuếvới thủ tục nộp đơn giản (mưcs thuế được xác định trên cơ sở điếu tra 
kết quả kinh doanh trung bình năm). Mức thuế ấn định sẽ duy trì trong thời 
gian một năm. 
 Tất cả các đối tượng tự giác nộp thuế tai kho bạc. Cơ quan kho bạc nhận 
tiền thuế, xác nhận ĐTNT đã nộp thuế. Cuối ngày, kho bạc gửi tờ khai thuế 
và xác nhận nộp tỉền thuế và thông tin về số thuế đã nộp của các ĐTNT về 
cơ quan thuế. 
 Bộ phận xử lý tờ khai thuế, chứng từ thanh toán thuế của cơ quan thuế 
nhập tờ khai và chứng từ thanh toán thuế để phát hiện các trường hợp 
không nộp tờ khai thuế hoặc không nộp đủ thuế, phát thông báo nhắc nhở 
và cung cấp thông tin cho bộ phận thanh tra thuế, cưỡng chế thuế. 
 Bộ phận thanh tra thuế lựa chọn các đối tượng có hiện tượng nghi vấn để 
thực hiện kiểm tra, thanh tra về thuế và tiến hành xử lý các hành vi vi 
phạm. 
 Bộ phận cưỡng chế thuế sẽ thực hiện các biện pháp xử lý thu thuế đối với 
các trường hợp chây ỳ, trốn thuế. 
 54 
 Khi phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi và xác định tỷ lệ phần trăm 
phân chia các khoản thu giữa ngân sác các cấp chính quyền địa phương 
và số bổ xung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới cần đảm 
bảo: 
* Về phân cấp nguồn thu: 
 - Coi trọng khu vực đáp ứng nhu cầu chi tại chỗ, khuyến khích khai thác 
thu và phải phù hợp với điều kiện, đặc điểm của từng vùng. Nguồn thu gắn 
liền với vai trò quản lý của cấp chính quyền nào thì phân cấp cho ngân 
sách chính quyền đó. Ví dụ: 
 + Các khoản thu từ doanh nghiệp nhà nước do Trung ương và cấp tỉnh 
quản lý, doanh nghiệp có vốn đầu tư của nước ngoài, thuế thu nhập đối với 
người có thu nhập cao thì có thể phân cấp cho ngân sách cấp tỉnh. 
 + Thuế GTGT và thuế thu nhập doanh nghiệp thu từ các hộ sản xuất 
kinh doanh ngoài quốc doanh có thể phân cấp cho ngân sách cấp huyện và 
cấp xã. 
 - Hạn chế phân cấp cho nhiều cấp đối với các nguồn thu có quy mô nhỏ, 
như thuế tiêu thụ đặc biệt háng sản xuất trong nước thu từ các mặt hàng bài 
lá, vàng mã, hàng mã có thể chỉ phân cấp cho ngân sách xã phường thị 
trấn 
 - Phân cấp tối đa các nguồn thu trên địa bàn để đảm bảo nhiệm vụ chi 
được giao, hạn chế bổ sung từ ngân sách cấp trên. 
 - Đảm bảo tăng tỷ lệ phần trăm (%) phân chia cho ngân sách cấp mình 
và ngân sách cấp dưới, không vượt quá tỷ lệ % phân chia quy định của cấp 
trên về từng khoản thu được phân chia. 
 * Về phân cầp nhiệm vụ chi: 
 Phân cấp nhiệm vụ chi đầu tư xây dựng cơ bản: 
 55 
 Việc phân cấp chi đầu tư xây dựng cơ bản các công trình kết cấu hạ 
tầng kinh tế- xã hội cho cấp huyện, xã, thị trấn phải căn cứ trình độ, khả 
năng quản lý và khối lượng vốn đầu tư. Uỷ ban nhân dân tỉnh trình Hội 
đồng nhân dân quyết định phân cấp chi đầu tư xây dung cơ bản cho cấp 
dưới. Trong phân cấp đối với thị xã, thành phố thuộc tỉnh phải có nhiệm vụ 
chi đầu tư xây dung các trường phổ thông quốc lập các cấp và các công 
trình phúc lợi công cộng, điện chiếu sáng, cấp thoát nước, giao thông nội 
thị, an toàn giao thông, vệ sinh đô thị; trên cơ sở phân cấp, xác định nhiệm 
vụ chi xây dung cơ bản cụ thể cho cấp dưới. 
 Do tỷ lệ phần trăm phân chia các khoản thu giữa ngân sách các cấp và 
số bổ xung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dướiđược ổn định từ 3 
đến 5 năm nên vốn đầu tư cũng cần xác định và giao ổn định cho cấp dưới, 
phần không ổn định để tập trung ở ngân sách cấp tỉnh để chủ động bố trí 
tuỳ thuộc cân đối ngân sách hàng năm. 
 Việc quản lý vốn đầu tư được thực hiện như sau: 
 Vốn đầu tư của ngân sách cấp tỉnh được quản lý tại Cục đầu tư phát 
triển. 
 Vốn đầu tư thuộc ngân sách cấp huyện và xã được giao cho cơ quan 
tài chính và kho bạc nhà nước quản lý, cấp phát. 
 Nguồn vốn huy động từ sự đóng góp của các tổ chức, cá nhân để xây 
dung các công trình kết cấu hạ tầng phải được quản lý chặt chẽ. Kết quả 
huy động và việc sử dụng nguồn huy động phải được quản lý công khai, có 
kiểm tra, kiểm soát và bảo đảm sử dụng đúng mục đích, đúng chế độ theo 
quy định của pháp luật. 
 Phân cấp chi thường xuyên về sự nghiệp giáo duc- đào tạo, y tế cho 
cấp huyện. 
 56 
 Việc phân cấp cho cấp huyện cần că cứ vào trình độ, khả năng quản lý 
của cấp huyện và nguồn thu trên địa bàn, đồng thời đảm bảo kế hoạch 
chung của tỉnh về phát triển giao dục- đào tạo và y tế. 
 Hàng năm, Sở giáo dục đào tạo, Sở y tế có trách nhiệm phối hợp với sở 
tài chính- vật giá lập dự tóan ngân sách toàn ngành trình UBND tỉnh dể 
UBND tỉnh trình HĐND quyết định. 
* Về số bổ xung của ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới: 
 Ngoài những quy định trong luạt, trong một số trường hợp cụ thể còn bổ 
xung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới để thực hiện một số 
muc tiêu nhất định như: bổ sung để thực hiện các nhiệm vụ, dự án được 
xác định, bổ xung vốn xây dung cơ bản cho một số công trình quan trọng 
để khắc phục hậu quả của thiên tai, lũ lụt… 
 Đối với bổ sung theo mục tiêu được giao hàng năm được giao tuỳ theo 
khả năng ngân sách cấp trên và yêu cầu về mục tiêu cụ thể ở từng tỉnh, 
huyện, xã, thị trấn, phường. 
 Chỉnh lý, sửa đổi, bổ xung một số quy định trong luật: 
 Kiến nghị về chỉnh lý, sửa đổi một số quy định trong chế độ phân cấp 
quản lý NSNN: 
 * Về phân định trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan 
 Tại điều 1 của luật NSNN đưa ra khái niệm về NSNN: “…là toàn bộ 
khoản thu và chi trong dự toán do cơ quan có thẩm quyền quyết định…”, 
cần phải quy định rõ “cơ quan có thẩm quyền” là cơ quan nào, chính phủ, 
bộ trưởng bộ tài chính, chủ tịch UBND cấp tỉnh… Hiện nay có một số đề 
xuất nên nêu rõ: “NSNN do Quốc hội quyết định và giao cho chính phủ tổ 
chức chấp hành để đảm bảo thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nhà nước”. 
 57 
 Trong điều 21 khoản 3 của luật có quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của 
bộ Tài chính “đề xuất các biện pháp thực hiện chính sách tăng thu, tiết 
kiệm chi NSNN..”. Cần phải mở rộng nhiệm vụ và quyền hạn của bộ Tài 
chính trong đề xuất các biện pháp giảm thu hoặc tăng chi để khuyến khích 
phát triển kinh tế. Đồng thời đề cao vai trò của bộ Tài chính trong việc xác 
định biên chế đối với các bộ, ngành và đây là một trong những căn cứ quan 
trọng để phân bổ ngân sách chi thường xuyên. 
 * Về nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ, ngành nên bỏ cơ chế phân bổ hạn 
mức kinh phí qua các bộ mà tập trung thu gọn vào một đầu mối là bộ tài 
chính, phân bổ đến tận đơn vị sử dụng NSNN (đơn vị cơ sở). Vì là các bộ, 
ngành quản lý nhà nước chuyên ngành, lĩnh vực nên sự tham gia của các 
bộ, ngành chủ quản chỉ là hướng dẫn các đơn vị cấp dưới lập dự toán và 
yêu cầu báo cáo, có quyền kiểm tra và phê duyệt quyết toán ngân sách 
ngành, lĩnh vực trước khi gửi bộ Tài chính.Đặc biệt cần nhấn mạnh trách 
nhiệm của các bộ, ngành trong việc xây dựng các tiêu chuẩn, định mức chi 
tiêu thích hợp trong phạm vi của mình- một nhiệm vụ đã và đang là cấp 
thiết trong giai đoạn hoàn thiện luật NSNN hiện nay- đảm bảo sự hợp lý 
giữa các chỉ tiêu giá trị và hiện vật. 
 *Về nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND và UBND, việc quyết định dự 
toán, phân bổ và phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương sản xuất là 
một trong những quyền hết sức cơ bản của HĐND các cấp trong lĩnh vực 
ngân sách. để HĐND thực sự phát huy được quyền và nghĩa vụ này cần 
loại bỏ các quy định ràng buộc HĐND vào quá nhiều cơ quan quản lý cấp 
trên. Chẳng hạn như quy định HĐND phải căn cứ vào dự toán ngân sách 
được cấp trên giao mới quyết định dự toán ngân sách của mình, hoặc chủ 
tịch UBND cấp trên có quyền yêu cầu HĐND cấp dưới điều chỉnh lại dự 
toán ngân sách (điều 53 luật NSNN). 
 58 
 KẾT LUẬN 
 Việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống NSNN và chế độ phân cấp quản 
lý NSNN là vô cùng quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Phân cấp quản lý 
NSNN dù chỉ là phương tiện, không phải là mục đích, là phương pháp giải 
quyết các quan hệ tài chính giữa các cấp chính quyền trong một thời kỳ cụ 
thể nhất định, chỉ khi có được một hệ thống NSNN và chế độ phân cấp 
NSNN hoàn thiện thì mới có thể tập trung đúng chính sách, đầy đủ, kịp 
thời các nguồn thu vào NSNN; phân phối và sử dụng hợp lý các khoản chi 
cho các nhu cầu phát triển kinh tế, văn hoá, quốc phòng và đời sống; thực 
hiện chủ động lập và chấp hành ngân sách, đề cao trách nhiệm của chính 
quyền các cấp. 
 Những phân tích trên về hệ thống và chế độ phân cấp quản lý NSNN dù 
chưa thực sự hoàn thiện nhưng rõ ràng những khiếm khuyết đã được chỉ ra 
cần được quan tâm và theo tác gỉa là hoàn toàn có thể khắc phục được. 
Đồng thời, trong quá trình hoạch định chính sách phân cấp cần đảm bảo 
những mục tiêu trọng yếu, chú ý giảm thiểu những tác động ngoại vi, tiêu 
cực đến những mục tiêu khác. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
Luận văn- Thực trạng phân cấp quản lý ngân sách nhà nước và giải pháp hoàn thiện chế độ phân cấp quản lý NSNN ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay.pdf