Luận văn Thu hút đầu tư trực tiếp nhằm phát triển kinh tế ở tỉnh Nghệ An

Tài liệu Luận văn Thu hút đầu tư trực tiếp nhằm phát triển kinh tế ở tỉnh Nghệ An: LUẬN VĂN: Thu hút đầu tư trực tiếp nhằm phát triển kinh tế ở tỉnh Nghệ An MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong các nguồn lực cho tăng trưởng và phát triển kinh tế thì vốn là rất quan trọng, nhiều khi mang tính quyết định. Thu hút đầu tư và sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả là chìa khóa thành công cho sự phát triển của mọi quốc gia, đặc biệt đối với nền kinh tế còn đang phát triển. Cùng với nhiều địa phương trong cả nước, những năm qua, tỉnh Nghệ An có nhiều cố gắng trong hoạt động xúc tiến đầu tư, ban hành nhiều cơ chế, chính sách ưu đãi, tạo lập môi trường thuận lợi … để thu hút vốn đầu tư. Nhờ đó, số lượng vốn đầu tư cả trong và ngoài nước, đặc biệt là vốn đầu tư trực tiếp của các nhà đầu tư không ngừng tăng lên. Kết quả hoạt động từ các dự án của các nhà đầu tư đã góp phần quan trọng vào việc tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế môt cách tích cực, đúng hướng. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, từ các tỉnh, thành phố ngoài tỉnh thật sự đã trở thành...

pdf75 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1012 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Thu hút đầu tư trực tiếp nhằm phát triển kinh tế ở tỉnh Nghệ An, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Thu hút đầu tư trực tiếp nhằm phát triển kinh tế ở tỉnh Nghệ An MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong các nguồn lực cho tăng trưởng và phát triển kinh tế thì vốn là rất quan trọng, nhiều khi mang tính quyết định. Thu hút đầu tư và sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả là chìa khóa thành công cho sự phát triển của mọi quốc gia, đặc biệt đối với nền kinh tế còn đang phát triển. Cùng với nhiều địa phương trong cả nước, những năm qua, tỉnh Nghệ An có nhiều cố gắng trong hoạt động xúc tiến đầu tư, ban hành nhiều cơ chế, chính sách ưu đãi, tạo lập môi trường thuận lợi … để thu hút vốn đầu tư. Nhờ đó, số lượng vốn đầu tư cả trong và ngoài nước, đặc biệt là vốn đầu tư trực tiếp của các nhà đầu tư không ngừng tăng lên. Kết quả hoạt động từ các dự án của các nhà đầu tư đã góp phần quan trọng vào việc tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế môt cách tích cực, đúng hướng. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, từ các tỉnh, thành phố ngoài tỉnh thật sự đã trở thành một bộ phận cấu thành của nền kinh tế địa phương. Như Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã khẳng định: “... Phát huy nội lực, xem đó là nhân tố quyết định đối với sự phát triển, đồng thời coi trọng huy động các nguồn ngoại lực; thông qua hội nhập và hợp tác quốc tế, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để phát huy nội lực mạnh hơn...” [8, tr.71]. Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ XVI, Nhiệm kỳ 2005 – 2010 cũng đã tiếp tục nhấn mạnh: “… Có chính sách huy động mọi nguồn vốn từ trong dân, từ ngoại tỉnh, từ nước ngoài, từ ngân sách… cho đầu tư phát triển .. Vận dụng các quy định của pháp luật , ban hành các cơ chế, chính sách ưu đãi, thông thoáng, thuận lợi cho nhà đầu tư” [30, tr.80]. Tuy vậy, so với nhiều địa phương khác và đặc biệt là so với nhu cầu vốn đầu tư để góp phần đẩy nhanh hơn tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế của tỉnh, thì hoạt động thu hút đầu tư ở Nghệ An còn nhiều yếu kém, bất cập. Việc phân tích khoa học, tìm nguyên nhân và đề ra các giải pháp cơ bản để thu hút được nhiều vốn đầu tư trực tiếp của các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước vào Nghệ An trong thời gian tới là một nhiệm vụ cần thiết, cấp bách. Xuất phát từ yêu cầu đó, tác giả chọn vấn đề: “Thu hút đầu tư trực tiếp nhằm phát triển kinh tế ở tỉnh Nghệ An” làm đề tài luận văn thạc sĩ kinh tế của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Hoạt động đầu tư nói chung đã có nhiều công trình nghiên cứu, đề cập ở nhiều khía cạnh hay giác độ khác nhau. Những năm gần đây có một số công trình nghiên cứu, một số bài viết xung quanh vấn đề: Huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển; thu hút và quản lý vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), hay nghiên cứu hoạt động thu hút đầu tư vào KCN, KCX… Đáng chú ý một số công trình sau: + Tống Quốc Đạt (2004): “Những giải pháp chủ yếu nhằm điều chỉnh cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài theo ngành kinh tế ở Việt Nam giai đoạn 2001-2010” Luận án Tiến sỹ, chuyên ngành Quản lý và KHH nền KTQD + Nguyễn Đẩu (2005): “Huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển thành phố Đà Nẵng” Luận án Tiến sỹ, chuyên ngành Quản lý Kinh tế + Nguyễn Văn Thành (2006): “Thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp ở Nghệ An hiện nay” Luận văn thạc sỹ, chuyên ngành Kinh tế chính trị + Nguyễn Văn Oánh: “Cải thiện môi trường đầu tư, bắt đầu từ đâu?” Bài đăng trên Tạp chí Kinh tế và Dự báo, Số 1/2006 + Vũ Thành Tự Anh: “Cạnh tranh xé rào hay cuộc chạy đua xuống đáy” Thời báo Kinh tế Sài Gòn tháng 3/2006 + Lê Khoa: “Vài suy nghĩ về chính sách thu hút đầu tư trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, Số 5/2007. + Nguyễn Hoài Long: “Các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của địa phương trong việc thu hút đầu tư”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, Tháng 9/2008. + Nguyễn Thế Vinh: “Phát huy lợi thế so sánh tạo bước đột phá phát triển Kinh tế - Xã hội tỉnh Vĩnh Phúc”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, Tháng 9/2008. Hầu hết các công trình khoa học này tập trung nghiên cứu dưới giác độ thu hút, quản lý, sử dụng vốn đầu tư trực tiếp trong nước hoặc nước ngoài vào một địa phương cụ thể, vào các khu công nghiệp, tìm ra những khó khăn, thách thức hoặc các giải pháp để thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là chủ yếu. Tuy vậy, cho đến nay, vẫn chưa có khoa học nào nghiên cứu về thu hút vốn đầu tư trực tiếp vào Nghệ An cho tăng trưởng và phát triển kinh tế một cách có hệ thống dưới giác độ của một luận văn hay luận án chuyên ngành quản lý kinh tế. Do vậy, việc nghiên cứu thực trạng và đưa ra giải pháp nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp cho phát triển kinh tế ở Nghệ An hiện nay là vấn đề rất cần thiết. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn Mục tiêu: Trên cơ sở những lý luận và thực tiễn của hoạt động thu hút vốn đầu tư trực tiếp vào các quốc gia, vùng lãnh thổ nói chung, địa bàn tỉnh Nghệ An nói riêng, đề xuất các giải pháp, đặc biệt là các giải pháp về quản lý kinh tế nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn đầu tư trực tiếp của các nhà đầu tư trong nước vào địa bàn tỉnh Nghệ An trong những năm tới. Nhiệm vụ: - Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản về đầu tư, vốn đầu tư, thu hút vốn đầu tư, cơ chế quản lý vốn đầu tư trực tiếp vào các quốc gia, vùng lãnh thổ. - Làm rõ nội dung thu hút vốn đầu tư trực tiếp, tổng thuật kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư trực tiếp cho phát triển kinh tế ở một số tỉnh, thành trong nước. - Phân tích, đánh giá thực trạng thu hút vốn đầu tư trực tiếp ở Nghệ An thời gian qua. - Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường thu hút và quản lý vốn đầu tư trực tiếp vào Nghệ An trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Các vấn đề liên quan đến hoạt động đầu tư FDI, đầu tư trực tiếp của các nhà đầu tư trong nước vào Nghệ An; môi trường đầu tư, các cơ chế, chính sách ưu đãi đầu tư trực tiếp vào các địa phương và tỉnh Nghệ An. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề thu hút vốn đầu tư trực tiếp của các nhà đầu tư trong và ngoài nước vào địa bàn tỉnh Nghệ An từ năm 2001 đến nay.(Bao gồm: Vốn FDI, đầu tư của các nhà đầu tư trong và ngoài tỉnh) và phương hướng, giải pháp cơ bản để đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư trực tiếp giai đoạn 2008-2010, có tính đến năm 2015 và năm 2020. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận: Luận văn được dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng, Nhà nước ta, những lý luận kinh tế về thu hút đầu tư phát triển KT-XH. Phương pháp nghiên cứu Ngoài những phương pháp chung: Duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, hệ thống hóa, trừu tượng hóa, luận văn còn sử dụng các phương pháp khác như: Phân tích theo mô hình thống kê, đánh giá, so sánh và tổng hợp từ các số liệu. Đồng thời, luận văn cũng kế thừa và sử dụng có chọn lọc những thông tin đã có trong các công trình nghiên cứu của một số nhà khoa học, nhà quản lý. 6. Đóng góp của luận văn - Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản về đầu tư và thu hút đầu tư vào quốc gia, vùng lãnh thổ. - Đề xuất những giải pháp cơ bản có tính khả thi nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp vào địa bàn tỉnh Nghệ An trong thời gian tới. - Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan quản lý nhà nước ở lĩnh vực thu hút đầu tư trong quá trình phát triển kinh tế ở Nghệ An và những người quan tâm đến lĩnh vực đầu tư. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương, 9 tiết. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP PHÁT TRIỂN KINH TẾ 1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP 1.1.1. Khái niệm về đầu tư trực tiếp và vốn đầu tư trực tiếp Hiện nay đang tồn tại một số quan niệm khác nhau về đầu tư. Một số quan niệm tiêu biểu: - Đầu tư là việc sử dụng vốn vào quá trình tái sản xuất xã hội nhằm tạo ra năng lực vốn lớn hơn. Vốn đầu tư là phần tích luỹ xã hội của các ngành, các cơ sở sản xuất kinh doanh, là tiền tiết kiệm của dân và huy động từ các nguồn khác dược đưa vào tái sản xuất xã hội. Trên bình diện doanh nghiệp, đầu tư là việc di chuyển vốn vào một hoạt động nào đó nhằm mục đích thu được một khoản lớn hơn. - Đầu tư là hoạt động sử dụng tiền vốn, tài nguyên…trong cùng một thời gian tương đối dài nhằm thu lợi nhuận hoặc lợi ích kinh tế xã hội. Đặc điểm của đầu tư là thời gian tương đối dài, những hoạt động kinh tế có thời gian dưới một năm không được gọi là đầu tư. - Theo luật đầu tư 2005 (có hiệu lực thi hành 01/7/2006) thì: “Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư” [29, tr.6]. Nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động đầu tư, bao gồm: Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế; Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; Hộ kinh doanh cá nhân ở trong và ngoài nước có hoạt động đầu tư [29, tr.7]. Trong luận văn này, tác giả cho rằng: Đầu tư là quá trình bỏ vốn (tiền, nguyên liệu, nhân lực, công nghệ, giá trị thương hiệu, bí quyết kinh doanh…) vào các hoạt động sản xuất kinh doanh và dịch vụ nhằm mục đích thu lợi nhuận. Tuỳ theo mục đích nghiên cứu, người ta phân loại đầu tư theo các tiêu chí khác nhau. - Theo lĩnh vực của nền kinh tế, có: Đầu tư sản xuất và đầu tư cho các hoạt động dịch vụ. - Theo nguồn vốn đầu tư, có: Đầu tư từ vốn NSNN, từ vốn vay hay vốn tự có của DN, của dân cư, tín dụng… - Căn cứ vào phạm vi biên giới quốc gia, quốc tịch và nơi đăng ký hoạt động theo pháp luật của nhà đầu tư, hoạt động đầu tư gồm: Đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Đầu tư trong nước là việc nhà đầu tư trong nước bỏ vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư tại Việt Nam; Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư. - Căn cứ vào các phương thức đầu tư, phương thức sử dụng vốn đầu tư, hoạt động đầu tư bao gồm đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp. + Đầu tư gián tiếp: Là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư. Từ việc không trực tiếp quản lý, điều hành các hoạt động sử dụng vốn, nhà đầu tư không chịu trách nhiệm về kết quả đầu tư. Đầu tư gián tiếp thường được thực hiện dưới các hình thức: Chứng khoán và viện trợ (ODA). + Đầu tư trực tiếp: Là phương thức sử dụng vốn đầu tư mà nhà đầu tư tham gia trực tiếp vào quản lý hoạt động đầu tư và quá trình sản xuất kinh doanh theo 2 hình thức: Đầu tư chuyển dịch: Người bỏ vốn mua lại cổ phần của người khác nhằm tăng tỷ trọng vốn góp để nắm quyền chi phối quá trình quản trị kinh doanh doanh nghiệp. Đầu tư phát triển: Là hình thức đầu tư nhằm tạo dựng nên năng lực mới (về lượng hoặc về chất, chiều rộng hay chiều sâu) cho các hoạt động sản xuất, dịch vụ nhằm đạt mục tiêu hiệu quả. Đầu tư phát triển thường ở dưới dạng: Xây dựng mới, mở rộng quy mô hiện đại có đổi mới công nghệ nhằm tăng năng lực hoạt động của nền kinh tế hoặc doanh nghiệp, tăng chất lượng sản phẩm, nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm. Về thu hút đầu tư, dưới góc độ kinh tế đầu tư, lý thuyết về lực hút và lực đẩy của luồng đầu tư cho rằng: luồng đầu tư trực tiếp được quyết định bởi các yếu tố thúc đẩy đầu tư (push factors) từ bên ngoài và các yếu tố thu hút đầu tư từ bên trong (pool factors). Các yếu tố từ bên ngoài gồm các yếu tố sản xuất có lợi thế so sánh từ nền kinh tế có vốn đầu tư và môi trường kinh tế toàn cầu, các yếu tố từ bên trong gồm các yếu tố sản xuất có lợi thế so sánh như vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên, môi trường đầu tư, nguồn nhân lực, hệ thống cơ chế, chính sách ưu đãi … của nền kinh tế tiếp nhận đầu tư [18]. Trong luận văn chỉ tập trung phân tích các yếu tố bên trong của nền kinh tế tiếp nhận đầu tư. Vốn đầu tư là toàn bộ giá trị của tất cả các yếu tố (tiền tệ, máy móc, thiết bị, nhà xưởng, vị trí kinh doanh, bằng phát minh sáng chế…) được bỏ vào đầu tư nhằm đạt được mục tiêu đã định. Theo các cách phân loại đầu tư và theo các tiêu chí khác nhau, vốn đầu tư cũng được phân thành nhiều loại khác nhau. - Theo nguồn vốn có: Vốn nước ngoài và vốn trong nước. - Theo phương thức đầu tư có: Vốn đầu tư gián tiếp và vốn đầu tư trực tiếp. Khác với đầu tư gián tiếp là nguồn vốn được thực hiện dưới dạng đầu tư tài chính thuần tuý với các chứng khoán có thể chuyển đổi và mang tính thanh khoản cao trên thị trường tài chính, đầu tư trực tiếp có nguồn vốn đầu tư lâu dài chủ yếu dưới dạng vật chất (xây dựng nhà máy, mua sắm thiết bị, máy móc, nguyên vật liệu dùng cho sản xuất) nên khó chuyển đổi hoặc thanh khoản. Đặc trưng nổi bật này chính là “ưu điểm” và tạo sự “yên tâm” cho chính quyền địa phương thu hút đầu tư, tránh được sự rút vốn của nhà đầu tư (nếu có) theo kiểu “tháo chạy” đồng loạt trên phạm vi rộng và số lượng lớn, ảnh hưởng tới sự phát triển ổn định của địa phương. Luận văn này tiếp cận hoạt động đầu tư và vốn đầu tư theo cả 2 cách phân loại như trên. 1.1.2. Vai trò của vốn đầu tư trực tiếp đối với phát triển kinh tế Có rất nhiều quan niệm, quan điểm khác nhau về vai trò của vốn đầu tư trực tiếp, chúng tôi chỉ tập trung ở những vai trò chủ yếu sau: a) Vốn đầu tư trực tiếp góp phần bổ sung quan trọng, giải quyết được khó khăn về thiếu vốn cho đầu tư phát triển nền kinh tế quốc dân Để có tốc độ tăng trưởng cao, ổn định, tất cả các nước đang phát triển và kém phát triển, do tích luỹ nội bộ thấp, muốn tăng trưởng và phát triển kinh tế đều cần phải có vốn. Cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế, nhu cầu vốn đầu tư cũng không ngừng tăng lên. Thực tế cho thấy tăng trưởng kinh tế cao thường gắn với tỷ trọng đầu tư lớn. Nhờ có vốn đầu tư mà nhà nước cũng như doanh nghiệp có điều kiện đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế và đổi mới công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết các vấn đề văn hoá, xã hội. Không chỉ đối với các nước nghèo và kém phát triển mà kể cả các nước phát triển, vốn đầu tư là nhân tố quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế. Còn đối với các nước chậm phát triển thì đây là nguồn lực hết sức quan trọng để tăng trưởng kinh tế. Các quốc gia này luôn rơi vào tình trạng thiếu vốn đầu tư, lạc hậu về công nghệ và trình độ quản lý. Khi nghiên cứu nền kinh tế của các nước đang phát triển và kém phát triển, Paul A.Samuelson đã ví hoạt động sản xuất và đầu tư của những nước này như là một vòng nghèo đói, luẩn quẩn: Thu nhập thấp dẫn đến tiết kiệm và đầu tư thấp; Tiết kiệm và đầu tư thấp làm cho tỷ lệ tích luỹ vốn thấp, không đủ vốn cho đầu tư; Vốn đầu tư không đủ cho nhu cầu sản xuất làm cho năng lực sản xuất giảm, năng suất nền kinh tế thấp, điều này dẫn đến thu nhập bình quân thấp và lại quay trở về chu kỳ ban đầu. Để phá vỡ vòng luẩn quẩn đó, biện pháp hữu hiệu nhất có thể coi là bước đột phá là tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế, thu hút và huy động tối đa các nguồn lực trong và ngoài nước để phát triển kinh tế, tạo ra tăng trưởng, làm cho thu nhập tăng lên. b) Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế Đầu tư trực tiếp được thực hiện ở nhiều lĩnh vực, và thường đem lại hiệu quả kinh tế cao, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Nếu so sánh với các nguồn vốn đầu tư gián tiếp hay các nguồn vốn viện trợ khác như: cổ phiếu, ODA hay NGO thì dễ nhận thấy ưu điểm của vốn đầu tư trực tiếp. Đó là, ví dụ vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước chủ nhà không phải hoàn trả vốn, do vậy, các nước và vùng lãnh thổ nhận đầu tư tránh được nợ, hạn chế được việc nhà đầu tư rút vốn ồ ạt qua cổ phiếu và không phải chịu những ràng buộc về mặt chính trị, xã hội đối với chủ thể đầu tư. Đồng thời vẫn tăng năng lực sản xuất, thúc đẩy xuất khẩu, cải thiện cán cân thương mại. Việc thu hút đầu tư trực tiếp đã làm xuất hiện nhiều ngành nghề mới, mặt hàng mới, mở rộng thị trường ngoài nước nhất là các sản phẩm của các ngành công nghiệp, nông lâm thủy hải sản…từ đó góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của một quốc gia hay một địa phương nhận đầu tư theo hướng CNH- HĐH. c) Góp phần đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ sản xuất, rút ngắn quá trình CNH – HĐH Khác với các hình thức đầu tư gián tiếp, đầu tư trực tiếp không chỉ đưa vốn vào địa bàn nhận đầu tư mà cùng với vốn là kỹ thuật, công nghệ, bí quyết sản xuất kinh doanh, năng lực maketing…Nhà đầu tư khi đưa vốn vào đầu tư và tiến hành sản xuất kinh doanh ngoài việc sử dụng nguồn lao động dồi dào, giá nhân công rẻ, họ còn chú trọng đầu tư vào công nghệ cao để không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành nhằm tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Điều này góp phần nâng cao năng lực sản xuất và hiện đại hoá nền sản xuất của địa phương thu hút đầu tư. Nếu đứng trên góc độ của một doanh nghiệp thì vốn đầu tư là điều kiện cực kỳ quan trọng để doanh nghiệp có thể đổi mới máy móc thiết bị, công nghệ sản xuất. Nhờ có vốn đầu tư mà doanh nghiệp có thể nghiên cứu sản xuất ra hoặc mua được những máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ sản xuất tiên tiến, hiện đại ở trong nước và trên thế giới. Từ đó, nâng cao hơn năng lực cạnh tranh của mình. Trong nền kinh tế thị trường, chỉ có những doanh nghiệp nào biết ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, ứng dụng công nghệ mới một cách phù hợp thì mới thành công trong kinh doanh, giành được thắng lợi trong cạnh tranh. d) Mở rộng quan hệ quốc tế, góp phần phát triển nguồn nhân lực, tạo công ăn việc làm và thu nhập cho người lao động Có nhiều nhà đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư trực tiếp; nguyên liệu, sản phẩm hay một yếu tố nào đó trong quá trình hoạt động của các doanh nghiệp có thể được nhập khẩu từ nước ngoài hay xuất bán ra nước ngoài, từ đó góp phần mở rộng quan hệ quốc tế. Có thêm nhà đầu tư, có thêm tổ chức kinh tế hoạt động là tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, tăng nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm của các nước tiếp nhận đầu tư, bên cạnh những ưu điểm thì đầu tư trực tiếp, (đặc biệt là FDI) cũng có những hạn chế nhất định. Đó là, nếu đầu tư vào nơi có môi trường bất ổn về kinh tế và chính trị, thì nhà đầu tư nước ngoài dễ bị mất vốn. Còn đối với nước sở tại, nếu không có quy hoạch cho đầu tư cụ thể và khoa học thì sẽ dẫn đến chỗ đầu tư tràn lan, kém hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức và nạn ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; Tình trạng tiếp nhận công nghệ lạc hậu với giá cao, dẫn đến chi phí sản xuất lớn, chất lượng sản phẩm chưa cao, tính cạnh tranh thấp; Do sự chênh lệch về trình độ quản lý và năng lực công nghệ nên các nước nhận vốn đầu tư nước ngoài có thể bị thua thiệt trong các dự án liên doanh. 1.2. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP 1.2.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên - Vị trí địa lý thuận lợi hay không thuận lợi ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động thương mại và đầu tư trực tiếp, đặc biệt là thu hút FDI. Vị trí địa lý càng thuận lợi thì mức độ trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia và nguồn vốn đầu tư của nước ngoài vào càng lớn, ngược lại sẽ gây trở ngại cho hoạt động kêu gọi, thu hút đầu tư do: tốn thời gian, tăng chi phí vận tải, giảm hiệu quả kinh tế. - Điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên được coi là tiền đề vật chất cho sự phát triển của đầu tư trực tiếp. Khí hậu thuận lợi cho cây trồng, vật nuôi cũng như đất đai đảm bảo cho việc xây dựng các vùng chuyên canh sản xuất nông nghiệp sẽ tạo điều kiện thu hút đầu tư ở lĩnh vực nông nghiệp; nhiều danh lam thắng cảnh sẽ thuận lợi cho phát triển kinh tế du lịch; mạng lưới sống ngòi với độ cao thuận lợi cho phát triển công nghiệp thủy điện; vùng giàu về tài nguyên thiên nhiên sẽ có thuận lợi thu hút đầu tư hơn vùng nghèo tài nguyên. Có nguồn tài nguyên lớn và đa dạng là tiền đề để thu hút đầu tư ở lĩnh vực công nghiệp khai thác, chế biến. 1.2.2. Trình độ phát triển kinh tế Tốc độ và chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế liên quan trực tiếp tới nhu cầu, khả năng hấp thụ vốn đầu tư cũng như sự phát triển của thị trường trong nước. Một nền kinh tế năng động, tốc độ tăng trưởng cao và ổn định sẽ có nhu cầu và khả năng hấp thụ một lượng vốn đầu tư lớn và ngược lại. Bên cạnh đó, tăng trưởng cao sẽ tạo được nguồn tích lũy cho chi tiêu của Chính phủ, doanh nghiệp vào hoàn thiện và phát triển kết cấu hạ tầng; mở rộng được thị trường trong nước do sức mua của doanh nghiệp và cả người dân tăng lên, từ đó thu hút đầu tư sẽ mạnh mẽ hơn. 1.2.3. Môi trường đầu tư Môi trường đầu tư theo nghĩa chung nhất là tổng hoà các yếu tố bên ngoài liên quan đến hoạt động đầu tư và ảnh hưởng, tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến hiệu quả đầu tư của nhà đầu tư. Nội dung của môi trường đầu tư theo cách hiểu đầy đủ mà các nhà khoa học đã nêu ra bao gồm: Môi trường pháp lý, kết cấu hạ tầng, thủ tục hành chính và môi trường chính trị xã hội. - Môi trường pháp lý: Để thu hút được đầu tư, pháp luật phải đảm bảo thực sự rõ ràng, nhất quán, minh bạch, ổn định. Hệ thống pháp luật phải tạo một mặt bằng chung về pháp lý cho mọi nhà đầu tư thuộc các thành phần kinh tế, xoá bỏ sự khác biệt giữa nhà đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, phù hợp với luật pháp quốc tế. Việc xây dựng luật đầu tư phải đồng thời các luật liên quan khác như: Luật doanh nghiệp, luật thương mại, luật thuế… và ban hành các văn bản dưới luật đảm bảo kịp thời, nhất quán, mang tính khả thi cao. Đồng thời, phải hoàn chỉnh hệ thống pháp luật có liên quan đến chính sách đầu tư để tạo lập môi trường kinh doanh ổn định, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Đối với các địa phương, ngoài những chính sách chung của Quốc hội, Chính phủ, các địa phương cũng cần có những chính sách, văn bản cụ thể hóa, chi tiết hoá đối với hoạt động đầu tư trên địa bàn địa phương mình như chính sách ưu đãi đầu tư, lĩnh vực ưu đãi đầu tư, danh mục các dự án kêu gọi đầu tư… - Kết cấu hạ tầng: Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, nơi nào có kết cấu hạ tầng tốt thì nơi đó có sức hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư và ngược lại. Vì vậy, xây dựng kết cấu hạ tầng là điều kiện tiên quyết, bắt buộc không chỉ với đòi hỏi trước mắt mà cả lâu dài; không chỉ tạo điều kiện để thu hút đầu tư mà còn cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Hệ thống giao thông vận tải được đảm bảo an toàn, tiện lợi sẽ góp phần giảm thiểu mức tối đa chi phí lưu thông cho doanh nghiệp. Kho tàng, bến bãi, điện nước, thông tin liên lạc, xử lý chất thải, phòng chống cháy nổ… ở các khu công nghiệp được xây dựng tốt sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tổ chức SXKD. Ngoài ra hạ tầng xã hội như: các hoạt động thương mại, dịch vụ kinh tế, bệnh viện, trường học, khu vui chơi giải trí, nhà ở cho người lao động … được chuẩn bị chu đáo cũng làm tăng sức thu hút đối với các nhà đầu tư. - Thủ tục hành chính: Trong hoạt động đầu tư, thủ tục hành chính ảnh hưởng đến thời gian, chi phí và cơ hội đầu tư. Thủ tục hành chính rườm rà sẽ tốn nhiều thời gian, tăng chi phí, mất cơ hội của nhà đầu tư khiến cho nhà đầu tư nản lòng. Cải cách hành chính, đặc biệt là thủ tục hành chính đang là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách mà các địa phương đang tập trung giải quyết hiện nay nhằm tăng sức hấp dẫn đối với nhà đầu tư. Nếu đơn giản hoá các hình thức và thủ tục cấp phép đầu tư, rút ngắn thời gian cấp phép đầu tư, mở rộng việc cho phép áp dụng hình thức đăng ký đầu tư đối với các danh mục dự án cần khuyến khích đầu tư, loại bỏ những quy định không cần thiết cản trở đến hoạt động đầu tư sẽ thu hút được đầu tư. Nếu không quy định rõ ràng, công khai thủ tục hành chính trên cơ sở đơn giản hoá, không xử lý nghiêm khắc những trường hợp sách nhiễu, cửa quyền, tiêu cực của những người có liên quan đến hoạt động cấp phép, quản lý đầu tư sẽ làm hạn chế rất lớn đến kết quả thu hút đầu tư. - Môi trường chính trị - xã hội: Giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo trật tự an toàn xã hội có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động đầu tư. Bởi lẽ khi tình hình chính trị bất ổn, nhất là thể chế chính trị thay đổi cũng có nghĩa là mục tiêu, phương hướng phát triển và cả phương thức đạt mục tiêu của cả một xã hội cũng thay đổi theo. Giữ vững ổn định chính trị xã hội sẽ tạo được tâm lý yên tâm, tin tưởng cho các nhà đầu tư khi đầu tư vào địa bàn. Yếu tố quyết định vấn đề này là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, vai trò của Nhà nước pháp quyền trong việc xử lý kiên quyết, kịp thời và phù hợp với pháp luật những hành vi vi phạm pháp luật, kịp thời ngăn chặn mọi âm mưu của các thế lực phản động đảm bảo quốc phòng an ninh. Môi trường đầu tư là yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ nhất tới kết quả thu hút đầu tư. Môi trường đầu tư tốt sẽ khuyến khích, tạo động lực để nhà đầu tư mạnh dạn đầu tư với chi phí và rủi ro thấp, lợi nhuận cao và góp phần mang lại hiệu quả hoạt động trên phạm vi toàn xã hội. Mỗi quốc gia hay vùng lãnh thổ nào chủ trương đẩy mạnh thu hút đầu tư cũng đều hướng tới việc tạo lập một môi trường đầu tư hấp dẫn với các yếu tố: Hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ, phát triển; Các thủ tục hành chính về đầu tư phải nhất quán, minh bạch, thuận lợi và nhanh gọn; Chất lượng các dịch vụ hỗ trợ đầu tư được nâng cao; Các chỉ số đánh giá năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) được cải thiện tích cực gồm: Chi phí gia nhập thị trường thấp, nâng cao khả năng tiếp cận đất đai, chi phí về thời gian và chi phí không chính thức mà doanh nghiệp phải bỏ ra không đáng kể, ưu đãi đối với DNNN, chính sách phát triển kinh tế tư nhân được thực hiện tốt, đào tạo lao động được quan tâm và thực hiện có hiệu quả. 1.2.4. Chính sách ưu đãi đầu tư Chính sách ưu đãi đầu tư là công cụ nhằm thu hút đầu tư hoặc định hướng đầu tư theo những mục tiêu phát triển nhất định. Chính sách đầu tư tác động trực tiếp đến việc khai thác, phát huy các nguồn lực bên trong và thu hút các nguồn lực bên ngoài. Mặt khác, chính sách đầu tư còn tác động đến sự phân bổ các nguồn lực một cách đúng hướng và đạt hiệu quả cao. Ưu đãi đầu tư được áp dụng tương đối phổ biến trên thế giới, đặc biệt ở các nước đang phát triển. Thực tiễn một số nước trong khu vực đã cho thấy: Chính sách đầu tư đúng quan trọng hơn nhiều so với nguồn lực tài nguyên thiên nhiên, nghĩa là sự phát triển của một quốc gia, một địa phương phụ thuộc vào chính sách đầu tư hơn là bản thân các nguồn lực khác. Có nhiều biện pháp ưu đãi đầu tư khác nhau như miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, miễn giảm thuế nhập khẩu, miễn giảm tiền thuê đất, trợ cấp tín dụng, trợ cấp đầu tư… Việc xây dựng chính sách ưu đãi đầu tư chủ yếu là công việc của Chính phủ. Tuy nhiên, vai trò của chính quyền địa phương là hết sức quan trọng trong việc thực thi và vận dụng sáng tạo, bằng cơ chế chính sách riêng trong khuôn khổ cho phép. Vấn đề là ưu đãi phải cụ thể, thiết thực, có tính khả thi, đặc biệt là phải nhất quán và có xu hướng mở rộng. Chính sách ưu đãi đầu tư của chúng ta hiện nay dường như chưa hiệu quả trong thu hút và khuyến khích các hoạt động đầu tư. Hiệu quả thấp phần lớn là do tình trạng ưu đãi thuế thừa - có nghĩa là, có nhiều nhà đầu tư vẫn thực thi dự án dù không có ưu đãi thuế. Tỷ lệ ưu đãi thừa cao làm giảm một khoản thuế lớn lẽ ra có thể thu được. Trong một nghiên cứu gần đây của VCCI về tình hình sử dụng ưu đãi đầu tư của DN Việt Nam, có hơn 80% DNTN đang hưởng ưu đãi về thuế thừa nhận rằng ưu đãi đó không hề tác động đến quyết định đầu tư của họ. Điều này cũng có nghĩa là tỷ lệ bao cấp đầu tư đến 70%, nghĩa là, để tạo thêm một khoản đầu tư 100.000 đồng bằng ưu đãi thuế, ta phải từ bỏ 70.000 đồng tiền thuế. Nhìn từ góc độ tài chính công, một nghiên cứu bao quát hơn ước tính chi phí cho ưu đãi đầu tư bằng thuế hằng năm vào khoảng 0,7% GDP [23]. 1.2.5. Dân số và nguồn lao động Dân số và nguồn lao động là nhân tố quan trọng hàng đầu cho sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung và hoạt động thu hút đầu tư nói riêng. Trong dân số vừa có nguồn nhân lực cần thiết cho hoạt động sản xuất vật chất, vừa là thị trường tiêu thụ các sản phẩm các dịch vụ và xã hội. Quy mô số dân càng đông, thu nhập cao sẽ góp phần tạo ra thị trường tiêu thụ càng lớn. Vai trò quan trọng của dân số còn thể hiện ở tập quán, bản sắc văn hoá - những yếu tố căn bản để hình thành sức mạnh riêng biệt của một địa phương. Người dân có văn hoá, kỷ luật, tay nghề và trình độ quản lý sẽ là lợi thế cạnh tranh dài hạn; thói quen tiêu dùng là động lực thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển; đức tính thân thiện là tiềm năng để thu hút du lịch và hợp tác kinh doanh; cần cù, sáng tạo là sức mạnh để tạo nên sự phát triển bền vững. Trong điều kiện hiện nay, chất lượng nguồn lao động được đặc biệt quan tâm. Khi nhân loại đã bước sang thiên niên kỷ thứ ba với nền kinh tế tri thức, rõ ràng không có nguồn lực nào có thể thay thế được nguồn lao động, đặc biệt nguồn lao động chất lượng cao. Đây được coi là nhân tố quyết định việc khai thác, sử dụng các nguồn lực khác có hiệu quả và cũng là nhân tố quyết định đến sự phát triển của một quốc gia hay vùng lãnh thổ. Thực tiễn đã chứng minh, nhiều quốc gia tuy không giàu có về tài nguyên thiên nhiên, nhưng nhờ có nguồn nhân lực dồi dào và trình độ kỹ thuật cao đã vươn lên thành cường quốc kinh tế thế giới. Ví dụ điển hình là Nhật Bản - đất nước của những trận động đất, núi lửa, đất đai kém màu mỡ, nghèo tài nguyên thiên nhiên… nhưng nhờ đức tính cần cù, ham học hỏi, say mê nghiên cứu khoa học và sáng tạo của người dân…đã đưa Nhật Bản thành cường quốc kinh tế đứng thứ hai thế giới, chỉ sau Hoa Kỳ. Nói tóm lại, dân số - nguồn lao động tạo cả “cung” và “cầu” cho nền kinh tế và tham gia điều tiết mối quan hệ này. Vì vậy, mỗi quốc gia hay địa phương phải hoạch định chiến lược phù hợp để định hướng, giáo dục, thúc đẩy vai trò của dân số và nguồn lao động, đặc biệt là lao động có chất lượng cao nhằm thu hút vốn đầu tư để phát triển kinh tế xã hội. 1.2.6. Công tác vận động, xúc tiến đầu tư Xúc tiến đầu tư nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp thực chất là tổng hợp các biện pháp lobby, tiếp thị quảng bá các hình ảnh về một quốc gia hay một địa phương và cung cấp các dịch vụ đầu tư tốt nhất cho các nhà đầu tư để khuyến khích họ tăng cường đầu tư vào quốc gia hay địa phương đó. Công tác vận động, xúc tiến đầu tư có vai trò quan trọng trong việc phát huy nội lực để thu hút được một giá trị và cơ cấu vốn đầu tư trực tiếp tối ưu. Nếu so sánh, có thể coi công tác vận động, xúc tiến đầu tư như là công tác “quảng cáo”, “tiếp thị” hay maketting trong kinh doanh của doanh nghiệp, coi nhà đầu tư là “khách hàng” và chủ thể tiến hành công tác vận động, xúc tiến đầu tư là các cấp chính quyền hay các cơ quan được uỷ quyền của các cấp chính quyền và “sản phẩm” đưa ra quảng bá chính là thông tin về sự thuận lợi của môi trường đầu tư của một quốc gia hay một địa phương đến các nhà đầu tư tiềm năng. Không phải ngẫu nhiên, trong những năm gần đây, các cuộc viếng thăm nước ngoài của các nguyên thủ quốc gia bao giờ cũng có các doanh nghiệp đi cùng. Hoạt động chính trị của các chính khách không thể thoát ly hoạt động kinh tế của đất nước mà họ đại diện, trong đó, vận động, xúc tiến thương mại và đầu tư là nội dung hết sức quan trọng. 1.3. KINH NGHIỆM THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP CỦA MỘT SỐ TỈNH TRONG NƯỚC 1.3.1. Kinh nghiệm thu hút đầu tư của tỉnh Đồng Nai Tỉnh Đồng Nai nằm ở trung tâm của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, tiếp giáp với các trung tâm công nghiệp, dịch vụ và du lịch lớn nhất của cả nước như: TP HCM, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Dương, Lâm Đồng. Đồng Nai là tỉnh có nhiều tiềm năng, thế mạnh trong phát triển kinh tế và công nghiệp, đó là: Vị trí địa lý thuận lợi, tài nguyên thiên nhiên đa dạng, nguồn nhân lực có chất lượng, có các cơ sở công nghiệp từ những năm trước, môi trường đầu tư thông thoáng, nguồn vốn dồi dào, chính quyền năng động, đã có mối quan hệ sẵn có với các nước. Nhờ có những ưu thế đó mà trong hơn 15 năm qua (từ năm 1992 đến nay) tốc độ tăng trưởng kinh tế của Đồng Nai được duy trì ở mức rất cao, bình quân hàng năm giai đoạn 1991 - 1995 là 13,9%/năm; giai đoạn 1996 – 2000 là 12%/năm; giai đoạn 2001 – 2005 là 12,4%/năm. mức tăng trưởng GDP của Đồng Nai cao hơn nhiều so với cả nước. Với mức độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm như vậy, GDP của tỉnh Đồng Nai sẽ tăng gấp đôi trong 6 năm, nhanh hơn so với cả nước khoảng 4 năm. Kết quả đạt được kể trên là do tỉnh Đồng Nai đã tăng cường thu hút vốn đầu tư cả trong và ngoài nước, tạo ra sự “bùng nổ” đầu tư từ những năm 1995. Mức đầu tư tăng mạnh từ 16,3% GDP năm 1991 lên 28,9% GDP năm1995. Tổng vốn đầu tư trong 5 năm 1991 – 1995 đạt 5.479 tỷ đồng, trong đó vốn đầu tư nước ngoài chiếm 46,2 %. Chỉ tính riêng thu hút FDI, năm 2007, tỉnh đã cấp phép và thu hút được 2,67 tỷ USD, tăng 2,4 lần so với năm 2006 và tăng 2,2 lần so với kế hoạch. Nhờ đó, đã tạo ra sự tăng trưởng kinh tế cao từ khoảng 6% trước năm 1990 lên 13% năm 1995 và 17% năm 1996 [6]. Từ thực tế phát triển kinh tế - xã hội cũng như hoạt động thu hút vốn đầu tư của tỉnh Đồng Nai, có thể rút ra một số kinh nghiệm: - Thứ nhất, phải kể đến tính năng động, sáng tạo của chính quyền tỉnh Đồng Nai. Ngay từ những năm 1990, trong khi cơ chế chính sách của nhà nước chưa thật sự “mở cửa” thì tỉnh Đồng Nai Đã chủ động cử đoàn cán bộ cấp cao do Bí thư Tỉnh uỷ dẫn đầu đi nghiên cứu thu hút đầu tư ở Đài Loan, đây được coi là bước đi tiên phong, làm cơ sở cho việc đẩy mạnh thu hút FDI từ những năm 1990 cho đến nay. - Thứ hai, tỉnh đã biết khai thác tốt lợi thế về mặt địa lý của mình, đây là một yếu tố rất quan trọng để thu hút đầu tư của tỉnh. Đồng Nai vừa nằm ở trung tâm của vùng kinh tế động lực phía Nam, vừa gần các trung tâm kinh tế lớn như: TP HCM, Bà Rịa – Vũng Tàu, Lâm Đồng, đặc biệt là TP HCM. Đặc biệt lại có điều kiện tự nhiên khá thuận lợi như: Địa hình tương đối bằng phẳng, khí tượng điều hoà, thuỷ văn thuận lợI, đất đai thổ nhưỡng đa dạng, tài nguyên tương đối phong phú… - Thứ ba, Đồng Nai thường xuyên quan tâm xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật. Hệ thống giao thông thuỷ bộ khá phát triển là tiền đề quan trọng cho việc thu hút đầu tư để phát triển kinh tế - xã hội. Ngoài ra, còn có các yếu tố khác trong môi trường kinh doanh như hệ thống cơ chế chính sách quản lý phù hợp, hấp đẫn các nhà đầu tư. Việc chăm sóc tốt các nhà đầu tư trong hiện tại đã tạo được dư âm tốt để thu hút các nhà đầu tư khác trong tương lai. 1.3.2. Kinh nghiệm thu hút đầu tư của tỉnh Hà Tây Hà Tây (đã nhập về Hà Nội từ 01/8/2008) là tỉnh có rất nhiều tiềm năng và thế mạnh để tạo nên sức hút đầu tư tự nhiên. Thế nhưng, những năm trước đây, khi nói đến môi trường đầu tư của tỉnh, các nhà đầu tư thường rất e ngại bởi những rào cản chủ yếu như: công tác quy hoạch, giải phóng mặt bằng, thủ tục đầu tư rườm rà, hành chính quan liêu, sách nhiễu…Sau một thời gian dài nỗ lực với những biện pháp cải cách quyết liệt, Hà Tây đã khẳng định vị thế của mình trong con mắt các nhà đầu tư. Từ vị trí xếp hạng gần cuối bảng trong danh sách xếp hạng về chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) khảo sát. Những năm gần đây, Hà Tây đã có bước đột phá trong thu hút đầu tư. Từ cuối năm 2006, Hà Tây đã chính thức có tên trong danh sách câu lạc bộ các địa phương thu hút FDI hơn 1 tỷ USD. Các dự án đầu tư vào địa bàn tỉnh Hà Tây không chỉ tăng nhanh về số lượng, mà còn có những chuyển biến tích cực về chất lượng. Chỉ trong năm 2007, tỉnh đã cấp phép cho 30 dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với tổng vốn đầu tư đăng ký là 836,2 triệu USD, tăng 58% về số dự án và 5% về vốn đầu tư đăng ký so với năm 2006. Năm 2006, tổng số vốn FDI đăng ký là 794,9 triệu USD, gấp 10 lần so với năm 2005. Thu hút đầu tư trong nước cũng vậy, trong năm 2007, toàn tỉnh thu hút được 58 dự án, tổng số vốn đăng ký đạt 7.668 tỷ đồng, tăng 38% về số dự án và gấp 5,75 lần tổng vốn đầu tư đăng ký so với cùng kỳ năm 2006 (năm 2006 tăng 1,4 lần về số dự án và 2,86 lần về số vốn đăng ký so với năm 2005) [2]. Đạt được kết quả như trên, trước hết không thể không nhắc tới công tác vận động xúc tiến đầu tư mà Hà Tây đã tổ chức thực hiện trong thời gian qua. Từ hội nghị gặp mặt các nhà đầu tư tháng 12/2005 mà đã được Bộ Kế hoạch - Đầu tư và các tổ chức kinh tế đánh giá rất cao, tỉnh luôn quan tâm việc quảng bá địa phương. Bên cạnh đó, tỉnh cũng đã thành lập nhiều đoàn khảo sát, học hỏi kinh nghiệm và vận động đầu tư trực tiếp tại một số nước như Nhật Bản và Hàn Quốc, qua đó nhiều dự án FDI được cấp phép trong 2 năm qua thì đại đa số của các nhà đầu tư ở 2 quốc gia này. Thứ hai, chính quyền tỉnh Hà Tây cũng đã ban hành nhiều chính sách nhằm cải thiện và nâng cao năng lực môi trường đầu tư; cải cách một cách mạnh mẽ về thủ tục hành chính, thực hiện phương châm “nhanh chóng, thuận tiện, minh bạch”, thực hiện “một cửa” trong việc cấp phép đầu tư để rút nắn tối đa thời gian cấp phép cho nhà đầu tư. Tỉnh đã tổ chức nhiều đợt tập huấn về pháp luật, đặc biệt là Luật Đầu tư cho các đơn vị cấp sở, ban, ngành và các huyện, thị trong tỉnh. Hà Tây được coi là tỉnh đầu tiên trong cả nước áp dụng phân cấp về cấp phép đầu tư theo Luật Đầu tư mới. Thứ ba, công tác quy hoạch và giải phóng mặt bằng, tạo quỹ đất được giải quyết có hiệu quả, tỉnh đã thành lập các ban giải phóng mặt bằng tại các địa phương, không để cho các nhà đầu tư phải trực tiếp làm việc với dân. Công khai minh bạch quy hoạch trên các phương tiện thông tin đại chúng… Tóm lại, để có được kết quả thu hút đầu tư như trên, tỉnh Hà Tây đã “làm hết sức mình nhằm hỗ trợ tối đa cho các nhà đầu tư” [2]. 1.3.3. Kinh nghiệm thu hút đầu tư của tỉnh Vĩnh Phúc Mười năm trước đây, Vĩnh Phúc là một tỉnh thuần nông, có điểm xuất phát thấp, tỷ trọng nông nghiệp chiếm đến 52,54% giá trị GDP, công nghiệp chỉ chiếm 12,86%; GDP bình quân đầu người chỉ đạt gần 140 USD, thu ngân sách khoảng 100 tỷ đồng/năm. Đến nay, qua tổ chức thực hiện chủ trương đẩy mạnh thu hút đầu tư phát triển kinh tế, tỉnh Vĩnh Phúc đã đạt được những thành tựu to lớn: Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và duy trì ổn định trong nhiều năm; Năm 2007: Thu ngân sách đạt hơn 5.060 tỷ đồng; thu nhập bình quân đã đạt mức 900 USD/người/năm; Tỷ trọng công nghiệp trong cơ cấu kinh tế chiếm 60%, dịch vụ 25,24%, nông nghiệp chỉ còn 14,76%. Tính đến cuối năm 2007, Vĩnh Phúc đã thu hút được gần 500 dự án đầu tư, trong đó có 134 dự án FDI và gần 380 dự án đầu tư trong nước với tổng số vốn đăng ký hơn 2 tỷ USD. Riêng năm 2007, Vĩnh Phúc đã thu hút được 30 dự án FDI với tổng số vốn đăng ký là 802,834 triệu USD, chiếm 63,4% tổng số vốn đăng ký của cả giai đoạn 2002 - 2007. Trong đó, cơ cấu đầu tư phân theo lĩnh vực là: công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhất với 82,62% về số dự án và 73% tổng số vốn đăng ký đầu tư (chiếm 90,58% tổng số đầu tư FDI); lĩnh vực du lịch - dịch vụ - đô thị chiếm 13,9% số dự án và 24% tổng số vốn đăng ký (4,93% vốn FDI); còn lại là lĩnh vực nông nghiệp và đào tạo nghề [1]. Thực tế cho thấy, ngay từ khi tái lập tỉnh, nhằm khai thác tốt tiềm năng và lợi thế của tỉnh trong việc thu hút các dự án đầu tư, Vĩnh Phúc đã xây dựng và thực hiện đồng bộ các biện pháp như tập trung quy hoạch sử dụng đất; quy hoạch mặt bằng các khu, cụm công nghiệp, quy hoạch hệ thống đô thị và nông thôn mới, cụ thể hoá và thực hiện chính sách khuyến khích và thu hút vốn đầu tư của mọi thành phần kinh tế cả trong và ngoài nước, ưu đãi đầu tư trên cơ sở những chính sách của nhà nước đã ban hành… Có thể thấy rõ ba yếu tố cơ bản, mang tính đột phá, làm nên thành công trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp của tỉnh Vĩnh Phúc, đó là: Xây dựng các KCN chuẩn bị sẵn sàng về mặt bằng, chuyên nghiệp hoá công tác xúc tiến đầu tư và đẩy mạnh cải cách hành chính. - Về Khu Công nghiệp: tỉnh đã sớm có chủ trương quy hoạch các Cụm Công nghiệp, trên cơ sở đó để xây dựng các Khu Công nghiệp, có định hướng, có quy mô và thế mạnh phù hợp với từng khu vực, từng địa bàn dân cư, đặc biệt nhằm bảo vệ môi trường sinh thái. Tính đến cuối năm 2007, Vĩnh Phúc đã có 06 KCN với tổng diện tích tự nhiên là 1.809,12 ha, nhiều KCN có tỷ lệ lấp đầy cao: KCN Quang Minh I đạt 97,12%, Quang Minh II đạt 60,96%, Khai Quang đạt 59,6%. Do các KCN của tỉnh đã phát huy hiệu quả cao, nên UBND tỉnh đang tiếp tục trình Chính phủ tiếp tục phê duyệt thêm 07 KCN với tổng diện tích 2.205 ha. Diện tích quy hoạch cho các Cụm Công nghiệp, KCN nhiều, hạ tầng ở các KCN được chuẩn bị sẵn sàng là yếu tố tiên quyết cho thu hút đầu tư ở Vĩnh Phúc [1]. - Về vận động, xúc tiến đầu tư: Từ việc khẳng định vai trò quan trọng của hoạt động xúc tiến đầu tư đối với kết quả thu hút đầu tư, chính quyền tỉnh Vĩnh Phúc đã chủ trương chuyên nghiệp hoá hoạt động này, đó là mời các công ty luật, các công ty tư vấn và các cá nhân tham gia vào quá trình vận động đầu tư. Các đại lý quảng cáo thực hiện tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng và các phương tiện truyền thông khác; các đại lý du lịch tổ chức các chuyến đi xúc tiến đầu tư ở nước ngoài; các viện nghiên cứu, các hãng tư vấn và các hãng luật tập trung tìm hiểu, phân tích các công ty đa quốc gia để cung cấp thông tin chính xác, kịp thời, phục vụ hiệu quả cho các cấp chính quyền khi làm việc với các nhà đầu tư. - Về cải cách hành chính: tỉnh có chủ trương đẩy mạnh các biện pháp cải cách thủ tục hành chính thực hiện “một cửa liên thông”. Việc thực hiện cơ chế này là giao cho Ban Quản lý cụm, khu công nghiệp của tỉnh làm đầu mối để đứng ra giải quyết toàn bộ các thủ tục theo trình tự cần thiết cho nhà đầu tư, với phương châm: nhà đầu tư chỉ cần đến một địa điểm là thực hiện được cả một quá trình từ tư vấn ban đầu đến hoàn thiện các thủ tục cần thiết để cấp phép đầu tư trong thời gian ngắn nhất. Cơ chế “một cửa liên thông” được triển khai đã khắc phục được tình trạng trước kia về các thủ tục như giới thiệu địa điểm, thu hồi giao đất, cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cấp phép xây dựng, đánh giá tác động môi trường… thì các nhà đầu tư vẫn phải tự làm việc trực tiếp với các ngành, các cơ quan liên quan. Chính điều này đã gây không ít khó khăn, phiền hà cho nhà đầu tư như kéo dài thời gian thực hiện các thủ tục, chi phí tốn kém do phải đi lại nhiều lần đồng thời đây cũng là nguyên nhân phát sinh tiêu cực làm nản lòng các nhà đầu tư. Chương 2 THỰC TRẠNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP Ở NGHỆ AN 2.1. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI NGHỆ AN CÓ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP 2.1.1. Đặc điểm tự nhiên 2.1.1.1. Vị trí địa lý Nghệ An nằm ở vị trí trung tâm vùng Bắc Trung Bộ, lãnh thổ của Nghệ An nằm trong toạ độ từ 18 ◌۫˚35’ đến 20˚ 00’10’’ vĩ độ Bắc và từ 103˚ 50’25’’ đến 105 ˚40’30’’ kinh độ Đông. Về phía Bắc, Nghệ An giáp với tỉnh Thanh Hoá, phía Nam giáp tỉnh Hà Tĩnh, phía Tây có đương biên giới dài hơn 419 km giáp với 3 tỉnh của nước Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào là: Xiêng Khoảng, Hủa Phăn và Bôlikhămxay, phía Đông giáp với Biển Đông với bờ biển dài 82 km. Nghệ An nằm trên một số tuyến giao thông huyết mạch của đất nước, đường quốc lộ 1A, đường Hồ Chí Minh xuyên Việt, các tuyến quốc lộ ngang theo chiều Tây – Đông, Tây - Bắc. Đầu mối giao thông lớn nhất của tỉnh là thành phố Vinh, đã được công nhận là đô thị loại I. Mạng lưới đường bộ, đường sắt ở Nghệ An có thể dễ dàng thiết lập các mối quan hệ kinh tế với các địa phương trong cả nước. Nghệ An có đường biên giới rất dài với nước bạn Lào, thông qua các quốc lộ 7, 8 thuận lợi cho việc trao đổi với Lào và với vùng Đông Bắc Thái Lan. Tiếp giáp với vùng biển rộng lớn ở phía Đông, có cảng Cửa Lò, một số cảng nhỏ và cảng nước sâu Quỳnh Lập đang được quy hoạch xây dựng thuận lợi cho giao lưu quốc tế và trong nước. Nghệ An có diện tích tự nhiên là 16.488,45 km2, hiện nay là tỉnh rộng nhất cả nước (chiếm đến 5% diện tích cả nước). Về lâu dài, vị trí địa lý là một trong những lợi thế quan trọng của Nghệ An. Đặc biệt, từ tháng 9/2008, thành phố Vinh đã được công nhận đạt tiêu chuẩn là đô thị loại I trực thuộc tỉnh, sẽ trở thành trung tâm Kinh tế - Chính trị của khu vực Bắc Trung Bộ, góp phần tạo điều kiện để tỉnh đóng vai trò là một trung tâm của vùng Bắc Trung Bộ, hội nhập với nền kinh tế cả nước và giao lưu với các nước láng giềng (Lào, Đông Bắc Thái Lan, đảo Hải Nam của Trung Quốc). Tuy nhiên, xét riêng về thu hút đầu tư ở giai đoạn hiện nay thì vị trí địa lý của tỉnh đang gây ra những khó khăn vì ở xa các trung tâm kinh tế và các cực tăng trưởng kinh tế của cả nước, ảnh hưởng đến suất đầu tư, giá thành đầu tư của các nhà đầu tư. 2.1.1.2. Tài nguyên thiên nhiên - Khí hậu: Nghệ An thuộc khí hậu nhiệt đới gió mùa, có sự phân hoá theo chiều Bắc Nam, chiều Đông Tây và theo cao độ của địa hình. Các sông lớn gồm có sông Cả, sông Hiếu, sông Con, sông Giăng. Sông cả lớn nhất với dòng chảy chính dài 390 km. Sông ngòi có giá trị lớn đối với việc phát triển kinh tế - xã hội, sông sẽ cung cấp và thoát nước phục vụ sản xuất cho các doanh nghiệp, là điều kiện để phát triển công nghiệp thuỷ điện. Tuy nhiên, cùng với yếu tố khí hậu, thuỷ chế cũng không đều theo mùa. Vì thế thường xảy ra tình trạng lũ lụt, hạn hán ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất nông nghiệp và đời sống nhân dân. - Tài nguyên sinh vật: Nghệ An là tỉnh có tài nguyên rừng tương đối phong phú và đa dạng. Đến nay, tổng diện tích rừng của Nghệ An là 745.537 ha với tổng trữ lượng gỗ là 50 triệu m3. Rừng nguyên sinh vườn quốc gia Pù Mát điện tích 91.113 ha, khu bảo tồn thiên nhiên Pù Huống điện tích 50.000 ha với nhiều động vật và thực vật quý hiếm. Có tiềm năng đầu tư phát triển công nghiệp chế biến lâm sản và nguyên liệu giấy cũng như phát triển kinh tế du lịch. Nghệ An có 82 km bờ biển với diện tích 4.230 hải lý vuông, 6 cửa lạch, có trên 3.00 ha diện tích nước mặn, lợ, 12.000 ha ao hồ mặt nước ngọt có khả năng phát triển nuôi trồng thuỷ sản. Trữ lượng hải sản ước tính trên 80.000 tấn. Bờ biển Nghệ An có nhiều bãi tắm đẹp, nổi tiếng là bãi biển Cửa Lò, Nghi Thiết, Diễn Thành, Quỳnh Phương. - Tài nguyên khoáng sản: Nghệ An có nhiều loại khoáng sản với trữ lượng lớn. Đá vôi trên 1 tỷ tấn, đá xây dựng trên 1 tỷ m3. Riêng khu vực đá vôi Hoàng Mai có trữ lượng 350 triệu m3 dễ khai thác, gần quốc lộ 1, đường sắt và cảng Nghi Sơn (Thanh Hoá). Ở một số vùng, núi đá vôi tập trung thành một quần thể thuận tiện cho việc hình thành các KCN và vật liệu xây dựng tập trung như Hoàng Mai, Kim Nhan…Đất sét làm nguyên liệu xi măng có trữ lượng 300 triệu tấn; 982 triệu tấn đá trắng (Quỳ Hợp, Quỳ Châu); đá bazan có trữ lượng 260 triệu m3 (Nam Đàn, Quỳ Hợp); 160 tấn đá granite (Tân Kỳ); sét làm gốm sứ cao cấp trên 300 triệu tấn (Nghi Lộc, Đô Lương, Yên Thành, Tân Kỳ); 5 triệu tấn than (Tương Dương, Con Cuông); Than bùn trên 10 triệu tấn (Tân Kỳ, Yên Thành); vàng sa khoáng tập trung nhiều dọc sông Cả, sông Hiếu… Nguồn tài nguyên của Nghệ An tập trung thành những quần thể, nguyên liệu chính và nguyên liệu phụ ở gần nhau, có chất lượng cao, gần đường giao thông. Vì vậy rất thuận lợi cho sản xuât xi măng, bột đá siêu mịn, gạch lát, sản phẩm thủ công mỹ nghệ, phân vi sinh,... Đây là một trong những yếu tố thu hút các nhà đầu tư đến với Nghệ An. 2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội 2.1.2.1. Đặc điểm kinh tế - Quy mô kinh tế còn nhỏ bé, tổng giá trị sản xuất địa phương mới chiếm khoảng 2% GDP của cả nước (tính theo giá hiện hành) trong khi dân số của tỉnh chiếm 3,64% dân số cả nước. Năm 2007, GDP bình quân đầu người của tỉnh đạt 7,468 triệu đồng, cao hơn bình quân của vùng Bắc Trung Bộ nhưng mới bằng 2/3 mức bình quân cả nước. Như vậy, tỉnh có điểm xuất phát thuận lợi hơn một số tỉnh trong vùng nhưng lại không thuận lợi bằng nhiều địa phương khác trong cả nước. - Nền kinh tế tăng trưởng cao hơn nhiều trong 5 năm gần đây, cao hơn bình quân của vùng Bắc Trung Bộ và cả nước. Giai đoạn 2001- 2005 tăng 10,25%, năm 2006 đạt 10,2%; năm 2007 đạt 10,5%, ước thực hiện 2008 là 11% [32]. - Hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế đã được nâng lên theo thời gian nhưng mức cải thiện chưa lớn. Chất lượng tăng trưởng kinh tế chưa cao. Tăng trưởng kinh tế của tỉnh chủ yếu vẫn được tạo ra từ các ngành, các lĩnh vực truyền thống, dựa vào việc khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên; các ngành công nghiệp hiện đại hầu như chưa có. - Cơ cấu ngành kinh tế của Nghệ An đã có sự chuyển dịch theo hướng công nghiệp với sự gia tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp - xây dựng trong tổng sản phẩm GDP của tỉnh (từ 14,2% năm 1995 lên 18,6% năm 2000 và 30,4% năm 2005; 31% năm 2006, 32,24% năm 2007, ước đạt 33,45% năm 2008) [32], hiện là ngành có mức đóng góp lớn nhất cho GDP của tỉnh. Cơ cấu kinh tế theo thành phần kinh tế của tỉnh đang chuyển dịch theo đúng quy luật của nền kinh tế thị trường với sự tăng trưởng nhanh và gia tăng dần tỷ trọng của khu vực kinh tế ngoài nhà nước, nhất là trong các lĩnh vực thương mại, du lịch, khách sạn - nhà hàng, xây dựng, giao thông vận tải. Tuy nhiên, kinh tế ngoài quốc doanh phát triển chưa tương xứng với tiềm năng. Quy mô hoạt động của các loại hình kinh tế tư nhân còn nhỏ bé, manh mún, đơn giản, vốn và lao động ít, doanh thu thấp so với bình quân của cả nước, hiệu quả kinh doanh chưa cao. Có đến hơn 35% số doanh nghiệp trong tổng số các DNNN làm ăn thua lỗ. Khu vực kinh tế nhà nước chưa thực sự đóng vai trò chủ đạo trong sự phát triển kinh tế của tỉnh. Đa số các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, quá trình sắp xếp, tổ chức lại còn chậm. Mức độ đóng góp cho GDP của tỉnh và xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có tỷ trọng nhỏ, chủ yếu mới ở lĩnh vực công nghiệp. Ở khu vực này, vẫn dựa vào khai thác tài nguyên thiên nhiên, gia công là chủ yếu, nên giá trị gia tăng không cao. Cơ cấu kinh tế theo nội tỉnh cũng đang có sự chuyển dịch theo hướng giảm dần chênh lệch giữa các vùng, mở rộng đô thị, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Tiềm năng, lợi thế của từng địa phương trong tỉnh được khai thác ngày càng hiệu quả hơn. Nhìn chung, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cả về cơ cấu ngành, thành phần kinh tế và lãnh thổ ở Nghệ An diễn ra đúng hướng và phù hợp với mục tiêu phát triển cũng như tiềm năng, lợi thế của tỉnh nhưng tốc độ chuyển dịch còn chậm, chưa vững chắc, chuyển dịch cơ cấu trong từng ngành, từng lĩnh vực chưa mạnh. - Hệ thống cơ sở hạ tầng: Đường bộ, đường sắt, cảng biển, sân bay, hệ thống điện, hệ thống cấp nước, hệ thống thông tin liên lạc, khu kinh tế và khu công nghiệp + Về đường bộ: Hiện có 528 km đường quốc lộ chạy qua địa phương (trong đó: QL1A 91km, QL46 90km, QL48 122km, QL7 225 km); 132 km đường Hồ Chí Minh; 421 km đường tỉnh lộ và 3.670 km đường huyện lộ đã tạo thành mạng lưới giao thông liên hoàn, nối liền các vùng kinh tế với nhau, toả ra các tỉnh trong cả nước cũng như các tỉnh của nước CHDCND Lào và Đông Bắc Thái Lan. + Đường sắt: Trên dọc tuyến tỉnh, có 94 km đường sắt Bắc – Nam và 30 km nhánh Cầu Giát – Nghĩa Đàn; 07 ga, trong đó có ga Vinh là một trong những ga trung chuyểm hàng hoá lớn của cả nước. + Cảng biển: Cảng Cửa Lò đạt công suất 1,3 triệu tấn/năm là cửa ngõ thông ra biển không chỉ phục vụ cho nhu cầu của nội tỉnh mà còn cho cả nước bạn Lào và vùng Đông Bắc Thái Lan. Hiện nay đang quy hoạch để xây dựng thêm cảng nước sâu tại Quỳnh Lập, Quỳnh Lưu phục vụ cho các dự án kinh tế lớn vùng Nam Thanh - Bắc Nghệ. + Đường hàng không: Hiện đã có tuyến bay Vinh – TPHCM – Vinh, tần suất 02 chuyến/ngày với chủng loại máy bay A320. Sân bay Vinh đang được nâng cấp, lắp đặt thêm hệ thống đèn tín hiệu để đảm bảo hoạt động trong điều kiện thời tiết xấu, mở rộng đường băng cho vận hành của loại máy bay lớn hơn và mở thêm một số tuyến bay mới, kể cả quốc tế trong tương lai gần. + Về hệ thống cấp điện, cấp thoát nước: Điện lưới quốc gia đã phủ hết 20/20 huyện, thành, thị trong toàn tỉnh cung cấp gần 1 tỷ KWh hàng năm. Nhiều nhà máy thuỷ điện đang được xây dựng khi đi vào hoạt động sẽ đảm bảo cung cấp điện ổn định cho sản xuất và sinh hoạt; Nhà máy nước Vinh với công suất 60.000 m3/ngày đêm, cung cấp gần 12 triệu m3 nước sạch hàng năm cho TP Vinh và vùng phụ cận, cùng với 13 nhà máy nước ở các thị xã và thị trấn trước mắt đảm bảo cung cấp nước sạch cho sinh hoạt và sản xuất công nghiệp, dịch vụ. + Về hệ thống thông tin, bưu chính, viễn thông: Nghệ An là một trong số những địa phương có trình độ và trang thiết bị thông tin, viễn thông phát triển nhất trong cả nước với sự có mặt của hầu hết các mạng điện thoại cố định và di động, phủ sóng tất cả các huyện, thành, thị trong tỉnh. Mạng viễn thông rộng phân bố khắp trong tỉnh với 105 tổng đài, 100% xã, phường, thị trấn đều liên lạc được bằng điện thoại. Đến cuối 2007, tỷ lệ số máy điện thoại đạt 23,56 máy/100 dân [32]. + Về khu kinh tế và khu công nghiệp Hiện nay, Nghệ An có 01 Khu Kinh tế và 04 Khu Công nghiệp, gồm: * Khu Kinh tế Đông Nam Nghệ An: Thành lập từ tháng 6/2007, tổng diện tích đã được quy hoạch là 18.826,47 ha, hiện đang trình Chính phủ phê duyệt quy hoạch chung và xây dựng những công trình kết cấu hạ tầng thiết yếu. * Khu Công nghiệp Bắc Vinh: Thành lập năm 1999, diện tích quy hoạch 143,17 ha. Trong đó, giai đoạn I đã được phê duyệt là 60,16 ha. Hạ tầng ngoài hàng rào, gồm: Đường nối với QL 1A, hệ thống cấp điện 22 KV, hệ thống cấp nước đã cơ bản hoàn thành. Hạ tầng trong hàng rào đã xây dựng đạt 53% tổng mức đầu tư được phê duyệt. * Khu Công nghiệp Nam Cấm: Thành lập năm 2003, diện tích quy hoạch được phê duyệt là 327,83 ha. Đã cơ bản thực hiện bồi thường GPMB cho gần 300 ha, hoàn thành đường dây 22 KV để cấp điện tạm thời. Đang tiến hành san lấp mặt bằng và xây dựng hệ thống giao thông nội bộ. * Khu Công nghiệp Hoàng Mai: Đã được phê duyệt quy hoạch chi tiết, diện tích 291,86 ha, chưa đi vào hoạt động. * Khu Công nghiệp Phủ Quỳ: Đang lập quy hoạch với diện tích dự kiến là 140 ha. 2.1.2.2. Nguồn nhân lực Tổng số lực lượng lao động của Nghệ An trên 1,5 triệu người, trong đó có 32,5% qua đào tạo và 21,2% được đào tạo nghề. Sau khi nâng cấp 03 trường trung cấp nghề lên thành trường cao đẳng dạy nghề, xây dựng mới thêm 01 trường trung cấp chuyên nghiệp (trường trung cấp tư thục Kinh tế - Kỹ thuật Công nghệ Việt Anh), 01 trường cao đẳng (cao đẳng tư thục Hoan Châu), 01 trường đại học (đại học tư thục Vạn Xuân), đến nay toàn tỉnh có 03 trường đại học với hơn 30.000 sinh viên; 07 trường cao đẳng đào tạo nhiều lĩnh vực với quy mô đào tạo trung bình 12.000 sinh viên/năm; 08 trường công nhân kỹ thuật và dạy nghề cùng với hệ thống các trung tâm dạy nghề ở các huyện, thành, thị hàng năm đã đào tạo cho khoảng 32.000 – 35.000 lao động kỹ thuật. Đào tạo nghề của tỉnh chuyển mạnh theo định hướng gắn với nhu cầu thị trường lao động; cung cấp lao động có tay nghề, sức khoẻ, kỷ luật, tác phong công nghiệp, văn hoá cho thị trường trong và ngoài nước. Đây là một lợi thế lớn để thu hút đầu tư trực tiếp vào địa bàn Nghệ An. 2.1.3. Những đặc điểm khác - Hỗ trợ của Chính phủ bằng các cơ chế chính sách đặc thù + Mười huyện miền núi phía Tây của tỉnh được hưởng cơ chế chính sách đặc thù theo Nghị quyết 37/NQ-TW của Bộ Chính trị và Quyết định 147/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phát triển Kinh tế - Xã hội miền Tây Nghệ An. + Thành phố Vinh vừa được công nhận là đô thị loại I, được định hướng phát triển thành trung tâm kinh tế - văn hoá của vùng Bắc Trung Bộ theo Quyết định 239/2005/QĐ-TTg và Quyết định 24/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành một số cơ chế chính sách hỗ trợ phát triển Kinh tế - Xã hội đối với các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ đến năm 2010. + Khu Kinh tế Đông Nam Nghệ An đã được thành lập theo Quyết định số 85/2007/QĐ-TTg ngày 11/6/2007 của Thủ tướng Chính phủ, các dự án đầu tư vào Khu Kinh Tế Đông Nam được hưởng ưu đãi đầu tư như các địa bàn kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn. - Nghệ An là nơi sản sinh ra nhiều nhân tài, nhà yêu nước. Kim Liên-Nam Đàn là quê hương của Chủ tịch Hồ Chí Minh- Anh hùng giải phóng dân tộc - Danh nhân văn hoá thế giới. Cộng đồng những người Nghệ An ở nước ngoài, ngoại tỉnh với hơn 1,5 triệu người công tác ở nhiều lĩnh vực, sinh sống ở nhiều quốc gia luôn hướng về quê hương, mong muốn được đóng góp xây dựng quê hương Nghệ An giàu mạnh. 2.2. TÌNH HÌNH THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP Ở NGHỆ AN THỜI GIAN QUA Từ nhiều năm nay, hàng năm tỉnh Nghệ An đều thu hút được các nhà đầu tư trực tiếp vào thực hiện dự án tại tỉnh. Tuy nhiên, số lượng dự án và tổng vốn đầu tư có sự không đồng đều qua các năm do các nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan. Sau đây là nhưng phân tích cụ thể về thực trạng thu hút vốn đầu tư trực tiếp vào tỉnh như sau: 2.2.1. Về số lượng dự án và tổng vốn đầu tư đăng ký Trong những năm đầu thu hút đầu tư ở tỉnh Nghệ An còn thiếu kinh nghiệm và còn nhiều hạn chế, song đầu tư trực tiếp trong giai đoạn này cũng đạt được những kết quả nhất định. Tổng vốn đầu tư huy động thời kỳ 2001-2005 đạt 27.800 tỷ đồng, tăng 40% so với thời kỳ 1996-2000. Giai đoạn 2001 – 2005, thu hút đầu tư trực tiếp trong nước có 102 dự án với số vốn đăng ký là 17.268,51 tỷ đồng. Vốn thực hiện giai đoạn này đạt 8.590 tỷ, gấp hơn 2,4 lần so với giai đoạn 1996-2000 [31]. Cùng với nhịp độ phát triển chung của đất nước công tác thu hút vốn đầu tư trực tiếp luôn được chú trọng nhằm khai thác tiềm năng của tỉnh, tạo sự phát triển kinh tế xã hội. Tổng nguồn vốn đầu tư trên địa bàn tỉnh tăng lên hàng năm. Năm 2006, có 50 dự án được cấp giấy phép đầu tư với tổng vốn đầu tư đăng ký là 4.381,077 tỷ đồng. Năm 2007, tỉnh thu hút được 36 dự án trong nước với tổng số vốn đăng ký là 10.976,735 tỷ đồng (tăng hơn 2 lần so với năm 2006). Đến tháng 5/2008, toàn tỉnh có 215 dự án đầu tư trực tiếp của các nhà đầu tư trong nước với tổng số vốn đăng ký là 40.638,693 tỷ đồng. Biểu 2.1: TỔNG HỢP CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƯ TRONG NƯỚC Ở NGHỆ AN - GIAI ĐOẠN 2001-2008 ___ Thời gian Từ 2001-2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Tổng cộng TT Lĩnh vực Số dự án Vốn đăng ký (Tỷ đồng) Số dự án Vốn đăng ký (Tỷ đồng) Số dự án Vốn đăng ký (Tỷ đồng) Số dự án Vốn đăng ký (Tỷ đồng) Số dự án Vốn đăng ký (Tỷ đồng) I Công nghiệp 41 6.071,840 19 1.945,22 20 8.316,465 15 5.897,665 95 22.231,19 - Khai thác, chế biến 20 692,24 8 309,82 10 2.612,225 7 502,75 45 4.117,035 - Vật liệu xây dựng 10 1.659,8 7 93,96 7 2.189,14 4 533,37 28 4.476,27 - Cơ khí, chế tạo, lắp ráp 4 271,8 0 - 0 - 0 - 4 271,8 - Thuỷ điện 5 3.425 4 1.541,44 3 3.515,1 4 4.861,545 16 13.343,085 - Hoá chất 2 23 0 - 0 - 0 - 2 23 II Nông nghiệp 5 151,8 5 34,49 4 418,45 3 385,196 17 989,936 - Trồng trọt 0 - 4 32,22 4 418,45 1 313,846 9 764,516 - Chăn nuôi 5 151,8 1 2,27 0 - 2 71,35 8 225,42 III Bất động sản, dịch vụ, du lịch 50 10.667,87 20 2.187,987 7 2.113,34 6 1.479,91 83 16.449,107 - Khu đô thị, TT thương mại 25 7.287,6 13 1.147,398 3 516,1 6 1.479,91 47 10.431,008 - Du lịch, dịch vụ, khách sạn 25 3.380,27 7 1.040,589 4 1.597,24 0 - 36 6.018,099 IV Y tế, giáo dục 6 377 6 244,38 5 128,48 3 218,6 20 968,46 - Y tế 2 210 3 190,86 1 18,68 2 68,6 8 488,14 - Giáo dục 4 167 3 53,52 4 109,8 1 150 12 480,32 Tổng cộng 102 17.268,51 50 4.381,077 36 10.976,735 27 7.981,371 215 40.638,693 Giai đoạn 2001-2008 có 215 dự án, tổng vốn đầu tư 40.638,693 tỷ đồng (bình quân 189 tỷ đồng/dự án) Nguồn: Sở KH và ĐT Nghệ An, Báo cáo thu hút đầu tư, Tài liệu phục vụ Hội nghị BCH Đảng bộ tỉnh, Tháng 9/2008. Một số dự án có tổng mức đầu tư lớn là: Khu liên hiệp khách sạn – sân gôn Cửa Lò 1.527 tỷ đồng; Thủy điện Khe Bố 2.530 tỷ đồng; Nhà máy sản xuất bao bì 690 tỷ đồng và Nhà máy bia Sài Gòn – Sông Lam 1.592 tỷ đồng của Tổng công ty bia, rượu, nước giải khát Sài Gòn (SABECO); Khu thương mại, văn phòng cho thuê, chung cư cao cấp Vicentra của Tập đoàn T&M Trans gần 364 tỷ đồng; Dự án Vinh Plaza 650 tỷ đồng và Khu khách sạn – Siêu thị cao cấp 300 tỷ đồng tại Cửa Lò của Công ty Vật liệu xây dựng và xây lắp thương mại BMC (Bộ Công thương). Về FDI, 02 dự án có vốn đầu tư nước ngoài đầu tiên vào Nghệ An được cấp phép trong năm 1996 đều của nhà đầu tư Anh quốc là: dự án nhựa lỏng Shell Bitumen Cửa Lò vốn đầu tư là 16 triệu USD, 100% vốn nước ngoài và dự án liên doanh mía đường Nghệ An State & Lile với tổng vốn đầu tư là 90 triệu USD. Cho đến cuối năm 2005, toàn tỉnh chỉ thu hút tổng cộng có 19 dự án FDI với tổng vốn đăng ký là 139,405 triệu USD. Trong 2 năm 2006 và 2007 có 5 dự án FDI, tổng số vốn đầu tư đăng ký là 81,81 triệu USD được cấp giấy CNĐT gồm: Dự án sản xuất điện thoại di động 19.8 triệu USD (của công ty TNHH Thiên Phú liên doanh với Trung Quốc); Khu vui chơi giải trí trên biển Cửa Lò 0,25 triệu USD (Hàn Quốc); Sản xuất hộp đựng bao bì tự hủy tại KCN Nam Cấm 1,7 triệu USD (Công cy CP xây dựng công trình Cảng Nghệ An liên doanh với Singapo); Trồng rừng nguyên liệu của Tập đoàn Innov Green 60 triệu USD (Đài Loan) và Trại tôm giống Nghệ An của Công ty TNHH CP Việt Nam (Thái Lan) 0,06 triệu USD [Phụ Lục 5]. Đến nay, tỉnh Nghệ An thu hút được 24 dự án đầu tư FDI của các nhà đầu tư từ 09 nước và vùng lãnh thổ, gồm: Trung Quốc 09 dự án; Đài Loan 05 dự án; Hàn Quốc 03 dự án; Vương quốc Anh 02 dự án; Nhật Bản, Mỹ, Singapo, Thái Lan, Hongkong mỗi nước 01 dự án. Tổng vốn đầu tư đăng ký chỉ đạt 221,215 triệu USD (trung bình tổng vốn đầu tư đạt khoảng 9,2 triệu USD/dự án). Một số dự án có tổng mức đầu tư lớn như Liên doanh Mía đường Nghệ An Tate & Lyle 90 triệu USD, trồng rừng nguyên liệu của Tập đòan Innov Green 60 triệu USD; Sản xuất, lắp ráp điện thoại di động và máy vi tính 19.8 triệu USD, Công ty Shell Bitumen 16 triệu USD… [Biểu 2.2]. Biểu 2.2: TỔNG HỢP CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƯ FDI Ở NGHỆ AN ĐẾN THÁNG 5-2008 T T Thời gian Lĩnh vực Đến 12/2005 Năm 2006 Năm 2007 Tổng cộng Nước và vùng lãnh thổ Số dự án Vốn đăng ký (Triệ u USD) Số dự án Vốn đăng ký (Triệ u USD) Số dự án Vốn đăng ký (Triệ u USD) Số dự án Vốn đăng ký (Triệ u USD) I Công nghiệp 16 133,2 75 1 19,80 0 1 1,700 18 154,7 75 - Khai thác, chế biến 12 114,4 00 1 1,700 13 116,1 00 TQuốc 5, ĐLoan 3, Anh 1, Mỹ 1, Nhật 1, Hàn Quốc 1, Singapo 1 - Vật liệu xây dựng 1 0,780 1 0,780 Hàn Quốc - Cơ khí, chế tạo, lắp ráp 1 2,000 2 21,80 0 02 nhà ĐT Trung Quốc - Hoá chất 2 16,09 5 1 19,80 0 2 16,09 5 Anh, Trung Quốc II Nông nghiệp 1 5,000 2 60,06 0 3 65,06 0 - Trồng trọt 1 5,000 1 60,00 0 2 65,00 0 02 nhà ĐT Đài Loan - Chăn nuôi 1 0,060 1 0,060 Thái Lan III Khách sạn, thương mại, dịch vụ 2 1,130 1 0,250 3 1,380 - Khách sạn 1 1,000 1 1,000 Hồng Kông - Thương mại 1 0,130 1 0,130 Hàn Quốc - Dịch vụ 1 1 0,250 Hàn Quốc Tổng cộng 19 139,4 05 2 20,05 0 3 61,76 24 221,2 15 Nguồn: Sở KH & ĐT tỉnh Nghệ An, Báo cáo thu hút FDI, Tài liệu Hội nghị BCH Đảng bộ tỉnh, tháng 9/2008. Có thể nói, đây là một sự cố gắng lớn so với trước đây và so với các tỉnh trong khu vực Bắc Trung bộ. Nguyên nhân của sự thay đổi tích cực này phải kể đến đó là sự quan tâm của các cấp, các ngành, đặc biệt là sự chỉ đạo sát sao của tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh trong ban hành các Nghị quyết, Chỉ thị, Văn bản nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh về môi trường đầu tư đã giúp cho đầu tư đạt được kết quả khả quan.. Ngoài ra còn có nhiều nguyên nhân khác như chủ trương chính sách và đặc biệt là những quyết sách điều hành cụ thể của tỉnh Nghệ An rất đúng và rất quyết liệt. Khi tất cả các yếu tố luật pháp, tuyên truyền đã được đảm bảo thì cũng cương quyết đấu tranh, thậm chí có những biện pháp mạnh (như cưỡng chế để GPMB). Tuy nhiên, tỷ lệ vốn thực hiện đạt thấp, nếu tính tổng vốn đầu tư từ 2001 đến nay, vốn thực hiện chỉ đạt khoảng 57%; tỷ lệ vốn thực hiện bình quân hiện nay thấp do phần lớn các dự án cuối năm 2006 và năm 2007 bao gồm các dự án đầu tư lớn như: 05 dự án thuỷ điện 3.425 tỷ, Nhà máy xi măng Đô Lương 1.300 tỷ..đang trong quá trình triển khai công tác chuẩn bị đầu tư nên tỷ lệ vốn giải ngân thấp. Ngoài ra, một số dự án chậm triển khai do còn gặp khó khăn trong công tác đền bù, giải phóng mặt bằng. 2.2.2.Quy mô đầu tư Về các dự án FDI: Có 09 đối tác thuộc 09 Quốc gia và vùng lãnh thổ đến đầu tư ở tỉnh, đứng đầu vẫn là Trung Quốc với 09 dự án và vốn đăng ký 30,555 triệu USD chiếm 37,5% về số lượng dự án nhưng chỉ chiếm 13,8% về lượng vốn đầu tư FDI. Có 02 dự án FDI có số vốn đầu tư rất lớn, chiếm đa số vốn FDI ở tỉnh, đó là dự án LD Mía đường NAT & L, nhà đầu tư Vương quốc Anh với số vốn đầu tư 90 triệu USD và dự án trồng rừng nguyên liệu ở các huyện miền núi, của nhà đầu tư Elite Green Co.Ltd (Đài Loan) tổng vốn đầu tư là 60 triệu USD. Chỉ riêng 02 dự án này đã chiếm đến 67,8% tổng số vốn FDI vào Nghệ An, còn lại 22 dự án của các nhà đầu tư khác, chỉ chiếm 32,2% tổng số FDI ở Nghệ An. Qua đó có thể thấy, đối với các nhà đầu tư nước ngoài chỉ mới đầu tư khá lớn ở Nghệ An trên lĩnh vực nông lâm nghiệp và một số dự án về khai thác, chế biến khoáng sản với quy mô nhỏ, còn các lĩnh vực có giá trị gia tăng lớn, mà Nghệ An đang rất cần thì chưa thu hút được. Về đầu tư trong nước, các dự án lớn chủ yếu là do các Tập đoàn, Tổng công ty ở TP HCM và Hà Nội đầu tư. Tỉnh cũng đã thu hút được một số dự án đầu tư trực tiếp, vốn khá lớn của các doanh nghiệp ở nước ngoài và TP HCM mà người quê hương Nghệ Tĩnh làm chủ hoặc tham gia hội đồng quản trị, như: Dự án Công viên trung tâm, Khu đô thị Quang Trung, Vinh Tân của Công ty TECCO, Khu trung tâm thương mại, văn phòng cho thuê và căn hộ cao cấp VICENTRA… Các doanh nghiệp trong tỉnh thì chỉ đầu tư những dự án quy mô vừa và nhỏ. Một vấn đề đáng chú ý là các dự án có quy mô vốn đầu tư lớn ngày càng tăng và chủ yếu tập trung trong lĩnh vực khai thác, chế biến khoáng sản; bất động sản, (xây dựng khu đô thị, khách sạn, dịch vụ và trung tâm thương mại); tiếp theo là thuỷ điện và sản xuất vật liệu xây dựng vốn là thế mạnh của tỉnh Nghệ An. Tuy nhiên, nguồn lực này, thế mạnh này của tỉnh là “hữu hạn” và “không bị giảm hay mất giá trị khi chậm khai thác chúng” do đó, nhiều dự án đầu tư ở lĩnh vực này cũng nói lên sự thiếu đa dạng, thiếu cơ bản hay chưa thật bền vững trong thu hút đầu tư trực tiếp ở Nghệ An. Tính riêng các dự án đầu tư trong nước có 43 dự án với quy mô vốn đầu tư đăng ký dưới 15 tỷ đồng, chiếm 20% tổng số dự án; 136 dự án có quy mô vốn đầu tư từ 15 tỷ đồng đến dưới 300 tỷ đồng, chiếm 63,3% tổng số dự án; 36 dự án trong nước có quy mô vốn đầu tư trên 300 tỷ đồng, chiếm 16,7% tổng số dự án. Đặc biệt, có 11 dự án có vốn đăng ký đầu tư hơn 1000 tỷ đồng, chiếm 5,1% điển hình như: Dự án thuỷ điện Hủa Na 4.255 tỷ, Thuỷ điện Khe Bố 2.530 tỷ, Khu đô thị Vinh Tân 2.150 tỷ, Tổ hợp sân golf, khách sạn và biệt thự ở Cửa Lò 1.527 tỷ, Trung tâm thương mại Chợ Vinh 1500 tỷ, Nhà máy xi măng Đô Lương 1.477,72 tỷ đồng… Một khía cạnh khác, các dự án đầu tư trực tiếp thuộc lĩnh vực bất động sản, đặc biệt là các dự án xây dựng các khu đô thị mới, thì tất cả các nhà đầu tư đều huy động vốn đóng góp của khách hàng là các tổ chức, cá nhân trong tỉnh (theo luật định, nhà đầu tư được huy động tối đa 70% sau khi thi công xong phần móng công trình), do vậy, thực chất trong tổng số vốn đầu tư của dự án mà nhà đầu tư đăng ký có sự tham gia khá lớn của nguồn vốn “nội tỉnh”. Điều đó làm giảm khả năng thu hút vốn của các nhà đầu tư “nội tỉnh” cho các dự án khác. 2.2.3. Cơ cấu đầu tư theo lĩnh vực Tuy không đều, nhưng nhìn chung vốn đầu tư trực tiếp đã có ở hầu hết các lĩnh vực. Hai năm trở lại đây, mới xuất hiện loại hình đầu tư công nghiệp thuỷ điện và đầu tư vào trồng rừng nguyên liệu cho sản xuất giấy, bên cạnh đó có một số dự án thuộc lĩnh vực y tế, giáo dục đào tạo. Lĩnh vực và ngành nghề đầu tư đang ngày càng phù hợp với tiềm năng, lợi thế và định hướng quy hoạch phát triển bền vững kinh tế -xã hội của tỉnh đến năm 2020. Các dự án đầu tư trực tiếp chủ yếu đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp khai thác, chế biến với 45 dự án đầu tư trong nước, tổng vốn 4.117,035 tỷ đồng và 13 dự án FDI, tổng số vốn 116,1 triệu USD; Xi măng và vật liệu xây dựng 28 dự án trong nước với tổng số vốn 4476,27 tỷ đồng và 01 dự án FDI 0,78 triệu USD; xây dựng khu đô thị và trung tâm thương mại 47 dự án với tổng vốn đầu tư 10.431,008 tỷ đồng; lĩnh vực khách sạn, du lịch, dịch vụ 36 dự án trong nước với vốn đăng ký đầu tư 6.018,099 tỷ đồng và 01 dự án FDI 0,25 triệu USD; thuỷ điện 16 dự án 13.343,085 tỷ đồng. Lĩnh vực nông nghiệp 17 dự án trong nước với tổng vốn đầu tư 989,936 tỷ đồng và 02 dự án FDI 60,06 triệu USD; lĩnh vực giáo dục đào tạo, y tế có 20 dự án vốn đầu tư 968,46 tỷ đồng [Biểu 2.1 và 2.2] Cơ cấu đầu tư phân bổ chưa hợp lý. Giữa các ngành, lĩnh vực còn có sự chênh lệnh khá lớn về số dự án và vốn đầu tư. Nếu tính theo tỷ trọng các ngành được đầu tư, lĩnh vực sản xuất công nghiệp có 95 dự án chiếm tỷ trọng cao nhất với 47,3%, vốn đầu tư trong nước 22.231,19 tỷ đồng chiếm 54,7% và FDI có 154,775 triệu USD chiếm 70% so với tổng vốn FDI; tiếp theo là lĩnh vực bất động sản, dịch vụ, du lịch có 86 dự án chiếm 36%, vốn đầu tư trong nước 16.449,107 tỷ đồng chiếm 40,48% và vốn FDI 2,38 triệu USD chỉ chiếm 1%. Lĩnh vực nông nghiệp có 20 dự án chiếm 8,37%, vốn đầu tư trực tiếp trong nước 989,936 tỷ đồng, chỉ chiếm 2,43%; vốn FDI 65,06 triệu USD chiếm 29,4%, đây là tỷ trọng khá lớn trong cơ cấu nguồn FDI theo lĩnh vực đầu tư; Lĩnh vực y tế, giáo dục không có dự án FDI nào, có 20 dự án đầu tư trong nước, chiếm 9,3% và tổng số vốn đăng ký đầu tư là 968,46 tỷ đồng chiếm 2,37% trong tổng số các dự án đầu tư trong nước. Một điều đáng phấn khởi là đã có 02 dự án FDI có quy mô vốn lớn (tổng cộng 150 triệu USD) đầu tư vào lĩnh vực nông lâm nghiệp ở Nghệ An. Trong đó, dự án liên doanh mía đường Nghệ An Tate & Lyle hoạt động rất hiệu quả đã đem lại việc làm, thu nhập ổn định cho hàng vạn nông dân trong tỉnh; dự án trồng rừng nguyên liệu giấy đang triển khai thì gắn chặt với việc bảo vệ môi trường. Có thể nói, hai dự án này đảm bảo được yêu cầu thu hút vốn đầu tư cho tăng trưởng kinh tế ở tỉnh một cách bền vững. Nguồn: Báo cáo tổng kết Sở KH&ĐT tỉnh Nghệ An. 2.2.4. Phân bổ dự án đầu tư theo địa bàn hành chính Hiện nay tất cả các huyện, thành phố, thị xã đều đã có dự án đầu tư trực tiếp. Ở khu vực đô thị, gồm: Thành phố Vinh, Thị xã Cửa lò và Thị xã Thái Hoà (mới thành lập tháng 6/2008) có 99 dự án, chiếm tỷ lệ 41,4%; ở Khu Kinh tế Đông Nam và các Khu Công nghiệp (Nam Cấm, Bắc Vinh, KCN nhỏ) có 34 dự án, chiếm tỷ lệ 14,2%; Khu vực 07 huyện đồng bằng (Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Yên Thành, Nghi Lộc, Đô Lương, Nam Đàn, Hưng Nguyên) có 157 dự án, chiếm tỷ lệ 24,3% và khu vực 10 huyện miền núi còn lại (Quế Phong, Quỳ Châu, Tương Dương, Quỳ Hợp, Nghĩa Đàn, Tân Kỳ, Anh Sơn, Con Cuông, Thanh Chương, Kỳ Sơn) có 48 dự án, chiếm tỷ lệ 20,1% tổng số dự án đầu tư trực tiếp ở tỉnh [Biểu 2.4]. Biểu 2.4: TỔNG HỢP DỰ ÁN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP Ở NGHỆ AN GIAI ĐOẠN 2001-2008 THEO ĐỊA BÀN Cơ cấu Vốn đầu tư của các dự án đầu tư trong nước ở Nghệ An phân theo lĩnh vực 40,48% 54,7% 2,43% 2,37% Bất động sản Nông-Lâm nghiệp Y tế, giáo dục Công nghiệp TT Thời gian Khu vực Từ 2001- 2005 Năm 2006 Năm 2007 05 tháng đầu Năm 2008 Tổng cộng Ghi chú Số dự án Tỷ lệ % Số dự án Tỷ lệ % Số dự án Tỷ lệ % Số dự án Tỷ lệ % Số dự án Tỷ lệ % 1 Khu Kinh tế, Khu Công nghiệp 19 15,7 5 9,6 4 10, 2 6 22, 2 34 14, 2 Có 7 dự án FDI 2 Khu vực đô thị (TP Vinh và 02 Thị xã) 50 41,3 27 51,8 13 33, 3 9 33, 3 99 41, 4 Có 6 dự án FDI 3 Vùng đồng bằng (gồm 07 huyện) 34 28 15 29,0 8 20, 5 1 3,7 58 24, 3 Có 5 dự án FDI 4 Vùng miền núi (gồm 10 huyện) 18 15 5 9,6 14 36 11 40, 8 48 20, 1 Có 6 dự án FDI Tổng cộng 121 100 52 100 39 100 27 100 239 100 Nguồn: Sở KH & ĐT tỉnh Nghệ An, Báo cáo kết quả thu hút đầu tư đến 5/2008, Tài liệu Hội nghị Tỉnh uỷ 9/2008 Qua biểu 2.4 ta thấy: Tỷ lệ các dự án đầu tư trực tiếp trong Khu Kinh tế và các Khu Công nghiệp so với tổng số dự án chiếm tỷ lệ rất thấp (14,2%), điều đó cũng nói lên sự bất cập của hạ tầng Khu Kinh tế và các Khu Công nghiệp. Ngoài một số dự án phải gắn với địa bàn do đặc điểm SXKD thì cũng có những dự án mà nhà đầu tư xin đầu tư ở ngoài các Khu Công nghiệp tập trung do hạn chế của các Khu Công nghiệp. Nếu tính riêng các dự án FDI thì thấy không có sự chênh lệch về số lượng dự án phân bố ở cả 04 vùng: Khu Kinh tế và các Khu Công nghiệp 07 dự án, Khu vực đô thị 06 dự án, vùng đồng bằng 05 dự án, vùng miền núi có 06 dự án. Song, về số lượng vốn đầu tư thì có hơn 2/3 là ở các huyện miền núi (cho 02 dự án mía đường và trồng rừng), còn lại gần 1/3 tổng số vốn FDI (khoảng 60 triệu USD) cho hơn 20 dự án còn lại, cho thấy sự không đồng đều trong phân bố cả về địa bàn và số lượng vốn của các dự án FDI ở Nghệ an. Ngoài các Khu Công nghiệp, Thành phố Vinh và Thị xã Cửa lò, các huyện thu hút được nhiều dự án nhất là Quỳnh lưu, Nghi Lộc và các huyện miền núi cao. Một điểm chung dễ nhận thấy ở các địa phương này là có sự phát triển về kinh tế hơn các vùng khác, hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển hơn hoặc là có lợi thế về tài nguyên, khoáng sản, thuỷ điện. Điều này đặt ra vấn đề là chính sách như thế nào để thu hút vốn hiệu quả gắn với sự phát triển hài hoà giữa các vùng miền trong tỉnh ? 2.2.5.Về hình thức đầu tư Các dự án FDI chủ yếu là hình thức liên doanh với các doanh nghiệp trong nước. Chỉ có 03 dự án 100% vốn nước ngoài (dự án Bật lửa gas Trung Lai, vốn đầu tư 2,0 triệu USD của Trung Quốc; Nhà máy bột đá Omya, vốn đầu tư 4,0 triệu USD của Hàn Quốc và Nhà máy chế biến đá vôi trắng Đông Hoằng, vốn đầu tư 2,0 triệu USD của Đài Loan). Có 02 dự án HĐHTKD đều ở lĩnh vực khai thác tài nguyên (dự án khai thác vàng Sông Hiếu, vốn đầu tư 0,55 triệu USD của nhà đầu tư Trung Quốc và dự án đá trắng Mingsanstone, vốn đầu tư 2,0 triệu USD của Đài Loan). Ngoài 02 dự án FDI ở lĩnh vực khai thác tài nguyên khoáng sản thường được triển khai dưới hình thức Hợp đồng hợp tác kinh doanh với nước chủ nhà, số dự án 100% vốn nước ngoài quá ít (chỉ có 03 dự án, 12,5%), đặc biệt, Nghệ An chưa thu hút được dự án nào ở hình thức BOT, BO hay BT, những hình thức mà có nhiều ưu điểm đối với địa phương thu hút và đã khá phổ biến ở những địa phương khác. Các dự án đầu tư trực tiếp trong nước chủ yếu do các công ty cổ phần và công ty TNHH đầu tư, rất ít hình thức đầu tư của doanh nghiệp tư nhân hay hình thức khác. Trong tổng số 215 dự án đầu tư trực tiếp trong nước vào Nghệ An từ năm 2001 đến nay, có 146 dự án (chiếm 67,9%) ở hình thức Công ty cổ phần; có 61 dự án (chiếm 28,4%) ở hình thức Công ty TNHH và chỉ có 08 dự án (3,7%) nhà đầu tư là Doanh nghiệp tư nhân hay ở mô hình tư thục. Điều này cũng phản ánh xu thế chung về cổ phần hoá cũng như đa dạng hoá các thành phần kinh tế, loại hình kinh tế ở nước ta hiện nay. Biểu 2.5: CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP Ở NGHỆ AN PHÂN THEO HÌNH THỨC ĐẦU TƯ STT Hình thức đầu tư Số dự án Tỷ lệ % 1 Đầu tư FDI 24 100 - Liên doanh 19 79,2 - 100% vốn nước ngoài 03 12,5 - Hợp đồng hợp tác kinh doanh 02 8,3 2 Đầu tư trong nước 215 100 - Công ty cổ phần 146 67,9 - Công ty TNHH 61 28,4 - Hình thức khác (DN tư nhân,Trường tư thục..) 08 3,7 Nguồn: Sở KH&ĐT tỉnh Nghệ An, Báo cáo thu hút đầu tư, 8/2008. 2.2.6. Về tình hình triển khai, đóng góp của các dự án đầu tư trực tiếp qua các năm Tính từ năm 2001 đến tháng 5/2008, trên địa bản tỉnh Nghệ An có 239 dự án đầu tư trực tiếp còn hiệu lực, gồm 24 dự án FDI và 215 dự án đầu tư trong nước. Có 85 dự án đã đi vào hoạt động (chiếm 35,6 %). Tỷ lệ vốn thực hiện đối với các dự án đầu tư chiếm khoảng 57 % so với tổng vốn đầu tư đăng ký. Điều này cho thấy được tầm quan trọng của nguồn vốn đầu tư trực tiếp đóng góp vào sự phát triển kinh tế của tỉnh Nghệ An. Các dự án có vốn đầu tư trực tiếp giữ vai trò hết sức quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Riêng giá trị sản xuất hàng năm của các dự án FDI ước đạt 400-500 tỷ đồng, giải quyết việc làm cho trên 2500 lao động trong các nhà máy và hàng vạn lao động ở vùng nguyên liệu và dịch vụ phục vụ nhà máy. Điển hình là liên doanh mía đường Nghệ An Tate & Lyle, cột điện bê tông Khánh Vinh, nhựa đường lỏng Bitumen… đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát triển một số vùng kinh tế trọng điểm (vùng Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp). 2.2.7. Áp dụng khoa học - công nghệ Về tình hình áp dụng khoa học – công nghệ của các dự án đầu tư trực tiếp trên địa bàn tỉnh cho đến nay chưa có số liệu thống kê chính thức của Sở Khoa học và Công nghệ. Tuy nhiên, có thể thấy việc áp dụng khoa học công nghệ mới, hiện đại vào sản xuất chủ yếu tập trung tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư lớn như LD Mía đường NAT & L, Nhà máy sản xuất bao bì, lon nhôm hai mảnh và bao bì Carton Công ty SABECO Sông Lam … Các nhà đầu tư chủ yếu nhập khẩu máy móc, thiết bị từ các nước mới như: Hàn Quốc, Trung Quốc, vùng lãnh thổ Hồng Kông, Đài Loan .. có trình độ trung bình trên thế giới. Việc nhập khẩu thiết bị, công nghệ từ các nước có trình độ phát triển tiên tiến như EU, Mỹ…vẫn còn rất ít. Do vậy, để nâng cao trình độ khoa học công nghệ áp dụng trên địa bàn tỉnh, cần đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài, tập trung vào các tập đoàn lớn có lợi thế về vốn để tiếp cận và sở hữu công nghệ hiện đại. Tóm lại, hoạt động sản xuất - kinh doanh của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, ngoại tỉnh đã góp phần thúc đẩy công cuộc CNH-HĐH và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp - xây dựng và dịch vụ trong GDP; thúc đẩy xuất khẩu phát triển; tạo nguồn thu ngân sách lớn, ổn định và ngày càng tăng cho địa phương; tạo tiền đề vật chất quan trọng để chuyển giao công nghệ, tiếp cận nền kinh tế trí thức, hội nhập kinh tế quốc tế; hình thành tác phong lao động công nghiệp; thiết lập môi trường đào tạo nguồn nhân lực thích ứng với nền kinh tế thị trường và hội nhập. 2.3. NHỮNG TỒN TẠI, HẠN CHẾ, NGUYÊN NHÂN HẠN CHẾ VÀ NHỮNG VƯỚNG MẮC TRONG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP Ở NGHỆ AN HIỆN NAY 2.3.1. Những tồn tại, hạn chế - Thu hút vốn đầu tư đạt thấp so với nhu cầu, tiềm năng và lợi thế của tỉnh. Phần lớn các dự án có quy mô nhỏ, chủ yếu trên các lĩnh vực chế biến lâm sản, khai thác chế biến khoáng sản, khách sạn nhỏ… rất ít dự án lớn, công nghệ hiện đại nhằm tạo được sức “đột phá” để chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế của tỉnh (FDI: dự án khai thác vàng Sông Hiếu: 550.000 USD; Khách sạn Việt Lào 1 triệu USD; nhà máy thức ăn chăn nuôi gia súc: 1 triệu USD; liên doanh sản xuất keo: 95.000 USD; cửa hàng Huapheng: 130.000 USD…Dự án trong nước, như:Trang trại chăn nuôi đà điểu ở Diễn Châu: 2,27 tỷ đồng, Nhà máy kem Đỗ Quyên 3 tỷ đồng, Nhà máy thức ăn gia súc TNT 4 tỷ đồng…). - Số các dự án đăng ký nhiều, nhưng triển khai ít. Tỷ lệ vốn thực hiện so với vốn đăng ký thấp, nhiều dự án có tiến độ chậm, có dự án bị giải thể (Có 01 dự án bị giải thể: Liên doanh Hồng Thái – Sit, vốn đăng ký là 50 triệu USD; 27 dự án triển khai chậm hoặc chưa triển khai: Dự án Hồ Cửa Nam, Khu du lịch Trung Đô, Khu du lịch Đảo Lan Châu, Nghìn năm Thăng Long ở Mũi Rồng… với tổng số vốn đăng ký là 6.437,46 tỷ đồng). Các dự án đầu tư vào các KCN còn nhỏ về quy mô, ít về số lượng, tiến độ chậm, KCN Bắc Vinh đã có 13/14 dự án đi vào hoạt động, còn KCN Nam Cấm có 21 dự án đầu tư nhưng chỉ mới có 06 dự án đi vào hoạt động, hiệu quả kinh doanh hạn chế. - Tỷ trọng vốn đầu tư vào lĩnh vực nông, lâm nghiệp còn thấp và thiếu ổn định, hiệu quả kinh tế do các dự án mang lại chưa cao, chưa tương xứng với sự quan tâm, tập trung chỉ đạo của tỉnh ủy, UBND tỉnh. - Hoạt động xúc tiến đầu tư còn thiếu và yếu. Công tác chuẩn bị, xây dựng tài liệu, dữ liệu xúc tiến đầu tư không kịp thời, chất lượng thấp, hình thức nghèo nàn, chưa tương xứng với yêu cầu và sự quan tâm của các nhà đầu tư. Cơ chế mới “một cửa liên thông” về xử lý hồ sơ cho các dự án đầu tư ngoài Khu Kinh tế Đông Nam và các Khu Công nghiệp tập trung thay thế Quyết định 4412/2004/QĐ-UBND chưa được ban hành do đó thủ tục hành chính về đầu tư còn phải qua nhiều cơ quan, nhiều bước nên lãng phí thời gian, công sức gây bức xúc cho các nhà đầu tư. - Các cơ quan quản lý nhà nước chưa phục vụ tốt cho hoạt động của các doanh nghiệp. Theo phản ánh của các doanh nghiệp tại các cuộc gặp mặt với đại diện lãnh đạo tỉnh và các ngành thì: + Chi phí không chính thức còn cao, doanh nghiệp phải chờ đợi lâu, đi lại nhiều lần; các hướng dẫn thủ tục về thành lập doanh nghiệp, xây dựng, đất đai, nộp thuế… còn lúng túng, thiếu nhất quán + Những vướng mắc, khó khăn về giải phóng mặt bằng, thực hiện ưu đãi đầu tư… cho các dự án đã được cấp giấy chứng nhận đầu tư chưa được giải quyết kịp thời, thấu đáo, dứt điểm nên các dự án này chưa triển khai hoặc triển khai chậm so với tiến độ dẫn đến tỷ lệ vốn thực hiện so với vốn đăng ký thấp và ảnh hưởng tới tâm lý của các nhà đầu tư muốn triển khai các dự án mới. - Các ngành, các địa phương thiếu sự phối kết hợp một cách chặt chẽ, đồng bộ với nhau trong việc tranh thủ sự ủng hộ của các bộ, ngành trung ương, các địa phương có tiềm năng và vận động, thu hút các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty lớn, các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Do đó, hiệu quả công tác xúc tiến, vận động đầu tư còn thấp, khó thu hút được các nhà đầu tư có tiềm năng vào các dự án lớn. - Cơ sở hạ tầng, mặt bằng phục vụ đầu tư còn nhiều hạn chế, chưa theo kịp tiến độ phát triển đầu tư, ảnh hưởng tới tâm lý của nhà đầu tư. Việc chưa chuẩn bị sẵn sàng về đất đai (đặc biệt đối với các dự án lớn cần mặt bằng sản xuất rộng) cũng như việc giải phóng mặt bằng, đền bù, di dời và tái định cư dân khu vực đầu tư còn nhiều bất cập đã hạn chế việc tiếp nhận các dự án mới cũng như đẩy nhanh tiến độ của các dự án đã được cấp giấy chứng nhận đầu tư. - Ngoài ra, một số trở ngại ảnh hưởng tới hoạt động đầu tư nước ngoài như nguồn nhân lực bất cập, nguồn nhân lực tại chỗ tuy dồi dào, nhưng chất lượng chưa cao, chủ yếu là lao động phổ thông. Lao động có tay nghề cao, thạo ngoại ngữ còn thiếu; cạnh tranh gay gắt do thị trường mở cửa theo lộ trình cam kết quốc tế, công nghiệp phụ trợ còn hạn chế, chi phí đầu vào tăng (giá nguyên, vật liệu tăng, giá nhân công.v.v ); thời tiết khắc nghiệt, nắng nóng kéo dài dẫn tới thiếu nước và điện phục vụ sản xuất; vẫn còn vướng mắc về thủ tục pháp lý và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ … 2.3.2. Nguyên nhân làm hạn chế thu hút vốn đầu tư trực tiếp vào Nghệ An Thứ nhất, Nghệ An là tỉnh nghèo, kinh tế thị trường chưa phát triển, trình độ sản xuất còn thấp, khoa học công nghệ lạc hậu, nguồn nhân lực chưa đáp ứng được nhu cầu cho sự phát triển nền công nghiệp tiên tiến hiện đại. Tỉnh chưa có đủ tiềm lực để đầu tư phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội: Hạ tầng khu kinh tế Đông Nam và các khu công nghiệp tập trung, khu công nghiệp nhỏ chưa được đầu tư đúng mức chủ yếu là do ngân sách tỉnh còn hạn hẹp. Theo thống kê, nguồn vốn ngân sách nhà nước dành cho đầu tư xây dựng và phát triển các KCN trong hơn 5 năm qua là 137,195 tỷ đồng (xấp xỉ 30 tỷ đồng/năm). Trong đó, vốn cho đầu tư hạ tầng kỹ thuật chỉ khoảng 11 tỷ đồng/năm. Ngành nghề trong tỉnh chưa phát triển. Lao động dôi dư nhiều. Tốc độ đô thị hoá chậm. Bên cạnh đó, Nghệ An là địa phương nằm xa các trung tâm kinh tế lớn và các cực tăng trưởng của cả nước; thời tiết không thuận lợi, thường xuyên có bão lũ, hạn hán. Điều kiện đi lại còn khó khăn nên chưa thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài. Thứ hai, việc ban hành các chính sách ưu đãi đầu tư còn thiếu những yếu tố mà nhà đầu tư cần, do vậy, chưa đủ sức thu hút các nhà đầu tư. Chính sách ưu đãi đầu tư vào Nghệ An chưa đề cập đến việc tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp tiếp cận với các nguồn vốn vay để phát triển sản xuất, thiếu tính ổn định. Đặc biệt, có chính sách ban hành “tiền hậu bất nhất” gây khó khăn và bức xúc cho nhà đầu tư. Giá thuê đất đã có kết cấu hạ tầng vẫn cao hơn nhiều so với các tỉnh khác. Việc hỗ trợ vốn từ ngân sách theo các chính sách đã ban hành vẫn thực hiện chậm chạp làm giảm lòng tin của các nhà đầu tư. Thứ ba, thủ tục hành chính của tỉnh Nghệ An đã được thực hiện một cách tích cực nhưng chưa thật sự có hiệu quả. Các nhà đầu tư chưa hài lòng với cá điều kiện, thủ tục đầu tư ở Nghệ An. Họ cho rằng, Nghệ An vẫn còn nhiều thủ tục rườm rà, quá nhiều khâu, nhiều cấp, phiền hà hơn so với các địa phương khác. Một số cán bộ công chức có thái độ cửa quyền, ban ơn gây khó dễ cho các nhà đầu tư, làm mất thời gian đi lại, giảm lòng tin, mất cơ hội kinh doanh của nhà đầu tư. Trong lãnh đạo và chỉ đạo của tỉnh thiếu tập trung, chưa đồng bộ, công tác phối hợp giữa các Sở, Ban, Ngành, địa phương chưa tốt. Thứ tư, công tác bồi thường giải phóng mặt bằng và bàn giao mặt bằng cho nhà đầu tư còn chậm, mất rất nhiều thời gian của các nhà đầu tư. Năng lực hội đồng đền bù cấp huyện còn yếu; thiếu tính kiên quyết trong quá trình triển khai thực hiện; công tác tuyên truyền, vận động để người dân hiểu được lợi ích thiết thực và lâu dài trong việc đền bù, giải phóng mặt bằng triển khai thực hiện các dự án đầu tư chưa được quan tâm đúng mức và hiệu quả chưa cao. Thứ năm, công tác vận động xúc tiến đầu tư chưa chuyên nghiệp, các hoạt động còn thiếu tính chủ động và linh họat, còn nặng về tuyên truyền và quảng bá, chưa tiếp cận với các đối tác đầu tư cụ thể theo từng dự án cụ thể, còn mang tính hình thức, việc tiếp xúc trao đổi với nhà đầu tư trong và người nước quá ít. Các hình thức vận động, thu hút đầu tư ở nước ngoài chưa đủ sức mạnh để tìm kiếm các doanh nghiệp lớn đầu tư vào Nghệ An. Công tác chuẩn bị xúc tiến đầu tư như: lập, rà soát bổ sung quy hoạch tổng thể, quy hoạch ngành, quy hoạch sử dụng đất đai chưa được thực hiện thường xuyên, kịp thời; Chuẩn bị cơ sở dữ liệu, tài liệu chưa đáp ưng yêu cầu tìm hiểu thông tin của nhà đầu tư. Danh mục các dự án kêu gọi đầu tư còn dàn trải; Tổ chức các cuộc tiếp xúc, hội thảo xúc tiến đầu tư trong và ngoài nước chưa có tính hệ thống; mục tiêu, chỉ tiêu thiếu cụ thể. Thông tin cung cấp cho các nhà đầu tư còn chung chung, thiếu cụ thể, đôi khi thiếu nhất quán, dẫn đến sai lệch. Cơ quan đầu mối, chủ trì tham mưu tổng hợp về công tác xúc tiến, vận động thu hút đầu tư của tỉnh là Sở Kế hoạch và Đầu tư còn yếu về năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng xúc tiến đầu tư; cán bộ trực tiếp làm công tác xúc tiến đầu tư còn lúng túng, tính chuyên nghiệp chưa cao. Trong những nguyên nhân trên, nguyên nhân cơ bản là môi trường đầu tư chưa đáp ứng được nhu cầu của các nhà đầu tư. Một môi trường đầu tư hấp dẫn sẽ là động lực thu hút mọi nguồn đầu tư cho sự phát triển của tỉnh. Các nhà đầu tư vì mục tiêu lợi nhuận và sự thuận lợi trong sản xuất sẽ đến với Nghệ An nếu có trong môi trường đầu tư hoàn thiện và ổn định. 2.3.3. Những khó khăn vướng mắc và những vấn đề đặt ra trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp vào Nghệ An - Về việc thực thi các quy định của Luật và các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của Nhà nước liên quan đến hoạt động đầu tư + Trong việc ban hành chính sách ưu đãi đầu tư: Cũng như các nước trong khu vực, Việt Nam đã đưa ra nhiều ưu đãi đầu tư hào phóng để thu hút đầu tư. Các địa phương cũng đưa ra những chính sách ưu đãi riêng để “dành giật” các nhà đầu tư, tạo nên sự cạnh tranh trong thu hút đầu tư giữa các địa phương. Cần phải đánh giá, nhìn nhận vấn đề này một cách khoa học, khách quan để đạt được lợi ích chung, hiệu quả ở phạm vi quốc gia Có rất nhiều loại ưu đãi đầu tư khác nhau, các ưu đãi đầu tư lại được quy định trong các luật và văn bản dưới luật khác nhau, gây khó khăn cho các cơ quan nhà nước trong công tác quản lý ưu đãi đầu tư cũng như cho các nhà đầu tư trong việc nhận biết và tiếp cận ưu đãi đầu tư. Hơn nũa, có những loại ưu đãi đầu tư được sử dụng nhằm đạt được đồng thời nhiều mục tiêu khác nhau và đôi khi còn xung đột, triệt tiêu lẫn nhau. Ví dụ, vừa thu hút đầu tư công nghệ cao lại vừa giải quyết công ăn việc làm, phát triển kinh tế địa phương và cân bằng giới. Sự phức tạp càng được nhân lên do các địa phương tiếp tục đưa ra các ưu đãi riêng của địa phương mình một cách tuỳ tiện, thậm chí phạm luật để cạnh tranh thu hút đầu tư. Sự cạnh tranh này thường dẫn đến tình trạng “đua đến kiệt sức” trong nội bộ một quốc gia [3]. + Trong việc thi hành Luật đầu tư: Luật đầu tư thống nhất đã được ban hành năm 2005 đã góp phần tích cực cải thiện môi trường đầu tư ở trong nước. Nhưng theo đánh giá của tổ công tác thi hành luật doanh nghiệp và luật đầu tư, hiện văn bản luật này đang nảy sinh những vướng mắc và xung đột với một số luật hiện hành khác như Luật Bất động sản, Luật Đất đai và Luật Doanh nghiệp. Đơn cử như khi cấp giấy chứng nhận đầu tư, yêu cầu nhà đầu tư nước ngoài lần đầu phải có dự án đầu tư và quy định cơ quan đầu tư địa phương phải quản lý địa điểm đầu tư, mục đích và nhu cầu sử dụng đất. Quy định này là thừa và chồng chéo với luật đất đai. Hơn nũa khi cấp giấy chứng nhận đầu tư, cơ quan chức năng lại phải quản lý cả quy mô đầu tư và loại sản phẩm cũng là không phù hợp. Khái niệm về DN có vốn ĐTNN cũng chưa được hiểu rõ, gây nhiều khó khăn cho cơ quan quản lý cấp phép. Theo Luật DN, khi nhà đầu tư chiếm tỷ lệ vốn từ 51% trở lên được coi là DN có vốn ĐTNN. Thế nhưng, với trường hợp DN nước ngoài mua lại cổ phần của DN trong nước, và có tỷ lệ vốn lên tới 90% nhưng đại diện trong đăng ký kinh doanh vẫn là người Việt Nam. Do vậy, cơ quan quản lý đầu tư địa phương lúng túng không biết trường hợp này được coi là DN Việt Nam hay là DN có vốn ĐTNN ? Một vấn đề khác nữa thể hiện sự bất cập trong quy định của luật, đó là không biết vị trí của giấy chứng nhận đầu tư trong các thủ tục cấp phép. Có dự án nhận giấy phép đầu tư rồi mới thực hiện đánh giá tác động môi trường, trong lúc có nhà ĐTNN phải mất khoảng thời gian 2 năm mới nhận được giấy phép chứng nhận đầu tư bởi phải hoàn thành đánh giá tác động môi trường trước. Có những trường hợp nhà đầu tư chịu khoản chi phí lên tới hàng nghìn đô la để hoàn thành thủ tục đánh giá tác động môi trường nhưng vẫn chưa nhận được giấy phép đầu tư [16]. Ngoài ra, còn nhiều vướng mắc giữa Luật Đầu tư và cam kết WTO liên quan đến đầu tư không chỉ gây khó khăn không chỉ cho nhà ĐTNN mà cả cơ quan quản lý nhà nước. Ví dụ, DN nước ngoài xin phép thành lập pháp nhân nhiều mục tiêu như hai lĩnh vực xây dựng và phân phối. Đây là hai lĩnh vực có mức độ cam kết mở cửa khác nhau. Lĩnh vực xây dựng không hạn chế về vốn nhưng lĩnh vực phân phối nhà đầu tư nước ngoài tham gia không được vượt quá 49%. Trong trường hợp này thì các cơ quan quản lý không biết dựa vào điều kiện nào để cấp phép cả [25]. + Về hệ quả của phân cấp theo Luật Đầu tư 2005: Phân cấp theo Luật Đầu tư mới đã tạo ra một không khí sôi động trong xúc tiến và thu hút đầu tư. Tuy nhiên, một số vấn đề đang đặt ra qua thời gian đầu thực hiện phân cấp quản lý đầu tư. Đó là, làm sao thực hiện được cơ chế thông tin thống nhất, sự phối hợp trong thu hút đầu tư và thực hiện quy hoạch tổng thể ngành, lĩnh vực ? Thứ nhất, về thông tin phục vụ công tác quản lý nhà nước về đầu tư: Trước đây, với sự phân cấp hạn chế, việc thống kê số liệu định kỳ phục vụ công tác quản lý nhà nước về đầu tư tập trung qua một đầu mối là Bộ KH và ĐT nên số liệu nhanh chóng, kịp thời, đồng bộ, còn hiện tại, chất lượng, tiến độ thông tin về tình hình thu hút đầu tư của các địa phương phụ thuộc vào trình độ, trách nhiệm của cán bộ làm công tác quản lý đầu tư ở các địa phương. Hơn nữa, thông tin này khó có thể đồng bộ được vì do tính không đồng đều ở các địa phương. Thứ hai, về xúc tiến đầu tư: Với sự chủ động, các địa phương có thể đi xúc tiến đầu tư thẳng tới từng thị trường nước ngoài mà mình mong muốn, có thể dẫn đến tình trạng nhiều tỉnh thành cùng đến một thị trường; trong 1 thời điểm ở một thị trường có thể có nhiều đoàn xúc tiến đầu tư của Việt Nam cùng đến và chuyển tải những thông tin gần giống nhau. Điều này gây nên sự lãng phí và nhàm chán cho các nhà đầu tư. Thứ ba, về thực hiện quy hoạch của ngành, vùng kinh tế mà rộng ra là cả nước: Nhiều địa phương vì lợi ích cục bộ đã thu hút những dự án cùng lĩnh vực đã làm phá vỡ quy hoạch chung, gây thiệt hại cho nền kinh tế. Đơn cử như câu chuyện sân golf hiện nay: Lấy kết quả từ khảo sát thực địa, Bộ KH và ĐT đã kết luận “trào lưu” xin chủ trương kinh doanh sân golf trong vòng một năm qua cho thấy sự mất cân đối từ cơ cấu dự án, cơ cấu vốn, đến suất đầu tư… Tính đến thời điểm trước 01/7/2006 (luật đầu tư có hiệu lực), cả nước mới chỉ có 38 dự án được cấp phép, trong đó có 13 dự án đi vào hoạt động. Mọi chuyện bắt đầu thay đổi sau khi Nghị định 108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 hướng dẫn thi hành luật đầu tư được ban hành, theo đó việc xem xét, cấp giấy chứng nhận đầu tư được phân cấp cho UBND cấp tỉnh, Ban quản lý Khu Kinh tế, Khu Thương mại đặc biệt và Ban Quản lý Khu Công nghiệp. Tính từ 01/7/2006 đến 04/6/2008, cả nước đã có thêm 106 dự án có mục tiêu kinh doanh sân golf được cấp phép hoặc duyệt chủ trương thực hiện, gấp 3 lần so với số dự án được cấp phép 16 năm trước đó cộng lại [38]. Tuy thế, sự phát triển quá nóng các dự án sân golf không phải lỗi tại các địa phương. Bởi vì, theo quy định trước đây, việc cấp phép các dự án sân golf phải tuân theo một quy trình chặt chẽ, có sự đánh giá, thẩm định của nhiều Bộ, Ngành trước khi trình lên Thủ tướng Chính phủ quyết định. Bên cạnh đó, Luật ĐTNN trước kia cũng có quy định các dự án có sử dụng đất đo thị từ 5ha trở lên hoặc đất khác từ 50ha trở lên đều phải báo cáo Thủ tướng Chính phủ. Còn trong các văn bản luật hiện nay thì lại không có quy định nào coi kinh doanh sân golf thuộc nhóm dự án cấm hay hạn chế đầu tư, thậm chí không thuộc diện nhóm dự án phải tuân thủ quy hoạch ngành. Quy định về thẩm quyền phê duyệt hạn mức sử dụng đất trên cũng không còn sau khi luật đầu tư chung được áp dụng. - Về phía UBND và các ngành chức năng của tỉnh + Không nhất quán khi ban hành chính sách ưu đãi đầu tư. Quyết định 63/QĐ-UB ngày 16/7/2003 của UBND tỉnh Nghệ An về một số chính sách khuyến khích, ưu đãi đầu tư vào các khu công nghiệp nhỏ trên địa bàn TP Vinh có một số ưu đãi cho doanh nghiệp như: Được tính giá thuê đất nguyên thổ 100 đồng/m2 và được miễn giảm 15 năm đầu. Nhưng theo Quyết định 67/QĐ-UB ngày 07/7/2006 của UBND về ban hành khung giá thuê đất, thuê mặt nước trên địa bàn tỉnh thì lại nêu: Đất sử dụng làm mặt bằng sản xuất kinh doanh của dự án thuộc lĩnh vực khuyến khích đầu tư ở TP Vinh là 0,45% trên đơn giá từng khu vực. Như vậy, thay vì chỉ phải trả 100 đồng/m2 và được miễn 15 năm đầu theo Quyết định 63/QĐ-UB, thì doanh nghiệp phải trả tiền đất gấp từ 40 đến 70 lần theo Quyết định 67/QĐ-UB. Quyết định 63/QĐ-UB cũng khẳng định “giá thuê đất được ổn định trong 5 năm, sau 5 năm có điều chỉnh, sửa đổi thì mức điều chỉnh không quá 15% giá trị điều chỉnh trước đó”. Nhưng chỉ sau 3 năm, nghĩa là chưa đến thời hạn điều chỉnh theo quyết định cũ thì UBND tỉnh đã có một quyết định mới tăng giá đất lên từ 400% đến 700% so với mức giá doanh nghiệp hứa hẹn được ưu đãi. + Về cách tính và tổ chức thu tiền thuê sử dụng đất, mặt nước. Hiện nay, theo Nghị định 142/2005/ NĐ-CP ngày 14/11/2005 của Chính phủ quy định về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước, thì UBND các tỉnh, thành phố có trách nhiệm quy định cách tính, cách thu, tổ chức thu tiền thuê đất, thuê mặt nước trên địa bàn. Tuy nhiên, từ sự phân cấp này đã tạo ra sự không thống nhất dẫn đến có sự chênh lệch về tiền thuê đất, gây khó khăn, bức xúc cho các nhà đầu tư khi đầu tư ở các tỉnh khác nhau. Các tỉnh có Khu Công nghiệp phát triển và điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư, thì tính mức giá thuê đất chưa có hạ tầng (thống nhất cho từng địa bàn, bằng 0,5% giá đất) cộng với phí sử dụng kết cấu hạ tầng(khác nhau, tuỳ thuộc địa bàn, khu vực khác nhau), phương pháp tính này đơn giản, hợp lý nên dễ được các nhà đầu tư đồng tình. Trong lúc đó, ở Nghệ An lại tính giá đất và hạ tầng riêng cho từng khu vực, nhiều nơi áp dụng tuỳ tiện, không sát giá. Bên cạnh đó, nhà đầu tư phải nộp tại Cục thuế tỉnh với tiền thuê đất nhiều lần, nhiều giai đoạn cho một hợp đồng thuê đất(thường là 10 – 15 năm/1 lần nộp), trong lúc các nhà đầu tư có nguyện vọng thanh toán ít đợt, thậm chí thanh toán 1 lần cho cả thời hạn thuê đất và nộp tại cơ quan thuế cấp huyện, nơi thực hiện dự án để sát thực hơn. Điều này cũng ảnh hưởng đến thu hút đầu tư nói chung. + Về phương pháp tính giá trị bồi thường đất nông nghiệp khi thu hồi và chính sách hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp, giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất sản xuất. Ở lĩnh vực này, trước sự bất cập của Nghị định 197/2004NĐ/CP, ngày 03/12/2004 v.v “Bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất”, Chính phủ đã ban hành Nghị định 84/2007/NĐ/CP ngày 25/5/2007 v.v “Quy định bổ sung về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết kiếu nại về đất đai”. Tuy nhiên, giá đền bù đất nông nghiệp chênh lệch quá lớn (hàng chục đến hàng trăm lần) đối với đất đô thị hay đất Khu Công nghiệp có hạ tầng(mặc dù vốn mà nhà đầu tư bỏ ra để đầu tư xây dựng hạ tầng Khu đô thị và Khu Công nghiệp không lớn), hơn nữa, thực tế khoản kinh phí mà nông dân nhận được từ việc bị thu hồi đất sản xuất không đủ cho việc chuyển đổi nghề, tạo việc làm mới. Bên cạnh đó, do nhiều nguyên nhân(tuổi đời, trình độ đào tạo ,thói quen, kỷ luật lao động... của nông dân) mà nhà đầu tư giải quyết được rất ít chỗ làm việc cho người lao động nông nghiệp ở địa phương. Tất cả những vấn đề trên đây chính là nguyên nhân chính trong việc khiếu kiện của nông dân nhiều vùng miền trong cả nước hiện nay. + Tổ chức cơ chế một cửa về thủ tục đầu tư và quản lý nhà nước về hoạt động đầu tư còn có khó khăn. Thực tiễn thời gian qua, việc cấp chứng nhận đầu tư cho các dự án đầu tư trực tiếp vào địa bàn theo quy định của Luật Xây dựng và Luật Bảo vệ môi trường làm tốn nhiều thời gian, công sức của các nhà đầu tư. Cụ thể là: Hồ sơ thiết kế cơ sở các dự án đầu tư có xây dựng công trình, theo quy định của Luật Xây dựng và Nghị định 12/2005/NĐ- CP của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Xây dựng thì các nhà đầu tư trong hồ sơ đăng ký cấp CNĐT cần có bộ hồ sơ thiết kế cơ sở được sở xây dựng thẩm định. Thủ tục này làm cho nhà đầu tư tốn khoảng 15-20 ngày thuê tư vấn và thêm 20 ngày để thẩm định (theo quy định). Như vậy, nhà đầu tư phải mất đến 35-40 ngày cho việc hoàn chỉnh hồ sơ thiết kế cơ sở. Về thực hiện xác nhận bảo vệ môi trường, theo quy định của Luật Môi trường, các dự án đầu tư không thuộc

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Thu hút đầu tư trực tiếp nhằm phát triển kinh tế ở tỉnh Nghệ An.pdf
Tài liệu liên quan