Luận văn Tăng cường huy động vốn tự do nhà nước cho ngân sách nhà nước và cho đầu tư phát triển qua việc phát hành trái phiếu chính phủ

Tài liệu Luận văn Tăng cường huy động vốn tự do nhà nước cho ngân sách nhà nước và cho đầu tư phát triển qua việc phát hành trái phiếu chính phủ: 1 MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT DANH MỤC BIỂU ĐỒ VÀ PHỤ LỤC MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1 : MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TDNN VÀ TPCP 5 1.1 – CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TDNN 5 1.1.1. Khái niệm về TDNN 5 1.1.2. Bản chất của TDNN 6 1.1.3. Đặc điểm của TDNN 6 1.1.4. Chức năng của TDNN 8 1.2 – TPCP - CÔNG CỤ HUY ĐỘNG VỐN TDNN CHO NSNN VÀ CHO ĐTPT 10 1.2.1. Khái niệm về TPCP 10 1.2.2. Phân loại TPCP 10 1.2.3. Các yếu tố cơ bản của TPCP 14 1.2.4. Các phương thức phát hành TPCP để huy động vốn cho NSNN và cho ĐTPT 15 1.2.5. Vai trò của TPCP 18 1.3 – KINH NGHIỆM PHÁT HÀNH TPCP Ở MỘT SỐ QUỐC GIA: 21 1.3.1. Phát hành TPCP ở Mỹ 21 1.3.2. Phát hành TPCP ở Nhật Bản 22 1.3.3. Phát hành TPCP ở Trung Quốc 23 1.3.4. Một số bài học kinh nghiệm về phát hành TPCP ở các nước 24 CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TDNN CHO NSNN VÀ CHO ĐTPT QUA VIỆC PHÁT HÀNH TPCP GIAI ĐOẠN 1991 ...

pdf85 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 931 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Tăng cường huy động vốn tự do nhà nước cho ngân sách nhà nước và cho đầu tư phát triển qua việc phát hành trái phiếu chính phủ, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT DANH MỤC BIỂU ĐỒ VÀ PHỤ LỤC MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1 : MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TDNN VÀ TPCP 5 1.1 – CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TDNN 5 1.1.1. Khái niệm về TDNN 5 1.1.2. Bản chất của TDNN 6 1.1.3. Đặc điểm của TDNN 6 1.1.4. Chức năng của TDNN 8 1.2 – TPCP - CÔNG CỤ HUY ĐỘNG VỐN TDNN CHO NSNN VÀ CHO ĐTPT 10 1.2.1. Khái niệm về TPCP 10 1.2.2. Phân loại TPCP 10 1.2.3. Các yếu tố cơ bản của TPCP 14 1.2.4. Các phương thức phát hành TPCP để huy động vốn cho NSNN và cho ĐTPT 15 1.2.5. Vai trò của TPCP 18 1.3 – KINH NGHIỆM PHÁT HÀNH TPCP Ở MỘT SỐ QUỐC GIA: 21 1.3.1. Phát hành TPCP ở Mỹ 21 1.3.2. Phát hành TPCP ở Nhật Bản 22 1.3.3. Phát hành TPCP ở Trung Quốc 23 1.3.4. Một số bài học kinh nghiệm về phát hành TPCP ở các nước 24 CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TDNN CHO NSNN VÀ CHO ĐTPT QUA VIỆC PHÁT HÀNH TPCP GIAI ĐOẠN 1991 - 2004 27 2.1- THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TDNN CHO NSNN VÀ CHO ĐTPT QUA VIỆC PHÁT HÀNH TPCP GIAI ĐOẠN 1991 - 2004 28 2.1.1. Phát hành tín phiếu Kho bạc 28 2.1.2. Phát hành trái phiếu Kho bạc 32 2.1.3. Phát hành công trái xây dựng tổ quốc 39 2.1.4. Phát hành trái phiếu công trình 41 2 2.1.5. Phát hành trái phiếu ngoại tệ 43 2.2- ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HUY ĐỘNG VỐN TDNN CHO NSNN VÀ CHO ĐTPT QUA VIỆC PHÁT HÀNH TPCP GIAI ĐOẠN 1991 - 2004 45 2.2.1. Những ưu điểm và thành tựu đạt được 45 2.2.2. Những tồn tại và hạn chế 49 2.2.3. Các nguyên chủ yếu của tồn tại và hạn chế 49 CHƯƠNG 3 : GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG VỐN TDNN CHO NSNN VÀ ĐTPT QUA VIỆC PHÁT HÀNH TPCP TRONG GIAI ĐOẠN TỚI 55 3.1 – MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ NHIỆM VỤ HUY ĐỘNG VỐN CHO NSNN VÀ ĐTPT GIAI ĐOẠN 2001 - 2010 55 3.2 – GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG VỐN TDNN CHO NSNN VÀ ĐTPT QUA VIỆC PHÁT HÀNH TPCP TRONG GIAI ĐOẠN TỚI 56 3.2.1 – Đa dạng hóa TPCP phát hành 57 3.2.1 –Tiêu chuẩn hóa TPCP phát hành 58 3.2.3 – Xây dựng lãi suất TPCP phù hợp với nguyên tắc thị trường 59 3.2.4 – Củng cố và hoàn thiện các phương thức phát hành TPCP 60 3.2.5 – Phát triển thị trường thứ cấp TPCP 63 3.2.6 – Cải tiến công tác kế hoạch hoá phát hành TPCP 66 3.2.7 – Ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác phát hành, quản lý và thanh toán TPCP 66 3.2.8 – Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ và đẩy mạnh tuyên truyền về TPCP và thị trường TPCP 67 3.2.9 – Tạo lập môi trường kinh tế vĩ mô ổn định 68 3.2.10 – Hoàn thiện khung pháp lý phát hành TPCP để huy động vốn cho NSNN và cho ĐTPT 69 KẾT LUẬN 71 PHỤ LỤC DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 3 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Để bù đắp thiếu hụt NSNN và bổ sung nguồn vốn cho ĐTPT nhằm thúc đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế - xã hội, Nhà nước có thể sử dụng nhiều công cụ và giải pháp khác nhau như : tăng thuế, phát hành tiền hoặc vay nợ, trong đó huy động vốn TDNN dưới hình thức phát hành TPCP là một giải pháp tài chính quan trọng. Cùng với việc thành lập hệ thống KBNN (01/4/1990) công tác huy động vốn cho NSNN và cho ĐTPT dưới hình thức phát hành TPCP được bắt đầu triển khai thực hiện từ tháng 3/1991. Cho đến nay công tác huy động vốn dưới hình thức TPCP đã dần được hoàn thiện và phát triển không ngừng cả về qui mô và phương thức phát hành. Từ chổ khối lượng TPCP phát hành chỉ chiếm 1,2% GDP giai đoạn 1991-1995, đã nâng lên 3,9% GDP trong giai đoạn từ 2001 đến nay. Từ việc chỉ phát hành tín phiếu ngắn hạn bán lẻ qua hệ thống KBNN để bù đắp thiếu hụt tạm thời cho NSNN, đã phát triển các loại trái phiếu trung hạn dưới các hình thức đấu thầu và bảo lãnh phát hành trên thị trường vốn cho mục đích ĐTPT. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì hoạt động huy động vốn TDNN dưới hình thức TPCP cũng còn một số khó khăn, hạn chế như : qui mô huy động vốn chưa đáp ứng được nhu cầu về vốn để phát triển nền kinh tế ; TPCP ngắn hạn còn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số TPCP đã phát hành nên lượng TPCP phát hành mới chủ yếu là trả nợ củ đến hạn, ảnh hưởng đến việc sử dụng vốn cho mục đích ĐTPT ; các phương thức phát hành nhìn chung còn đơn giản ; kế hoạch phát hành còn bị động, phụ thuộc nhiều vào kế hoạch bù đắp bội chi NSNN ; thị trường giao dịch TPCP còn nhiều hạn chế, chưa thúc đẩy thị trường vốn dài hạn phát triển nhằm khai thác triệt để tiềm lực vốn trong nền kinh tế… Trong những năm sắp đến, xuất phát từ yêu cầu phát triển nhanh nền kinh tế của đất nước, đòi hỏi Nhà nước phải có nguồn lực tài chính đủ mạnh để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của NSNN được tăng cường cả về quy mô và tốc độ nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đề ra. Thực trạng trên đòi hỏi cần tăng cường hơn nữa công tác huy động vốn TDNN cho NSNN và cho ĐTPT qua việc phát hành TPCP. 4 Xuất phát từ lý do trên, tác giả đã chọn đề tài “Tăng cường huy động vốn TDNN cho NSNN và cho ĐTPT qua việc phát hành TPCP”. 2. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu cơ sở lý luận về TDNN và TPCP, tham khảo kinh nghiệm phát hành TPCP của một số nước trên thế giới để từ đó áp dụng vào thực tiễn công tác phát hành TPCP của nước ta. Nghiên cứu thực trạng phát hành TPCP ở nước ta trong thời gian qua, đánh giá những thành tựu đã đạt được và những tồn tại, hạn chế qua đó đề xuất những giải pháp nhằm tăng cường công tác huy động vốn TDNN cho NSNN và cho ĐTPT qua việc phát hành TPCP ở Việt Nam trong những năm sắp đến. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là TPCP trong việc huy động vốn TDNN cho NSNN và cho ĐTPT. Phạm vi nghiên cứu của luận văn là thực trạng huy động vốn TDNN cho NSNN và cho ĐTPT qua việc phát hành TPCP giai đoạn 1991 - 2004 và những giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường và hoàn thiện công tác phát hành TPCP huy động vốn cho NSNN và cho ĐTPT trong giai đoạn tới. 4. Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu như : phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin, kết hợp với các phương pháp truyền thống như phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kế, phương pháp so sánh và phân tích… 5. Kết cấu nội dung của luận văn Nội dung của luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận, gồm 3 chương : Chương 1 : Một số vấn đề lý luận về TDNN và TPCP Chương 2 : Thực trạng huy động vốn TDNN cho NSNN và cho ĐTPT qua việc phát hành TPCP giai đoạn 1991 - 2004 Chương 3 : Giải pháp tăng cường huy động vốn TDNN cho NSNN và cho ĐTPT qua việc phát hành TPCP trong giai đoạn tới 5 CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TDNN VÀ TPCP 1.1 – CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TDNN 1.1.1. Khái niệm về TDNN Tín dụng ra đời gắn liền với sự ra đời của sản xuất hàng hoá - tiền tệ, sự phân công lao động xã hội và sự xuất hiện sỡ hữu tư nhân và tư liệu sản xuất. Tín dụng phản ảnh các quan hệ vay mượn, sử dụng vốn lẫn nhau dựa trên nguyên tắc hoàn trả, nó thể hiện ra bên ngoài như là sự vay mượn tạm thời một vật hay một số tiền tệ trong đó hai chủ thể người đi vay và cho vay sẽ thoả thuận một thời hạn nợ và một mức lãi cụ thể. Nếu xét trên một nghĩa rộng hơn, tín dụng là sự vận động của các nguồn vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu. Mặt khác, tín dụng còn thể hiện niềm tin của người cho vay hướng về người đi vay sau một thời gian nhất định sẽ hoàn trả vốn vay. Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường đã ra đời và tồn tại nhiều hình thức tín dụng khác nhau như : tín dụng nặng lãi, tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, TDNN… Các quan hệ tín dụng có sự khác nhau về tính chất, đặc điểm nhưng bất kỳ ở dạng nào thì tín dụng cũng dựa trên nguyên tắc có hoàn trả (cả vốn lẫn lãi) sau một thời gian nhất định. Chính tính chất hoàn trả này của tín dụng là biểu hiện đặc trưng nhất của sự khác biệt giữa quan hệ tín dụng với các quan hệ kinh tế khác. TDNN là loại tín dụng gắn liền với Nhà nước - một chủ thể quan trọng trong quan hệ tín dụng. TDNN ra đời từ rất sớm, theo một số nhà nghiên cứu chuyên môn cho rằng TDNN đã xuất hiện từ thời kỳ chiếm hữu nô lệ. TDNN phản ảnh mối quan hệ tín dụng giữa Nhà nước với dân cư và các chủ thể kinh tế khác, trong đó Nhà nước là người đi vay, đồng thời là người cho vay để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình trong quản lý kinh tế - xã hội. TDNN còn nảy sinh trong quan hệ đối ngoại giữa Chính phủ nước này với nước khác hoặc với các tổ chức tiền tệ - tín dụng quốc tế. Như vậy, TDNN là một phạm trù kinh tế gắn liền với chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, phản ảnh mối quan hệ tín dụng trong đó Nhà nước là người đi vay để đảm bảo các khoản chi tiêu của NSNN, đồng thời là 6 người cho vay để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình trong quản lý kinh tế - xã hội và phát triển quan hệ đối ngoại. 1.1.2. Bản chất của TDNN Hình thức biểu hiển bên ngoài của TDNN là sự vay mượn tạm thời một vật hoặc một số vốn tiền tệ, nhưng bản chất bên trong chứa đựng mối quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay thông qua sự vận động giá trị vốn tín dụng được phân phối tạm thời từ người cho vay sang người đi vay. Bản chất của TDNN, một mặt cũng có đặc trưng là sự hoàn trả và có lợi tức giống như bản chất của tín dụng nói chung. Mặt khác, nó còn có những đặc trưng khác đó là tính nghĩa vụ, chính trị, xã hội. Những đặc trưng này xuất phát từ quyền lực chính trị, từ những chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trong quản lý kinh tế - xã hội và quan hệ đối ngoại. Ngoài ra bản chất của TDNN còn phụ thuộc và chuyển biến theo sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội và gắn liền với bản chất của Nhà nước. Bản chất TDNN trong thời kỳ nô lệ, phong kiến mang tính cưỡng chế, bất bình đẳng giữa Nhà nước và các chủ thể khác. Bản chất TDNN thời kỳ Tư bản chủ nghĩa khởi đầu chú trọng sự tự nguyện và tính lợi ích kinh tế, có ý nghĩa tích cực hơn. Bản chất TDNN trong thời đại ngày nay vừa kế thừa những mặt tích cực của giai đoạn TDNN thời kỳ đầu Tư bản chủ nghĩa, vừa được mở rộng nhiều mối quan hệ kinh tế - chính trị - xã hội trong nước và quốc tế, thể hiện rỏ nét bản chất của Nhà nước hiện đại. 1.1.3. Đặc điểm của TDNN TDNN cũng là một hình thức của phạm trù tín dụng nên nó cũng có những đặc điểm cơ bản của tín dụng, đó là: - Quan hệ tín dụng chỉ thay đổi quyền sử dụng vốn tín dụng mà không thay đổi quyền sỡ hữu vốn tín dụng: người đi vay không phải là chủ sỡ hữu vốn vay mà chỉ là người có quyền sử dụng tạm thời vốn vay vào mục đích của mình, còn người cho vay mới là người chủ sỡ hữu vốn vay. - Thời hạn tín dụng được xác định do thoả thuận giữa người cho vay và người đi vay, nghĩa là sau một thời gian sử dụng nhất định người đi vay phải hoàn trả vốn vay và lãi vay cho sỡ hữu vốn vay. Đây là dấu hiệu phân biệt phạm trù tín dụng với những phạm trù kinh tế khác. Ngoài ra, xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ và vai trò của Nhà nước trong 7 quản lý kinh tế - xã hội, mở rộng các quan hệ đối ngoại nên TDNN còn có những đặc điểm riêng của mình, đó là : - TDNN gắn liền với hoạt động NSNN TDNN là một hoạt động thuộc lãnh vực tài chính - tiền tệ, gắn liền với hoạt động của NSNN, nó thể hiện Nhà nước vừa là người đi vay để đài thọ các khoản chi của NSNN, vừa là người cho vay để thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý kinh tế -xã hội, phát triển kinh tế đối ngoại của Nhà nước. - TDNN vừa mang tính lợi ích kinh tế, vừa mang ý nghĩa chính trị, vừa có tính tự nguyện thoả thuận, vừa mang tính nghĩa vụ bắt buộc Khác với các loại hình tín dụng khác dựa trên cơ sở thoả thuận, theo cơ chế thị trường và mang lợi ích kinh tế là chủ yếu, thì TDNN vừa mang tính lợi ích kinh tế vừa mang ý nghĩa chính trị, vừa có tính tự nguyện thoả thuận vừa mang tính nghĩa vụ bắt buộc. Tính chính trị của TDNN thể hiện lòng tin của nhân dân đối với Chính phủ, thể hiện trách nhiệm của Chính phủ đối với nhân dân qua việc cho dân vay ưu đãi; thể hiện mối quan hệ chính trị, ngoại giao giữa Chính phủ các nước với các tổ chức tài chính - tiền tệ thế giới qua việc ký kết các hiệp định vay nợ và phát hành TPCP ra nước ngoài. TDNN mang tính nghĩa vụ bắt buộc khi Nhà nước có thể huy động vốn trong nước bằng cách phát hành các loại công trái phiếu mang tính nghĩa vụ, bắt buộc; yếu tố lợi ích kinh tế trong trường hợp này chỉ là yếu tố phụ. - Phạm vi huy động vốn của TDNN rộng lớn, cả trong nước lẫn nước ngoài Trong nước, TDNN huy động vốn tạm thời nhàn rổi của mọi tầng lớp dân cư, các tổ chức đoàn thể xã hội, các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp, các tổ chức tài chính trung gian… thông qua các hình thức phát hành công trái, các loại tín phiếu, TPCP. Ở nước ngoài, việc huy động vốn được thông qua vay vốn ODA và phát hành trái phiếu quốc tế của Chính phủ ra nước ngoài. - Đối tượng huy động vốn của TDNN phong phú, hình thức huy động vốn đa dạng 8 TDNN có thể huy động vốn bằng tiền, vàng, ngoại tệ, hiện vật dưới nhiều hình thức khác nhau như: công trái, TPCP vô danh, ký danh; bằng chứng chỉ hoặc ghi sổ; có thể thanh toán từng lần hoặc một lần khi đến hạn; có thể thanh toán ở nơi phát hành hoặc trong phạm vi cả nước… điều đó tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng dễ dàng tiếp cận giao dịch với TDNN, giúp cho Nhà nước có thể huy động vốn nhanh chóng và chủ động đảm bảo các khoản chi tiêu từ nguồn vốn TDNN. - Lợi ích kinh tế của TDNN chứa đựng nhiều nội dung khác nhau một cách trực tiếp hoặc gián tiếp Ngoài việc hưởng lãi từ việc mua công trái, TPCP người dân còn được hưởng những tiện ích do những công trình phúc lợi công cộng mang lại từ nguồn vốn đầu tư của TDNN. Ngoài ra Nhà nước còn cho các đối tượng chính sách xã hội vay vốn ưu đãi với lãi suất thấp hoặc không thu lãi nhằm ổn định chính trị, an ninh, trật tự xã hội, xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm… Còn đối với việc vay nợ nước ngoài, nước đi vay được hưởng lãi suất thấp, thời gian ân hạn dài; nước cho vay được lợi qua việc giao thầu thi công các công trình dự án, tiêu thụ hàng hoá xuất khẩu và một số quyền lợi khác theo hiệp định đã được ký kết giữa hai nước, hai Chính phủ. 1.1.4. Chức năng của TDNN Xuất phát từ chức năng cơ bản của tín dụng nói chung và từ những chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trong quản lý kinh tế - xã hội. TDNN có những chức năng chủ yếu sau đây - Chức năng bù đắp thiếu hụt NSNN Đây là chức năng cơ bản nhất của TDNN. TDNN ra đời thoạt tiên là huy động vốn nhằm bù đắp thiếu hụt của NSNN. NSNN thiếu hụt là hiện tượng diễn ra phổ biến ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, bất kể đó là nước nghèo, đang phát triển hay các nước có nền kinh tế đã phát triển. Bội chi NSNN có thể là yếu tố khách quan của sự mất cân đối của nền kinh tế, hoặc xuất phát từ ý chí chủ quan của Nhà nước trước yêu cầu gia tăng vốn ĐTPT từ NSNN để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ nhất định. Bội chi NSNN có thể được bù đắp bằng các biện pháp khác nhau: vay nợ trong nước, vay nợ nước ngoài hoặc phát hành tiền. Trong đó biện pháp vay nợ trong nước là biện pháp phổ biến được nhiều nước áp dụng, mặt tích cực của biện pháp này là tác động tăng trưởng kinh tế mà không dẫn đến lạm phát, nền tài chính - tiền tệ của quốc gia được giữ vững. 9 - Chức năng tập trung và phân phối lại các nguồn lực tài chính trong xã hội dựa trên nguyên tắc có hoàn trả Thông qua TDNN, Nhà nước có thể huy động mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong cũng như ngoài nước, đồng thời phân phối lại một phần nguồn lực của xã hội nhằm thoả mãn nhu cầu ĐTPT hoặc tiêu dùng. Khác với cấp phát không hoàn lại của NSNN, chức năng phân phối của TDNN là phân phối có hoàn lại. Nhà nước sử dụng TDNN như là một biện pháp hỗ trợ tài chính của Nhà nước cho các mục tiêu, chương trình dự án được Nhà nước phê duyệt; là một giải pháp cung cấp, hổ trợ vốn cho các chủ thể nhằm thoả mãn nhu cầu đầu tư hoặc tiêu dùng của họ; tạo điều kiện thúc đẩy lưu thông hàng hoá phát triển, mở rộng và phát triển sản xuất, tạo công ăn việc làm và thúc đẩy hiệu quả sử dụng vốn. Mặt khác, TDNN là biện pháp để Nhà nước tổ chức quản lý, sử dụng quỹ tiền tệ của Nhà nước một cách có hiệu quả nhất, từ đó là đòn bẩy kinh tế quan trọng để điều tiết tỷ lệ giữa tích lũy và tiêu dùng. - Chức năng kiểm tra, kiểm soát tài chính, các hoạt động kinh tế Trong quan hệ tín dụng người cho vay vốn không chỉ quan tâm đến lợi ích do việc cho vay vốn mang lại, mà còn quan tâm đến việc ngăn ngừa rủi ro, mất vốn. Do đó, mà người cho vay phải kiểm tra việc sử dụng vốn vay của người đi vay, vì vậy, kiểm tra là một trong những chức năng quan trọng của tín dụng. Đối với TDNN, với vai trò là người đi vay ở phạm vi trong nước, chức năng kiểm tra của TDNN thể hiện qua sự tín nhiệm của người dân đối với Chính phủ. Nhưng đối với việc vay nợ nước ngoài, Chính phủ phải chịu sự kiểm tra nhiều mặt của các tổ chức tài trợ về việc sử dụng vốn vay nợ nước ngoài. Với vai trò là người cho vay, ở phạm vi trong nước, chức năng kiểm tra của TDNN được thực hiện trước, trong và sau quá trình phát sinh quan hệ tín dụng như : thẩm định dự án vay vốn, kiểm tra việc thế chấp tài sản, bảo lãnh tín chấp, kiểm tra việc sử dụng vốn vay… Trong phạm vi đối ngoại, chức năng kiểm tra được thực hiện qua việc đàm phán, tìm hiểu nhau giữa các đối tác, kiểm tra các dự án tiền khả thi, bảo lãnh vốn vay, tư vấn tài trợ, kiểm tra việc sử dụng vốn vay ODA… Mặt khác với chức năng tổ chức và quản lý nền kinh tế, Nhà nước sử dụng TDNN như một công cụ kiểm soát các hoạt động của nền kinh tế, quá trình sản xuất và phân phối sản phẩm xã hội, đảm bảo sử dụng vốn TDNN đạt được hiệu quả cao. 10 1.2 – TPCP - CÔNG CỤ HUY ĐỘNG VỐN TDNN CHO NSNN VÀ CHO ĐTPT 1.2.1. Khái niệm về TPCP Trái phiếu là loại chứng khoán nợ, người phát hành với tư cách là người đi vay, người mua trái phiếu được gọi là trái chủ. Nhà phát hành phải trả cho trái chủ cả gốc và lãi tại một thời điểm nhất định. TPCP là một loại chứng khoán nợ do Chính phủ phát hành, có thời hạn, mệnh giá, lãi suất và xác nhận nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ đối với người sở hữu trái phiếu. Chính phủ của một quốc gia luôn được xem là nhà phát hành có uy tín nhất trên thị trường. TPCP là tên gọi chung cho các loại trái phiếu do KBNN phát hành, trái phiếu do chính quyền địa phương, các cơ quan được Chính phủ cho phép phát hành và được Chính phủ bảo đảm. Mục đích của việc phát hành TPCP là nhằm huy động vốn để bù đắp thiếu hụt NSNN hoặc để đầu tư xây dựng các công trình, dự án trọng điểm, các chương trình mục tiêu của Chính phủ. Nguồn thanh toán TPCP chủ yếu lấy từ NSNN hoặc nguồn vốn thu hồi trực tiếp từ các công trình đã phát hành TPCP để đầu tư xây dựng mang lại. Do vậy, TPCP là loại trái phiếu có tính an toàn cao, rủi ro thấp nhất so với các loại trái phiếu khác, bởi vì nguồn bù đắp trả nợ của TPCP chủ yếu là từ NSNN. 1.2.2. Phân loại TPCP TPCP rất đa dạng, phong phú có thể phân loại TPCP theo các tiêu thức chủ yếu sau đây - Phân loại theo mục đích phát hành + Tín phiếu kho bạc Là loại TPCP có kỳ hạn dưới1 năm, mục đích của việc phát hành là huy động vốn để bù đắp thiếu hụt tạm thời NSNN và nhằm phát triển thị trường tiền tệ. Tín phiếu kho bạc được phát hành theo phương thức đấu thầu qua NHNN, khối lượng và lãi suất tín phiếu Kho bạc được hình thành qua kết quả đấu thầu. Tín phiếu Kho bạc được NSTW đảm bảo nguồn thanh toán gốc và lãi. Tín phiếu kho bạc được giao dịch trên thị trường tiền tệ hoặc được chiết khấu tại Sở giao dịch của NHNN, là loại trái phiếu có tính thanh khoản cao nhất trong tất cả các loại TPCP. 11 + Trái phiếu kho bạc Là loại TPCP có kỳ hạn từ 1 năm trở lên để huy động vốn bù đắp thiếu hụt của NSNN hằng năm đã được Quốc hội phê chuẩn. Trái phiếu kho bạc được bán lẻ qua hệ thống KBNN hoặc đấu thầu qua thị trường giao dịch chứng khoán, bảo lãnh phát hành và đại lý phát hành. Trái phiếu kho bạc được đảm bảo thanh toán (cả gốc và lãi) bởi NSTW, vì vậy có độ rủi ro không đáng kể. + Trái phiếu công trình Là loại TPCP có kỳ hạn từ 1 năm trở lên nhằm huy động vốn theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ cho các dự án thuộc nguồn vốn đầu tư của NSNN đã ghi trong kế hoạch nhưng chưa được bố trí vốn ngân sách trong năm. Trái phiếu công trình được phát hành theo phương thức bán lẻ qua hệ thống KBNN, đấu thầu hoặc bảo lãnh phát hành. NSNN (NSTW đối với công trình trung ương, NSĐP đối với công trình địa phương) đảm bảo việc thanh toán gốc, lãi và phí cho trái phiếu công trình. + Trái phiếu đầu tư Là loại TPCP có kỳ hạn từ 1 năm trở lên do các tổ chức tài chính Nhà nước và các tổ chức tài chính, tín dụng được Thủ tướng Chính phủ chỉ định phát hành nhằm huy động vốn để đầu tư theo chính sách của Chính phủ. Trái phiếu đầu tư được bán lẽ qua hệ thống KBNN, đấu thầu hoặc bảo lãnh phát hành. Tiền thu từ phát hành trái phiếu đầu tư chỉ sử dụng cho mục tiêu kinh tế đã được Chính phủ phê duyệt. Tổ chức phát hành có trách nhiệm thanh toán gốc, lãi trái phiếu đầu tư đến hạn thanh toán và các chi phí có liên quan đến việc tổ chức phát hành, thanh toán. NSNN sẽ đảm nhận thanh toán một phần hay toàn bộ lãi trái phiếu hoặc cấp bù chênh lệch lãi suất cho tổ chức phát hành theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ. + Trái phiếu ngoại tệ Là loại TPCP có kỳ hạn từ 1 năm trở lên được phát hành để huy động vốn đầu tư cho các mục tiêu theo chỉ định của Thủ tướng Chính phủ. Đồng tiền phát hành là ngoại tệ tự do chuyển đổi và được Bộ trưởng Bộ Tài chính quyết định cho từng đợt phát hành. Trái phiếu ngoại tệ được bán lẻ qua hệ thống KBNN hoặc đấu 12 thầu qua NHNN. Trái phiếu ngoại tệ được NSNN đảm bảo thanh toán gốc và lãi khi đến hạn thanh toán. + Công trái xây dựng tổ quốc Công trái xây dựng tổ quốc do Chính phủ phát hành nhằm huy động nguồn vốn trong các tầng lớp dân cư để đầu tư xây dựng những công trình quan trọng và các công trình thiết yếu khác phục vụ sản xuất, đời sống, tạo cơ sở vật chất kỹ thuật cho đất nước. Việc phát hành công trái căn cứ vào nhu cầu huy động vốn của từng thời kỳ. Nguồn vốn thanh toán công trái do NSNN đảm bảo. - Phân loại theo theo thời hạn Bao gồm trái phiếu ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. + Trái phiếu ngắn hạn Trái phiếu ngắn hạn là loại trái phiếu có thời hạn dưới 1 năm. Trái phiếu ngắn hạn được phát hành nhằm huy động vốn để phục vụ nhu cầu chi tiêu thường xuyên trong năm tài chính của Chính phủ. Trái phiếu ngắn hạn được coi là không có rủi ro và tính thanh khoản khá cao, nên được công chúng ưa thích, các tổ chức tài chính cũng thích mua loại trái phiếu này khi có vốn tạm thời nhàn rổi. + Trái phiếu trung hạn Trái phiếu trung hạn là loại trái phiếu có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm. Đây là loại trái phiếu có tỷ lệ phát hành khá cao trong các loại TPCP. Trái phiếu trung hạn thường trả lãi 6 tháng một lần (một năm 2 kỳ). Trái phiếu trung hạn được phát hành nhằm mục đích bù đắp thiếu hụt cho NSNN và cho đầu tư các công trình cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội. + Trái phiếu dài hạn Trái phiếu dài hạn là loại trái phiếu để giải quyết nhu cầu vốn đầu tư dài hạn của Nhà nước. Trái phiếu dài hạn thông thường có thời hạn từ 10 đến 20 năm. Các loại trái phiếu này phát hành rất mạnh ở những nước có thị trường chứng khoán phát triển như Mỹ, Nhật và các nước Tây Âu. Về nguyên tắc, trái phiếu có thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao. Người đầu tư có thể thu hồi vốn trước hạn thông qua thị trường chứng khoán. Những nước chưa có thị trường thứ cấp phát triển, tức là chưa tạo ra khả năng thanh khoản dễ dàng cho vốn đầu tư trái phiếu, thì người đầu tư không thích đầu tư vào loại trái phiếu này. 13 - Phân loại theo lợi tức trái phiếu + Trái phiếu có lãi suất cố định Trái phiếu có lãi suất cố định là loại trái phiếu mà lợi tức được xác định theo một tỷ lệ % cố định theo mệnh giá trong suốt thời hạn của trái phiếu. + Trái phiếu có lãi suất biến đổi Trái phiếu có lãi suất biến đổi còn gọi là trái phiếu lãi suất thả nổi. Lợi tức của trái phiếu được trả trong các kỳ có sự khác nhau được tính theo một lãi suất có sự biến đổi theo một lãi suất tham chiếu. + Trái phiếu không có lãi suất (zero – coupon Bonds) Trái phiếu không có lãi suất là loại trái phiếu mà người mua không nhận được lãi, nhưng được mua với giá thấp hơn mệnh giá (mua chiết khấu) và được hoàn trả bằng mệnh giá khi trái phiếu đó đáo hạn. - Phân loại theo hình thức trái phiếu + Trái phiếu vô danh Trái phiếu vô danh là loại trái phiếu không ghi tên người mua trên trái phiếu hoặc trong sổ sách của người phát hành. Người nắm giữ trái phiếu là người được hưởng quyền lợi. Loại trái phiếu này thường được chuyển nhượng tự do trên thị trường. + Trái phiếu ghi danh Trái phiếu ghi danh là loại trái phiếu có ghi tên người mua trên tờ trái phiếu và trong sổ sách của nhà phát hành. - Phân loại theo phạm vi phát hành + Trái phiếu quốc nội Trái phiếu quốc nội là loại trái phiếu do chính quyền trung ương hoặc địa phương phát hành trong phạm vi quốc gia, chủ yếu là bằng nội tệ nhằm huy động vốn nhàn rổi của các tầng lớp dân cư, các tổ chức kinh tế - xã hội và các tổ chức tài chính tín dụng. + Trái phiếu quốc tế Trái phiếu quốc tế là loại chứng chỉ vay nợ của Nhà nước phát hành ra nước 14 ngoài để huy động vốn bằng ngoại tệ. Ngoài các cách phân loại như đã nêu trên, người ta còn có nhiều cách phân loại khác nhau như: phân loại theo mức độ rủi ro tín dụng, theo tính chất của trái phiếu… 1.2.3. Các yếu tố cơ bản của TPCP Có nhiều loại trái phiếu khác nhau, nhưng tất cả các loại trái phiếu đều có chung những đặc điểm cơ bản sau đây - Mệnh giá của trái phiếu Mệnh giá của trái phiếu hay còn gọi là giá trị danh nghĩa của trái phiếu, là giá trị được ghi trên trái phiếu; giá trị này được coi là số vốn gốc. Mệnh giá trái phiếu là căn cứ để xác định số lợi tức tiền vay mà người phát hành phải trả cho người sở hữu trái phiếu. Mệnh giá trái phiếu cũng thể hiện số tiền người phát hành phải hoàn trả khi trái phiếu đến hạn thanh toán. - Lãi suất danh nghĩa Là lãi suất được ghi trên tờ trái phiếu hoặc được người phát hành công bố, lãi suất này được xác định theo tỷ lệ % so với mệnh giá của trái phiếu và cũng là một căn cứ để xác định lợi tức của trái phiếu. Lãi suất trái phiếu là một trong những yếu tố cơ bản nhất của trái phiếu, do vậy nó có ảnh hưởng nhiều đến giá của trái phiếu. Lãi suất trái phiếu phụ thuộc vào nhiều yếu tố như thời hạn của trái phiếu, chỉ số lạm phát, cung cầu trái phiếu và những biến động khác của thị trường. - Thời hạn của trái phiếu Là khoảng thời gian từ ngày phát hành đến ngày người phát hành hoàn trả tiền vốn lần cuối. Ngày mà khoản vốn gốc của trái phiếu được thanh toán lần cuối được gọi là ngày đáo hạn. Có nhiều cách phân loại kỳ hạn trái phiếu khác nhau, trên thực tế người ta thường phân ra các loại kỳ hạn sau: Trái phiếu ngắn hạn (có kỳ hạn dưới 1 năm), trái phiếu trung hạn (có kỳ hạn từ 1 năm đến 5 năm), trái phiếu dài hạn (có kỳ hạn từ 5 năm trở lên). - Kỳ trả lãi Là khoảng thời gian người phát hành trả lãi cho người nắm giữ trái phiếu. 15 Tại nhiều nước, lãi suất trái phiếu được xác định theo năm, nhưng việc thanh toán lãi trái phiếu thường được thực hiện 6 tháng một lần. - Giá phát hành Là giá bán ra của trái phiếu vào thời điểm phát hành. Thông thường, giá phát hành được xác định theo tỷ lệ % của mệnh giá. Tùy theo tình hình của thị trường và tuỳ theo mục đích phát hành để xác định giá phát hành một cách hợp lý. Giá phát hành có thể thực hiện 1 trong 3 trường hợp sau: giá phát hành bằng mệnh giá; giá phát hành cao hơn mệnh giá; giá phát hành thấp hơn mệnh giá. 1.2.4. Các phương thức phát hành TPCP để huy động vốn cho NSNN và cho ĐTPT - Phương thức đấu thầu Đấu thầu TPCP là việc bán TPCP cho các tổ chức, cá nhân tham gia đấu thầu, đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của tổ chức phát hành. Hiện nay trên thế giới, việc đấu thầu TPCP thường áp dụng 1 trong 2 hoặc đồng thời cả 2 phương thức đấu thầu kiểu Mỹ và phương thức đấu thầu kiểu Hà Lan. + Phương thức đấu thầu kiểu Mỹ: Đấu thầu theo phương thức này, thì khối lượng và lãi suất trái phiếu trúng thầu được xác định từ mức lãi suất dự thầu thấp nhất cho đến mức lãi suất dự thầu mà tại đó khối lượng dự thầu đạt mức khối lượng gọi thầu (cut - off) của từng phiên đấu thầu. Các đơn vị trúng thầu sẽ mua trái phiếu với lãi suất đúng bằng lãi suất dự thầu (tức là từ mức lãi suất cut - off trở xuống). Như vậy, một đợt phát hành sẽ có nhiều mức giá khác nhau, tương ứng với các mức lợi tức khác nhau. Ưu điểm của phương thức này là nâng cao tính cạnh tranh giữa các đơn vị dự thầu; đảm bảo sự công bằng trong đấu thầu, đặt thầu ở mức lãi suất nào thì trúng thầu ở mức lãi suất đó; mức giá trung bình trúng thầu cao. Tuy nhiên để phương thức này có hiệu quả, đòi hỏi phải có nhiều thanh viên thường xuyên tham gia đấu thầu, khi đó lãi suất trúng thầu mới phản ảnh đúng lãi suất thị trường thông qua cạnh tranh lành mạnh. + Phương thức đấu thầu kiểu Hà Lan: Khối lượng và lãi suất trái phiếu trúng thầu theo phương thức này cũng được xác định như phương thức đấu thầu kiểu Mỹ. Tuy nhiên khác với kiểu Mỹ, các đơn vị trúng thầu (từ mức lãi suất cut - off trở xuống) được hưởng mức lãi suất như nhau, với mức lãi suất trúng thầu cao nhất. Phương thức này có ưu điểm khuyến 16 khích các đơn vị tham gia đấu thầu, vì tuy đặt thầu với mức lãi suất thấp nhưng vẫn có thể trúng thầu với mức lãi cao hơn. Tuy nhiên, so với phương thức đấu thầu kiểu Mỹ, thì chi phí huy động vốn cao hơn do lãi suất trúng thầu là lãi suất cao nhất; kết quả đấu thầu không phản ảnh sát nhu cầu của thị trường, vì các đơn vị có thể đặt thầu với giá mua cao (lãi suất thấp) nhưng cuối cùng thì được mua trái phiếu với giá thấp (lãi suất cao). Hiện nay, việc tổ chức đấu thầu TPCP ở Việt Nam áp dụng cách xét thầu theo phương thức kiểu Hà Lan, dưới 2 hình thức: cạnh tranh lãi suất và không cạnh tranh lãi suất. Đấu thầu cạnh tranh lãi suất là việc các tổ chức tham gia đấu thầu đưa ra các mức lãi suất dự thầu của mình để đơn vị tổ chức đấu thầu chọn ra mức lãi suất trúng thầu. Đấu thầu không cạnh tranh lãi suất là việc các tổ chức tham gia đấu thầu không đưa ra mức lãi suất dự thầu mà chỉ đăng ký khối lượng cần mua, các tổ chức này mua trái phiếu theo mức lãi suất trúng thầu hình thành qua kết quả đấu thầu cạnh tranh. Trong từng đợt phát hành, Bộ Tài chính có thể quy định hình thức đấu thầu cạnh tranh hoặc kết hợp giữa cạnh tranh và không cạnh tranh lãi suất, nghĩa là lãi suất trái phiếu hình thành thông qua đấu thầu cạnh tranh đồng thời là lãi suất trúng thầu chung cho cả đấu thầu cạnh tranh và không cạnh tranh lãi suất, người đặt thầu không cạnh tranh sẽ được ưu tiên trúng thầu. Việc tổ chức đấu thầu diễn ra tại TTGDCK đối với TPCP có thời hạn từ 1 năm trở lên và tại NHNN đối với tín phiếu kho bạc có thời hạn dưới 1 năm. TPCP đấu thầu được bán theo các hình thức: chiết khấu, bằng mệnh giá, cao hoặc thấp hơn mệnh giá, dưới dạng chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ. TPCP trúng thầu được giao dịch và là hàng hoá trên thị trường tiền tệ (đối với trái phiếu ngắn hạn) hoặc trên thị trường chứng khoán (đối với trái phiếu trung và dài hạn) - Phương thức bảo lãnh phát hành Bảo lãnh phát hành là việc tổ chức bảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục cần thiết trước khi phát hành trái phiếu ra TTCK, phân phối trái phiếu cho các nhà đầu tư, nhận mua trái phiếu để bán lại hoặc mua số trái phiếu còn lại chưa phân phối hết. Hoạt động bảo lãnh phát hành TPCP do các Công ty Chứng khoán, các Quỹ đầu tư, Công ty tài chính, các ngân hàng và các định chế tài chính khác được Bộ Tài chính cho phép đứng ra đảm nhiệm. Cấu trúc bảo lãnh phát hành được quyết định cho từng đợt phát hành theo một trong hai hình thức sau: một hoặc một số tổ chức đồng bảo lãnh phát hành, 17 hoặc tổ hợp bảo lãnh phát hành có một hoặc một số tổ chức đồng bảo lãnh phát hành chính đứng ra chủ trì đợt phát hành trái phiếu. Việc lựa chọn tổ chức bảo lãnh phát hành trên nguyên tắc tiết kiệm đến mức thấp nhất về chi phí phát hành trái phiếu (lãi suất và phí bảo lãnh). Các quốc gia có TTCK phát triển thường phổ biến các hình thức bảo lãnh sau đây: bảo lãnh chắc chắn, bảo lãnh cố gắng tối đa, bảo lãnh tất cả hoặc không, bảo lãnh tối thiểu - tối đa. Bảo lãnh chắc chắn là hình thức bảo lãnh mà tổ chức bảo lãnh nhận mua toàn bộ số chứng khoán phát hành trong đợt, hoặc mua số chứng khoán còn lại không bán hết khi hết thời gian phát hành. Tức là thực hiện sự bảo đảm phát hành thành công một cách chắc chắn. Phí hoa hồng của tổ chức bảo lãnh phát hành nằm trong giá mua chứng khoán. Bảo lãnh cố gắng tối đa là sự bảo lãnh mà tổ chức bảo lãnh hoạt động với tư cách là một đại diện bán tích cực, số chứng khoán còn lại không bán được khi hết thời gian phát hành được trả lại cho tổ chức phát hành. Tổ chức bảo lãnh được hưởng phí hoa hồng trên số trái phiếu đã được bán ra. Bảo lãnh tất cả hoặc không là hình thức tổ chức phát hành yêu cầu tổ chức bảo lãnh phải bán hết số chứng khoán, nếu không bán hết thì hủy bỏ toàn bộ số lượng đã phát hành. Bảo lãnh tối thiểu - tối đa là phương thức bảo lãnh trung gian giữa bảo lãnh cố gắng cao nhất và bảo lãnh tất cả hoặc không, theo phương thức này tổ chức bảo lãnh phải bán tối thiểu một tỷ lệ nhất định chứng khoán phát hành. Nếu lượng chứng khoán bán được thấp hơn tỷ lệ yêu cầu thì toàn bộ đợt phát hành sẽ bị huỷ bỏ. Hiện nay ở Việt Nam chỉ thực hiện một hình thức bảo lãnh duy nhất là bảo lãnh chắc chắn. Vì vậy, nó có ưu thế là đảm bảo phân phối hết số TPCP dự kiến phát hành, qua đó huy động được khối lượng vốn lớn trong thời gian ngắn; song tính cạnh tranh không cao và các nhà bảo lãnh dể nhận biết được chủ trương khi Chính phủ sử dụng công cụ TPCP để điều chỉnh cung cầu vốn đầu tư. Do đó, để thị trường thứ cấp hoạt động tốt, các nhà bảo lãnh cần có cam kết hổ trợ sau khi phát hành thông qua việc mua và bán các loại TPCP. TPCP phát hành theo phương thức này có thời hạn từ 1 năm trở lên, theo hình thức chiết khấu hoặc ngang mệnh giá dưới dạng chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, đủ tiêu chuẩn niêm yết trên thị trường giao dịch chứng khoán tập trung; nhằm mục đích tăng cường nguồn vốn trung và dài hạn cho NSNN và cho ĐTPT, đồng thời bổ sung thêm hàng hoá cho thị trường chứng khoán. - Phương thức đại lý phát hành 18 Là việc tổ chức phát hành sẽ uỷ thác cho một hoặc một số tổ chức làm đại lý trái phiếu. Trường hợp, nếu bán không hết số lượng trái phiếu dự định phát hành thì tổ chức làm đại lý không có trách nhiệm phải mua hết số trái phiếu còn lại. Các nhà đại lý phát hành là các công ty Chứng khoán, các Quỹ đầu tư, Công ty tài chính, các Ngân hàng hoạt động hợp pháp tại Việt Nam. KBNN được coi là một đại lý đặc biệt của Chính phủ trong việc phát hành trái phiếu. Trái phiếu có thể bán với hình thức ngang mệnh giá hoặc không ngang mệnh giá, thời điểm phát hành và thanh toán của mỗi đợt là đồng nhất và được phép niêm yết, giao dịch tại TTCK. Tổ chức đại lý được nhà phát hành trả cho một khoản phí trên số trái phiếu đã bán. Điểm khác biệt chủ yếu giữa phương thức đại lý phát hành và bảo lãnh phát hành là khả năng phân phối trái phiếu ra thị trường. Với phương thức này, Nhà nước có thể mở rộng địa bàn phát hành, mở rộng đến nhiều đối tượng có thể tiếp cận mua trái phiếu, tuy nhiên tiến độ huy động vốn vào NSNN chậm và không tập trung bằng phương thức đấu thầu và bảo lãnh phát hành. - Phương thức bán lẻ qua hệ thống KBNN Là việc KBNN tự tổ chức phát hành trái phiếu qua hệ thống hoạt động của mình theo hình thức ngang mệnh giá hoặc không ngang mệnh giá. TPCP phát hành theo hình không ngang mệnh giá có cùng ngày ngày phát hành và cùng ngày thanh toán, được niêm yết và giao dịch tại TTGDCK, phương thức này hiện nay vẫn được nhiều nước đang áp dụng phổ biến. Ưu điểm của phương thức này là đối tượng mua trái phiếu được triển khai rộng rải, nâng cao khả năng huy động vốn nhàn rổi trong xã hội. Tuy nhiên, phát hành trái phiếu bằng phương thức này thì tiến độ huy động vốn cho NSNN chậm, chi phí phát hành tương đối cao. 1.2.5. Vai trò của TPCP - TPCP là công cụ huy động vốn cho NSNN và cho ĐTPT Để bù đắp sự mất cân đối giữa thu nhập và chi tiêu hàng năm của Chính phủ, bù đắp thiếu hụt NSNN nhằm duy trì và phát triển các hoạt động của nền kinh tế, một trong những biện pháp được Chính phủ áp dụng đó là thực hiện việc vay nợ. Để vay nợ, Chính phủ có thể sử dụng các công cụ và giải pháp khác nhau, như vay từ các định chế tài chính, vay từ Chính phủ các nước ngoài, các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế hoặc vay nợ trong nước thông qua phát hành TPCP. 19 Mỗi một công cụ, giải pháp huy động vốn đều có ưu và nhược điểm riêng. Vay nợ nước ngoài dưới hình thức ODA có ưu điểm là thời hạn vay dài, lãi suất nhẹ; song có nhược điểm là phải phụ thuộc vào các điều kiện giải ngân của nhà cung cấp tín dụng, nhiều khi các điều kiện này là hết sức ngặt nghèo. Vay nợ thương mại nước ngoài có nhược điểm là thời hạn vay vốn ngắn và lãi suất cao, vì các khoản vay thương mại phải chịu ảnh hưởng bởi các điều kiện của thị trường tài chính quốc tế. So với các khoản vay thương mại, vay vốn dưới hình thức trái phiếu ở thị trường tài chính trong nước có những ưu việt nhất định: Một là, vay vốn dưới hình thức trái phiếu sẽ không bị rủi ro hay vỡ nợ trong các điều kiện thông thường vì Chính phủ có thể phát hành trái phiếu mới để thanh toán nợ cũ; trường hợp không thể phát hành trái phiếu, Chính phủ có thể phát hành tiền để trả nợ. Hai là, TPCP là công cụ nợ được coi là không có độ rủi ro nên lãi suất trái phiếu là thấp nhất. Điều đó cho thấy vay vốn dưới hình thức TPCP có chi phí thấp hơn các khoản vay thương mại khác. Ngoài mục đích huy động vốn để cân đối thu chi ngân sách, TPCP còn được sử dụng để huy động vốn đầu tư trực tiếp cho các công trình, dự án quan trọng của đất nước. Hầu hết Chính phủ các nước trên thế giới đều sử dụng TPCP để huy động vốn cho NSNN và cho ĐTPT, coi đây là một công cụ quan trọng trong việc điều hành chính sách tài khóa quốc gia. - TPCP là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế TPCP không chỉ là công cụ huy động vốn cho NSNN và cho ĐTPT, mà còn là công cụ để Chính phủ điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua hoạt động mua vào bán ra TPCP trên thị trường. Khối lượng TPCP phát hành là yếu tố cấu thành lượng tiền trong lưu thông, do vậy phát hành TPCP có ảnh hưởng đến cung cầu tiền tệ của nền kinh tế. Với tính chất này Chính phủ có thể sử dụng TPCP để điều chỉnh nền kinh tế. Nếu Chính phủ muốn khuyến khích hoạt động của nền kinh tế thì Chính phủ sẽ mua lại trái phiếu của mình, khi đó giá TPCP sẽ tăng và lợi tức của trái phiếu sẽ giảm; từ đó tác động đến giá và lợi tức của trái phiếu khu vực tư nhân và hạ thấp mức lãi suất chung của nền kinh tế; đồng thời thông qua việc mua lại trái phiếu, Chính phủ bơm tiền vào lưu thông qua đó làm tăng khối lượng tiền cung ứng trên thị trường. Ngược lại, nếu Chính phủ muốn điều chỉnh các hoạt động của nền kinh tế, Chính 20 phủ có thể tăng khối lượng TPCP bán ra, khi đó tỷ lệ lãi suất sẽ tăng lên và giảm khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông. Các nghiệp vụ này chủ yếu được sử dụng đối với TPCP ngắn hạn. - TPCP góp phần thực thi chính sách tiền tệ Huy động vốn bằng TPCP là chính sách vay nợ có vai trò quan trọng trong việc xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ. TPCP là một công cụ nợ, song với sự đa dạng về kỳ hạn nên TPCP vừa tham gia vào thị trường vốn và thị trường tiền tệ. Tín phiếu kho bạc vừa có vai trò là huy động vốn để bù đắp thiếu hụt NSNN, vừa là công cụ của thị trường tiền tệ. Ngay cả các quốc gia có nền kinh tế phát triển vẫn phát hành tín phiếu ngắn hạn với mục đích đảm bảo hàng hoá cho thị trường tiền tệ hoạt động. Vì vậy trong trường hợp NSNN không bị thâm hụt, Chính phủ vẫn phát hành tín phiếu kho bạc với mục đích là để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. TPCP (tín phiếu kho bạc) sau khi phát hành được mua bán trên thị trường tiền tệ, do tính thanh khoản cao và độ rủi ro là thấp nhất nên tín phiếu kho bạc là một công cụ quan trọng để NHTW thực hiện nghiệp vụ thị trường mở. TPCP (tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình…) góp phần điều hoà lượng tiền mặt trong lưu thông nhằm đảm bảo ổn định tiền tệ. Mặt khác, thông qua việc phát hành TPCP, NSNN có thể đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Chính phủ, chấm dứt việc phát hành tiền cho NSNN, góp phần ngăn chặn và kiểm chế lạm phát. - TPCP góp phần thúc đẩy phát triển thị trường chứng khoán Thông qua việc phát hành TPCP, Chính phủ thu hút được nguồn vốn nhàn rổi trong xã hội để thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của mình, đồng thời góp phần thúc đẩy thị trường vốn và thị trường chứng khoán phát triển, cụ thể: - TPCP cung cấp hàng hóa quan trọng cho TTCK nhất là trong giai đoạn đầu mới đi vào hoạt động. Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, trong giai đoạn đầu mới thành lập thị trường chứng khoán thì TPCP là hàng hoá chủ đạo của thị trường. Do độ rủi ro của TPCP là thấp nhất nên nó là công cụ an toàn nhất cho các nhà đầu tư trên TTCK. Cũng với đặc tính này, TPCP được coi là loại chứng khoán có lãi suất chuẩn cho các công cụ nợ khác trên thị trường. 21 - Thông qua việc sử dụng công cụ lãi suất của TPCP, Nhà nước có thể điều tiết và định hướng thị trường theo mục tiêu của mình, góp phần định hướng phát triển và điều tiết thị trường chứng khoán. - TPCP cung cấp hàng hoá cho thị trường chứng khoán, qua đó góp phần tạo thói quen đầu tư, kinh doanh của các tầng lớp dân cư; thúc đẩy sự hình thành và phát triển các định chế tài chính trung gian (các công ty Chứng khoán, các Quỹ đầu tư…) với vai trò của nhà tạo lập thị trường. Tóm lại sử dụng công cụ TPCP để huy động vốn bù đắp thiếu hụt NSNN và bổ sung nguồn vốn cho ĐTPT đã khẳng định vai trò của TPCP trong quá trình phát triển kinh tế. TPCP không chỉ đơn thuần là công cụ huy động vốn mà còn là công cụ để điều tiết vĩ mô nền kinh tế, thực thi chính sách tiền tệ và góp phần thúc đẩy sự phát triển của TTCK. Chính vì vậy huy động vốn thông qua việc phát hành TPCP ngày càng được Chính phủ nhiều nước quan tâm, bởi những tác động tích cực của nó đối với nền kinh tế. 1.3 – KINH NGHIỆM PHÁT HÀNH TPCP Ở MỘT SỐ QUỐC GIA 1.3.1. Phát hành TPCP ở Mỹ Thị trường TPCP của Mỹ là một thị trường vay nợ lớn nhất trên thế giới, mục tiêu của việc phát hành TPCP của chính quyền Mỹ là huy động vốn để bù đắp thiếu hụt NSNN và thu hút các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường này. TPCP Mỹ bao gồm các loại tín phiếu kho bạc, kỳ phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, trái phiếu chính quyền địa phương và trái phiếu do các do các cơ quan Chính phủ phát hành. Trái phiếu kho bạc được bán theo phương thức đấu thầu do Kho bạc Mỹ tổ chức, còn các loại trái phiếu do các chính quyền liên bang hoặc các loại trái phiếu do cơ quan Chính phủ phát hành thường được bán dưới hình thức bảo lãnh phát hành. TPCP được giao dịch qua thị trường giao dịch OTC trực tiếp giữa các thành viên hơn là giao dịch qua Sở giao dịch chứng khoán. Các nhà giao dịch trái phiếu sơ cấp thường thực hiện các giao dịch trực tiếp với các nhà đầu tư như các ngân hàng, các công ty bảo hiểm và các nhà môi giới; các nhà đầu tư nhỏ và dân chúng mua bán TPCP thông qua các ngân hàng, các nhà môi giới hoặc các nhà kinh doanh trái phiếu. - Tại thị trường TPCP sơ cấp: TPCP thường được phát hành theo hình thức đấu thầu, trong đó Cục dự trữ liên bang làm cơ quan đại lý cho Kho bạc trong việc 22 tổ chức các đợt đấu thầu, phân phối TPCP thông qua hệ thống của mình. Đối với đợt phát hành mới lãi suất xác định giá (theo lãi suất coupon) đảm bảo hưởng mức lợi suất như mức lợi suất của các đợt phát hành trên thị trường thứ cấp có thời hạn tương đương. Để xác định mức lợi suất trái phiếu đấu thầu, ở Mỹ áp dụng hình thức đấu thầu một giá và đấu thầu nhiều giá. Đấu thầu một giá được áp dụng đối với TPCP ngắn hạn, người đặt thầu nhận được trái phiếu theo mức lợi suất cao nhất của đấu thầu cạnh tranh được chấp nhận. Các loại TPCP còn lại được áp dụng theo hình thức đấu thầu nhiều giá, những người đặt thầu ở mức lợi suất thấp nhất sẽ nhận được trái phiếu theo giá đặt thầu của họ, còn những người đặt thầu thành công ở mức lợi suất cao hơn chỉ có được trái phiếu theo mức giá đặt thầu của họ cho đến khi tổng giá trị chào bán được xác định. - Thị trường TPCP thứ cấp: Ở Mỹ thị trường TPCP thứ cấp chính là thị trường OTC, đó là nơi các nhà đầu tư và kinh doanh TPCP đặt mua và chào bán các loại TPCP. Đặc điểm của thị trường này là có tính thanh khoản cao. Trên thị trường này có một bộ phận TPCP được giao dịch trước khi Kho bạc phát hành, thị trường này giao dịch cả tín phiếu kho bạc và trái phiếu coupon Chính phủ kể từ ngày được công bố đấu thầu cho đến ngày phát hành và việc chuyển giao trái phiếu được diễn ra vào ngày phát hành trái phiếu đó. Các loại trái phiếu địa phương được phát hành rộng rải, bởi việc huy động nguồn vốn này có lãi suất thấp hơn đi vay các tổ chức khác do được miễn thuế thu nhập. Trái phiếu địa phương được giao dịch trên thị trường OTC, thông thường các nhà đầu tư lớn, các NHTM là người nắm giữ loại trái phiếu này. Giao dịch trái phiếu địa phương không nhiều, do vậy việc xây dựng giá của nó trên thị trường thứ cấp có thể gặp khó khăn, chênh lệch giữa giá mua và giá bán thường rất lớn. 1.3.2.. Phát hành TPCP ở Nhật Bản TPCP ở Nhật Bản phát hành chủ yếu tập trung vào các loại trái phiếu dài hạn và siêu dài hạn. Ở Nhật Bản bên cạnh việc phát hành tín phiếu kho bạc, còn có các loại kỳ phiếu kho bạc có coupon, kỳ phiếu kho bạc chiết khấu và trái phiếu kho bạc dài hạn. TPCP được phát hành theo hai hình thức cơ bản là đấu thầu và bảo lãnh phát hành. Đấu thầu TPCP được uỷ thác cho NHTW thực hiện theo hai phương pháp định giá Hà Lan và Mỹ. Tổ hợp bảo lãnh trái phiếu bao gồm các ngân hàng, các tổ chức tín dụng và tiết kiệm, các công ty tài chính và các định chế tài 23 chính nước ngoài. Tổ hợp bảo lãnh phát hành ở Nhật gồm có 788 tổ chức tài chính. Bộ Tài chính Nhật Bản phối hợp với NHTW và các tổ chức phát hành trong việc quy định lãi suất phát hành. Căn cứ vào dự toán NSNN hàng năm được Quốc hội thông qua, Bộ Tài chính xây dựng kế hoạch phát hành TPCP cụ thể cho từng thời điểm trong năm; kế hoạch này được xây dựng trên cơ sở trao đổi, thống nhất với NHTW và các tổ chức bảo lãnh phát hành. TPCP được niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán. Ngoài trái phiếu do Chính phủ phát hành, tại Nhật Bản còn có các loại trái phiếu chính quyền địa phương và các cơ quan Chính phủ phát hành. Đối với trái phiếu chính quyền địa phương muốn phát hành ra công chúng thì phải được sự đồng ý của Bộ Nội vụ; các cơ quan của Chính phủ được phép phát hành trái phiếu như các ngân hàng, tổ chức tín dụng… để huy động vốn tài trợ cho mục tiêu phát triển kinh tế; ngoài ra còn có tổ chức Tiết kiệm Bưu điện cũng tham gia huy động vốn của các tầng lớp dân cư và sử dụng số tiền đã huy động được để mua TPCP hoặc cho các cơ quan của Chính phủ vay lại. Đối với các đợt phát hành trái phiếu coupon, Bộ Tài chính Nhật sẽ quy định lãi suất coupon trên cơ sở phối hợp với tổ hợp bảo lãnh phát hành TPCP. Thông thường thì mức lãi suất coupon xác định căn cứ vào mức giá đấu thầu bình quân thấp hơn mệnh giá, lãi suất của các đợt phát hành TPCP được căn cứ vào các điều kiện trên và thực trạng của thị trường. Thị trường trái phiếu ở Nhật bản gồm có: Thị trường TPCP và thị trường trái phiếu của các tổ chức Chính phủ, thị trường trái phiếu chính quyền địa phương, thị trường trái phiếu ngân hàng và trái phiếu công ty. Trong đó, thị trường TPCP là thị trường trái phiếu có quy mô và khối lượng giao dịch lớn nhất ở Nhật Bản. 1.3.3. Phát hành TPCP ở Trung Quốc Trong một vài thập kỷ gần đây Chính phủ Trung Quốc đã chú trọng đến việc sử dụng chiến lược tài trợ thiếu hụt NSNN bằng cách phát hành TPCP ở thị trường vốn trong nước. Thị trường TPCP ở Trung Quốc có những đặc điểm sau: - Về hình thức: có các loại trái phiếu kho bạc, trái phiếu doanh nghiệp thuộc sỡ hữu Nhà nước, trái phiếu của các định chế tài chính. - Theo đánh giá của ADB - Government Bond Market Development in Asia - năm 2001, thì đầu những năm 1990 Trung Quốc bắt đầu phát hành TPCP dưới nhiều hình thức khác nhau; đến năm 1991 phát hành TPCP theo hình thức tổ hợp bảo lãnh phát hành; đến năm 1994 áp dụng kết hợp hài hoà giữa hình thức bảo 24 lãnh phát hành với các hình thức truyền thống nhằm thoả mãn và đáp ứng nhu cầu của người đầu tư trái phiếu. Trong năm 1998 quy mô thị trường trái phiếu Trung Quốc là 776 tỷ USD, chiếm 30% GDP, trong đó TPCP chiếm khoảng 72%. - Lãi suất của TPCP Trung Quốc được quy định bởi cơ quản lý, mặc dù trong năm 1998 có cho phép thực hiện biên độ là 20% và được nâng lên 30% từ năm 1999. Trung Quốc mới áp dụng tự do hoá lãi suất đối với các khoản vay ngắn hạn, còn trung hạn và dài hạn thì vẫn quy định tỷ lệ lãi suất cố định. - Về thị trường sơ cấp: Tín phiếu kho bạc ngắn hạn được phát hành theo phương thức chiết khấu; phương pháp phát hành truyền thống là đấu thầu qua hệ thống điện tử kết nối giữa cơ quan có thẩm quyền của Chính phủ với các nhà bán buôn trái phiếu được chỉ định hoặc với các nhà tạo lập thị trường. Đối với phương pháp bảo lãnh, việc bán trái phiếu cho các nhà đầu tư được thực hiện qua các tổ chức bảo lãnh phát hành. - Về thị trường thứ cấp: Thị trường thứ cấp ở Trung Quốc là thị trường OTC, mọi giao dịch được thực hiện qua các nhà kinh doanh trái phiếu sơ cấp và các nhà môi giới chứng khoán được cấp giấy phép. Ở Trung quốc chưa có một thị trường thứ cấp thực sự, vì hầu hết các nhà đầu tư có khuynh hướng mua và giữ trái phiếu cho đến khi tới hạn thanh toán. Nguyên nhân chủ yếu của việc thị trường thứ cấp chưa phát triển ở Trung quốc là thiếu các yếu tố quan trọng đối với thị trường lãi suất, hệ thống tài chính và hệ thống thanh toán bù trừ chưa phát triển. 1.3.4. Một số bài học kinh nghiệm về phát hành TPCP ở các nước Qua tìm hiểu việc phát hành TPCP ở một số nước, trong đó có những nước đang phát triển, ta có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm về phát hành TPCP như sau: - Các nước có nền kinh tế phát triển hay các nước đang phát triển đều sử dụng TPCP để huy động vốn cho NSNN và cho ĐTPT. TPCP không chỉ là công cụ huy động vốn cho NSNN và ĐTPT mà còn là công cụ để Chính phủ các nước thực hiện chính sách tài chính và chính sách tiền tệ quốc gia. - TPCP được phát hành dưới nhiều hình thức khác nhau, mỗi loại TPCP đều có vai trò, vị trí nhất định đối với nền kinh tế. Tín phiếu kho bạc vừa có vai trò huy động vốn để bù đắp thiếu hụt NSNN vừa là công cụ của thị trường tiền tệ. Trái phiếu kho bạc là công cụ để huy động vốn bù đắp thiếu hụt NSNN vừa để phục vụ 25 ĐTPT kinh tế. Trái phiếu chính quyền địa phương và trái phiếu của các cơ quan Chính phủ phát hành để thu hút nguồn vốn từ thị trường tài chính để tài trợ cho các chương trình, dự án nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương, cũng như tài trợ các chương trình mục tiêu của Chính phủ, đồng thời còn làm phong phú và tạo thêm hàng hoá cho thị trường vốn. Trái phiếu dài hạn ngày càng ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số TPCP phát hành. - Việc xây dựng kế hoạch và lịch phát hành TPCP là khâu quan trọng đối với các quốc gia muốn huy động vốn với khối lượng lớn. Nếu làm tốt khâu này không những mang lại thành công cho đợt phát hành mà còn có tác dụng làm cho thị trường TPCP thực sự trở thành công cụ của Chính phủ trong việc điều hành chính sách kinh tế vĩ mô. - Để thúc đẩy thị trường phát hành TPCP phát triển, vai trò của Chính phủ là hết sức quan trọng. Chính phủ vừa đóng vai trò là người hoạch định chính sách, vừa là người quản lý, đồng thời là nhà phát hành lớn nhất. Duy trì môi trường kinh tế vĩ mô ổn định; xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý; xác định cụ thể quyền hạn, trách nhiệm của chủ thể phát hành; xây dựng hệ thống phân phối trái phiếu trên thị trường sơ cấp và phát triển các nhà đầu tư có tổ chức làm chức năng của nhà tạo lập thị trường để từ đó cung cấp những hàng hóa có chất lượng cao cho thị trường thứ cấp; tự do hoá lãi suất phát hành TPCP theo nguyên tắc thị trường là những điều kiện quan trọng để tăng cường khối lượng phát hành TPCP huy động vốn cho NSNN và cho ĐTPT. - Hầu hết các nước phát triển đều phát hành TPCP ra thị trường quốc tế. Việc phát hành trái phiếu quốc tế không những huy động vốn cho ĐTPT kinh tế, mà còn là giải pháp bù đắp cán cân thanh toán quốc tế, ổn định và phát triển thị trường tài chính trong nước. Khi tham gia vào thị trường trái phiếu quốc tế cũng đồng nghĩa đã mở đường cho các doanh nhân và các nhà đầu tư tham gia vào thị 26 trường vốn quốc tế, tạo ra chuẩn mực về định mức tín nhiệm, giá cả cho trái phiếu của các doanh nghiệp. Thực tế cho thấy các nước có định mức tín nhiệm cao thì việc vay vốn trên thị trường quốc tế sẽ thuận lợi hơn và chi phí vay nợ giảm; còn các quốc gia có định mức tín nhiệm thấp thì ngược lại. Tóm lại, nghiên cứu việc phát hành TPCP ở những quốc gia nói trên cho thấy dù là các nước đã hoặc đang phát triển, Chính phủ các nước đều sử dụng TPCP là công cụ huy động vốn cho NSNN và cho ĐTPT. Đồng thời TPCP không chỉ đơn thuần là công cụ huy động vốn nhàn rổi trong xã hội, mà nó còn có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội, là công cụ để Chính phủ điều chỉnh nền kinh tế. Vì vậy, hầu hết các quốc gia đều quan tâm đến việc phát triển các loại hình TPCP và thị trường TPCP. Đảng và Nhà nước ta chủ trương huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước, trong đó nguồn vốn trong nước đóng vai trò quyết định, đễ đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để đưa nước ta đến năm 2020 cơ bản là một nước công nghiệp hiện đại. Do đó, nghiên cứu những kinh nghiệm của các nước trong việc phát hành TPCP và phát triển thị trường TPCP là thật sự cần thiết cho chúng ta trong việc tăng cường huy động vốn TPCP cho NSNN và cho ĐTPT trong giai đoạn tới. 27 CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TDNN CHO NSNN VÀ CHO ĐTPT QUA VIỆC PHÁT HÀNH TPCP GIAI ĐOẠN 1991 - 2004 TDNN với phương thức huy động vốn đã được Nhà nước Việt Nam Dân chủ Công hòa sử dụng trong việc phát hành công trái và trái phiếu kháng chiến vào các năm 1946,1948 và 1950 để huy động sự đóng góp của nhân dân phục vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc. Sau khi thống nhất đất nước, Nhà nước ta đã phát hành công trái xây dựng tổ quốc năm 1983 và 1988 để huy động vốn trong nước góp phần khôi phục và xây dựng đất nước sau chiến tranh. Bước vào thời kỳ đổi mới, nhu cầu vốn cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là rất lớn, đòi hỏi công tác huy động vốn TDNN cho NSNN và cho ĐTPT phải được tăng cường, đổi mới để đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế. Xuất phát từ yêu cầu trên, Nhà nước ta đã không ngừng mở rộng, cải tiến và đa dạng hóa các phương thức huy động vốn. Tháng 4/1990, hệ thống KBNN trực thuộc Bộ Tài chính được thành lập theo quyết định số 07/HĐBT ngày 04/01/1990 của Hội đồng Bộ trường (nay là Chính phủ), công tác huy động vốn TDNN gắn liền với chức năng, nhiệm vụ của KBNN. Từ tháng 3/1991, KBNN bắt đầu thực hiện nhiệm vụ huy động vốn trong nước cho NSNN và cho ĐTPT thông qua phát hành các loại TPCP. Ban đầu, TPCP chỉ được phát hành trực tiếp tại các đơn vị KBNN trên phạm vi toàn quốc với mục đích thu hút các nguồn vốn nhàn rổi tạm thời trong các tầng lớp dân cư, đáp ứng nhu cầu chi tiêu của NSNN. Ngày 26/7/1995, Chính phủ ban hành Nghị định 72/CP về quy chế phát hành TPCP, đây là văn bản pháp lý cao nhất sau quyết định 07/HĐBT nhằm từng bước thể chế hoá công tác huy động vốn TDNN qua KBNN. Theo đó TPCP không chỉ được phát hành với mục đích bù đắp bội chi NSNN mà còn là công cụ huy động vốn cho ĐTPT, phương thức phát hành cũng được mở rộng hơn: phát hành trực tiếp ra công chúng qua hệ thống KBNN, đại lý phát hành và đấu thầu qua Sở giao dịch NHNN. Để đáp ứng nhu cầu vốn cho ĐTPT ngày một tăng, ngày 13/01/2000, Chính phủ ban hành Nghị định 01/2000/NĐ-CP thay thế Nghị định 72/CP. Qua đó TPCP 28 có thêm hai phương thức phát hành mới là đấu thầu qua TTGDCK và bảo lãnh phát hành. Bên cạnh việc phát hành các loại trái phiếu huy động vốn cho NSNN và các công trình trung ương, địa phương; trong những năm qua KBNN còn tổ chúc phát hành các loại công trái xây dựng tổ quốc, trái phiếu giao thông thuỷ lợi trên địa bàn cả nước. Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý cho công tác huy động vốn, thúc đẩy sự phát triển của thị trường TPCP của Việt nam, ngày 20/11/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 141/2003/NĐ-CP về phát hành TPCP, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa phương, thay thế Nghị định 01/2000/NĐ-CP. Nghị định trên tạo cơ chế khuyến khích chính quyền địa phương, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế tăng cường huy động vốn dưới hình thức phát hành trái phiếu cho mục tiêu ĐTPT kinh tế, nhằm thu hút tối đa các nguồn vốn nhàn rổi trong nền kinh tế phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Kể tứ năm 1991 đến nay, công tác huy động vốn TDNN cho NSNN và cho ĐTPT qua việc phát hành TPCP có những đặc điểm và kết quả như sau : 2.1 – THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TDNN CHO NSNN VÀ CHO ĐTPT QUA VIỆC PHÁT HÀNH TPCP GIAI ĐOẠN 1991 - 2004 2.1.1. Phát hành tín phiếu Kho bạc 2.1.1.1 Tín phiếu bán lẻ qua hệ thống Kho bạc Để huy động nguồn vốn nhàn rổi trong xã hội đáp ứng yêu cầu về vốn cho việc phát triển kinh tế - xã hội, ngày 12/03/1991 Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) cho phép Bộ Tài chính (KBNN) phát hành tín phiếu kho bạc bán lẻ qua hệ thống KBNN với những đặc điểm chủ yếu sau đây: - Tín phiếu kho bạc được ghi thu và chi bằng đồng Việt Nam do hệ thống KBNN phát hành với các thời hạn 3 tháng, 6 tháng. - Lãi suất của tín phiếu kho bạc được quy định cho từng đợt phát hành, phù hợp với thị trường, nhu cầu chi tiêu của NSNN và lãi suất tiền gởi tiết kiệm. - Đối tượng mua tín phiếu kho bạc là mọi tầng lớp dân cư Việt Nam. - Tín phiếu không in sẵn mệnh giá, mức tối thiểu là 20.000 đồng không hạn chế mức tối đa. Tín phiếu có ghi tên người mua, phát hành và thanh toán tại cùng một đơn vị KBNN. 29 204 1,161 3,545 5,152 3,147 0 1,000 2,000 3,000 4,000 5,000 6,000 1991 1992 1993 1994 1995 Tỷ đồng Biểu dồ 1 : Tín phiếu kho bạc bán lẻ qua hệ thống KBNN giai đoạn 1991 - 1995 Tín phiếu kho bạc lần đầu tiên được phát hành thí điểm tại thành phố Hải Phòng từ tháng 3/1991 với loại kỳ hạn 3 tháng, lãi suất 5%/ tháng. Kết quả phát hành rất khả quan: trong 6 tháng cuối năm 1991 đã thu được 204,4 tỷ đồng. Từ thành công bước đầu này, sang đầu năm 1992 Bộ Tài chính quyết định mở rộng địa bàn phát hành tín phiếu kho bạc ra thêm 2 thành phố lớn là Hà Nội và Hồ Chí Minh với kết quả như sau: tổng số tiền huy động được là 63.619 triệu đồng loại tín phiếu kho bạc kỳ hạn 6 tháng, lãi suất 4,5%/tháng và đến đợt phát hành 01/6/1992 thu được 326.353 triệu đồng. Trên kết quả đó, kể từ tháng 10/1992 tín phiếu kho bạc bán lẻ qua hệ thống KBNN được phát hành rộng khắp tại các tỉnh, thành phố trong cả nước. Cùng với việc phát hành rộng rải trong cả nước, cơ chế phát hành tín phiếu Kho bạc dần được cải tiến và hoàn thiện: Kỳ hạn tín phiếu nâng dần từ 3 tháng lên 6 tháng; lãi suất tín phiếu giảm dần qua các năm (từ 5%/tháng năm 1991 xuống còn 1,7%/tháng năm 1995) phù hợp với mặt bằng lãi suất huy động vốn trên thị trường; cơ chế thanh toán lãi cũng được cải tiến linh hoạt (thanh toán ngay khi phát hành, thanh toán cả gốc và lãi khi tín phiếu đến hạn thanh toán). Do vậy số thu về phát hành tín phiếu kho bạc bán lẽ qua hệ thống KBNN từ năm 1991 đến 1995 được hơn 13.000 tỷ đồng, góp phần quan trọng trong việc cân đối NSNN hàng năm. Kết quả cụ thể phát hành tín phiếu kho bạc bán lẻ qua hệ thống KBNN từ năm 1991 đến 1995 được thể hiện chi tiết tại phụ lục số 01 đính kèm. 30 2.1.1.2 Tín phiếu Kho bạc đấu thầu qua NHNN Để tăng cường huy động vốn, đáp ứng kịp thời nhu cầu chi NSNN và cho ĐTPT, ngày 26/7/1944 Chính phủ ban hành Nghị định 72/CP về quy chế phát hành TPCP. Theo đó tín phiếu kho bạc phát hành áp dụng hình thức đấu thầu qua NHNN kể từ tháng 6/1995, đã thay thế hoàn toàn cho việc bán lẻ tín phiếu kho bạc qua hệ thống KBNN. Việc triển khai kênh phát hành này đánh dấu một bước tiến mới về phương thức và kỹ thuật phát hành theo thông lệ quốc tế. Phương thức đấu thầu tín phiếu kho bạc qua NHNN tiếp tục được khẳng định tại Nghị định 01/2000/NĐ-CP ngày 13/01/2000 và Nghị định 141/2003/NĐ-CP ngày 20/11/2003 của Chính phủ, với những đặc điểm chủ yếu sau đây: - Đấu thầu tín phiếu là đấu thầu cạnh tranh lãi suất hoặc kết hợp giữa đấu thầu cạnh tranh lãi suất với đấu thầu không cạnh tranh lãi suất. - NHNN là cơ quan đại lý cho Bộ tài chính trong việc phát hành và thanh toán tín phiếu, thực hiện nghiệp vụ đấu thầu, tổ chức và giám sát thị trường mua bán lại tín phiếu sau khi đấu thầu. Trong một số trường hợp NHNN được phép mua số tín phiếu kho bạc còn lại trong các phiên đấu thầu nếu các thành viên tham gia đấu thầu không mua hết. - Đối tượng tham gia đấu thầu gồm : Các tổ chức tín dụng hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng và các công ty Bảo hiểm, quỹ Bảo hiểm, Quỹ đầu tư hoạt động tại Việt Nam. Các đối tượng trên phải có vốn pháp định từ 20 tỷ đồng trở lên và phải có tài khoản tiền đồng Việt Nam mở tại ngân hàng. - Tín phiếu kho bạc có các loại kỳ hạn : 91 ngày, 182 ngày, 273 ngày, 364 ngày; được bán theo 2 hình thức: ngang mệnh giá hoặc chiết khấu dưới dạng chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ. Từ tháng 6/1995 đến hết năm 2004 Bộ Tài chính đã phối hợp với NHNN tổ chức được 388 phiên đấu thầu, doanh số huy động được hơn 59.000 tỷ đồng. Chi tiết phát hành theo phụ lục số 2 đính kèm 31 976 3.012 3.915 8.410 15.200 15.989 244 2.918 4.021 4.766 0 2.000 4.000 6.000 8.000 10.000 12.000 14.000 16.000 18.000 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 Tỷ đồng Biểu đồ 2 : Tín phiếu kho bạc đấu thầu qua NHNN giai đoạn 1995 - 2004 Đối tượng tham gia đấu thầu chủ yếu là các NHTM và Công ty Bảo hiểm. Số lượng thành viên tham gia ngày càng tăng, tính đến đầu năm 2005 đã có 48 thành viên tham gia thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc. Tần suất đấu thầu từ 1 phiên/ tháng lên 2 phiên/tháng và 1 phiên/ tuần, với số tiền gọi thầu từ 50 tỷ đồng lên 300 tỷ đồng cho mỗi phiên gọi thầu. Đấu thầu tín phiếu được áp dụng theo phương thức của Hà Lan, tức là các thành viên tham gia đấu thầu sẽ đặt thầu theo lãi suất chứ không đặt thầu theo giá, nhưng có một điểm khác biệt là Bộ Tài chính áp dụng lãi suất chỉ đạo trong suốt quá trình xét mở thầu. Nếu lãi suất trúng thầu trong phạm vi lãi suất chỉ đạo thì đợt đấu thầu thành công và lãi suất trúng thầu chính là lãi suất tín phiếu phát hành. Nếu lãi suất đặt thầu cao hơn lãi suất chỉ đạo, thì trong trường hợp này chỉ có những đơn vị nào đặt thầu với mức lãi suất nhỏ hơn hoặc bằng lãi suất chỉ đạo mới được trúng thầu, còn các mức lãi suất cao hơn thì bị loại. Sau 10 năm thực hiện, hoạt động đấu thầu tín phiếu kho bạc qua NHNN đã đem lại những kết quả thiết thực: Công tác đấu thầu đã đi vào nề nếp và từng bước phát triển cả về quy mô cũng như tần suất phát hành; số phiên đấu thầu và khối lượng vốn huy động tăng qua các năm; cơ chế đấu thầu tạo cơ hội cạnh tranh, hình 32 thành lãi suất tín phiếu theo cơ chế thị trường. Tín phiếu kho bạc đấu thầu qua NHNN vừa đáp ứng yêu cầu bù đắp thiếu hụt NSNN với khối lượng lớn và chi phí thấp, đồng thời còn cung cấp một lượng lớn hàng hoá với chất lượng cao cho thị trường mở giúp NHNN điều hành thị trường tiền tệ. Tín phiếu phát hành theo hình thức ghi sổ đã làm giảm chi phí phát hành, việc NHTW giữ sổ sách và thanh toán tín phiếu đã rút ngắn thời gian thanh toán và tạo điều kiện cho việc chuyển giao tín phiếu trên thị trường thứ cấp. Bên cạnh đó hoạt động đấu thầu tín phiếu kho bạc trong thời gian qua còn một số hạn chế như sau : -Việc áp dụng cơ chế lãi suất chỉ đạo trong quá trình đấu thầu (mặc dù đã được điều chỉnh cho phù hợp với lãi suất chung trên thị trường) đã phần nào ảnh hưởng không nhỏ đến việc xác định lãi suất theo cơ chế thị trường, chưa thực sự bắt nhịp với tiến trình tự do hóa lãi suất. - Tín phiếu đấu thầu chủ yếu là loại 364 ngày là quá ngắn nếu đứng trên phương diện huy động vốn cho ĐTPT. Ngược lại, kỳ hạn này của tín phiếu là dài hơn so với các loại hàng hóa khác trên thị trường vốn ngắn hạn. - Tính cạnh tranh trong đấu thầu không cao, do ít thành viên tham gia đấu thầu và chủ yếu là các NHTM Nhà nước, nơi có vốn khả dụng cao. 2.1.2. Phát hành trái phiếu Kho bạc 2.1.2.1 Trái phiếu bán lẻ qua hệ thống Kho bạc Để tạo hành lang pháp lý cho công tác huy động vốn, ngày 26/7/1994 Chính phủ ban hành Nghị định số 72/CP về quy chế phát hành TPCP. Theo đó, hệ thống KBNN dừng phát hành tín phiếu kho bạc bán lẽ, chuyển sang phát hành trái phiếu kho bạc có kỳ hạn từ 1 năm trở lên. Việc phát hành trái phiếu kho bạc bán lẽ qua hệ thống KBNN trong thời gian qua có những đặc điểm sau: - Từ 20/6/1994, KBNN lần đầu tiên phát hành thí điểm loại trái phiếu kho bạc kỳ hạn 3 năm, lãi suất được công bố hàng năm (15% năm thứ nhất, 21% năm thứ hai và 14% cho năm thứ ba) nhằm từng bước nâng dần thời hạn vốn vay, tăng cường nguồn vốn trung hạn cho ĐTPT. Đợt phát hành này kéo dài 1 năm (từ 20/6/1994 đến 19/6/1995) nhưng kết quả chỉ huy động được hơn 880 triệu đồng. Nguyên nhân dẫn đến kết quả huy động vốn trong đợt này không cao là do các tầng lớp dân cư chưa quen với hình thức đầu tư trung hạn, lãi suất của trái phiếu 33 thấp hơn so với kỳ phiếu của các NHTM và tín phiếu kho bạc cùng thời kỳ (bình quân từ 21 - 22%/năm) nên chưa thật sự hấp dẫn công chúng. Ngoài ra, còn có lý do là sự thiếu vắng thị trường thứ cấp thực hiện việc mua bán lại trái phiếu sau phát hành - Từ tháng 4/1995 đến tháng 10/1995 KBNN phát hành loại trái phiếu kho bạc có kỳ hạn 1 năm, không ghi tên, in trước mệnh giá, lãi suất 21%/năm, trái phiếu được tự do chuyển đổi, cầm cố. Với lãi suất hấp dẫn của trái phiếu, cho nên đã thu hút số lượng lớn các nhà đầu tư, đặc biệt là các NHTM đang ở trong tình trạng ứ động vốn do chính sách thắt chặt tín dụng. Vì vậy, chỉ trong vòng 6 tháng đã huy động được 7.361 tỷ đồng. Tiếp theo, kể từ ngày 1/3/1996 đến ngày 15/4/1996 KBNN đã phát hành tiếp loại trái phiếu kho bạc có ghi tên, không in sẵn mệnh giá, kỳ hạn 1 năm, lãi suất 16%/năm, qua 2 tháng phát hành kết quả đã huy động được 745 tỷ đồng. Như vậy, sau hai năm phát hành trái phiếu kho bạc kỳ hạn 1 năm, bán lẻ qua hệ thống KBNN, tổng số vốn huy động được là 8.106 tỷ đồng đáp ứng được khối lượng lớn nhu cầu chi tiêu của NSNN. Tuy nhiên với kỳ hạn 1 năm trái phiếu kho bạc chưa đáp ứng được yêu cầu nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay cho ĐTPT, đồng thời NSNN bị động trong việc cân đối nguồn trả nợ vì thời gian vay quá ngắn. - Để khắc phục nhược điểm này liên tục từ tháng 9/1996 hệ thống KBNN đã phát hành loại trái phiếu kho bạc kỳ hạn 2 năm, có ghi tên, không in trước mệnh giá, tiền gốc và lãi trái phiếu được thanh toán một lần khi đến hạn đủ 24 tháng (trường hợp thanh toán trước hạn, nếu đủ 12 tháng đến dưới 24 tháng thì được hưởng lãi của một năm), bán cho các đối tượng là người Việt Nam và người nước ngoài đang sinh sống và làm việc hợp pháp tại Việt Nam. Tính đến cuối năm 2004 tổng số phát hành trái phiếu kho bạc loại 2 năm đã huy động được hơn 29.000 tỷ đồng, với số dư nợ trên 9.000 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số TPCP đã phát hành. - Để cung cấp hàng hoá có chất lượng cho thị trường chứng khoán mới ra đời, trong năm 2001 KBNN đã phát hành thí điểm trái phiếu kho bạc theo hình thức chiết khấu kỳ hạn 5 năm, lãi suất 7,2%/năm tại địa bàn Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Trái phiếu có cùng ngày phát hành là 15/6/2001 và cùng ngày thanh toán là 15/6/2006, được phát hành và thanh toán bằng đồng Việt Nam, dưới dạng 34 chứng chỉ, không ghi tên và in trước mệnh giá, tiền lãi thanh toán định kỳ mỗi năm một lần. Trái phiếu đợt này có đủ điều kiện niêm yết và giao dịch tại TTGDCK. Qua hai tháng phát hành (từ 16/4/2001 đến 15/6/2001) chỉ huy động được 48,6 tỷ đồng. Nguyên nhân là do các tầng lớp dân cư chưa quen với hình thức đầu tư mới này, lãi suất cố định cho cả kỳ hạn là không linh hoạt và kém hấp dẫn, đầu tư dài hạn chưa trở thành thói quen của dân chúng trong điều kiện nền kinh tế chưa thật sự ổn định. Nhìn chung trái phiếu bán lẻ qua hệ thống Kho bạc trong giai đoạn qua đạt được những kết quả nhất định, góp phần vào việc bù đắp thiếu hụt cho NSNN và cho ĐTPT; kỳ hạn trái phiếu đa dạng; lãi suất trái phiếu được điều chỉnh kịp thời, phù hợp với lãi suất trên thị trường (giai đoạn 1994 - 2000 lãi suất bình quân của trái phiếu khoảng từ 10,5% đến 12%/năm, năm 2001 là 6,8% - 7,2%/năm, năm 2002 là 7,1% - 8%/năm, năm 2003 và 2004 là từ 8,2% đến 8,4%/năm). Kết quả phát hành trái phiếu bán lẻ qua hệ thống Kho bạc từ 1994 đến 2004 được thể hiện theo phụ lục số 3 đính kèm. 0.88 7361 2004 3576 2700 3167 4316 2666 4117 3272 3986 0 1,000 2,000 3,000 4,000 5,000 6,000 7,000 8,000 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 Tỷ đồng Biểu đồ 3 : Trái phiếu kho bạc bán lẻ qua hệ thống KBNN giai đoạn 1994 - 2004 35 2.1.2.2 Trái phiếu Kho bạc đấu thầu qua TTGDCK Để tăng cường hơn nữa công tác huy động vốn đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng lớn cho ĐTPT, ngày 13/9/2000 Chính phủ đã ban hành Nghị định 01/2000/NĐ-CP về quy chế phát hành TPCP thay thế Nghị định số 72/CP, với việc bổ sung 2 phương thức phát hành TPCP mới, đó là: đấu thầu qua TTGDCK và bảo lãnh phát hành. Đấu thầu trái phiếu kho bạc qua TTGDCK được thực hiện theo Thông tư 55/2000/TT-BTC ngày 13/01/2000 và Thông tư 21/2000/TT-BTC ngày 24/3/2004 của Bộ Tài chính về việc đấu thầu TPCP qua thị trường giao dịch tập trung, có những đặc điểm sau đây: - Trái phiếu Kho bạc đấu thầu là loại trái phiếu có kỳ hạn 1 năm trở lên, được niêm yết và giao dịch tại TTGDCK. - Việc đấu thầu được thực hiện dưới hai hình thức : đấu thầu cạnh tranh lãi suất hoặc kết hợp giữa đấu thầu cạnh tranh lãi suất với đấu thầu không cạnh tranh lãi suất. - Đối tượng tham gia đấu thầu bao gồm : Các tổ chức tín dụng hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng; các công ty Chứng khoán; các công ty Bảo hiểm, Quỹ Bảo hiểm, Quỹ Đầu tư hoạt động tại Việt Nam; các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế. Các đối tượng trên phải có vốn pháp định tối thiểu là 22 tỷ Việt Nam đồng; hoạt động kinh doanh có hiệu quả, tình hình tài chính lành mạnh, có mở tài khoản tiền Việt Nam đồng tại ngân hàng. - Trái phiếu được bán theo các hình thức sau: chiết khấu, bằng mệnh giá, cao hơn mệnh giá hoặc thấp hơn mệnh giá. Cùng với sự ra đời của TTGDCK thành phố Hồ Chí Minh, kể từ lần đầu tiên tổ chức vào ngày 26/7/2000 cho đến ngày 31/12/2004, KBNN đã phối hợp với TTGDCK tổ chức được 52 phiên đấu thầu. Trái phiếu kho bạc được đấu thầu theo hình thức ngang mệnh giá, trả lãi hàng năm và cũng được xét thầu theo kiểu Hà Lan (giống như đấu thầu tín phiếu kho bạc), dưới hình thức chứng chỉ và ghi sổ, được niêm yết và giao dịch tại TTGDCK. Tính đến thời điểm 31/12/2004 số lượng thanh viên tham gia đấu thầu trái phiếu Kho bạc là hơn 20 đơn vị, bao gồm các NHTM Nhà nước, NHTM cổ phần, các Chi nhánh ngân hàng nước ngoài, các công ty Bảo hiểm, công ty Chứng khoán và Bảo hiểm Xã hội Việt Nam. Về kết quả huy động vốn, tính đến cuối năm 2004 tổng khối lượng trái phiếu gọi thầu là hơn 7.000 tỷ đồng, tổng giá trị trái phiếu trúng thầu là 3.134,7 tỷ đồng. 36 Cụ thể kết quả đấu thầu trái phiếu Kho bạc qua TTGDCK từ năm 2000 đến năm 2004 theo phụ lục số 4 đính kèm. 1.300 1.601 600 3.400 2.096 1.333 2.700 416 231 20035 35 936 0 500 1.000 1.500 2.000 2.500 3.000 3.500 2000 2001 2002 2003 2004 Tỷ đồng Khối lượng gọi thầu Khối lương đặt thầu Khối lượng trúng thầu Biểu đồ 4 : Trái phiếu kho bạc đấu thầu qua TTGDCK giai đoạn 2000 - 2004 Nhìn chung hoạt động đấu thầu trái phiếu kho bạc qua TTGDCK kém khả quan. Kết quả đấu thầu còn thấp là vì số lượng thành viên tham gia đấu thầu còn ít, bình quân mỗi phiên chỉ có từ 3 - 4 thành viên tham gia, khối lượng đặt thầu không đạt mức gọi thầu, lãi suất của các thành viên tham gia đấu thầu đưa ra thường cao hơn khung lãi suất chỉ đạo của Bộ Tài chính quy định. Ngoài ra còn có nguyên nhân là thiếu một thị trường thứ cấp cho hoạt động giao dịch trái phiếu trong điều kiện thị trường chứng khoán ở nước ta mới thành lập. Ngay ở các nước có thị trường chứng khoán phát triển thì đa số các trái phiếu đều được giao dịch trên thị trường giao dịch phi tập trung (OTC). Đồng thời việc thiếu thông tin về kế hoạch khối lượng, thời hạn TPCP phát hành qua kênh này hàng năm cũng ảnh hưởng đến việc các nhà đầu tư chuẩn bị nguồn vốn tham gia đấu thầu, dẫn tình trạng chênh lệch quá lớn giữa khối lượng gọi thầu và khối lượng trúng thầu TPCP, làm hạn chế đến kết quả đấu thầu trong thời gian qua. 37 2.1.2.3 Trái phiếu Kho bạc phát hành theo phương thức bảo lãnh và đại lý phát hành Nhằm mở ra nhiều kênh huy động vốn trung và dài cho NSNN và cho ĐTPT với phương thức linh hoạt, đa dạng, phong phú, đồng thời cung cấp thêm hàng hoá cho thị trường chứng khoán. Bên cạnh việc tổ chức đấu thầu qua TTGDCK, Bộ Tài chính đã thực hiện phát hành trái phiếu kho bạc theo phương thức bảo lãnh phát hành. Trái phiếu kho bạc phát hành theo phương thức này được thực hiện theo Thông tư 68/2000/TT-BTC ngày 13/7/2000 và Thông tư 29/2004/TT-BTC ngày 06/4/2004 của Bộ Tài chính về việc bảo lãnh và đại lý phát hành TPCP, với những đặc điểm sau đây: - Đối tượng tham gia bảo lãnh gồm : Các Công ty chứng khoán, các Quỹ đầu tư, các Công ty tài chính, các tổ chức ngân hàng hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam và phải đảm bảo các điều kiện sau: có vốn pháp định từ 22 tỷ đồng trở lên, có tài khoản tiền đồng Việt nam mở tại ngân hàng, hoạt động kinh doanh có lãi. - Trái phiếu được phát hành theo hai hình thức : chiết khấu hoặc ngang mệnh gia, dưới dạng ghi sổ hoặc chứng chỉ. Chứng chỉ trái phiếu không ghi tên và in sẵn mệnh giá. - Trái phiếu kho bạc phát hành theo phương thức này đủ điều kiện niêm yết và giao dịch tại TTGDCK. Kể từ lần phát hành thí điểm đầu tiên (15/9/2000) đã huy động được 500 tỷ đồng trái phiếu kho bạc với thời hạn 5 năm, lãi suất 6,6%/năm, với 3 đơn vị tham gia theo phương thức bảo lãnh trọn gói. Trên cơ sở kinh nghiệm của đợt phát hành đầu tiên, trong những năm tiếp theo Bộ Tài chính tiếp tục tổ chức phát hành trái phiếu kho bạc theo phương thức bảo lãnh phát hành qua TTGDCK. Cụ thể, năm 2001 Bộ Tài chính đã tổ chức được 2 đợt bảo lãnh phát hành trái phiếu kỳ hạn 5 năm, với khối lượng là 200 tỷ đồng, lãi suất 7%/năm và 50 tỷ đồng với lãi suất 7,35%/. Năm 2003 phát hành 6 đợt với khối lượng là 1.650 tỷ đồng (trong đó trái phiếu kho bạc là 220 tỷ đồng và trái phiếu giao thông thuỷ lợi là 1.430 tỷ đồng). Đặc biệt, trong năm 2004 đã tổ chức thực hiện được 21 phiên bảo lãnh phát hành, huy động 2.390 tỷ đồng, trong đó huy động vốn cho NSNN là 1.755 tỷ đồng, và cho các các công trình giao thông thủy lợi là 635 tỷ đồng. Tính đến ngày 31/12/2004 Bộ Tài chính (KBNN) đã tổ chức được 31 phiên bảo lãnh, với các đơn vị tham gia bảo 38 lãnh là các NHTM Nhà nước và công ty Chứng khoán, số vốn huy động được là 4.790 tỷ đồng (loại trái phiếu có kỳ hạn 5 năm), trong đó huy động vốn cho NSNN là 2.725 tỷ đồng và huy động vốn để đầu tư cho các công trình giao thông thuỷ lợi quan trọng của đất nước là 2.065 tỷ đồng. Đến nay đã có 23 đơn vị được công nhận là thành viên bảo lãnh phát hành TPCP bao gồm các NHTM và các công ty Chứng khoán. Chi tiết phát hành TPCP theo phương thức bảo lãnh phát hành giai đoạn 2000 - 2004 theo phụ lục số 5 đính kèm Đơn vị : tỷ đồng 1.650 250500 2.390 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2003 năm 2004 Biểu đồ 5 : Trái phiếu kho bạc bảo lãnh phát hành giai đoạn 2000 – 2004 Thông qua kênh bảo lãnh phát hành, Chính phủ đã huy động hàng ngàn tỷ đồng nguồn vốn dài hạn cho NSNN và cho ĐTPT. Đồng thời đã góp phần bổ sung một lượng hàng hoá lớn cho thị trường chứng khoán trong quá trình xây dựng và mở rộng quy mô hoạt động. Thị trường bảo lãnh phát hành ngày càng được hoàn thiện và phát triển, trở thành điểm hẹn hấp dẫn giữa nhà phát hành với nhà đầu tư. Tuy nhiên do các tổ chức bảo lãnh, đặc biệt là các công ty Chứng khoán, chưa có nhiều kinh nghiệm trong lãnh vực kinh doanh chứng khoán, tiềm lực tài chính còn hạn chế, thị trường thứ cấp chưa phát triển nên các tổ chức tham gia đều với tư cách đồng bảo lãnh chính, chưa hình thành hiệp hội các nhà đầu tư và tổ chức chức phân phối lại trái phiếu theo đúng thông lệ quốc tế. 39 2.1.3. Phát hành công trái xây dựng tổ quốc - Công trái xây dựng tổ quốc năm 1999 : Để phát huy nội lực, huy động nguồn vốn trong dân nhằm xây dựng các công trình quan trọng của quốc gia phục vụ sản xuất, đời sống, tạo cơ sở vật chất kỹ thuật cho đất nước. Ngày 27/4/1999 Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh số 12/1999/PL-UBTVQH10 về phát hành công trái xây dựng Tổ quốc và Chính phủ đã ban hành Nghị định số 34/1999/NĐ-CP ngày 12/5/1999 quy định về việc phát hành công trái xây dựng Tổ quốc năm 1999. Mục đích là để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho các xã nghèo, các xã đặc biệt khó khăn. Đối tượng vận động là các tổ chức, cá nhân làm việc, sinh sống hợp pháp Việt Nam. Công trái có kỳ hạn 5 năm, lãi suất 10%/năm (trong đó chỉ số trượt giá là 8,5% và lãi suất thực là 1,5%), tiền gốc và lãi được thanh toán một lần khi đến hạn. Trường hợp mức lạm phát 5 năm vượt quá 42,5% thì lãi suất công trái được điều chỉnh theo mức trượt giá và vẫn đảm bảo mức lãi suất thực là 1,5%/năm, còn nếu mức trượt giá cộng với lãi suất thực dưới 50% thì người sở hữu công trái vẫn được hưởng mức lãi suất 50%/5 năm. Qua gần 2 tháng phát hành (từ 19/5 đến 15/7/1999), tổng số vốn đã huy động được là 4.496 tỷ đồng, đạt 112,4% chỉ tiêu Quốc hội giao. - Công trái giáo dục năm 2003 : Với mục tiêu phát triển nền giáo dục nước nhà, tiến tới thu hẹp khoảng cách giữa miền núi và miền xuôi, Quốc hội khóa 11 đã ban hành Nghị quyết số 09/2002/QH11 ngày 28/11/2002, nhằm huy động vốn để hổ trợ các tỉnh miền núi, Tây nguyên và các tỉnh có nhiều khó khăn thực hiện mục tiêu xoá phòng học 3 ca, xoá phòng học tranh tre nứa lá, kiên cố hoá trường học. Trên cơ sở đó Chính phủ đã ban hành Nghị định số 28/CP-NĐ ngày 31/3/2003 về việc phát hành công trái xây dựng Tổ quốc năm 2003 - công trái giáo dục. Công trái được phát hành dưới 2 hình thức: không ghi tên in trước mệnh giá (có 11 loại mệnh giá, thấp nhất là 50 ngàn đồng và cao nhất là 100 triệu đồng) và công trái có ghi tên không in trước mệnh giá. Đối tượng huy động là công dân Việt nam ở trong và ngoài nước, người Việt Nam định cư ơ nước ngoài, người nước ngoài cư trú và làm việc ở Việt Nam, các tổ chức nghề nghiệp, kinh tế, chính trị, xã hội, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế và các tổ chức nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Công trái có kỳ hạn 5 năm, lãi suất 8%/năm (bao gồm cả mức trượt giá hàng năm và tỷ lệ lãi suất thực là 1,5%/năm). Tiền gốc và lãi được thanh toán một lần khi đến hạn, trường hợp nếu có khó khăn đặc biệt hoặc rủi ro bất khả kháng sẽ được 40 giải quyết thanh toán trước hạn và được hưởng lãi tùy theo thời gian mua công trái. Để bảo vệ lợi ích của người mua công trái, trường hợp mức trượt giá cộng với lãi suất thực trong 5 năm lớn hơn 40% thì Nhà nước bù chênh lệch, ngược lại thì Nhà nước vẫn thanh toán theo mức lãi suất 40%/5 năm. Với việc đa dạng hình thức, mệnh giá công trái và cách thức thanh toán linh hoạt, đã tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân trong việc lựa chọn các hình thức đầu tư phù hợp với nhu cầu và khả năng tài chính. Vì vậy, chỉ trong 15 ngày phát hành (từ 05/5/2003 đến 18/5/2003) đã huy động được 2.580 tỷ đồng, đạt 129% chỉ tiêu Quốc hội giao. 4.000 4.496 2.000 2.580 0 500 1.000 1.500 2.000 2.500 3.000 3.500 4.000 4.500 Công trái năm 1999 Công trái năm 2003 Tỷ đồng Kế hoạch Thực hiện Biểu đồ 6 : Công trái xây dựng tổ quốc phát hành giai đoạn 1990 – 2004 Qua cả hai đợt phát hành công trái bán lẻ qua hệ thống KBNN, Nhà nước đã huy động dược 7.076 tỷ đồng đạt 117,93% kế hoạch cho mục tiêu phát triển kinh tế và đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục của nước nhà. Chi tiết phát hành công trái xây dựng Tổ quốc giai đoạn 1990 – 2004 theo phụ lục số 6 đính kèm. Công trái xây dựng Tổ quốc phát hành năm 1999 và năm 2003 đã nhận được được sự hưởng ứng nhiệt tình của các tầng lớp nhân dân, các cơ quan, đơn vị và tổ chức trên cả nước. Thành công của cả hai đợt phát hành là đã huy động vượt mức kế hoạch đã đề ra, đáp ứng đầy đủ và kịp thời nhu cầu vốn để đầu tư cho các mục tiêu chương trình quốc gia; đồng thời cũng là một bước tiến mới trong công tác phát hành TPCP, từng bước tạo điều kiện cho người dân làm quen với hình thức đầu tư trung hạn. 41 2.1.4. Phát hành trái phiếu công trình Để huy động vốn phục vụ xây dựng đường dây tải điện Bắc - Nam 500 KV, ngày 20/4/1992 Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Quyết định số 134/HĐBT về việc phát hành tín phiếu đường dây 500 KV, đây là lần đầu tiên Nhà nước phát hành trái phiếu công trình. Tín phiếu đường dây 500 KV có kỳ hạn là 1 năm, 2 năm và 3 năm; lãi suất tương ứng là 4,2%/năm, 4,5%/năm và 5%/năm (từ ngày 01/7/1993 được điều chỉnh lên tương ứng là 6%/năm, 6,5%/năm và 7%/năm). Tín phiếu đường dây 500 KV được bảo đảm theo giá trị vàng, được ghi thu và chi bằng đồng Việt Nam, không bắt buộc đối với các tầng lớp dân cư, nhưng là chỉ tiêu và nghĩa vụ đối với các doanh nghiệp. Người dân có thể lựa chọn mua mua tín phiếu bằng vàng hoặc USD (chỉ áp dụng cho các tỉnh, thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu và Nam Hà) trên cơ sở giá quy đổi do Bộ Tài chính công bố tại thời điểm phát hành. Đợt phát hành kéo dài hơn 2 năm (từ 7/1992 đến 12/1994) nhưng chỉ huy động được 334 tỷ đồng, đạt gần 28% tổng số vốn cần huy động (1.213 tỷ đồng). Nguyên nhân chủ yếu là do lãi suất thấp hơn lãi suất của các loại tín phiếu kho bạc phát hành cùng thời kỳ, nên không hấp dẫn đối với người mua. Ngoài ra giá vàng trên thị trường tuy có biến động lớn trong năm 1992, nhưng đã giảm dần và tương đối ổn định trong những năm 1993 và 1994, do đó việc đảm bảo giá trị theo giá vàng đã không khuyến khích việc mua tín phiếu. Tín phiếu đường dây 500 KV, ngoài ý nghĩa về mặt kinh tế, còn mang tính chính trị sâu sắc, do đó đã nhận được sự quan tâm chỉ đạo của các cấp chính quyền, đoàn thể từ trung ương đến cơ sở. Song do điều kiện kinh tế - xã hội chưa phát triển, đời sống của các tầng lớp dân cư trong thời kỳ này còn nhiều khó khăn, nên việc mua tín phiếu tự nguyện thấp (chưa đạt 10% tổng số thu), còn các doanh nghiệp đang tập trung vốn đầu tư trong quá trình đổi mới theo cơ chế thị trường. Do vậy số vốn huy động được chỉ đạt gần 7% tổng số vốn để đầu tư cho công trình . Kể từ khi Nghị định số 72/CP của Chính phủ về quy chế phát hành TPCP ra đời, tiếp theo là Nghị định số 01/2000/NĐ-CP và Nghị định số 141/2003/NĐ-CP việc phát hành trái phiếu công trình trung ương và địa phương đã được tăng cường. Bộ Tài chính phối hợp với UBND các tỉnh, thành phố, các Bộ, ngành xây dựng đề án huy động vốn để đầu tư cho các công trình, dự án thuộc nhiều lãnh vực. Từ đó nhiều công trình đã ra đời bằng nguồn huy động từ trái phiếu công trình như: các 42 công trình Trung ương (thủy điện Yaly, khu đô thị mới Bắc Linh Đàm, khu đô thị mới Định Công, khu đô thị mới Chí Linh…); các công trình địa phương (xi măng Phúc Sơn, các công trình cơ sở hạ tầng của các tỉnh, thành phố : Hồ Chí Minh, Bình Thuận, Tiền Giang, Cà Mau, Khánh Hoà…). Đơn vị : tỷ đồng Biểu đồ 7 Công trình trung ương Công trình địa phương 9.175,212 2.302,400 0 2.000 4.000 6.000 8.000 10.000 : Phát hành trái phiếu công trình giai đoạn 1996 – 2004 Từ năm 2000 trở về trước, trái phiếu công trình được phát hành theo phương và 2004, hệ thống KBNN đã phát hành một khối thức đấu thầu qua NHNN, thời hạn trái phiếu là 1 năm, lãi suất được hình thành qua kết quả đấu thầu. Đến hạn thanh toán mà ngân sách tỉnh có khó khăn, chưa bố trí được nguồn thì Bộ Tài chính tiếp tục phát hành trái phiếu mới để đáo nợ củ. Sau năm 2000, theo Nghị định số 01/2000/NĐ-CP ngày 13/01/2000 của Chính phủ, trái phiếu công trình được phát hành qua các kênh: đấu thầu qua TTGDCK và bảo lãnh phát hành. Do vậy, các công trình có điều kiện huy động vốn nhanh hơn, với thời hạn dài hơn và chi phí thấp hơn. Đặc biệt trong 2 năm 2003 lượng lớn TPCP để huy động vốn cho các công trình trọng điểm quốc gia thuộc lãnh vực giao thông thủy lợi. TPCP giao thông thuỷ lợi được phát hành dưới 3 hình thức: bán lẻ, đấu thầu qua TTGDCK và bảo lãnh phát hành, với kỳ hạn là 5 năm. Kết quả trong 2 năm phát hành đã thu được 8.828,4 tỷ đồng (trong đó bán lẻ qua hệ thống KBNN: 5.641,4 tỷ đồng, đấu thầu qua TTGDCK:1.122 tỷ đồng và bảo lãnh 43 phát hành là: 2.065 tỷ đồng) chưa kể số thu bằng ngoại tệ. Đây là đợt phát hành trái phiếu công trình có quy mô lớn nhất từ trước đến nay và có ý nghĩa quan trọng trong việc khẳng định quan điểm sử dụng công cụ TPCP để huy động vốn trong nước cho ĐTPT. Cụ thể, kết quả phát hành trái phiếu công trình giai đoạn 1996 - 2004 theo phụ lục số 7 đính kèm Phát hành trái phiếu công trình trong thời gian qua đả đạt được những kết quả nh dự án còn nhiều phức tạp. N ư tưởng trong chờ từ nguồn vốn cấp phát từ NSNN ới nhà đầu tư trái ph ngoại tệ n hành Nghị định số 141/2003/NĐ-CP đã mở ất định: đây là một kênh huy động vốn ĐTPT cho các côn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf44071.pdf
Tài liệu liên quan