Luận văn Thực trạng dịch vụ vận tải biển của công ty Vinashin New World

Tài liệu Luận văn Thực trạng dịch vụ vận tải biển của công ty Vinashin New World: Luận văn Thực trạng dịch vụ vận tải biển của công ty Vinashin New World Phần I : Lời mở đầu Trong những năm qua tình hình thế giới có nhiều biến động và gây ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Song với đường lối đúng đắn của Đảng và sự chỉ đạo của chính phủ nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ, với tốc độ tăng trưởng xấp xỉ 7,5% trong giai đoạn 2005-2009 và liên tục xếp thứ hai trên thế giới về tốc độ tăng trưởng kinh tế. Việt Nam dần dần khẳng định được vị thể của mình trong khu vực cũng như thế giới. Đây là điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, các Công ty mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong hoạt động buôn bán trao đổi hàng hoá giữa các nước, các vùng kinh tế khác nhau vận tải luôn đóng một vai trò quan trọng. Ngày nay, vận tải đường biển chiếm vai trò quan trọng so với những ngành vận tải khác, khối lượng hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển chiến tỷ trọng lớn và đang có xu hướng tăng ...

pdf83 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1032 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Thực trạng dịch vụ vận tải biển của công ty Vinashin New World, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn Thực trạng dịch vụ vận tải biển của công ty Vinashin New World Phần I : Lời mở đầu Trong những năm qua tình hình thế giới có nhiều biến động và gây ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Song với đường lối đúng đắn của Đảng và sự chỉ đạo của chính phủ nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ, với tốc độ tăng trưởng xấp xỉ 7,5% trong giai đoạn 2005-2009 và liên tục xếp thứ hai trên thế giới về tốc độ tăng trưởng kinh tế. Việt Nam dần dần khẳng định được vị thể của mình trong khu vực cũng như thế giới. Đây là điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, các Công ty mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong hoạt động buôn bán trao đổi hàng hoá giữa các nước, các vùng kinh tế khác nhau vận tải luôn đóng một vai trò quan trọng. Ngày nay, vận tải đường biển chiếm vai trò quan trọng so với những ngành vận tải khác, khối lượng hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển chiến tỷ trọng lớn và đang có xu hướng tăng lên. Nắm bắt được xu thế này trong những năm qua tập đoàn VinaShin đã không ngừng đầu tư cho các đơn vị thành viên mở rộng sản xuất kinh doanh. Nhận được sự giúp đỡ đó, công ty Vinashin New World đã ra đời và đã không ngừng mở rộng sản xuất kinh doanh và đạt được những thành tựu to lớn trong lĩnh vực dịnh vụ vận tải đường biển. Sau thời gian đi thực tập em đã chọn đề tài ” Thực trạng dịch vụ vận tải biển của công ty Vinashin New World”. Một lĩnh vực mà Công ty đang có nhu cầu mở rộng cả về chiều rộng lẫn chiều sâu trong thời gian tới. Trong quá trình thực tập được sự hướng dẫn, chỉ đạo rất tận tình của các anh chị trong phòng KH-KD và của PGS.TS Nguyễn Như Bình. Song do sự hiểu biết của bản thân về Công ty chưa được sâu sắc và toàn diện, với kinh nghiệm thực tế chưa nhiều do vậy trong báo cáo thực tập không thể tránh khỏi thiếu sót. Vì vậy, rất mong các Anh, Chị trong phòng, thầy cô và độc giả quan tâm đến đề tài này góp ý để bài viết của em hoàn thiện hơn Chương I: Giới thiệu chung công ty Vinashin new world 1.1 Quá trình hình thành và phát triển. Cuối những năm 1980 đầu những năm 1990 phương thức vận tải bằng đường biển đang được phát triển mạnh mẽ ở các nước tiên tiến trên thế giới do được đánh giá là một trong những phương tiện tiên tiến và đạt hiệu quả cao về mọi mặt. So với hình thức vận tải truyền thống thì vận tải đường biển có những điểm nổi bật hơn so với vận tải đường bộ và đường hàng không. Việt Nam có hơn 3200 Km đường bờ biển và hơn 33 cảng lớn nhỏ chạy từ Bắc tới Nam đó là những yếu tố thuận lợi đối với việc phát triển vận tải đường biển. Với đà tăng trưởng kinh tế của nước ta hiện nay, đặc biệt là buôn bán với nước ngoài ngày càng tăng nắm bắt được yêu cầu thực tế vận tải hàng hóa bằng đường biển, những doanh nhân của tập đoàn Vinashin đã thành lập công ty Vinashin New World với mong muốn khai thác triệt để những lợi thế trên Vinashin New World là một đơn vị trực thuộc tập đoàn kinh tế Vinashin hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ vận tải đường biển. Giai đoạn đầu mới thành lập công ty chỉ hoạt động trong lĩnh vực vận tải đường biển. Không ngừng lớn mạnh theo thời gian và đến nay không chỉ đơn thuần kinh doanh dịch vụ vận tải đường biển mà còn hoạt động nhiều ngành nghề khác Tên và địa chỉ của công ty. + Tên giao dịch : Công ty Vinashin New World + Điện thoại: 0313686676. + Email:Vnwhp@vinashinnewworld.vn +Website : vinashinnewworld.com.vn + Trụ sở Công ty Số 3 Lê Thánh Tông Hải Phòng 1.2 Tổ chức bộ máy quản lý tại công ty Vinashin New World 1.2.1 Nhiệm vụ của Công ty . Là đơn vị vận tải biển với đội ngũ hùng mạnh và được sự quan tâm đặc biệt của tập đoàn nên Vinashin New World có những nhiệm vụ sau:  Chuyên chở hàng hoá trong nước, phục vụ nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước.  Vận tải hàng xuất khẩu, phục vụ công tác xuất nhập khẩu  Quản lý và khai thác phương tiện, vốn theo đúng nội quy của Nhà nước một cách có hiệu quả  Tổ chức các dịch vụ về vận tải như đại lý tàu, đại lý dầu, đại lý giao nhận kiểm đếm hàng hoá nhằm mở rộng quy mô của Công ty, tăng nguồn hàng vận chuyển giải quyết công ăn việc làm cho đội ngũ thuyền viên dự trữ  Nghiên cứu trình cấp trên về kế hoạch đầu tư đổi mới trang thiế bị,phương tiện, xây dựng phương pháp lao động hợp lý hơn, ứng dụng thông tin tin học vào sản xuất kinh doanh.  Tổ chức quản lý lực lượng lao động của Công ty một cách khoa học, triệt để và hiệu quả, giáo dục bồi dưỡng nâng cao trình độ tay nghề và năng lực quản lý của cán bộ thuyền viên của Công ty. Đồng thời chăm lo đến đời sống vật chất cho người lao động.  Chấp hành đầy đủ đường lối, chế độ chính sách pháp luật của đảng, nhà nước, nội quy kỷ luật của xí nghiệp. Đảmbảo an tàon lao động, vệ sinh môi trường, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa và trật tự an toàn trong nội bộ Công ty 1.2.2 Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Công ty Sơ đồ cơ cấu tổ chức của công ty Giám đốc là người lãnh đạo có quyền cao nhất trong công ty, chỉ đạo sự hoạt động của toàn công ty và chịu trách nhiệm cao nhất trước nhà nước về hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty Giám đốc: Trương Quốc Long Phòng khai thác: có nhiệm vụ lập kế hoạch khai thác, tổ chức vận chuyển, đề xuất các phương án vận chuyển sao cho có lợi nhất Trưởng phòng khai thác : Ngô Xuân Trường. Phòng Marketing: có nhiệm vụ nghiên cứu thị trường, tìm hiểu thị trường, tìm nguồn hàng, liên hệ với chủ hàng, giúp chủ hàng làm các thủ tục xuất nhập khẩu, thu thập chứng từ hoá đơn Trưởng phòng Marketing: Nguyễn Thị Hợi Giám đốc Phòng khai thác Phòng marketting Phòng dịch vụ khách hàng Phòng kế toán Phòng dịch vụ khách hàng: Có nhiệm vụ phát hành các hoá đơn, kiểm tra các hoá đơn chứng từ thu phí các dịch vụ. Đồng thời tham mưu cho lãnh đạo trực tiếp về các chính sách giá cả hợp lý và phát triển các dịch vụ nhằm hỗ trợ tốt cho các hoạt động thu hút khách hàng của công ty. Phòng dịch vụ khách hàng quản lý hàng hoá xuất nhập khẩu (về mặt chứng từ). Trưởng phòng dịch vụ khách hàng: Nguyễn Thị Hoa Phòng kế toán: thực hiện công tác kế toán tính toán các hoạt động thu chi của chi nhánh và tính toán trả lương cho nhân viên. Ghi chép phản ánh số liệu hiện có, tình hình luân chuyển và sử dụng tài sản, vật tư, tiền vốn và kết quả các hoạt động sản xuất kinh doanh, tình hình sử dụng kinh phí của chi nhánh. Đặc biệt phòng còn kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh, kế hoạch thu chi tài chính nộp ngân sách, thanh toán kiểm tra giữ gìn các loại tài sản. Đồng thời cung cấp các số liệu, tài liệu cho việc điều hành sản xuất kinh doanh, kiểm tra và phát triển các hoạt động khai thác tài chính phục vụ công tác thống kê và thông tin kinh tế. Trưởng phòng kế toán: Phạm Thị Hường. 1.3 Tình hình sử dụng các nguồn lực tại Công ty. Thông qua các báo cáo tài chính như bảng cân đối kế toán của công ty trong các năm 2007-2009 ta có thể tính toán và so sánh một số chỉ tiêu tài chính của công ty. 1.3.1 Phân tích tình hình tài sản của Công ty. Bảng 1: Bảng phân tích tình hình tài sản Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 A: TSLĐ – ĐTNH 20.891.806 26.191.138 31.476.543 Tiền mặt + gửi NH 6.514.736 12.617.831 8.662.292 Khoản phải thu 8.437.360 4.543.969 81.835.268 Hàng tồn kho 2.494.023 4.429.834 6.808.493 TSLĐ khác 3.445.000 4.602.336 7.171.035 B:TSCĐ- ĐTDH 50.230.968 53.859.478 87.895.531 *TSCĐ 32.365.432 35.371.203 43.290.139 *Đầu tư TC 10.491,104 12.009.125 24.495.203 *TS dài hạn khác 7.374.432 6.479.150 20.110.189 Tổng tài sản 71.122.774 80.050.616 119.372.074 Nguồn : KH-KD Đơn vị tính: 1000 đồng Nhận xét chung : Nhìn vào bảng phân tích tình hình tài sản của Công ty ta thấy tài sản qua các năm đều tăng lên. Năm 2007, tổng tài sản của Công ty là 71,122 tỷ đồng nhưng đến năm 2008 con số đó đã lên tới 80,050 tỷ đồng tăng gần 9 tỷ so với 2007 tương ứng 12,5%. Trong đó chủ yếu là tăng tài sản lưu động và đến năm 2009 tổng tài sản là 119,372 tỷ đồng tăng 39,32 tỷ đồng tương ứng với 49,12 % so với năm 2008. Năm2009 công ty mạnh dạn mở rộng quy mô hoạt động sản xuất vào cuối năm nên mua thêm trang thiết bi, máy móc, phương tiện vận chuyển do đó tài sản năm 2009 tăng mạnh so với năm 2008 và 2007. 1.3.2. Tình hình nguồn vốn của công ty Bảng 2: Phân tích cơ cấu nguồn vốn của Công ty Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 A.Nợ phải trả 23.316.467 24.566.127 42.745.431 Nợ ngắn hạn 2.917.850 5.539.385 10.388.298 Nợ dài hạn 17.164.975 14.789.000 22.637.442 Nợ khác 3.233.642 4.237.742 9.719.691 B Vốn chủ sở hữu 47.806.307 55.484.489 76.626.642 Nguồn vốn 30.234.012 35.858.104 40.353.222 kinh phí, quỹ 10.353.222 12.542.930 20.015.359 Nguồn vốn khác 7.219.073 7.084.355 16.258.061 Tổng nguồn vốn 71.122.774 80.050.616 119.372.074 Nguồn: KH-KD Đơn vị tính:1000 đồng Nhận xét chung : Nhìn vào bảng số liệu ta thấy trong hai nguồn vốn của Công ty thì tỷ lệ nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp luôn cao hơn tỷ lệ nợ phải trả. Điều này chứng tỏ rằng tình hình tài chính của doanh nghiệp khá lành mạnh hay nói cách khác là doanh nghiệp có tính tự chủ về tài chính, doanh nghiệp hoàn toàn không phải phụ thuộc hay bị ràng buộc bởi các chủ nợ trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Năm 2007 tổng nguồn vốn là 71,122 tỷ đồng. Năm 2008 là 80,050 tỷ đồng còn năm 2009 là 119,372 tỷ đồng Tuy nhiên, nếu nhìn vào sự biến động về cơ cấu nguồn vốn qua các năm chúng ta sẽ thấy được tính tự chủ của doanh nghiệp có nhiều biến động. Năm 2007, nợ phải trả chỉ chiếm 32,7% tổng nguồn vốn. Sang đến năm 2008 nợ phải trả chỉ còn là 30,6% tổng nguồn vốn giảm 2,1 % so với năm 2007 là 1,1%. Nhưng đến năm 2009, số nợ phải trả đã tăng đến 35,8% tổng nguồn vốn. Như vậy, nợ phải trả qua các năm phụ thuộc vào tình hình sản xuất kinh doanh của công ty. Nguyên nhân của việc tăng nợ phải trả là do khoản nợ ngắn hạn tăng từ 23,316 tỷ đồng năm 2007 đến 42,7 tỷ đồng năm 2009 là khoản vay từ nguồn vốn ODA để đầu tư cải tạo, mở rộng Cảng đồng thời việc đi chiếm dụng vốn của đơn vị khác ( nợ dài hạn và nợ khác tăng lên ) làm cho tổng nợ tăng lên nhiều. Nhưng việc đi vay và chiếm dụng là cần thiết cho nhu cầu hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, việc tăng tổng nguồn vốn từ nợ phải trả vẫn là hợp lý và điều này là điều nên làm bởi mở rộng sản xuất kinh doanh và đầu tư theo chiều sâu là yêu cầu cần thiết đối với doanh nghiệp trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay. 1.3.2 Tình hình nhân lực. Công ty là một công ty lớn hoạt động đa ngành vì vậy mà số lượng công nhân viên của công ty tương đối đông hoạt động trong những lĩnh vực khác nhau với các trình độ tay nghề khác nhau và nó đựơc thể hiện trong bảng sau: Bảng 3: Nguồn nhân lực của công ty Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Số Lượng % Số Lượng % Số Lượng % Tổng số lao động 65 100 88 100 106 100 Theo giới tính 25 40 38,4 61,6 35 53 39,7 603 49 57 46,2 53,8 Lao động nữ Lao động nam Theo trình độ 10 25 10 25 15.4 38,4 15,4 30,8 18 30 20 20 20,4 34,0 22,8 22,8 25 40 25 16 23,5 37,7 23,5 15,3 Đại học, cao đẳng Trung cấp Công nhân kỹ thuật Lao động phổ thông (Nguồn phòng KH-KD) Đơn vị:Người Nhận xét chung: Nhìn vào bảng số lượng lao động của công ty ta thấy số lượng lao động của công ty tăng đều qua các năm. Năm 2008 so với năm 2007 tổng số lao động trong công ty tăng 23 người tương ứng với 35,3%. Nhưng đến năm 2009 số lao động của công ty lại tăng 18 người tương ứng với 20,45 % so với năm 2008. Tốc độ tăng năm 2008 so với 2007 lớn hơn do trong năm 2008 công ty mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh sang những thị trường lân cận và phạm vi hoạt động của ngành dịch vụ vận tải biển rộng hơn nên đã tuyển một lượng lớn công nhân viên để đáp ứng nhu cầu đó. Còn năm 2009 tuy hoạt động kinh doanh gặp nhiều khó khăn nhưng số lao động tại công ty vẫn tăng lên, tuy tốc độ tăng không bằng năm 2008 nhưng con số trên khá lạc quan thể hiện công ty đang hoạt động rất hiệu quả. Do công ty hoạt động trong lĩnh vực vận tải và do đặc điểm nghề nghiệp nên phần lớn lao động của công ty là Nam còn lao động Nữ chiếm tỷ lệ rất ít. Phần lớn số lao động Nữ này đều là lao động gián tiếp hay lao động làm việc trong lĩnh vực thương mai của công ty. Năm 2008 lao động nữ tăng 40% so với 2007 còn năm 2009 tăng 40% so với 2008. Tốc độ tăng lao động nữ rất ổn định cho thấy không có nhiều biến động trong lĩnh vực thương mại của công ty mặc dù hoạt động sản xuất kinh doanh đã được mở rộng. Còn lao động Nam tốc độ tăng không đều qua các năm. Năm 2008 tăng 32,5 % so với năm 2007 còn năm 2009 chỉ tăng 7,5 % so với năm 2008. Giải thích cho tốc độ tăng năm 2009 chậm hơn so với năm 2008 là do năm 2009 công ty thu hẹp phạm vi hoạt động của ngành dịch vụ vận tải biển,phần khác do những hợp đồng sửa chữa tàu biển bị hủy bỏ nên lượng lao động Nam tăng không đáng kể. Qua bảng số liệu ta cũng thấy được số lao động có trình độ của công ty cũng khá cao. Năm 2007 lao động có trình độ đại học cao đẳng chiếm 15,4 %,năm 2008 là 20,4 % và năm 2009 là 23,5 %. Lao động có trình độ tăng qua các năm và chiếm tỉ trọng không nhỏ, điều đó cho thấy công ty đang có đội ngũ lao động có chất lượng tốt, được đào tạo chuyên sâu. Lao động có trình độ này giữ vị trí cao trong cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty và hàng năm vẫn được cử đi nước ngoài đào tạo để nâng cao trình độ, điều đó cho thấy Công Ty có chiến lược phát triển nguồn nhân lực theo chiều sâu. Mặt khác, lao động có trình độ trung cấp và công nhân kỹ thuất cũng chiếm tỷ lệ khá cao và không ngừng tăng qua các năm. Nhưng bên cạnh đó số lao động phổ thông còn chiếm tỷ lệ cao trên, mặc dù tỷ lệ lao động này có giảm trong những năm gần đây song tốc độ giảm còn chậm. Mặt khác số lao động có tay nghề cao lại chiếm tỷ lệ rất nhỏ khoảng 4,5%. Trong những năm qua mặc dù công ty luôn chú trọng đến việc nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên của công ty như: đưa công nhân viên đi đào tạo ở nước ngoài, cũng như mở các lớp tập huấn nâng cao tay nghề cho công nhân….. song nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của công ty. 1.3.3 Tình hình về cơ sở vật chất tại Công ty. Bảng 3: Bảng diện tích sử dụng Hạng mục Diện tích hiện có Diện tích sử dụng % Diện tích sử dụng Mặt nước Nhà làm việc Phân xưởng Nhà kho Sân bãi Khu thương mại Diện tích khác 87580 1479 3804 1500 2099 849 1229 24500 580 944 578 740 500 300 19,9 39,5 24,8 38,7 35,2 58,4 24,41 Tổng 98540 28142 28,55 Nguồn: Phòng KH-KD Đơn vị: m2 Nhận xét chung : Công ty Vinashin New World hoạt động sản xuất trên nền diện khoảng 9,85ha bao gồm cả diện tích mặt nước và diện tích đất liền. Chiếm phần lớn diện tích mà công ty đang sở hữu là diện tích mặt nước với việc hoạt động của các khu cảng biển. Những cảng này phục vụ cho các tàu bè chung chuyển, lưu thông hàng hóa và là nơi bến đỗ của các tàu bè khu vực cảng. Nguồn thu từ hoạt động này đóng góp đáng kể vào doanh thu của công ty qua các năm và trong những năm tới công ty sẽ mở rộng phạm vi hoạt động của những cảng này nhằm khai thác triệt để những lợi thể mà diện tích mặt nước mang lại. Mặc dù Hiện nay tổng diện tích mà Công ty đã đưa và sử dụng là chưa nhiều mới 2,82 ha chiếm 28,5% diện tích. Diện tích chưa sử dụng còn chiếm tỉ lệ lớn 71,5%. Đây là nguồn dự trữ khá lớn để cho Công ty có thể mở rộng sản xuất kinh doanh. Nhìn vào bảo số liệu trên ta có thể thấy được sự phát triển của Công ty trong những năm qua là chưa tương xứng với tiềm năng hiện có của Công ty . Vấn đề đặt ra trong những năm tới là Công ty phải có chính sách và giải pháp phù hợp để có khai thác tối đa lợi thế mà mình đã có. Cơ sở hạ tầng của Công ty trong những năm qua không ngừng được nâng cấp và xây mới. Công ty có khu nha cao tầng tương đối khang trang và kiên cố toạ lạc trên khu đất rộng. Các phân xưởng, nhà kho phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh không ngừng nâng cấp và mởi rộng để đáp ứng nhu cầu ngày càng rộng lớn của công ty. Cùng với nó là một khu liên hợp thể thao tương đối hoàn chỉnh gồm: sân quần vợt, nhà thi đấu bóng bàn mà hiếm có công ty nào để đáp ứng nhu cầu vui chơi giải trí của công nhân viên trong công ty. Chương II: Thực trạng dịch vụ vận tải biển của Công ty Vinashin new world  Mục đích Tr­íc khi ph©n tÝch c¸c vÊn ®Ò trong doanh nghiÖp cÇn ph¶i x¸c ®Þnh mét c¸ch ®óng ®¾n môc ®Ých ph©n tÝch. Môc ®Ých ph©n tÝch ho¹t ®éng kinh tÕ nãi riªng vµ ho¹t ®éng kh¸c cña con ng­êi nãi chung cã vai trß ®Æc biÖt quan träng víi ho¹t ®éng. Nã lµ kim chØ nam cña c¸c ho¹t ®éng võa lµ th­íc ®o ®¸nh gi¸ kÕt qu¶ cña c¸c ho¹t ®éng ®ã. Tuú theo tõng tr­êng hîp ph©n tÝch cô thÓ (kh«ng gian, thêi gian, chØ tiªu, doanh nghiÖp … mµ x¸c ®Þnh môc ®Ých cô thÓ cña ph©n tÝch nh÷ng môc ®Ých chung cña ph©n tÝch ho¹t ®éng kinh tÕ bao gåm:  Đánh giá chung tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thông qua các chỉ tiêu kinh tế.  Phân tích chi tiết các tầm quan trọng, trọng điểm …để xác định tiềm năng của doanh nghiệp về các vấn đề tổ chức quản lý điều hành sử dụng các yếu tố trong quá trình sản xuất các điều kiện sản xuất.  Đề xuất ra các biện pháp về kĩ thuật tổ chức để khai thác tốt tiềm năng của doanh nghiệp để áp dụng trong thời gian tới nhằm phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả bảo đảm các lợi ích doanh nghiệp nhà nước người lao động.  Làm cơ sở cho những kế hoạch chiến lược về phát triển của doanh nghiệp trong tương lai và về các chỉ tiêu kinh tế kĩ thuật cho những kì kế tiếp. Tóm lại có thể phát biểu ngắn gọn mục đích của phân tích hoạt động kinh tế là nhằm xác định tiềm năng của doanh nghiệp và đề xuất các biện pháp để khai thác tốt nhất những tiềm năng ấy.  Ý nghĩa: Phân tích hoạt động kinh tế doanh nghiệp là công cụ của hoạt động nhận thức về các vấn đề kinh tế doanh nghiệp. Do vậy nó có ý nghĩa rất quan trọng đối với doanh nghiệp nói chung, cá nhân những người làm kinh tế doanh nghiệp nói riêng. Nếu phân tích hoạt động kinh tế doanh nghiệp diễn ra thường xuyên chất lượng tốt thì sẽ giúp cho nhà lãnh đạo nhận thức đúng đắn về các yếu tố sản xuất của doanh nghiệp về tổ chức điều hành sản xuất, về các điều kiện kinh tế liên quan …từ đó đưa ra các quyết định phù hợp, khả thi góp phần định hướng, hướng dẫn các hoạt động quản lý doanh nghiệp nhờ đó làm cho doanh nghiệp phát triển không ngừng với hiệu quả kinh tế cao và ngược lại. Chính vì tầm quan trọng của phân tích hoạt động kinh tế mà doanh nghiệp và các cá nhân lãnh đạo doanh nghiệp đã đang và sẽ không ngừng phân tích hoạt động kinh tế doanh nghiệp một cách thường xuyên liên tục sâu sắc và triệt để. 2.1 Dịch vụ vận tải biển và vai trò của nó trong phát triển kinh tế Vận tải đường biển ra đời khá sớm so với các phương thức vận tải khác. Ngay từ thế kỷ thứ VI trước công nguyên con người đã biết lợi dụng biển làm các tuyến đường giao thông để giao lưu các vùng, các miền, các quốc gia khác nhau trên thế giới. Cho đến nay vận tải đường biển được phát triển mạnh mẽ và trở thành ngành vận tải hiện đại trong hệ thống vận tải quốc tế. 2.1.1 Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của vận tải đường biển. 2.1.1.1 Vai trò Hiện nay vận tải đường biển giữ vị trí rất quan trọng trong chuyên chở hàng hoá trên thị trường thế giới. Vận tải đường biển là ngành vận tải chủ chốt so với các phương tiện vận tải khác trong chuyên chở hàng hoá xuất nhập khẩu, nó đảm nhận chuyên chở gần 80% tổng khối lượng hàng hoá trong buôn bán quốc tế. Nguyên tắc “ tự do đi biển” đã tạo thuận lợi cho ngành vận tải đường biển và nhờ đó tàu thuyền mang mọi quốc tịch được tự do hoạt động trên các tuyến thương mại quốc tế. Khối lượng chuyên chở hàng hoá bằng đương biển quốc tế tăng nhanh qua các giai đoạn. 2.1.1.1 Đặc điểm.  Vận tải đường biển có thể phục vụ chuyên chở tất cả các loại hàng hoá trong buôn bán quốc tế. Vận tải đường biển thích hợp trên cự ly rất dài, khối lượng lớn. Tuy nhiên vận tải đường biển không thích hợp với chuyên chở hàng hoá đòi hỏi thời gian giao hàng nhanh, trong chuyên chở đường biển gặp nhiều rủi ro và nguy hiểm.  Các tuyến đường trên biển hầu hết là những tuyến đường giao thông tự nhiên. Do đó không đòi hỏi phải đầu tư nhiều về tiền vốn, nguyên vật liệu, sức lao động để xây dựng và bảo quản các tuyến đường vận tải đưồng biển. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho giá thành vận tải đường biển thấp hơn so với các phương tiện vận tải khác.  Năng lực chuyên chở của vận tải biển là rất lớn. Nhìn chung năng lực chuyên chở của công cụ vận tải đường biển ( tàu biển) không bị hạn chế như các công cụ vận tải khác. Trên cùng một tuyến đường có thể tổ chức chạy nhiều chuyến tàu trong cùng một thời gian cho cả hai chiều. Trong những năm gần đây do tiến bộ của khoa học kỹ thuật, trọng tải trung bình của tàu biển tăng nhanh và có xu hướng tăng lên đối với tất cả các nhóm tàu. Ưu điểm nổi bật của tàu biển là giá thành thấp ( bằng 1/10 so với đường hàng không). Trong chuyên chở hàng hoá giá thành vận tải đường biển chỉ cao hơn giá thành vận tải đường ống còn thấp hơn nhiều so với các phương tiện khác. Nguyên nhân chủ yếu là trọng tải tàu biển lớn, cự ly chuyên chở trung bình dài, năng suất lao động cao. Với tiến bộ khoa học kỹ thuật và hoàn thiện cơ chế quản lý trong ngành vận tải đường biển, hiệu quả kinh tế chắc chắn ngày một tăng lên. Từ những đặc điểm trên của vận tải đường biển ta có thể rút ra kết luận một cách tổng quát về phạm vi áp dụng như sau: - Vận tải đường biển thích hợp với chuyên chở hàng hoá trong buôn bán quốc tế. - Vận tải đường biển thích hợp với chuyên chở hàng hoá có khối lượng lớn, chuyên chở cự ly dài nhưng không đòi hỏi thời gian giao hàng nhanh chóng. 2.1.1.2 Tác dụng của vận tải đường biển.  Vận tải đường biển là yếu tố không tách rời thương mại quốc tế: Thương mại quốc tế và vận tải nói chung, vận tải đường biển nói riêng có mối quan hệ chặt chẽ và hữu cơ với nhau. Vận tải được phát triển trên cơ sở sản xuất và trao đổi hàng hoá. Ngược lại vận tải phát triển sẽ làm giảm giá thành chuyên chở, tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng thị trường tiêu thụ quốc tế, tự do hoá thương mại, thúc đẩy sản xuất phát triển. Thực tiễn trong thương mại cho thấy, hợp đồng mua bán hàng hoá có vai trò quan trọng và liên quan chặt chẽ đến hợp đồng vận tải thậm chí bao gồm cả hợp đồng vận tải bởi vì hợp đồng mua bán hàng hoá là cơ sở pháp lý điều chỉnh quan hệ giữa người bán và người mua còn hợp đồng vận tải điều chỉnh quan hệ giữa người thuê chở và người chuyên chở mà người thuê chở là người bán hoặc người mua lại phụ thuộc vào quy định của hợp đồng mua bán.  Vận tải đường biển thúc đẩy buôn bán quốc tế phát triển: Khối lượng hàng hoá lưu chuyển giữa hai nước phụ thuộc vào nhiều điều kiện: tiềm năng kinh tế của hai nước, sự chuyên môn hóa và hợp tác hóa sản xuất của mỗi nước trong phân công lao động quốc tế, tình hình chính trị, điều kiện và khả năng vận tải giữa hai nước đó: Do tiến bộ khoa học kỹ thuật và tăng năng suất lao động trong ngành vận tải mà giá cước trung bình trong vận tải quốc tế có xu hướng giảm xuống. Vận tải đường biển có đặc điểm cước phí rẻ vì vậy vận tải đường biển làm tăng khối lượng luân chuyển hàng hóa trong buôn bán quốc tế, nói khác đi nó thúc đẩy buôn bán quốc tế phát triển  Vận tải đường biển phát triển góp phần làm thay đổi hàng hoá và cơ cấu thị trường buôn bán quốc tế: Trước đây vận tải đường biển chưa phát triển, công cụ vận tải thô sơ, sức chở của vận tải nhỏ, chi phí vận tải lại cao nên đã hạn chế việc mở rộng mua bán nhiều mặt hàng. Đặc biệt là mặt hàng nguyên, nhiên liệu. Việc buôn bán giữa các nước thời kỳ đó tập trung vào các mặt hàng thành phẩm. Sự ra đời của công cụ vận tải chuyên dùng có trọng tải lớn, đặc biệt là sự phát triển của vận tải đường biển, mạng lưới các tuyến đường phát triển đã cho phép hạ giá thành vận tải, điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng chủng loại mặt hàng trong buôn bán quốc tế.  Trong bản thân nhóm hàng lỏng cũng có sự thay đổi về cơ cấu: tăng trỷ trọng dầu thô, giảm tỷ trọng mặt hàng sản phẩm dầu mỏ và xuất hiện nhiều mặt hàng lỏng trong buôn bán quốc tế như: hơi đốt ở thể lỏng, rượu, bia, nước ngọt,...buôn bán các nhóm mặt hàng khô cũng đa dạng và phong phú hơn gồm hàng thành phần có bao bì, hàng khô có khối lượng lớn như: quặng sắt, than đá, ngũ cốc, các loại khoáng sản khác...,vận tải đường biển phát triển đã làm thay đổi cơ cấu hàng hóa trên thị trường thế giới.  Trước đây khi vận tải đường biển còn chưa phát triển, hàng hóa chỉ có thể bán cho các nước lân cận, ở thị trường gần, ví dụ như Việt Nam bán hàng cho các nước Trung Quốc, Lào, Thái Lan... ngày nay vận tải đường biển đã phát triển, hàng hóa có thể được buôn bán ở bất kỳ thị trủờng nào trên thế giới. Vì vậy, vận tải đường biển góp phần thay đổi thị trường hàng hóa. Những nước xuất khẩu có khả năng tiêu thụ sản phẩm của mình ở những thị trường xa xôi. Ngược lại nước nhập khẩu có điều kiện lựa chọn thị trường cung cấp hàng hóa rộng rãi hơn. Sự mở rộng thị trường và thay đổi cơ cấu thị trường trong buôn bán quốc tế được thể hiện ở cự ly chuyên chở trung bình trong vận tải đường biển quốc tế ngày càng tăng lên. Năm 1980 cự ly chuyển chở trung bình trong vận tải đường biển quốc tế là 3.601 hải lý, năm 1985 là 3.967 và năm 1990 là 4.285 hảo lý( 1 hải lý = 1,85km).  Vận tải đường biển tác động đến cán cân thanh toán quốc tế: Vận tải đường biển có tác dụng ảnh hưởng tích cực hoặc làm xấu đi cán cân thanh toán, chức năng phục vụ thể hiện ở chỗ vận tải quốc tể đảm bảo nhu cầu chuyên chở hàng hoá xuất nhập khẩu của mỗi nước. Chức năng kinh doanh thể hiện trong việc thực hiện xuất khẩu sản phẩm vận tải đường biển. Xuất khẩu sản phẩm vận tải là một hình thức xuất nhập khẩu vô hình rất quan trọng. Thu chi ngoại tệ về vận tải đường biển và các dịch vụ liên quan đến vận tải đường biển là một bộ phận quan trọng trong cán cân thanh toán quốc tế. Phát triển vận tải đặc biệt là phát triển đội tàu buôn có tác dụng tăng thêm nguồn thu ngoại tệ bằng cách hạn chế nhập khẩu sản phẩm vận tải. Do đó vận tải ảnh hưởng tích cực đến cán cân thanh toán quốc tế. Nếu vận tải đường biển của một nước không đáp ứng được nhu cầu chuyên chở hàng hóa ngoại thương thì phải chi ra một lượng ngoại tệ nhất định để nhập khẩu sản phẩm vận tải. Sự thiếu hụt trong cán cân xuất nhập khẩu sản phẩm vận tải ảnh hưởng đến cán cấn thanh toán quốc tế. Trái lại dư thừa cán cân thanh toán về vận tải có thể bù đắp một phần thiếu hụt trong cán cân mậu dịch nói riêng và cán cân thanh toán quốc tế nói chung. 2.1.1 Dịch vụ vận tải 2.1.1.1 Khái niệm. Dịch vụ là một hoạt động bao gồm các nhân tố không hiện hữu, giải quyết các mối quan hệ giữa khách hàng hoặc tài sản mà khách hàng sở hữu với người cung cấp mà không có sự chuyển giao quyền sỡ hữu. Vận tải là một hoạt động kinh tế có mục đích của con người nhằm thay đổi vị trí của hàng hoá và bản thân con người từ nơi này đến nơi khác bằng các phương tiện vận tải. Dịch vụ vận tải là dịch vụ mà trong đó người vận tải thực hiện yêu cầu của khách hàng theo sự thoả thuận để vận chuyển hàng hoá và bản thân con người từ nơi này đến nơi khác nhằm thu được lợi nhuận kinh tế. Căn cứ vào phạm vi sử dụng, vận tải được chia làm hai loại là vận tải công cộng và vận tải nội bộ. 2.1.1.2 Đặc điểm dịch vụ vận tải. Vận tải là một ngành sản xuất vật chất đặc biệt.Bên cạnh những đặc điểm chung giống như các ngành sản xuất vật chất khác, vận tải còn có những đặc điểm riêng biệt:  Quá trình sản xuất trong vận tải là quá trình tác động về mặt không gian lên đối tượng chuyên chở chứ không phải là quá trình tác động về mặt kỹ thuật lên đối tượng lao động.  Sản xuất trong vận tải không tạo ra sản phẩm mới, mà chỉ tạo ra một loại sản phẩm đặc biệt-sản phẩm vận tải.  Sản xuất trong vận tải không làm thay đổi hình dạng kích thước và tính chất lý hóa của chúng.  Sản phẩm của ngành vận tải cũng mang hai thuộc tính của hàng hoá là giá trị và giá trị sử dụng nhưng bản chất của nó là sự thay đổi vị trí của đối tượng chuyên chở.  Sản phẩm vận tải không có hình dạng kích thước cụ thể, không tồn tại ngoài quá trình sản xuất ra nó. Sản phẩm vận tải không có khảng cách về thời gian giữa sản xuất và tiêu dùng, nó được sản xuất và tiêu dùng cùng một lúc khi sản xuất kết thúc thì sản phẩm vận tải cũng được tiêu dùng ngay.  Sản phẩm vận tải là vô hình.  Vận tải không có khả năng dự trữ sản phẩm. 2.1.3 Cơ sở vật chất kỹ thuật của vận tải đường biển 2.1.3.1 Tuyến đường biển Từ lâu loài người đã biết lợi dụng đại dương làm tuyến đường giao thông để chuyên chở hành khách và hàng hoá giữa các nước với nhau. Các tuyến đường vận tải trên biển hầu hết là những tuyến đường giao thông tự nhiên ( trừ việc xây dựng các hải cảng, kênh đào quốc tế) do đó không đòi hỏi phải đầu tư về tiền vốn, nguyên vật liệu, sức lao động để xây dựng và bảo quản các tuyến đường vận tải đường biển. Đây là những nguyên nhân làm cho giá thành vận tải đường biển thấp hơn so với các phương tiện khác. Năng lực chuyên chở của vận tải đường biển là rất lớn. Nói chung năng lực chuyên chở vận tải đường biển không hạn chế như các vận tải khác. Tuy nhiên đường biển luôn bị ảnh hưởng bởi các điều kiện tự nhiên:...Những rủi ro thiên tai, tai nạn bất ngờ trên biển thường gây ra những tổn thất rất lớn cho tàu, hàng hoá và sinh mạng con người. Những rủi ro, tổn thất trong vận tải đường biển đang được khắc phục dần bằng những phương tiện kỹ thuật hiện đại. 2.1.3.2 Cảng biển Cảng biển gắn liền với sự phát triển của ngành hàng hải. Trước đây cảng biển chỉ được coi là nơi tránh gió to bão lớn của các loại tàu bè. Trang thiết bị của cảng lúc bấy giờ rất đơn giản và thô sơ. Ngày nay, cảng biển không chỉ là nơi bảo vệ an toàn cho tàu biển trước các hiện tượng thiên nhiên bất lợi mag trươc hết cảng biển là một đầu mối giao thông, một mắc xích quan trọng của quá trình vận tải. Cảng biển thực hiện các chức năng và nhiệm vụ khác nhau. Do đó, kỹ thuật xây dựng trang thiết bị, cơ cấu tổ chức của cảng cũng khác nhau và ngày càng được hiện đại hóa. Cảng là nơi ra vào, neo đậu của tàu thuyền, là nơi phục vụ tàu và hàng hoá chuyên chở trên tàu, là đầu mối giao thông chuyên chở trong hệ thống vận tải. Dọc bờ biển Việt Nam hiện nay đã hình thành gần 80 hải cảng lớn, nhỏ với tổng năng lực thông qua cảng trên 50 triệu tấn/năm. Cảng biển có hai chức năng chủ yếu: - Cảng phục vụ các công cụ vận tải đường biển, trước hết là tàu biển. Với chức năng cảng phải đảm bảo cho tàu bè ra vào và neo đậu an toàn, từ đó cảng có nhiệm vụ phục vụ các công việc cụ thể: Đưa đón tàu bè ra vào, bố trí nơi neo đậu, làm vệ sinh tàu, sữa chữa tàu, cung ứng các nhu cầu cần thiết cho tàu. Vì vậy hoạt động của cảng thường vượt ra ngoài phạm vi địa giới của cảng tức là trên phạm vi thành phố cảng. Ví dụ thành phố cảng Hải Phòng, thành phố cảng trở thành một trong những trung tâm công nghiệp thương mại dịch vụ và trung tâm dân cư đông đúc. - Cảng có chức năng phục vụ hàng hóa, tại cảng biển quá trình chuyên chở hàng hóa được bắt đầu, kết thúc hoặc tiếp tục hành trình. Chức năng này được tập trung ở nhiệm vụ xếp dỡ hàng hóa lên xuống các công cụ vận tải. Ngoài ra cảng còn thực hiện nhiều nhiệm vụ khác liên quan đến hàng hóa như: bảo quản hàng hóa tại kho bãi, phân loại hàng hóa, sửa chữa bao bì, kí mã hiệu, kiểm tra số lượng, chất lượng, thủ tục giao nhận hàng hóa... Cảng biển được phân thành nhiều loại tuỳ theo tiêu chuẩn quy định, theo mục đích sử dụng: cảng buôn, cảng quân sự, cảng cá, cảng trú ẩn...Đối với cảng buôn được chia thành nhiều loại: cảng biển tự nhiên, cảng sông biển, cảng nội địa, cảng quốc tế, cảng tổng hợp, cảng chuyên dùng. Ở nước ta, trong những năm qua nhà nước đã ưu tiên và trực tiếp đầu tư cho phát triển hạ tầng giao thông vận tải đường biển. Trong đó có hệ thống cảng biển. Hệ thống cảng biển Việt Nam từng bước hiện đại hóa và cơ bản đáp ứng được nhu cầu đặt ra. 2.1.3.3. Trang thiết bị của cảng. Ranh giới của một cảng biển thường gồm hai phần: phần mặt nước và phần mặt liền. Trên mỗi phần diện tích của cảng có các công trình và các trang thiết bị nhất định. Trên phần mặt nước của cảng bao gồm: vũng tàu, luồng lạch. cầu tàu; phần dất liền chủ yếu có: khu vực kho bãi, hệ thống đường giao thông, khu vực nhà xưởng, khu làm việc của các cơ quan hải quan...cảng biển là công trình có hàng loạt trang thiết bị kỹ thuật để phục vụtàu và hàng hoá. Trang thiết bị của cảng bao gồm: - Thiết bị kỹ thuật phục vụ tàu ra vào, tàu chờ đợi, tàu neo đậu.nhóm thiết bị này gồm: luồng lạch, hệ thống phao tiêu, tín hiệu, phao nổi, cầu tàu... - Thiết bị phục vụ kỹ thuật, phục vụ công nghiệp xếp dỡ hàng hoá lên xuống công cụ vận tải và ở trong kho bãi của cảng. Thiết bị xếp dỡ là yếu tố kỹ thuật quan trọng nhất trong hpạt động sản xuất kinh doanh của cảng. Nó quyết định năng suất xếp dở, khả năng thông qua về tàu và hàng hoá của cảng. Hệ thống đường giao thông trong phạm vi cảng và cách nối liền các hệ thống vận tải thống nhất như thế nào quyết định phạm vi hậu phương phục vụ của cảng. Thông thường trong một cảng có hệ thống đường bộ, đường sắt, đường thuỷ và công cụ vận chuyển hàng từ vào hậu phương và ngược lại. Các thiết bị nổi trên phần mặt nước của cảng như: phao nổi, cầu nổi, cần cầu nổi, tàu hoa tiêu.... Các thiết bị kỹ thuật phục vụ cho công tác liên lạc, ánh sáng, cung cấp nước, nhà làm việc, câu lạc bộ thuỷ thủ...khi tổ chức chuyên chở hàng hoá xuất nhập khẩu và thuê tàu, bắt buộc chúng ta phải nguyên cứu kỹ các đặt điểm của trang thiết bị cảng. 2.1.3.4 Phương tiện vận chuyển. Phương tiện vận chuyển bằng đường biển là tàu biển. Tàu buôn là tàu biển được dùng vào mục đích kinh doanh trong hàng hải. Tàu buôn gồm: tàu vận tải hàng hoá, tàu vận tải hành khách, tàu đánh cá, tàu hoa tiêu, tàu nghiên cứu khoa học... Trên thế giới trong những năm gần đây, đội tàu buôn tăng lên không ngừng về số lượng, trọng tải và thay đổi nhiều về chất lượng. Xu hướng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong đội tàu buôn thế giới được thể hiện trong việc thay đổi về động cơ và nhiên liệu dùng trong hàng hải. Tăng tỷ trọng tàu chạy bằng động cơ diêzen và giảm tỷ trọng tàu chạy bằng động cơ hơi nước. Đội tàu buôn thường được chuyên môn hoá và kết hợp với tổng hợp hoá. Sự ổn định nguồn hàng trong các tuyến chuyên chở đã tạo điều kiện cho việc chuyên môn hoá các loại tàu buôn như: Tàu chở dầu, tàu chở hơi đốt dạng lỏng, tàu container, tàu chở ôtô...bên cạnh đó, trong hàng hải thế giới vẫn phát triển xu hướng đóng và khai thác các loại tàu có tính chất tổng hợp, tức là tàu có đặc điểm thích ứng với chuyên chở một số các mặt hàng. Hai xu hướng này không loại trừ nhau mà bổ sung cho nhau góp phần làm cho đội tàu buôn ngày càng thích hợp với nhu cầu phong phú, đa dạng trong buôn bán quốc tế. Vai trò của vận tải đường biển trong nền kinh tế quốc dân được thể hiện rõ ở những lợi ích chính trị, kinh tế, quân sự do đội tàu buôn mang lại. Kinh nghiệm lịch sử của các nước có ngành hàng hải phát triển đã chứng minh rằng: xây dựng và phát triển đội tàu buôn mang lại những lợi ích to lớn. Vì vậy phát triển đội tàu buôn là chiến lược và chính sách phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước. 2.1.4 Các bước tiến hành dịch vụ vận tải biển. 2.1.4.1 Tiếp nhận yêu cầu khách hàng. Khi khách hàng có nhu cầu chuyên chở hàng hoá bằng đường biển hoặc khách hàng muốn thuê tàu để chở hàng, công ty vận tải tuỳ vào điều kiện và khả năng củ mình để chấp nhận việc chở hàng hoặc cho thuê một phần hay toàn bộ con tàu đồng thời công ty vận tải cung cấp lịch trình chuyên chở hàng hoá. 2.1.4.2 Thông báo giá. Sau khi chấp nhận yêu cầu của khách hàng hãng tàu sẽ tiến hành thông báo biểu giá cho khách hàng Thông thường biểu giá đã được hàng tàu qui định sẵn, việc khách hàng muốn thay đổi là khó có thể đáp ứng được, khách hàng không được tự do thoả thuận biểu cước mà chỉ thương lượng để hang tàu giảm giá một phần hay hưởng chiết khấu.  Mức cước đường biển có thể chia làm hai loại: - Cước tàu rong dao động theo điều kiện cung và cầu của thị trường. Trong thời kỳ thịnh vượng cước tàu rong tăng còn trong thời kỳ suy thoái cước lại giảm. - Cước tàu chợ do công hội hàng hải và những người điều hành hàng hải khác ấn định có lien quan nhiều đến chi phí kinh doanh và tương đối ổn định trong một thời gian. 2.1.4.3 Ký kết hợp đồng. Sau khi khách hàng chấp nhận giá cả cũng như những dịch vụ của hãng tàu thì sẽ đi đến ký kết hợp đồng. Hợp đồng này là hợp đồng vận chuyển. Hợp đồng vận chuyển là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên vận chuyển có nghĩa vụ chuyển tài sản đến địa điểm đã định theo thoả thuận và giao tài sản đó cho người có quyền nhận, còn bên thuê vận chuyển có nghĩa vụ đã cước phí vận chuyển. Hợp đồng vận chuyển này do bên chuyên chở soạn và xác nhận. 2.1.4.4 Tiếp nhận và gửi hàng cho tàu. Đúng theo lịch trình người gởi hàng sẽ gửi hàng cho hãng tàu tiếp theo đó hãng tàu sễ nhận hàng và gửi hàng cho tàu. Khi nhận hàng đồng thời hãng tàu sẽ cung cấp đầy đủ chứng từ liên quan đến việc giao nhận cho người gửi hang, tiếp theo đó hang tàu gửi hàng lên tàu và nhận chứng từ từ người chuyên chở. Việc vận chuyển hàng hoá bằng đường biến sẽ chịu tác động và điều chỉnh bởi các công ước quốc tế  Các công ước quốc tế. Hague: Công ước đầu tiên về vận chuyển hàng hoá bằng đường biển gọi là quy tắc Hague được chuẩn y năm 1924. Mục đích của nó là thống nhất luật pháp hiện hành thời bấy gìơ của một số nước nhằm bảo vệ quyền lợi của hàng hoá bằng cách ngăn cấm các điều khoản miễn trách về sai sót của người chuyên chở trong việc bảo quản và trông coi hàng hoá. Hague- Visby: mục đích của quy tắc này là sửa đổi quy tắc Hague với mức độ hạn chế đáp ứng sự phê phán của nhiều phía. Nói riêng quy tắc về giới hạn trách nhiệm bồi thường đối với một kiện hàng hoặc một đơn vị tươngd tự đã bị phê phán, một mặt là vì số tiền giới hạn bồi thường thấp( trước hết là do lạm phát) và mặt khác vì sự phát triển kỹ thuật( container hoá, sử dụng palet...) đã nói lên các quy tắc hiện hành không phù hợp. Hamburg: việc sửa đổi theo quy tắc Hague- Visby không làm thoả mãn lợi ích của người chuyên chở. sự cần thiết phải sửa đổi hoàn toàn quy tắc Hague dẫn tới việc chấp nhận một công ước mới gọi là công ước của liên hợp quốc về vận chuyển hàng hoá bằng đường biển, 1978 tại Hamburg tháng 3/1978, do đó có tên là quy tắc Hamburg. 2.1.4.5 Thanh toán cước phí và dịch vụ. Với sự thoả thuận như trong hợp đồng vận tải, người sử dụng dịch vụ vận tải có nghĩa vụ phải thanh toán tiền cước. Việc thanh toán có thể sử dụng các phương thức thanh toán.  Phương thức chuyển tiền  Phương thức thanh toán bằng cách ghi sổ  Phương thức nhờ thu  Phương thức tín dụng chứng từ Tuỳ theo sự thoả thuận giữa các bên mà người sử dụng dịch vụ vận tải chọn phương thức thanh toán. Nhưng trong phạm vi vận tải nội địa thì phương thức chuyển tiền thường được sử dụng nhiều hơn. Đó là phương thức thanh toán mà người chuyển tiền (trả tiền) thông qua ngân hàng gửi trả một số tiền nhất định cho người hưởng lợi. Phương tiện thanh toán sử dụng là điện chuyển tiền hay thư chuyển tiền. 2.2 Thực trạng dịch vụ vận tải biển của công ty trong thời gian qua 2.2.1 Đánh giá tình hình hoạt động sản xuất của công ty TiÕn hµnh ph©n tÝch chung t×nh h×nh s¶n xuÊt kinh doanh cña doanh nghiÖp lµ c¬ së ®Ò ra c¸c biÖn ph¸p nh»m n©ng cao hiÖu qu¶ ho¹t ®éng s¶n xuÊt kinh doanh cña doanh nghiÖp. ViÖc ph©n tÝch cã thÓ diÔn ra hµng th¸ng hµng quý hoÆc hµng n¨m tuú theo quy m« cña doanh nghiÖp. Bảng 4: Tình hình sản xuất kinh doanh của công ty Chỉ tiêu Đơn vị Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Số lượng Trị giá (triệu) Số lượng Trị giá (triệu) Số lượng Trị giá (triệu) DV SC Vệ sinh TD Dịch vụ cảng Vận tải biển DV TM Chiếc chiếc Tấn Tấn Lít 22 9 674.215 15.535 1000475 4006 12317 9484 12914 6430 38 14 901.200 19.907 1085597 10674 19159 18024 17486 4363 33 13 850320 22.240 858635 13562 24732 28550 27922 6020 Tổng triệu 45151 69706 100786 (Nguồn Phòng Kế Hoạch- Kinh Doanh) Đánh giá chung: Vinashin New World là một đơn vị trực thuộc tập đoàn tàu thủy Vinashin có mối liên hệ chặt chẽ với các đơn vị thành viên của tập đoàn nên hầu hết các hợp đồng sản xuất kinh doanh của công ty liên quan đến ngành dịch vụ sửa chữa tàu biển, các dịch vụ giao nhận vận tải, dịch vụ vận tải biển, dịch vụ làm sạch tàu dầu, dịch vụ thương mại. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, Công ty sản xuất cũng như là tiêu thụ chủ yếu theo chỉ tiêu được giao của Tập đoàn Vianashin và chỉ tiêu này thường thay đổi theo từng năm nên nó không theo chủ quan của công ty vì vậy mà doanh thu liên tục biến động qua các năm. Nhìn vào bảng sản xuất kinh doanh của công ty ta thấy qua các năm, doanh thu của công ty liên tục tăng. Tuy nhiên sự gia tăng này không đồng đều cho thấy mức độ ổn định của công ty chưa cao, còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan bên ngoài. Tổng doanh thu năm 2007 là 45.151 triệu đồng, con số này năm 2008 là 69.706 triệu đồng, tốc độ tăng doanh thu là 54,3 %. Để đạt được tốc độ doanh thu đó, Công ty đã có những chiến lược phát triển kinh tế rõ ràng, xác định được những mục tiêu hết sức cụ thể. Vẫn giữ được mối quan hệ tốt với những khách hàng truyền thống, còn đối với những khách hàng mới thì có chính sách đãi ngộ đặc biệt. Năm 2008 doanh thu tăng cũng do tác động của môi trường kinh tế, sự tác động tích cực của yếu tố bên ngoài khiến hoạt động sản xuất kinh doanh gặp nhiều thuận lợi, lượng hàng hóa vận chuyển tăng mạnh, giá cước dịch vụ tăng, dịch vụ thương mại tăng….những yếu tố đó đã góp phấn vào tăng doanh thu năm 2008. Trong năm 2009 doanh thu đạt 100.786 triệu đồng tăng 44,5 % so với năm 2008. Mặc dù tốc độ tăng năm 2009 không bằng năm 2008 nhưng đây vẫn là con số lí tưởng so với mức tăng bình quân chung của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này. Giai đoạn đầu năm 2009, tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã ảnh hưởng nặng nề tới tốc độ tăng doanh thu của công ty. Những hợp đồng vận chuyển cũ bị ứ đọng, hợp đồng vận chuyển mới thì khan hiếm, điều đó góp phần làm doanh thu công ty có xu hướng giảm. Để đối phó với tình hình đó, Công ty đã có những chiến lược để khắc phục khó khăn bằng cách giảm giá cước vận chuyển, giá cước các loại hình dịch vụ cũng giảm. Mặc dù lợi nhuận từ doanh thu giảm nhưng bù lại công ty vẫn đạt được doanh thu ở mức cao nhờ có những hợp đồng của khách hàng truyền thống. Doanh thu công ty giai đoạn đầu năm 2009 so với năm 2008 có tăng nhẹ. Giai đoạn cuối năm 2009, tình hình sản xuất kinh doanh của công ty đạt được những kết quả rực rỡ. Những bản hợp đồng vận tải đường dài với giá trị lớn được kí kết, hệ thống dịch vụ cảng biển hoạt động hiệu quả, chiến dịch marketting tới khách hàng có chiều sâu…..Những yếu tố đó làm doanh thu của giai đoạn cuối năm 2009 tăng vọt. Cũng phải nói đến nguyên nhân khách quan tác động không nhỏ đến thành tựu đó, đó là sự hồi phục của nền kinh tế thế giới tác động đến nền kinh tế Việt Nam. Hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa diễn ra sôi động với số lượng lớn, nắm bắt được nhu cầu hoạt động vận tải đường biển ở giai đoạn này, Công Ty đã mở rộng những tuyến vận tải mới hoạt động trong phạm vi Bắc Nam. Mặc dù giá cả nguyên vật liệu trong thời gian này liên tục tăng, chi phí đầu tư lớn nhưng công ty vẫn đạt được mức doanh thu mà bất kì công ty nào hoạt động trong lĩnh vực này đều mơ ước. Để đạt được kết quả đó, công ty đã cắt giảm những thủ tục hải quan rườm rà, những giấy tờ không cần thiết,dịch vụ vận tải phong phú, giá cước vận chuyển cạnh tranh…Đó là những yếu tố góp phần tăng doanh thu của giai đoạn cuối năm 2009. Tổng quát lại, nhìn vào bảng doanh thu của công ty qua các năm đã nói nên được thực trạng sản xuất kinh doanh rất hiệu quả, công ty đã vượt chỉ tiêu mà tập đoàn đã đề ra và phấn đấu hoàn thành kế hoạch trong năm 2010  Phân tích về cơ cấu dịch vụ Về cơ cấu dịch vụ, nhìn chung sản lượng cũng như doanh thu qua các năm đều tăng nhưng với tốc độ không đồng đều. Tốc độ này phụ thuộc vào chỉ tiêu của cả tập đoàn cũng như chiến lược sản xuất kinh doanh của công ty qua các giai đoạn. Thông thường, cuối năm tốc độ tăng nhanh hơn so với đầu năm do cuối năm do lưu lượng hàng hóa phục vụ cho tết nguyên đán cổ truyển rất lớn vì vậy doanh thu của công ty cũng tăng theo Qua biểu đồ cơ cấu dịch vụ qua các năm thể hiện được vị trí của các ngành dịch vụ đóng góp vào doanh thu của công ty: Biều đồ 1: Biểu đồ cơ cấu loại hình dịch vụ của công ty năm 2007 S ales dch v s a ch a 9% v sinh tàu du 27% dch v cng 21% vn ti bin 29% dch v th ng mi 14% Nguồn : Phòng KH-KD Nhận xét chung: Năm 2007 ngành vận tải biển đứng đầu với 28,6%,vệ sinh tàu 27,2%, dịch vụ cảng 21 %, dịch vụ thương mại 14 % và dịch vụ sửa chữa là 9 %. Nhìn vào cơ cấu dịch vụ năm 2007 cho thấy ngành vận tải biển chiếm được vị trí số một trong sự phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Năm 2007, Công ty đã tập trung phát triển ngành vận tải biển với những chính sách giá cả hết sức ưu đãi, cước phí vận chuyển thấp hơn so với những công ty khác trên thị trường vận tải, mặc dù lợi nhuận trên doanh thu có giảm nhưng bù lại doanh thu tăng mạnh khiến lợi nhuận của ngành vận tải biển vẫn rất cao. Chính sách marketting có chiều sâu và hiệu quả, công ty có bộ phận marketting rất chuyên nghiệp nhằm quảng bá hình ảnh của công ty trên các phương tiện thông tin nhờ đó mà hình ảnh của Công ty được khách hàng biết đến nhiều hơn, những hợp đồng chuyên chở hàng hóa với số lượng lớn được kí kết dài hạn. Ngành vệ sinh tàu dầu chiếm 27 %, đây là ngành khá mới mẻ ở nước ta hiện nay, do vậy công ty có chiến lược phát triển là “ đi tắt đón đầu “. Bước đầu cho thấy ngành này hoạt động rất hiệu quả và đạt được thành tựu khá ấn tượng so với lúc trước khi bắt đầu đi vào hoạt động. Ngành dịch vụ cảng chiếm 21 % trong doanh thu năm 2007, mặc dù chưa khai thác triệt để những nguồn lợi mà diện tích mặt nước mang lại nhưng ngành dịch vụ cảng vấn đóng góp vào doanh thu của công ty với giá trị lớn. Còn ngành dịch vụ sửa chữa và dịch vụ thương mại không phải là ngành chính của công ty nên mức đóng góp vào doanh thu vẫn còn hạn chế và trong những năm tới công ty sẽ có kế hoạch phát triển những ngành này nhằm khai thác những lợi thế mà công ty có được. Biểu đồ 2 : Biểu đồ cơ cấu loại hình dịch vụ của Công Ty năm 2008 Nguồn : Phòng KH-KD Nhận xét chung :Năm 2008 đứng đầu là vệ sinh tàu dầu chiếm 28,0%, dịch vụ cảng 26,0%, vận tải biển 25%. Ba ngành này chiếm tỷ trọng lớn đóng góp vào tổng doanh thu của công ty. So với năm 2007, ngành vệ sinh tàu dầu có sự nhảy vọt và đứng đầu trong cơ cấu các loại hình dịch vụ. Nguyên nhân là những hợp đồng vệ sinh tàu dầu đã được kí hết từ những năm trước và chế độ vệ sinh tàu theo chu kì nên trong năm 2008 doanh thu của ngành này đạt được khá cao. Năm 2008, dịch vụ cảng cũng có bước tiến lớn chiếm 26%. Giá cước bến bãi cạnh tranh hơn so với những cảng khác, mặt khác do cải thiện được những thủ tục hải quan rườm rà nên cảng của công ty là nơi tập trung bốc dỡ hàng hóa của hầu hết các tàu thuyền ở Cảng Hải Phòng. Ngành vận tải biển của công ty trong năm 2008 mặc dù vẫn hoạt động hiệu quả nhưng chỉ đứng vị trí thứ 3. Nguyên nhân là do ngành vận tải biển chịu ảnh hưởng nặng nề từ sự tăng lên của nguyên vật liệu, điều đó làm giá cước vận chuyển tăng cao ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Mặc dù cước vận chuyển có thấp hơn so với những công ty hoạt động trong cùng lĩnh vực này nhưng vẫn không tránh khỏi sự khan hiếm hợp đồng vận chuyển có giá trị lớn. Năm 2008, ngành dịch vụ thương mại và dịch vụ sửa chữa vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ, thể hiện công ty chưa quan tâm, chú trọng phát triển những ngành không có lợi thế Biểu đồ 3 : Biểu đồ cơ cấu loại hình dịch vụ của Công Ty năm 2009 Nguồn: Phòng KH-KD Nhận xét chung : Năm 2009 dịch vụ cảng chiếm 28,32%, vận tải biển 27,7%,vệ sinh tàu 24,5%. Với lợi thế có những bến bãi đậu contairner rộng, sát cảng biển nên công ty phát huy tối đa những lợi thế này. Lượng hàng hóa chung chuyển qua cảng tăng mạnh qua các năm cho thấy các cảng, bến bãi này có vị trí hết sức thuận lợi để phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh. Cước phí bễn bãi thấp, an toàn bảo đảm hàng hóa lưu kho, thái độ phục vụ tận tình, thủ tục giấy tờ nhanh gọn…..Những yếu tố đó cùng với thuận lợi về vị trí địa lí đã đưa cảng, bến bãi của công ty có vị trí chiến lược, là mắt xích quan trọng trong luồng giao thông hàng hóa qua thành phố cảng. Lĩnh vực vận tải biển năm 2009 đứng ở vị trí thứ 2. Mặc dù môi trường kinh tế tác động không nhỏ đến hàng hóa xuất nhập khẩu vận tải nhưng công ty vẫn đạt được những kết quả khả quan. Những hợp đồng chuyên chở hàng hóa thiết yếu như lương thực thực phẩm, hàng hóa khô tuy có giảm nhưng không đáng kể. Để khắc phục tác động yếu tố chủ quan đến tình hình sản xuất kinh doanh của công ty. Ban lãnh đạo Công ty đã chú trọng đến dịch vụ chăm sóc khách hàng, giữ mối quan hệ tốt đẹp với những khách hàng truyền thống, tìm kiếm khách hàng mới. Công ty cũng đã mở rộng thêm một số tuyến vận chuyển nội địa theo hướng Bắc – Nam do vậy nhiều hợp đồng chuyên chở hàng hóa đường dài được kí kết.Vì thế giai đoạn cuối năm 2009, doanh thu quý IV đạt được bằng cả quý I và quý II. Năm 2009, ngành vệ sinh tàu dầu đứng ở vị trí thứ 3. Nguyên nhân là những hợp đồng của khách hàng đã kí kết bị hủy bỏ do chi phí ở lĩnh vực này khá cao, trong khi các công ty, doanh nghiệp trong nước đang gồng mình để chống chọi với thời kì khủng hoảng vì vậy mà những hợp đồng dịch vụ vệ sinh tàu dầu theo chu kì bị trì hoãn, lượng khách hàng tự tìm đến công ty cũng thưa dần. Chính vì những lí do đó mà ngành vệ sinh tàu dầu không còn giữ vững vị trí hàng đầu về tỷ trọng giữa các ngành năm 2009  Phân tích các loại hình dịch vụ của công ty Trong lĩnh vực dịch vụ sửa chữa tàu, công ty không đứng ra sửa chữa trực tiếp các tàu hư hỏng mà nhận hợp đồng sửa chữa sau đó hợp tác với các công ty thành viên của tập đoàn sửa chữa tàu hỏng trên. Những hợp đồng có được dựa trên uy tín của công ty đã được xây dựng trong thời gian qua và sự hỗ trợ tín nhiệm của tập đoàn VINASHIN. Có thể nói dịch vụ sửa chữa tàu không phải là hoạt động sản xuất kinh doanh chính của công ty nhưng nó mang lại nguồn thu không nhỏ. Năm 2007 số lượng tàu sửa chữa là 22 con tàu đã mang lại nguồn thu 4,006 tỷ đồng cho công ty. Năm 2008 có 38 con tàu đã cập bến sửa chữa tại công ty. Nguồn thu từ hoạt động dịch vụ này trong năm là 10,674 tỷ đồng. Doanh thu dịch vụ sửa chữa tàu năm 2008 tăng 6,668 tỷ (tăng 166%). Năm 2009 có 33 con tàu tín nhiệm dịch vụ sửa chữa cho công ty mang lại 13,562 tỷ tăng 27% so với năm 2008. Năm 2009 số con tàu sửa chữa tại đây ít hơn 5 con so với năm 2008. Nguyên nhân do chịu ảnh hưởng nặng nề từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, lượng tàu phục vụ chung chuyển giảm cộng với chi phí sửa chữa cao nên số lượng tàu sửa chữa có giám nhưng doanh thu của công ty vẫn tăng. Những con số trên có được phải nói đến sự nỗ lực từ chính hệ thống các ban ngành đã xây dựng nên uy tín của công ty với bạn hàng nội địa cũng như quốc tế. Chất lượng dịch vụ được nâng lên qua từng giai đoạn mang đến cho khách hàng sự tin tưởng và tín nhiệm gần như tuyệt đối.  Lĩnh vực vệ sinh tàu dầu: Đây là lĩnh vực mới ở nước ta, hiện nay có rất ít công ty hoạt động trong lĩnh vực này và công ty Vinashin New World là đơn vị đầu tiên hoạt động trong lĩnh vực này. Với chiến dịch đi tắt đón đầu, Công ty đẩy mạnh phát triển ngành vệ sinh tàu dầu bằng cách nâng cao chất lượng dịch vụ, giá cả cạnh tranh,quảng cáo mạnh mẽ trên website…..Những hoạt động trên không những mở rộng quy mô thị trường, hướng đến những thị trường tiềm năng cả trong nước lẫn nước ngoài. Và dần dần vị thế của Vinashin New World được nâng cao trong lĩnh vực này và tạo được niềm tin cho khách hàng trong và ngoài nước như: Nhật Bản, Pháp....Nhờ vậy mà doanh thu của ngành không ngừng tăng qua các năm. Năm 2007 Công ty đã làm sạch được 9 tàu đạt doanh thu 12,317 tỷ đồng, đến năm 2008 thì số lượng tàu được là sạch tăng lên 19 tàu với tổng doanh thu đạt 19,159 tỷ đồng tăng 55,5% so với năm 2007. Năm 2009 thì lĩnh vực này có sự tăng trưởng nhảy vọt đạt doanh thu 24,732 tỷ đồng tăng 29% so với năm 2008.  Lĩnh vực vận tải biển: Hoạt động giao nhận vận tải biển mang lại nhiều thuận lợi nhất định cho các nhà xuất nhập khẩu, nó có nhiều ưu điểm so với vận tải đường không, đường bộ. Khối lượng vận chuyển lớn là một ưu điểm lớn của vận tải đường biển vì vậy nắm bắt được ưu điểm này nên công ty đó phát triển đẩy mạnh hoạt động dịch vụ vận tải đường biển. Với phương trâm “Nhanh chóng-Chính xác” công ty đó từng bước hoàn thiện mình về dịch vụ vận tải đường biển và dần dần thương hiệu của công ty được nâng lên tầm cao mới ở trong nước cũng như ngoài nước về lĩnh vực này. Những thủ tục hải quan rườm rà dần dần được dỡ bỏ, giá cả hết sức cạnh tranh, chất lượng dịch vụ tốt, chiến lược marketting có hiệu quả……là những yếu tố hàng đầu giúp công ty liên tục thành công trong ngành dịch vụ vận tải đường biển. Năm 2007 doanh thu của ngành này là 12,914 tỷ đồng. Năm 2008 đóng góp cho công ty 17,486 tỷ đồng tăng 35,4%. Số lượng hàng hóa vận chuyển tăng 28,1% trong khi doanh thu tăng 35,4% cho thấy có sự tăng lên về giá cả, cước phí bến bãi. Do có sự biến động của giá nhiên liệu trên thị trường thế giới và chi phí đầu vào tăng làm cho giá cước vận chuyển đường biển cũng tăng theo. Điều này làm tăng doanh thu tạm thời cho công ty nhưng do sự phát triển không ổn định này làm cho doanh thu tăng không ổn định trong một thời gian dài. Để có thể phát triển ổn định công ty cần liên tục đổi mới trong phương thức lãnh đạo,tìm kiếm thị trường vận tải mới. Năm 2009 mặc dù ngành vận tải biển chịu tác động không nhỏ của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, hoạt động chung chuyển hàng hóa gặp nhiều bất lợi, giá xăng dầu leo thang từng giai đoạn nhưng doanh thu của công ty vẫn đạt 27,922 tỷ tăng 59,6% so với 2008. Một con số khá ấn tượng trong thời kì khủng hoảng, trong giai đoạn này hầu hết các doanh nghiệp đều đối mặt với mức tăng trưởng âm nhưng điều đó không xuất hiện tại Vinashin new world, mức tăng 59,6% đó nói lên sự lớn mạnh vượt bậc về chiều rộng cũng như chiều sâu của ngành dịch vụ vận tải đường biển của công ty  Lĩnh vực thương mại: Trong những năm qua giá cả thị trường xăng dầu liên tục biến động đó ảnh hưởng lớn đến việc kinh doanh xăng dầu của công ty. Mặt khác hiện nay có nhiều đơn vị kinh doanh trong lĩnh vực này nên đó tạo ra một thị trường cạnh tranh khắc nghiệt. Đây cũng không phải là ngành chính của công ty nên trong những năm qua công ty cũng không mở rộng kinh doanh lĩnh vực này. Năm 2008 so vơi năm 2007 doanh thu giảm 32% và đến năm 2009 tăng so với năm 2008 là 37,9%. Xu hướng trong những năm tới công ty sẽ chú trọng phát triển lĩnh vực này do đây được đánh giá là lĩnh vực có nhiềm tiềm năm kinh tế. 2.2.2 Phân tích kết quả kinh doanh của công ty Bảng 5: Kết quả sản xuất kinh doanh giai đoạn 2007-2009 Chỉ tiêu 2007 2008 2009 Tổng doanh thu 45.151.559.000 69.706.611.500 100.786.371.000 Giá vốn hàng bán 37.256.765.698 48.235.256.589 76.125.689.578 Lợi nhuận gộp 8.258.802.302 21.471.354.911 24.660.681.422 Doanh thu từ TC 35.256.356 41.687.650 49.892.000 Chi phí tài chính 1.256.369.000 1.456.256.000 1.562.369.600 Chi phí bán hàng 325.256.000 412.456.500 589.303.600 Chi phí QLDN 1.012.365.369 1.158.409.258 1.696.988.000 LN trước thuế 5.700.068.289 18.485.920.803 20.861.912.217 Nộp thuế 1.596.019.121 5.176.057.824 6.316.492.062 LN sau thuế 4.164.049.168 13.109.862.979 16.242.408.162 (Nguồn phòng KH-KĐ) Đơn vị: đồng Nhận xét chung : Qua bảng số liệu ta thấy doanh thu của công ty không ngừng tăng qua các năm. Năm 2008 doanh thu của công ty đạt 69.706.611.500 đồng tăng 53,1% so với năm 2007 và con số này đó tăng lên 100.786.371.000 đồng vào năm 2009 và tăng 44,6% so với năm 2008. Nguyên nhân chủ quan dẫn đến doanh thu tăng là do công ty đã đầu tư thêm một số việc mở thêm tuyến đường hoạt động mới từ Hải Phòng ra nước ngoài. Do đó làm tăng doanh thu cho công ty qua các năm. Đây là nguyên nhân chủ quan tác động tích cực tới hiệu quả kinh doanh của công ty. Một nguyên nhân khác nữa tác động đến sự tăng lên của doanh thu là do nhu cầu chung chuyển hàng hóa ngày càng tăng, với ưu điểm của vận tải đường biển là cước phí vận chuyển thấp hơn so với các loại hình vận chuyển đường sông, đường hàng không, đường bộ nên vận chuyển đường biển là sự lựa chọn hàng đầu của các nhà xuất nhập khẩu. Nắm bắt được nhu cầu đó của khách hàng, công ty đầy mạnh hoạt động dịch vụ vận tải bằng các chiến lược riêng của mình, mở rộng những tuyến đường biển tiềm năng, tăng cường các dịch vụ cảng, bến bói,…tất cả các yếu tố đó đó thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Hiện nay, so với các doanh nghiệp phục vụ dịch vụ vận tải đưởng biển ở Hải Phòng. Vinashin New World có một chỗ đứng vững chắc và dần dần vươn lên sánh ngang cùng với các doanh nghiệp khác như VOSCO, Cùng với sự tăng nhanh của doanh thu là sự gia tăng của giá vốn hàng bán. Giá vốn hàng bán của Công ty năm 2007 là 37.256.765.698 đồng đến năm 2008 tăng lên 48.235.256.589 đồng tăng 29,5% so với năm 2007 và năm 2009 tăng 57,8% so với năm 2008. Mặc dù giá vốn hàng bán của Công ty tăng nhanh trong những năm qua nhưng do Công ty sử dụng vốn có hiệu quả nên khoản lợi nhuận trên vốn mà Công ty thu được không ngừng tăng qua các năm. Qua đó chúng ta có thể thấy được trong những năm qua Công ty luôn chú trọng đến hiệu quả của việc sử dụng vốn, vì vậy mà khoản lãi gộp của Công ty liên tục tăng qua các năm.  Doanh thu hoạt động tài chính tăng lên khá cao : từ 35.256 tỷ đồng năm 2007 tăng lên 41,87 tỷ đồng năm 2008 tương đương tăng 18,7%, Năm 2009 đạt 49,89 tỷ đồng tăng 19,1% so với năm 2008. Nguyên nhân là do các khoản đầu tư ngắn hạn và lãi tiền gửi ngân hàng trong năm qua đã đem lại cho doanh nghiệp một khoản doanh thu không nhỏ không nhỏ  Chi phí hoạt động tài chính: trong năm 2007 là 1,256 tỷ đồng, năm 2008 là 1,456 tỷ đồng tăng 16% so với năm 2007. Còn năm 2009 là 1,562 tỷ đồng tăng 7,2 % soi với năm 2008. Các khoản lãi phải trả đã được công ty thực hiện thanh toán tương đối trong năm 2008 nên đến năm 2009 công ty giảm bớt việc chi phí trả lãi vay làm cho chi phí tài chính giảm xuống trong năm 2009. Điều này đã làm cho lợi nhuận của doanh nghiệp tăng lên tương đối trong năm 2009  Bên cạnh đó các khoản chi phí về bán hàng xu hướng tăng qua các năm nhưng mức tăng có xu hướng giảm dần góp phần làm giảm chi phí chung của toàn doanh nghiệp. Măt khác chi phí quản lý doanh nghiệp lại có xu hướng tăng lên và tăng mạnh năm 2009 do việc chuyển đỏi mô hình từ công ty nhà nước thành công ty cổ phần với quy mô rộng lớn hơn công ty đã tuyển thêm một số lao động ở bộ phận quản lý, đồng thời mức lương ở bộ phần này cuối năm 2009 có xu hướng tăng lên do sự thay đổi của mức lương tối thiểu của Nhà nước, cũng đã làm cho chi phí quản lý tăng lên nhưng điều này có ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển của doanh nghiệp và nâng cao đời sống của người lao động.  Năm 2007 công ty đã nộp thuế thu nhập doanh nghiệp là: 1,596 tỷ đồng trong năm 2008 công ty đã nộp thuế thu nhập doanh nghiệp là: 5,176 tỷ đồng như vậy so với năm trước doanh nghiệp đã nộp thuế thu nhập doanh nghiệp gấp 3,24 lần. Năm 2009 thuế thu nhập doanh nghiệp đã nộp là 6,316 tỷ đồng, gấp 1,22 lần so với 2008. Việc tăng lên trong việc nộp thuế thu nhập doanh nghiệp là do nguyên nhân lợi nhuận thu được từ tất cả các hoạt động tăng lên. Quy mô nộp thuế không chỉ phản ánh việc tăng quy mô sản xuất kinh doanh mà còn phản ánh hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Khi hiệu quả trong sản xuất kinh doanh tăng thì lợi nhuận sẽ tăng kèm theo đó là việc tăng thuế thu nhập của doanh nghiệp. Mức tăng thuế thu nhập doanh nghiệp không đồng đều qua các năm phản ánh thực trạng sản xuất kinh doanh, Năm 2008 có mức tăng nhảy vọt do mở rộng nhiều lĩnh vực sản xuất cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Sang năm 2009 mức tăng có chậm hơn nhưng vẫn đạt chỉ tiêu do tập đoàn đã đề ra hồi đầu năm Năm 2008 lợi nhuận gộp tăng 13,213 tỷ ứng với 160% so với năm 2007. Năm 2009 lợi nhuận gộp chỉ tăng 3,189 tỷ ứng với 14% so với 2008. Giải thích cho sự tăng lên chậm chạp của lợi nhuận gộp năm 2009-2008 tăng ít hơn so với nămm 2008-2007 là do tác động của khủng hoảng. Nhìn chung hầu hết doanh nghiệp đều đối mặt với mức tăng trưởng âm trong khi đó công ty đạt mức tăng 14,5%, con số này tuy chưa cao nhưng rất khả quan so với tình hình hiện tại. Lợi nhuận gộp tăng lên là do một số nguyên nhân sau:  Doanh thu tăng lên một cách nhanh chóng do mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh…  Chi phí tăng lên do giá nhiên liệu trên thị trường tăng, chi phí nhiên liệu tăng… Tuy nhiên tốc độ tăng chi phí nhỏ hơn so với tốc độ tăng doanh thu. chứng tỏ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đang có hiệu quả. Ngoài việc đầu tư thêm tàu công ty còn chú trọng tới công tác tổ chức lại bộ máy quản lý, việc tách riêng phòng dịch vụ chăm sóc khách hàng và phòng kế toán đã làm tăng khả năng hoạt động của công ty tạo sử chủ động và phát huy vai trò tối đa cũng như chức năng của từng phòng. Phòng dịch vụ khách hàng đã tập trung vào việc quản lý hoạt động của hàng hoá xuất nhập khẩu về mặt chứng từ làm cho quá trình lưu thông hàng và các thủ tục gửi hàng, nhận hàng trở lên thuận tiện và đơn giản hơn rất nhiều.. Qua phân tích trên ta nhận thấy hoạt động kinh doanh của công ty ngày càng đem lại lợi nhuận cao do một số nguyên nhân tích cực như: công ty đã thường xuyên chú ý tới chất lượng , tiến độ sản phẩm, giữ được uy tín với khách hàng. Cơ sở vật chất được thường xuyên đổi mới, các trang thiết bị đựơc đầu tư trong năm, cơ bản đã phát huy tính năng. Các chỉ tiêu đều đạt được và vượt kế hoach năm. Đời sống của người lao động được đảm bảo 2.2.2.1 Phân tích một số chỉ tiêu kinh tế của công ty Bảng 6: Một số chỉ tiêu kinh tế CHỈ TIÊU Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 1. Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu - Lợi nhuận trước thuế - Tổng doanh thu 0,126 5.700.068 45.151.559 0,265 18.485.920 69.706.611 0.206 20.861.912 100.786.371 Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản - Lợi nhuận trước thuế - Tổng tài sản 0,08 5.700.068 71.122.774 0,23 18.485.920 80.050.616 0,174 20.861.912 119.372.074 Nguồn: Phòng KH-KD Đơn vị :1000 đồng  Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu = ( Lợi Nhuận trước thuế)/Doanh thu Tỷ suất này cho biết 1 đồng doanh thu tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu 2007 = 0,126 (lần) Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu 2008 = 0.265(lần) Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu 2009 =0,206(lần) Con số trên cho ta biết tại thời điểm năm 2007 thì một đồng doanh thu mang lại 0,126 đồng lợi nhuận , vào cùng thời điểm đó thì đến năm 2008 một đồng doanh thu mang lại là 0,265 đồng lợi nhuận. Còn năm 2009 là 0,206 đồng lợi nhuận. Như vậy tỷ suất năm 2008 lớn hơn năm 2007 và 2009 điều này cho thấy việc sảnh xuất kinh doanh năm 2008 có hiệu quả hơn so với hai năm còn lại. Có được kết quả trên là do công ty có phương pháp quản lý hợp lý, đổi mới trong tư duy lãnh đạo và điều hành hoạt động sản xuất kinh một cách khoa học, góp phần giảm bớt được những chi phí không cần thiết gây nên lãng phí.  Tỷ suất lợi nhuận trên tài sản Tỷ suất lợi nhuận trên tài sản= Lợi nhuận trước thuế/ Tổng tài sản Nếu tỷ số này lớn hơn 0, thì có nghĩa doanh nghiệp làm ăn có lãi. Tỷ số càng cao cho thấy doanh nghiệp làm ăn càng hiệu quả. Còn nếu tỷ số nhỏ hơn 0, thì doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Mức lãi hay lỗ được đo bằng phần trăm của giá trị bình quân tổng tài sản của doanh nghiệp. Tỷ số cho biết hiệu quả quản lý và sử dụng tài sản để tạo ra thu nhập của doanh nghiệp. Chỉ số này còn cho biết khả năng sinh lời trên mỗi tài sản Tỷ số lợi nhuận trên tài sản phụ thuộc vào mùa vụ kinh doanh và ngành nghề kinh doanh. Do đó, người phân tích tài chính doanh nghiệp chỉ sử dụng tỷ số này trong so sánh doanh nghiệp với bình quân toàn ngành hoặc với doanh nghiệp khác cùng ngành và so sánh cùng một thời kỳ. Tỷ suất lợi nhuận trên tài sản năm 2007 là 0,08 Tỷ suất lợi nhuận trên tài sản năm 2008 là 0,23 Tỷ suất lợi nhuận trên tài sản năm 2009 là 0,174 Nhìn vào tỷ suất lợi nhuận trên tài sản qua các năm ta thấy hoạt động sản suất kinh doanh của doanh nghiệp đều có lãi nhưng có sự biến động. Năm 2008 tỷ suất lợi nhuận trên tài sản lớn nhất cho thấy hoạt động sản xuất kinh doanh trong năm 2008 hiệu quả hơn so với hai năm còn lại. Dựa vào số liệu trên ta thấy, tỷ suất lợi nhuận trên tổng doanh thu và tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản có xu hướng giảm chủ yếu là do khấu hao và sửa chữa tài sản cố định tăng lớn, tăng giá trị tài sản cố định do mua sắm và tiếp nhận của nguồn vốn vay ODA. Điều đó cho ta thấy tình hình tài chính của Công ty trong năm qua tuy ổn định nhưng còn nhiều khó khăn cần phải vượt qua. 2.2.2.2 Chỉ tiêu về khả năng thanh toán Bảng 7: Khả năng thanh toán của công ty Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 - Khả năng thanh toán hiện hành ( TSLĐ/nợ ngắn hạn) 7,16 4,73 3,03 +Tổng TSLĐ 20.891.806 26.191.138 31.476.543 + Nợ ngắn hạn 2.917.850 5.539.385 10.388.298 - Khả năng thanh toán nhanh ( Tiền hiện có/ nợ ngắn hạn) 1,89 2,02 0,56 + Tiền hiện có 5.514.736 11.189.558 5.817.446 + Nợ ngắn hạn 2.917.850.223 5.539.385.284 10.388.298.341 Nguồn: trích từ bảng kết quả tài chính của công ty Đơn vị tính :1000 Đồng  Với số liệu trên ta thấy về khả năng thanh toán hiện hành năm 2007 là 7,16; năm 2008 là 4,73 và năm 2009 là 3,03 cho thấy công ty hoàn toàn có khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn trong vòng một năm hay một chu kì kinh doanh. Nguyên nhân khiến khả năng thanh toán hiện hành có giảm qua các năm do công ty dùng các nguồn tải chính đầu tư vào các trang thiết bị và nâng cấp hệ thống cơ sở vật chất. Khả năng thanh toán hiện hành được duy trì ở mức cao, năm 2009 thấp nhất do giai đoạn đầu năm 2009 tình hình hoạt động sản xuất gặp nhiều khó khăn, đối mặt với mức tăng trưởng âm nên công ty có vay vốn để mở rộng sản xuất do đó nợ ngắn hạn có chiều hướng gia tăng. Điều đó làm khả năng thanh toán trong năm 2009 đạt mức thấp. Năm 2007 khả năng thanh toán hiện hành là 7,16, Sự  Về khả năng thanh toán nhanh: Thế hiện khả năng thanh toán của doanh nghiệp với các chủ nợ. Khẳ năng thanh toánh nhanh năm 2007 là 1,89 , năm 2008 là 2,02 và năm 2009 0,56. Năm 2007 khả năng thanh toán nhanh duy trì ở mức cao, lượng tiền mặt của công ty ổn định, nợ ngắn hạn thấp làm cho công ty luôn chủ động đối với những khoản nợ. Năm 2008 chỉ số này là 2,02, lượng tiền mặt năm 2007 vẫn còn cộng với lợi nhuận giai đoạn đầu năm 2008 khiến lượng tiền mặt của công ty khá cao. Mặc dù nợ ngắn hạn trong năm nay có tăng nhưng tốc độ tăng của tiền mặt lớn hơn tốc độ tăng của nợ ngắn hạn nên khả năng thanh toán nhanh tăng so với năm 2007. Năm 2009 khả năng thanh toán chỉ đạt 0,56. Sự chủ động đối với những khoản nợ giảm xuống. Đây cũng là tình hình chung của các doanh nghiệp trong nước. Hoạt động sản xuất kinh doanh không còn sôi động như năm 2008, những khoản tiền từ khách hàng vẫn chưa thu về hết trong khi chi phí tiền lương, chi phí về tài chính, đóng góp thuế…..vẫn tăng cao nên công ty đã phải đi vay nợ để thanh toán các khoản trên. Điều đó khiến nợ phái trả tăng nhanh trong năm 2009 khiến khả năng thanh toán nhanh của công ty bị suy giảm Qua sự phân tích trên ta thấy các chỉ tiêu có xu hướng giảm dần chủ yếu là do công ty tiến hành đầu tư cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng. Mặc dù vậy nguồn tài chính của công ty vẫn tương đối ổn định, đảm bảo vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, đời sống cán bộ công nhân viên được cải thiện, sản xuất kinh doanh có lãi , thực hiện vượt mức các chỉ tiêu do ban lãnh đạo công ty đã giao 2.2.2.3 Tình hình phân phối lợi nhuận sau thuế và quản lí các quỹ của công ty Bảng 9 :Bảng tổng quát tình hình phân phối lợi nhuận sau thuế và quản lí các quỹ qua các năm Nội dung Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 1.lợi nhuận trước thuế Nộp thuế TNDN Lợi nhuận sau thuế 2.Phân phối lợi nhuận sau thuế -Quỹ phát triển kinh doanh -Quỹ dự phòng tài chính -Quỹ dự phòng khác -Nộp tổng cục Hàng hải - quỹ khen thưởng+phúc lợi 3.Kế hoạch sử dụng quỹ khen thưởng 5.700.068 1.596.019 4.164.049 1.003.456 1.125.859 95.929 159.010 1.779.793 1.119.432 342.000 18.485.920 5.176.057 13.109.862 4.222.100 2.844.200 922.100 370.000 4.751.462 2.283.172 400.000 20.861.912 6.316.492 16.242.408 7.385.124 4.248.583 1.430.245 532.563 2.645.893 1.345.902 148.000 Nguồn: Trích từ bảng tổng kết tài chính cuối năm của công ty Đơn vị :1000 đồng Nhận xét chung : Qua bảng tổng kết tài chính ta thấy lợi nhuận sau thuế của năm 2009 lớn nhất đạt 16,242 tỷ đồng, năm 2008 đạt 13,109 tỷ đồng còn năm 2007 chỉ đạt 4,164 tỷ đồng. Như vậy, lợi nhuận sau thuế của năm 2008 tăng 3,148 lần so với năm 2007, còn năm 2009 lợi nhuận sau thuế gấp 1,238 lần so với năm 2008. Căn cứ vào lợi nhuận sau thuế, công ty đã lập ra quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi xã hội để nâng cao đời sống của cán bộ công nhân viên của công ty. Năm 2007, Quỹ khen thưởng là 1,119 tỷ đồng. Năm 2008 con số này là 2,283 tỷ đồng tăng1,164 tỷ đồng tương ứng 104%. Năm 2009, Nguồn quỹ này giảm 938 triệu đồng tương ứng giảm 41%. Sự tăng giảm của nguồn quỹ khen thưởng phụ thuộc vào lợi nhuận sau thuế và các khoản quỹ khác như: Quỹ phát triển kinh doanh, quỹ dự phòng tài chính, quỹ dự phòng khác. Nguồn quỹ khen thưởng được dùng để khen thưởng cho các phong trào của công ty, khen thưởng đột xuất, thưởng khách hàng và phân phối cho cán bộ công nhân viên của công ty. Những nguồn quỹ này càng lớn càng thể hiện sự thịnh vượng của công ty về mặt tài chính, chính sách đãi ngộ của công ty đối với khách hàng và cán bộ công nhân viên được cải thiện qua các năm. Nhìn vào nguồn quỹ phúc lợi xã hội cho thấy đời sống của cán bộ công nhân viên được nâng lên rõ rệt, Quỹ dành cho hoạt động phong trào,trợ cấp xã hội, tổ Khen thưởng phong trào Khen thưởng đột xuất Thưởng khách hàng Phân phối cho CBCNV 4.Kế hoạch sử dụng quỹ phúc lợi Hoạt động phong trào Trợ cấp xã hội Tổ chức tham quan du lịch 120.000 456.498 200.934 660.361 210.361 200.000 250.000 500.000 777.385 605.787 2.468.290 788.290 870.000 810.000 254.240 345.943 597.719 1.299.991 415.289 354.434 530.268 chức tham quan du lịch rất lớn. Năm 2008 nguồn quỹ trên lớn nhất đạt 2,468 tỷ đồng. Năm 2009 là 1,299 tỷ còn năm 2007 chỉ đạt 660 triệu đồng. Công ty có những chính sách thể hiện sự quan tâm tới đời sống tinh thần của cán bộ. Hàng năm vẫn thường tổ chức cho nhân viên đi tham quan du lịch với số lượng lớn, có những giải thể dục thể thao nhằm đáp ứng nhu cầu tạo sân chơi lành mạnh cho nhân viên. Có thể nói, trong ba năm qua mặc dù gặp nhiều khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng ban lãnh đạo công ty vẫn có sự quan tâm đặc biệt đối với toàn thể CBCNV. Điều đó góp phần tích cực vào hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng năng suất lao động, làm cho sự phát triển công ty ngày càng hưng thịnh. 2.2.2.3 Phân tích thực trạng về công nghệ tại công ty. Cùng với nguồn vốn thì khoa học công nghệ là yếu tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển của Công ty. Hầu hết các trang thiêt bị được công ty đầu tư bằng nguồn vốn vay để phục vụ cho sản xuất nhằm tăng năng suất và hạ giá thành sản phẩm. Trong thời gian tới với mục tiêu nâng cao năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực vận tải biển nên yếu tố công nghệ có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản suất kinh doanh của công ty, đòi hỏi công ty phải có các trang thiết bị hiện đại để đáp ứng nhu cầu sản suất kinh doanh. Hiện nay phần lớn máy móc thiết bị của công ty đã được cơ giới hoá song một số lĩnh vực đặc biệt là ngành vận tải biển đa số các tàu đã sử dụng quá lâu, chi phí sửa chữa thường xuyên đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Bảng 10: Thực trạng công nghệ của công ty Chỉ tiêu Nguyên giá Gía trị còn lại Phương tịên vận tải Thiết bị văn phòng Máy móc thiết bị Máy công tác 43.028.448 871.748 1.992.005 4.752.538 32.817.998 599.615 1.118.993 2.532.855 ( Nguồn phòng KH-KD) Đơn vị: 1.000đ Nhận xét chung : Qua bảng số liệu ta thấy khối lượng trang thiết bị của Công ty là rất lớn. Với số lượng máy móc trang thiết bị này giúp ta thấy được quy mô của công ty.Để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh trong những năm qua Công ty luôn chú trọng đến việc cải tiến công nghệ và đưa những thiết bị máy móc mới hiện đại vào hoạt động.Vấn đề đặt ra là những máy móc trang thiết bị đã có niên đại gần 20 năm, độ chính xác không cao. Có đến 40% máy móc thiết bị của Công ty có niên đại trước năm 1985 hiện nay đang giai đoạn xuống cấp trầm trọng, đã có những đề xuất của các thành viên nhằm cải tiến công nghệ để đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng vẫn chưa có dấu hiệu tích cực từ ban lãnh đạo vì chi phí cho mua sắm máy móc trang thiết bị rất lớn. Đến năm 2008 cũng mới chi hơn 2 tỷ đồng để mua sắm trang thiết bị. Vấn đề đặt ra trong thời gian tới là ngoài việc cải tiến và động bộ hoá các trang thiết bị hiện có, Công ty cần phải nhập thêm các trang thiết bị mới tiên tiến để đạt được mức mặt bằng chung công nghệ của các doanh nghiệp trong nước cũng như nước ngoài 2.2.2.4 Phân tích môi trường hoạt động của dịch vụ vận tải biển tại công ty.  Môi trường kinh tế.  Thuận lợi. Môi trường quốc tế : Môi trường quốc tế tác động không nhỏ đến hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Trong bối cảnh quốc tế hoá và toàn cầu hoá diễn rạ ngày càng mạnh mẽ đã tác động mạnh đến nền kinh tế thế giới , mở ra nhiều cơ hội cho các nước có thể mở rộng nền kinh tế trong nước và tăng cường hợp tác với nước khác để có thể khai thác tối đa các lợi thế của nước mình và khắc phục những khó khăn, những mặt còn yếu kém. Cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa diễn ra mạnh mẽ ở những nước đang phát triển, hoạt động thương mại mua bán trao đổi hàng hóa ngày càng sôi động, lượng hàng hóa xuất nhập khẩu tăng mạnh trong những năm vừa qua. Sự chuyên môn hóa sản xuất những mặt hàng mà những nước đó có lợi thế tuyệt đối khiến hàng hóa đem ra trao đổi và mua bán ngày càng lớn. Mặt khác, thuế quan xuất nhập khẩu đang giảm dần theo lộ trình, một số hàng hóa được miễn thuế nhập khẩu, còn lại đa số hàng hóa được hưởng với mức thuế ưu đãi. Đó là những lí do khiến hoạt động mua bán trao đổi hàng hóa với số lượng lớn ngày càng sôi động .Với Việt Nam xu hướng tự do trao đổi hàng hóa đã thổi một luồng gió mới vào nền kinh tế nước ta và đã tạo nên sự chuyển biến chưa từng có của nước ta trong những năm qua. Nền kinh tế không ngừng được mở rộng và ngày còn có nhiều nhà đầu tư đến Việt Nam để đầu tư sản xuất kinh doanh. Đây chính là cơ hội để các doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh và tăng cường hợp tác với các đối tác trong và ngoài nước. Trong những năm qua được sự giúp đỡ của tập đoàn VINASHIN, công ty đã không ngừng mở rộng về qui mô cũng như ngành nghề hoạt động. Công ty không ngừng mở rộng quan hệ hợp với các đối tác: tập đoàn ELP-ATAGAZA của Cộng Hoà Pháp, tập đoàn KARACHI của Pakistan... để thiết lập hệ thống vận tải đường biển xuyên quốc gia. Mặc dù trong thời gian qua hoạt động vận tải xuyên quốc gia vẫn chưa mang lại nguồn thu cho doanh thu nhiều nhưng trong những năm tới công ty có những kế hoạch để vươn ra tầm châu lục Môi trường trong nước: Môi trường kinh tế trong nước cũng tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Giai đoạn kinh tế nước ta tăng trưởng mạnh, nền kinh tế đạt được mức ổn định cao thì tình hình sản xuất kinh doanh cũng gặp nhiều thuận lợi. Những hợp đồng vận tải đường dài chủ yếu từ những doanh nghiệp trong nước, hàng hóa vận tải phần lớn là lương thực thực phẩm, hàng hóa khô, hàng nông sản…. Cũng vì vậy, doanh thu của công ty cũng tăng mạnh. Nắm bắt được nhu cầu vận chuyển đó, ban lãnh đạo đã mạnh dạn mở rộng tuyến đường vận chuyển, những tuyến vận chuyển chính như Bắc – Nam , các khu vực Đông Bắc Bộ chính là thị trường tiềm năng của công ty. Cũng phải nói đến những lợi thế về vị trí địa lí để công ty tiến hành hoạt động sản xuất của mình, nằm trên thành phố cảng, là đầu mối giao thông quan trọng của tuyến đường biển khu vực phía Bắc,có những nút huyết mạch chung chuyển hàng hóa của khu vực.Đấy là những yếu tố hết sức thuận lợi để công ty tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, hoạt động giao nhận vận tải biển mang lại nhiều thuận lợi nhất định cho các nhà xuất nhập khẩu,nó có nhiều ưu điểm so với vận tải đường không,đường bộ.Khối lượng vận chuyển lớn là một ưu điểm lớn của vận tải đường biển vì vậy nắm bắt được ưu điểm này nên công ty đã phát triển đẩy mạnh hoạt động dịch vụ vận tải đường biển.Đây cũng là một ngành khá mới mẻ,với chiến lược đi tắt đón đầu công ty Vinashin New World đã có những thành tựu ban đầu khá ấn tượng về lĩnh vực này.  Khó khăn. Môi trường kinh tế thế giới và khu vực luôn biến động nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty như các yếu tố đầu vào cũng như thị trường đầu ra. Những biến động của nền kinh tế thế giới trong thời gian qua, rõ nhất là năm 2009 đã làm nền sản xuất của công ty nhiều lúc bị gián đoạn. Giai đoạn đầu năm 2009 hợp đồng vận chuyển bị ứ đọng, hợp đồng mới thì khan hiếm. Nguyên nhân của tình trạng trên là do các doanh nghiệp trong nước lâm vào tình trạng khủng hoảng, sản xuất kinh doanh bị trì trệ. Đó là lí do khiến hoạt động sản xuất gặp nhiều khó khăn trong giai đoạn nền kinh tế thế giới bị khủng hoảng Cũng phải nói đến những rủi ro đặc thù của ngành vận tải đường biển.Thường xuyên đối mặt với nạn cướp biển,ảnh hưởng nặng nề của thời tiết,chế độ bảo hiểm hàng hóa còn ở mức thấp,Tàu chung chuyển hàng hóa vẫn còn hoạt động một cách nhỏ lẻ….Chính vì vậy mà làm ảnh hưởng rất lớn đến tình hình sản xuất kinh doanh của công ty. Ngoài ra môi trường kinh tế ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất Công ty. Ngành vận tải đường biển là một mắt xích chịu tác động của cả hệ thống kinh tế nước ta. Giai đoạn kinh tế trong nước tăng trưởng ổn định với mức tăng trưởng cao thì vận tải đường biển cũng gặp nhiều thuận lợi Giai đoạn Quý III và Quý IV doanh thu tăng mạnh do đây là giai đoạn các doanh nghiệp trong nước gấp rút sản xuất kinh doanh để hoàn thành chỉ tiêu trong năm. Hàng hóa xuất nhập khẩu tăng mạnh trong thời kì này phục vụ cho tết Nguyên Đán, điều đó làm lĩnh vực vận tải biển của công ty hoạt động suôn sẻ. Có giai đoạn cường độ vận tải quá lớn công ty phải thuê các công ty khác vận tải để giữ mối quan hệ tốt đẹp với khách hàng cũng như các doanh nghiệp hoạt động trong cùng lĩnh vực  Môi trường chính trị - xã hội. Trong những năm qua tình hình chính trị xã hội trên thế giới luôn diễn biến phức tạp, luôn tìm ẩn những nguy cơ không lường trước được như: chiến tranh, khủng bố, bảo loạn ...làm kìm hãm sự phát triển kinh tế, gây hoang mang cho các nhà kinh doanh. Đối với hợp đồng vận chuyển sang những nước có nền chính trị bất ổn, công ty luôn phải xem xét kĩ để đưa ra hình thức vận chuyển hợp lí để tránh rủi ro. Nhiều hợp đồng vận chuyển đường dài bị hủy bỏ vì sự lo lắng về rủi ro gặp phải, đó là nạn cướp biển, rủi ro do thiên tai….. Mặc dù tình hình thế giới luôn có những diễn biến phúc tạp nhưng Việt Nam vẫn là nước có tình hình chính trị xã hội tương đối ổn định. Qua đó, cái nhìn của các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam càng thiện cảm, Hàng loạt những dự án đầu tư với số vốn đến hàng chục triệu USD sắp đưa vào hoạt động. Đó là tín hiệu vui đối với tình hình sản xuất của công ty nói riêng cũng như nền kinh tế Việt Nam nói chung. 2.3 Các tuyến vận tải biển và khách hàng quan hệ của công ty. 2.3.1 Các tuyến vận tải biển của công ty. Do loại tàu của Công ty là loại tàu nhỏ vì vậy Công ty chỉ hoạt động trên tuyến đường nội địa chuyên chở hàng hoá từ Hải Phòng đi các tỉnh khác và ngược lại. Hiện nay phần lớn các đội tàu của Việt Nam chỉ hoạt động trên tuyến nội địa nên đã tạo ra một môi trường cạnh tranh tương đối khắc nghiệt đòi hỏi Công ty phải có kế hoạch phù hợp để phát triển dịch vụ vận tải biển của công ty để nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường trong nước cũng như mở rộng sang thị trường thế giới. Hiện nay đội tàu của Công ty chỉ chuyên chở các hàng chính là lương thực, thực phẩm và hàng nông sản. Trong. Đây cũng chính là nhóm hàng hóa mà phần lớn các đội tàu nước ta đang vận tải. Theo diễn đàn chủ tàu châu Á lần thứ 14 tại Australia vào tháng 5/2005 thị trường tàu chở hàng khô vẫn tiếp tục thịnh vượng trong vài năm tới, thị trường tàu chở lương thực vẫn tiếp tục ổn định vững chắc trong giai đoạn hiện nay. Nhưng trong tương lai thị trường tàu chở container sẽ tăng mạnh. Điều này đòi hỏi trong những năm tới để thích ứng với sự phát triển của thị trường vận tải và để thúc đẩy dịch vụ vận tải biển của Công ty phát triển thì đòi hỏi Công ty phải có kế hoạch đưa đội tàu container vào hoạt động để nhanh chóng chiếm lĩnh thị phần trong lĩnh vực vẫn còn mới mẻ này ở Việt Nam. Phương thức vận chuyển hiện nay của đội tàu của Công ty là dưới hình thức tàu chuyến, tức là tàu chạy theo các tuyến khác nhau tuỳ thuộc vào chủ hàng. Vận tốc của đội tàu của Công ty hiện nay mới đạt tốc độ trung bình 8,7 hải lý/h. Theo nhu cần của các tàu vận tải chở dầu cũng như hàng khô thì tốc độ trung bình phải đạt 14 hải lý/h. Vậy là tốc độ đội tàu của Công ty thấp hơn nhiều so với đội tàu trung bình của một con tàu vận tải tiêu chuẩn. Với tốc độ chậm như vậy đã kéo dài thời gian vận chuyển làm cho chi phí nguyên nhiên liệu tăng lên nhất là trong tình hình giá nguyên liệu ngày càng tăng cao trong những năm qua, chi phí bảo quản tăng .... đã ảnh hưởng không nhỏ đến sức cạnh tranh của Công ty . Độ tuổi trung bình của đội tàu biển nước ta hiện nay theo thông báo của cục đăng kiểm việt nam là 16 tuổi và mục tiêu đến năm 2010 giảm xuống còn 15 tuổi. Trong khi đó đội tàu của Công ty có đội tuổi thấp hơn nhiều so với độ tuổi trung bình của cả nước và mới có 9 tuổi. Đây là một lợi thế cho dịch vụ vận tải của Công ty , điều này cũng chứng tỏ Công ty rất chú trọng đến sự an toàn và chất lượng của dịch vụ, tạo được lòng tin cho các chủ hàng khi giao hàng cho đội tàu của công ty. 2.3.2 Khách hàng quan hệ của công ty Để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh, Công ty không ngừng tìm kiếm khách hàng mới và giữ mối quan hệ tốt đẹp với khách hàng truyền thống. Công ty có chiến dịch marketting mạnh mẽ và hiệu quả để hình ảnh của công ty được quảng bá sâu rộng trên các phương tiện truyền thông. Dưới đây là những nhóm khách hàng chính của công ty phân theo lĩnh vực hoạt động.  Vệ sinh tàu dầu: Khách hàng của Công ty hiện nay chủ yếu là các đội tàu vận chuyển dầu có nhu cầu làm sạch tàu dầu tại Việt Nam trong đó có những khách hàng truyền thống như đội tàu chở dầu của tổng công ty hàng hải,đội tàu của công ty Vosco, Nam Triệu, hay của một số đội tàu của công ty nước ngoài như của Pháp, Nhật bản....Trong tương lai Công ty có định hướng mở rộng dịch vụ dầu không chỉ chở cặn dầu mà còn chở cả các loại dầu khác nên khách hàng của Công ty sẽ tăng nhanh trong thời gian tới. Bảng 11 : Doanh thu lĩnh vực vệ sinh tàu dầu Khách hàng Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Số lượng (chiếc) Trị giá (triệu) Số lượng (chiếc) Trị giá (triệu) Số lượng (chiếc) Trị giá (triệu) Vosco Nam Triệu Bạch Đằng Công ty khác 3 2 2 2 4123 2491 3505 2198 4 3 4 3 7627 3173 5372 2987 3 2 4 4 9562 4732 6550 3888 Tổng 9 12317 14 19159 13 24732 Nguồn: Phòng KH-KD  Dịch vụ sửa chữa: Công ty không trực tiếp đứng ra sửa chữa các tàu hư hỏng mà chuyển giao cho những nhà máy đóng tàu sửa chữa để có lợi nhuận. Đây không phải là lĩnh vực hoạt động chính của công ty nên công ty đầu tư vào lĩnh vực này. Chủ yếu khách hàng là những tàu nhỏ lẻ có trọng tải thấp, đang trong giai đoạn xuống cấp nên việc bảo trì bảo dưỡng theo chu kì phải thường xuyên.  Dịch vụ cảng : Khách hàng của công ty là những đội tàu hoạt động ở khu vực Cảng , thường là những đội tàu của Vosco, tổng công ty hàng hải, các đơn vị vận tải ở Hải Phòng….Thời gian qua công ty có chiến lược thu hút khách hàng bằng cách Công ty đã có chính sách giá cả ưu đãi tạo sức cạnh tranh với những cảng khác, dịch vụ cảng phong phú, giấy tờ lưu kho bến bãi cũng được cắt giảm…  Vận tải biển: Đây là lĩnh vực kinh tế chủ lực của công ty, hàng năm vẫn dẫn đầu về tỷ trọng đóng góp doanh thu. Hàng hóa vận tải là lương thực thực phẩm, hàng nông sản, xi măng, than, khoáng sản… Bảng 12: Sản lượng vận chuyển các năm Chỉ Tiêu Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Công ty Lương Thực miền Bắc 7.400 8.370 7.580 Đại lý tư nhân cung cấp Lương Thực 4.150 4.530 5.250 Công ty CP Than 3.170 4.100 3.820 Nhà máy xi măng CIFON 9.510 10.450 10.320 Đại lý xi măng Hoàng Thạch 5.000 6.000 6.450 Khách hàng khác 3.585 3.407 4.270 Tổng 32.815 36.857 37.690 ( Nguồn phòng KH-KD) Đơn vị: Tấn Qua bảng số liệu trên ta thấy lượng hàng chuyên chở qua các năm tại công ty ổn định ít biển đổi bởi vì công ty có nhiều khách hàng truyền thống. 2.4 . Các chính sách marketing dịch vụ vận tải biển tại công ty. 2.4.1 Chính sách sản phẩm. Công ty Vinashin new world là doanh nghiệp kinh doanh đa ngành nghề với nhiều lĩnh vực nên có cơ cấu sản phẩm đa dạng, lợi thế cạnh tranh tương đối lớn, các ngành nghề kinh doanh có đặc điểm riêng. Ngành dịch vụ cảng và làm sạch tàu dầu: Hoạt động dịch vụ cảng và cho thuê bến hải. Khách hàng là các đơn vị có nhu cầu bốc dỡ hàng tại cảng của Công ty để vận chuyển đến các tỉnh và các vùng lân cận thành phố Hải Phòng. Ngành vận tải biển: là ngành có doanh thu tương đối lớn nhưng đây là ngành đỏi hỏi có chi phí sản xuất lớn, cộng với sự nợ nần của khách hàng kéo dài đã gây không ít khó khăn cho ngành vận tải biển của Công ty Sự khác biệt dịch vụ của công ty với các đối thủ cạnh tranh bên cạnh chất lượng các sản phẩm dịch vụ được đánh giá là tốt, mà còn thể hiện ở sự đa dạng và phong phú của các loại dịch vụ. Cụ thể lĩnh vực dịch vụ cảng, Công ty không những cho thuê bến bãi đậu contairner, thuê địa điểm bốc dỡ hàng hóa mà kiêm luôn dịch vụ bốc dỡ hàng hóa với đội ngũ công nhân đông đảo, ngoài ra công ty còn làm thủ tục giấy tờ thông quan cho hàng hóa xuất nhập khẩu. Tât cả những dịch vụ trọn gói khiến công ty có nhứng ưu thế hơn so với những công ty khác. Trong lĩnh vực vận tải biển, công ty chuyên chở tất cả các hàng hóa dịch vụ khi khách hàng có nhu cầu giá cước vận chuyển cạnh tranh, bảo quản hàng hóa trong quá trình vận chuyển tốt, chế độ bảo hiểm hàng hóa hợp lí là những nguyên nhân khiến lượng khách hàng ngày càng đông. Cuối năm, công ty có chương trình tặng quà cho những khách hàng truyền thống, một mặt để tạo quan hệ tốt đẹp mặt khác quảng bá hình ảnh của công ty với những khách hàng mới đang có nhu cầu vận tải. Đấy là những nét đặc trưng các loại hình dịch vụ của công ty, có sự khác biệt lớn với những đơn vị khác về lĩnh vực vận tải đường biển. Khi công ty thực hiện thành công sự khác biệt dịch vụ tức là công ty đã định vị dịch vụ của mình trên thị trường, trong nhu cầu của khách hàng. Để duy trì sự khác biệt công ty phải thực hiện thiết kế, định hình cấu trúc của dịch vụ đồng thời kết hợp việc sử dụng các chính sách công cụ của marketing hỗn hợp khác. Chính sách sản phẩm dịch vụ hiện nay của công ty là tạo sự khác biệt về các thuộc tính cạnh tranh.Nhờ đó người tiêu dùng phân biệt được dịch vụ của công ty và những dịch vụ cạnh tranh khác. Yếu tố cơ bản quyết định sự khác biệt đó là việc xác định rõ hiệu quả giữa các dịch vụ và mang lại giá trị cao hơn cho khách hàng. Bên cạnh sử dụng những chiếc tàu mới thì công ty cũng còn sử dụng những chiếc tàu truyền thống đã lâu năm. Mặc dù niên đại lâu năm nhưng chất lượng tàu vẫn đủ tiêu chuẩn tham gia vận tải. Trong những năm qua, thị trường vận tải biển khu vực miền Bắc có sức hút lớn đối với những doanh nghiệp vận tải. Để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình, công ty có những biện pháp để nâng cao hiệu quả của hoạt động vận tải. Mở rộng nhiều tuyến vận tải, liên kết với các đơn vị khác, sản phẩm vận tải phong phú, cước phí ưu đãi, chế độ bảo hiểm hàng hóa tốt là sự khác biệt đối với những doanh nghiệp khác. Chính vì thế, vị thế công ty ngày càng được nâng lên tầm cao mới trong thị trường vận tải khu vực phía Bắc. 2.4.2 Chính sách giá. Xác định giá trong dịch vụ phải căn cứ vào giá trị đích thực dịch vụ đó mang lại cho khách hàng. Tránh tình trạng chỉ căn cứ thuần tuý vào chi phí và tăng thêm một mức lợi nhuận thích hợp. Như vậy sẽ mất đi lợi thế cạnh tranh về giá trong marketing hỗn hợp. Những vấn đề ảnh hưởng trực tiếp đến giá thị trường dịch vụ như: nhu cầu, chi phí và cạnh tranh. Nhu cầu dịch vụ: Công ty đã hiểu rõ đặc điểm nhu cầu về dịch vụ nói chung là luôn biến động, biên độ giữa thời điểm cao và thấp của nhu cầu là rất lớn. Sự biến động nhu cầu như vậy diễn ra trong từng ngày, từng giờ vì thế gây nên khó khăn cho việc cung ứng các dịch vụ của công ty. Thông thường công ty duy trì quy mô thích hợp để thoả mãn nhu cầu dịch vụ ở mức trung bình do đó dẫn tới mất cân đối khi như cầu cao và nhu cầu thấp. Việc xác định quy mô nhu cầu dịch vụ là việc khó khăn, Công ty đã có những giải pháp marketing tác động để san sẻ nhu cầu đồng thời thực hiện co giãn cung ứng cho thích hợp. Ngoài việc nghiên cứu sự phân bố nhu cầu về thời gian, quy mô, tần suất, biên độ và chu kỳ, Công ty còn nghiên cứu cơ cấu và đặc điểm của nhu cầu. Đó là nhu cầu về dịch vụ chủ yếu và dịch vụ phụ, dịch vụ trọn gói và dịch vụ riêng rẻ, dịch vụ tổng thể hoặc các bộ phận, các khâu của dịch vụ... Chi phí dịch vụ: Chi phí dịch vụ giữu vị trí quan trọng đối với cạnh tranh của giá cả dịch vụ trên thị trường. Cần phải hiểu chi phí trong việc cung cấp dịch vụ và sự thay đổi của nó qua thời gian, cùng với quy mô, mức độ của nhu cầu. Việc hạch toán chi phí trong dịch vụ là vấn đề quan trọng trong quyết định giá dịch vụ của công ty. Công ty hạch toán chi phí theo cách tính giá thành truyền thống, mặc dù phương pháp này không được thích hợp đối với dịch vụ. Cạnh tranh: Trong công nghiệp dịch vụ, chi phí cố định luôn có xu hướng hạ thấp trong mỗi đơn vị dịch vụ. Với hiện trạng đó, lợi nhuận cận biên tương đương với doanh thu cận biên. Tiêu dùng cận biên trở nên hấp dẫn và thu hút nhiều khách hàng. Nếu không có cạnh tranh giá cả có thể hạ gần tới mức chi phí cố định. Ngược lại, nếu có cạnh tranh sự hạ giá sẽ đối lập với các hãng cạnh tranh để duy trì khối lượng bán. Kết quả dẫn tới sự cạnh tranh về giá với quy mô lớn và dây chuyền. Công ty đã nghiên cứu chi phí và phương thức định giá của các hãng cạnh tranh, mức giá và lợi nhuận của họ, so sánh các mức giá và chất lượng dịch vụ của các hãng cạnh tranh chính với công ty trên mỗi đoạn thị trường. Việc nắm được chi phí và chi phí cơ hội của các hãng cạnh tranh cho phép nhà quản trị dự đoán được thiên hướng và cấu trúc giá của họ. Khả năng đạt được lợi nhuận, chi phí cơ hội, tỉ phần thị trường trong các đoạn thị trường của công ty và các hãng cạnh tranh là những yếu tố quan trọng trong phân tích, đánh giá và đưa ra những quyết định về giá cả của công ty thực hiện cạnh tranh trên thị trường. Chính sách giá dịch vụ của công ty là chiến lược giá phân biệt. - Giá phân biệt theo mức độ sử dụng. Theo cách này, các khách hàng sử dụng càng nhiều sẽ hưởng được mức chi phí trung bình trên đơn vị sử dụng thấp hơn. - Giá phân biệt loại hình dịch vụ. Theo cách này, các kiểu dịch vụ khác nhau được định giá khác nhau, nhưng không tỷ lệ với chi phí tương ứng của nó. 2.4.3 Chính sách kênh phân phối Hệ thống kênh phân phối của công ty chủ yếu là theo hình thức phân phối trực tiếp. Kênh phân phối trực tiếp đó là việc phân phối dịch vụ tại công ty, được thực hiện theo sơ đồ sau: Một số khách hàng theo kênh trực tiếp chủ yếu là các khách hàng truyền thống, khách hàng đã quen biết và nhiều lần sử dụng dịch vụ của công ty. Giai đoạn đầu của kênh phân phối trực tiếp, Công ty phải tự tìm đến khách hàng để marketting sản phẩm dịch vụ của mình. Dần dần hình thành nên mối quan hệ hợp tác làm ăn gắn bó. Sau này chiến dịch marketting đối với khách hàng truyền thống hạn chế hơn so với thời gian đầu, thay vào đó là chính sách chăm sóc khách hàng truyền thống một cách chu đáo để đảm bảo mối quan hệ giữa công ty với khách hàng. Ngoài ra, khi tìm kiếm khách hàng mới, Công ty đã đi sâu nghiên cứu thị trường, đẩy mạnh hoạt động marketting vào những thị trường tiềm năng như vận tải các hàng hóa nông sản, lương thực thực phẩm, những hàng hóa thiết yếu. Thời gian này hoạt động marketting gặp nhiều khó khăn vì khách hàng luôn có những đơn vị đứng ra vận tải riêng. Đấy là mối quan hệ lâu năm nên muốn dành được thị phần vận tải cần phải có sự khác biệt và nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm dịch vụ của mình. Hoạt động marketting được đầu tư có chiều sâu, gửi bản báo giá cước đối với khách hàng, có chế độ đãi ngộ đặc biệt, dịch vụ chăm sóc tốt. Đấy là những ưu điểm sản phẩm dịch vụ công ty đối với những công ty khác hoạt động cùng lĩnh vực. Kênh phân phối gián tiếp đó là việc phân phối dịch vụ của công ty thông qua các công ty khác. Đó là sự hợp tác giữa các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực vận tải Công ty Người tiêu dùng đường biển. , những đơn vị này hợp tác dưới dạng bán lại hợp đồng vận chuyển để thu lợi nhuận. Khách hàng tìm đến công ty để vận tải hàng hóa nhưng trong thời gian đó công ty hoạt động quá tải, đội tàu vận tải khan hiếm nên công ty hợp tác với các đơn vị khác vận chuyển hàng hóa. Hình thức này đem lại nguồn lợi nhuận không lớn nhưng bù lại giữ được khách hàng để có những hợp đồng vận tải sau này. 2.4.4 Chính sách quảng cáo. Là một trong những hình thức của giao tiếp, mang tính phổ biến mà các hãng dịch vụ sử dụng. Chức năng quãng cáo trong dịch vụ là xác định thông tin về dịch vụ, định vị dịch vụ, phát triển khái niệm dịch vụ, nhận thức tốt hơn về chất lượng và số lượng dịch vụ, hình thức mức độ mong đợi và thuyết phục khách hàng mua hàng. Do đặc điểm không hiện hữu của dịch vụ đã mang lại nhiều khó khăn cho hoạt động quãng cáo. Quảng cáo không trực tiếp vào dịch vụ nên phải tập trung vào các đầu mối hữu hình, vào các dấu hiệu vật chất. Tại công ty phương tiện quảng cáo, tin quảng cáo, xác định mục đích quảng cáo và ngân sách cũng là vấn đề trong việc hoạch định chính sách quãng cáo. Phương tiện quảng cáo: công ty thực hiện việc quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng như: Trên tivi công ty đầu tư quảng cáo từ 5-6 lần trong một năm. Mỗi quý công ty thực hiện 2 bài trên các tạp chí.Việc tiếp xúc, thăm viếng các khách hàng truyền thống là không thường xuyên, nhưng công ty đã thực hiện được ít nhất một năm là một lần.Ngoài ra công ty còn sử dụng các hình thức quãng cáo thông dụng khác như: pano áp phích, điện thoại, truyền miệng, thư từ và các công cụ ngoài trời. Trong quảng cáo tới khách hàng về một dịch vụ nào đó, bao giờ người cung ứng dịch vụ cũng quan tâm đến thông điệp quãng cáo vì họ cần phải hiểu về nhận thức dịch vụ của khách hàng, qua đó mà cung ứng dịch vụ hợp với nhu cầu và mong muốn của họ. Thông điệp quảng cáo của công ty chưa thật sự có ấn tượng mạnh mẽ và chưa có tính cạnh tranh. Ngoài ra các thông điệp truyền tới khách hàng chưa có thiết kế nội dung để truyền tới cán bộ viên chức trong công ty, do đó họ không được tăng cường nhận thức về dịch vụ và không khuyến khích họ cung cấp dịch vụ có chất lượng cao. 2.5 Đánh giá chung thực trạng dịch vụ của công ty 2.5.1 Những kết quả đạt được: Trong những năm gần đây,mặc dù hoạt động kinh doanh của Công ty gặp nhiều khó khăn do tác động môi trường kinh tế trong và ngoài nước, nhưng bằng ý trí tự chủ cao, với quyết tâm vượt khó vươn lên của tập thể lãnh đạo và cán bộ công nhân viên toàn công ty đã hoàn thành tốt nhiệm vụ và kế hoạch đề ra. Mục tiêu lợi nhuận và doanh thu luôn được ban lãnh đạo Công ty quán triệt coi đây là nhiệm vụ kinh tế hàng đầu, là điều kiện quyết định sự tồn tại trong cơ chế thị trường. Công ty đã từng bước lên kế hoạch và thực hiện hàng loạt các biện pháp có hiệu quả nhằm đạt được kết quả đã đề ra Bảng : Kết quả sản xuất kinh doanh qua các năm Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Số lượng Trị giá (triệu) SL Trị giá (triệu) SL Trị giá (triệu) DV SC Vệ sinh TD Dịch vụ cảng Vận tải biển DV TM 22 9 674.215 15.535 1000475 4006 12317 9484 12914 6430 38 chiếc 14 chiếc 901.200 19907 1085597 10674 19159 18024 17486 4363 33 13 850320 22240 858635 13562 24732 28550 27922 6020 Tổng 45151 69706 100786 Phòng Kế hoạch- Kinh doanh Để đạt được kết quả mà ban lãnh đạo đề ra công ty đã chủ động thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của mình bằng cách tập trung nguồn vốn đầu tư mua sắm thêm nhiều máy móc, phương tiện vận tải , nâng cấp cải tạo cảng để thay thế một loạt các phương tiện xếp dỡ, máy móc thiết bị lạc hậu…để phù hợp với mặt bằng công nghệ tiên tiến trên thế giới hiện. Vì vậy trong những năm qua Công ty không ngừng phấn đấu đạt mức doanh thu cao: năm 2007 đạt 45,151 tỷ đồng , năm 2008 là 69,706 tỷ đồng tăng 54,3% so với 2007, Năm 2009 doanh thu đạt 100,786 tỷ đồng tăng 44,58 % so với 2008 và tăng 123 % soi với 2007. Những kết quả kinh doanh trên góp phần đưa vị thế công ty nên tầm cao mới, tạo uy tín cho khách hàng, thị trường không ngừng củng cố và mở rộng. Hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả nhưng công ty vẫn không quên thực hiện nghĩa vụ nộp thuế với nhà nước. Hàng năm đóng góp vào vào ngân sách nhà nước ở mức cao. Năm 2007 là 1,596 tỷ đồng, năm 2008 là 5,176 tỷ đồng còn năm 2009 là 6,316 tỷ đồng. Nộp thuế là nghĩa của công ty đối với đất nước, đóng góp vào sự nghiệp phát triển kinh tế chung của đất nước 2.5.2 Tồn tại.  Dịch vụ vận tải biển chưa phong phú Chỉ tiêu Tàu loại 1 Tàu loại 2 Tàu loại 3 Trọng tải 700DWT 500DWT 200DWT Hàng hoá Dầu Dầu Hàng khô Hành trình Bắc-Nam Bắc-Nam Bắc-Nam Phương thức vận chuyển Tàu chuyến Tàu chuyến Tàu chuyến (Nguồn trung tâm ứng phó sự cố tràn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuận văn- Thực trạng dịch vụ vận tải biển của công ty Vinashin New World.pdf
Tài liệu liên quan