Luận văn Rửa tiền và chống rửa tiền hiện tượng, giải pháp ở các nước trên thế giới và Việt Nam

Tài liệu Luận văn Rửa tiền và chống rửa tiền hiện tượng, giải pháp ở các nước trên thế giới và Việt Nam: 1 Luận văn Rửa tiền và chống rửa tiền - hiện tượng, giải pháp ở các nước trên thế giới và Việt Nam 2 LờI mở đầu Rửa tiền là một khâu quan trọng quá trình hoạt động tội phạm nhằm che đậy, xoá nhoà nguồn gốc bất hợp pháp của những thu nhập có được từ hoạt động phạm tội. Thuật ngữ "rửa tiền " đã trở nên quen thuộc ở nhiều nước trên thế giới. Với vụ rửa tiền đầu tiên xuất hiện tại Hoa Kỳ vào năm 1920, cho tới nay nó đã xuất hiện ở hầu hết các nước trên thế giới với các mức độ khác nhau nhưng ngày càng có xu hướng gia tăng. Hoạt động rửa tiền cũng ngày một tinh vi hơn, khó bị phát hiện hơn. Chúng ta biết rằng hoạt động rửa tiền thường gắn liền với một hoặc nhiều hoạt động tội phạm nước đó. Do vậy hậu quả của nạn rửa tiền là vô cùng nghiêm trọng đối với nền kinh tế - xã hội, nó có thể phá huỷ nền kinh tế, an ninh và gây ra những hậu quả xấu cho xã hội, đồng thời nó khuyến khích hoạt động mua bán ma tuý, khủng bố, các quan chức Nhà nước tham nhũng và ké...

pdf82 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1335 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Rửa tiền và chống rửa tiền hiện tượng, giải pháp ở các nước trên thế giới và Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 Luận văn Rửa tiền và chống rửa tiền - hiện tượng, giải pháp ở các nước trên thế giới và Việt Nam 2 LờI mở đầu Rửa tiền là một khâu quan trọng quá trình hoạt động tội phạm nhằm che đậy, xoá nhoà nguồn gốc bất hợp pháp của những thu nhập có được từ hoạt động phạm tội. Thuật ngữ "rửa tiền " đã trở nên quen thuộc ở nhiều nước trên thế giới. Với vụ rửa tiền đầu tiên xuất hiện tại Hoa Kỳ vào năm 1920, cho tới nay nó đã xuất hiện ở hầu hết các nước trên thế giới với các mức độ khác nhau nhưng ngày càng có xu hướng gia tăng. Hoạt động rửa tiền cũng ngày một tinh vi hơn, khó bị phát hiện hơn. Chúng ta biết rằng hoạt động rửa tiền thường gắn liền với một hoặc nhiều hoạt động tội phạm nước đó. Do vậy hậu quả của nạn rửa tiền là vô cùng nghiêm trọng đối với nền kinh tế - xã hội, nó có thể phá huỷ nền kinh tế, an ninh và gây ra những hậu quả xấu cho xã hội, đồng thời nó khuyến khích hoạt động mua bán ma tuý, khủng bố, các quan chức Nhà nước tham nhũng và kéo theo những hoạt động phạm tội khác; nó tác động rất lớn đến hiệu quả hoạt động và làm sai lệch quá trình hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô, làm tăng nguy cơ phá sản của các ngân hàng và làm mất đi vai trò kiểm soát các chính sách của Chính phủ... Nếu không kiểm soát được, nạn rửa tiền có thể ăn mòn tình hình tài chính của một nước do gây ra những ảnh hưởng bất lợi tới tỷ giá, lãi suất và tác động đến hệ thống tài chính toàn cầu. Có thể nói nạn "rửa tiền" không chỉ là vấn đề của các cơ quan thực thi pháp luật mà nó còn là mối đe doạ nghiêm trọng nền an ninh của một quốc gia và cộng đồng quốc tế... Vì những lý do này mà chống rửa tiền đang là một yêu cầu cấp bách đối với các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. 3 Với mong muốn góp ý kiến vào cuộc đấu tranh chống "rửa tiền " đầy khó khăn này, nhằm từng bước làm trong sạch hệ thống tài chính, ổn định kinh tế xã hội, tác giả mạnh dạn đưa ra đề tài: "Rửa tiền và chống rửa tiền - hiện tượng, giải pháp ở các nước trên thế giới và Việt Nam". Đề tài làm rõ những nội dung cơ bản về phương diện lý luận cũng như thực tiễn về nạn rửa tiền, về cuộc đấu tranh chống rửa tiền ở một số quốc gia trên thế giới. Từ đó đưa ra một số giải pháp và kiến nghị để cuộc đấu tranh chống rửa tiền thành công. 4 Mục lục LỜI MỞ ĐẦU ....................................................................................... 1 CHƯƠNG I NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ RỬA TIỀN ....................................... 6 I. KHÁI NIỆM VÀ QUI TRÈNH RỬA TIỀN ............................................. 6 1. Khái niệm. ........................................................................................ 6 1.1. Định nghĩa: ............................................................................... 6 1.2. Lịch sử nạn rửa tiền ................................................................... 9 2. Qui trình rửa tiền ............................................................................. 12 2.1. Chu trình rửa tiền ................................................................... 12 2.2. Các hình thức rửa tiền ............................................................ 15 II. HẬU QUẢ NẠN RỬA TIỀN .............................................................. 18 1. Những thị trường mới nổi dễ bị tổn thương ..................................... 19 2. Làm suy yếu khu vực kinh tế tư nhân .............................................. 19 3. Làm suy yếu toàn bộ thị trường tài chính ......................................... 20 4. Làm mất sự kiểm soát chính sách kinh tế ......................................... 20 5. Sự sai lệch và mất ổn định về kinh tế ............................................... 21 6. Gây tổn hại Ngân khố quốc gia: ....................................................... 22 7. Gây nên rủi ro cho những nỗ lực tư nhân hoá .................................. 22 8. Nguy cơ tổn hại danh tiếng .............................................................. 22 9. Những cái giá phải trả về mặt xã hội................................................ 25 III. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG RỬA TIỀN QUA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG ...................................................................................................... 24 IV. CÁC VĂN BẢN PHÁP LÍ SỬ DỤNG TRONG CHỐNG “RỬA TIỀN” ............................................................................................ 30 Kết luận chương I:................................................................................ 33 5 CHƯƠNG II THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG RỬA TIỀN VÀ CHỐNG RỬA TIỀN Ở MỘT SỐ NƯỚC TRấN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM ......... 34 I. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG RỬA TIỀN VÀ CHỐNG RỬA TIỀN MỘT SỐ NƯỚC TRấN THẾ GIỚI............................................................ 34 1. Rửa tiền - chống rửa tiền tại Hoa Kỳ ............................................... 35 1.1. Khái quát chung: ...................................................................... 35 1.2. Chống rửa tiền của Hoa Kỳ: ...................................................... 38 1.2.1. Những cơ sở pháp lý then chốt của Hoa Kỳ. ..................... 38 1.2.2 Dấu vết hồ sơ: ................................................................... 40 1.2.3. Vòng quay toàn cầu .......................................................... 43 1.2.4. Những định hướng trong tương lai: ................................. 44 1.3. Những thành tựu đạt được trong cuộc chiến chống rửa tiền của Hoa Kỳ ................................................................................................. 45 1.3.1. Chiến dịch "thuần hoá chú lừa" ...................................... 45 1.3.2. Chiến dịch “công việc mạo hiểm”................................... 46 1.3.3. Những vụ việc liên quan đến hệ thống chuyển đổi đồng tiền peso chợ đen. ................................................................................. 48 1.3.4. Những khó khăn trong các vụ chống rửa tiền quốc tế: Chiến dịch Casablanca ......................................................................... 49 2. Rửa tiền - chống rửa tiền ở Thái Lan ............................................... 52 3. Rửa tiền- chống rửa tiền tại Hồng Kông ......................................... 55 II. RỬA TIỀN VÀ CHỐNG RỬA TIỀN Ở VIỆT NAM ........................... 58 1. Khái quát chung: ............................................................................. 58 2. Thực trạng cụ thể .............................................................................. 60 Kết luận chương II. ............................................................................... 61 6 CHƯƠNG III MỘT SỐ GIẢI PHÁP GểP PHẦN CHỐNG NẠN RỬA TIỀN VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ ........................................................................ 63 I. SỰ CẦN THIẾT CHỐNG RỬA TIỀN VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ ........ 63 1. Sự cần thiết phải chống “rửa tiền” .................................................... 63 2. Định hướng chống “rửa tiền” ............................................................ 60 II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỐNG RỬA TIỀN......................................... 65 1. Các biện pháp kĩ thuật và đào tạo ................................................... 65 1.1. Đào tạo các đối tác. .................................................................. 67 1.2. Các sáng tạo hỗ trợ đa phương : ............................................. 72 2. Biện pháp của ngành ngân hàng. ...................................................... 73 2.1. Mục tiêu của chính sách “nhận biết khách hàng”-KYC ............ 73 2.2. Nội dung của chính sách “nhận biết khách hàng” .................... 74 2.3. Nguyên tắc cơ bản của Chính sách “nhận biết khách hàng” .... 75 3. Hợp tác quốc tế chống “rửa tiền”. .................................................... 76 III. NHỮNG KIẾN NGHỊ VỚI VIỆT NAM ............................................. 78 Kết luận chương III. ............................................................................. 78 TÀI LIệU THAM KHảO .................................................................... 81 7 Chương I Những vấn đề chung về rửa tiền I. Khái niệm và quy trình rửa tiền 1. Khái niệm. 1.1. Định nghĩa: Một cách chung nhất có thể hiểu rửa tiền là hành động hợp thức hoá số tiền kiếm được một cách bất hợp pháp và tránh sự kiểm soát các hoạt động phi pháp của các cơ quan hành pháp. Vậy đối tượng tham gia hành vi rửa tiền là ai? Câu trả lời đơn giản là bọn tội phạm. Nhưng câu trả lời này không hoàn toàn phản ánh sự thực. Bởi trong thực tế, người ta có thể tìm thấy bọn rửa tiền ở mọi ngóc ngách của cuộc sống, trong đó có những tên hoạt động hết sức đơn giản, có những tên hoạt động hết sức tinh vi: từ việc đặt cược đua ngựa, buôn lậu, trốn thuế, gửi tiền vào ngân hàng... đến rửa tiền thông qua các công cụ tài chính hiện đại. Tuy nhiên tội phạm rửa tiền không phải chỉ là những tên chủ mưu rửa tiền mà cả những đối tượng giúp để một tên tội phạm thực hiện hoạt động rửa tiền. Điều này có nghĩa là, nếu các chủ ngân hàng, các luật sư, các kế toán, những người buôn bán xe hơi và những người khác cho phép ai đó rửa tiền thông qua các hoạt động kinh doanh của mình thì họ cũng là những tên rửa tiền. Nói chung điều duy nhất có thể biện hộ cho một người là anh ta đã không biết gì về việc đang xảy ra; lý do như vậy có vẻ không mấy thuyết phục. Tuy nhiên trong các phiên toà, dù có được ghi trong các điều khoản luật hay do những phỏng đoán từ các chứng cứ thì nhiệm vụ chứng minh sự vô tội của anh ta chuyển sang cho bị cáo. 8 Trong nhiều trường hợp, những người không phải là doanh nhân hay không phải là những tên tội phạm cũng đều có nguy cơ trở thành tội phạm rửa tiền nếu như họ chứa chấp, nắm giữ hộ tiền hay tài sản thu được từ các vụ rửa tiền. Một ví dụ rõ nhất trong tình huống này là vợ hay bạn gái của một tên tội phạm biết hoặc nghi ngờ chồng hay bạn trai của mình sử dụng nguồn lợi bất chính để mua nhà, mua xe hay mua đồ trang sức đắt tiền.v.v... cũng trở thành hoặc bị coi là tội phạm rửa tiền. Đối tượng sau cùng bị coi là tội phạm rửa tiền phải kể đến là những người giúp bọn tội phạm vạch ra kế hoạch rửa tiền cho dù họ không thực sự tham gia vào kế hoạch đó. Như vậy một kế toán gợi ý cho bọn rửa tiền một kế hoạch trốn thuế thì chính viên kế toán này cũng trở thành tội phạm rửa tiền. Một vấn đề đặt ra là tại sao bọn tội phạm lại rửa tiền? Hiện nay, người ta biết tới ba loại tội phạm cơ bản là: tội phạm vì tình hay vì danh dự, tội phá hoại mang tính bạo lực và tội phạm kinh tế. Nếu bỏ qua số ít tội phạm phá hoại thì phần đông là tội phạm kinh tế - phạm tội vì tiền. Nhưng đối tượng này phạm tội vì hai lý do: một là, do bị kích động, tức là chúng muốn chứng tỏ rằng chúng có thể làm được việc đó và bỏ trốn sau khi phạm tội; hai là, vì chúng cho rằng nếu phạm tội thì chúng sẽ có nhiều tiền hơn là bằng cách nỗ lực kiếm tiền theo đúng luật. Sau khi kiếm được tiền bằng cách phạm tội, bọn chúng sẽ sử dụng tiền đó cho một trong ba mục đích: đưa trực tiếp vào một vụ phạm tội khác; dấu tiền để sử dụng sau này; hoặc trực tiếp vào một vụ phạm tội . Trong những phương pháp điều tra chuẩn mực và đạt được những thành công nhất là điều tra "theo dấu đồng tiền". Vì vậy, bọn tội phạm muốn chuyển đi xa một cách nhanh chóng để "xoá dấu đồng tiền" trước khi các điều tra viên có thể phát hiện ra. Từ xưa tới nay, chúng đều muốn dấu tiền vào một chỗ kín đáo để những điều tra viên không làm được gì. Thêm vào đó, nếu các 9 điều tra viên cho rằng ai đó có liên quan tới tội phạm thì họ sẽ tiến hành điều tra trước tiên nguồn tài chính và các công việc trước đây của đối tượng này. Vì thế, bọn tội phạm cần phải lôi tiền ra khỏi chỗ kín bằng cách nào đó mà anh ta có thể giải thích là anh ta đã lấy nó từ đâu. Tuy nhiên, khi thấy một người tiêu xài nhiều hơn số tiền họ có, ví dụ một người thợ làm đầu không có người khách nào mà lại có một chiếc xe mui trần, thì chúng ta có quyền nghi ngờ họ có dính líu đến hành vi "rửa tiền". Những người muốn trốn thuế rửa tiền để che dấu về nguồn gốc của tiền và tài sản hoặc họ có thể dấu tiền trong các tài khoản mở tại Ngân hàng, thường dưới tên của con cái hay người thân của họ, miễn sao để những người quản lý thu nhập sẽ không phát hiện ra. Đôi khi, chỉ đơn giản là họ tiến hành các hoạt động bên ngoài mà chỉ một phần hoạt động đó bị ghi chép lại. Nhìn chung, hành vi rửa tiền là rất đa dạng, nó có thể tồn tại dưới dạng này hoặc dạng khác. Khi khoa học công nghệ này phát triển, hành vi này càng trở nên tinh vi hơn. Muốn hạn chế được hành vi này phải tìm ra nguồn gốc sâu xa của nó, tức trả lời câu hỏi: "Tại sao xảy ra nạn rửa tiền". Theo ước tính thì 80% các vụ phạm tội về tài sản, ví như hành động ăn trộm là để thoả mãn thói quen nghiện hút; nếu không có ai muốn mua những hàng hoá là đồ ăn cắp thì bọn tội phạm sẽ không có cơ sở để ăn trộm vì chúng sẽ không thể bán lấy tiền được. ở hầu hết các nước, nếu một người buôn bán đồ ăn cắp (điều này có nghĩa là anh ta mua chúng từ một bên ăn trộm rồi bán lấy tiền lời) thì tội của anh ta còn nghiêm trọng hơn là tội của tên tội phạm đã ăn trộm hàng hoá đó. Vì vậy, người ta tin tưởng rằng có thể giảm các vụ ăn trộm chỉ bằng cách làm cho chúng không thể đem lại lợi nhuận cho bọn tội phạm. Tuy nhiên, hiện nay loại tội phạm tài chính ngày càng gia tăng với cách phạm tội ngày càng tinh vi thì tiền không còn tồn tại dưới dạng vật chất. ở 10 đây, tiền chẳng khác nào những thông tin trên màn hình máy tính hay chính xác hơn là những kí tự lưu trữ trong bộ nhớ của máy vi tính. Vì thế khó có thể thấy người ta mua bán đồ ăn trộm vì thực tế chẳng có gì cả. Kết quả là, khung luật hình sự có đưa ra cách xác định một vật chất của những đồ ăn trộm, ăn cắp là không thể áp dụng được (hoặc các toà án cho rằng nó không thích ứng) đối với những loại tiền hoặc tài sản khác phi vật chất. Các nhà lập pháp và hành pháp có một câu thành ngữ cho rằng để giảm bớt tội phạm phải "triệt tiêu lợi nhuận của bọn tội phạm", nghĩa là xác minh các tài sản bắt nguồn từ lợi nhuận từ các vụ phạm tội và tịch thu chúng theo lệnh của toà án hoặc dựa vào sức mạnh của quyền lực hành chính. Tóm lại rửa tiền là một hoạt động phi pháp. Chúng ta có thấy thấy hành vi rửa tiền thường đi kèm với các hành vi tội phạm. Để chống rửa tiền hiệu quả trước hết chúng ta hãy xem diễn biến của nó trong lịch sử và những tác động của nó. 1.2. Lịch sử nạn rửa tiền Rửa tiền xuất hiện lần đầu tiên ở Mỹ vào năm 1920 và đến năm 1999 thì nhu cầu rửa tiền ngày càng lớn và lan rộng ra nhiều nước trên thế giới. Theo báo cáo năm 2000 của Cơ quan chống các chất gây nghiện quốc tế (gọi tắt là INCSR) cho tới thời điểm này số các nước có tình trạng rửa tiền ở mức độ đáng lo ngại đã lên tới mức hai con số. Cụ thể tổ chức này chia mức độ hoạt động rửa tiền ở các quốc gia thành 3 mức chủ yếu: Nhóm mức độ lo ngại cao; Nhóm mức độ lo ngại trung bình và nhóm được theo dõi. Sự phân chia này dựa trên các tiêu chí: (1) có hay không có những cơ quan tài chính của quốc gia tiến hành các giao dịch có liên quan trực tiếp đến lượng tiền thu được từ những tội phạm nghiêm trọng; (2) phạm vi của hoạt động xét xử hay bất cập ảnh hưởng đến rửa tiền; (3) bản chất và qui mô của tình trạng rửa tiền ở nước ta (ví dụ: ở đó có hay không có dính dáng đến ma tuý hay những hoạt động buôn lậu); (4) những cách thức mà mỗi quốc gia quan tâm đến tình hình 11 cụ thể khi có chi nhánh quốc tế; (5) Những tác động hiện tại mà mỗi quốc gia quan tâm; (6) Có hay không việc giới hạn các hành vi bảo vệ pháp luật được phép chỉ ra những vấn đề cụ thể; (7) Có hay không có việc thiếu thủ tục cho phép hoạt động và bỏ sót các Trung tâm buôn bán và tài chính nước ngoài; (8) Có hay không giới hạn của pháp luật đang thực thi ngày càng có hiệu quả; và sự hợp tác quốc tế trong việc chống rửa tiền ở các quốc gia. Bảng 1: Danh sách các quốc gia/nhóm mức độ lo ngại về rửa tiền Quốc gia /nhóm mức độ lo ngại lớn quốc gia /nhóm mức độ lo ngại trung bình quốc gia /nhóm theo dõi Antigua Indonexia Albania Chila Afghanmistan Croatia Barbuda Isle of man Argentira Cook llands Algeria Cuba Australia Israel Aruba Korea, North Angola Denmark Austria Italy Bahrain Costa Rica Anguilla Eritrea Bahamas Japan Belize Czech Tepublic Armenia Estonia Brazil Tersey Boliavia Ecuador Azerbaijan Ethiopla Burma Lebanon British Ycrgin Sammoa Bangladesh Fiji Canada Liechtesntein . Islands Seychelles Belarus Finland Cayman Island Mexico Barbados Slovakia Benin Georgia China Nauru Belgium South Africa Benmuda Ghana Colombia Holland Egypt St.Lucia Bosnia and Guyana Cyprus Nigeria El Salvador Turks and Bots wwana Iran Dominica Pakistan Gibnaltar Ukraine Brunei Tordan France Panama Haiti Vanuatu Cameroon Ka zakhstan Germany Paraguay Honduras Vietnam Cote d'Ivoire Trenya Greece Phillipine Inreland Yugoslavia Kyrgyzstan Laos Grenada Russia Jamaica Bulgaria Montsserrat Saudi Arabia Guensey Singapore Korea Cambodia Moro cco Swnegal Hongkong Spain Korea, North Malaysia Mozambique Slovenia Hungary St-Kitts and Nevis Latvia Marshall Islands Nami bia Solomon Islands India St.Vicent Macau Monaco Nepal Sri lanka United Arab Switzerland Palau Natherlands ntillwa New zealand Suriname Emirates Taiwan Peru icaragua Niger Swaziland United Kingdom Thailand Poland Niue Noi wuay Sweden Uruguay Turkey Portugal Romania Oman Tajikistan 12 United States Venezuela Papua New uinea Tanzamia Việc rửa tiền lan nhanh như vậy không phải là điều khó hiểu bởi có rất nhiều đối tượng có nhu cầu rửa tiền: buôn bán ma tuý, trốn lậu thuế, tội phạm có tổ chức, cướp ngân hàng, khủng bố... Hàng năm ước tính riêng tiền buôn bán ma tuý có tới 110 tỷ USD được rửa qua hệ thống ngân hàng Mỹ. Ngày nay, có rất nhiều kỹ thuật rửa tiền khác nhau. Sự lựa chọn kỹ thuật rửa tiền khác nhau tuỳ thuộc vào các tiêu thức: - Môi trường kinh doanh trực tiếp: về nguyên tắc, không có giới hạn cho những khuôn mẫu của việc rửa tiền, nhưng trên thực tế, những người rửa tiền cố gắng lựa chọn cách làm cho lợi nhuận của họ giống với lợi nhuận của việc kinh doanh thông thường và thuộc thẩm quyền quyết định của họ. - Mức độ nghiêm trọng: khối lượng tiền ít được rửa định kỳ sẽ đòi hỏi kỹ nghệ rửa tiền khác xa so với số tiền lớn. - Yêu cầu của luật pháp: những người rửa tiền sẽ cố gắng chuyển thu nhập bất hợp pháp đến rửa tiền tại những vùng không có quy định về chống rửa tiền. Trường đua ngựa là một ví dụ điển hình về công nghệ rửa tiền sơ khai. Những người rửa tiền dùng đồng tiền bất hợp pháp của mình để mua vé thắng cược, có thể đặt thêm tiền cho người thắng cuộc và sau đó trình vé lấy tiền. Những đồng tiền đó có thể coi là nguồn thu nhập bất hợp pháp từ đánh bạc. Công nghệ này được kéo dài trong lịch sử và đến nay vẫn sử dụng. Trong trò chơi xổ số có cả những nhóm người mua vé trúng thưởng và bán chúng cho những người có tiền phải rửa. Những Công ty hoạt động bất hợp pháp phải nhờ cậy đến công nghệ rửa tiền bất kỳ lúc nào. Bởi những đồng tiền "bẩn" sẽ mang lại cho họ nhiều 13 rủi ro. Nó có thể là một mắt xích liên kết đồng tiền đó với hoạt động tội phạm cơ sở. Nó càng có thể cung cấp một dấu hiệu, một bằng chứng của tội phạm hoặc có thể bị tịch thu. Vì vậy đối với tội phạm thì rửa tiền là một việc làm cần thiết để tách rời đồng tiền khỏi hoạt động phạm tội cơ sở hoặc tìm kiếm một giải thích hợp pháp về nó. Hoạt động tội phạm cơ sở thường là: buôn lậu, buôn ma tuý, buôn bán phụ nữ, tham nhũng.v.v... Rửa tiền bằng kỹ thuật hiện đại, tinh vi hơn có quan hệ mật thiết đến hoạt động tài chính ngân hàng. Ngân hàng và các tổ chức tài chính có thể vô tình trở thành người trung gian cho việc chuyển tiền hoặc gửi tiền thu được thu được từ các hoạt động phạm tội. Tội phạm và đồng bọn của chúng sử dụng hệ thống tài chính - ngân hàng để thực hiện việc thanh toán và chuyển tiền, vốn từ tài khoản này sang tài khoản khác, che dấu nguồn gốc và chủ sở hữu của đồng tiền. Đồng thời, các ngân hàng còn cung ứng cho chúng dịch vụ bảo quản tiền một cách thuận lợi và an toàn. Tất cả những hoạt động đó hầu hết đều liên quan đến việc rửa tiền. Như vậy, cho dù ở mức thô sơ hay tinh vi thì hoạt động rửa tiền đã lan rộng ra hầu hết các nước trên thế giới. Để nhận biết được một hoạt động nào đó - có là hoạt động rửa tiền hay không, chúng ta hãy xem xét tiến trình chuyển tiền từ đồng tiền bất hợp pháp sang đồng tiền hợp pháp diễn ra như thế nào. 2. Qui trình rửa tiền 2.1. Chu trình rửa tiền: Việc rửa tiền gồm 3 bước và đôi khi cũng chồng chéo nhau: sắp xếp, chia nhỏ và pha trộn. Trong khâu sắp xếp, số tiền phải được chuyển đổi để che dấu nguồn gốc bất hợp pháp. Ví dụ tiền buôn bán ma tuý bất hợp pháp hầu hết là các tờ 14 giấy bạc nhỏ và số lượng thậm chí còn... nặng nề và cồng kềnh hơn lượng ma tuý bán ra. Chuyển đổi những tờ giấy bạc này sang một đơn vị tiền tệ lớn hơn, séc, tiền mặt hoặc những cách thức thanh toán khác, thường là sự trao đổi tiền mặt (như nhà hàng, khách sạn, các công ty kinh doanh máy bán hàng tự động, sòng bạc và rửa xe). Trong khâu chia nhỏ, bọn rửa tiền thường cố gắng che dấu những đầu mối của số tiền qua các hoạt động tội phạm bằng cách chia nhỏ số tiền qua các vụ kiếm chác khổng lồ. Ví dụ, bọn tội phạm nếu muốn rửa số tiền lớn thì sẽ thành lập các công ty buôn bán ở những nước mà chúng biết rằng không có những quy định bảo mật ngân hàng tinh vi, khắt khe hoặc những quy định về chống rửa tiền lỏng lẻo. Số tiền "bẩn" này sau đó sẽ luân chuyển dưới những vỏ bọc này cho tới khi chúng hoàn toàn trở nên "sạch sẽ". Những vụ giao dịch như thế này thường được nguỵ trang và trà trộn với hàng tỉ tỷ đô la giao dịch hợp pháp mỗi ngày. Hình thức "đòi nợ" và "hoá đơn đúp" thường là những mánh khoé hay dùng. Trong hình thức "đòi nợ", bọn tội phạm thường gửi tiền ở nước ngoài để bí mật kiểm soát và sau đó ném tiền vào các công ty "đòi nợ" trở lại. Thủ tục này được sử dụng vì rất khó có thể xác định được coi thực sự quản lý tài sản ở một số nước. Trong hình thức "Hoá đơn đúp", việc chuyển tiền ra hoặc vào một nước - một ngân hàng nước ngoài thường quy ước giữ hai quyển sổ hoá đơn. Để chuyển số tiền "sạch" này sang Mỹ đánh phí rất cao đối với hàng hoá, dịch vụ. Để chuyển đi số tiền này (để tránh đánh thuế) các công ty Mỹ lại bị đánh phí. Các hình thức rửa tiền khác như mua các mặt hàng có giá trị lớn - chứng khoán, ô tô, máy bay, séc du lịch - thường được đăng kí dưới tên một người khác để tránh gây chú ý. Các sòng bạc cũng là nơi đôi khi được sử 15 dụng vì họ sẵn sàng lấy tiền mặt. Khi được chuyển tiền thành đồng séc, số tiền này sẽ thành tiền được bạc và có thể rút séc tại ngân hàng của sòng bạc. Khâu cuối cùng là đồng hoá số tiền, là kỳ thâu tiền của bọn tội phạm. ở khâu này, bọn tội phạm sẽ chuyển số tiền để đầu tư các hoạt động kinh tế lớn - thường là các hình thức đầu tư điển hình như bất động sản, mua bán các hàng hoá xa xỉ. Ngoài ra, người ta còn quan tâm việc rửa tiền dưới góc độ là các giao dịch nhằm che đậy nguồn tài sản chính để những tài sản này được sử dụng không cần phải thoả thuận với giới tội phạm - những kẻ đang cố gắng sử dụng chúng. Với quan điểm như vậy thì các giao dịch rửa tiền được chia làm 3 giai đoạn: Giai đoạn 1: Giai đoạn sắp đặt: quá trình sắp đặt các nguồn tiền bất hợp pháp vào các tổ chức tài chính thông qua việc đặt cọc, ký quỹ, chuyển tiền hoặc các phương tiện khác. Giai đoạn 2: Giai đoạn phân loại: Quá trình chia tách nguồn tiền bất hợp pháp khỏi nguồn gốc của nó bằng cách sử dụng một loạt các giao dịch tài chính để làm "trong sạch" đồng tiền một cách hợp pháp. Giai đoạn 3: Giai đoạn gộp lại: Tập trung thu hồi tiền về từ các tài khoản nhưng không làm cho các cấp chính quyền nghi ngờ hay chính là việc sử dụng các giao dịch có vẻ hợp pháp để che đậy nguồn tiền bất hợp pháp. Bằng những quá trình này, tội phạm chuyển nguồn tiền có được từ những hoạt động bất hợp pháp thành tiền với nguồn gốc có vẻ hợp pháp. Quan niệm này có vẻ chưa phản ảnh đầy đủ khái niệm "rửa tiền " bởi mới chỉ để cập chủ yếu tới "rửa tiền " liên quan tới hệ thống tài chính. Tuy nhên, cũng giống như quan niệm ban đầu, nó cũng phản ánh được bản chất 16 của "rửa tiền" là biến các nguồn tiền thu nhập bất hợp pháp thành nguồn thu có vẻ hợp pháp . Một mô hình khái quát về chu trình rửa tiền được mô tả tại trang sau. Hình 1: Mô tả khái quát chu trình rửa tiền thông thường 2.2. Các hình thức rửa tiền: Việc thực hiện các chu trình rửa tiền thường thông qua một số hình thức nhất định. ở đây xin đề cập một số hình thức rửa tiền mà các tổ chức phạm tội trên thế giới thường sử dụng. Đó là: 17 a. Cơ cấu lại: Đây là hình thức tẩy rửa tiền thông dụng nhất. Nó liên quan đến nhiều cá nhân, mỗi người giữ với một lượng tiền nhỏ hoặc mua hối phiếu ngân hàng dưới 10.000 USD. Phương pháp này thông dụng ở Mỹ và Canada. b. Đổi tiền: Đổi tiền cung cấp một dịch vụ cho phép các cá nhân mua ngoại tệ, và sau đó số ngoại tệ này được chuyển ra nước ngoài. Tiền cũng có thể được gửi qua đường điện tín - tới các ngân hàng nước ngoài ở mọi nơi trên thế giới. c. Mua tài sản: Bọn chuyên rửa tiền thường mua những đồ vật đắt tiền như ô tô, tàu thuyền, máy bay hoặc bất động sản. Trong nhiều trường hợp bọn tội phạm có thể sử dụng bất động sản trên, nhưng thường đăng ký bất động sản này dưới tên người khác. d. Qua người môi giới cổ phiếu: Là hình thức mà bọn rửa tiền thông qua người môi giới cổ phiếu dùng tiền mặt để mua một số lượng cổ phiếu lớn và sau đó chúng trở thành cổ đông của các công ty cổ phần - chủ sở hữu hợp pháp. e. Chuyển tiền bằng điện tín hoặc thư chuyển tiền: Phương thức này cho phép chuyển tiền từ nơi này sang nơi khác hoặc sang quốc gia khác mà không phải mang tiền đi. f. Rửa tiền trong các sòng bạc: Thông qua hình thức cá cược, đánh bạc, tiền thắng bạc có thể được coi như có nguồn gốc hợp pháp. g. Làm sạch (Refining): Thông qua các cá nhân để đổi đồng tiền mệnh giá như lấy tiền có mệnh giá lớn. Đây là một cách làm phổ thông, có thể đổi ở nhiều ngân hàng mà không gây sự nghi ngờ. h. Kinh doanh hợp pháp: Bọn tội phạm tiến hành kinh doanh hoặc đầu tư kinh doanh nhằm mục đích trộn lẫn số tiền thu được từ hoạt động phi pháp và hoạt động kinh doanh hợp pháp. Dưới hình thức này, bọn tội phạm mua 18 những nhà hàng, quán bar, hộp đêm, khách sạn, quầy thu đổi tiền, các hãng máy móc, điểm rửa xe... Ngoài ra bọn rửa tiền có thể thoả thuận với người bán tài sản ghi trên hoá đơn giá trị thấp hơn giá trị thực tế và hối lộ khoản chênh lệch cho người bán. Bằng cách này bọn tội phạm rửa tiền có thể mua một tài sản có giá trị lớn với giá thấp. Sau khi giữ tài sản trên một thời gian thì bọn rửa tiền bán ra với giá trị thực của tài sản đó hoặc cao hơn. Đặc biệt trong xu thế phát triển thị trường tài chính mới (các công cụ phát sinh) được củng cố và nâng cao thì các hình thức rửa tiền mới sẽ phát sinh và ngày càng khó nhận diện. Điều này xảy ra là vì: - Một khối lượng lớn "tiền bẩn" được dấu kín nguồn gốc ; - Chứng khoán tính lỏng cao có thể mua bán nhanh trong một thời gian ngắn (có thể một vài lần trong một ngày làm việc); - Mục đích của việc chuyển tiền khó đánh giá; - Rất ít và không có thời gian để điều tra sự nghi ngờ. Theo số liệu của Ngân hàng thanh toán quốc tế thì khối lượng giao dịch cuối năm 1999 của các công cụ tài chính được giao dịch trên thị trường OTC (over –the- counter market) là 88,201 tỷ USD (các số liệu cụ thể trình bày trong biểu đồ 1 dưới đây). Biểu 1: Số liệu về lượng tiền “bẩn” được rửa qua thị trường OTC tromg năm 1999 19 43.936 9.38 2.444 2.3 30.134 0 5 10 15 20 25 30 35 40 45 50 Ho¸n ®æi l∙i suÊt Lùa chän l∙i suÊt Ho¸n ®æi tiÒn tÖ Lùa chän tiÒn tÖ Kh¸c Tû USD Nghiệp vụ hoán đổi tiền tệ được sử dụng lần đầu tiên trên vào năm 1976, nghiệp vụ hoán đổi lãi suất được sử dụng lần đầu tiên vào năm 1981. Tuy nhiên, cho đến nay, nghiệp vụ hoán đổi lãi suất đã chiếm một tỷ trọng lớn trong các giao dịch công cụ tài chính mới. Tóm lại, cho dù hình thức rửa tiền có tinh vi đến đâu cũng có kẽ hở. Vấn đề là các quốc gia phải tận dụng được những kẽ hở này để nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh "chống rửa tiền". II. Hậu quả nạn rửa tiền Nếu nạn "rửa tiền " không được phát hiện và ngăn chặn sẽ dẫn đến những hậu quả gì? Qua nghiên cứu và đánh giá cho thấy: Nạn rửa tiền có thể phá huỷ nền kinh tế, an ninh và gây những hậu quả xấu cho xã hội. Nó khuyến khích, mua bán ma tuý, khủng bố, buôn bán vũ khí trái phép, quan chức Nhà nước tham nhũng và những hoạt động tội phạm khác. Tội phạm ngày càng tăng ở phạm vi quốc tế và những khía cạnh tài chính của tội phạm đã trở nên ngày càng phức tạp do sự tiến bộ nhanh chóng của toàn cầu hoá và công nghệ của ngành dịch vụ tài chính. 20 Cùng với việc tạo điều kiện tài liệu cho thương mại hợp pháp, những hệ thống tài chính hiện đại cũng cho phép tội phạm luân chuyển hàng triệu USD bằng cách sử dụng những máy tính cá nhân và những đĩa vệ tinh. Bởi vì nạn rửa tiền đã có cơ sở là qui mô của hệ thống và hoạt động tài chính hiện có, việc lựa chọn các phương tiện rửa tiền của bọn tội phạm chỉ còn phụ thuộc vào khả năng sáng tạo của chúng. Tiền được chuyển qua các điểm đổi tiền, các Trung tâm môi giới chứng khoán, những kẻ buôn bán vàng, các sòng bạc, những kẻ buôn bán ô tô, các công ty bảo hiểm và các công ty thương mại. Sự dễ dãi của hệ thống ngân hàng tư nhân; ngân hàng hải ngoại, các công ty bảo bọc; những khu vực mậu dịch tự do, hệ thống hữu tuyến và tài chính thương mại, tất cả đều có thể che đậy những hoạt động bất hợp pháp. Bằng những cách đó, tội phạm rửa tiền thao túng tài chính của các nước trên thế giới. Nếu không kiểm soát được, nạn rửa tiền có thể ăn mòn toàn bộ tổ chức tài chính của một nước. Do sự liên kết của thị trường tư bản, nạn rửa tiền gây ra những ảnh hưởng bất lợi tới tỷ giá của đồng tiền và tỷ lệ lãi suất. Và cuối cùng, những khoản tiền được rửa thâm nhập vào hệ thống tài chính toàn cầu, nơi chúng có thể làm suy yếu nền kinh tế và đồng tiền của một quốc gia. Như vậy, nạn rửa tiền không phải chỉ là vấn đề của các cơ quan thực thi pháp luật mà còn đe doạ nghiêm trọng nền an ninh quốc gia và quốc tế. Những hậu quả của nạn "rửa tiền" phải kể đến là: 1. Những thị trường mới nổi dễ bị tổn thương Nạn "rửa tiền" không chỉ là một vấn đề của các thị trường tài chính lớn và Trung tâm tài chính của thế giới mà còn là một vấn đề đối với những thị trường mới nổi. Quả vậy, bất kỳ quốc gia nào trong hệ thống tài chính quốc tế đều bị nguy hiểm. Vì các thị trường mới nổi của các khu vực tài chính và kinh tế, nên chúng ngày càng trở thành cái đích để ngắm đối với các hoạt động rửa tiền. 21 Những nỗ lực ngày càng tăng của các Chính phủ ở những thị trường tài chính lớn và những Trung tâm tài chính quốc tế nhằm chống lại hoạt động rửa tiền lại khuyến khích những kẻ rửa tiền chuyển các hoạt động của chúng sang những thị trường mới nổi. Như bằng chứng cho điều này là sự luân chuyển tiền mặt ngày càng tăng qua biên giới để tới những thị trường quản lý lỏng lẻo trong việc phát hiện việc rửa tiền vào hệ thống tài chính và sự đầu tư đang gia tăng của những nhóm tội phạm có tổ chức vào bất động sản và kinh doanh trong những thị trường đang nổi. Việc xem xét kỹ một số ảnh hưởng tiêu cực này trong cả nền kinh tế vi mô và vĩ mô lý giải tại sao nạn rửa tiền lại là một mối đe doạ nghiêm trọng, đặc biệt là ở những thị trường đang nổi. 2. Làm suy yếu khu vực kinh tế tư nhân Một trong những tác động kinh tế vi mô nghiêm trọng nhất của nạn rửa tiền là ở khu vực tư nhân. Những kẻ rửa tiền dùng những công ty nguỵ trang để trộn lẫn khoản tiền từ những hoạt động bất chính với những khoản tiền hợp pháp để che dấu khoản tiền bất hợp pháp. Ví dụ như ở Hoa Kỳ, tội phạm có tổ chức đã dùng những cửa hàng bán pizza để che đậy những khoản tiền bất chính từ buôn bán heroin. Những công ty ngụy trang này có thể tiếp cận với những nguồn tiền bất chính và những nguồn tiền này bao cấp toàn bộ sản phẩm và dịch vụ của công ty ở mức độ thấp hơn tỷ giá thị trường. Trong một số trường hợp các công ty ngụy trang này có thể đưa ra những sản phẩm với giá thấp hơn giá thành sản phẩm. Do vậy, những công ty ngụy trang có lợi thế cạnh tranh hơn so với những công ty hợp pháp trong thu hút vốn từ các thị trường tài chính. Điều này làm cho các doanh nghiệp hợp pháp rất khó khăn nếu không muốn nói là không thể cạnh tranh lại được với những công ty ngụy trang với nguồn vốn được bao cấp, một tình huống mà các tổ chức tội phạm có thể gây hại cho đa số các doanh nghiệp tư nhân. 22 Rõ ràng là sự quản lý của các công ty tội phạm này không phù hợp với những nguyên tắc của các doanh nghiệp trong thị trường tự do truyền thống, điều này sẽ có ảnh hưởng tiêu cực tới kinh tế vĩ mô. 3. Làm suy yếu toàn bộ thị trường tài chính Tổ chức tài chính dựa vào các nguồn tiền bất chính gặp nhiều thử thách trong việc quản lý một cách thích đáng tài sản, tiền nợ và sự hoạt động của nó. Ví dụ như một số lượng tiền lớn được rửa có thể được chuyển đến một tổ chức tài chính nhưng sau đó lại biến mất một cách đột ngột, không thông báo qua sự chuyển giao hữu tuyến để đối phó với những nhân tố phi thị trường như những hoạt động nhằm thực thi luật pháp. Điều này có thể gây ra những vấn đề cho khả năng thanh toán tiền mặt và hoạt động của các ngân hàng. Thực tế, các hoạt động phạm tội đã liên kết với một số ngân hàng thua lỗ trên toàn cầu, bao gồm cả ngân hàng Internet đầu tiên- Ngân hàng của khối cộng đồng chung châu Âu. Hơn nữa, một số cuộc khủng hoảng tài chính trong những năm 90 như sự lừa đảo, nạn rửa tiền, những vụ ăn trộm ở BCCI và sự sụp đổ năm 1995 của Ngân hàng Barings như là một kế hoạch bắt nguồn từ sự liều lĩnh do những nhà kinh doanh ở các công ty được bao cấp thực hiện- Có những yếu tố lừa đảo hoặc tội phạm nghiêm trọng. 4. Làm mất sự kiểm soát chính sách kinh tế Micheal Camdesus, cựu giám đốc điều hành Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) đã dự tính rằng qui mô to lớn của nạn rửa tiền đã chiếm từ 2 đến 5% tổng sản lượng quốc nội của thế giới, hay ít nhất 600.000 triệu đô la. Tại một số nước có những thị trường mới nổi, những khoản tiền bất hợp pháp này làm cho ngân khố của Chính phủ nhỏ lại, kết quả là Chính phủ mất quyền kiểm soát chính sách kinh tế. Thực vậy, trong một số trường hợp, số lượng khổng lồ của những tài sản có được do rửa tiền có thể được sử dụng làm lũng đoạn thị trường trong khu vực và thậm chí cả những nền kinh tế nhỏ. 23 Nạn rửa tiền có thể tác động bất lợi đến đồng tiền và tỷ lệ lãi suất vì những kẻ rửa tiền tái đầu tư vào những tổ chức mà âm mưu của chúng ít có khả năng bị phát hiện hơn là đầu tư vào những nơi mà tỷ lệ lợi nhuận cao. Chính điều này làm cho chúng ta không xác định được những thay đổi về nhu cầu tiền tệ và sự biến đổi gia tăng của các nguồn vốn ... dẫn tới mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia không được thực hiện. Nạn rửa tiền có thể làm tăng mối đe doạ về sự bất ổn của đồng tiền do không xác định được nguồn gốc của những sai lệch trong giá cả tài sản và hàng hoá. Tóm lại, nạn rửa tiền và tội phạm tài chính có thể gây ra những thay đổi khôn lường trong nhu cầu về tiền tệ và sự biến đổi gia tăng của luồng vốn quốc tế, tỷ lệ lãi suất và tỷ giá hối đoái. Bản chất không lường trước được của nạn rửa tiền, cùng với sự mất quyền kiểm soát chính sách kinh tế, đi kèm theo nó khó có thể có được một chính sách kinh tế lành mạnh. 5. Sự sai lệch và mất ổn định về kinh tế Những kẻ rửa tiền không quan tâm đến việc tạo ra lợi nhuận từ những khoản đầu tư bằng việc bảo vệ những khoản tiền của chúng. Vì thế, chúng "đầu tư " vốn vào các hoạt động không cần thiết phải mang lại lợi ích về kinh tế ở những nước lưu giữ các khoản tiền của chúng. Hơn thế, sự tăng trưởng kinh tế phải bị tổn hại, vì tội phạm rửa tiền và tài chính chuyển vốn từ những dự án đầu tư lành mạnh sang những dự án đầu tư chất lượng thấp miễn sao chúng che dấu được các khoản tiền bất chính. Ví dụ: như tại một số nước, các ngành công nghiệp như xây dựng và khách sạn được cung cấp tài chính không phải do những đòi hỏi thực tế mà do những lợi ích trước mắt của những kẻ rửa tiền. Khi những ngành này không còn phù hợp với những kẻ rửa tiền thì chúng bị loại bỏ, gây ra những sụp đổ và những thiệt hại khổng lồ cho những nền kinh tế không thể chịu được những tổn thất như vậy. 24 6. Gây tổn hại Ngân khố quốc gia Nạn rửa tiền làm giảm nguồn thu từ thuế của Chính phủ, bởi vậy nó trực tiếp làm phương hại đến những người đóng thuế chân chính. Nó cũng làm cho việc thu thuế của Chính phủ trở nên khó khăn hơn. Nhìn chung, việc tổn hại đến ngân khố quốc gia có nghĩa là tỷ lệ thuế cao hơn so với thông thường nếu những khoản tiền phạm tội không phải nộp thuế là hợp pháp. 7. Gây nên rủi ro cho những nỗ lực tư nhân hoá: Hoạt động "rửa tiền” sẽ đe doạ đối với các quốc gia muốn thực hiện cải cách nền kinh tế của mình bằng việc thực hiện tư nhân hoá nền kinh tế. Thông qua "rửa tiền”, các tổ chức tội phạm có nhiều tiền để trả quá cao hơn những người mua bằng tiền hợp pháp để mua lại Doanh nghiệp Nhà nước. Kết quả là trong việc khởi đầu của tư nhân hoá cùng với việc mang lại những lợi ích kinh tế thì chính nó là phương tiện "rửa tiền” của bọn tội phạm. Trước đây, những kẻ rửa tiền thường mua những bến cảng, du thuyền, khách sạn, sòng bài và ngân hàng để che đậy những khoản tiền bất chính và để đẩy mạnh những hoạt động tội phạm của chúng. 8. Nguy cơ tổn hại danh tiếng Các quốc gia không thể chấp nhận được việc tiếng tăm và những công ty tài chính của họ bị một tổ chức rửa tiền làm ô uế, đặc biệt là trong nền kinh tế toàn cầu ngày nay. Niềm tin vào thị trường và vào vai trò của lợi nhuận bị xói mòn do nạn rửa tiền và những tội phạm tài chính như rửa những khoản tiền bất hợp pháp, gian lận tài chính lan rộng, buôn bán những thông tin mật là tham ô. Tiếng xấu từ những hoạt động như vậy đã làm giảm những cơ hội hợp pháp và sự tăng trưởng bền vững, trong khi đó lại thu hút những tổ chức tội phạm quốc tế với tiếng xấu và những mục tiêu ngắn hạn. Điều này có thể làm suy yếu sự phát triển và tăng trưởng về kinh tế. Hơn thế nữa, một khi đất 25 nước đã bị tiếng xấu về tài chính, thì việc gây dựng lại tiếng tăm là rất khó khăn và cần nguồn lực đáng kể của Chính phủ để giải quyết vấn đề mà lẽ ra đã có thể ngăn ngừa với sự kiểm soát chống lại nạn rửa tiền. 9. Những cái giá phải trả về mặt xã hội Có những nguy cơ và cái giá rất đắt phải trả về mặt xã hội có liên quan đến nạn rửa tiền. Nạn rửa tiền là một quá trình quan trọng đối với những kẻ phạm tội. Nó cho phép những kẻ buôn bán ma tuý, những tên buôn lậu và những kẻ phạm tội khác mở rộng hoạt động của mình. Nó làm cho chi phí của Chính phủ tăng lên để chống lại những hậu quả nghiêm trọng do việc rửa tiền gây ra, đó là các yêu cầu về việc thực thi pháp luật gia tăng và những chi phí cho việc chăm sóc sức khoẻ (ví dụ như điều trị những người nghiện ma tuý...). Trong số những tác động tiêu cực khác đến nền kinh tế xã hội, việc rửa tiền còn chuyển quyền lực kinh tế từ thị trường, Chính phủ và từ mọi người dân sang những tên tội phạm. Tóm lại, chúng quay lại câu ngạn ngữ cổ rằng tội ác không trả giá cho những gì chúng gây ra. Hơn nữa, toàn bộ quyền lực đổ dồn vào những tên tội phạm, bằng việc rửa tiền lại gây ra nạn tham nhũng của mọi bộ phận xã hội. Trong trường hợp nghiêm trọng thì nó có thể dẫn đến việc nắm giữ Chính phủ hợp pháp. Nhìn chung nạn rửa tiền đặt ra cho cộng đồng chung thế giới những thử thách khó khăn và phức tạp. Thật vậy, tính chất toàn cầu của nạn rửa tiền đòi hỏi phải có sự hợp tác và những chuẩn mực quốc tế nếu chúng ta muốn giảm khả năng "rửa tiền” của những tên tội phạm và việc thực hiện những hành vi tội phạm của chúng. III. thực trạng hoạt động rửa tiền qua hệ thống Ngân hàng Trong các cách thức mà tội phạm tài chính sử dụng để rửa tiền thì rửa tiền qua hệ thống ngân hàng chiếm tỷ trọng lớn. Đặc biệt trong điều kiện hiện 26 nay- khi mà các ứng dụng khoa học – kỹ thuật tiên tiến được áp dụng rộng rãi trong các giao dịch ngân hàng, cộng với những món lời khổng lồ thu được sau khi rửa tiền qua ngân hàng, thì ngân hàng được xem như một “cỗ máy rửa tiền” (money-laundering machine) thuận lợi nhất. Vì thế, ngành Ngân hàng cần và luôn phải ý thức đầy đủ về vai trò của mình trong việc chống nạn "rửa tiền”. Các ngân hàng cũng cần thấy rằng, các hoạt động mà họ tiến hành nhằm ngăn chặn việc rửa tiền không chỉ là những nguyên tắc có tính chất bắt buộc mà còn là lợi ích thiết thân. Tất cả các tổ chức tài chính, các ngân hàng và phi ngân hàng đều dễ bị dính líu đến những hoạt động rửa tiền. Ngân hàng cần luôn đi đầu trong việc phát triển các chương trình nhằm phát hiện và ngăn chặn việc rửa tiền, điều tra các cơ quan phi ngân hàng tương ứng với họ thực hiện rất tốt để cạnh tranh. Rửa tiền cũng như các hoạt động phạm tội ngầm khác - lừa đảo, in tiền giả, buôn lậu ma tuý và hối hộ - làm suy yếu thanh danh và vị thế của một số tổ chức tài chính, trong đó có ngân hàng. Một ngân hàng có vết nhơ do việc rửa tiền sẽ bị các cơ quan ban hành văn bản quy định buộc tội, bị các cơ quan chấp hành pháp luật trừng trị hay bị giới báo chí lên án mạnh mẽ vì những tai tiếng đó. Để thực hiện một cách hiệu quả chương trình chống rửa tiền, các ngân hàng tiến hành tìm hiểu và phân chia qui trình rửa tiền gồm ba giai đoạn, mỗi giai đoạn đều có mối liên hệ với một đơn vị tài chính.  Đổi chỗ: Giai đoạn trực tiếp phân bổ lượng tiền mặt thu được từ những hoạt động phi pháp.  Tạo vỏ bọc: Giai đoạn tách những khoản tiền bất hợp pháp khỏi nguồn của chúng bằng cách tạo nên một loạt những vỏ bọc phức tạp dưới hình thức các giao dịch tài chính để cản trở việc kiểm 27 toán dấu vết, che đậy nguồn gốc của những khoản tiền đó và làm mai danh ẩn tích chủ thực sự của nó.  Hợp thức hoá: Giai đoạn đưa các khoản tiền đã được rửa trở lại hệ thống lưu thông trong nền kinh tế theo cách thức giống như các khoản tiền này là kết quả của các hoạt động kinh tế hợp pháp. Mặc dù các giai đoạn trong quy trình rửa tiền có khác đôi chút so với cách nhìn nhận ở phần trước nhưng vẫn phản ánh được bản chất nạn "rửa tiền”. Tuỳ từng giai đoạn, các ngân hàng cần có các biện pháp thích hợp để phát hiện để ngăn chặn hoạt động rửa tiền, tránh những hậu quả đáng tiếc có thể xảy ra. Trong các ngân hàng thì hệ thống ngân hàng vãng lai - được coi là một kênh lớn nhất, phổ biến nhất để bọn tội phạm rửa tiền. Hoạt động Ngân hàng vãng lai bao hàm một ngân hàng cung cấp các dịch vụ cho ngân hàng khác nhằm luân chuyển tiền tệ, chuyển đổi ngoại tệ hoặc tiến hành những giao dịch tài chính khác. Một khi hoạt động ngân hàng vãng lai không được kiểm soát chặt chẽ thì chắc chắn sẽ bị bọn tội phạm lợi dụng để tiến hành rửa tiền. Bọn tội phạm lợi dụng hệ thống ngân hàng vãng lai như thế nào? Trước hết chúng sử dụng các ngân hàng nước ngoài có độ rủi ro cao để tiến hành mở tài khoản vãng lai tại các ngân hàng mà chúng định dùng để rửa tiền. Những ngân hàng nước ngoài này có thể là: (1) Ngân hàng vỏ bọc (shellbank) không hề hiện diện trực tiếp ở nước khác để giao dịch làm ăn với khách hàng của họ; (2) Ngân hàng hải ngoại (offshore bank) được phéo giao dịch làm ăn với những người nước ngoài bằng ngoại tệ; hoặc (3) những ngân hàng ở những nước được điều tiết bởi những luật lệ kiểm soát lỏng lẻo hoặc thiếu sự kiểm soát chống rửa tiền đã tạo điều kiện cho việc lợi dụng ngân hàng và những hành vi phạm pháp. 28 Những ngân hàng có độ rủi ro cao này thường chỉ có nguồn vốn và nhân lực hạn hẹp, họ sử dụng các tài khoản ngân hàng vãng lai của họ để giao dịch, cung cấp dịch vụ cho khách hàng, luân chuyển tiền tệ. Sự thẩm tra của các tổ chức có thẩm quyền cho thấy nhiều ngân hàng đã kí thác toàn bộ quỹ của họ và tiến hành mọi giao dịch tài khoản vãng lai, nhập hoạt động vãng lai vào những hoạt động khác của họ. Sau khi đã thành công trong việc nấp bóng các ngân hàng nước ngoài có độ rủi ro cao nói trên, bọn tội phạm sẽ tiến hành hàng loạt các giao dịch trên tài khoản vãng lai để rửa tiền. Một số ví dụ về các giao dịch rửa tiền thông qua tài khoản vãng lai: * Hợp thức hoá các khoản thu nhập bất chính thông qua ký quỹ hoặc tiến hành chuyển những khoản tiền mà ngân hàng có độ rủi ro cao biết hoặc phải biết là có dính líu dến buôn bán ma tuý, gian lận tài chính hoặc hoạt động bất chính khác. * Đầu tư lợi nhuận cao bằng cách ve vãn các nhà đầu tư chuyển tiền vào các tài khoản vãng lai nhằm nhận lãi suất cao, nhưng sau đó chối bỏ không trả lại tiền cho các nhà đầu tư bị lừa dối. * Âm mưu chiếm đoạt tiền ký nợ trả trước bằng cách đòi khách hàng phải nộp một khoản tiền trả trước cho một khoản phí lớn để chuyển tiền vào tài khoản vãng lai, thu phí xong nhưng không trả lại khoản tiền ứng trước. * Tạo thuận lợi cho việc trốn thuế thông qua việc nhập các khoản ký quỹ của khách hàng với những khoản tiền khác trong tài khoản vãng lai, khuyến khích khách hàng dựa vào các luật lệ về bí mật ngân hàng và bí mật công ty của nước sở tại của ngân hàng nước ngoài để trốn tránh các nhà chức trách thuế. * Tạo thuận lợi cho hoạt động cá cược qua Internet qua việc sử dụng tài khoản vãng lai để nhận và luân chuyển các khoản thu nhập cá cược. 29 Những ngân hàng nước ngoài có độ rủi ro cao nói trên và khách hàng liên quan đến tội phạm của họ thâm nhập vào các tài khoản vãng lai, tạo thuận lợi cho tội phạm phát triển, làm suy yếu hệ thống tài chính của một quốc gia, là một gánh nặng cho người dân đóng thuế và người tiêu dùng, lấp đầy các hồ sơ toà án với những vụ truy tố hình sự hoặc tranh chấp dân sự. Những khoảng trống trong các giao dịch vãng lai: - Nhiều ngân hàng khi cho phép các ngân hàng đối tác nước ngoài mở tài khoản vãng lai tại ngân hàng mình đã không có sự thẩm tra đầy đủ và xác đáng về sự quản lý của ngân hàng, các nguồn tài chính, danh tiếng, môi trường điều tiết và biện pháp chống rửa tiền. Một nguyên tắc khá phổ biến đối với nhiều ngân hàng là: bất kỳ ngân hàng nào có giấy phép đang hiệu lực do cơ quan nước ngoài có thẩm quyền cấp đều có đủ điều kiện để mở tài khoản vãng lai, bởi lẽ các ngân hàng tin tưởng vào giấy phép đó như chứng cứ về danh tiếng tốt đẹp của ngân hàng đối tác nước ngoài. - Nhiều ngân hàng chỉ dựa vào sự kiểm tra qua sổ sách hoạt động mở tài khoản và giám sát một cách có hạn sự chuyển tiền, mặc dù phần lớn các giao dịch vãng lai bao gồm cả tiền đến lẫn tiền đi. Những bất cập này biến hệ thống ngân hàng vãng lai thành kênh rửa tiền bẩn đang ồ ạt chảy vào hệ thống tài chính của nhiều quốc gia. Nếu các ngân hàng vãng lai chịu đóng cửa đối với các ngân hàng nước ngoài đáng ngờ và kiểm tra chặt chẽ các ngân hàng nước ngoài có độ rủi ro cao, chắc chắn sẽ triệt tiêu được bộ máy rửa tiền khổng lồ, vô hiệu hoá hoạt động bất hợp pháp, hạn chế hoạt động ngân hàng hải ngoại bất chính và trói tay các phần tử tội phạm trong việc gửi tiền bất chính vào các ngân hàng trong nước. 30 Tóm lại, qua thực trạng rửa tiền qua hệ thống ngân hàng vãng lai, chúng ta thấy ngành ngân hàng là một trong những cơ quan có vai trò đặc biệt "quan trọng", là kênh chủ yếu để bọn tội phạm tài chính thực hiện "rửa tiền”. Vì thế, làm lành mạnh hệ thống ngân hàng và làm trong sạch các giao dịch tài chính là một trong những biện pháp quan trọng để chống rửa tiền. IV. Các văn bản pháp lý sử dụng trong chống "rửa tiền” "Rửa tiền” không còn là hiện tượng xảy ra trong phạm vi một quốc gia mà là hiện tượng ngày càng mang tính chất quốc tế. Vì thế, để "rửa tiền” phải có sự phối hợp không phải chỉ có các tổ chức trong nước mà cần phải có sự hợp tác quốc tế. Điều này thể hiện trước hết ở các văn bản pháp quy chống "rửa tiền”. Đứng trên phương diện quốc gia , mỗi quốc gia cần có văn bản pháp quy chuyên về lĩnh vực chống rửa tiền như các Nghị định về chống "rửa tiền”, các đạo luật, bộ luật về chống "rửa tiền”. Do thu nhập của bọn tội phạm "làm sạch" là các thu nhập từ các hoạt động bất chính: cá cược, buôn bán ma tuý, tham nhũng... Những hoạt động tội phạm nên các văn bản pháp quy về chống rửa tiền cần có sự thống nhất với các văn bản đã có về chống các loại hình tội phạm như bộ luật hình sự, luật dân sự. Đứng trên phương diện quốc tế, văn bản pháp quy mang tính chất phổ biến được nhiều quốc gia biết đến là Khuyến nghị về chống “rửa tiền” của FATF - tổ chức hay lực lượng đặc nhiệm tài chính chống rửa tiền và tội phạm tài chính. Những khuyến nghị này được xem là các phương pháp cơ bản cho việc thiết lập các khuôn khổ pháp lý chống lại việc rửa tiền với các nội dung cơ bản sau: 31 * Từ khuyến nghị 1 đến khuyến nghị 3 là các quy định chung, khuyến nghị các quốc gia nên từng bước và tiến tới thực hiện đầy đủ 40 khuyến nghị này. Yêu cầu đặt ra là: các quy định trong luật bảo vệ khách hàng của các tổ chức tài chính tín dụng không cản trở việc thực hiện các quy định về phòng, chống rửa tiền. Để chương trình phòng chống rửa tiền đạt kết quả cao cần có sự nỗ lực hợp tác quốc tế trong lĩnh vực phòng chống xét xử, dẫn độ tội phạm nói chung. * Từ khuyến nghị 4 đến khuyến nghị 6 là các quy định nêu lên phạm vi hoạt động phạm tội rửa tiền, khuyến nghị các quốc gia tạo lập các cơ sở pháp lý cho việc chống rửa tiền và bổ sung hoàn thiện các cơ sở pháp luật này nhằm đảm bảo các quy định luôn phù hợp với tình hình thực tiễn và sự phát triển của xã hội. Danh mục các loại tội phạm dẫn đến hành vi rửa tiền cần được xác định và bổ sung theo mức độ hành vi phức tạp của hoạt động phạm tội của từng thời kỳ. * Khuyến nghị 7 nêu lên chính sách pháp lý cho việc xử lý, tước đoạt xung công các tài sản và thu nhập bất hợp pháp trong các vụ rửa tiền và các văn bản hợp tác quốc tế. Mặt khác, khuyến nghị cũng nêu lên việc thực hiện tốt các văn bản pháp quy quy định về việc thực hiện các hợp đồng kinh tế. Việc áp dụng tốt các chế tài áp dụng đối với các vi phạm hợp đồng kinh tế có tác dụng tích cực , thúc đẩy việc thực hiện các quy định về chống rửa tiền. * Khuyến nghị 8 và khuyến nghị 9 là quy định về các đối tượng phải thực hiện các quy chế giám sát tài chính và thực hiện nhận dạng khách hàng, lưu giữ hồ sơ về các giao dịch đáng ngờ. Theo khuyến nghị, việc thực hiện cơ chế giám sát tài chính nên được áp dụng đối với tất cả các ngân hàng và các tổ chức tài chính phi ngân hàng. Việc thực hiện cơ chế giám sát tài chính, phát hiện và tố giác các khách hàng và các giao dịch đáng ngờ không có tính chất bắt buộc nhưng được khuyến khích thực hiện ở các doanh nghiệp và ở các tổ chức tài chính chuyên ngành khác. Danh mục các hoạt động tài chính bắt 32 buộc phải thực hiện nhận dạng khách hàng gửi báo cáo đến các nhà chức trách chống rửa tiền và lưu giữ hồ sơ, các giao dịch đáng ngờ được Chính phủ các nước xác định và bổ sung phù hợp với bối cảnh cụ thể. * Từ khuyến nghị 10 đến khuyến nghị 13 nêu lên cách thu thập thông tin nhận dạng khách hàng (có thể là tổ chức hoặc cá nhân) và quy định thời hạn lưu giữ hồ sơ, thông tin về khách hàng và các lần giao dịch (ít nhất là 5 năm) mà các tổ chức hoạt động tài chính phải thực hiện. Nguyên tắc chung là không cho mở tài khoản thực hiện uỷ thác và cho thuê két sắt an toàn dưới các tên giả hoặc khuyết danh, các thông tin cơ bản của khách hàng bao gồm: tên địa chỉ.v.v..., căn cứ vào các giấy tờ tài liệu chính thức như: đối với cá nhân có thể là giấy chứng minh thư, hộ chiếu, giấy phép lái xe; đối với các tổ chức có thể là các giấy phép thành lập công ty, ngành nghề kinh doanh, nơi đóng trụ sở chính... Đối với những khách hàng có những thông tin chưa rõ ràng, tổ chức tài chính cần tiến hành thẩm tra nhằm có được những thông tin trung thực nhất về khách hàng, việc lưu giữ thông tin phải đáp ứng được việc tái hiện lại từng phần giao dịch (thời gian, số lượng và tiền tệ trong các lần giao dịch đó) của khách hàng phục vụ tốt nhất cho việc điều tra khi có yêu cầu của nhà chức trách. * Từ khuyến nghị 14 đến khuyến nghị 19 nêu lên các hình thức động viên, khen thưởng các tổ chức - tài chính thực hiện tốt các quy định chống rửa tiền và các quy định pháp lý bảo vệ các tổ chức và cá nhân thực hiện các quy định chống rửa tiền. Các quy định về kiểm soát nội bộ để tăng cường hiệu quả hoạt động của hệ thống, quy định cấm tổ chức và cá nhân cảnh báo với khách hàng về các thông tin đáng ngờ đã báo cáo. * Từ khuyến nghị 20 đến khuyến nghị 21 nêu lên việc thực hiện các quy định chống rửa tiền đối với các tổ chức có Chi nhánh hoạt động tại các nước không có hoặc chưa có đủ các quy định về chống rửa tiền. 33 * Từ khuyến nghị 22 đến khuyến nghị 25 nêu một số biện pháp phòng ngừa khác. * Từ khuyến nghị 26 đến khuyến nghị 29 nêu mối quan hệ qua lại giữa việc thực hiện các quy định chống rửa tiền với các quy định khác về xử phạt hành chính hoặc xử lý các tranh chấp trong việc thực hiện hợp đồng kinh tế... * Từ khuyến nghị 30 đến khuyến nghị 40 nêu lên các quy định về tăng cường hợp tác quốc tế, như các quy định về trao đổi thông tin, quy định về điều tra, định giá, thu hồi tài sản và thu nhập bất chính hợp pháp tham gia vào các vụ rửa tiền, các quy định về nguyên tắc xét xử, địa điểm xét xử và tỷ lệ phân chia tài sản tịch thu khi có các vụ phạm tội xuyên quốc gia và các quy định về dẫn độ tội phạm. Các khuyến nghị này được coi như là cẩm nang cho các quốc gia trong việc chống nạn "rửa tiền”. Kết luận chương I: Qua chương này chúng ta đã phần nào hình dung được thế nào là rửa tiền, nó được thực hiện như thế nào và hậu quả to lớn do nạn rửa tiền gây ra. Bên cạnh đó, chương cũng khái quát vè cái nhìn của ngành ngân hàng về rửa tiền và các văn bản pháp quy cần có và hiện có liên quan tới "rửa tiền” và chống rửa tiền. Để đưa ra được những giải pháp cụ thể nhằm phòng chống nạn rửa tiền, trước hết chúng ta hãy xem xét hiện tượng rửa tiền ở một số quốc gia trên thế giới và Việt Nam. 34 Chương II Thực trạng hoạt động rửa tiền - chống rửa tiền ở một số nước trên thế giới và Việt Nam I. Thực trạng hoạt động rửa tiền và chống "rửa tiền” trên thế giới Cho tới thời điểm hiện nay, hoạt động rửa tiền đã diễn ra ở khá nhiều nước trên thế giới. Lượng tiền rửa chiếm một tỷ trọng lớn trong khối lượng tiền lưu chuyển trên toàn cầu. Theo ước tính của FATF - lực lượng đặc nhiệm hành động tài chính, tiền "bẩn" đã được rửa có thể lên tới 1500 tỷ USD mỗi năm. Năm 2001, thế giới có khoảng 70 "thiên đường trốn thuế", cũng thường được gọi là Trung tâm tiền tệ hải ngoại, tụ tập khoảng 40.000 ngân hàng, 44% tập trung ở vùng Caribean và Mỹ La tinh, 28% ở châu Âu, 18% ở châu á, 10% ở Châu Phi - Trung Đông, kiểm soát khoảng 5000 tỷ USD. Phần lớn các Trung tâm này đóng vai trò "Trung tâm đặt hàng" chủ yếu phục vụ các Trung tâm tiền tệ lớn hơn như New York, London, Tokyo. Hàng năm lượng tiền nằm lại hoặc chuyển qua các "thiên đường trốn thuế" này, ước tính bằng một nửa tổng số tiền trên toàn thế giới, biến các Trung tâm này cũng trở thành những Trung tâm rửa tiền quốc tế quan trọng. Một cái nhìn sơ lược như vậy đã cho chúng ta thấy "rửa tiền” ngày càng trở thành vấn đề mang tính chất toàn cầu và hiệu quả của nó đối với nền kinh tế xã hội là vô cùng nghiêm trọng. Tiến hành chống nạn rửa tiền là một yêu cầu hết sức bức thiết. Vậy cụ thể tình trạng rửa tiền và chống rửa tiền ở các quốc gia ở mức độ nào và nguy cơ "tiềm ẩn" là gì, chúng ta hãy cùng xem xét. 35 1. Rửa tiền - chống rửa tiền tại Hoa Kỳ 1.1. Khái quát chung: Hoa Kỳ là quốc gia đầu tiên xuất hiện nạn rửa tiền vào năm 1920. Nhiều vụ rửa tiền đã trôi qua kể từ vụ hình sự đầu tiên dính dáng đến lợi nhuận, nhưng tại Mỹ chỉ mãi đến năm 1986 đây, "rửa tiền” mới chính thức được coi là bất hợp pháp với mốc là vụ xì-căng-đan Watergate. Trong khi không bị chính thức cấm cho đến năm 1986, rửa tiền đã xuất hiện trong nhiều vụ án hình sự. Hai vụ án hình sự khét tiếng nhất của Mỹ trong thế kỷ 20 đã bị bỏ dở do không tìm được các dấu vết về tài chính. Tên trùm găngtơ Al Capone cuối cùng đã bị kết án vì tội trốn thuế. Tên Bruno Richard Haupdman, người đã bắt cọc con trai của viên phi công nổi tiếng Chartes Lindbeng năm 1932 đã bị bắt vì không rửa được số tiền đòi chuộc một cách kín đáo. Như chúng ta đã biết năm 1989 dư luận nổi cộm về số tiền bị chiếm đoạt một cách bất hợp pháp ở Nga có thể được gửi trong hệ thống ngân hàng Mỹ, vấn đề "tiền bẩn" vẫn chưa được giải quyết. Do giới tội phạm thường che dấu các hoạt động của mình nên những số tiền được thay tên đổi họ này không được biết một cách chính xác nhưng Quỹ tiền tệ quốc tế IMF đã ước tính hàng năm số tiền này có thể lên đến từ 3 đến 5% tổng doanh thu toàn thế giới. Lực lượng tài chính đặc nhiệm của nhóm Giao thông đã đưa ra con số khác từ 300.000 triệu đến 500.000 triệu đô la Mỹ. Theo tạp chí Business Week, chỉ riêng trong nền kinh tế Mỹ, hàng ngày có khoảng 2 triệu đô la Mỹ được thay tên đổi họ. Như vậy, thực thi pháp luật chỉ là một nỗ lực mò kim đáy bể mà thôi. Đứng trước tình trạng này, một yêu cầu cấp thiết đặt ra với Chính phủ Hoa Kỳ là phải có những quy định cụ thể phù hợp về những biện pháp hữu hiệu chống rửa tiền. Trong đó, những điểm đầu trên cần chú ý là: kết hợp hoạt 36 động trong nước với các hoạt động của tổ chức quốc tế bởi theo ý kiến của một số quan chức Hoa Kỳ thì thường việc thực thi pháp luật Hoa Kỳ bị thất bại do sự phức tạp của những điều luật của nước ngoài cũng như sự thiếu hợp tác của Chính phủ nước ngoài. Do vậy việc phối hợp trong hành động chống "rửa tiền” là hết sức cần thiết. Trở lại vụ Watergate, kể từ khi quyết sách nổi tiếng của vụ tai tiếng này có tên "những người đàn ông của Tổng thống" được viết ra "theo dấu đồng tiền" đã trở thành một câu cửa miệng khi muốn nói đến việc đối phó với giới tội phạm câu cửa miệng này do cơ quan thực thi pháp luật của Hoa Kỳ tạo ra từ những năm 70, Chính phủ Hoa Kỳ đã nhấn mạnh cách tiếp cận ba chiều để chống lại tội phạm: truy tố những tội phạm nguy hiểm; theo dấu vết đồng tiền qua những cuộc điểu tra về rửa tiền; bắt giữ tiền và công cụ hành nghề của giới tội phạm. Chỉ có cách theo dấu đồng tiền chúng ta mới có thể phát hiện ra toàn bộ qui mô của tội phạm và tổ chức phạm pháp mới có thể bị tiêu diệt. Khi Chính phủ Hoa Kỳ ban hành luật chống rửa tiền đầu tiên vào năm 1986 thì họ cũng đã xác định được cơ bản đâu là vấn đề trong nước. Từ năm 1986, nạn rửa tiền trở thành một vấn đề toàn cầu, bao gồm cả giao dịch tài chính quốc tế, buôn lậu tiền bị pháp luật và cưỡng chế quy định thì khi đó vấn đề sẽ thế nào. Cơ sở pháp lý chống rửa tiền của Mỹ là Luật bảo mật ngân hàng (BSA) năm 1970, theo đó không hình sự hoá các hoạt động rửa tiền nhưng yêu cầu các tổ chức tài chính xây dựng và đảm bảo "dấu vết trên giấy tờ" liên quan đến một số giao dịch. Luật BSA liên tục bị phản đối. Một số người chì trích những chi phí áp dụng. Một số người khác lại cho rằng nó trái lại điều sửa đổi lần 4 của Hiến pháp Mỹ về chống lại việc khám xét và bắt giữ vô cớ và Điều sửa đổi lần 5 về tự buộc tội. Mặc dù luật này vẫn được ủng hộ nhưng cho đến nay một số phần vẫn còn gây tranh cãi. Thẩm phán Douglas đã nói rằng "Tôi cũng chưa thể đồng ý rằng nước Mỹ đã bị những tệ nạn lũng đoạn đến nỗi mà 37 chúng ta cần phải bớt đi những rào cản về mặt Hiến pháp để tạo ra cho các chính quyền dân sự có những phương tiện để bắt bọn tội phạm”. Do việc buôn bán ma tuý phát triển, Quốc hội Mỹ ngày càng quan tâm hơn đến vấn đề rửa tiền và đã đặt ra nó ngoài vòng pháp luật vào năm 1984 bằng việc đưa ra những điều khoản quy định cụ thể về hành vi vi phạm Luật Bảo mật ngân hàng (BSA) qua đạo luật về các tổ chức tống tiền và tham nhũng. Cuối cùng đạo luật rửa tiền (1986) quy định rửa tiền là tội phạm liên bang. Nó bổ sung ba tội mới trong luật hình sự: cố ý dụ dỗ một hoạt động giao dịch lớn hơn mức 10000 đô la có được từ các hoạt động phạm pháp và cố ý tiến hành những giao dịch nhằm tránh những quy định của Luật Bảo mật ngân hàng (BSA). Quy định cuối cùng có những chỗ "hổng" vì tội phạm rửa tiền sẽ thuê người mở hàng hoạt khoản ký quĩ hay những séc tiền mặt với số tiền dưới mức 10.000 đô la. Luật này đã được bổ sung một vài lần. Đạo luật phòng chống ma tuý (1998) đã làm tăng đáng kể mức hình phạt và đỏi hỏi sự nghiêm ngặt, chính xác trong điều tra phát hiện ra tài liệu ghi chép về lượng tiền mặt từ những hoạt động làm tiền cụ thể. (Đa số những yêu cầu có liên quan tới tài liệu ghi chép từ các hoạt động làm tiền kể cả đã huỷ bỏ) thêm vào đó, các quy định này cho phép Bộ tài chính Hoa Kỳ được bắt buộc các tổ chức tài chính ở những khu vực cụ thể phải cung cấp những báo cáo về những giao dịch tiền tệ ở mức dưới 10.000 đô la. Đạo luật này cũng quy định Bộ Tài chính đàm phán các hiệp định quốc tế song phương để ghi nhận những giao dịch tiền tệ Hoa Kỳ lớn và chia sẻ những thông tin này qua biên giới mà tội phạm ở một nước nhưng rửa tiền ở nước khác. Tiền tệ các công cụ tiền tệ, các luồng vốn giao dịch qua phương tiện điện tử có thể vượt qua biên giới của các quốc gia, cho phép tội phạm ở các nước khác giấu tiền ở Hoa Kỳ và cho phép những tên tội phạm Hoa Kỳ giấu những khoản tiền bất chính của chúng ở hàng trăm nước 38 trên thế giới mà không phải lo lắng rằng những hoạt động của chúng sẽ bị pháp luật phát hiện. Tuy nhiên, bất chấp những thay đổi mà chúng ta chứng kiến trong thế giới tài chính, thì vấn đề cơ bản đối với những kẻ rửa tiền, đặc biệt là những khoản tiền từ buôn bán ma tuý bất hợp pháp vẫn còn tồn tại và cất dấu và chuyển những khoản tiền mặt bất chính khổng lồ. Vì lý do này, thậm chí trên phạm vi quốc tế, điều quan trọng mà Chính phủ Hoa Kỳ nhấn mạnh là trong công đoạn đầu tiên của việc rửa tiền, những kẻ rửa tiền sẽ tìm cách đưa những khoản tiền bất hợp pháp vào hệ thống tài chính. Kết quả của việc tập trung nỗ lực vào công đoạn này là những ngân hàng và công ty tài chính Hoa Kỳ đã và đang giữ đầu mối chống lại việc đưa các khoản tiền mặt bất hợp pháp vào hệ thống tài chính. Cho dù có một số trường hợp ngoại lệ xảy ra nhưng chúng ta cũng rất thành công trong việc ngăn chặn những kẻ rửa tiền tiếp cận với những ngân hàng Hoa Kỳ. Và kết quả là những thể chế tài chính phi truyền thống dể rửa những khoản tiền bất hợp pháp của chúng. Một số phương pháp rửa tiền thường xuyên được sử dụng bao gồm việc lưu hành một lượng tiền buôn lậu lớn, rửa tiền bằng cách giao dịch thương mại qua hệ thống đổi đồng peso ở thị trường chợ đen Côlombia, và sử dụng dịch vụ kinh doanh tiền như gửi tiền diện tử, dịch vụ casas de cambio, dịch vụ tiền gửi qua các công tin cậy, séc du lịch và séc chuyển khoản. 1.2. Chống rửa tiền của Hoa Kỳ: 1.2.1. Những cơ sở pháp lý then chốt của Hoa Kỳ. Tại Hoa Kỳ, các cơ quan thực thi pháp luật rất quan tâm đến các cơ sở pháp lý chống lại hoạt động rửa tiền vì nó sẽ có hiệu quả hơn là tấn công trực tiếp vào các loại tội phạm. Ví dụ, trong các vụ buôn bán ma tuý, mức lợi 39 nhuận thu được có thể lên tới 1000 phần trăm hấp dẫn đủ để đảm bảo cung cấp cho các tội phạm trong trường hợp chúng bị tống vào tù . Đạo luật chống rửa tiền Annuntio – Wylie (1992) đã mở rộng những quy định của luật bảo mật Ngân hàng về “Giao dịch tài chính”, bổ sung thêm điều khoản đối với giai đoạn chuẩn bị phạm tội và đặt ra ngoài vòng pháp luật những “Giao dịch chuyển đổi tiền bất hợp pháp”. Đạo luật Annuntio – Wylie được biết đến với việc chỉ ra rõ hành vi nào sẽ bị áp dụng “hình phạt khai tử”, nó quy định nếu ngân hàng bị buộc tội rửa tiền, cơ quan thanh tra hữu quan của ngân hàng liên bang phải bắt đầu một quá trình gồm chấm dứt đặc quyền của nó hay thu hồi huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm của nó, phụ thuộc vào kết quả thanh tra sơ bộ của ngân hàng. Đạo luật Annuntio – Wylie cũng thiết lập nên nhóm tư vấn luật bảo mật ngân hàng (mà Cục dự trữ liên bang là một thành viên sáng lập) nhằm đề xuất những cách thức để tăng cường hiệu quả trong việc áp dụng những chương trình chống rửa tiền của Bộ Tài chính Đạo luật ngăn chặn rửa tiền (1994) đã lấp chỗ trống cho những quy định của luật về âm mưu và tội phạm có tổ chức trong khi đạo luật chống khủng bố (1996) bổ sung thêm những loại tội phạm khủng bố cũng như khẳng định những hành vi về tội rửa tiền và Đạo luật Kiểm soát Bảo hiểm y tế (1996) quy định rõ những hành vi “xâm hại sức khoẻ Liên bang”. Hình phạt cho các loại tội phạm bao gồm từ có thời hạn tới 20 năm và mức phạt tiền lên tới 500.000 đôla hay gấp hai lần số tiền vi phạm, tuỳ thuộc vào mức phạt nào lớn hơn sẽ áp dụng ở mức đó. ở mức cao nhất của hình phạt, những kẻ vi phạm có thể bị bổ sang những hình phạt về dân sự ngang với giá thị tài sản sở hữu, tiền của hay các tiền lãi liên quan đến các hoạt động kinh doanh. Quốc hội Mỹ có ý định làm cho các hình phạt này trở nên khắt khe hơn. Trước đạo luật về rửa tiền năm 1986, bị đơn bị truy tố theo qui chế có sự ưu đãi đối với những hoạt động bất chính trong đó có tội phạm rửa tiền, cũng như tội phạm trốn thuế, tội đồng loã, tội vi phạm bảo mật ngân 40 hàng, tội hối lộ và tội lừa đảo. Nhìn chung những qui chế đó đều có hình phạt ít khắt khe hơn nhiều. Nhưng từ góc độ tiền tệ , cuộc sống của nhứng kẻ vi phạm thực sự trở nên tồi tệ khi đạo luật về bắt giữ tài sản vào cuộc. Những đạo luật này tách chung khỏi những nguồn nuôi dưỡng tội phạm hoặc những công cụ được chúng sử dụng. Theo qui luật của đạo luật sửa đổi về việc Bắt giữ tài sản dân sự năm 2000, chính phủ Hoa kỳ hiện nay phải tiến một bước cao hơn nữa nhằm bắt giữ tịch thu tài sản. Để tịch thu tài sản phải đưa ra những lý do xác đáng về nguồn gốc có được nhứng tài sản đó là do hoạt động phạm pháp. Để tịch thu dân sự thành công, phải chứng minh được những trường hợp đó có chứng cứ rõ ràng và để thành công bắt giữ tội phạm phải chứng minh được nhứng trường hợp đó thực sự có những bằng chứng không thể chối cãi được. Tài sản bị phạt có thể được chia tới tất cả những cơ quan thi hành pháp luật có tham gia, một cách giải quyết chi tiết rất có hiệu quả để thu hút sự hợp tác từ các cơ quan thi hành pháp luật ở nước ngoài. Về phương diện pháp lý, rửa tiền là khái niệm tương tự một số tội xâm phạm có chủ ý trong giao dịch tiền tệ đó là tài sản có được từ nguồn gốc phi pháp. Để kết án, người khởi tố phải đưa ra âm mưu của các bị cáo trong các giao dịch tiền tệ hay hoạt động chuyển giao quốc tế có liên quan tới những khoản tiền có được từ một “ hoạt động bất hợp pháp”. Danh sách của những loại hoạt động đó vô cùng dài và bao gồm cả việc nhận đưa hối lộ làm hàng giả buôn bán ma tuý, hoạt động tình báo, tống tiền, lừa đảo, giết người, bắt cóc, in tiền giả và dĩ nhiên cả gian lận nghiệp vụ ngân hàng. 1.2.2 Dấu vết hồ sơ: Các cơ quan khởi tố xem xét hồ sơ khi có được lệnh theo đạo luật bảo mật ngân hàng và những điểm bổ sung của nó sẽ là công cụ chủ yếu trong 41 việc điều tra nghiên cứu và khởi tố tội sửa tiền. Các cơ quan đó sử dụng 5 dạng báo cáo về dấu vết trong giao dịch tài chính. * Báo cáo giao dịch tiền tệ tài liệu được thiết lập khi một tổ chức tài chính nhận hay cấp số tiênf hơn 10.000 USD. Báo cáo bao gồm tên và địa chỉ của người thực hiện giao dịch, nhận dạng cá nhân số tài khoản và số thẻ bảo hiểm xã hội của bất kỳ người nào đã tiến hành hoạt động giao dịch (Báo cáo lượng tiền giao dịch không nhất thiết phải lập được trong mọi giao dịch tiền mặt lớn. Các ngân hàng có thể miễn đối với các khách hàng quen, đáng tin cậy, nhờ đó có thể giảm số lượng thực hiện các báo cáo giao dịch tiền tệ. * Báo cáo về hoạt động nghi vấn: lập hồ sơ khi bất kỳ nhân viên ngân hàng thấy có căn cứ để nghi ngờ một người sửa tiền, bất kể qui mô giao dịch đó như thế nào. * Mẫu biểu IRS - 8300. Lập hồ sơ khi người nào đó trong một thương vụ nhận những khoản tiền mặt được trả trong trao đổi hàng hoá hay dịch vụ vượt quá mức 10.000 USD trong giao dịch đơn lẻ hay một loạt những giao dịch liên quan. * Báo cáo tiền tệ và phương tiện thanh toán khác: lập hồ sơ khi một người đến hay ra khỏi Hoa kỳ với lượng tiền tệ hoặc phương tiện thanh toán khác có giá trị quá 10.000 USD. Mang theo nhiều hơn số lượng này thì hoàn toàn hợp pháp nếu có đủ giấy tờ, nếu không có giấy tờ thì có thể dẫn đến những hình phạt những 5 năm tù hoặc tịch biên tài sản. * Mẫu tài khoản ngân hàng nước ngoài: lập hồ sơ khi một người nào đó trong năm kiểm soát tài khoản nước ngoài trị giá hơn 10.000 USD. Tất cả những báo cáo đó giúp cho cơ quan điều tra “lần theo dấu đồng tiền”. Mạng lưới chống tội phạm tài chính (FINCEN), được Bộ Tài Chính Hoa kỳ thành lập năm 1990 đã hậu thuẫn cho các cơ quan thi hành pháp luật trong việc phân tích , có trách nhiệm duy trì tốt báo cáo đó. Khi có 42 cơ hội, những báo cáo cần có sự chỉnh lý những thông tin hữu dụng sẽ được thu nhập và loại bỏ những báo cáo không cần thiết. Bằng việc áp dụng các hình thức trên, các tổ chức tài chính hỗ trợ cho các cơ quan thi hành pháp luật có thẩm quyền trong cuộc chiến chống lại rửa tiền. Các hình thức đó cũng chỉ ra giá trị đích thực của các cơ quan đó cũng như của các khách hàng hợp pháp. Mạng lưới chống tội phạm Tài Chính (FINCEN) dự toán chi phí của việc thiết lập và lưu trữ hồ sơ với BAS hoàn thành năm 1999 lên tới 109 triệu USD, trong đó không kể đến chi phí đào tạo và kiểm tra nhân sự, thay đổi các chương trình máy tính cho phù hợp và sự bất tiện đối với những khách hàng hợp pháp. Cũng có những lo ngại rằng những tổ chức tài chính nhỏ thường phải gánh chịu sự phân bổ không công bằng những chi phí trên đây. Thêm vào đó hiệu quả của các hình thức này cũng là một vấn đề được đặt ra. Cựu cục trưởng Cục dự trữ Liên Bang Larry Lindsey theo dõi từ năm 1996, các ngân hàng đã lập 77 triệu hồ sơ báo cáo về giao dịch tiền tệ nhưng chỉ phát hiện được 7300 bị cáo đã buộc tội nhưng chỉ có 580 người bị tuyên bố là có tội. Xét một cách công bằng, ngoài 580 người bị buộc tội, Bộ Tư pháp Hoa kỳ cũng đã kết tội được 2295 vụ, chiếm tỷ lệ 40% các bản án đã tuyên . Những người quản lý ngân hàng và đại diện cho các cơ quan thực thi pháp luật bảo vệ việc áp dụng Luật bảo mật ngân hàng (BSA), cho rằng các giao dịch tiền tệ chưa bao giờ là căn cứ để khởi tố và cục dự trữ Liên Bang tiếp tục ủng hộ họ. Vai trò của cục dự trữ Liên Bang trong cuộc đấu tranh chống rửa tiền: Mặc dù không phải là cơ quan thi hành pháp luật, Cục dự trữ Liên bang vẫn tích cực tiến hành các hoạt động ngăn chặn việc sử dụng các tổ chức tài chính để rửa tiền. Các hoạt động của cục dự trữ Liên Bang bao gồm chỉ đạo các nghiên cứu BSA, triển khai hướng dẫn chống rửa tiền và chuẩn bị ý kiến 43 chuyên môn cho lãnh đạo các cơ quan thi hành pháp luật của Hoa kỳ, các ngân hàng nước ngoài chuyên biệt và các tổ chức Chính phủ. Các tổ chức tài chính và các nhân viên của họ được coi là yếu tố nhanh nhất chống lại rửa tiền và cục Dự trữ Liên bang nhấn mạnh tầm quan trọng của các ngân hàng trong việc củng cố kiểm soát để bảo vệ bản thân khách hàng của ngân hàng và bản thân khách hàng trước những hoạt động bất hợp pháp. Trong tất cả hướng dẫn các nhân viên giám sát của FBI, nó kiểm tra việc tuân thủ bảo mật ngân hàng. Bất kỳ sự phát hiện nào về những điều chưa làm được như hệ thống kiểm tra nội bộ hay sự tập huấn kém cỏi đều dẫn đến cuộc thẩm tra giai đoạn hai còn nghiêm ngặt hơn. Cục dự trữ liên bang hoàn thành việc phát triển quan điểm một “qui trình hoàn thiện thích đáng”. Theo chính sách này, các ngân hàng có những vấn đề còn tồn đọng sẽ được yêu cầu phải thoả thuận để đảm bảo việc tuân thủ các qui trình cho tương lai. Những thoả thuận này được thiết kế với mục đích đảm bảo sự nhận biết và sự báo cáo đúng lúc, chính xác hoạt động tội phạm được biết rõ hay còn nghi vấn chống lại hay làm cho ngân hàng dính líu tới hoạt động chống lại các cơ quan thực thi pháp luật và các cơ quan thanh tra hữu quan. 1.2.3. Vòng quay toàn cầu Trong hệ thống tài chính toàn cầu, các quỹ có thể được di chuyển ngay lập tức từ quốc gia này tới quốc gia khác, làm cho sự hợp tác quốc tế càng quan trọng hơn trong cuộc chiến chống rửa tiền. Trong năm 1989, các nước G7 đã thiết lập lực lượng đặc nhiệm về hoạt động tài chính (gọi tắt là FATF) để phát triển chiến lược chống rửa tiền. Năm tiếp theo, lực lượng này đã phác thảo “40 điều khuyến nghị” trong đó đòi hỏi các quốc gia thành viên giúp đỡ lẫn nhau trong việc phát hiệnh rửa tiền, ngăn ngừa việc ban hành các đạo luật làm cản trở những hoạt động điều tra rửa tiền, tội phạm và báo cáo những giao dịch có nghi vấn. Mặc dù lực lượng đặc nhiệm bao gồm các trung tâm 44 tài chính lớn ở Bắc Mỹ, Châu Âu và Châu á nhưng một số quốc gia vẫn chưa phải là thành viên của FATF. Vào tháng 6 năm 2000, FATF đã phát hành danh sách 15 quốc gia “ nhiễm những vấn đề nghiêm trọng”. Vào tháng 7, Bộ trưởng tài chính các nước G7 đã bổ sung với kế hoạch nhằm thuyết phục những nước này hợp tác bằng cách đe doạ sẽ cắt mối quan hệ với hệ thống Ngân hàng Thế giới trừ phi họ tích cực hơn trong cuộc chiến chống rửa tiền. Thêm vào đó các tổ chức tài chính độc lập tại các nước G7 cảnh báo bằng những giao dịch với các quốc gia đó sẽ bị xem xét cực kỳ kỹ lưỡng. 1.2.4. Những định hướng trong tương lai: Trước tình trạng rửa tiền ngày một tinh vi, Hoa kỳ quyết tâm thực hiện một chính sách kiểm soát chặt chẽ hơn. Thứ nhất, hệ thống thanh toán điện tử qua Internet đang phát triển làm cho giao dịch điện tử trở lên dễ dàng. Một số hệ thống tạp chung vào việc giúp cho người sử dụng ngày càng bí mật trong các hoạt động tiền tệ. Tốc độ truyền điện tử được kết hợp với những khoản tiền mặt ẩn danh đã làm xuất hiện ngày càng nhiều những kẻ tiến hành rửa tiền. Trong khi đây là một vấn đề đối với các cơ quan thi hành pháp luật hữu quan, thì đồng tiền điện tử hiện nay rất thiếu những thể chế cần thiết để điều chỉnh nhằm qui định kiểm soát bọn tội phạm. Hơn thế nữa những kẻ rửa tiền không lo lắng tới hệ thống tổ chức ngân hàng điện tử, trong giới hạn mối cân bằng thấp và các giao dịch tài chính có thể kiểm tra. Thứ hai, thể chế pháp lý được ban hành cho phép Bộ Tài chính có thẩm quyền mạnh mẽ để chiến đấu với nạn rửa tiền, các cơ quan thấp hơn có quyền cấm những giao dịch giữa trung tâm tài chính ở nước ngoài với các ngân hàng Hoa kỳ hay các trung tâm môi giới. Bộ Tài chính hiện nay không có quyền ngăn cản các công ty tài chính Hoa kỳ tiến hành các giao dịch làm ăn ở các quốc gia dường như làm ngơ trước việc rửa tiền, trừ phi đề nghị quốc hội ban hành các chế tài chống lại các quốc gia được coi là tiềm ẩn mối 45 đe doạ đối với nền an ninh của Mỹ. Các thanh tra viên của Bộ Tài chính luôn cảnh báo các ngân hàng về các khoản tiền của tổ chức nước ngoài thường xuyên vi phạm các chuẩn mực đã được công nhận, nhưng những viên thanh tra này không có thẩm quyền như luật định. Nói tóm lại vào 30 năm trở lại đây các nhà làm luật Hoa Kỳ đã ban hành một loạt luật lệ nơi điều tra để cố gắng tạo nên những công cụ sắc bén chống lại những thủ thuật lách luật tinh vi của bọn rửa tiền. Trên cơ sở là một tổ chức quản lý Ngân hàng, Ngân hàng dự trữ liên bang có vai trò quan trọng trong cuộc chiến chống rửa tiền có qui mô toàn cầu nên sự tăng cường hợp tác quốc tế thơì gian gần đây là sự phát triển đầy hứa hẹn. Dĩ nhiên cùng với lòng nhiệt huyết bắt giữ tội phạm, chúng ta cũng cần phải thấy được lợi ích mà luật pháp và sự quản lý mang lại so với cái giá mà các tổ chức tài chính mà người tiêu dùng phải chịu. 1.3. Những thành tựu đạt được trong cuộc chiến chống rửa tiền của Hoa Kỳ Bằng những đạo luật khắt khe trong những nỗ lực kiểm soát hoạt động tài chính để chống rửa tiền, Hoa Kỳ đã đạt được những thành tựu đáng kể trong cuộc chiến đấu chống rửa tiền đầy khó khăn này. ở đây chỉ xin đề cập đến một số chiến dịch chống rửa tiền có hiệu quả nổi bật. 1.3.1. Chiến dịch "thuần hoá chú lừa" Ngày 01 tháng 07 năm 1998, Trưởng phòng tài chính, Chủ tịch và Phó Chủ tịch của Công ty Supermail, Inc… một công ty séc chuyển khoản đã bị bắt vì tham gia vào một vụ rửa tiền trong một vụ điều tra kéo dài trong vòng 2 năm do văn phòng chống rửa tiền ở Los Angeles của Cục điều tra Liên bang và phòng cảnh sát Los Angeles tiến hành. Theo hồ sơ, công ty này là 46 một trong những công ty hàng đầu của Hoa Kỳ cung cấp dịch vụ cho Mexico và Châu Mỹ La tinh. Ba thành viên quản trị cùng với 6 nhân viên đã bị bắt sau khi đại bồi thẩm đoàn Liên bang đã đưa ra bản cáo trạng với 67 điểm kết tội 11 bị cáo bao gồm cả Công ty Supermail có âm mưu rửa tiền, né tránh yêu cầu báo cáo về lưu hành tiền tệ và chiếm đoạt tài sản một cách bất hợp pháp. Mục tiêu đầu tiên của cuộc điều tra là quỹ của Công ty ở Reseda, California. Những người điều tra dưới vỏ bọc bí mật đã tiếp cận với người quản lý, người đã đồng ý rửa những đồng tiền "ma tuý" với khoản phí tiền mặt. Đặc biệt người quản lý chuyển một số lượng tiền mặt lớn thành giấy lệnh chuyển tiền của Công ty. Khi có một lượng tiền lớn cần được rửa, người quản lý sẽ yêu cầu các cộng sự làm việc ở những khu vực khác giúp đỡ. Khi một người quản lý mới điều hành những hoạt động ở chi nhánh Reseda vào tháng 4 năm 1997 thì anh ta đưa tới công ty một số nhân viên. Những nhân viên này được phép phát hành những phiếu gửi tiền và chuyển một lượng tiền bất chính lớn tới một tài khoản bí mật ở Miami, trong khi số tiền để duy trì hoạt động vẫn nằm trong quỹ của công ty. Tổng cộng các bị cáo đã rửa tổng cộng trên 3 triệu USD tiền "ma tuý". Người ta cho rằng đây là một trong những vụ điều tra chống lại nạn rửa tiền nhằm vào giới kinh doanh séc chuyển khoản lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ. 1.3.2. Chiến dịch “công việc mạo hiểm” Từ khi hầu hết các đường dây rửa tiền với quy mô lớn bao gồm cả những khoản tiền buôn bán ma tuý hình thành thì nạn rửa những khoản tiền của tội phạm "cổ cồn" ngày càng trở thành một hiện tượng nghiêm trọng. Chiến dịch “công việc mạo hiểm” do Cục hải quan Liên bang và FBI tiến hành vào năm 1994 sau khi một bọn lừa đảo đăng quảng cáo trên một số tờ 47 báo và ấn phẩm kinh doanh lớn của Hoa Kỳ. Những tin quảng cáo này đưa ra những đề nghị cho vay vốn đối với những chủ hãng kinh doanh với "khoản phí trả trước". Các nạn nhân trên toàn thế giới bắt đầu trả những khoản tiền lãi trả trước từ 50.000 đến 2,2 triệu USD để có thể được vay vốn. Sau khi trả khoản tiền này, các nạn nhân được yêu cầu ký một bản hợp đồng yêu cầu họ ngay lập tức mở thư tín dụng từ 2 -20 triệu USD làm tiền thế chấp cho khoản vay. Nếu các nạn nhân không thể mở thư tín dụng với một khoản tiền lớn như vậy, ngay lập tức bọn lừa đảo bảo rằng họ đã vi phạm điều khoản của hợp đồng và giữ tiền lãi trả trước của họ. Trên thực tế những kẻ chủ mưu của kế hoạch này biết rằng các nạn nhân sẽ không thể đáp ứng được các điều khoản của hợp đồng và bằng cách đó chúng đã chiếm của các nạn nhân những khoản tiền lãi trả trước. Để che đậy số tiền chúng đã ăn cắp, những kẻ lừa đảo này mở ngân hàng Caribean American Bank ở Antigua và Barbuda vào năm 1994. Cục Hải quan Liên bang và FBI đã phát hiện ra rằng ngân hàng này chỉ hoạt động bề ngoài, là một trong 18 ngân hàng hoạt động dưới sự kiểm soát của Ngân hàng quốc tế Châu Mỹ (A.I.B - Ltd) ở Antigua. Cả hai ngân hàng này bị đóng cửa do tội lừa đảo. Chính từ các ngân hàng này và vô số những Công ty bình phong khác, bọn lừa đảo có thể mua máy bay, thuyền đua, xe cộ, bất động sản và những tài sản khác bằng các khoản tiền lừa đảo. Một số bị cáo phát hành những thẻ tín dụng lớn - dưới tên của những công ty bình phong - qua hệ thống ngân hàng ở Antigua, vì vậy chúng có thể tiêu thụ những khoản tiền ăn cắp thẻ tín dụng ở khắp nơi trên thế giới. ít nhất 400 người trên thế giới đã bị mất tiền vì vụ lừa đảo này. Nhưng mục đích của chúng là còn lừa thêm nhiều người hơn nữa. Tổng số tiền của vụ lừa đảo trên có thể không bao giờ được tiết lộ, nhưng người ta ước tính khoảng 60 triệu USD. Kể từ đó, 19 người bị kết án trong chiến dịch “công việc mạo hiểm”. Hoa kỳ đang tìm 48 cách dẫn độ một bị cáo ở Antigua bị buộc tội thành lập ngân hàng Caribean American Banh cho bọn lừa đảo cũng như dẫn độ bị cáo khác ở Thái Lan về. 1.3.3. Những vụ việc liên quan đến hệ thống chuyển đổi đồng tiền peso chợ đen. * Chiến dịch khinh công: Một trong những chiến dịch thành công gần đây tấn công vào hệ thống thị trường chợ đen chuyển đổi đồng peso là chiến dịch khinh công cuộc điều tra do Cục Hải quan liên bang tiến hành. Từ tháng 3/1997 đến tháng 5/1999, các nhân viên tham gia chiến dịch khinh công đã chiếm được lòng tin của bọn môi giới buôn bán đồng peso Colombia làm việc cho các trùm buôn ma tuý Colombia, chúng giao cho các nhân viên mật những khoản tiền mặt khổng lồ thu được từ việc buôn bán ma tuý. Những nhân viên này đưa những khoản tiền mặt đó vào các tài khoản cho chính phủ kiểm soát. Sau mỗi vụ, những kẻ đổi tiền peso lại chỉ thị cho các nhân viên mật chuyển tiền vào các tài khoản ngân hàng đã được chỉ định. Thông qua hệ thống thị trường chợ đen chuyển đổi đồng peso Colombia, bọn môi giới đổi tiền peso đã lấy đồng peso thu được từ việc nhập khẩu hàng hoá Mỹ để đổi đồng đô la ở các tài khoản bí mật. Bọn này sẽ gởi vào các tài khoản ngân hàng của các nhà xuất khẩu Mỹ khoản tiền đô la như một khoản thanh toán cho hàng hoá mà nhà nhập khẩu Colombia đã nhận được cũng như cho các bên thứ ba liên quan đến hệ thống chuyển đổi này. Kết thúc chu kỳ rửa tiền đó, các nhà nhập khẩu Colombia nhận được khi xác nhận là việc chuyển tiền đô la đã hoàn tất chuyển cho bọn môi giới buôn bán đồng peso khoản tiền tương đương bằng đồng peso. Sau đó, bọn này sẽ lập peso cho các trùm buôn ma tuý Colombia. Chiến dịch khinh công đạt được kết quả với 14 bản cáo trạng và 29 bị cáo: 12 tên bị kết án vì tội rửa tiền và tham gia buôn bán ma tuý bị tống giam. 49 Ngoài ra các vụ việc dân sự cũng được khởi tố, xét xử các tài khoản ngân hàng đã nhận những khoản thu được từ buôn bán ma tuý ở Mỹ cũng như ở các nước khác. * Chiến dịch Juno: Cũng như vậy, chiến dịch Juno kết hợp được năng lực của Cục phòng chống ma tuý, Phòng điều tra hình sự hải quan nội địa và Văn phòng chưởng lý liên bang ở Atlanta thành một lực lượng đặc nhiệm điều tra chống rửa tiền. Vào 12/1999, tại bồi thẩm đoàn liên bang đặt ở Atlanta kết án 5 bị cáo từ Colombia dính líu đến hệ thống rửa tiền và buôn bán ma tuý với vòng quay hàng triệu đô la. Theo sự chỉ đạo của những kẻ hiện nay là bị cáo, các nhân viên bí mật tham gia chiến dịch Juno đã từng giữ những tài khoản lợi nhuận thu được từ ma tuý từ 100.000 đến 500.000 USD . Các khoản thu được từ ma tuý cũng được rải ở những thành phố khác của Mỹ như Dallas, Huston, New york , Newark, Providence, Chicago cũng như Madrid và Rome Những người tham gia chiến dịch Juno sau đó đã chuyển tiền từ những thành phố nói trên đến tài khoản bí mật ở Atlanta. Theo chỉ thị của những kẻ hiện nay đã bị kết án, tiền được chuyển đến hàng loạt các tài khoản ở Mỹ và trên toàn thế giới. Cũng như trong chiến dịch khinh công, lợi nhuận thu được từ ma tuý ở chiến dịch này được hợp pháp hoá qua hệ thống chuyển đổi đồng peso chợ đen, khi bọn môi giới đổi tiền peso đã lấy đồng peso thu được từ việc nhập khẩu hàng hoá Mỹ để đổi thành đồng đô la ở các tài khoản bí mật. Và một lần nữa các vụ việc dân sự lại được khởi xướng để thu hồi những khoản tiền đã chuyển vào tài khoản nội địa và nước ngoài. 1.3.4. Những khó khăn trong các vụ chống rửa tiền quốc tế: Chiến dịch Casablanca Chiến dịch khinh công và Juno thu được thắng lợi không chỉ trên phương diện điều tra tội phạm, kết tội, kết án và tịch thu tài sản mà còn phát 50 hiện và tiêu diệt một phần của hệ thống chuyển đổi đồng peso chợ đen. Những vụ việc trong hai chiến dịch điều tra này đã cho thấy những khó khăn, phức tạp trong việc bắt giữ các khoản thu nhập bất chính khi chúng đã được chuyển ra khỏi Hoa kỳ, đặc biệt khi thông qua các tài khoản vãng lai. Thứ nhất, mỗi khi tiếp nhận các ngân hàng hải ngoại có văn phòng đại diện ở nước ngoài, các nhà chức trách thực thi pháp luật Mỹ đề nghị các cơ quan có thẩm quyền của các nước sở tại giúp đỡ, khả năng bắt giữ những khoản tiền đó phụ thuộc vào sự lành mạnh của luật lệ ở nước đó mà nhiều lúc mâu thuẫn với luật pháp Hoa kỳ và có thể nảy sinh những tranh cãi phức tạp, tốn nhiều thời gian về thẩm quyền và địa điểm xét xử đối với một vụ việc bắt giữ tiền. Trong nhiều trường hợp, các nhà thực thi pháp luật của Hoa kỳ không biết được điểm đến cuối cùng và người nhận của những khoản tiền được gửi qua tài khoản vãng lai và chỉ xác thực sự kiện như một vụ việc đã rồi. Các vấn đề phức tạp do tài khoản vãng lai gây ra không chỉ nảy sinh trong các vụ việc bắt giữ tiền trong chiến dịch “Khinh công” và chiến dịch Juno mà còn ở những vụ việc khác. Ví dụ như trong chiến dịch Casablanca truy tố việc rửa tiền ở Los Angeles liên quan đến các ngân hàng nước ngoài và tài khoản vãng lai của họ, các công tố viên của Washington D.C đã khởi tố dân sự ở quận Colombia đối với những khoản tiền đã được chuyển khoản vào các tài khoản nước ngoài. Những nỗ lực của nước Mỹ được các tài khoản tiền đó đưa lại những kết quả khác nhau phụ thuộc vào nước mà chúng được chuyển đến. Trong một số trường hợp, nước Mỹ nhận được sự hợp tác từ phía các đồng sự nước ngoài, nhưng một số trường hợp khác lại không nhận được sự hợp tác đó. Trong một số trường hợp khi có sự hơp tác thì rắc rối và tranh cãi lại nảy sinh về địa điểm và thẩm quyền tố tụng cũng như về nguồn gốc thực sự của khoản tiền. 51 Ví dụ, như trong một trường hợp tiền được chuyển vào tài khoản ngân hàng ở nước ngoài. Sau khi đã khởi kiện dân sự, Bộ Tư pháp Mỹ đề nghị Chính phủ nước sở tại trợ giúp phong toả các khoản tiền theo tinh thần của công ước Viên 1998. Kết quả là các đồng sự nước ngoài đủ thẩm vấn nhân viên của ngân hàng và phát hiện ra rằng ngân hàng có tài khoản mà các khoản tiền đó được chuyển đến có trụ sở ở nơi khác . Theo tinh thần Hiệp ước hỗ trợ tư pháp với nước thứ hai, Bộ Tư pháp Mỹ thông báo cho các cơ quan có thẩm quyền ở đó biết rằng họ có thông tin về việc chuyển tiền thu được từ ma tuý vào các tài khoản ngân hàng, thuộc thẩm quyền tài phán của họ. Do luật pháp của nước sở tại chỉ công nhận sự hỗ trợ về mặt hình sự và không hỗ trợ về mặt dân sự, chính quyền ở nước đó đã tự mở cuộc điều tra dựa trên thông tin mà nước Mỹ cung cấp và sau đó đã phong toả các tài khoản. Nhân đây cũng xin lưu ý là trước khi toà phán quyết thì không ai bị coi là tội phạm cả nên việc làm trên không công bằng cho dù các khoản tiền đó có thể thu được bằng con đường bất chính, tội phạm. Hơn nữa, ngân hàng không hề có một bất động sản hay một chi nhánh nào thuộc thẩm quyền xét xử của toà án sở tại, và mọi tài sản đảm bảo cho các trái vụ của ngân hàng đều nằm ở nước khác. Cuối cùng, sau khi lần hết vòng đã phát hiện ra rằng tài sản đang bị theo dõi có thể nằm ở tài khoản vãng lai của ngân hàng nước ngoài tại một ngân hàng Hoa kỳ ở thành phố NewYork. Quả thật, ở đây có rất nhiều những cản trở cho triển vọng thành công của việc tịch biên tài sản bằng những thủ tục dân sự, bởi lẽ tiềm ẩn sự tranh cãi về thẩm quyền: những tài sản bị nghi ngờ thực sự "nằm" ở tài khoản vãng lai của ngân hàng nước ngoài ở NewYork. Mặc dù quận Colombia mới thực sự có thẩm quyền tài phán tương ứng để tịch biên tài sản bằng thủ tục dân sự. Điều này cho thấy những khó khăn mà chúng ta sẽ gặp phải khi tìm kiếm, phát hiện, bắt giữ và tịch biên những khoản tiền ở các tài khoản vãng lai của các ngân hàng nước ngoài. 52 Điều đáng chú ý là những chiến dịch trên đây đã tái tạo lại những tình huống khi các chính phủ nước ngoài hợp tác với những đề nghị của Hoa kỳ. Trong nhiều trường hợp, không có được sự hợp tác như vậy và những khó khăn càng tăng lên bội phần khi chúng ta gặp phải nền pháp luật về bí mật ngân hàng không chịu hợp tác. Tóm lại Mỹ là quốc gia mà hiện tượng "rửa tiền" xảy ra tương đối nhiều và mang tính chất phức tạp. Tuy nhiên, được sự quan tâm của các cơ quan hữu quan với bộ luật "chống rửa tiền" và các văn bản pháp lý liên quan, đặc biệt là những nỗ lực trong nước và quốc tế, nạn rửa tiền ở quốc gia này đang dần được kiểm soát. 2. Rửa tiền - chống rửa tiền ở Thái Lan Tại Thái Lan, "tiền bẩn " đang được làm cho trở lên "sạch hơn”. Năm 1999, nước này đã thực thi Luật chống rửa tiền, một trong những đạo luật tiến bộ nhất ở Châu á, không chỉ nhằm vào loại tội phạm "cổ cồn " mà cả vào hoạt động phi pháp của nền kinh tế ngầm. Bốn năm trôi qua, luật này đã phát huy tác dụng làm cho nạn rửa tiền ở Thái Lan không còn là thường ngày nữa. Trong một cuộc phỏng vấn gần đây với tờ Far Eastern Economic Review, ông Peeraphan Prempooti - Tổng thư ký văn phòng chống nạn rửa tiền (AMLO) khẳng định : luật này không loại trừ một ai cả, cho dù anh có quyền cao, chức trọng đi nữa mà vi phạm luật thì cũng bị truy tố. Và đúng như lời lẽ hùng hồn ấy, cho đến nay văn phòng này đã và đang xử lý rất nhiều vụ nhưng mới chủ yếu là những vụ nhỏ. Trong tháng 12 năm 2000 các nhà chức trách Thái Lan đã phát hiện một vụ rửa tiền trị giá 7,7 tỷ Bath (tương đương 170 triệu USD) có liên quan đến khoảng 37 công ty hàng đầu mà đã đánh lừa được cả những nhà ngân hàng giàu kinh nghiệm và các nhà chính trị. Trong một vụ mang tính chất 53 quốc tế vào tháng 8 năm 2001, văn phòng chống nạn rửa tiền đã giúp chặn đứng một vụ mua bán cổ phiếu bất hợp pháp bắt giữ 85 người nước ngoài bị buộc tội có liên quan đến hoạt động rửa tiền xuyên quốc gia. Trong khi đó trên khắp cả nước cảnh sát Thái Lan đã thu giữ tài sản và đất đai của những kẻ bị tình nghi là buôn bán ma tuý, trong năm, họ đã thu được tổng số tài sản trị gía hơn 250 triệu Bath. Nhằm hướng tới có qui định chặt chẽ hơn đối với hoạt động của thị trường tài chính và thị trường bất động sản, Thái Lan rất thận trọng đi từng bước nhỏ nhưng sự định hướng là rất rõ ràng, bởi vì nguyên nhân của khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 là do những quy định lỏng lẻo trong hệ thống ngân hàng và một cơ chế quản lý kém. Văn phòng chống nạn rửa tiền đã thiết lập được một cơ chế thanh tra nhằm ngăn chặn sự tái diễn cuả những vụ tham nhũng lớn trong quá khứ và nó cũng góp phần phát hiện ra những khoản chi không được minh bạch và các khoản trốn thuế bấy lâu nay đã gây những tổn thất lớn cho quốc gia này. Theo một viên chức cao cấp của văn phòng hành pháp Western có trụ sở tại Bangkok thì Mỹ phải mất 15 năm mới có thể đưa ra đạo luật chống rửa tiền và có hiệu lực trong khi Thái Lan đã thực hiện tốt được cả hai. Không theo tiền lệ quốc tế, văn phòng chống nạn rửa tiền dự tính thực thi luật chống rửa tiền mới có hiệu lực trở về trước. Điều này có thể dẫn tới sự bùng nổ những tranh cãi về mặt chính trị. Cho tới bây giờ, chưa có vụ nào trước năm 1997 được xem xét mặc dù có hàng tỷ Bath trong tài khoản tiền gửi ngân hàng và vốn cổ đông trong nước đã biến mất, mà rất có thể, số tiền này đã bị chảy ra các tài khoản ở ngân hàng nước ngoài. Ông Peeraphan nói rằng, văn phòng chống nạn rửa tiền đang tích cực truy xét những vụ này, tìm ra và thu hồi số tiền đã biến mất trước cuộc khủng hoảng năm 1997, đồng 54 thời ông cũng có trong tay một danh sách tên và tài khoản ngân hàng nước ngoài đang được thẩm tra. Về cơ sở vật chất, cho đến nay, Mỹ đã giúp văn phòng chống nạn rửa tiền cả về vốn lẫn công nghệ, một phần mềm chuyên việt để phát hiện những mối liên kết và làm thành các mô hình từ các báo cáo tài chính khác nhau. Một phần cứng cũng đã được sẵn sàng tiếp nhận các báo cáo giao dịch từ hàng trăm tổ chức tài chính. Về mặt nhân lực, các thanh tra của văn phòng chống nạn rửa tiền được đào tạo tại một học viện hành pháp quốc tế do Mỹ tài trợ ở Bangkok về các loại tội phạm trong lĩnh vực tài chính tiền tệ. Điều quan trọng nhất đối với việc thực thi pháp luật này là có sự tham gia của ngân hàng. Giờ đây, quy định về việc không hỏi (no questions) về tài khoản tiền mặt của khách hàng đã được dần thay thế bởi quy định hiểu biết về khách hàng với từng nhân viên ngân hàng. Cán bộ tín dụng phải thông báo tất cả các giao dịch có giá trị lớn hơn 2 triệu Baht cho văn phòng chống nạn rửa tiền, đồng thời cũng phải thông báo các giao dịch đang nghi do bọn rửa tiền thực hiện nhiều giao dịch có giá trị dưới mức quy định tối thiểu. Sở địa chính Thái lan cũng phải thông báo tất cả các hợp đồng mua bán bất động sản lớn hơn 5 triệu Baht. Như đã đề cập ở trên, Văn phòng chống nạn rửa tiền Thailand đang nổi lên như là một mô hình đáng học tập trong khu vực. Malaysia và Indonesia cũng áp dụng mô hình này. Hàn quốc và Nhật Bản đã cử chuyên gia đến tham khảo. Ông Peeraphan cho rằng một quốc gia không thể một mình chống nạn rửa tiền vì nó là một loại tội phạm không biên giới, do đó, bộ máy hành pháp của các quốc gia phải có sự tương đồng. Tuy nhiên, không phải là không có sự cản trở, một số người vẫn phản đối về quy định truy tố những vụ trước khi luật này ban hành. Theo một luật sư hàng đầu của Thái Lan, Thawat Damsa - ard, mà thân chủ của ông đã bị 55 thu giữ tài sản thì: "Nguyên tắc có hiệu lực trở về từ trước không nên áp dụng bởi luật quy định rằng tất cả tài sản thuộc sở hữu của một người là không được xâm phạm. Thuật ngữ này là quá rộng". Một câu hỏi lớn hơn đặt ra đối với văn phòng chống nạn rửa tiền là phạm vi thẩm quyền của nó là bao xa. Với hơn 40% GDP của Thái Lan được coi là có nguồn gốc từ kinh tế ngầm và luật mới này bao trùm cả từ loại tội phạm "cổ cồn" đến nạn mại dâm thì Văn phòng chống nạn rửa tiền sẽ hoạt động thử nghiệm để chứng tỏ tính toàn cầu của luật này. Cho đến nay, số vụ được đưa ra truy tố chủ yếu là những vụ buôn lậu ma tuý nhỏ, quan chức cấp cao nhất bị truy tố chỉ là viên trung tá cảnh sát. Rất nhiều nhà chính trị của Chính phủ hiện thời bắt đầu nhận thức khi cuộc khủng hoảng nổ ra năm 1997. Theo một số nhận định khá tin cậy thì phải có một số quan chức sẽ phải có rời nhiệm sở một khi Văn phòng chống nạn rửa tiền ra tay. Mặc dầu trên thực tế trụ sở tổ chức này là độc lập nhưng nó vẫn cần sự hợp tác từ nhiều phía để có thể phát hiện thêm nhiều vụ phức tạp hơn. Theo một số nhân viên của văn phòng hành pháp Westers thì các vụ rửa tiền không dễ dàng giải quyết một cách nhanh chóng được, chúng mất rất nhiều thời gian và nguồn lực. Nó cũng như việc thách đố đặt trước mặt bạn 100.000 ô nhớ toàn là mầu trắng mà bạn phải biết bạn đang làm cái gì. Như vậy, sau Mỹ, Thái Lan là quốc gia có nhiều thành công trong công cuộc chống "rửa tiền". 3. Rửa tiền- chống rửa tiền tại Hồng Kông Mới đây, một quan chức của ngành cảnh sát Hồng Kông khẳng định rằng, trong thời gian qua, nhiều tên khủng bố đã tiến hành nhiều đợt rửa tiền thông qua các ngân hàng ở Hồng Kông. ông Dick Lee, Phó uỷ viên cảnh sát Hồng Kông nhận định trong thời gian tới rất ít khả năng bọn khủng bố sẽ tiến 56 hành những hành động tấn công tại Hồng Kông nhưng bọn chúng sẽ tăng cường rửa tiền thông qua hệ thống ngân hàng ở vùng lãnh thổ này. Trong tháng 10 vừa qua, nhiều phương tiện thông tin đại chúng ở Mỹ đã loan tin rằng, theo nhận định của nhiều chuyên gia Liên hợp quốc, mạng lưới Al-Qaeda của Osama- Binladen đang có nhiều tài khoản ngân hàng ở Hồng Kông. Một chuyên gia của Liên Hợp quốc nhận xét: "Chưa có dấu hiệu nào cho thấy bọn khủng bố sẽ tiến hành các cuộc tấn công tại Hồng Kông. Nhưng có nhiều khả năng những tên thuộc nhóm Al-Qaeda sẽ tăng cường lợi dụng thành phố quốc tế có nhiều người qua lại và có hệ thống tài chính - ngân hàng phức tạp này để tiếp tục thực hiện rửa tiền”. Ông Dick - Lee cho biết, hiện có nhiều tài khoản ngân hàng ở Hồng Kông có dấu hiệu liên quan đến nhóm khủng bố Al-Qaeda. Ngoài ra, ông Dick - Lee còn khẳng định rằng việc cảnh sát Hồng Kông phát hiện và bắt giữ 3 kẻ cung cấp vũ khí cho nhóm Al-Qaeda (Hai người có quốc tịch Pakistan và một người có quốc tịch Mỹ) vào ngày 20/9 năm nay không phải là lần đầu tiên cảnh sát của vùng lãnh thổ này phát hiện và xử lý những vụ liên quan đến bọn khủng bố. Ba tên này bị bắt trong khi đang mua 4 tên lửa Stinger để bắn máy bay. Trước đó, theo Cục điều tra trung ương Mỹ (FBI) 3 tên này đã dùng 5 tấn Hasit (chế bằng lá thuốc non và đọt gai dầu) và 600kg Heroin để đổi lấy tên lửa cung cấp cho mạng Al-Qaeda. Để trấn an nhân dân và khách quốc tế, các quan chức của ngành cảnh sát Hồng Kông tuyên bố rằng, trong thời gian tới, chính quyền vùng lãnh thổ này sẽ tăng cường các biện pháp truy lùng và bắt giữ những tên khủng bố đi qua, đồng thời sẽ đẩy mạnh công tác kiểm tra để phong toả các tài khoản mà bọn khủng bố mở tại các ngân hàng hoạt động trên thị trường này. Bên cạnh đó cũng theo ngành cảnh sát Hồng Kông, chính quyền Hồng Kông sẽ tăng cường hợp tác với các nước và các tổ chức quốc tế để phát hiện và bắt giữ những tên khủng bố đi qua hoặc có những hành động rửa tiền qua Hồng 57 Kông. Ngoài ra chính quyền Hồng Kông sẽ tăng cường vai trò của ngành tình báo để chống khủng bố và hoạt động rửa tiền. Cho tới nay, cảnh sát Hồng Kông đã ghi nhận và điều tra được 6800 vụ rửa tiền. Tuy nhiên họ cũng cho biết đó chỉ là những vụ rửa tiền được biết đến còn có bao nhiêu vụ rửa tiền thì họ không tổng kết được. Từ năm 1989, luật trừng trị tội rửa tiền được ban hành tới nay, cảnh sát đã truy tố 99 cá nhân, tịch thu được 39 triệu USD tang vật liên quan đến tội phạm rửa tiền. Thời gian tới, công tác chống rửa tiền sẽ có những thành công mới. Ngoài ra ở các nước khác trên thế giới, công tác chống rửa tiền cũng đạt được thành công nhất định. Mới đây (17/1/2003), Tây Ban Nha đã phá đường dây rửa tiền lớn nhất Châu âu. Bộ Nội vụ nước này cho biết, cảnh sát đã bắt giữ 101 nghi phạm người Tây ban nha, Colombia và Dominica sau cuộc điều tra kéo dài suốt 2 năm qua. Họ còn thu được 542kg cocaine và 9,5 triệu Euro tiền mặt liên quan đến hoạt động buôn bán ma tuý. Bộ trưởng Bộ Nội vụ Tây Ban Nha Angel Aceber khẳng định: "Đây là chiến dịch điều tra tội phạm lớn nhất ở Tây Ban Nha và chắc chắn cũng là một trong những chiến dịch quan trọng nhất từng được tiến hành ở Châu Âu”. Theo ông Acebes, các nhà điều tra đã phát hiện việc các nghi phạm đã tiến hành “rửa” tổng cộng 237,5 triệu EURO thu đợc từ hoạt động buôn bán ma tuý. Thủ đoạn của chúng là mua đô la Mỹ từ cơ quan hối đoái Tây Ban Nha, với sự tiếp tay của các nhân viên ở đây (những kẻ tòng phạm này cũng bị bắt). Chiến dịch triệt phá mạng lới rửa tiền nói trên đợc bắt đầu từ năm 2001. Những nghi phạm đã bị bắt trong hàng loạt các vụ đột kích suốt 20 tháng qua. Sự kiện này diễn ra trong bối cảnh Madrit đang phát động truy quét tội phạm trên diện rộng. 58 Như vậy, “rửa tiền” là hoạt động quốc tế và rất khó kiểm soát ngay cả khi đã có đạo luật chống rửa tiền. Một minh chứng rõ ràng là đạo luật chống rửa tiền của Philipines được ra đời từ năm 2001, nhưng cho tới nay, cũng giống như Nga, Nauru, Ukraine và Grenada, P

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuận văn- Rửa tiền và chống rửa tiền hiện tượng, giải pháp ở các nước trên thế giới và Việt Nam.pdf
Tài liệu liên quan