Tài liệu Luận văn Tạo lập và sử dụng vốn cho người nghèo, thực trạng giải pháp:  1
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP 
KHOA 
KINH TẾ TÀI CHÍNH 
Đề tài: Tạo lập và sử dụng vốn cho người nghèo, thực 
trạng - giải pháp 
 2
Lời nói đầu 
 
 Đói nghèo là một vấn đề xã hội mang tính toàn cầu, mục tiêu xoá 
đói giảm nghèo không chỉ có ở nước ta mà còn nhiều nước trong khu 
vực và trên thế giới. 
 Nghèo đói không chỉ làm cho hàng triệu người không có cơ hội 
được hưởng thụ thành quả văn minh tiến bộ của loài người mà còn gây 
ra những hậu quả nghiêm trọng về vấn đề kinh tế xã hội đối với sự phát 
triển, sự tàn phá môi trường sinh thái. Vấn đề nghèo đói không được 
giải quyết thì không một mục tiêu nào mà cộng đồng quốc tế cũng như 
quốc gia định ra như tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống, hoà bình ổn 
định, đảm bảo các quyền con người được thực hiện. Đặc biệt ở nước ta, quá 
trình chuyển sang kinh tế thị trường với xuất phát điểm nghèo nàn và lạc 
hậu thì tình trạng đói nghèo càng không thể tránh khỏi. Theo số liệu thống 
kê mới nhất, hiện nay cả nước có khoản...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
75 trang | 
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1095 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tạo lập và sử dụng vốn cho người nghèo, thực trạng giải pháp, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 1
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP 
KHOA 
KINH TẾ TÀI CHÍNH 
Đề tài: Tạo lập và sử dụng vốn cho người nghèo, thực 
trạng - giải pháp 
 2
Lời nói đầu 
 
 Đói nghèo là một vấn đề xã hội mang tính toàn cầu, mục tiêu xoá 
đói giảm nghèo không chỉ có ở nước ta mà còn nhiều nước trong khu 
vực và trên thế giới. 
 Nghèo đói không chỉ làm cho hàng triệu người không có cơ hội 
được hưởng thụ thành quả văn minh tiến bộ của loài người mà còn gây 
ra những hậu quả nghiêm trọng về vấn đề kinh tế xã hội đối với sự phát 
triển, sự tàn phá môi trường sinh thái. Vấn đề nghèo đói không được 
giải quyết thì không một mục tiêu nào mà cộng đồng quốc tế cũng như 
quốc gia định ra như tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống, hoà bình ổn 
định, đảm bảo các quyền con người được thực hiện. Đặc biệt ở nước ta, quá 
trình chuyển sang kinh tế thị trường với xuất phát điểm nghèo nàn và lạc 
hậu thì tình trạng đói nghèo càng không thể tránh khỏi. Theo số liệu thống 
kê mới nhất, hiện nay cả nước có khoảng trên 2 triệu hộ nghèo đói chiếm 
11% tổng số hộ trong cả nước. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến nghèo đói 
nhưng phải kể hơn cả là thiếu vốn và kỹ thuật làm ăn. 
 Vốn cho người nghèo đang là một nghị sự nóng hổi trên diễn đàn 
kinh tế. Giải quyết vốn cho người nghèo để thực hiện mục tiêu xoá đói 
giảm nghèo đã được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm. 
 Trong các năm qua, tuy đã có nhiều biện pháp hỗ trợ vốn cho người 
nghèo nhưng thực trạng mà đánh giá vốn chuyển tải đến người nghèo chưa 
được là bao nhiêu và hiệu quả sử dụng chưa cao. Tuy vậy nhìn tổng thể và 
trước những yêu cầu đặt ra thì quả thực còn nhiều mặt cần được đề cập để 
đi đến đưa ra những giải pháp cơ bản, lâu dài cho việc hỗ trợ vốn làm ăn 
tới người nghèo ở nước ta. 
Sau một thời gian thực tập tại vụ bảo trợ xã hội - Bộ Lao động 
Thương binh và xã hội, được sự tận tình hướng dẫn của thầy giáo Phạm 
Văn Liên và các đồng chí lãnh đạo, tập thể cán bộ vụ bảo trợ xã hội, kho 
bạc Nhà nước Trung ương, Ngân hàng phục vụ người nghèo, uỷ ban dân 
tộc miền núi... với ý thức mong muốn góp phần tích cực vào phát triển 
kinh tế của đất nước. Em mạnh dạn lựa chọn đề tài "Tạo lập và sử dụng 
vốn cho người nghèo, thực trạng - giải pháp". Là vô cùng cần thiết. 
 3
 1. Mục đích nghiên cứu: 
 Trên cơ sở phân tích những vấn đề cơ bản: kinh tế thị trường và 
tính tất yếu nghèo đói trong nền kinh tế, vốn cho người nghèo và các 
kênh hỗ trợ vốn cho người nghèo về mặt lý luận cũng như thực tiễn ở 
nước ta thời gian vừa qua. Trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp về vốn hỗ 
trợ người nghèo ở nước ta hiện nay. 
 2. Đối tượng nghiên cứu: 
 Đề tài lấy vấn đề về vốn và sự vận động của vốn cho mục tiêu xoá 
đói giảm nghèo ở nước ta làm đối tượng nghiên cứu. 
 3. Phương pháp nghiên cứu: 
 Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của phép 
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử có kết hợp với phương pháp phân 
tích tổng hợp, thống kê, so sánh, xử lý hệ thống mô hình hoá, thực 
chứng và các phương pháp khác của nghiên cứu khoa học kinh tế. 
 4. Kết cấu đề tài: ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được 
trình trong 3 chương. 
 Chương 1 - Kinh tế thị trường và các kênh hỗ trợ vốn cho người 
nghèo ở nước ta. 
 Chương 2 - Thực trạng việc tạo lập và sử dụng vốn hỗ trợ cho 
người nghèo ở nước ta trong thời gian vừa qua. 
 Chương 3 - Một số giải pháp tạo lập và sử dụng vốn hỗ trợ người 
nghèo trong giai đoạn hiện nay. 
 4
Chương I 
Kinh tế thị trường và các kênh hỗ trợ vốn cho người nghèo ở nước ta 
1.1. Kinh tế thị trường và những ưu khuyết tật của nó. 
 Kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá đã phát triển tới trình 
độ cao, khi mà các quan hệ tiền tệ, giá cả, thị trường trở thành yếu tố 
chủ đạo cấu thành cơ chế vận hành của nền kinh tế và kể cả xã hội; ở 
đây quá trình sản xuất và trao đổi hàng hoá được vận động tự do bởi 
thống trị của nguyên tắc tự do cạnh tranh. 
 Có thể nói kinh tế thị trường là sản phẩm cao cấp của sự tiến hoá 
lịch sử nhân loại. Quả thật trong lịch sử phát triển kinh tế, kinh tế thị 
trường đã phát huy đến mức cao nhất mọi tiềm năng, tiền vốn, công 
nghệ để sản xuất một cách có hiệu quả cao. Với tư cách đó, nó chứa 
đựng nhiều ưu điểm so với các hình thái và tổ chức kinh tế trước nó. 
Phải kể đến là các ưu điểm sau. 
 Một là: Kinh tế thị trường với điều kiện tồn tại các chủ thể kinh tế 
độc lập là tạo khả năng chủ động lựa chọn mô hình sản xuất kinh doanh 
khả dĩ, nếu xét tổng quát nền kinh tế lâu dài thì đây là yếu tố nội sinh 
thúc đẩy hiệu quả kinh tế toàn xã hội và từng cá nhân tăng lên. 
 Hai là: Kinh tế thị trường với điều kiện trình độ phân công lao 
động xã hội tăng lên, theo đó làm tăng trình độ xã hội hoá nền sản xuất 
và thúc đẩy hiệu quả sản xuất tăng lên 
 Ba là: Kinh tế thị trường với mục đích tối thượng là lợi nhuận 
trong mọi hoạt động kinh tế, theo đó tự nó đã thúc đẩy sản xuất mạnh 
mẽ so với các nền kinh tế trước đó. Bởi vì để giải quyết được 3 vấn đề 
(sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai) trong sản xuất 
của nền kinh tế thị trường, buộc từng chủ thể kinh tế phải tăng cường 
cải tiến kỹ thuật, công nghệ sản xuất phải thoả mãn nhu cầu của xã hội... 
 Tuy nhiên bên cạnh những ưu điểm trên, kinh tế thị trường tuyệt 
nhiên không phải là một công cụ vạn năng để giải quyết hữu hiệu tất cả 
mọi vấn đề của nền kinh tế, mà kinh tế thị trường luôn hàm chứa trong 
đó không ít khuyết tật, cụ thể là: 
 Thứ nhất: Kinh tế thị trường khi mà mục đích tối thượng là lợi 
nhuận, thì các chủ thể kinh tế chỉ quan tâm tới hiệu quả sản xuất thuần 
tuý như "người dùng chanh chỉ biết vắt hết nước" thì có thể gây ra một 
hậu quả nghiêm trọng đối với tiến trình phương pháp kinh tế, xã hội lâu 
dài. Điều này đã được minh chứng rõ khi con người khai thác tài 
nguyên, chặt cây, phá rừng đến một mức như huỷ diệt thì sự trả giá là 
không nhỏ tý nào từ môi trường sinh thái cân bằng cho sự phát triển đã 
trở thành môi trường đang bị huỷ diệt. 
 Thứ hai: Sự cạnh tranh tự do vốn có của nền kinh tế thị trường sẽ 
dẫn đến độc quyền và chính sự độc quyền là nguyên nhân lũng đoạn nền 
kinh tế theo hướng thu lợi riêng quá mức trên những tổn hại chung của 
 5
xã hội. Cạnh tranh tự do (hơn nữa là tự phát) là nguồn gốc tự nhiên, trực 
tiếp của tình trạng phân hoá giàu nghèo, bất bình đẳng xã hội... 
 Đối với nước ta nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường đã tạo 
điều kiện cho một số doanh nghiệp và cá nhân có tiền vốn kỹ thuật... 
làm ăn có hiệu quả, được khuyến khích làm giàu chính đáng, tuy nhiên, 
cạnh tranh nảy sinh trong cơ chế thị trường có thể dẫn đến những hậu quả 
xấu, nếu không có sự điều tiết của Nhà nước, cạnh tranh sẽ dẫn đến tìm 
mọi mánh khoé làm ăn theo hướng "mạnh được, yếu thua" thậm chí "cá 
lớn nuốt cá bé" từ đó dẫn đến kinh doanh trốn thuế, mua bán ép giá, lừa 
gạt, triệt tiêu lẫn nhau... đều làm cho thị trường tăng rối loạn. Cạnh tranh 
như thế, một số giàu lên nhanh chóng, song cũng không ít người rơi vào 
làm ăn thua lỗ, phá sản cơ nghiệp làm cho nền kinh tế bị kìm hãm và thất 
nghiệp, phân hoá thu nhập... và giàu nghèo cũng có nguồn gốc từ đây. 
 Như vậy, nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường luôn tồn tại 
hai thái cực: một bên là tích cực đã thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển, 
một bên là tiêu cực sẽ kìm hãm phát triển kinh tế xã hội và phân hoá đời 
sống các tâng lớp dân cư. Để thúc đẩy mặt tích cực, đồng thời hạn chế 
mặt tiêu cực thì đòi hỏi phải có vai trò điều tiết của Nhà nước. 
1.2. Vai trò của Nhà nước trong việc điều tiết nền kinh tế thị trường. 
 Như trên đã phân tích, về thực chất, cơ chế thị trường tự nó không 
đủ khả năng điều chỉnh, khắc phục những khuyết tật do nó gây ra. Đó là 
lý do cần phải có sự can thiệp của Nhà nước vào quá trình vận hành của 
hệ thống thị trường trong mọi giai đoạn phát triển của nó. Đương nhiên 
sự can thiệp của Nhà nước phải có một định hướng rõ ràng, hơn nữa 
được thể hiện trên các chức năng nhất định. Chúng ta có thể nhìn nhận 
chức năng của Nhà nước thông qua các vấn đề sau (1) 
 Một là: Với các công cụ chính sách, Nhà nước thực hiện điều tiết các 
quá trình kinh tế vĩ mô, tạo lập môi trường vĩ mô cho phát triển bền vững 
nền kinh tế - xã hội. Thuộc hệ công cụ chính sách này như: chính sách tài 
khoá, chính sách tiền tệ, chính sách đầu tư, chính sách phát triển nông thôn, 
chính sách xoá đói giảm nghèo... 
 Hai là: Nhà nước tạo tập và duy trì một hành lang pháp lý để điều 
chỉnh các hoạt động sản xuất kinh doanh. Thực hiện chức năng này Nhà 
nước có thể hạn chế những tiêu cực trong hoạt động kinh tế xã hội do 
cạnh tranh hoặc độc quyền gây ra. 
 Ba là: Với tư cách là bộ máy quyền lực tập trung để điều chỉnh sự 
phát triển của xã hội thì Nhà nước không thể không có chức năng định 
hướng kinh tế để hướng hoạt động thị trường vào cơ cấu kinh tế và mục 
tiêu theo hướng đã chọn. Bởi vì chỉ có sự can thiệp của Nhà nước thông 
qua các định hướng phát triển và có giải pháp để thực hiện chúng thì 
nền kinh tế mới có thể phát triển đạt hiệu quả cao và lâu bền. 
 Bốn là: Nhà nước có chức năng điều tiết và phân phối thu nhập, 
đảm bảo công bằng xã hội. Đây không chỉ là chức năng kinh tế mà cả 
chức năng xã hội của Nhà nước. Điều này được lý giải bởi: bên cạnh 
những vấn đề kinh tế, nền kinh tế thị trường còn phát sinh nhiều vấn đề 
 6
xã hội to lớn cần được giải quyết như tình trạng phân hoá giàu nghèo, 
bất bình đẳng về tài sản, thu nhập mà còn có kéo theo phân hoá xã hội 
như học vấn, văn hoá, lối sống, tệ nạn xã hội... nếu không có sự hạn chế 
bằng điều tiết của Nhà nước thì nó ngày một gia tăng hơn. Chỉ có Nhà 
nước, với tư cách là cơ quan quyền lực tối cao của xã hội mới đủ khả 
năng điều chỉnh thông qua sử dụng các công cụ chính sách của mình. 
Tuy nhiên sự tác động của Nhà nước có hiệu quả đến mức độ nào còn 
tuỳ thuộc vào tính hữu hiệu của các công cụ, chính sách đã đề ra. Song 
trong điều kiện nền kinh tế thị trường thì tác động của Nhà nước để đạt 
tới sự bình đẳng và công bằng tuyệt đối là khó có được, nếu không 
muốn nói đó là "giấc mơ". Kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa hay kinh 
tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì tình trạng thất nghiệp 
và đói nghèo vẫn luôn bám chặt trong cơ thể "xã hội". Tỷ lệ đói nghèo 
gia tăng hay giảm xuống phụ thuộc nhiều yếu tố, song chỉ có kết quả khi 
có bài thuốc đủ liều của Nhà nước. 
1.3. Sự tồn tại khách quan của đói nghèo và nguyên nhân dẫn đến 
nghèo đói. 
1.3.1. Sự tồn tại khách quan của nghèo đói trong sự nghiệp phát 
triển kinh tế xã hội ở nước ta. 
 Nghèo đói là một hiện tượng phổ biến của nền kinh tế thị trường 
và tồn tại khách quan đối với mỗi quốc gia trong quá trình phát triển. 
Cho dù phát triển là một thách thức cấp bách trước loài người và nhờ 
phát triển có thể tạo ra những cơ hội tăng trưởng, song hiện nay vẫn còn 
có 1,12tỷ người đang sống ở mức nghèo khổ. Đặc biệt đối với nước ta 
quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường với xuất phát điểm nghèo 
nàn lạc hậu thì tình trạng đói nghèo càng không thể tránh khỏi, đến nay 
nước ta còn khoảng trên 2 triệu hộ thuộc diện nghèo đói và chiếm 11% 
tổng số hộ trong cả nước. So với bình quân thế giới có tỷ lệ nghèo đói 
tập trung ở nông thôn trên 70% thì ở nước ta điều đó lại càng cao hơn, 
chiếm khoảng 90% (3). Mặc dù từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 
VI đến nay nhất là từ sau khi có nghị quyết 10, hộ nông dân được xác 
định là đơn vị kinh tế tự chủ đã thúc đẩy sản xuất nông nghiệp đạt được 
kết quả cao hơn hẳn những thời kỳ trước đó. Nhờ vậy đời sống người 
nông dân và kinh tế nông thôn nước ta dần đi vào thế ổn định và phát 
triển. Tuy nhiên thừa nhận và khuyến khích các hộ phát triển sản xuất 
hàng hoá, tất yếu dẫn đến phát triển không đồng đều giữa các hộ mà 
trước đây bị che đậy mờ đi bởi cơ chế tập trung bao cấp. Tình trạng đói 
nghèo không chỉ còn là cá biệt mà đã trở thành hiện tượng phổ biến và 
có xu hướng gia tăng ở nông thôn và các vùng khó khăn. Ngay cả những 
vùng đô thị, tình trạng thất nghiệp do thiếu vốn và thiếu điều kiện làm 
ăn đã và đang làm phát sinh một bộ phận hộ gia đình nghèo túng. 
Khoảng chênh lệch thu nhập giữa các phân tầng xã hội ngày một nới 
rộng. Cùng với công cuộc đổi mới, thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước 
mạnh" do Đảng ta khởi xướng, một bộ phận dân cư vươn lên làm ăn có 
hiệu quả trong cơ chế thị trường và trở nên giàu có. Song bên cạnh đó 
không ít người do nhiều nguyên nhân đã chấp nhận vào ngưỡng nghèo 
 7
đó. Mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta là liên tục phấn đấu đưa toàn xã 
hội đến "công bằng văn minh", vì vậy Nhà nước đã và đang tập trung 
chỉ đạo thực hiện bằng nhiều biện pháp tác động khác nhau để những 
vùng nghèo, dân cư có đời sống khó khăn vươn lên đạt tới sự công bằng 
nhất định trong xã hội. Song sự tác động của Nhà nước không bao giờ 
đạt được như mong muốn. Tình trạng nghèo đói ở nước ta vẫn tồn tại, 
thậm chí đã trở thành hiện tượng xã hội gay gắt. 
 Đã đến lúc các quốc gia, hơn nữa toàn thế giới coi giải quyết vấn 
đề nghèo đói như một chiến lược toàn cầu. Bước vào thiên niên kỷ mới, 
đói nghèo vẫn là một trong những thách thức lớn nhất của nhân loại. 
Hướng tới tương lai, tại khoá họp đặc biệt của Đại hội đồng Liên hợp 
quốc về phát triển xã hội, tháng 6/2000 ở Giơnevơ (Thuỵ Sĩ), cộng đồng 
quốc tế tiếp tục cam kết thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo, phấn 
đấu đến năm 2015 giảm 1/2 số người nghèo trên thế giới. Hội nghị cũng 
kêu gọi cộng đồng quốc tế đẩy mạnh chiến dịch "tấn công vào đói 
nghèo" và khuyến nghị các quốc gia cần có chiến lược toàn diện về xoá 
đói giảm nghèo. Đặc biệt tại hội nghị thiên niên kỷ đầu tháng 9/2000 
của Liên Hợp quốc tại Oasinhtơn (Mỹ), một lần nữa khẳng định chống 
đói nghèo là một trong những mục tiêu ưu tiên của cộng đồng quốc tế 
trong thế kỷ XXI. Tại hội nghị này, chủ tịch Trần Đức Lương, trưởng 
đoàn đại biểu Việt Nam đã đề nghị lấy thập niên đầu tiên của thế kỳ 
XXI làm thập niên dành ưu tiên cho xoá đói giảm nghèo trên phạm vi 
toàn thế giới và đã được hội nghị đồng tình cao (4) 
 Như vậy rõ ràng, giải quyết vấn đề nghèo đói ở nước ta không chỉ 
là đòi hỏi về mặt xã hội (bao gồm chính trị, xã hội, đạo đức) mà còn đòi 
hỏi của vấn đề kinh tế. Bởi vì nền kinh tế không thể tăng trưởng một 
cách bền vững, mỗi khi trong xã hội vẫn tồn tại lớp người nghèo đói khá 
đông. 
1.3.2. Những nguyên nhân dẫn đến đói nghèo. 
 Để có những giải pháp xoá đói giảm nghèo hữu hiệu thì trước hết 
phải tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến nghèo đói. Cũng như thầy thuốc 
muốn "bốc thuốc" đúng, trị được bệnh thì trước hết phải "chuẩn đoán 
bệnh" cho đúng. Nếu xét về nguồn gốc thì nghèo đói do nhiều nguyên 
nhân dẫn đến, có nguyên nhân tác động trực tiếp nhưng cũng có nguyên 
nhân chỉ là tác nhân gián tiếp gây ra nghèo đói mà thôi. Trong "chuỗi" 
nguyên nhân gây ra nghèo đói phải kể đến các nguyên nhân sau: 
1.3.2.1. Nguyên nhân do thiếu vốn, thiếu kiến thức và kỹ thuật 
làm ăn 
 Vốn, kỹ thuật và kiến thức làm ăn là chìa khoá để người nghèo 
vượt khỏi ngưỡng nghèo đói. Do không đáp ứng đủ vốn nhiều người rơi 
vào thế luẩn quẩn, làm không đủ ăn phải đi làm thuê, vay nặng lãi, bán 
lúa non mong đảm bảo cuộc sống tối thiểu hàng ngày nhưng nguy cơ 
nghèo đói vẫn thường xuyên đe doạ họ. Mặt khác do thiếu kiến thức làm 
ăn nên họ chậm đổi mới tư duy làm ăn, bảo thủ với phương pháp sản 
xuất kém hiệu quả. Thiếu kiến thức và kỹ thuật làm ăn là một lực cản 
 8
lớn nhất hạn chế tăng thu nhập và cải thiện đời sống của hộ gia đình 
nghèo. 
1.3.2.2. Nguyên nhân do sinh đẻ nhiều nhưng đất đai canh tác 
lại ít 
 Mặc dù đã có cuộc vận động thực hiện chương trình sinh đẻ có kế 
hoạch nhưng nhìn chung ở vùng nông thôn, miền núi, vùng dân tộc tỷ lệ 
sinh đẻ giảm xuống không đáng kể, thậm chí có nơi không giảm và tiếp 
tục gia tăng. Sinh đẻ nhiều dẫn đến trong một hộ gia đình người làm thì 
ít mà người ăn theo thì nhiều do đó thu nhập bình quân thấp, đời sống 
khó khăn lại càng khó khăn hơn. Mặt khác diện tích đất canh tác có hạn, 
hệ số sử dụng đất ở các vùng núi, vùng thiên tai không được nâng lên sản 
lượng thu hoạch bình quân có xu hướng giảm xuống thì điều tất yếu sẽ 
dẫn đến nghèo đói. 
1.3.2.3. Nguyên nhân do thiếu việc làm. 
 Thiếu việc làm bao giờ cũng là yếu tố tiềm ẩn dẫn đến nghèo đói. 
Đặc biệt đối với các vùng đô thị thì thất nghiệp là đồng hành với sự 
nghèo đói. Nói như vậy không có nghĩa là tình trạng thiếu việc làm trở 
thành căn nguyên nghèo đói không xảy ra ở nông thôn. Mà thiếu việc làm 
theo mùa và không đủ công ăn việc làm cho nông dân đang luôn là mối đe 
doạ một bộ phận hộ gia đình sản xuất nông nghiệp tụt xuống bờ vực nghèo 
đói. Bởi vậy tạo ra việc làm mới bằng các nghề phụ ở nông thôn nếu được 
giải quyết sẽ làm tăng thu nhập cho dân cư và tất yếu là sẽ giảm được 
nghèo đói. 
 Đối với nước ta nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự 
quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN hay giả định một định 
hướng hoàn mỹ hơn nhiều thì khuyết tật của cơ chế thị trường, tự nó 
không thể mất đi được, thậm chí vẫn thể hiện rất gay gắt. Ngay trên thị 
trường sức lao động, nếu như trước đây con người sinh ra hầu như đã 
được đảm bảo về việc làm, thì ngày nay muốn có việc làm phải qua cạnh 
tranh. Những người không có khả năng cạnh tranh do sức khoẻ, tàn tật, 
già yếu, thiếu kiến thức... thì chắc chắn sẽ rơi vào tình trạng không có 
lối thoát và những người "gặt hái" chiến bại trong cạnh tranh cũng phải 
chịu đựng cuộc sống bếp bênh, nghèo đói. Sự tồn tại của thất nghiệp, 
nhất là trong lứa tuổi thanh niên không những là nguyên nhân gây nghèo 
đói cho gia đình mà còn có thể gây nhiều tiêu cực cho xã hội. 
 Tình trạng thiếu việc làm đang là thách thức cho mọi quốc gia 
trong việc thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo. ở nước ta để thực 
hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo do Đảng ta khởi xướng thì giải quyết 
việc làm đang là vấn đề kinh tế xã hội luôn nằm trong chương trình nghị 
sự của chính phủ. 
1.3.2.4. Nguyên nhân từ sức khoẻ. 
 Sức khoẻ yếu và do đó thiếu sức lao động với tình trạng đói nghèo 
thường có mối quan hệ tỷ lệ thuận. Nghèo nàn đói rách làm cho sức 
khoẻ suy giảm, ngược lại sức khoẻ yếu và thiếu sức lao động là nguyên 
nhân của sự nghèo khổ. Một khi con người không đủ sức lao động, 
 9
thường dẫn đến khó khăn trong cuộc sống và tất yếu nghèo đói sẽ diễn 
ra. Đến lượt nó khi nghèo đói đã ngự trị thì không thể cải thiện được sức 
khoẻ tốt hơn. Cái vòng luẩn quẩn giữa sức khoẻ và nghèo đói đòi hỏi phải 
giải quyết cả hai vấn đề là: giảm nghèo đói và cải thiện sức khoẻ. Để cải 
thiện được sức khoẻ của cộng động đặc biệt là đối với người có thu nhập 
thấp, gia đình khó khăn thì mạng lưới y tế và Bảo hiểm xã hội có vai trò 
quyết định. 
1.3.2.5. Nguyên nhân do hạ tầng cơ sở nông thôn được cải thiện 
chậm. 
 Do hậu quả chiến tranh kéo dài, thiên tai liên tiếp xảy ra ở nhiều 
vùng nên phần lớn đường xá nông thôn bị tàn phá và xuống cấp, trong 
khi đó nguồn kinh phí luôn thiếu vì vậy giao thông nông thôn nhiều nơi 
vẫn đang trong tình trạng khó khăn, không có khả năng để tu bổ hoặc 
làm mới. 
 Nhiều cơ sở dịch vụ nông nghiệp trước đây do hợp tác xã nông 
nghiệp đảm nhận cung cấp. Song vị trí hợp tác xác nông nghiệp ngày 
nay đã và đang hạn chế khả năng này bởi nguồn vốn tạo lập của hợp tác 
xã rất khó khăn. Nhìn chung hợp tác nông nghiệp ngày này là thiếu kinh 
phí và thường không đủ khả năng cung cấp các dịch vụ nông nghiệp cho 
dù họ có thu phí. Hạ tầng cơ sở nông thôn đặc biệt quan trọng với các 
vùng khí hậu khắc nghiệt, thiên tai thường xuyên xảy ra. Do trạm bơm 
và kênh mương thuỷ lợi chưa đáp ứng được, nên một số vùng lụt, mất 
mùa xảy ra thường xuyên. Vì vậy những vùng này thiếu ăn vẫn triền 
miên hết năm này qua năm khác. 
1.3.2.6. Nguyên nhân do có người trong gia đình mắc tệ nạn xã hội. 
 Từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, bên cạnh 
những mặt tích cực đáng kể thì những mặt tiêu cực cũng ngày càng rõ 
nét. Một trong những mặt tiêu cực đó là số người mắc tệ nạn xã hội 
ngày càng gia tăng như nghiện hút, cờ bạc, rượu chè... bên cạnh đó là 
tình trạng thương mại hoá tràn lan xâm nhập vào lĩnh vực y tế, văn hoá, 
giáo dục làm cho đời sống xã hội có những biểu hiện xuống cấp, đạo 
đức xa sút, tâm lý hưởng thụ tăng lên... Đó là những thói hư tật xấu luôn 
tiềm tàng và phát sinh đối với những người lười nhác lao động, ăn tiêu 
không có kế hoạch, không có ý thức vươn lên. Vì vậy nếu họ xuất thân 
trong gia đình khó khăn nghèo túng thì gia đình đó ngày càng khó khăn 
hơn, còn nếu họ xuất thân trong gia đình khá giả thì gia đình họ ngày 
càng đi xuống. Đó chính là con đường dẫn đến phá sản cơ nghiệp, chấp 
nhận cảnh bần cùng đói rách. Đau đớn hơn nó là sự huỷ hoại ghê gớm 
đạo đức, nhân văn của con người và gây ám ảnh sự sợ hãi cho toàn xã 
hội. 
1.3.2.7. Một số nguyên nhân khác. 
 Hậu quả của cuộc chiến tranh lâu dài đã làm cho hàng triệu gia 
đình ít nhiều phải lâm vào cảnh đói nghèo, bệnh tật (chất độc mầu da 
cam, bom mìn dưới đất...) 
 10
 Do ở nơi xa xôi, hẻo lánh, rừng sâu, núi cao, đảo xa thường không 
có đường ô tô và các phương tiện giao thông thuận tiện cho việc giao lưu 
kinh tế, văn hoá, xã hội. Mặt khác do không có hoặc thiếu, chậm thông tin 
về các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội (Kể cả ở địa phương, 
khu vực, quốc gia và quốc tế). Trong khi đó, phong tục tập quán và những 
hủ tục lạc hậu còn khá nghiêm trọng. 
 Trình độ dân trí, trình độ văn hoá thấp, số người chưa biết chữ còn 
nhiều, hạn chế khả năng tiếp thu khoa học kỹ thuật, cách làm ăn mới. 
 Các cơ chế và chính sách đối với người nghèo chưa đồng bộ, còn 
chồng chéo với chính sách xoá đói giảm nghèo, đặc biệt là chưa thực 
hiện được chính sách xã hội hoá trong việc thực hiện chương trình xoá 
đói giảm nghèo. 
 Từ những nguyên nhân trên cho thấy việc xoá đói giảm nghèo 
không chỉ tiến hành riêng rẽ một hai giải pháp nào đó mà phải xử lý 
đồng thời tất cả các giải pháp trọng tâm, trọng điểm. 
1.4. Khái nhiệm và những chuẩn mực về đói nghèo. 
 Có nhiều quan niệm khác nhau về đói nghèo. Quan niệm chung 
nhất cho rằng: Đói nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không có đủ 
những nhu cầu cơ bản tối thiểu của cuộc sống như ăn, mặc, ở, vệ sinh, y 
tế, giáo dục... Tình trạng đói nghèo ở mỗi quốc gia đều có sự khác nhau 
về mức độ và số lượng, thay đổi theo không gian và thời gian. Người 
nghèo của quốc gia này có thể có mức sống cao hơn mức sống trung 
bình của quốc gia khác. Bởi vậy nhìn nhận và tổ chức thực hiện vấn đề 
xoá đói giảm nghèo một cách đầy đủ và có căn cứ cần tham khảo khái 
niệm, chỉ tiêu, chuẩn mực đánh giá đói nghèo của thế giới. 
1.4.1. Khái niệm, chỉ tiêu và chuẩn mực đánh giá nghèo đói của 
thế giới 
1.4.1.1. Khái niệm đói nghèo của thế giới. 
 Thế giới thường dùng khái niệm nghèo khổ mà không dùng khái 
niệm đói nghèo như ở Việt Nam và nhận định nghèo khổ theo 4 khía 
cạnh là thời gian, không gian, giới và môi trường. 
 Về thời gian: Phần lớn người nghèo khổ có mức sống dưới mức 
"chuẩn" trong một thời gian dài. Cũng có người nghèo khổ "tình thế" chẳng 
hạn như những người thất nghiệp, những người mới nghèo do suy thoái 
kinh tế hoặc do thiên tai, tệ nạn xã hội, rủi ro. 
 Về không gian: Nghèo đói diễn ra chủ yếu ở nông thôn nơi có 3/4 
dân số sinh sống. Tuy nhiên tình trạng đói nghèo ở thành thị, trước hết là ở 
các nước đang phát triển cũng có xu hướng gia tăng. 
 Về giới: Người nghèo là phụ nữ đông hơn nam giới. Nhiều hộ gia 
đình nghèo nhất do phụ nữ là chủ hộ. Trong các hộ nghèo đói do đàn 
ông làm chủ thì phụ nữ khổ hơn nam giới. 
 Về môi trường: Phần lớn người thuộc diện đói nghèo đều sống ở 
những vùng sinh thái khắc nghiệt mà ở đó tình trạng đói nghèo và sự 
xuống cấp về môi trường đều đang ngày càng trầm trọng thêm. 
 11
 Từ nhận dạng trên, Liên Hiệp Quốc đưa ra hai khái niệm chính về 
đói nghèo như sau: 
 Nghèo tuyệt đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư không được 
hưởng những nhu cầu cơ bản tối thiểu để duy trì cuộc sống. 
 Nghèo tương đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư không được 
hưởng đầy đủ những nhu cầu cơ bản tối thiểu. Nhu cầu cơ bản tối thiểu 
cho cuộc sống là những đảm bảo ở mức tối thiểu về ăn, mặc, ở, y tế, 
giáo dục... Ngoài những đảm bảo trên, cũng có ý kiến cho rằng, nhu cầu 
tối thiểu bao gồm có quyền được tham gia vào các quyết định của cộng 
đồng. 
1.4.1.2. Chỉ tiêu đánh giá đói nghèo của thế giới. 
 Chỉ tiêu đánh giá sự đói nghèo của một quốc gia bắt đầu từ việc 
vạch ra giới hạn đói nghèo. Khi đánh giá nước giàu, nước nghèo, giới 
hạn đói nghèo được biểu hiện bằng chỉ tiêu chính là thu nhập quốc dân 
bình quân đầu người (GDP). 
 Một số nhà nghiên cứu cho rằng, chỉ căn cứ và chỉ tiêu thu nhập 
thì chưa đủ để đánh giá. Vì vậy bên cạnh chỉ tiêu này, tổ chức hội đồng 
phát triển hải ngoại (ODC) đưa ra chỉ số chất lượng vật chất của cuộc 
sống (PQLI). Căn cứ để đánh giá chỉ số PQLI bao gồm 3 chỉ tiêu cơ bản 
đó là: tuổi thọ, tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh, tỷ lệ xoá mù chữ. 
 Gần đây tổ chức UNDP đưa ra thêm chỉ số phát triển con người 
(HDI) bao gồm 3 chỉ tiêu sau: Tuổi thọ, tình trạng biết chữ của người 
lớn, thu nhập. 
 Căn cứ vào 3 chỉ tiêu này UNDP đánh giá Việt Nam đứng thứ 
121/175 nước trên thế giới (Tài liệu công bố năm 1997). Như vậy chỉ tiêu 
đánh giá nước giàu, nước nghèo của các quốc gia vẫn căn cứ vào chỉ tiêu 
thu nhập quốc dân bình quân đầu người là chính. Khi kết hợp với các chỉ 
số PQLI hay HDI chỉ bổ sung cho việc nhìn nhận các nước giàu nghèo 
chính xác hơn, khách quan hơn. 
 Về hộ nghèo: Giới hạn đói nghèo biểu hiện dưới hai dạng chỉ tiêu 
thu nhập quốc dân bình quân tính theo đầu người nằm dưới giới hạn 
nghèo được coi là hộ nghèo. Quy mô nghèo từng vùng của một quốc gia 
được xác định bằng tỷ lệ số hộ nghèo đói trên tổng số hộ dân cư thuộc 
vùng hoặc quốc gia đó. 
1.4.1.3. Chuẩn mức đói nghèo của thế giới. 
 Nói chung quan niệm của nhiều nước cho rằng hộ nghèo có mức thu 
nhập dưới 1/3 mức thu nhập trung bình của toàn xã hội. Với quan niệm này, 
hiện trên thế giới có khoảng 1,12 tỷ người (20%) đang sống trong tình trạng 
nghèo khổ tức là sống dưới 420 USD người/năm hoặc 35 USD/người/tháng 
mà ngân hàng thế giới đã ấn định (2) 
 - Các nước phát triển: Lấy Mỹ làm đại diện cho các nước phát 
triển. Năm 1992 Mỹ lấy chuẩn mực một người trong hộ có thu nhập bình 
quân tháng dưới 71 USD là người nghèo khổ (852 USD/năm). 
 12
 - Các nước đang phát triển. Mỗi nước có một chuẩn mực khác 
nhau: Pakitstan là 6 USD/ người/ tháng, Indonexia 6 USD/ người/ tháng, 
Malayxia 28 USD/người/tháng, Nêpan 9 USD/người/tháng. 
 - Cũng có những nước dùng chỉ tiêu Kalory/người/ngày như 
Bănglađét dưới 1650 kalory/người/ngày, các nước công nghiệp ở Châu 
Âu 2570 kalory/người/ngày, Châu Đại Dương 2.660 kalory/ người/ 
ngày, Châu Phi 2.340 kalory/người/ngày. 
1.4.2 Khái niệm, chỉ tiêu và chuẩn mực đánh giá hộ đói nghèo ở 
Việt Nam. 
1.4.2.1. Khái niệm. 
 Tách riêng đói và nghèo không khái nhiệm chung như thế giới. 
 - Nghèo: là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có điều kiện thoả 
mãn một phần các nhu cầu tối thiểu cơ bản của cuộc sống và có mức 
sống thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương 
diện. Nghèo gồm 2 dạng: 
 + Nghèo tuyệt đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư không có 
khả năng thoả mãn các nhu cầu tối thiểu nhằm duy trì cuộc sống. Nhu 
cầu tối thiểu là những đảm bảo ở mức tối thiểu, những nhu cầu thiết yếu 
về ăn, mặc và nhu cầu sinh hoạt hàng này gồm văn hoá, y tế, giáo dục, 
đi lại, giao tiếp. 
 + Nghèo tương đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống 
dưới mức trung bình của cộng đồng tại địa phương đang xét. 
 - Đói: Là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới 
mức tối thiểu và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy 
trì cuộc sống. Đó là những hộ dân cư hàng năm thiếu ăn đứt bữa từ 1 
đến 2 tháng, thường vay nợ của cộng đồng và thiếu khả năng chi trả. 
1.4.2.2. Chỉ tiêu đánh giá hộ nghèo của Việt Nam. 
 - Chỉ tiêu chính: Thu nhập bình quân 1 người một tháng (hoặc năm) 
được đo bằng chỉ tiêu giá trị hay hiện vật quy đổi, thường lấy lương thực 
(gạo) tương ứng một giá trị nhất định về giá cả. 
 Khái nhiệm thu nhập ở đây được hiểu là thu nhập thuần tuý (tổng 
thu trừ đi tổng chi phí sản xuất). Song cần nhấn mạnh chỉ tiêu thu nhập 
bình quân nhân khẩu tháng là chỉ tiêu cơ bản nhất để xác định mức đói 
nghèo. 
 - Chỉ tiêu phụ: Là dinh dưỡng bữa ăn, nhà ở, mặc và các điều 
kiện học tập chữa bệnh đi lại... 
1.4.2.3. Chuẩn mực xác định đói nghèo của Việt Nam 
 ở nước ta, tiêu chuẩn và thước đo để xác định ranh giới nghèo đói 
hiên nay đang còn nhiều ý kiến khác nhau. Tuy vậy căn cứ và thu nhập 
biểu hiện bằng tiền vẫn là chỉ tiêu cơ bản để phản ánh mức sống. Bên 
cạnh đó do điều kiện giá cả không ổn định nên cần phải sử dụng cả hình 
thức hiện vật, phổ biến là quy ra gạo làm tiêu chuẩn. Việc sử dụng hình 
thức hiện vật quy ước này có tác dụng là loại bỏ được yếu tố giá cả, từ 
đó có thể so sánh mức thu nhập của người dân theo thời gian và không 
gian đơn giản, thuận tiện hơn. Đặc biệt là đối với người nghèo nói 
 13
chung và nông dân nghèo nói riêng, chỉ tiêu số lượng gạo bình quân một 
người một tháng là có ý nghĩa và rất thực tế bởi vì nhu cầu thiết yếu đầu 
tiên là đảm bảo đủ gạo ăn. Chuẩn mực đói nghèo ở nước ta được quy 
định tại thông báo số 1751/LĐTBXH ngày 20/5/1997 của Bộ lao động 
thương bình và xã hội như sau: 
 Hộ đói: Là hộ có mức thu nhập bình quân đầu người dưới 13 Kg 
gạo/người/tháng, tương đương 45 ngàn đồng (tính cho mọi vùng). 
 Hộ nghèo: Phân theo 3 vùng có mức thu nhập như sau. 
 - Vùng nông thôn miền núi hải đảo là hộ có thu nhập dưới 15Kg 
gạo/người/tháng, tương đương 55 ngàn đồng. 
 - Vùng nông thôn đồng bằng trung du là hộ có thu nhập bình quân 
dưới 20Kg gạo/người/tháng, tương đương với 70 ngàn đồng 
 - Vùng thành thị là hộ có thu nhập bình quân dưới 25Kg 
gạo/người/tháng, tương đương với 90 ngàn đồng. 
 Trong thời kỳ 1992-2000 do điều kiện kinh tế, xã hội của nước ta 
chưa cho phép, nên chúng ta phải áp dụng chuẩn nghèo thấp, chủ yếu là 
giải quyết vấn đề ăn (tương đương với chuẩn nghèo về lương thực của 
quốc tế). Trong năm, mười năm tới, phấn đấu nâng chuẩn nghèo lên 
khoảng 1,5 - 3 lần so với chuẩn cũ. Trên cơ sở nghiên cứu, khảo sát thực 
tế và sau khi thảo luận thống nhất của các bộ ngành, đoàn thể trung 
ương, các tỉnh, thành phố, ngày 01/11/2000. Bộ lao động - Thương binh 
và xã hội đã ban hành quyết định số 1143/2000/QĐ-LĐTBXH điều 
chỉnh chuẩn hộ nghèo từ năm 2001 như sau: 
 - Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: 80.000đồng/tháng, 960.000 
đồng/năm. 
 - Vùng nông thôn đồng bằng: 100.000đồng/tháng, 1.200.000 
đồng/năm. 
 - Vùng thành thị: 150.000đồng/tháng, 1.800.000đồng/năm 
1.5. Các kênh hỗ trợ vốn cho người nghèo trong điều kiện ở nước ta 
1.5.1. Tổng quan về vốn. 
1.5.1.1. Khái niệm vốn. 
 Trong bộ tư bản, Mác đã khái quát hoá phạm trù vốn thông qua 
phạm trù tư bản. Theo Mác, tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư 
qua quá trình vận động của nó (T - H - SX - H - T) 
 Trong điều kiện hiện nay, quan điểm của Mác cần hiểu như sau: 
 Thứ nhất: Tư bản là giá trị. Điều đó có nghĩa là vốn được biểu 
hiện bằng một lượng giá trị nhất định. 
 Thứ hai: Vốn là một lượng giá trị mang lại giá trị thặng dư. Tức là 
chỉ lượng giá trị nào sau quá trình đầu tư sản xuất, kinh doanh đem lại giá 
trị thặng dư mới được gọi là vốn. Lượng giá trị "nằm im" và "bất động" 
không tạo ra giá trị thặng dư không được gọi là vốn. 
 Từ sự nhận thức trên ta có thể đưa ra khái nhiệm tổng quát về vốn 
như sau: 
 14
 Vốn là một lượng giá trị tài sản xã hội (tài sản hữu hình và tài sản 
vô hình) được dùng vào đầu tư kinh doanh nhằm thu được hiệu quả kinh 
tế - xã hội. 
1.5.1.2. Các đặc trưng của vốn. 
 Trong điều kiện hiện nay vốn có các đặc trưng sau đây. 
 Một là: Vốn được biểu hiện bằng một lượng giá trị thực của những 
tài sản hiện vật (như nguyên nhiên vật liệu, phụ tùng...) được đưa vào sử 
dụng để sản xuất ra một lượng giá trị sản phẩm khác. Trong trường hợp 
này ta gọi là vốn hiện vật. 
 Hai là: Vốn được biểu hiện bằng tiền (Tiền giấy nội tệ, ngoại tệ, 
tiền vàng, và các chứng chỉ có giá trị như tiền) được đầu tư kinh doanh 
với mục đích sinh lời nó. Trường hợp này ta gọi là vốn tài chính. 
 Ba là: Vốn không chỉ được biểu hiện bằng giá trị của những tài 
sản hữu hình như vốn hiện vật, tiền, nhân lực (gọi là vốn hữu hình) mà 
vốn còn bao gồm cả giá trị của những tài sản vô hình chẳng hạn như 
chất xám, phát minh, giá trị nghệ thuật (gọi là vốn vô hình) 
 Bốn là: Vốn là hàng hoá đặc biệt được đưa vào lưu thông trên thị 
trường vốn. Trong quá trình lưu thông, vốn sinh lời (T-T') vì vậy vốn 
phải đưa vào lưu thông và cần phải tạo môi trường cho lưu thông vốn 
(thị trường tiền tệ, thị trường tài chính). 
 Năm là: Do phương thức chu chuyển, vốn có thể chia ra hai loại 
khác nhau đó là vốn ngắn hạn và vốn dài hạn. Vốn dài hạn là vốn có 
mục đích sử dụng trên một năm hay còn gọi là vốn đầu tư. 
1.5.2. Vốn cho người nghèo và các kênh hỗ trợ vốn cho người nghèo 
1.5.2.1. Đặc điểm vốn hỗ trợ cho người nghèo. 
 Ngoài những đặc điểm chung của vốn thì vốn hỗ trợ cho người 
nghèo thể hiện rõ các đặc điểm riêng sau: 
 - Vốn hỗ trợ cho người nghèo luôn gắn liền với sự rủi ro và mất 
vốn. Có người đã nói "cấp vốn cho người nghèo là cấp rủi ro". Quả 
thực, ông cha ngày xưa cũng đã có câu "tiền vào nhà khó như gió vào 
nhà trống", đa số người nghèo do sử dụng vốn trong hoàn cảnh túng 
quẫn đã bị động nên hiệu quả sử dụng vốn thường không đạt theo ý 
muốn của họ. Thậm chí do thiếu đói người nghèo đã biến vốn hỗ trợ 
thành vốn cứu tế tức thì cho bản thân họ. Mặt khác, nếu rủi ro mất vốn 
họ thường rơi vào tình trạng "trắng tay", nợ nần, khó tìm ra nguồn vốn 
để bù đắp ngoài sự đảm bảo bằng thân xác, đói rách bần cùng. 
 - Vốn hỗ trợ người nghèo cho dù được thực hiện bởi một kênh nào 
(trợ cấp cứu tế, cho vay, cho mượn...) đều phải thể hiện tính tài trợ của 
Nhà nước và cộng đồng cho họ. Trường hợp không được cấp bằng cứu 
tế thì phải cho vay lãi suất thấp hơn so với thị trường. Tức là vốn hỗ trợ 
cho người nghèo phải thực thi vị trí phi thị trường. Song rõ ràng để Nhà 
nước làm được việc này là rất khó. Bởi vậy phải có trách nhiệm của cộng 
đồng để tạo ra nguồn vốn đảm bảo tính khả dụng cho người nghèo. Hay 
nói cách khác đặc điểm vỗn hỗ trợ cho người nghèo là nguồn vốn tổng hợp 
và đa dạng. 
 15
 - Để hỗ trợ vốn cho người nghèo có kết quả thì không chỉ hỗ trợ 
vốn bằng tiền (hoặc hiện vật quy ra tiền) mà còn hỗ trợ "vốn" kiến thức, 
việc làm, môi trường làm ăn và nhiều hỗ trợ khác. Bởi vậy đặc điểm của 
vốn hỗ trợ người nghèo có sự vận động ăn nhịp tổng thể các mối quan 
hệ kinh tế xã hội khác. 
1.5.2.2. Các kênh dẫn vốn cho người nghèo 
 Trung tâm của bất kỳ mô hình tài chính nào trong nền kinh tế cũng 
đòi hỏi hoạt động của những "kênh dẫn" mà thông qua đó, vốn của 
những khoản tiết kiệm sẽ chuyển thành những khoản nợ của người sử 
dụng. Tuy nhiên do nhiều loại mô hình tài chính khác nhau và đa dạng 
(kênh chính thức hoặc không chính thức) nên tính chất và hiệu quả của 
các kênh dẫn vốn cũng khác nhau. 
 Vốn hỗ trợ cho người nghèo ở nước ta trong thời gian vừa qua chủ 
yếu từ các kênh sau: 
 Thứ nhất: Hệ thống tài chính Nhà nước các cấp hỗ trợ cho người 
nghèo, hộ nghèo với các nội dung sau: 
 Ngân sách trợ cấp hỗ trợ khắc phục thiên tai. 
 Ngân sách trợ cấp các vùng nghèo, xã nghèo để đầu tư hạ tầng xã 
hội sản xuất, trợ giá, trợ cước cho miền núi, vùng cao cho đồng bao dân 
tộc nói chung trong đó có người nghèo. 
 Các khoản chi khác của ngân sách Nhà nước cho các mục tiêu mà 
thông qua đó, tác dụng của nó cải thiện đáng kể tình hình đói nghèo. 
 Thứ hai: Hệ thống kho bạc Nhà nước với 61 kho bạc tỉnh (thành 
phố) và trên 600 kho bạc cấp huyện, quận, thị xã thực hiện cho vay theo 
các chương trình của Chính phủ (chương trình theo Nghị quyết 
120/HĐBT, theo quyết định 327/CP...). Đối tượng vay vốn của chương 
trình không phải là hộ nghèo mà thông qua cho vay, các dự án để thu 
hút lao động và tăng thu nhập, trong đó cho một số hộ người nghèo. 
 Ba là: Hệ thống các ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng 
phục vụ người nghèo, các ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn và 
đô thị, các hợp tác xã tín dụng và quỹ tín dụng nhân dân. Trong đó ngân 
hàng phục vụ người nghèo là lòng cốt hỗ trợ vốn cho các hộ nghèo. 
 Thứ tư: Các đoàn thể, hiệp hội và các tổ chức xã hội với hàng trăm 
tổ chức theo mô hình khác nhau. Trong đó có nhiều tổ chức hoạt động 
tín dụng theo quy ước riêng của mình như quỹ xoá đói giảm nghèo của 
Hội liên Hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam... 
 Thứ năm: Các doanh nghiệp tài trợ vốn cho các hộ nghèo thông 
qua các hình thức ứng trước vốn cho nông dân sản xuất và thu nợ bằng 
chính sản phẩm của họ. 
 Thứ sáu: Các tổ chức quốc tế Chính phủ và phi Chính phủ tài trợ 
thông qua các chương trình nhân đạo, giải quyết việc làm... tài trợ này 
bao gồm cho vay có hoàn trả và viện trợ không hoàn lại. 
 Thứ bảy: Các nhóm, tổ, phường, họ tương trợ tiết kiệm trong cộng 
đồng dân cư tự nguyện thành lập và hỗ trợ vốn cho nhau làm ăn theo 
 16
quy định riêng. Ngoài ra còn các hoạt động tín dụng không chính thức 
khác của tư nhân hoạt động ngầm. 
 Các tổ chức dẫn vốn nói trên có đặc trưng chung là sử dụng 
phương thức tài chính tài trợ cấp phát hoặc tài chính tài trợ hoàn trả, các 
kênh dẫn vốn áp dụng thủ tục cho vay, phạm vi cho vay và mức lãi suất 
rất khác nhau, tuỳ theo tính chất nguồn vốn và quan điểm tổ chức thực 
hiện dẫn vốn. Cách tiếp cận với người nghèo và quan điểm xử lý của các 
tổ chức ngoài khu vực tài chính Nhà nước và ngân hàng rất khác nhau. 
Có hình thức cho vay trực tiếp đến với người nghèo, có hình thức thông 
qua trung gian. Nhìn chung tài trợ vốn cho người nghèo vay vốn còn 
nhiều hạn chế, đang là nguyên nhân bất ổn định trên thị trường tài chính 
- tín dụng ở nước ta. 
 17
Chương II 
Thực trạng việc tạo lập và sử dụng vốn hỗ trợ cho người nghèo ở nước 
ta trong thời gian vừa qua - kinh nghiệm một số nước trên thế giới cho 
người nghèo vay vốn và sự vận dụng vào Việt Nam. 
2.1. Thực trạng đói nghèo ở nước ta. 
 Việt Nam là một nước nghèo, thu nhập bình quân đầu người là một 
trong các nước thấp nhất thế giới (năm 2000 mới đạt khoảng 380 USD). 
Tỷ lệ đói nghèo còn cao, theo chuẩn quốc gia thì tỷ lệ đói nghèo năm 
1992 là trên 30%, năm 1998 là 15,7%, năm 1999 là 13% và năm 2000 là 
11% như vậy tính bình quân mỗi năm giảm được 250.000 - 300.000. 
Theo đánh giá của ngân hàng thế giới thông qua điều tra mức sống dân 
cư Việt Nam, tỷ lệ đói nghèo năm 1993 là trên 58%, năm 1998 là 37% 
và năm 2000 là khoảng 30%. 
 Đói nghèo tập trung chủ yếu ở khu vực nông thôn (khoảng 90% 
trong tổng số hộ nghèo đói của cả nước). Một số vùng, khu vực, đặc biệt 
vùng đồng bào dân tộc, khu căn cứ cách mạng, biên giới, hải đảo, tỷ lệ 
hộ đói nghèo rất cao. ở khu vực thành thị tỷ lệ hộ đói nghèo tuy thấp 
hơn, song chủ yếu là số dân mới nhập cư. Miền núi phía Bắc, vùng Bắc 
trung bộ và Tây Nguyên là những khu vực luôn có tỷ lệ hộ nghèo đói 
cao nhất. 
 Sự phân cực giàu nghèo có chiều hướng gia tăng. Kết quả điều tra 
cho thấy: Mức chênh lệch về thu nhập khi so sánh 20% nhóm hộ có thu 
nhập cao nhất với 20% nhóm hộ có thu nhập thấp nhất ở vùng nông thôn 
là 7,3 lần (năm 1996) tăng lên 11 lần (năm 2000). Hệ số chênh lệch mức 
sống giữa dân cư thành thị và nông thôn khoảng 5 -7 lần, mức thu nhập 
bình quân đầu người ở nông thôn so với thành thị hiện nay chỉ bằng 
khoảng 50%. 
 Một số chỉ tiêu về cải thiện đời sống đạt được còn thấp so với mục 
tiêu đề ra, đặc biệt là chỉ tiêu về tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản. 
Năm 2000, số trẻ em suy dinh dưỡng vẫn còn 33%, phần lớn là thuộc 
các gia đình nghèo, tỷ lệ phát triển dân số ở nhóm người nghèo cao (trên 
mức trung bình 1,5% của cả nước), tỷ lệ người biết chữ ở vùng cao, 
vùng sâu, vùng xa mới đạt khoảng 50%, ở nông thôn chỉ khoảng 42% số 
hộ gia đình được dùng nước sạch và 20% có hố xí hợp vệ sinh. 
 Hàng năm số người phải cứu trợ đột xuất do thiên tai, bão lụt, hạn 
hán, mất mùa khoảng từ 1 - 1,2 triệu người, tập trung chủ yếu ở các tỉnh 
miền Trung và miền núi phía Bắc. Bình quân hàng năm có khoảng 
20.000 - 25.000 hộ tái nghèo đói. 
ở một số vùng có những nguyên nhân dẫn đến nghèo đói rất đặc 
thù. Vùng miền núi, đồng bào dân tộc thiểu số chủ yếu là do điều kiện 
địa lý phức tạp và khó khăn, cơ sở hạ tầng thiếu và yếu kém, trình độ 
học vấn thấp, sinh đẻ nhiều, tập quán canh tác và tập tục lạc hậu, khó 
tiếp cận thông tin; vùng đồng bằng sông Hồng do đông dân, thiếu đất; 
vùng đồng bằng sông Cửu Long do chuyển nhượng ruộng đất nên 
 18
khoảng 10 - 12% tổng số hộ nông dân nghèo mất đất sản xuất; vùng 
Duyên Hải miền Trung thường xuyên bị thiên tai, bão lụt. 
2.2 Tình hình tạo lập và sử dụng vốn cho người nghèo ở nước ta 
trong thời gian vừa qua 
 2.2.1. Hỗ trợ vốn từ nguồn ngân sách Nhà nước. 
 Hiện nay hỗ trợ vốn từ ngân sách Nhà nước cho mục tiêu xoá đói 
giảm nghèo bao gồm: Vốn giải quyết việc làm (chương trình 120), vốn 
thực hiện chương trình phủ xanh đất chống đồi núi trọc (chương trình 
327) vốn thực hiện chương trình phát triển kinh tế xã hội ở các xã đặc 
biệt khó khăn (chương trình 135), các khoản trợ cấp thiên tai và hỗ trợ 
phát triển nông thôn khác... trong đó nòng cốt là vốn giải quyết việc 
làm, vốn chương trình 135, vốn chương trình 327. 
Nhìn chung một số chương trình, dự án gắn với xoá đói giảm 
nghèo thời gian vừa qua được lồng ghép với nhau. Các chương trình và 
dự án gồm một số mục tiêu hướng vào việc nâng cao mức sống nói 
chung. Song nhìn tổng thể, từng chương trình và dự án có một tác động 
nhất định đến việc hỗ trợ cho người nghèo, vùng nghèo ở nước ta 
2.2.1.1. Vốn giải quyết việc làm thực hiện qua kho bạc Nhà nước. 
 Việt Nam là một trong số các nước phát triển dân số nhanh, đầu 
thế kỷ mới chỉ có 12 - 13 triệu người, hiện nay là gần 80 triệu người, tỷ 
lệ tăng dân số nhanh dẫn đến sức ép về việc làm ngày càng tăng và bức 
bách. Vì vậy giải quyết việc làm cho người lao động ở nước ta đang là 
một nhiệm vụ trọng tâm, vừa cấp bách mang tính chất tình thế, vừa cơ 
bản lâu dài mang tính chiến lược. Để thực hiện mục tiêu này có nhiều 
giải pháp khác nhau, trong đó lập Quỹ quốc gia giải quyết việc làm theo 
tinh thần Nghị quyết số 120/HĐBT (nay là Chính phủ) ngày 11/4/1992 
là một giải pháp hết sức quan trọng nhằm thực hiện các mục tiêu chủ 
yếu sau đây: 
 - Hỗ trợ vốn dưới hình thức cho vay tài trợ cho các tổ chức, đơn vị 
kinh tế, hộ gia đình để phát triển và mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo 
thêm việc làm mới, phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế và sử 
dụng có hiệu quả mọi nguồn lực quốc gia, cải thiện đời sống cho người 
lao động. 
 - Hỗ trợ một phần về tài chính dưới hình thức cấp phát cho các 
trung tâm dạy nghề và xúc tiến việc làm để đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao 
tay nghề, thực hiện các chương trình dạy nghề gắn liền với sản xuất và 
các chương trình khác. 
 - Chương trình quốc gia giải quyết việc làm của nước ta là một bộ 
phận của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, với mục tiêu góp phần thúc 
đẩy kinh tế tăng trưởng và giải quyết việc làm, một vấn đề mà mọi nền 
kinh tế đều phải quan tâm giải quyết. 
 Qua 8 năm hoạt động, chương trình đã đạt được những kết quả khả 
quan, góp phần ổn định tình hình kinh tế xã hội và kích thích tăng 
trưởng kinh tế cụ thể trên các mặt sau đây: 
 19
 Qua bảng số 1 ta thấy từ nguồn vốn được ngân sách Nhà nước cấp 
từ năm 1992 đến 31/12/2000 là 1414 tỷ đồng trong đó vốn cân đối trong 
kế hoạch ngân sách Nhà nước là 1289 tỷ đồng và vốn viện trợ nhân đạo 
của Chính phủ Tiệp Khắc (cũ) là 125 tỷ đồng; hệ thống kho bạc Nhà 
nước trực thuộc Bộ tài chính đã thực hiện cho vay hàng nghìn dự án với 
doanh số 4261 tỷ đồng, giải quyết việc làm cho 3.506.602 người lao 
động, bình quân mỗi năm tạo được việc làm cho khoảng 20-25% tổng số 
lao động cần được giải quyết. 
 Vốn vay quỹ quốc gia giải quyết việc làm là một biện pháp tài 
chính quan trọng để kích thích sản xuất, điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế, 
tận dụng các điều kiện sẵn có về kỹ thuật, kinh nghiệm sản xuất, góp 
phần thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế khu vực nông thôn. Từng 
bước chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi theo hướng phát triển các 
loại cây con có giá trị kinh tế cao phục vụ xuất khẩu, khôi phục và phát 
triển các ngành nghề truyền thống, các ngành nghề thu hút nhiều lao 
động như sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, chế biến, may mặc, cơ khí, 
sản xuất vật liệu xây dựng... 
 Thông qua quỹ quốc giải quyết việc làm, người lao động đã tạo 
được việc làm có thu nhập, đời sống vật chất tinh thần được nâng cao. 
Nhiều người đã chủ động bỏ vốn đầu tư kinh doanh, dám nghĩ dám làm, 
vươn lên làm giàu cho mình và cho xã hội. 
 Đặc biệt là các dự án vay vốn của các tổ chức đoàn thể quần chúng 
như: Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Mặt trận tổ quốc, Hội cựu chiến 
binh... có ý nghĩa rất quan trọng, làm phong phú thêm các hoạt động 
mang tính chất kinh tế - xã hội. Cũng từ hoạt động của quỹ quốc gia giải 
quyết việc làm, các tổ chức này đã lồng ghép vào các chương trình xã 
hội khác một cách có hiệu quả như các chương trình "dân số - sức khoẻ 
- môi trường", chương trình phòng chống các tệ nạn xã hội, chương 
trình phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình, phong trào thanh niên lập 
nghiệp... 
 Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động những năm qua, quỹ cho vay giải 
quyết việc làm đã bộc lộ và nảy sinh một số tồn tại. Các tồn tại và 
nguyên nhân dẫn đến là: 
 Thứ nhất: Việc duyệt dự án cho vay của Ban chỉ đạo địa phương 
còn chậm, bên cạnh đó việc thẩm định cấp tín dụng của kho bạc Nhà 
nước có lúc chưa kịp thời. Nhiều dự án nhận tiền vay mất cơ hội đầu tư. 
 Thứ hai: Công tác quản lý vốn vay của các chủ dự án còn buông 
lỏng thiếu sự kiểm tra việc sử dụng vốn của từng hộ - một trong những 
nguyên nhân gây ra hiệu quả sử dụng vốn còn thấp... 
 Thứ ba: Qua số liệu biểu số 1 cho biết, tính đến cuối năm 2000, 
ngân sách Nhà nước đã sử dụng 4261 tỷ đồng để cấp tín dụng tạo việc là 
cho 3.506.602 người. Bình quân suất vốn đầu tư chỉ chiếm xấp xỉ 
1.300.000 đồng trên một việc làm mới là rất thấp. Con số này theo tính 
toán của các chuyên gia kinh tế là trên 5 triệu đồng cho một việc làm 
mới. 
 20
 Thứ tư: Nợ quá hạn cho vay có xu hướng gia tăng: năm 1999 là 
12,9% dư nợ nhưng năm 2000 chiếm 13,8%. Nguyên nhân tình trạng nợ 
quá hạn ngày càng gia tăng có thể có nhiều vừa chủ quan, vừa khách 
quan. Ngoại trừ yếu tố khách quan như thiên tai, rủi ro... thì không ít 
nguyên nhân do chủ quan của phía các chủ thể điều hành, xét duyệt các 
dự án. Thủ tục cấp tín dụng qua nhiều khâu, nhiều công đoạn đã tưởng 
chừng như chặt chẽ nhưng thực chất là phức tạp, hình thức sơ hở trong 
nội dung. Trong khi có nhiều thành viên tham gia quản lý nguồn vốn 
nhưng trách nhiệm không xuyên suốt. Qua khảo sát nhiều địa phương 
cho thấy việc xét duyệt dự án thường do ngành lao động đảm nhận. 
Những kiểm tra vốn vay và thu nợ dành riêng cho khobạc Nhà nước 
"ôm" trọn gói. Đã nhiều trường hợp nợ qúa hạn phát sinh, kho bạc phải 
"vác cặp đi xin" ý kiến của bạn chỉ đạo và nhờ sự ủng hộ của các thành 
viên xét cấp vốn. Một nguyên nhân khác cần được quan tâm và lý giải là 
do áp dụng lãi suất (hiện nay là 0,5%/tháng) cho vay ưu đãi dẫn đến 
không khuyến khích người vay trả nợ. Thậm chí một số người vay còn 
cho rằng thà chịu trả lãi suất nợ quá hạn 0,5%/tháng còn hơn là trả rồi đi 
vay ngân hàng chịu lãi suất 0,7 - 0,8%/tháng. 
 Thứ năm: Địa bàn tiếp cận của chương trình tín dụng tạo việc làm 
quá rộng, trong khi đội ngũ nhân sự làm tín dụng của hệ thống kho bạc 
lại quá mỏng, chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. 
 Thứ sáu: Nguồn vốn ngân sách Nhà nước chuyển cho chương 
trình quốc gia giải quyêt việc làm hàng năm có hạn bởi do chưa đủ cân 
đối ngân sách Nhà nước. Trong khi đó nhu cầu dự án ngày càng lớn, làm 
cho vốn cho vay dàn quá mỏng, không đáp ứng được những dự án có 
hiệu quả thu hút nhiều lao động. 
2.2.1.2. Vốn thực hiện chương trình phát triển kinh tế xã hội ở 
các xã đặc biệt khó khăn (gọi tắt là chương trình 135) 
 Sau 10 năm đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ 
trương, chính sách, chương trình, dự án và các giải pháp nhằm đẩy 
nhanh nhịp độ phát triển kinh tế xã hội, giữ vững an ninh quốc phòng, 
tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc. Bên cạnh những chủ trương, 
chính sách chung của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế xã hội 
vùng đồng bào dân tộc miền núi, ngày 31/07/1998, thủ tướng chính phủ 
đã có quyết định 135/1998/QĐ-TTg phê duyệt chương trình phát triển 
kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi, vùng sâu và vùng xa 
(gọi tắt là chương trình 135). Đây là một chương trình được cụ thể hoá 
từ nội dung Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng thành một chương trình 
kinh tế xã hội tổng hợp để vực dậy vùng khó khăn nhất của đất nước ta 
với mục tiêu tổng quát là "Nâng cao nhanh đời sống vật chất tinh thần 
cho đồng bào các dân tộc ở các xã đặc biệt khó khăn miền núi vùng sâu, 
vùng xa; tạo điều kiện để đưa nông thôn các vùng này thoát khỏi tình 
trạng nghèo nàn, lạc hậu, chậm phát triển, hoà nhập vào sự phát triển 
chung của cả nuớc; góp phần đảm bảo trật tự an toàn xã hội, an ninh 
quốc phòng". Mục tiêu của chương trình gồm 2 giai đoạn: 
 21
 Giai đoạn từ 1998 - 2000: về cơ bản không có hộ đói kinh niên, 
mỗi năm giảm được 4 - 5% hộ đói nghèo. Bước đầu cung cấp cho đồng 
bào nước sinh hoạt, thu hút phần lớn trẻ em trong độ tuổi đến trường, 
kiểm soát được một số dịch bệnh hiểm nghèo; có đường giao thông dân 
sinh đến các trung tâm cụm xã và phần lớn đồng bào được hưởng thụ 
văn hoá thông tin. 
 Giai đoạn từ 2001-2005: giảm tỷ lệ hộ đói nghèo ở các xã đặc biệt 
khó khăn xuống còn 25% vào năm 2005. Bảo đảm cung cấp cho đồng 
bào đủ nước sinh hoạt, thu hút trên 70% trẻ em trong độ tuổi đến 
trường; đại bộ phận đồng bào được bồi dưỡng, tiếp thu kinh nghiệm sản 
xuất và đời sống; kiểm soát phần lớn các dịch bệnh xã hội hiểm nghèo 
có đường giao thông cho xe cơ giới và đường dân sinh kinh tế đến các 
trung tâm cụm xã; thúc đẩy phát triển thị trường nông thôn. 
 Ngoài những mục tiêu trên, chương trình 135 còn có 5 nội dung 
chủ yếu sau: 
 Một là: quy hoạch bố trí dân cư ở những nơi cần thiết, từng bước 
tổ chức hợp lý đời sống sinh hoạt của đồng bào các bản, làng, phum, sóc, ở 
những nơi không có điều kiện nhất là các vùng biên giới hải đảo, tạo điều 
kiện để đồng bào nhanh chóng ổn định sản xuất và đời sống. 
 Hai là: Đẩy nhanh phát triển nông, lâm nghiệp, gắn với chế biến 
tiêu thụ sản phẩm để khai thác nguồn tài nguyên và sử dụng lao động tại 
chỗ, tạo thêm nhiều cơ hội về việc làm tăng thu nhập, ổn định đời sống, 
từng bước phát triển sản xuất hàng hoá. 
 Ba là: Phát triển nhanh cơ sở hạ tầng nông thôn phù hợp với quy 
hoạch sản xuất và bố trí lại dân cư. Trước hết là hệ thống đường giao 
thông; nước sinh hoạt; hệ thống điện ở những nơi có điều kiện, kể cả 
thuỷ điện nhỏ. 
 Bốn là: Quy hoạch và xây dựng các trung tâm cụm xã, ưu tiên đầu 
tư xây dựng các công trình về y tế, giáo dục, dịch vụ thương mại, cơ sở 
sản xuất tiểu thủ công nghiệp và phát thanh truyền hình. 
 Năm là: Đào tạo cán bộ xã, bản làng, phum, sóc giúp cán bộ cơ sở 
nâng cao trình độ quản lý hành chính, kinh tế để phục vụ yêu cầu phát 
triển kinh tế xã hội tại địa phương. 
 Từ mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu của chuơng trình 135, 2 năm qua 
dưới sự chỉ đạo của các ngành đã thu được những kết quả bước đầu rất 
đáng khích lệ. 
 Năm 1999 chương trình 135 tập trung đầu tư trực tiếp cho 2 nhiệm 
vụ là xây dựng cơ sở hạ tầng và đào tạo cán bộ trên địa bàn 1200 xã 
(1012 xã đặc biệt khó khăn và 188 xã biên giới) thuộc 37 tỉnh. Năm 
2000 hai nhiệm vụ này tiếp tục đầu tư thực hiện trên toàn bộ 1878 xã 
đặc biệt khó khăn và biên giới; ba nhiệm vụ còn lại (quy hoạch dân cư, 
phát triển sản xuất và xây dựng trung tâm cụm xã) hai năm qua được 
thực hiện lồng ghép bằng các nguồn vốn của chương trình, dự án khác 
trên địa bàn 1878 xã thuộc 49 tỉnh. Qua hai năm thực hiện tổng vốn đầu 
 22
tư từ ngân sách của trung ương và địa phương là 1254,2 tỷ đồng. Cơ cấu 
vốn đầu tư được thể hiện trên biểu số 2 như sau: 
 23
Biểu số 2: Cơ cấu vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng 
ở các xã đặc biệt khó khăn 
Đơn vị tính: % 
Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 
Các công trình giao thông 38,78 45 
Các công trình thuỷ lợi 18,72 19 
Các công trình trường học 27 18 
Các công trình nước sinh hoạt 7,3 7,2 
Các công trình chợ, trạm xá, câp điện 8,2 10,8 
 Nguồn [7] 
 Chương trình 135 hai năm qua đó đã bố trí kế hoạch đầu tư được 
trên 5200 công trình hạ tầng, đến nay đã có 4367 công trình hoàn thành 
và đưa vào sử dụng. Trong đó 1098 công trình đường giao thông, 642 
công trình trường học, 950 công trình thuỷ lợi, 208 công trình nước 
sạch, 202 công trình điện hạ thế... 
 Các Bộ, các ngành, các địa phương đã tập trung chỉ đạo lồng ghép 
các chương trình dự án khác trên địa bàn các xã đặc biệt khó khăn như 
ngành giáo dục đã đầu tư hơn 50 tỷ đồng để xây dựng và sửa chữa 
trường học, cung cấp trang thiết bị và đồ dùng học tập, thực hiện miễn 
giảm học phí cho gần 300 ngàn học sinh nghèo với kinh phí miễn giảm 
khoảng 400 triệu đồng; ngành y tế đầu tư 97 tỷ đồng để xây dựng trạm y 
tế, cung cấp trang thiết bị y tế, các loại thuốc thiết yếu và đào tạo cán bộ 
y tế xã. Qua báo cáo của các tỉnh, thành phố đã mua trên 1,1 triệu thẻ 
bảo hiểm y tế cho người nghèo với kinh phí khoảng trên 30 triệu đồng, 
cấp giấy chứng nhận miễn giảm phí cho hơn 2 triệu người, khám chữa 
bệnh miễn giảm phí cho trên 800.000 lượt người, với kinh phí 50 tỷ 
đồng. Chương trình định canh định cư đầu tư vào 304 xã đặc biệt khó 
khăn 49.770 triệu đồng chiếm 38,91% vốn chương trình; chương trình 
trồng 5 triệu ha rừng đầu tư vào 122 xã đặc biệt khó khăn 71.361 triệu 
đồng chiếm 26,15% tổng mức đầu tư, chương trình nước sạch đầu tư 
12.242 triệu đồng để đầu tư vào 737 dự án cấp nước ở các xã đặc biệt 
khó khăn; chương trình trung tâm cụm xã đầu tư trên 200 tỷ đồng xây 
dựng nhiều trung tâm cụm xã trên địa bàn các xã đặc biệt khó khăn... và 
nhiều chương trình dự án trong và ngoài nước đã ưu tiên đầu tư vào khu 
vực này. Có được kết quả này là do cơ chế quản lý chỉ đạo lồng ghép từ 
TW đến địa phương và yếu tố có ý nghĩa quyết định là sự chỉ đạo sát sao 
của các ngành, các cấp, hướng các nguồn lực, các chương tình dự án 
lồng ghép vào địa bàn các xã thuộc chương trình 135. 
 Từ những kết quả trên cho thấy ở nhiều địa phương, chương trình 
135 đã khơi dậy sức dân tham gia xây dựng các công trình, đã tạo ra một 
phong trào lao động sản xuất khá sôi nổi nhằm đẩy nhanh nhịp độ phát 
triển kinh tế xã hội, xoá đói giảm nghèo ở các vùng đặc biệt khó khăn 
này. 
 24
 Việc thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ chủ yếu của chương trình 
135, các ngành các cấp đã chú trọng đào tạo bồi dường nâng cao năng 
lực cho đội ngũ cán bộ cơ sở để từng bước vươn lên vận hành chương 
trình có hiệu quả. Năm 2000 tỉnh Cao Bằng có số lượng học viên cao 
nhất 5000 người tham gia học tập trong đó có 750 là cán bộ huyện và 
cán bộ tăng cường xuống xã, 4250 là cán bộ xã, bản, làng (8). Các tỉnh 
Hoà Bình, Quảng Ngãi, Đắc Lắc đã mở rộng đối tượng đào tạo đến tận 
hộ nông dân. Ngoài ra một số Bộ, ngành, các đoàn thể Trung ương như 
thanh niên, phụ nữ, nông dân, cựu chiến binh... đã tập huấn và hướng 
dẫn đội ngũ cán bộ ở các cấp về cơ chế vận hành chương trình 135. Bên 
cạnh việc đào tạo đội ngũ cán bộ cơ sở, các tỉnh có các xã đặc biệt khó 
khăn đã chú trọng việc tăng cường có thời hạn cán bộ công chức về các 
xã làm công tác xoá đói giảm nghèo. Năm 2000 đã có hơn 1000 cán bộ 
xuống các xã đặc biệt khó khăn giúp phát triển kinh tế xã hội, ổn định 
chính trị, đảm bảo an ninh quốc phòng và trực tiếp tham gia chỉ đạo 
chương trình 135. Phần lớn đội ngũ cán bộ tăng cường cho cơ sở đều có 
trình độ và kinh nghiệm công tác, có tinh thần trách nhiệm, đã sớm hoà 
nhập vào cuộc sống ở cơ sở, góp phần tích cực vào việc thực hiện những 
nhiệm vụ chủ yếu của địa phương và chương trình 135. 
 Có được những kết quả trên trước hết chương trình 135 là một chủ 
trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước, hợp lòng dân; được vận hành 
theo cơ chế của dân, do dân và vì dân, được nhân dân đồng tình ủng hộ 
và tích cực tham gia thực hiện, các cấp các ngành đã tích cực năng động 
chỉ đạo sát sao các bước triển khai công tác với phong trào giúp dân, 
cùng dân tháo gỡ khó khăn, đó vừa là kết quả vừa là nguyên nhân quan 
trọng thúc đẩy quá trình thực hiện có hiệu quả chương trình. 
 Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đã đạt được, chương trình đã 
bộc lộ những hạn chế nhất định đó là. 
 Thứ nhất: huy động nguồn lực cho chương trình còn ít, chưa tạo ra 
được phong trào rộng khắp cả nước giúp đỡ các xã đặc biệt khó khăn, 
các tỉnh có điều kiện, các Tổng công ty giúp đỡ các địa phuơng chưa 
đều và chưa tương xứng với khả năng. Bên cạnh đó còn một số Bộ, 
ngành, Tổng công ty được Chính phủ phân công giúp đỡ tỉnh nghèo lại 
uỷ quyền cho Sở, ngành đại diện tại địa phương thực hiện chiếu lệ, chưa 
đem lại kết qủa thiết thực. 
 Thứ hai: Chương trình 135 triển khai trên các xã đặc biệt khó 
khăn, phân cấp toàn bộ việc quản lý đầu tư xây dựng cho Uỷ ban nhân 
dân tỉnh quyết định, tỉnh phân cấp cho huyện, trong khi trình độ cán bộ 
cơ sở còn nhiều hạn chế, không thể nào tránh khỏi quá trình lúng túng 
trong quá trình triển khai chương trình. Một số địa phương chưa xác 
định đầy đủ ý nghĩa chính trị, kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng của 
chương trình, chưa tạo sức mạnh tổng hợp để thực hiện chương trình, 
mà chỉ đạo chương trình thuần tuý như đầu tư xây dựng cơ bản một số 
công trình bằng nguồn vốn Trung ương. Có tỉnh đến nay vẫn chưa cấp 
kinh phí làm quy hoạch cơ sở hạ tầng, không có cơ sở chuẩn bị đầu tư 
cho kế hoạch năm 2001; quá trình lập, thẩm định, xét duyệt thiết kế, dự 
 25
toán quá chậm, không đảm bảo được tiến độ kế hoạch; quy mô cấp hạng 
mục kỹ thuật công trình chưa phù hợp, có tuyến đường đến một xã vùng 
cao, dự toán lên tới 5 tỷ đồng, nếu chỉ đầu tư bằng vốn của chương trình 
135 đến khi kết thúc chương trình (năm 2005) vẫn chưa hoàn thành, 
không có vốn đầu tư cho các công trình khác của xã này. 
 Một số địa phương chưa thực hiện đầy đủ nội dung dân chủ công 
khai, hoặc thực hiện hình thức chiếu lệ, giao toàn bộ khối lượng cho các 
nhà thầu mà không giao cho dân làm những công việc có thể làm được. 
Đã có hàng trăm doanh nghiệp tư nhân vốn ít, kỹ thuật kém nhưng vẫn 
được địa phương chỉ định thầu các công trình của chương trình 135, khó 
tránh khỏi những tiêu cực thông qua việc chỉ định thầu các công trình. 
Một số huyện với địa bàn rộng, công trình nhiều không đủ sức kiểm tra, 
giám sát, phó mặc cho các nhà thầu, dẫn đến bớt xén khối lượng, chất 
luợng công trình kém. 
 Thứ ba: Việc sửa đổi bổ sung, hoàn chỉnh cơ chế chậm, ảnh huởng 
đến việc cấp phát vốn chương trình, nhất là việc tổ chức sắp xếp lại Ban 
chỉ đạo chương trình mục tiêu của tỉnh và ban quản lý dự án các công 
trình ở huyện. 
 Thứ tư: Một số địa phương mới chỉ tập trung thực hiện nhiệm vụ 
xây dựng cơ sở hạ tầng, chưa đẩy mạnh sản xuất, ổn định đời sống, chưa 
thực hiện lồng ghép các chương trình, dự án khác trên địa bàn các xã 
thuộc chương trình để thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, đem lại hiệu quả 
kinh tế xã hội tổng hợp của chương trình. 
2.2.1.3. Vốn thực hiện chương trình "phủ xanh đất trống đồi núi trọc". 
 Ngày 15/9/1993 Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định 327/CP về 
thực hiện chương trình "phủ xanh đất trống đồi núi trọc". Nguồn vốn 
được cấp ra từ ngân sách Nhà nước Trung ương và giao cho hệ thống 
kho bạc Nhà nước thực hiện dưới 2 phương thức: cấp phát và cho vay 
không thu lãi. Qua 5 năm thực hiện chương trình 327, cùng với các 
chính sách định canh định cư và giao đất giao rừng đã đạt được những 
kết quả nhất định về tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập, cải thiện môi 
trường, môi sinh... ở các vùng kinh tế mới, vùng cao và đồi núi. 
 Với tổng nguồn vốn ngân sách Nhà nước chuyển cho chương trình 
trong 6 năm 1993-1998 (hiện nay chuyển sang 5 triệu ha rừng) là 2363 
tỷ đồng không kể vốn vay; đến hết 31/12/1998 kho bạc Nhà nước đã cấp 
vốn cho hàng nghìn dự án với tổng số vốn cấp ra là 2277 tỷ đồng. Nhờ 
có số vốn từ chương trình này đã làm tăng năng lực phòng hộ, chuyển 
dịch cơ cấu nông thôn, giải quyết việc làm, chuyển đồng bào dân tộc từ 
du canh du cư phá rừng làm rẫy sang bảo vệ, khoang nuôi, trồng rừng, 
phát triển chăn nuôi và trông cây công nghiệp vườn đồi. 
Biểu số 3: Một số chỉ tiêu kinh tế xã hội đạt được của chương trình 327. 
Chỉ tiêu Đơn vị tính Kết quả 
Bảo vệ rừng ha 1.600.000 
Khoang nuôi tái sinh ha 700.000 
Rừng trồng mới ha 640.000 
 26
Trồng cây công nghiệp + cây ăn quả ha 88.730 
Mở rộng trường học, trạm xá m2 103.300 
Đường giao thông km 5.000 
Số hộ di dãn dân hộ 92.430 
 Nguồn [9] 
 Kết quả tổng thể về kinh tế, xã hội của chương trình 327 đã đóng 
góp tích cực thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo của Đảng và Nhà 
nước. Nhờ sử dụng có hiệu quả nguồn vốn 327 mà thu nhập các hộ vườn 
đồi trong vùng dự án tăng lên rõ rệt. Ông Nguyễn Ngọc Sơn giám đốc 
lâm trường Trương Bát Hà Tĩnh cho biết: nhờ nguồn vốn 327 đầu tư vào 
nên đã giảm tỷ lệ nghèo đói từ 15% năm 1993 xuống còn 8% năm 1998, 
có nhiều xóm không còn hộ nghèo đói [10]. Một minh chứng khác, dự 
án thanh ninh (Bắc Hà Trung - Thanh Hoá) sau những năm thực hiện, 
nhiều hộ dân trước đây nghèo khổ phải xin trợ cấp, nay có thể mua máy 
thu hình, xe máy. 
 Tuy nhiên qua khảo sát một số dự án khác cũng như tổng kết cuả 
kho bạc Nhà nước cho thấy việc triển khai chương trình 327 còn nhiều 
khiếm khuyết. Do chương trình rải quá rộng, quy trình đầu tư, định mức 
kinh tế kỹ thuật thực hiện dự án không theo sát thực tế, dẫn đến có dự 
án thừa vốn, có dự án lại thiếu vốn. Mặt khác vai trò kiểm tra kiểm soát 
bị hạn chế, hiệu quả sử dụng vốn chưa được tương xứng với vốn đầu tư. 
Mô hình đầu tư dự án 327 theo hộ gia đình chưa được mở rộng, tác động 
của chương trình làm đổi mới đời sống nông thôn còn hạn chế. 
2.2.1.4. Các loại vốn khác từ nguồn ngân sách Nhà nước. 
 Có thể kể đến các loại vốn thuộc loại này như sau: 
 - Vốn để hướng dẫn người nghèo cách làm ăn và khuyến nông - 
lâm - ngư (gọi chung là khuyến nông): kinh phi bố trí là 7,2 tỷ đồng đã 
sử dụng để xây dựng 150 mô hình trình diễn kỹ thuật với 10.000 hộ 
tham gia, tập huấn 180 lớp khuyến nông với 18.000 lượt người, in 
12.000 bản tài liệu, phát hành hàng trăm số báo chuyên đề. Ngoài ra các 
địa phương đã bố trí kinh phí để tổ chức hàng ngàn lớp tập huấn cách 
làm ăn cho trên 100.000 lượt người nghèo. Thông qua hướng dẫn người 
nghèo cách làm ăn bằng các mô hình cây trồng, vật nuôi, câu lạc bộ 
khuyến nông, giống mới, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật cho sản 
xuất... góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế, nhiều hộ nghèo đã biết vay 
vốn để tổ chức sản xuất, tăng thu nhập, thoát đói giảm nghèo. 
 - Ngoài ra ngân sách Nhà nước phải sử dụng các khoản chi khác 
để trợ cấp đột xuất khắc phục thiên tai hoả hoạn để ổn định cuộc sống 
dân cư các khu vực này. 
 Các khoản chi từ kênh ngân sách Nhà nước để sử dụng vào các 
mục đích nói trên không phải là toàn bộ hỗ trợ trực tiếp cho người 
nghèo. Nhưng nó đã có tác động tích cực hỗ trợ phát triển nông thôn, 
miền núi... nâng cao mức sống người dân tạo điều kiện cho họ vượt qua 
cảnh nghèo đói. Sự hỗ trợ cần thiết này phản ánh tính định hướng xã hội 
trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta. Tuy nhiên chuơng trình hỗ 
 27
trợ này thực sự chưa quản lý chặt chẽ, có một số khoản mang nặng tính 
trợ cấp từ thiện, có khi là biện pháp tình thế nên việc sử dụng nó hiệu 
quả chưa cao. 
 2.2.2. Hỗ trợ vốn từ nguồn vốn tín dụng ngân hàng. 
2.2.2.1. Tín dụng cho hộ nông dân nghèo từ nguồn vốn kinh 
doanh của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. 
 Ngày 28/6/1991 Hội đồng Bộ trưởng (nay là chính phủ) có quyết 
định 202/HĐBT, theo đó giao cho ngân hàng nông nghiệp và phát triển 
nông thôn Việt Nam thực hiện cho vay chủ yếu đối với hộ sản xuất thiếu 
vốn. Từ năm 1991 đến 31/12/2000, ngân hàng nông nghiệp và phát triển 
nông thôn Việt Nam đã cho trên 30 triệu lượt hộ vay vốn, với doanh số 
trên 100 nghìn tỷ đồng trong đó dư nợ cho vay theo chính sách là gần 10 
nghìn tỷ đồng bao gồm: hộ nghèo 4400 tỷ đồng, tôn nền làm sàn nhà 
trên cọc 1300 tỷ đồng, khắc phục hậu quả thiên tai lũ lụt 1200 tỷ đồng, 
cho vay ưu đãi vùng sâu vùng xa gần 3000 tỷ đồng. Theo số liệu thống 
kê mới 30% nhu cầu vay vốn của hộ nông dân được đáp ứng, 70% hộ 
nông dân phải đi vay tư nhân và các nguồn vốn khác. 
 Đối với hộ nông dân nghèo vay vốn vẫn chịu lãi suất như các hộ 
nông dân bình thường. Riêng vùng núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo được 
miễn giảm lãi suất so với lãi suất cho vay cùng loại. Để tạo điều kiện 
cho hộ nông dân nghèo không có tài sản thế chấp, ngày 30/2/1999 thủ 
tướng Chính phủ đã có quyết định số 67/1999/QĐ-TTg theo đó các hộ 
nông dân khi cần vay vốn thì chỉ cần làm đơn có xác nhận của địa 
phương và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất gửi đến ngân hàng nông 
nghiệp và phát triển nông thôn. Sau 10 năm cho vay, chương trình tín 
dụng này đã đạt được kết quả đáng khích lệ nhưng cũng cần đánh giá một 
số mặt tồn tại là: 
 Về phương thức cho vay. Mặc dù ngân hàng nông nghiệp và phát 
triển nông thôn là tổ chức tín dụng thực hiện chính sách cho vay ưu đãi 
nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp nhưng cơ chế hoạch toán của ngân 
hàng này theo nguyên tắc ngân hàng thương mại. Sự lẫn lộn giữa chức 
năng chính sách và chức năng kinh doanh dẫn đến xu hướng cán bộ tín 
dụng thường ưu tiên các hộ nông dân khá giả vay lớn hơn là ưu tiên cho 
các hộ nghèo khó khăn là những người thường vay những món nhỏ. Mặt 
khác, phương thức cho vay tới tận tay hộ nông dân trong điều kiện Việt 
Nam hiện nay thường đòi hỏi chi phí cao cho các món vay nhỏ, vay 
phân tán với nhiều thủ tục phức tạp mà nhiều hộ nông dân khó đáp ứng 
được. Do đó có hiện tượng nhiều hộ nông dân hướng đến hệ thống tín 
dụng phi chính thức để thoả mãn nhu câù thiếu vốn của mình hơn là đến 
ngân hàng để vay. 
 Thứ hai: Lãi suất cho vay đối với hộ nông dân nghèo trong thực tế 
quá cao - có ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện vẫn 
cho vay với lãi suất thoả thuận cao hơn lãi suất cho vay bình thường. 
 Thứ ba: Khả năng rủi ro trong nông nghiệp lớn, là điều trở ngại 
cho ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn quyết định khi cho 
vay, bởi lẽ nguy cơ mất vốn thường xuyên bị đe doạ. 
 28
 Thứ tư: Việc cấp vốn tín dụng tới tay người nghèo thường không kịp 
thời và chưa phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của họ. 
 Những tồn tại trên đây đã hạn chế việc mở rộng cấp tín dụng cho 
người nghèo. Thực tiễn này đòi hỏi phải đổi mới, áp dụng phương thức 
cho người nghèo phù hợp hơn. 
2.2.2.2. Tín dụng cho hộ nghèo của ngân hàng phục vụ người nghèo. 
 Ngày 31/8/1995 Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 525/TTg 
"về việc thành lập Ngân hàng phục vụ người nghèo". Theo đó ngày 
11/9/1995 Ngân hàng phục vụ người nghèo được thành lập theo quyết 
định số 230/QĐ/NH5 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước và được cấp 
giấy phép hoạt động từ ngày 12/12/1995. Ngân hàng phục vụ nghèo 
chính thức đi vào hoạt động từ ngày 1/1/1996. 
 Ngân hàng phục vụ người nghèo là một tổ chức tín dụng của Nhà 
nước hoạt động trên phạm vi cả nước, có chức năng huy động các nguồn 
vốn của các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước, tiếp nhận các 
nguồn vốn tín dụng của Nhà nước đối với người nghèo và các nguồn vốn 
khác được Nhà nước cho phép để lập quỹ cho vay để thực hiện mục tiêu 
xoá đói giảm nghèo. 
 Các nghiệp vụ của ngân hàng phục vụ người nghèo. 
 Tổ chức huy động vốn trong và ngoài nước của mọi tổ chức và 
tầng lớp dân cư bao gồm tiền gửi có kỳ hạn, không kỳ hạn. 
 Phát hành chứng chỉ nợ, vay chiết khấu và tái chiết khấu từ ngân 
hàng Nhà nước, vay các nguồn vốn khác trong và ngoài nước theo các 
dự án để cho vay người nghèo, vùng nghèo. 
 Tổ chức huy động vốn tiết kiệm trong cộng đồng người nghèo để 
giúp đỡ nhau trong sản xuất, trong việc sử dụng vốn vay và trả nợ ngân 
hàng. 
 Nhận làm dịch vụ uỷ thác cho vay từ các tổ chức quốc tế đối với 
người nghèo. 
 Được nhận các nguồn tài trợ không hoàn lại từ các quốc gia, tổ 
chức quốc tế để bổ sung vốn cho vay vì mục tiêu xoá đói giảm nghèo. 
 Cho vay ngắn hạn, trung hạn phục vụ sản xuất, kinh doanh, dịch 
vụ đối với người nghèo. 
Đối tượng cho vay của ngân hàng phục vụ người nghèo: là các hộ 
nghèo có sức lao động, có điều kiện tổ chức sản xuất kinh doanh nhưng 
thiếu vốn sản xuất và có khả năng hoàn trả vốn (cả gốc và lãi) đúng thời 
hạn đã cam kết. 
Ngân hàng phục vụ người nghèo cho hộ nghèo vay vốn theo chuẩn mực 
phân loại hộ nghèo, vùng nghèo do Bộ lao động thương binh và xã hội phối hợp 
với các bộ, ngành các cơ quan khác công bố theo từng thời kỳ. 
Ban xoá đói giảm nghèo ở xã, phường xem xét lựa chọn danh sách 
hộ nghèo thuộc diện được vay vốn. 
Danh sách hộ nghèo có sự xác nhận của uỷ ban nhân dân phường, 
xã sở tại gửi đến chi nhánh ngân hàng phục vụ người nghèo tại huyện, 
thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh. 
 29
Chủ hộ là các đại diện hộ gia đình trong các giao dịch tín dụng với 
ngân hàng phục vụ người nghèo. Ngân hàng phục vụ người nghèo chỉ 
cho vay những hộ nghèo không có dư nợ vay các tổ chức tài chính, tín 
dụng khác. 
Phương thức cho vay đối với hộ nghèo. 
Ngân hàng phục vụ người nghèo tổ chức cho vay trực tiếp đến hộ nghèo. 
Ngân hàng phục vụ người nghèo phối hợp với các ngân hàng 
thương mại quốc doanh, tổ vay vốn trong cộng đồng người nghèo và các 
tổ chức khác, để huy động vốn và truyền tải vốn cho vay trực tiếp đến 
hộ nghèo. 
Nguồn vốn hoạt động của ngân hàng phục vụ người nghèo bao 
gồm: vốn điều lệ, vốn huy động, vốn đi vay, vốn nhận uỷ thác, vốn 
khác. 
Kết quả hoạt động của ngân hàng phục vụ người nghèo. 
Sự ra đời của ngân hàng phục vụ người nghèo đáp ứng cấp thiết 
vấn đề giải quyết vốn cho người nghèo để thực hiện mục tiêu xoá đói 
giảm nghèo ở nước ta. Do vậy nó tạo nên nhiều thuận lợi, được sự ủng 
hộ của các cấp, các ngành, các đoàn thể xã hội và cộng đồng người 
nghèo. Sau gần 5 năm hoạt động Ngân hàng phục vụ người nghèo đã có 
những đóng góp quan trọng trong công cuộc xoá đói giảm nghèo, phát 
triển kinh tế xã hội của đất nước. Kết quả đó thể hiện. 
Biểu số 4: Nguồn vốn của ngân hàng phục vụ người nghèo đến ngày 31 /12 /2000 
Đơn vị tính: Tỷ đồng 
Chỉ tiêu về nguồn vốn Số tiền huy động 
Nguồn vốn điều lệ 700 
Nguồn vốn huy động trong cộng 
đồng dân cư thông qua các ngân 
hàng thương mại quốc doanh 
2903 
Nguồn vốn vay của ngân hàng nhà 
nước 
900 
Ngồn vốn nhận cho vay uỷ thác từ 
ngân sách các tỉnh 
338 
Nguồn vốn vay từ nước ngoài 139 
Nguồn vốn huy động trong cộng 
đồng người nghèo 
35 
Tổng nguồn vốn 5015 
Nguồn [11] 
Qua bảng số 4 cho ta thấy, tính đến 31/12/2000, Ngân hàng phục 
vụ người nghèo đã huy động được tổng nguồn vốn là 5.015 tỷ đồng, so 
với nguồn vốn từ khi thành lập và chuyển giao từ quỹ cho vay ưu đãi hộ 
nghèo chuyển sang là 521 tỷ đồng thì nguồn vốn đã tăng lên 4494 tỷ 
đồng. Nguồn vốn được tăng trưởng đều đặn qua các năm: năm 1996 tăng 
37,8% so với nguồn vốn nhận bàn giao ban đầu, năm 1997 tăng 19,5% 
năm 1998 tăng 46,2% năm 1999 tăng 19,4%, năm 2000 tăng 22,8% với 
 30
kết cấu nguồn chủ yếu là nguồn vốn vay từ các ngân hàng thương mại 
quốc doanh 2903 tỷ đồng chiếm 57,8% tổng nguồn vốn. 
Vốn điều lệ là 700 tỷ đồng chiếm 14% tổng nguồn vốn. 
Đã được ngân hàng Nhà nước áp dụng cơ chế cho vay đặc biệt 
theo chỉ định từ Chính phủ 900 tỷ đồng chiếm 17,9% tổng nguồn vốn 
trong đó cho vay trung hạn (thời hạn 5 năm) số tiền 600 tỷ đồng và cho 
vay ngắn hạn số tiền 300 tỷ đồng. 
Được ngân sách các tỉnh trích nguồn vốn chuyển sang ngân hàng 
phục vụ người nghèo cho vay uỷ thác 338 tỷ đồng, chiếm 6,7% tổng 
nguồn vốn. 
Ngân hàng đã vay nước ngoài 6,1 triệu USD (tương đương với 88 
tỷ VNĐ), là khoản vay trong hiệp định vay 10 triệu USD của tổ chức 
các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) mà Ngân hàng phục vụ người nghèo 
đã ký hiệp định vay vốn phụ với Bộ tài chính từ tháng 8/1999; nhận vốn 
vay tháng 9/2000; vốn dịch vụ từ các tổ chức quốc tế để thực hiện một 
số dự án là 51 tỷ đồng, trong đó chủ yếu là dự án IFAD. 
Huy động nguồn vốn từ cộng đồng người nghèo là 35 tỷ đồng. Số 
tiền này tuy nhỏ nhưng cũng đã tạo dựng được ý thức và thói quen tiết 
kiệm cho người nghèo. 
Với tổng nguồn vốn nêu trên, ngân hàng phục vụ người nghèo đã 
thực hiện cung cấp tín dụng tới phần lớn các hộ nghèo có nhu cầu vay 
vốn trên phạm vi toàn quốc. Tính đến ngày 31/12/2000 đã có hơn 5 triệu 
lượt hộ nghèo nhận được vốn tín dụng từ ngân hàng phục vụ người 
nghèo với tổng số tiền là hơn 9.000 tỷ đồng. Với số vốn vay, hộ nghèo 
đã đầu tư vào sản xuất kinh doanh, chủ yếu là đầu tư vào sản xuất nông 
nghiệp, thâm canh tăng vụ, mở rộng ngành nghề, cải thiện đời sống và 
nâng cao thu nhập để trả nợ ngân hàng với doanh số thu nợ đạt 4400 tỷ 
đồng và đã có gần 500 ngàn hộ nghèo đã thoát nghèo. Như vậy cứ 6,6 
hộ vay vốn của ngân hàng phục vụ người nghèo đã có một hộ thoát 
nghèo, qua số liệu báo cáo của từng chi nhánh cho thấy số hộ thoát 
nghèo ở miền núi cao hơn đồng bằng, cụ thể: ở miền núi cứ 6 hộ vay 
vốn có một hộ thoát nghèo và ở đồng bằng cứ 7,5 hộ vay vốn có một hộ 
thoát nghèo. Tuy nhiên hiện nay vẫn còn 2,5 triệu hộ thuộc 208 ngàn tổ 
vay vốn còn dư nợ ngân hàng với số tiền 4704 tỷ đồng. Dư nợ bình quân 
mỗi hộ 1,88 triệu đồng. 
Trong doanh số cho vay trên ngân hàng đã thực hiện cung cấp tín 
dụng tới tất cả những hộ nghèo ở vùng III, dư nự hộ nghèo ở khu vực III 
là 487 tỷ đồng với 280 ngàn hộ còn dư nợ, trong đó cho vay hộ nghèo ở 
các xã đặc biệt khó khăn miền núi, vùng sâu, vùng xa theo Quyết định 
135/1998/QĐ-TTg ngày 31/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ là 324 tỷ 
đồng với 183 ngàn hộ dư nợ. 
Nhiều hộ nghèo là người dân tộc thiếu số cũng đã được vay vốn, 
vốn dư nợ là 733 tỷ đồng, chủ yếu là người dân tộc Tày, Nùng, Thái, 
Mường, Khơ Me, H'Mông... 
 31
Dư nợ cho vay chủ yếu là các hộ nghèo ở vùng nông thôn, có đến 
88% vốn vay đầu tư vào lĩnh vực trồng chọt, chăn nuôi; 2,4% là nông 
nghiệp; 3,2% là ngành nghề thủ công và buôn bán nhỏ; nghề khác là 
6,4%. 
 32
Biểu số 5: Tốc độ tăng trưởng dư nợ theo vùng kinh tế tính đến ngày 31/12/2000. 
Đơn vị tính: % 
Vùng 1997 so với 1996 
1998 so 
với 1997 
1999 so 
với 1998 
2000 so 
với 1999 
Bình quân 
5 năm 
Vùng Trung du miền núi 
phía Bắc 
37 39 33 22 33,2 
Vùng Đồng bằng Sông 
Hồng 
46 62 25 21 38,5 
Vùng khu 4 cũ 16 43 24 26 27,2 
Vùng Duyên Hải miền 
Trung 
34 23 21 24 25,5 
Vùng Tây Nguyên 14 17 16 8 13,7 
Vùng Đông Nam Bộ 23 20 22 10 18,7 
Vùng Đồng bằng Sông 
Cửu Long 
13 29 23 18 20,7 
Cả nước 27 37 26 21 27,7 
Nguồn [11] 
Qua biểu số 5 ta thấy tốc độ tăng trưởng dư nợ bình quân chung 
của toàn quốc 5 năm qua là 27,7%. Như vậy có hai vùng tăng trưởng cao 
hơn bình quân trung của toàn quốc đó là: Vùng Đồng bằng Sông Hồng 
38,5%, vùng Trung du miền núi phía Bắc 33,2%, trong đó vùng miền 
núi Trung du phía Bắc là vùng mặc dù có số hộ nghèo ở vùng sâu vùng 
xa, vùng đặc biệt khó khăn chiếm tỷ trọng lớn nhất (trên 40% số hộ 
thuộc khu vực III của toàn quốc) nhưng có tốc độ tăng trưởng dư nợ 
bình quân 5 năm đứng thứ hai toàn quốc. Vùng có tốc độ tăng trưởng dư 
nợ thấp nhất là Tây Nguyên 13,7%. Điển hình một số chi nhánh có dư 
nợ lớn như Thanh Hoá 237 tỷ, Nghệ An 172 tỷ, Hà Tây 138 tỷ, Nam 
Định 130 tỷ, Bắc Giang 129 tỷ, Thừa Thiên Huế 122 tỷ, Phú Thọ 120 tỷ, 
Hà Tĩnh 111 tỷ. Một số chi nhánh có dư nợ thấp là Bình Dương 21 tỷ, 
TP Hồ Chí Minh 23 tỷ, Vĩnh Long 36 tỷ, Bình Định 38 tỷ, Cần Thơ 40 
tỷ.... 
Đến 31/12/2000 dư nợ bình quân/hộ toàn quốc là 1,88 triệu đồng. 
Có bốn vùng dư nợ bình quân/ hộ lớn hơn dư nợ bình quân / hộ toàn 
quốc là Vùng Đồng bằng Nam Bộ 2,28 Triệu/hộ, Vùng duyên hải Miền 
Trung 2,09 triệu/hộ, Vùng Tây Nguyên 2,02 triệu/hộ, Vùng Trung du 
miền núi phía Bắc 1,99 triệu/hộ và các vùng còn lại dư nợ bình quân /hộ 
thấp, vùng Đồng bằng Sông Cửu Long 1,72 triệu/ hộ, vùng khu IV cũ 
1,72 triệu/hộ, vùng Đồng bằng Sông Hồng 1,76 triệu/ hộ. Chi nhánh có 
dư nợ bình quân /hộ lớn: Bình Phước 2,99 triệu/hộ, TP Hồ Chí Minh 
2,48 Triệu /hộ, Yên Bái 2,47 triệu /hộ. Chi nhánh có dư nợ bình quân/hộ 
thấp là Sóc Trăng 1,31 triệu/hộ, Tuyên Quang 1,48 triệu/hộ, Thái Bình 
1,51 triệu/ hộ. 
 33
Nhìn nhận lại kết quả của chương tình tín dụng xoá đói giảm 
nghèo từ Ngân hàng phục vụ người nghèo, cơ thể đánh giá khái quát 
những mặt tích cực: 
Một là: Ngân hàng phục vụ người nghèo được tổ chức và hoạt 
động theo Quyết định 525/TTg của Thủ tướng Chính phủ thực thi một 
thể chế chính sách được nông dân đồng tình hưởng ứng, thể hiện đường 
lối đúng đắn của Đảng, Chính phủ. Đây là giải pháp rất cụ thể, góp phần 
ổn định kinh tế xã hội, thực hiện mục tiêu xã hội công bằng văn minh. 
Trong điều kiện hiện nay mô hình được tổ chức và thiết lập bằng 
việc sử dụng hệ thống mạng lưới của các ngân hàng thương mại quốc 
doanh làm dịch vụ huy động vốn và cho vay đã tiết kiệm được chi phí xã 
hôị, tận dụng được nhân lực, công nghệ, tập trung được vốn, kỹ thuật... 
chuyển trực tiếp đến hộ nghèo người nghèo (không phải chi phí tuyển 
nhân lực, không tăng thêm các chi phí mua sắm, xây dựng cơ sở vật 
chất...). Do đó triển khai được nhanh trên phạm vi toàn quốc về hoạt 
động của Ngân hàng phục vụ người nghèo, có cơ chế quản lý, hạch toán 
theo hệ thống riêng, thống nhất, phân định rõ nguồn vốn, sử dụng vốn 
của Ngân hàng phục vụ người nghèo. 
Cũng với mô hình đặc thù có Hội đồng quản trị và ban đại diện hội 
đồng quản trị các cấp đã tập hợp được sức mạnh tổng hợp của các ngành 
các cấp, các đoàn thể chính trị xã hội và đông đảo cộng đồng dân cư từ 
mọi miền đất nước góp tiền, góp sức phát huy tinh thần tương thân, 
tương ái của dân tộc Việt Nam. Được Đảng bộ và chính quyền các cấp 
quan tâm chỉ đạo, nhiều tỉnh thành phố đã huy động được nguồn tiết 
kiệm chi ngân sách để hình thành quỹ xoá đói giảm nghèo chuyển sang 
Ngân hàng phục vụ người nghèo cho vay. Đặc biệt những tỉnh đã huy 
động được nguồn vốn địa phương lớn như Nghệ An là 18,5 tỷ đồng, Hà 
Tây 17,1 tỷ đồng, Đắc Lác 14,8 tỷ đồng, Khánh Hoà 13,7 tỷ đồng, Lạng 
Sơn 9,9 tỷ đồng, Lâm Đồng 8,5 tỷ đồng... 
Hai là: Chủ động ngân sách Nhà nước hỗ trợ vốn thông qua bù 
chênh lệch lãi suất huy động vốn và sử dụng phương pháp tín dụng ngân 
hàng để hỗ trợ vốn cho người nghèo (thay vì nguồn vốn cấp từ ngân 
sách có hạn bằng phương pháp huy động vốn trong dân cư, phần chênh 
lệch lãi suất cho vay được ngân sách cấp bù) đã tạo ra khối lượng vốn 
lớn hơn nhiều lần so với cách đầu tư trực tiếp từ ngân sách trước đây. 
Ba là: Hình thành một cơ chế tín dụng riêng biệt tương đối phù 
hợp với người nghèo. Cơ chế cho vay được nới lỏng, đơn giản hoá thủ 
tục cho vay, người vay không phải đến trụ sở ngân hàng mà chỉ phải nộp 
đơn vay vốn thông qua tổ vay vốn và giao dịch vay trả ngay tại trụ sở 
xã. Người vay không phải thế chấp tài sản mà thay vào đó là sự kiểm 
tra, giám sát của cộng đồng dân cư, sự phối hợp giữa các tổ chức đoàn 
thể trong việc lồng ghép các chương trình XĐGN ở địa phương nhằm 
giúp cho việc sử dụng vốn đạt hiệu quả cao hơn. Với cơ chế tín dụng 
như hiện nay, Ngân hàng phục vụ người nghèo đã thực hiện chủ trương 
xã hội hoá hoạt động tín dụng đối với người nghèo, hộ nghèo thông qua 
 34
việc bình xét các đối tượng được vay vốn của các tổ chức cộng đồng xã 
hội, mở rộng tính công khai dân chủ và tính nhân dân sâu sắc. 
Các chính sách và cơ chế tín dụng xoá đói giảm nghèo đã được 
thay đổi phù hợp với các quy định cuả ngành và sự phát triển chung 
trong từng thời kỳ: 
Về lãi suất cho vay: 5 năm qua đã có 5 lần thay đổi theo hướng hạ 
lãi suất cho vay đối với người nghèo, hộ nghèo, vùng nghèo từ mức lãi 
suất 1,2%/tháng hạ xuống 1%/tháng, 0,8%/tháng và hiện nay đang áp 
dụng là 0,7%/tháng riêng đối với hộ nghèo vùng III được vay lãi suất 
0,6%/tháng và đều thấp hơn lãi suất cho vay hiện hành của các ngân 
hàng thương mại và hợp tác xã tín dụng. Ngoài lãi suất cho vay, người 
nghèo, hộ nghèo không phải trả một khoản phí nào cho ngân hàng hoặc 
các tổ chức chính trị xã hội khác. 
Về quy hoạch mức cho vay tối đa: khi mới thành lập Ngân hàng 
phục vụ người nghèo, mức cho vay không qua 2,5 triệu đồng/ hộ. Hiện 
nay điều chỉnh nâng lên tối đa không qua 3 triệu đồng/hộ. Riêng đối với 
những hộ nghèo đầu tư cho chăn nuôi gia súc, trồng cây ăn quả, cây 
công nghiệp, mua sắm công cụ nuôi trồng đánh bắt thuỷ hải sản, kinh 
doanh ngành nghề được vay vốn tối đa đến 5 triệu đồng/hộ, phù hợp với 
tăng trưởng nguồn vốn của Ngân hàng phục vụ người nghèo và quy mô 
sử dụng vốn đối với hộ nghèo. 
Về thời hạn cho vay: khi mới thành lập Ngân hàng phục vụ người 
nghèo, thời hạn cho vay trung hạn tối đa 36 tháng và hiện nay thời hạn 
tối đa 60 tháng. Ngoài ra Ngân hàng phục vụ người nghèo còn áp dụng 
các hình thức cho vay lưu vụ, gia hạn nợ, cho vay lại cho đến khi hộ 
nghèo thoát khỏi ngưỡng nghèo, tạo điều kiện thuận lợi cho người nghèo 
hộ nghèo sử dụng vốn tín dụng đầu tư vào sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. 
Bốn là: Đã thiết lập kênh vốn tín dụng riêng để hỗ trợ vốn tín 
dụng cho người nghèo, thực hiện chính sách tín dụng hợp lý, tạo điều 
kiện cho hộ nghèo có vốn sản xuất, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập, 
từng bước làm quen với nền sản xuất hàng hoá. Vốn của Nhà nước đã 
thực sự đến tay người nghèo, người nghèo vay vốn trả nợ khá sòng 
phẳng. 
Tuy đã có sự đổi mới và đạt kết quả cao hơn các phương thức tín 
dụng trước đó song vẫn còn bọc lộ một số tồn tại đó là: 
- Về cơ chế tạo lập nguồn vốn: có thể nói đây là kênh tín dụng của 
Nhà nước, thực hiện cho vay ưu đãi đối với hộ nghèo, là những khoan 
cho vay được chỉ định trước về người sử dụng vốn. Vì vậy nguồn vốn 
của Ngân hàng phục vụ người nghèo cần phải có nguồn gốc từ ngân sách 
Nhà nước. Nhưng hiện nay, nguồn cấp từ ngân sách Nhà nước rất hạn 
chế và không được kế hoạch hoá một cách ổn định. Theo Quyết định 
525/TTg ngày 31/8/1995 của Thủ tướng Chính phủ hàng năm ngân hàng 
người nghèo được cấp bổ sung vốn điều lệ nhưng thực tế 5 năm qua 
Ngân hàng phục vụ người nghèo chỉ được cấp bổ sung vốn điều lệ 200 
tỷ đồng vào năm 1998. 
 35
Khó khăn lớn nhất hiện nay là cơ chế tạo lập nguồn vốn chưa có 
chính sách thoả đáng để xác định nguồn vốn hoạt động. Cần phải khẳng 
định rằng nguồn vốn để thực hiện chính sách tín dụng đối với hộ nghèo 
phải được ngân sách Nhà nước cấp bù. Việc duy trì và tăng trưởng 
nguồn vốn này phụ thuộc vào khối lượng vốn cấp bù của ngân sách Nhà 
nước. Hơn nữa việc tổ chức huy động vốn của Ngân hàng phục vụ người 
nghèo phụ thuộc hoàn toàn vào khả năng huy động vốn, khả năng nguồn 
vốn và quan điểm xử lý cho vay của các ngân hàng thương mại. Do vậy 
Ngân hàng phục vụ người nghèo dễ dàng gặp khó khăn về nguồn vốn và 
dễ có thể bị quá hạn những khoản nợ vay khi các ngân hàng thương mại 
đòi nợ. Với cơ chế này Ngân hàng phục vụ người nghèo luôn phải đối 
phó với các khoản nợ. 
- Về mô hình tổ chức: Mô hình tổ chức của Ngân hàng phục vụ 
người nghèo hiện nay là mô hình kiêm nhiệm. Thành viên Hội đồng 
quản trị và ban đại diện hội đồng quản trị Ngân hàng phục vụ người 
nghèo các cấp, tổ chuyên gia tư vấn là cơ quan chức năng trong bộ máy 
quản lý Nhà nước làm việc theo chế độ kiêm nhiệm nên hạn chế về thời 
gian và điều kiện để thực thi nhiệm vụ. 
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam được 
giao nhiệm vụ điều hành tác nghiệp cho Ngân hàng phục vụ người 
nghèo nhưng do đặc thù mô hình tổ chức của Ngân hàng phục vụ người 
nghèo được thành lập theo hệ thống dọc từ Trung ương đếnđịa phương, 
với phần lớn đội ngũ cán bộ làm kiêm nhiệm nên tính pháp lý, trách 
nhiệm không rõ ràng, sự quan tâm chỉ đạo của ngân hàng nông nghiệp 
và phát triển nông thôn ở một số nơi có những lúc chưa được chú trọng. 
- Đối tượng phục vụ của Ngân hàng phục vụ người nghèo: nguyên 
tắc đặt ra là Ngân hàng phục vụ người nghèo cho hộ nghèo vay vốn theo 
chuẩn mực phân loại hộ đói nghèo do Bộ lao động thương binh và xã 
hội công bố từng thời kỳ nhưng phải là hộ nghèo có sức lao động, có 
điều kiện tổ chức sản xuất kinh doanh nhưng thiếu vốn sản xuất và có 
khả năng hoàn trả vốn. 
Trên thực tế việc lập danh sách hộ nghèo vay vốn ở địa phương do 
cộng đồng dân cư thực hiện và được Ban XĐGN xã bình xét. Việc làm 
này phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng địa phuơng nên mang tính 
tương đối và có sự khác nhau về chuẩn mực đói nghèo giữa các địa 
phương. Mặt khác những hộ nghèo theo tiêu chí phân loại hiện nay 
nhiều hộ nghèo chưa có điều kiện tiếp cận với hệ thống tín dụng của 
Nhà nước vì họ chưa có khả năng tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, 
chưa quen với việc hạch toán lỗ lãi để tạo thu nhập trả nợ ngân hàng. 
Nhưng cũng lại còn một bộ phận người dân có thu nhập thấp (trên 
ngưỡng nghèo theo quy định) mà chưa có điều kiện tiếp cận với tín dụng 
thương mại và cần được hỗ trợ từ kênh tín dụng ưu đãi này. Từ thực tế 
đó nhiều địa phương đã cho vay những hộ gia đình có thu nhập cao hơn 
chuẩn mực của Bộ lao động thương binh và xã hội. Do vậy hiện nay nhiều 
tỉnh, thành phố có số hộ chủ nợ Ngân hàng phục vụ người nghèo cao hơn 
số hộ nghèo đói thực tế của cả nuớc. Trong khi đó nhiều người nghèo, hộ 
 36
nghèo nằm trong diện nghèo đói theo chuẩn mực của Bộ lao động thương 
binh và xã hội vẫn chưa được vay vốn vì không đủ điều kiện vay. 
- Về lãi suất cho vay: Hiện nay trên thị trường nông thôn, đang có 
nhiều nguồn vốn tín dụng phục vụ chương trình XĐGN với nhiều mức 
lãi suất cho vay khác nhau nhưng lãi suất cho vay của ngân hàng phục 
vụ người nghèo lại cao hơn lãi suất cho vay của các nguồn vốn khác. Từ 
đó gây ra hiện tượng so bì tỵ nạnh trong nhân dân, nhiều địa phương 
kiến nghị giảm lãi suất cho vay đối với người nghèo xuống ngang mức 
lãi suất của chương trình dự án khác (như 120,327). Đặc biệt một số nơi 
đã dùng ngân sách địa phương để bù lãi suất cho người nghèo khi vay 
vốn của ngân hàng phục vụ người nghèo, tạo ra lãi suất cho vay đối với 
người nghèo thấp hơn lãi suất qui định hoặc cho vay không lãi, đã gây 
ra một số hạn chế làm cho người vay ỷ lại sẽ dẫn đến lơ là và thiếu trách 
nhiệm trong việc trả nợ gốc và lãi hoặc là nếu đến thời điểm ngân sách 
khó khăn ngừng việc chi cấp bù sẽ dẫn gặp phải việc người vay không 
có thói quen trả nợ. Đồng thời cũng từ việc bù lãi suất nêu trên để cho 
vay theo đối tượng chỉ định, cho vay đồng loạt, thậm chí cho vay ở 
những vùng, những đối tượng quá khó khăn chưa có khả năng sử dụng 
vốn tín dụng dẫn đến chất lượng tín dụng yếu kém. Ngoài ra cũng phải 
xét tới một khía cạnh chủ quan từ phía cán bộ ngân hàng là việc tính 
toán bù một khoản tiền lãi ngay tại ngân sách tỉnh phần nào tạo cho cán 
bộ ngân hàng ít quan tâm tới việc kiểm tra, kiểm soát người vay sử dụng 
vốn và đôn đốc người vay trả nợ. 
 - Việc giải ngân vốn cho vay đối với người nghèo còn chậm. 
Nhiều địa phương vẫn còn tình trạng "vốn treo người nghèo nhịn đói". 
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên có nhiều, ngoại trừ yếu tố mô hình 
tổ chức triển khai chậm thì nói lên một số điểm đó là: 
 + Phân bổ nguồn vốn còn mang tính bình quân, không khảo sát 
theo nhu cầu vốn thực tế nên nơi thừa đọng vốn trong khi nơi khác lại 
thiếu. 
 + Ngân hàng phục vụ người nghèo không thực hiện được trích lập 
rủi ro theo Quyết định số 48/1999/QĐ-NHNN5, ngày 8/2/1999 của 
thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong việc cấp tín dụng mang 
tính đặc thù của khu vực này. Bởi vậy ngân hàng phục vụ người nghèo 
trực tiếp cho vay đối với người nghèo nẩy sinh tư tưởng xét cho vay 
cầm chừng, sợ rủi ro phải chịu trách nhiệm. 
2.2.3. Một số hình thức tín dụng cho người nghèo không chính 
thức ngoài kênh tín dụng ngân hàng. 
 Ngoài kênh tín dụng ngân hàng (tín dụng quốc doanh, tín dụng cổ 
phần...) còn nhiều tổ chức, hiệp hội, đoàn thể và cá nhân thực hiện 
truyền tải vốn cho người nghèo. Song mức độ quy mô đáng kể là các 
quỹ sau đây. 
2.2.3.1. Quỹ hỗ trợ nông dân của hội nông dân Việt Nam. 
 Quỹ hỗ trợ nông dân được Nhà nước cho phép thành lập theo văn 
bản số 4035/KTTH ngày 26/7/1995 của Thủ tướng Chính phủ và đi vào 
 37
hoạt động từ năm 1996. Về tổ chức, quỹ hỗ trợ nông thôn thuộc Hội 
nông dân Việt Nam và có quy mô từ trung ương đến tận cơ sở: Tổ hội, 
chi hội theo xóm, thôn, xã hoặc tổ hội, chi hội nghề nghiệp. 
 Quỹ hỗ trợ nông dân không phải là tổ chức kinh doanh tiền tệ, mà 
là tổ chức dịch vụ hỗ trợ nông dân do Hội nông dân các cấp tổ chức. Chi 
hội và tổ hội nông dân là đơn vị hỗ trợ vốn, là nơi trao đổi kinh nghiệm 
sản xuất, chuyển giao kỹ thuật thông tin, giúp đỡ nông dân tiệu thụ sản 
phẩm, là nơi giải ngân đồng thời là đơn vị thu hồi vốn. Hệ thống tổ chức 
hội các cấp đảm bảo nhận vận hành quỹ, có bộ phận chuyên trách từng 
cấp. Thực chất quĩ hộ trợ nông dân là một dịch vụ tài chính vi mô của tổ 
chức phi Chính phủ trong nước đó là Hội nông dân các cấp. 
 Nguồn vốn huy động của quỹ hỗ trợ nông dân bao gồm sự ủng hộ, 
cho mượn và cho vay với lãi suất thấp của nông dân, các doanh nghiệp 
và đồng bào cả nước, việt kiều và các tổ chức quốc tế. Ngoài ra quỹ còn 
được sự hỗ trợ của Nhà nước theo phương châm "nhà nước và nhân dân 
cùng làm". Mục tiêu của quỹ hỗ trợ nông dân là hỗ trợ vốn cho nông 
dân, trước hết là nông dân nghèo. Tổ chức hoạt động của quỹ gắn bó với 
các hoạt động khác như: chương trình kế hoạch hoá gia đình, chống tệ 
nạn xã hội, chống mù chữ, phong trào nông dân sản xuất giỏi, xây dựng 
nông thôn mới... Lãi suất cho vay của quỹ bao gồm: Lãi suất thấp, 
không lãi suất và lãi suất thị trường tuỳ thuộc nguồn vốn huy động và 
đối tượng cho vay. 
 Qua gần 5 năm hoạt động tổng số quỹ hỗ trợ nông dân là 114,25 tỷ 
đồng, đã hỗ trợ cho 78.956 hộ nghèo và đưa tổng số lượt hộ vay vốn lên 
196.803 hộ. Đến nay đã có 459 huyện, thị và 4065 xã, phường xây dựng 
quỹ hỗ trợ. 
 Ngoài ra các cấp hội vận động cán bộ, hội viên giúp đỡ nhau khắc 
phục hậu quả thiên tai, lũ lụt, hạn hán, tai nạn rủi ro, đói giáp hạt, xây 
dựng nhà tình thương, nhà tình nghĩa, gia đình thương binh liệt sỹ, bà 
mẹ Việt Nam anh hùng.... Với số tiền 46.036 triệu đồng, 4.103.951 kg 
gạo, 54 tấn thóc giống, 42.000 gói mì tôm, 10.584 bộ quần áo, 42.895 
triệu đồng vật tư phân bón, giúp 335.757 hộ khó khăn và đồng bào miền 
Trung bị lũ lụt. Làm 1090 nhà tình thương và 3022 nhà tình nghĩa. Mua 
7.957 sổ tiết kiệm tình nghĩa trị giá 8.682 triệu đồng giúp gia đình 
thương binh liệt sỹ, mẹ Việt Nam anh hùng, trẻ em nhiễm chất độc mầu 
da cam... 
 Tổ chức 1443 lớp tập huấn dân số kế hoạch hoá gia đình cho 
83.086 cán bộ hội viên, tiến hành 23.367 buổi truyền thông cho 
1.522.356 lượt hội viên nông dân. Kết quả đã có 3.251.636 hộ đăng ký 
xây dựng gia đình đạt 6 tiêu chuẩn, qua bình xét đã có 2.133.701 hộ đạt 
6 tiêu chuẩn, 791.913 hộ không sinh con thứ 3 và 7973 người đình sản. 
Mở 1340 lớp phòng chống HIV/AIDS có 112.528 hội viên, nông dân 
tham gia học tập; 712 lớp học phòng chống ma tuý cho 48.766 người, 
350 lớp bồi dưỡng cho 13.805 hội viên nâng cao kiến thức về giới... 
 Tuy nhiên qua nghiên cứu mô hình tổ chức tín dụng không chính 
thức này tôi thấy nổi bật mấy vấn đề cần quan tâm là: 
 38
 Thứ nhất: Cần xác định quỹ hỗ trợ nông dân là một tổ chức dịch 
vụ tài chính vi mô trong hệ thống tài chính vi mô trên thị trường tài 
chính nông thôn Việt Nam hiện nay. Sự hiện diện của nó vừa đáp ứng 
thêm vốn cho nông dân vừa thuận tiện, tiết kiệm chi phí tiếp cận cho cả 
người cho vay và người đi vay. Mặt khác với lợi thế của m ình, quỹ hỗ 
trợ nông dân phát huy được khả năng huy động vốn trực tiếp của nông 
dân để vay trực tiếp đến tay nông dân. 
 Thứ hai: Với vị thế của m ình, quỹ hỗ trợ nông dân có khả năng 
thu hút được nhiều nguồn tài trợ trong và ngoài nước cho nông nghiệp 
nông thôn và nông dân. Thông qua tài trợ trực tiếp cho quỹ hoặc thông 
qua các dự án tài chính vi mô đối với nông thôn. 
 Thứ ba: Do không đủ yếu tố pháp lý nên thể chế tài này bị hạn chế 
trong đảm bảo các khoản vốn huy động cho vay, cũng như xử lý rủi ro. 
Mặt khác khả năng hoạt động của quỹ hỗ trợ nông dân cũng bị giới hạn 
bởi sự yếu kém về mặt tổ chức nghiệp vụ. 
 Thứ tư: Sự ra đời của quỹ hỗ trợ nông dân tất yếu là tác nhân làm 
gia tăng sự lộn xộn trên thị trường tín dụng nông thôn nói chung và thị 
trường vốn cho nông dân nghèo nói riêng. Do lãi suất không phù hợp 
với lãi suất cho vay của các nguồn vốn khác đối với nông dân nghèo đã 
dẫn đến sự suy bì trong cộng đồng người nghèo. Mặt khác đối tượng cho 
vay không thống nhất đã phát sinh cho vay chồng chéo, người vay được, 
nhiều người không được vay. 
2.2.3.2. Các quỹ tương trợ của hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam. 
 Các quỹ tương trợ của hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam thực hiện 
chương trình khai thác và quản lý các nguồn vốn: vốn dự án quốc tế, 
vốn vay ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn và ngân hàng 
phục vụ người nghèo thông qua hình thức tín chấp, vốn đóng góp của 
hội viên, vốn đóng góp của hội viên, vốn tài trợ của các tổ chức cá nhân 
khác. Nguồn vốn của quỹ dùng để hỗ trợ cho phụ nữ trước hết là phụ nữ 
nông dân nghèo vay phát triển sản xuất, kinh tế gia đình để tăng thu 
nhập. 
 Vốn từ các nguồn khác nhau nên lãi suất, phương thức và thời hạn 
cho vay rất đa dạng và khác nhau. Song mục tiêu xuyên suốt hàng đầu là hỗ 
trợ vốn sản xuất cho phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ nghèo. 
 Qua các năm hoạt động, các quỹ tương trợ của Hội liên hiệp phụ 
nữ Việt Nam đã đạt được một số kết quả sau: 
 - Về huy động vốn và cung cấp vốn tín dụng cho phụ nữ: trong 
những năm qua đã huy động được nguồn vốn trên 4000 tỷ đồng và cho 6 
triệu lượt phụ nữ vay (trong đó có hơn 4 triệu phụ nữ nghèo). 
 Với mô hình tín dụng - tiết kiệm của nhóm phụ nữ tiết kiệm do 
Hội thành lập đến nay cả nước đã có gần 400 ngàn nhóm, số vốn tiết 
kiệm được là 335 tỷ đồng. Nhóm phụ nữ tiết kiệm không chỉ cho phụ nữ 
vay vốn, mà còn là nơi để phụ nữ nghèo được tham gia các hoạt động xã 
hội của mình thông qua các hoạt động, chị em còn được phổ biến nâng 
cao kiến thức về mọi mặt. Bên cạnh mô hình trên, Hội còn phát động 
 39
"ngày tiết kiệm vì phụ nữ nghèo" đã thu hút được sự tham gia rộng rãi 
của cả cộng đồng, với số tiền là 122 tỷ đồng và đã có 200 ngàn phụ nữ 
nghèo ở các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng 
được vay vốn này. 
 Với vai trò tín chấp Hội đã tạo điều kiện cho phụ nữ nghèo được 
tiếp cận các nguồn vốn tín dụng chính thức. Sau 4 năm thực hiện hội đã 
tín chấp cho 12.750 phụ nữ nghèo ở 51 xã được vay vốn của ngân hàng 
với số tiền là 12,7 tỷ đồng. Qua khảo sát các đối tượng phụ nữ nghèo 
vay vốn của "quỹ tình thương" cho thấy 86% số chị em đã vượt qua 
nghèo khổ, thu nhập gia đình của họ đẵ tăng từ 1,6 đến 3 lần so với 
trước. 
 - Đi đôi với cung cấp vay vốn, việc bồi dưỡng kiến thức cho phụ 
nữ là quan trọng và cần thiết: Đồng vốn chỉ có nghĩa khi người sử dụng 
nó biết dùng vào việc gì có lợi, dùng như thế nào và có phù hợp với khả 
năng của họ hay không. ở đây bao gồm 2 mặt: kiến thức khoa học kỹ 
thuật và kiến thức tổ chức sản xuất kinh doanh - thiếu kiến thức thì đồng 
vốn không những không có tác dụng mà nhiều khi còn là gánh nặng 
thêm cho người nghèo khi không có khả năng trả nợ từ kết quả sản xuất 
của họ. 
 Tuy đã đạt được nhiều kết quả nhưng so với yêu cầu thực tiễn thì 
hoạt động này cũng đang gặp rất nhiều vấn đền gay cấn cần phải được 
tiếp tục giải quyết như: 
 Nguồn vốn của các quỹ rất hạn hẹp trong khi đó nhu cầu vay vốn 
của phụ nữ lại rất cao, còn nhiều phụ nữ nghèo chưa được vay vốn, vốn 
vay bị xé nhỏ, thời gian vay ngắn chưa phù hợp với yêu cầu sản xuất. 
 Việc cung cấp kiến thức và nâng cao năng lực sản xuất cho phụ nữ 
còn nhiều hạn chế, số phụ nữ tham gia chưa nhiều. 
2.2.4. Nguồn hợp tác quốc tế. 
Trong những năm gần đây, vấn đề xoá đói giảm nghèo không còn 
là vấn đề của mỗi quốc gia mà là vấn đền mang tính chất toàn cầu, nhiều 
tổ chức, nhiều quốc gia quan tâm. 
 Việt Nam với quan điểm mở rộng không ngừng và nâng cao hiệu 
quả hợp tác quốc tế nhằm tạo điều kiện và nguồn lực ưu tiên các đối 
tượng đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc 
thiểu số... Hợp tác quốc tế về xoá đói giảm nghèo những năm qua đã 
không ngừng phát triển cả về qui mô, chất lượng và hiệu qủa trở thành 
một lĩnh vực không chỉ được ưu tiên trong ngành lao động - thương binh 
và xã hội mà còn được chính phủ quan tâm. 
 Nguồn hỗ trợ quốc tế (Chính phủ và phi Chính phủ) cho công tác 
xoá đói giảm nghèo không trực tiếp chuyển tiền đến cho người nghéo 
mà chủ yếu là thông qua các tổ chức, các cơ quan làm trung gian, hình 
thành các dự án về xoá đói giảm nghèo. 
2.2.4.1. Nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA). 
 40
 Lớn nhất và sớm nhất phải kể đến đó là dự án hợp tác Việt Đức về 
xoá đói giảm nghèo do Chính phủ Cộng hoà Liên bang Đức tài trợ bao 
gồm: 
 Dự án 7 triệu Dm (Mác Đức) lập quỹ tín dụng quay vòng cho hộ đói 
nghèo vay vốn để sản xuất kinh doanh, dịch vụ 3 tỉnh miền trung (Hà Tĩnh, 
Nghệ An, Quảng Bình) bắt đầu thực hiện từ năm 1996. 
 Dự án hợp tác kỹ thuật cho xoá đói giảm nghèo 1,5 triệu DM để 
nâng cao năng lực hoạch định chính sách và trình độ cán bộ xoá đói 
giảm nghèo các cấp tại 3 tỉnh thực hiện dự án 7 triệu DM (Hà Tĩnh, 
Nghệ An, Quảng Bình) và tỉnh Quảng Trị bắt đầu thực hiện từ giữa năm 
1996. Dự án hợp tác kỹ thuật 1,5 triệu DM nâng cao năng lực xoá đói 
giảm nghèo cho hai tỉnh Hà Tĩnh và Yên Bái trong 2 năm 1999 - 2000. 
 Dự án 5 triệu DM lập quỹ tín dụng quay vòng cho hộ đói nghèo 
vay vốn để sản xuất, kinh doanh, dịch vụ ở 7 tỉnh miền núi phía Bắc 
(Lào Cai, Yên Bái, Sơn La, Lai Châu, Hoà B ình, Bắc Cạn, Thái Nguyên) 
bắt đầu từ năm 1997. 
 Tiếp đến ESCAF/FAO tuy hỗ trợ bằng tiền chưa nhiều nhưng đã 
tạo được một phương pháp "nhân điển hình thành đạt trong xoá đói giảm 
nghèo" tại Đồng Nai thông qua một dự án nhỏ tổng kinh phí 10.750 
USD cho suốt quá trình hoạt động. 
 Khả năng hợp tác quốc tế về xoá đói giảm nghèo từ vốn ODA là 
rất lớn như dự án giảm nghèo đói ở miền núi phía Bắc (vốn vay WB) với 
số vốn là 110 triệu USD, dự án giảm nghèo đói ở các tỉnh miền Trung 
(vay ADB) hàng trăm triệu USD. 
2.2.4.2. Nguồn viện trợ của các tổ chức phi Chính phủ. 
 Đáng kể nhất là các dự án do tổ chức nhà thờ Cộng hoà Liên bang 
Đức (MISEREOR) tài trợ. Hiện nay 38 dự án (khoảng 14 tỷ đồng) của tổ 
chức này đang thực hiện với quy mô nhỏ mang tính chất thí điểm ở phạm 
vi xã trong thời gian tới sẽ tiếp tục mở rộng dự án nâng cao năng lực cho 
các hộ nghèo và người nghèo vùng dự án. 
 Ngoài tổ chức MIESEREOR, một số tổ chức NGO khác như 
CENDHRA, tầm nhìn thế giới... cũng có dự án giúp Việt Nam dưới hình 
thức "ngân hàng Bò", đào tạo nghề cho người nghèo... 
 Cũng không thể không kể đến các dự án đã tác động rất tích cực 
cho công tác xoá đói giảm nghèo thông qua các chương trình tái hoà 
nhập người hồi hương của cộng đồng châu Âu, (1) chương trình ECIP 
(The European Community International Program) khoảng 75 triệu 
USD, (2) chương trình RAP (Returees Assitance Program) khoảng 20 
triệu USD, (3) Dự án hoà nhập lực lượng chuyên môn từ Đức khoảng 30 
triệu DM, (4) từ Cộng hoà Séc và Slovakia khoảng 14 triệu USD. Đây là 
các dự án, chương
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
Luận văn- ạo lập và sử dụng vốn cho người nghèo, thực trạng - giải pháp.pdf