Luận văn Quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp để phát triển cây công nghiệp ở tỉnh Kon Tum

Tài liệu Luận văn Quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp để phát triển cây công nghiệp ở tỉnh Kon Tum: Luận văn Quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp để phát triển cây công nghiệp ở tỉnh Kon Tum MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong các hoạt động kinh tế ở nông thôn đặc biệt là sản xuất nông nghiệp luôn gắn liền với đất đai. Trong nông nghiệp, đất đai không chỉ là địa điểm để tiến hành sản xuất kinh doanh như trong các ngành kinh tế khác, mà đất đai còn trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, hơn nữa còn là tư liệu sản xuất đặc biệt. Nhận thấy được tầm quan trọng của đất đai, đặc biệt là đất nông nghiệp, trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách phù hợp trong việc khai thác sử dụng đất đai góp phần thúc đẩy nền nông nghiệp nước nhà phát triển. Trong đó, công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng, Chính phủ được triển khai trên phạm vi cả nước và đạt được một số kết quả nhất định. Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 và kế hoạch sử dụng đất đến năm 2005 của cả nước đã đượ...

pdf104 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1166 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp để phát triển cây công nghiệp ở tỉnh Kon Tum, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn Quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp để phát triển cây công nghiệp ở tỉnh Kon Tum MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong các hoạt động kinh tế ở nông thôn đặc biệt là sản xuất nông nghiệp luôn gắn liền với đất đai. Trong nông nghiệp, đất đai không chỉ là địa điểm để tiến hành sản xuất kinh doanh như trong các ngành kinh tế khác, mà đất đai còn trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, hơn nữa còn là tư liệu sản xuất đặc biệt. Nhận thấy được tầm quan trọng của đất đai, đặc biệt là đất nông nghiệp, trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách phù hợp trong việc khai thác sử dụng đất đai góp phần thúc đẩy nền nông nghiệp nước nhà phát triển. Trong đó, công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng, Chính phủ được triển khai trên phạm vi cả nước và đạt được một số kết quả nhất định. Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 và kế hoạch sử dụng đất đến năm 2005 của cả nước đã được Quốc hội thông qua ngày 15/6/2004 tại kỳ họp thứ 5, khoá XI. Quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh đã được triển khai ở tất cả 64 tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương trong cả nước và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Tuy nhiên, quá trình triển khai và thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất vẫn còn bộc lộ một số tồn tại. Đặc biệt sau khi quy hoạch, sử dụng đất được phê duyệt và đưa vào thực hiện, tình hình theo dõi, giám sát việc thực hiện quy hoạch còn nhiều bất cập diễn ra dẫn đến tình trạng "quy hoạch treo" hoặc không điều chỉnh kịp những biến động về sử dụng đất trong quá trình thực thi quy hoạch tại địa phương. Do đó, tôi lựa chọn đề tài " Quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp để phát triển cây công nghiệp ở tỉnh Kon Tum " để nghiên cứu, khảo sát tình hình quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp thực tế trên địa bàn tỉnh Kon Tum nhằm đưa ra những giải pháp điều chỉnh kịp thời, những nội dung sử dụng đất nông nghiệp bất hợp lý, không phù hợp với phương án quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp đã được phê duyệt góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp ở địa phương. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Từ khi đổi mới đến nay, ở nước ta việc nghiên cứu vấn đề đất nông nghiệp đã có một số công trình, bài viết về vấn đề này như: - "Giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông lâm nghiệp ở huyện Bạch Thông tỉnh Bắc Cạn" của Ngô Xuân Hoàng, Luận án tiến sĩ, Đại học Nông nghiệp I Hà Nội, 2003. - "Khai thác nguồn lực đất đai để phát triển nông nghiệp tỉnh Đồng Nai", của Bùi Thị Thuận, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2000. - "Khai thác tiềm năng đất đai nông nghiệp để phát triển kinh tế hàng hóa trên địa bàn tỉnh Phú Thọ" của Nguyễn Tiến Khôi, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1999. - "Sử dụng đất nông nghiệp ở tỉnh Sơn La hiện nay" của Hà Công Nghĩa, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2004. - "Quản lý sử dụng đất nông nghiệp ở Tây Nguyên" của TS. Nguyễn Thế Toàn (chủ nhiệm đề tài), Đề tài khoa học cấp bộ, 2000. - "Thực trạng quản lý nhà nước về đất đai nông nghiệp ở Việt Nam và kiến nghị" Nguyễn Mạnh Tuân, Nông nghiệp và phát triển nông thôn, số 7/2004. - "Quản lý và sử dụng đất ở các nông, lâm trường các tỉnh miền núi phía Bắc" Bùi Quang, Tài nguyên và môi trường, số 12/2004. Đối với Kon Tum, những đề tài đi sâu vào nghiên cứu quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp để phát triển cây công nghiệp chưa có công trình nào. Do đó, tôi mạnh dạn chọn đề tài này hy vọng góp một phần nhỏ trong việc tìm ra những giải pháp để phát huy tiềm năng, thế mạnh của đất đai trong việc phát triển cây công nghiệp ở tỉnh Kon Tum. 3. Mục đích và nhiệm vụ * Mục đích: Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về đất nông nghiệp và quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp; phân tích đánh giá thực trạng sử dụng đất nông nghiệp ở Kon Tum, từ đó đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp để phát triển cây công nghiệp ở tỉnh Kon Tum. * Nhiệm vụ: - Khái quát, hệ thống hoá lý luận về đất nông nghiệp và quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp. - Phân tích, đánh giá thực trạng quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp để phát triển cây công nghiệp của tỉnh Kon Tum trong thời gian qua. - Đề xuất những giải pháp nhằm quy hoạch, sử dụng có hiệu quả đất nông nghiệp để phát triển cây công nghiệp ở tỉnh Kon Tum trong thời gian tới. 4. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp để phát triển cây công nghiệp ở tỉnh Kon Tum từ năm 2000 đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Thực hiện đề tài này, tác giả dựa trên cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin, như phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, trừu tượng hoá khoa học, trong đó đặc biệt coi trọng phương pháp phân tích, tổng hợp thống kê, nghiên cứu và tổng kết thực tiễn. 6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn - Phân tích, đánh giá thực trạng quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp để phát triển cây công nghiệp ở tỉnh Kon Tum từ năm 2000 đến nay. - Đề xuất những giải pháp từng bước hoàn thiện quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp để phát triển cây công nghiệp ở Kon Tum trong thời gian tới. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 6 tiết. Chương 1 ĐẤT NÔNG NGHIỆP VÀ QUY HOẠCH, SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP 1.1. ĐẤT NÔNG NGHIỆP, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẤT NÔNG NGHIỆP 1.1.1. Đất nông nghiệp và đặc điểm của đất nông nghiệp * Khái niệm đất nông nghiệp: Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá của mọi quốc gia, là tư liệu sản xuất chủ yếu và đặc biệt là của sản xuất nông nghiệp, là một trong các yếu tố quan trọng nhất của môi trường sống, là địa bàn phân bố dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, và quốc phòng; có ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội sâu sắc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Như vậy, đất đai được dùng hầu hết vào các ngành sản xuất, các lĩnh vực của đời sống. Theo từng ngành sản xuất, từng lĩnh vực của đời sống, đất đai được phân thành các loại khác nhau và gọi tên theo ngành, lĩnh vực chung được sử dụng. Với ý nghĩa đó, đất nông nghiệp là đất được sử dụng chủ yếu vào sản xuất của các ngành nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản hoặc để sử dụng nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp. Ngoài tên gọi đất nông nghiệp, đất sử dụng vào sản xuất nông nghiệp còn được gọi là ruộng đất. Khi nói đất nông nghiệp người ta nói đất được sử dụng chủ yếu vào sản xuất của ngành nông nghiệp, bởi vì trên thực tế có trường hợp đất đai được sử dụng vào những mục đích khác nhau của các ngành. Trong trường hợp đó, đất đai được sử dụng chủ yếu cho mục đích hoạt động sản xuất nông nghiệp mới được coi là đất nông nghiệp nếu không là các loại đất khác (tuỳ theo việc sử dụng vào mục đích nào là chính). Tuy nhiên, để sử dụng đầy đủ hợp lý ruộng đất, trên thực tế người ta coi đất đai có thể tham gia vào hoạt động sản xuất nông nghiệp mà không cần có sự đầu tư nào lớn cả là đất nông nghiệp cho dù đất đó đã đưa vào sản xuất nông nghiệp hay chưa. Căn cứ vào mục đích sử dụng chủ yếu của đất đai, tại Điều 13 luật đất đai năm 2003 có ghi: * Nhóm đất nông nghiệp bao gồm các loại đất: - Đất trồng cây hàng năm gồm đất trồng lúa, đất trồng cỏ dùng vào chăn nuôi, đất trồng cây hàng năm khác. - Đất trồng cây lâu năm. - Đất rừng sản xuất. - Đất rừng phòng hộ. - Đất rừng đặc dụng. - Đất nuôi trồng thuỷ sản. - Đất làm muối. - Đất nông nghiệp khác theo quy định của Chính phủ. Như vậy, có thể hiểu đất nông nghiệp là đất được sử dụng chủ yếu vào sản xuất của ngành nông nghiệp bao gồm: đất trồng cây hàng năm, đất trồng cây lâu năm, đất rừng sản xuất, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng, đất nuôi trồng thuỷ sản, đất làm muối và đất nông nghiệp khai thác theo quy định của Chính phủ. * Đặc điểm cơ bản của đất nông nghiệp: Ở mỗi quốc gia đất đai đều được sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau, riêng đất nông nghiệp có những đặc điểm cơ bản giống nhau, được biểu hiện cụ thể: Một là, đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất đặc biệt và chủ yếu. Đất nông nghiệp là tài sản quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt không thể thay thế được của ngành nông - lâm nghiệp. Nó là cơ sở tự nhiên là tiền đề trước tiên của mọi quá trình sản xuất. C.Mác đã từng chỉ rõ: "đất là không gian, yếu tố cần thiết của tất thảy mọi quá trình sản xuất và mọi hoạt động của loài người" [24, tr.473]. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định "đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là nguồn nội lực và là nguồn vốn to lớn của đất nước" [8, tr.61]. Trong hoạt động sản xuất nông nghiệp đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu và đặc biệt không thể thay thế được. Vì đất nông nghiệp vừa là tư liệu lao động vừa là đối tượng lao động. Đối với các loại đất chuyên dùng khác thì đất đai chỉ là đối tượng lao động, con người phải sử dụng tư liệu lao động để tác động vào tạo ra sản phẩm. Đất nông nghiệp là đối tượng lao động khi con người sử dụng công cụ sản xuất tác động vào đất làm cho đất thay đổi hình dạng, như cày, bừa, lên luống... quá trình đó làm tăng chất lượng của ruộng đất, tạo điều kiện thuận lợi để tăng năng suất và chất lượng cây trồng. Ngược lại, khi con người sử dụng công cụ sản xuất tác động lên đất, thông qua các thuộc tính lý học, hoá học, sinh vật học và các thuộc tính khác của đất để tác dụng lên cây trồng. Trong quá trình này đất nông nghiệp đóng vai trò là tư liệu lao động. Sự kết hợp của đối tượng lao động và tư liệu lao động đã làm cho đất nông nghiệp trở thành tư liệu sản xuất trong sản xuất nông nghiệp. Hai là, đất nông nghiệp có vị trí cố định và không thể di chuyển được. Đất đai nói chung, đất nông nghiệp nói riêng là tài nguyên thiên nhiên không sinh sản được. Bởi vì, không giống như vốn, chúng không thể sản sinh thêm thông qua quá trình sản xuất. Đất nông nghiệp có vị trí cố định không di chuyển được và có khả năng tái tạo được. Các tư liệu sản xuất khác có thể di chuyển đến những nơi thiếu và cần thiết, nhưng hầu hết đều không có khả năng tái tạo lại được. Ngược lại, đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất chủ yếu, nhưng lại có vị trí cố định không thể di chuyển từ vị trí này sang vị trí khác, nó gắn liền với điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi vùng. Đặc tính này đồng thời nó quy định tính giới hạn về quy mô theo không gian gắn liền với môi trường mà đất đai chịu sự chi phối, gắn liền với nguồn gốc hình thành của đất đai, địa hình, khí hậu, kết cấu đất, độ màu mỡ, vị trí của đất... vị trí của đất nông nghiệp có ý nghĩa lớn về mặt kinh tế trong quá trình khai thác sử dụng đất. Thông thường, đất nông nghiệp ở gần các khu đô thị, thuận tiện về giao thông thường được khai thác sử dụng triệt để hơn đất đai ở các vùng xa xôi, hẻo lánh, và do đó vị trí đất mang lại cho đất nông nghiệp đặc tính xã hội là có giá trị sử dụng lớn hơn. Mặt khác, cùng với xu thế đô thị hoá ngày càng nhanh, chủ thể sử dụng đất có xu hướng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang các mục đích khác để thu được hiệu quả kinh tế cao hơn. Quá trình này làm cho diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp. Ở Việt Nam xu hướng này đã và đang diễn ra ngày một nhanh chóng, trong 10 năm từ năm 1990 - 2000 đất trồng lúa nước ở hai vùng đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ bị giảm không có diện tích bù đã lên tới 62.612ha thường là ruộng lúa tốt [4, tr.15]. Đặc điểm này đòi hỏi để sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả, cần kết hợp sức lao động với các tư liệu sản xuất khác một cách hợp lý. Muốn thế, một mặt phải quy hoạch đồng bộ các khu vực canh tác đất nông nghiệp, bố trí các trung tâm dịch vụ và phân bố các điểm dân cư hợp lý; mặt khác, phải cải thiện điều kiện tự nhiên, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và hệ thống kết cấu hạ tầng nhằm tạo điều kiện sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả, nâng cao đời sống nông dân và từng bước thay đổi bộ mặt nông thôn. Ba là, đất nông nghiệp bị giới hạn về mặt diện tích, nhưng sức sản xuất của nó lại là không giới hạn. Do đặc điểm tự nhiên của đất đai quy định, cho nên diện tích đất nông nghiệp đưa vào canh tác luôn bị giới hạn bởi không gian nhất định, bao gồm: giới hạn tuyệt đối và giới hạn tương đối. Xét trên góc độ giới hạn tuyệt đối thì diện tích đất đai của toàn bộ hành tinh, của từng quốc gia, của từng địa phương là những con số hữu hạn, có thể lượng hoá bằng những con số cụ thể. Ví dụ, tổng diện tích đất tự nhiên của tỉnh Kon Tum là 961.450ha của cả nước Việt Nam là 32.924,1 nghìn ha [4, tr.5], tổng diện tích đất có tiềm năng sản xuất nông nghiệp của thế giới là khoảng 3.200 triệu ha, trong đó có 46% đang được canh tác [15, tr.17]. Theo tính toán của Liên hợp quốc, có khoản 23% diện tích trên toàn thế giới là sa mạc hoặc đất cằn, 20% là nửa khô cằn, khoảng 80 triệu người sống ở những vùng đất hầu như không sử dụng được vì xói mòn, bãi cát hoặc ngập mặn. Không phải tất cả diện tích tự nhiên đều đưa vào canh tác được, tùy thuộc vào điều kiện đất đai, địa hình và trình độ phát triển kinh tế của từng nước mà diện tích đất nông nghiệp đưa vào canh tác chỉ chiếm tỷ lệ phần trăm thích hợp. Đó là giới hạn tương đối, giới hạn này nhỏ hơn nhiều so với tổng quỹ đất tự nhiên bởi tác động của yếu tố đất đai, khí hậu, thời tiết đa dạng, phức tạp dẫn đến việc sử dụng các nguồn lực vào sản xuất nông nghiệp mang tính khu vực và tính thời vụ rõ rệt. Ở nước ta tỷ lệ đất nông nghiệp so với tổng quỹ đất tự nhiên năm 2000 chiếm 28,38%, có khả năng đưa lên tối đa là 35% với tổng diện tích tự nhiên 329.241km2, Việt Nam là nước có quy mô trung bình, xếp thứ 66 trong tổng số trên 200 nước, nhưng là nước đông dân thứ 13 thế giới nên bình quân đất đai theo đầu người rất thấp, chỉ bằng 1/6 mức bình quân của thế giới (0,45ha), đứng hàng thứ 8 Đông Nam Á và thứ 170 trong số trên 200 nước trên thế giới [4, tr.5]. Trong những năm gần đây, quỹ đất nông nghiệp ở nước ta đã có những biến động đáng kể theo hướng tăng lên từ mức xấp xỉ 7 triệu ha năm 1990 lên 9.345.200 ha vào năm 2000. Nhưng đó chủ yếu là sự gia tăng mạnh về diện tích đất trồng cây lâu năm ở vùng Đông Nam Bộ và Tây Nguyên lên mức 1.467.951, chiếm 67,3% diện tích trồng cây lâu năm của cả nước, còn diện tích trồng lúa lại giảm xuống. Việc mở rộng diện tích đất nông nghiệp luôn chịu ảnh hưởng của giới hạn về diện tích đất tự nhiên, nhất là những vùng hay khu vực có quỹ đất tự nhiên gần như đã được đưa vào khai thác và sử dụng hết thì việc mở rộng diện tích tự nhiên gặp rất nhiều trở ngại. Mặt khác, không phải toàn bộ diện tích đất tự nhiên đều có thể dễ dàng chuyển hoá thành đất nông nghiệp. Trên thực tế, việc chuyển hoá đất tự nhiên thành đất nông nghiệp còn phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố như địa hình, kết cấu của đất, điều kiện canh tác, khả năng tưới tiêu... Tuy nhiên, dù bị giới hạn về mặt không gian, nhưng sức sản xuất của đất nông nghiệp lại không có giới hạn, nghĩa là trên mỗi đơn vị diện tích đất nông nghiệp, nếu không ngừng tăng cường đầu tư vốn, sức lao động, đưa khoa học và công nghệ mới vào sản xuất thì số lượng sản phẩm đem lại trên một đơn vị sản phẩm là ngày càng nhiều hơn và chất lượng hơn. Đây là con đường chủ yếu để nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn nhằm đáp ứng yêu cầu tăng lên về nông sản phẩm cung cấp cho xã hội. Adam Smith đã viết: "đất, trong hầu hết các tình huống, sản sinh ra một lượng lương thực nhiều hơn so với số lượng đủ để duy trì sự sống của người lao động" [1, tr.240]. Như vậy, xét về tổng thể, quỹ đất tự nhiên nói chung và quỹ đất nông nghiệp nói riêng luôn bị giới hạn về mặt diện tích, trong khi đó nhu cầu về nông sản phẩm của con người ngày càng tăng lên. Do đó, phải sử dụng đất nông nghiệp hết sức tiết kiệm và xem xét kỹ lưỡng hợp lý khi bố trí sử dụng các loại đất. Mặt khác, phải chú ý ứng dụng tiến bộ kỹ thuật để tăng khả năng phục hồi và tái tạo của đất đai. Bốn là, đất nông nghiệp vừa là sản phẩm tự nhiên, vừa là sản phẩm của lao động. Đất nông nghiệp vốn là sản phẩm của tự nhiên, nó xuất hiện và tồn tại ngoài ý muốn của con người. Đất nông nghiệp được hình thành do quá trình phong hoá đá và sự tác động của vi sinh vật, nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng... và do con người tiến hành khai phá, đưa vào sử dụng nhằm phục vụ lợi ích của con người. Trong quá trình lịch sử lâu dài đó, lao động của con người qua nhiều thế hệ đã được kết tinh vào đó. Do đó, ngày nay đất nông nghiệp vừa là sản phẩm của tự nhiên, vừa là sản phẩm của lao động. C.Mác viết: "Tuy có những thuộc tính như nhau, nhưng một đám đất được canh tác có giá trị hơn một đám đất bị bỏ hoang" [24, tr.246]. Đặc điểm này đặt ra trong quá trình sử dụng con người cần phải không ngừng cải tạo và bồi dưỡng, đồng thời phải khai thác đất nông nghiệp cho hợp lý làm cho đất ngày càng màu mỡ hơn. Thực tế cho thấy, đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu không bị đào thải khỏi quá trình sản xuất, nếu sử dụng hợp lý thì đất đai ngày càng tốt hơn. Việc sử hợp lý ruộng đất hay không là tuỳ thuộc vào quá trình sử dụng có kết hợp chặt chẽ giữa khai thác, sử dụng ruộng đất với việc bảo vệ, bồi dưỡng và cải tạo đất đai hay không. Vì thế trong quá trình sử dụng đất nông nghiệp phải tìm mọi biện pháp để bảo vệ đất, chống xói mòn, rửa trôi. Phải thường xuyên coi trọng công tác bồi dưỡng và cải tạo đất làm tăng độ phì nhiêu của đất đai. Ở nước ta, đất đai thuộc sở hữu toàn dân. Nhà nước, với tư cách là đại diện cho quyền sở hữu đó, thông qua hệ thống chính sách, pháp luật để thực hiện việc giao quyền sử dụng đất, cho thuê đất đối với các tổ chức và các hộ gia đình và cá nhân có nhu cầu. Qua đó thực hiện việc quy hoạch sử dụng đất đai một cách hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả khuyến khích người lao động định hướng, lựa chọn ngành nghề kinh doanh phù hợp. Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: "quyền sử dụng đất là hàng hoá đặc biệt. Chính sách đất đai phải chú ý đầy đủ tới các mặt kinh tế, chính trị, xã hội; bảo đảm hài hoà lợi ích của nhà nước, người đầu tư và người sử dụng đất, trong đó cần chú trọng đúng mức lợi ích của nhà nước, của xã hội..." [9, tr.61]. Như vậy, việc Đảng và Nhà nước ta thừa nhận quyền sử dụng đất là một hàng hoá đặc biệt đã tạo cho lĩnh vực nông nghiệp có bước phát triển mới. Nó đòi hỏi người sản xuất nông nghiệp phải sử dụng đất hợp lý, tiết kiệm để đem lại hiệu quả cao nhất. Năm là, đất nông nghiệp có chất lượng không đồng đều Đất nông nghiệp không đồng nhất về chất lượng do sự khác nhau giữa các yếu tố dinh dưỡng vốn có của nó. Đó là kết quả một mặt là của quá trình hình thành đất, mặt khác quan trọng hơn là quá trình canh tác của con người. Độ màu mỡ của đất nông nghiệp nói lên khả năng cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng. Con người không những chỉ sử dụng độ màu mỡ tự nhiên của đất, mà còn có khả năng làm tăng thêm độ màu mỡ của đất. Ngược lại, nếu sử dụng không hợp lý thì làm giảm độ màu mỡ của tự nhiên. Thực tế này đã diễn ra ở một số vùng miền núi và trung du nước ta. Ở những vùng này, trước đây con người chỉ lợi dụng độ màu mỡ tự nhiên vốn có của đất đai để canh tác, không chú ý bồi dưỡng, cải tạo nên đất bị bạc màu, một số diện tích trước đây có độ màu mỡ cao nay đã kiệt quệ. Vì vậy, trong quá trình sử dụng, khai thác đất nông nghiệp cần thiết phải thường xuyên cải tạo và bồi dưỡng cho đất, không ngừng nâng cao độ đồng đều của đất nông nghiệp ở từng cánh đồng, từng khu vực để đạt năng suất cây trồng cao. Nó đòi hỏi người sản xuất phải xác định tỷ lệ về các nguồn lực tương xứng một cách hợp lý như vốn, nhân lực, loại cây trồng vật nuôi... có như vậy thì mới có thể đem lại được hiệu quả kinh tế cao cho mình. C.Mác viết: "Ưu thế của đất là những khoản đầu tư liên tiếp có thể đem lại lợi nhuận mà không làm thiệt hại đến những khoản đầu tư trước, ưu thế đó của đất đồng thời cũng bao hàm cả khả năng có những sự chênh lệch trong sản phẩm của những khoản đầu tư liên tiếp ấy" [24, tr.1845]. Điều này có nghĩa là việc nâng cao chất lượng, độ phì nhiêu, độ đồng đều của đất là điều cần thiết để vừa không ngừng nâng cao năng suất và chất lượng nông sản, lại vừa bảo vệ đất, giữ cho đất được sử dụng lâu dài và bền vững. Mặt khác, không phải bất kỳ trường hợp nào cũng cần đến việc nâng cao độ đồng đều, trong một số trường hợp xuất phát từ đặc điểm chất lượng đất phân bố không đồng đều, mỗi loại đất ở những vị trí nhất định lại chịu sự chi phối của các đặc tính tự nhiên của vị trí, dẫn đến nó chỉ cho phép trồng trọt hay chăn nuôi những loại cây trồng và vật nuôi thích hợp. Từ đó, ở những nơi có chất lượng đất đặc biệt cần phải chuyên canh những loại cây trồng và vật nuôi thích hợp nhất, để đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất, nhằm khai thác tối đa lợi thế so sánh có được. 1.1.2. Vai trò của đất nông nghiệp Đất nông nghiệp có vai trò hết sức quan trọng, quyết định đến toàn bộ hoạt động sản xuất của ngành nông nghiệp. Vai trò này thể hiện ở những nội dung sau đây: * Đất nông nghiệp là một điều kiện tối cần thiết cho hoạt động kinh tế nông thôn Từ xa xưa đến nay, hoạt động kinh tế của nông dân chủ yếu là sản xuất nông nghiệp. Để sản xuất, họ phải sử dụng công cụ lao động tác động vào đất đai. Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt quan trọng không thể thiếu được đối với người nông dân. Nếu không có đất để sản xuất thì không thể có bất cứ một nền nông nghiệp nào. Điều này đúng với mọi thời đại. Đất đai là tặng vật của tự nhiên cho con người. Nhờ có đất mà nông dân đã sản xuất ra lương thực, thực phẩm đáp ứng nhu cầu của họ, gia đình và của cả xã hội. Trong điều kiện kinh tế nông nghiệp, đất đai đã trở thành tư liệu sản xuất quan trọng nhất và là điều kiện sống còn đối với hoạt động sản xuất nông nghiệp của người nông dân. Người nông dân không thể tiến hành sản xuất nông nghiệp nếu như không có đất. Đất nông nghiệp là điều kiện tối cần thiết để người nông dân đem kết hợp nó với sức lao động sẵn có của mình để tạo ra sản phẩm nông sản Điều này có nghĩa là họ không thể sống được nếu không được hưởng lợi do việc sử dụng đất nông nghiệp. Vì vậy, đất nông nghiệp là một tư liệu sản xuất không thể thiếu đối với bất kỳ người nông dân nào. * Đất nông nghiệp là một nguồn lực đầu vào đặc biệt quan trọng của sản xuất nông nghiệp Nguồn lực là tất cả các nguồn tài nguyên đang được sử dụng hoặc có thể được sử dụng vào sản xuất của cải vật chất hoặc dịch vụ. Về mặt kinh tế, các yếu tố nguồn lực của sản xuất là phạm trù kinh tế dùng để chỉ những nguồn tài nguyên thiên nhiên, kinh tế và xã hội đã, đang và sẽ được sử dụng vào hoạt động kinh tế để tạo ra của cải vật chất hay dịch vụ đáp ứng yêu cầu nhất định của xã hội. Khi nói đến vai trò của đất đai, C.Mác viết: "đất là không gian, yếu tố cần thiết của tất thảy mọi sự sản xuất và mọi hoạt động của loài người" [24, tr.474]. Cũng như đối với sản xuất nói chung, sản xuất nông nghiệp tất yếu cần đến sự tham gia của đất đai. Thật vậy, để có được nông sản, cần phải kết hợp hai yếu tố sức lao động với tư liệu sản xuất, trong đó quan trọng nhất và cũng là nhân tố không thể thiếu được của tư liệu sản xuất là đất nông nghiệp. Đất nông nghiệp không chỉ thuần tuý là tư liệu sản xuất, mà là một loại tư liệu sản xuất đặc biệt. Nó là một trong những nhân tố quyết định đến giá trị của nông phẩm hàng hoá sản xuất ra. Hơn nữa, sản xuất nông nghiệp có tính đặc thù cao so với các ngành sản xuất khác. Đó là ngành sản xuất dựa trên mối quan hệ của các cơ thể sinh vật sống với môi trường, tuân theo các quy luật sinh học và chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi điều kiện ngoại cảnh. Đặc biệt, đất nông nghiệp vừa là nơi cư ngụ của các sinh vật sống, vừa là nơi cung cấp nước, chất dinh dưỡng, vừa là môi trường cho mọi hoạt động sống, sinh trưởng, phát triển của các sinh vật sinh sống diễn ra. Nếu không có đất hoặc thiếu đất thì mọi hoạt động sinh học đó không thể diễn ra một cách bình thường. Như vậy, đất nông nghiệp là một trong những nguồn lực đầu vào quan trọng không thể thiếu được của quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp. Tất nhiên, trong hoạt động kinh tế, con người có thể làm tăng độ phì của đất, có thể tìm kiếm, lựa chọn cây trồng, vật nuôi thích hợp để làm tăng và phát huy vai trò của đất nông nghiệp trong sản xuất. Nếu không có phương thức canh tác hợp lý thì các tiềm năng của đất nông nghiệp không trở thành hiện thực tức là không thể phát huy được vai trò của nó đối với sản xuất của con người. * Đất nông nghiệp là một nhân tố tự nhiên đặc biệt quan trọng trong việc xây dựng cơ cấu kinh tế Việc phát hiện ra đặc tính của từng loại đất có ý nghĩa quan trọng trong phân bổ đất đai giữa các ngành nông nghiệp, qua đó xây dựng cơ cấu nông nghiệp hợp lý. Trong sản xuất nông nghiệp có câu thành ngữ "đất nào cây ấy". Tức là mỗi loại đất đều có một thành phần cơ giới nhất định, được tạo nên từ các loại đá mẹ nhất định. Từ đó, các loại đất khác nhau có độ phì khác nhau, thành phần các nguyên tố đa lượng, vi lượng chứa đựng trong chúng là khác nhau, đặc tính thấm hút nước, độ tơi xốp cũng khác nhau. Cho nên, từng loại đất chỉ phù hợp với từng loại cây trồng, vật nuôi nhất định. Chỉ trong điều kiện được canh tác trên loại đất phù hợp với đặc tính sinh lý, sinh hoá của cây trồng, vật nuôi thì chúng mới có thể cho thu hoạch sản phẩm năng suất cao, chất lượng tốt. Đặc biệt, là đối với cây trồng sử dụng trực tiếp các chất dinh dưỡng có sẵn trong đất để sinh trưởng và phát triển. Do vậy, việc phát hiện ra đặc tính của các loại đất khác nhau có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc lựa chọn và phân bổ đất đai trong quá trình canh tác. Từ đó, mới có thể xây dựng một cơ cấu kinh tế nông nghiệp hợp lý, tận dụng có hiệu quả các tiềm năng sẵn có của đất đai nhằm phát triển một nền nông nghiệp hàng hoá có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. 1.1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến sử dụng đất nông nghiệp - Về điều kiện tự nhiên: Khi sử dụng đất nông nghiệp, ngoài bề mặt không gian (diện tích trồng trọt), cần lưu ý đến việc thích ứng với điều kiện tự nhiên và quy luật sinh thái tự nhiên của đất cũng như các yếu tố bao quanh mặt đất (nhiệt độ, ánh sáng, lượng mưa, không khí và các khoáng sản dưới lòng đất). Trong đó, điều kiện tự nhiên, khí hậu là yếu tố hạn chế hàng đầu của việc sử dụng đất đai, sau đó là điều kiện đất đai (chủ yếu là địa hình, thổ nhưỡng) và các yếu tố khác. * Yếu tố khí hậu: Yếu tố khí hậu ảnh hưởng rất lớn, trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp và điều kiện sinh hoạt của con người. Sự khác nhau về nhiệt độ, độ ẩm trong ngày, giữa các mùa mưa trong năm hay các khu vực khác nhau... trực tiếp ảnh hưởng đến sự phân bố, sinh trưởng và phát triển của cây trồng, rừng tự nhiên... Cường độ ánh sáng mạnh hay yếu, thời gian chiếu sáng dài hay ngắn cũng có tác dụng nhất định đối với sinh trưởng, phát triển và quang hợp của cây trồng. Chế độ nước, lượng mưa nhiều hay ít, bốc hơi mạnh hay yếu có ý nghĩa quan trọng trong việc giữ nhiệt độ và độ ẩm của đất đai, cũng như khả năng đảm bảo cung cấp nước cho sinh trưởng của cây trồng, thảm thực vật, gia súc và thuỷ sản... * Điều kiện đất đai: Sự khác nhau giữa địa hình, địa mạo, độ cao so với mặt nước biển, độ dốc và sự xói mòn mặt đất... thường dẫn tới sự khác nhau về đất đai và khí hậu, từ đó làm ảnh hưởng tới sản xuất và phân bố các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, hình thành sự phân dị địa giới theo chiều thẳng đứng đối với nông nghiệp. Địa hình và độ dốc ảnh hưởng lớn đến phương thức sử dụng đất nông nghiệp. Điều kiện thổ nhưỡng quyết định rất lớn đến hiệu quả sản xuất nông nghiệp. Độ phì nhiêu của đất là tiêu chí quan trọng về sản lượng cao hay thấp. Độ dầy của tầng đất và tính chất đất có ảnh hưởng lớn đối với sinh trưởng cây trồng. Vị trí địa lý của vùng với sự khác biệt về điều kiện ánh sáng, nhiệt độ, nguồn nước và các điều kiện tự nhiên khác sẽ quyết định đến khả năng, công dụng và hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp. Vì vậy, trong thực tiễn sử dụng đất nông nghiệp cần tuân thủ quy luật tự nhiên, tận dụng các lợi thế nhằm đạt hiệu quả cao nhất về kinh tế. - Về điều kiện kinh tế - xã hội: Điều kiện kinh tế - xã hội thường có ý nghĩa quyết định chủ đạo đối với việc sử dụng đất nông nghiệp. Phương hướng sử dụng đất nông nghiệp được quyết định bởi yêu cầu của xã hội và mục tiêu kinh tế trong từng thời kỳ nhất định. Điều kiện tự nhiên của đất nông nghiệp cho phép xác định khả năng thích ứng về phương thức sử dụng đất nông nghiệp. Còn sử dụng đất như thế nào được quyết định bởi sự năng động của con người và các điều kiện kinh tế - xã hội, kỹ thuật hiện có; quyết định bởi tính hợp lý, tính khả thi về kinh tế kỹ thuật và bởi nhu cầu của thị trường. Trong phạm vi một vùng, điều kiện vật chất tự nhiên của đất nông nghiệp thường có sự khác biệt không lớn, về cơ bản là giống nhau. Nhưng với điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau, dẫn đến tình trạng có vùng đất nông nghiệp được khai thác sử dụng triệt để từ lâu đời và đã đem lại những hiệu quả kinh tế xã hội rất cao; ngược lại, có nơi bị bỏ hoang hoá hoặc khai thác với hiệu quả rất thấp... Có thể nhận thấy, điều kiện tự nhiên của đất nông nghiệp chỉ là một tồn tại khách quan, khai thác và sử dụng đất nông nghiệp yếu tố quyết định vẫn là con người. Dù điều kiện tự nhiên có nhiều lợi thế, nhưng các điều kiện kinh tế - xã hội, kỹ thuật không tương ứng, thì ưu thế tài nguyên cũng khó trở thành sức sản xuất hiện thực, cũng như chuyển hoá thành ưu thế kinh tế. Ngược lại, điều kiện kinh tế, kỹ thuật được ứng dụng vào khai thác và sử dụng đất, sẽ phát huy mạnh mẽ tiềm lực sản xuất của đất nông nghiệp, biến điều kiện tự nhiên từ bất lợi thành có lợi cho phát triển kinh tế - xã hội. - Về không gian: Trong thực tế, mọi ngành sản xuất vật chất và phi vật chất, đều cần đến đất đai như điều kiện không gian để hoạt động. Không gian, bao gồm cả vị trí và mặt bằng. Đặc tính cung cấp không gian của đất đai là yếu tố vĩnh cửu của tự nhiên ban phát cho xã hội loài người. Không gian mà đất nông nghiệp cung cấp có đặc tính vĩnh cửu và cố định, vị trí khi sử dụng và số lượng sử dụng không thể vượt quá quy mô hiện có. Do vị trí không gian của đất nông nghiệp không thể bị mất đi và cũng không tăng thêm trong quá trình sử dụng, nên phần nào đã giới hạn sức tải nhân khẩu và số lượng lao động. Có nghĩa tác dụng hạn chế của không gian đất nông nghiệp luôn xảy ra trong khi dân số và kinh tế xã hội luôn phát triển. Sự bất biến của tổng diện tích đất nông nghiệp không chỉ hạn chế khả năng mở rộng không gian sử dụng đất, mà còn chi phối giới hạn thay đổi của cơ cấu đất đai. Điều này quyết định việc điều chỉnh cơ cấu đất đai theo loại, số lượng được sử dụng căn cứ sức sản xuất của đất và yêu cầu sản xuất của xã hội nhằm đảm bảo lực tải của đất nông nghiệp. Việc khẳng định chuyển được của đất nông nghiệp dẫn đến việc phân bố về số lượng và chất lượng đất đai mang tính khu vực rất chặt chẽ. Cùng với mật độ dân số của các khu vực khác nhau, tỷ lệ cơ cấu và lượng đầu tư sẽ có sự khác biệt rõ rệt. Tài nguyên đất nông nghiệp có hạn, lại giới hạn về không gian, đây là nhân tố hạn chế lớn nhất đối với việc sử dụng đất nông nghiệp ở nước ta. Vì vậy, cần phải thực hiện nghiêm ngặt nguyên tắc sử dụng đất nông nghiệp hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả kết hợp bảo vệ tài nguyên đất và môi trường. 1.2. QUY HOẠCH, SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP 1.2.1. Khái niệm và đặc điểm quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp 1.2.1.1. Khái niệm về quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp "Đất đai" là một phần lãnh thổ nhất định (vùng đất, khoanh đất, vạt đất, mảnh đất, miếng đất...) có vị trí, hình thể, diện tích với những tính chất tự nhiên hoặc mới tạo thành (đặc tính thổ nhưỡng, điều kiện địa hình, địa chất, thuỷ văn, chế độ nước, nhiệt độ, ánh sáng, thảm thực vật, các tính chất lý hoá tính...), tạo ra những điều kiện nhất định cho việc sử dụng theo các mục đích khác nhau. Như vậy, để sử dụng đất nông nghiệp trước hết cần phải làm quy hoạch, đây là quá trình nghiên cứu, lao động sáng tạo nhằm xác định ý nghĩa mục đích từng phần lãnh thổ và đề xuất một trật tự sử dụng đất nông nghiệp nhất định. Về mặt bản chất, đất nông nghiệp là đối tượng của các mối quan hệ sản xuất trong lĩnh vực sử dụng đất (gọi là các mối quan hệ đất đai) và việc tổ chức sử dụng đất nông nghiệp như "tư liệu sản xuất đặc biệt" gắn chặt với phát triển kinh tế - xã hội. Như vậy, quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp sẽ là một hiện tượng kinh tế - xã hội thể hiện đồng thời 3 tính chất: kinh tế (thể hiện bằng hiệu quả sử dụng đất), kỹ thuật (bao gồm các tác nghiệp chuyên môn kỹ thuật: điều tra, khảo sát, xây dựng bản đồ, khoanh định xử lý số liệu...) và pháp chế (xác nhận tính pháp lý về mục đích và quyền sử dụng đất nhằm đảm bảo sử dụng và quản lý đất nông nghiệp theo pháp luật). Từ đó, có thể đưa ra định nghĩa: "quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp là hệ thống các biện pháp kinh tế, kỹ thuật, pháp chế của nhà nước về tổ chức, sử dụng và quản lý đất đai đầy đủ, hợp lý, khoa học và có hiệu quả cao nhất thông qua việc phân bổ quỹ đất nông nghiệp (khoanh định cho các mục đích) và tổ chức sử dụng đất như tư liệu sản xuất (các giải pháp sử dụng đất nông nghiệp cụ thể), nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất của xã hội, tạo điều kiện bảo vệ đất đai và môi trường". Như vậy, về thực chất quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp là quá trình hình thành các quyết định nhằm tạo điều kiện đưa đất đai vào sử dụng bền vững để mang lại lợi ích kinh tế cao nhất, thực hiện đồng thời hai chức năng: điều chỉnh các mối quan hệ đất đai và tổ chức sử dụng đất nông nghiệp như tư liệu sản xuất đặc biệt với mục đích nâng cao hiệu quả sản xuất của xã hội kết hợp với bảo vệ đất đai và môi trường. Căn cứ vào đặc điểm điều kiện tự nhiên, phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của mỗi vùng lãnh thổ. Quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp được tiến hành nhằm định hướng cho các cấp, các ngành trên địa bàn lập quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp chi tiết của mình. Xác lập sự ổn định về mặt pháp lý cho công tác quản lý nhà nước về đất đai; làm cơ sở để tiến hành giao cấp đất và đầu tư để phát triển sản xuất, đảm bảo an ninh lương thực phục vụ các nhu cầu dân sinh, văn hoá - xã hội. Mặt khác, quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp còn là biện pháp hữu hiệu của nhà nước nhằm tổ chức lại việc sử dụng đất nông nghiệp theo đúng mục đích, hạn chế sự chồng chéo gây lãng phí đất đai, tránh tình trạng chuyển mục đích tuỳ tiện, làm giảm sút nghiêm trọng quỹ đất nông nghiệp, lâm nghiệp (đặc biệt là diện tích trồng lúa và đất lâm nghiệp có rừng); ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực, tranh chấp, lấn chiếm huỷ hoại đất, phá vỡ cân bằng sinh thái, gây ô nhiễm môi trường dẫn đến những tổn thất hoặc kìm hãm sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội và các hậu quả khó lường về những tình hình bất ổn định chính trị, an ninh quốc phòng ở từng địa phương, đặc biệt là trong giai đoạn chuyển sang nền kinh tế thị trường. 1.2.1.2. Đặc điểm của quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp Quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp thuộc loại quy hoạch có tính lịch sử - xã hội, tính khống chế vĩ mô, tính chỉ đạo, tính tổng hợp trung hạn và dài hạn, là bộ phận hợp thành quan trọng của hệ thống kế hoạch phát triển xã hội và kinh tế quốc dân. Các đặc điểm của quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp được thể hiện cụ thể như sau: - Tính lịch sử - xã hội : Lịch sử phát triển của xã hội chính là lịch sử phát triển của quy hoạch, sử dụng đất đai. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều có một phương thức sản xuất của xã hội thể hiện theo hai mặt: lực lượng sản xuất (mối quan hệ giữa người với sức hoặc vật tự nhiên trong quá trình sản xuất) và quan hệ sản xuất (quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất). Trong quy hoạch sử dụng đất luôn nảy sinh quan hệ giữa người với đất đai - là sức tự nhiên (như điều tra, đo đạc, khoanh định, thiết kế...) cũng như quan hệ giữa người với người (nhận bằng văn bản về sở hữu và quyền sử dụng đất giữa những người chủ đất). Quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp thể hiện đồng thời là yếu tố thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, vừa là yếu tố thúc đẩy các mối quan hệ sản xuất, vì vậy nó luôn là một bộ phận của phương thức sản xuất của xã hội. Tuy nhiên, trong xã hội có phân chia giai cấp, quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp mang tính tự phát, hướng tới mục tiêu vì lợi nhuận tối đa và nặng về mặt pháp lý (là phương tiện mở rộng, củng cố, bảo vệ quyền tư hữu đất đai: phân chia, tập trung đất đai để mua bán, phát canh thu tô...). Ở nước ta quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp phục vụ nhu cầu của người sử dụng đất và quyền lợi của toàn xã hội. Góp phần tích cực thay đổi quan hệ sản xuất xã hội. Đặc biệt, trong nền kinh tế thị trường, quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp góp phần giải quyết các mâu thuẫn nội tại của từng lợi ích kinh tế, xã hội và môi trường nảy sinh trong quá trình sử dụng đất, cũng như mâu thuẫn giữa các lợi ích trên với nhau. - Tính tổng hợp : Tính tổng hợp của quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp biểu hiện chủ yếu ở hai mặt; đối tượng của quy hoạch là khai thác, sử dụng, cải tạo, bảo vệ... toàn bộ tài nguyên đất nông nghiệp cho nhu cầu của nền kinh tế quốc dân. Quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp đề cập đến nhiều lĩnh vực về khoa học, kinh tế và xã hội như: khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, dân số, sản xuất nông nghiệp, môi trường sinh thái... Với đặc điểm này, quy hoạch lãnh trách nhiệm tổng hợp toàn bộ nhu cầu sử dụng đất; điều hoà các mâu thuẫn về đất đai, xác định và điều phối phương hướng, phương thức phân bố sử dụng đất phù hợp với mục tiêu kinh tế - xã hội, bảo đảm cho nền kinh tế quốc dân luôn phát triển bền vững, đạt tốc độ cao và ổn định. - Tính dài hạn : Căn cứ vào các dự báo xu thế biến động dài hạn của những yếu tố kinh tế xã hội quan trọng (sự thay đổi về nhân khẩu, tiến bộ kỹ thuật; đô thị hoá, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp...), từ đó xác định quy hoạch trung và dài hạn về đất đai, đề ra các phương hướng, chính sách và biện pháp có tính chiến lược, tạo căn cứ khoa học cho việc xây dựng kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp hàng năm và dài hạn. Quy hoạch dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội. Cơ cấu và phương thức sử dụng đất, được điều chỉnh từng bước trong thời gian dài (cùng với quá trình phát triển dài hạn kinh tế - xã hội) cho đến khi đạt được mục tiêu dự kiến. Thời hạn (xác định phương hướng, chính sách và biện pháp sử dụng đất nông nghiệp để phát triển kinh tế và hoạt động xã hội) của quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp thường từ 5 năm đến 10 năm hoặc lâu hơn. - Tính chiến lược và chỉ đạo vĩ mô : Với đặc tính trung và dài hạn, quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp chỉ dự kiến trước được các xu thế thay đổi phương hướng, mục tiêu, cơ cấu và phân bổ sử dụng đất (mang tính đại thể, không dự kiến được các hình thức và nội dung cụ thể, chi tiết của sự thay đổi). Vì vậy, quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp là quy hoạch mang tính chiến lược, các chỉ tiêu của quy hoạch mang tính vĩ mô tính phương hướng và khái lược về sử dụng đất nông nghiệp như: + Phương hướng, mục tiêu và trọng điểm chiến lược của việc sử dụng đất nông nghiệp trong vùng. + Cân đối tổng quát nhu cầu sử dụng đất nông nghiệp. + Điều chỉnh cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp và phân bố đất nông nghiệp trong vùng. + Phân định ranh giới và các hình thức quản lý việc sử dụng đất nông nghiệp trong vùng. + Đề xuất các biện pháp, các chính sách lớn để đạt được mục tiêu của phương hướng sử dụng đất nông nghiệp. Do khoảng thời gian dự báo tương đối dài, chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố kinh tế - xã hội khó xác định, nên chỉ tiêu quy hoạch càng khái lược hoá, quy hoạch sẽ càng ổn định. - Tính chính sách: Quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp thể hiện rất mạnh đặc tính chính trị và chính sách xã hội. Khi xây dựng phương án phải quán triệt các chính sách và quy định có liên quan đến đất đai của Đảng và Nhà nước, đảm bảo thể hiện cụ thể trên mặt bằng đất đai các mục tiêu phát triển nền kinh tế quốc dân, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, tuân thủ các quy định, các chỉ tiêu khống chế về dân số, đất đai và môi trường sinh thái. - Tính khả biến : Dưới sự tác động của nhiều nhân tố khó dự đoán trước, chỉ là một trong những giải pháp biến đổi hiện trạng sử dụng đất sang trạng thái mới thích hợp hơn cho việc phát triển kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Khi xã hội phát triển, khoa học kỹ thuật ngày càng tiến bộ, chính sách và tình hình kinh tế thay đổi, các dự kiến của quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp không còn phù hợp. Việc chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện quy hoạch và điều chỉnh biện pháp thực hiện là cần thiết. Điều này thể hiện tính khả biến của quy hoạch. Quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp luôn là quy hoạch động, một quá trình lặp lại theo chiều xoắn ốc "quy hoạch - thực hiện - quy hoạch lại hoặc chỉnh lý - tiếp tục thực hiện..." với chất lượng, mức độ hoàn thiện và tính phù hợp ngày càng cao. 1.2.2. Những căn cứ pháp lý của quy hoạch sử dụng đất Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ sang công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp đã và đang gây áp lực ngày càng lớn đối với đất đai (bình quân mỗi năm phải chuyển khoảng 30.000 ha đất nông nghiệp, lâm nghiệp có rừng sang mục đích khác). Kinh nghiệm thực tiễn cùng với đổi mới tư duy và nhận thức đã trả lại cho đất đai giá trị đích thực vốn có của nó. Luật đất đai năm 1993 nhấn mạnh "đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu vực dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh và quốc phòng". Với ý nghĩa đó việc sử dụng hợp lý đất đai liên quan chặt chẽ tới mọi hoạt động của từng ngành và từng lĩnh vực, quyết định đến hiệu quả sản xuất. Do đó, Đảng và Nhà nước nước ta luôn coi đây vấn đề bức xúc, cần được quan tâm hàng đầu. Ý chí của toàn Đảng, toàn dân về vấn đề đất đai thể hiện rõ trong các văn bản pháp luật như hiến pháp, luật và các văn bản dưới luật. Những văn bản này tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, giúp giải quyết về mặt nguyên tắc những vấn đề đặt ra. - Sự cần thiết về mặt pháp lý phải lập ra quy hoạch sử dụng đất : Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1991 đã khẳng định: "đất đai thuộc sở hữu toàn dân", "nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo quy hoạch và pháp luật, bảo đảm sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả " (chương II, Điều 18). Điều 1 luật đất đai năm 1993 sửa đổi, bổ sung cũng nêu rõ "đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý". Điều 13 luật đất đai xác định một trong những nội dung quản lý nhà nước về đất đai là "quy hoạch và kế hoạch hoá việc sử dụng đất". Điều 19 luật đất đai khẳng định "căn cứ để quyết định giao đất, cho thuê đất là quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt". Nghị quyết số 01/1997/QH9 Quốc hội khoá 9, kỳ họp thứ 11 (tháng 4/1997) và kế hoạch sử dụng đất cả nước năm 2000 và đẩy mạnh công tác quy hoạch sử dụng đất các cấp trong cả nước... Nghị định số 68/2001/NĐ-CP ngày 01/10/2001 của Chính phủ về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai. Luật đất đai năm 2003 đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 4 thông qua cũng dành hẳn một mục gần 10 điều quy định các nội dung về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất (mục 2 - từ điều 21 đến điều 30). Như vậy, để sử dụng và quản lý đất đai (thuộc sở hữu toàn dân, là tư liệu sản xuất đặc biệt) một cách tiết kiệm, hợp lý và có hiệu quả nhất thì cần phải có sự quy hoạch đất đai đồng bộ. - Trách nhiệm lập quy hoạch sử dụng đất: Điều 15 (luật đất đai năm 2003) quy định rõ trách nhiệm lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai theo các cấp lãnh thổ hành chính. Chính phủ tổ chức thực hiện việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của cả nước. Uỷ ban nhân dân các cấp (tỉnh, huyện, xã) tổ chức thực hiện việc lập quy hoạch theo lãnh thổ hành chính - trừ trường hợp các đơn vị hành chính cấp dưới thuộc khu vực quy hoạch phát triển đô thị). Trình hội đồng nhân dân thông qua trước khi trình cơ quan nhà nước có thẩm quyển xét duyệt. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất phải được trình đồng thời với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. - Thẩm quyền xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất : Quốc hội quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của cả nước do chính phủ trình. Chính phủ xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của đơn vị hành chính cấp dưới trực tiếp. Uỷ ban nhân dân huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất xã không thuộc khu vực quy hoạch phát triển đô thị. 1.2.3. Quy hoạch sử dụng đất và sự nghiệp công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn Do đặc thù nền kinh tế nước ta, vấn đề công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn có vị trí hết sức quan trọng trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Công nghiệp hoá nông thôn là quá trình phát triển kinh tế - xã hội mà nội dung chủ yếu là chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội ở nông thôn gắn liền với công nghệ theo hướng công nghiệp và dịch vụ. Nói cách khác, công nghiệp hoá nông thôn là quá trình áp dụng phương tiện vật chất - kỹ thuật, phương pháp sản xuất công nghiệp vào sản xuất nông nghiệp trên địa bàn ở nông thôn. Về mặt hình thức, công nghiệp hoá nông thôn được biểu hiện trên các mặt sau: Phát triển cơ sở hạ tầng (giao thông, thuỷ lợi, cung cấp năng lượng, bưu chính viễn thông, giáo dục, đào tạo, y tế...) cho sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn. Áp dụng tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn (sử dụng máy móc trong các khâu làm đất, tưới tiêu, vận chuyển, bảo quản chế biến, sử dụng giống mới, phương pháp canh tác tiên tiến). Phát triển công nghiệp (bao gồm cả xây dựng) và dịch vụ ở nông thôn gồm, các ngành gắn với đầu vào cũng như đầu ra của nông nghiệp (như sản xuất và sửa chữa nông cụ, sản xuất nguyên liệu), các ngành tận dụng lao động, vốn tay nghề ở nông thôn để sản xuất ra các mặt hàng tiêu dùng và xuất khẩu. Quy hoạch sử dụng đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng, đặc biệt là cấp huyện, xã với nội dung: phân bổ đất đai phù hợp với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với phân công lại lao động ở nông thôn chiếm vị trí quan trọng trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn. Trong nông nghiệp tăng cường đầu tư vào thuỷ lợi hoá, điện khí hoá và ứng dụng công nghệ sinh học cải thiện môi trường sinh thái, hướng vào thâm canh tăng vụ là chính và mở thêm diện tích ở những nơi có điều kiện. Để đảm bảo mục tiên an ninh lương thực quốc gia, cần xác định, diện tích lúa nước phải duy trì, bảo vệ, tập trung đầu tư thâm canh, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả. Quy hoạch sử dụng đất đai theo lãnh thổ hành chính các cấp có nhiệm vụ tạo cơ sở, căn cứ để thực hiện chương trình trồng mức 5 triệu ha rừng giai đoạn 1998 - 2010. Nền nông nghiệp nước ta đã bước sang giai đoạn sản xuất dư thừa so với nhu cầu và sức mua ở trong nước. Vì vậy, phương thức chủ đạo là vừa nâng cao sức mua trong nước vừa tìm kiếm thị trường xuất khẩu. Để thực hiện nhiệm vụ đặt ra, cần lựa chọn đúng những sản phẩm có ưu thế của nền nông nghiệp nước ta, tập trung đầu tư thích đáng cả về ứng dụng sinh học và công nghiệp chế biến nhằm tạo ra một số hàng nông sản xuất khẩu chủ lực có chất lượng cao đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Nghị quyết Trung ương 4 Đại hội Đảng VIII đã chỉ rõ nội dung quan trọng trong công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn là phát triển mạnh các hình thức kinh tế hợp tác trong nông nghiệp và nông thôn, điều này đòi hỏi quy hoạch sử dụng đất phải giữ vai trò tích cực để thực hiện nhiệm vụ này. Chương 2 THỰC TRẠNG QUY HOẠCH, SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP ĐỂ PHÁT TRIỂN CÂY CÔNG NGHIỆP Ở TỈNH KON TUM 2.1. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC QUY HOẠCH, SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP ĐỂ PHÁT TRIỂN CÂY CÔNG NGHIỆP Ở TỈNH KON TUM 2.1.1. Đặc điểm tự nhiên - Vị trí địa lý: Kon Tum là tỉnh miền núi vùng cao, biên giới, nằm ở phía Bắc Tây Nguyên 107020'15" đến 108032'30" kinh độ đông và từ 13055'10" đến 15027'15" vĩ độ bắc. Có diện tích tự nhiên là 9.614,5 km2, chiếm 2,92% diện tích toàn quốc, phía Bắc giáp tỉnh Quảng Nam, phía Đông giáp Quảng Ngãi, phía Tây giáp Lào và Campuchia. Nằm ở vùng ngã ba Đông Dương và là nơi hội tụ của các quốc lộ: QL40, QL14, QL24; Kon Tum cách không xa khu vực phát triển miền trung (200 - 300km) là khu vực nằm trong chiến lược phát triển vùng và hệ thống cảng biển miền trung (khu công nghiệp Liên Chiểu, Dung Quất, khu kinh tế mở Chu Lai) được nâng cấp, mở rộng và xây dựng mới. Mặt khác, cửa khẩu Bờ Y - Ngọc Hồi sau khi được nâng cấp thành cửa khẩu quốc tế, kết hợp với việc xây dựng và cải tạo các tuyến quốc lộ (QL40, QL24, QL14) sẽ tạo cho địa bàn tỉnh trở thành khu vực khởi đầu hội nhập, một địa điểm trung chuyển quan trọng trên tuyến thương mại quốc tế nối Mianma - Đông Bắc Thái Lan - Nam Lào với khu vực Tây Nguyên, Duyên hải miền Trung và Đông Nam Bộ. Là tuyến hành lang thương mại Đông Tây ngắn nhất thông qua cửa khẩu quốc tế Bờ Y. - Địa hình : Phần lớn tỉnh Kon Tum nằm ở phía Tây dãy Trường Sơn, địa hình thấp dần từ Bắc xuống Nam và từ Đông sang Tây. Địa hình của tỉnh Kon Tum khá đa dạng: đồi núi, cao nguyên và vùng trũng xen kẽ nhau. Trong đó: + Địa hình đồi, núi: chiếm khoảng 2/5 diện tích toàn tỉnh, bao gồm những đồi núi liền dải có độ dốc 150 trở lên. Các núi ở Kon Tum do cấu tạo bởi đá biến chất nên có dạng khối như khối Ngọc Linh (có đỉnh Ngọc Linh cao 2.598m) nơi bắt nguồn của nhiều con sông chảy về Quảng Nam, Đà Nẵng như sông Thu Bồn, Vu Gia. Địa hình núi cao liền dải phân bố chủ yếu ở phía Bắc - Tây Bắc chạy sang phía Đông tỉnh Kon Tum. Mặt địa hình bị phân cách hiểm trở, tạo thành các thung lũng hẹp, khe, suối. Địa hình đồi chủ yếu tập trung ở huyện Sa Thầy có dạng nghiêng về phía Tây và thấp dần về phía Tây nam, xen kẽ giữa vùng đồi là dãy núi chư Mon Ray. + Địa hình thung lũng: nằm dọc theo sông Pô Kô đi về phía nam của tỉnh, có dạng lòng máng thấp dần về phía nam, theo thung lũng có những đồi lượn sóng như Đắk Uy, Đắk Hà và có nhiều chỗ bề mặt bằng phẳng như vùng thị xã Kon Tum. + Địa hình cao nguyên: tỉnh Kon Tum có cao nguyên Konp Long nằm giữa dãy An Khê và dãy Ngọc Linh có độ cao 1.100 - 1.300m, đây là cao nguyên nhỏ, chạy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam. - Khí hậu: Kon Tum thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa cao nguyên. Nhiệt độ trung bình trong năm dao động trong khoảng 22-230C, biên độ nhiệt độ dao động trong ngày 8-90C. Kon Tum có 2 mùa rõ rệt: mùa mưa chủ yếu bắt đầu từ tháng 1 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau. Lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 2.121 mm, lượng mưa năm cao nhất là 2.260 mm, năm thấp nhất 1.234 mm, tháng có lượng mưa cao nhất là tháng 8. Mùa khô, gió chủ yếu theo hướng Đông Bắc; mùa mưa gió chủ yếu theo hướng Tây Nam. Độ ẩm trung bình hàng năm dao động trong khoảng 78-87%. Độ ẩm không khí tháng cao nhất là tháng 8-9 (khoảng 90%) tháng thấp nhất là tháng 3 (66%) [19, tr.30]. - Tài nguyên đất: Tài nguyên đất của tỉnh Kon Tum được chia thành 5 nhóm với 17 loại đất chính: + Nhóm đất phù sa: diện tích 15.670 ha chiếm 1,63% tổng diện tích tự nhiên bố trí chủ yếu ven sông suối rải rác ở các huyện thị. + Nhóm đất xám: diện tích khoảng 10.442 ha chiếm 1,09% diện tích đất tự nhiên, phân bổ ở hầu hết các huyện, thị. + Nhóm đất đỏ vàng: diện tích khoảng 483.570 ha, chiếm 50,3% diện tích đất tự nhiên phân bố trên địa hình đồi núi dốc chia cắt mạnh, độ dầy tầng biến động theo địa hình. + Nhóm đất mùn vàng trên núi: Diện tích khoảng 437.330 ha chiếm 45,48% diện tích tự nhiên, tập trung chủ yếu ở vùng núi có độ cao trên 1000m thuộc các huyện Đắk Glei, Đăk Tô, Kon Plong. + Nhóm đất thung lũng: Nhóm đất này toàn tỉnh chỉ có một loại chính là đất thung lũng có sản phẩm dốc tụ, diện tích ít khoảng 3.400 ha, chiếm 0,35% tổng diện tích đất tự nhiên [19, tr.30] Như vậy, diện tích có tầng đất mỏng ở Kon Tum chiếm tỷ lệ rất lớn, hàm lượng dinh dưỡng của các nhóm đất chính đa phần là trung bình hoặc nghèo, độ chua, độ bazơ thấp. Đất có khả năng nông nghiệp chủ yếu là loại đất xám trên phù sa cổ, đất xám trên macma axit, đất phù sa được bồi và đất phù sa có tầng loang lổ. Ở một số vùng có tầng dày canh tác rất phù hợp với phát triển cây công nghiệp dài ngày (huyện Đắk Hà, Đắk Tô, Ngọc Hồi, thị xã Kon Tum). - Tài nguyên nước: + Nguồn nước mặt: chủ yếu là sông, suối bắt nguồn từ phía bắc và Đông Bắc của tỉnh Kon Tum, thường có lòng dốc, thung lũng hẹp, nước chảy siết, bao gồm hai nhánh chính là Pô Kô và Đắkbla cùng hệ thống sông suối khe nhỏ dày đặc tạo dòng Sê San với tổng lượng dòng chảy rất lớn xấp xỉ 10 - 11 tỷ m3 hàng năm. Ngoài hệ thống các sông suối, nguồn nước mặt còn được dự trữ ở hệ thống các hồ chứa thuỷ lợi, thuỷ điện, trong đó phải kể đến hồ thuỷ điện YaLy, có diện tích bề mặt rất lớn với dung tích trên 1 tỷ m3. Như vậy, nguồn nước mặt là rất lớn nhưng có tới 80% lượng mưa tập trung vào các tháng mùa mưa, hơn nữa hệ thống sông suối nhỏ, hẹp, có nhiều thác ghềnh, sườn dốc đứng nên khả năng giữ nước hạn chế. Vì vậy, việc sử dụng nguồn nước mặt phục vụ phát triển kinh tế - xã hội trong mùa khô là rất khó khăn, cần phải xây dựng các công trình thuỷ lợi kết hợp với thuỷ điện đảm bảo sinh hoạt và sản xuất của nhân dân. + Nguồn nước ngầm: Theo số liệu của liên đoàn thuỷ văn Miền Nam, nguồn nước ngầm của tỉnh được phân bố ở độ sâu từ 10 - 25 m, đặc biệt ở độ sâu 60m - 300m có trữ lượng tương đối lớn. Lưu lượng từ các lỗ khoan từ 1 - 3 l/s, chất lượng nước tốt về thành phần hoá học, về thành phần sinh học còn nhiễm bẩn, nhưng nhìn chung chất lượng đạt các tiêu chuẩn quy định. Ngoài ra, huyện Đăk Tô, Kon Plong còn có 9 điểm có nước khoáng nóng, có khả năng khai thác, sử dụng làm nước giải khát và chữa bệnh [19, tr.30]. - Tài nguyên rừng, thực vật rừng: Đến năm 2005, diện tích đất lâm nghiệp của Kon Tum là 662.872,67 ha chiếm 65,5% diện tích đất tự nhiên. Tổng trữ lượng gỗ vào khoảng 54 triệu m3, trong đó rừng gỗ có khoảng 46 triệu m3. Rừng Kon Tum có nhiều loại gỗ quý như trắc, cẩm lai, hương, thông... Động vật rừng phong phú đa dạng có voi, hổ, beo, gấu, bò rừng... Ngoài ra, rừng Kon Tum còn là nơi chứa nhiều nguồn gen động thực vật quý hiếm, mang tính dạng học có giá trị và ý nghĩa rất lớn cho công tác nghiên cứu khoa học, điển hình là cây sâm Ngọc Linh [19, tr.32] - Tài nguyên khoáng sản: Là tỉnh có nhiều mỏ và điểm quặng, theo số liệu điều tra sơ bộ trên địa bàn toàn tỉnh có 214 mỏ và điểm quặng và khoáng sản, nguồn khoáng sản đa dạng phong phú, có tới 40 loại với các loại hình nguồn gốc khác nhau: vàng gốc, vàng khoáng, quặng nhôm, đá quý... Tuy nhiên, cho tới nay mức độ điều tra địa chất còn sơ lược. Để có thể khai thác sử dụng tài nguyên khoáng sản có hiệu quả kinh tế cao cần được nhanh chóng đầu tư, điều tra, thăm dò đánh giá chính xác chất lượng, trữ lượng trên diện rộng, cũng như tập trung vào khai thác một số tài nguyên khoáng sản có nhu cầu trước mắt như đá quý, vàng sa khoáng, vàng gốc, đất sét, đá xây dựng... 2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội Là một tỉnh nghèo miền núi, vùng cao biên giới sản xuất nông - lâm nghiệp là chủ yếu. Trong những năm qua, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, tỉnh Kon Tum đã đề ra đường lối chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đúng đắn. Từ đó, đã phát huy được tiềm năng, thế mạnh của địa phương đưa nền kinh tế của tỉnh đi vào ổn định, đang đà phát triển và đạt được một số thành tựu đáng kể. Điều này được thể hiện qua bảng 2.1. Bảng 2.1: Tổng sản phẩm tỉnh Kon Tum phân theo khu vực kinh tế [5] (Đơn vị tính: Triệu đồng, tính theo giá gốc 1994) Năm Tổng số Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản Công nghiệp và xây dựng Dịch vụ 1995 485.616 272.244 46.738 166.634 1997 584.018 342.194 66.359 210.544 1999 706.077 405.299 79.665 221.113 2001 843.943 437.830 143.830 262.865 2003 1.056.894 545.088 194.037 317.769 2005 1.268.263 626.000 232.593 409.670 Qua bảng 2.1 cho thấy quy mô tăng trưởng, giá trị tổng sản phẩm của tỉnh không ngừng tăng lên. Nếu năm 1995 tổng sản phẩm tỉnh Kon Tum đạt 485.616 triệu đồng thì đến năm 2005 đạt 1.268.263 triệu đồng. Trong sản xuất nông nghiệp, tập trung phát triển sản xuất theo hướng sản xuất hàng hoá và đã có những chuyển biến tích cực. Cụ thể là tổng sản phẩm khu vực nông nghiệp và thuỷ sản tăng từ 272.244 triệu đồng năm 1995 lên 626.000 triệu đồng năm 2005. Công nghiệp và xây dựng tăng trưởng cao đã có những đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương góp phần làm tăng nguồn thu ngân sách và giải quyết việc làm cho người lao động. Năm 1995 tổng sản phẩm khu vực công nghiệp và dịch vụ là 46.738 triệu đồng đến năm 2005 đã tăng lên 232.593 triệu đồng. Ngành thương mại dịch vụ những năm gần đây phát triển đa dạng, đảm bảo yêu cầu tăng trưởng kinh tế, lưu thông vật tư hàng hoá, dịch vụ phát triển phong phú, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân trên địa bàn về số lượng, chất lượng và chủng loại. Tốc độ tăng của ngành thương mại dịch vụ là rất cao từ 166.634 triệu đồng năm 1995 lên 409.670 triệu đồng năm 2005. Trong những năm qua tổng sản phẩm của tỉnh Kon Tum luôn tăng cao, trong giai đoạn 2000 - 2005 tăng bình quân năm là 11%, trong đó tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng tăng từ 15,69% lên 19,04% thương mại - dịch vụ tăng từ 38,05% lên 38,58%; nông lâm thuỷ sản từ 45,89% giảm xuống 42,38% [5]. * Thực trạng kết cấu hạ tầng: - Về giao thông: Mạng lưới giao thông đường bộ thời gian qua đã được quan tâm đầu tư nâng cấp, nhờ đó chất lượng phục vụ của các công trình giao thông đã được nâng lên. Mạng lưới giao thông liên huyện, liên xã và các tuyến nội thị, thị trấn, giao thông nông thôn cơ bản đáp ứng được nhu cầu đi lại. Đến năm 2005 toàn tỉnh 100% số xã có đường ô tô đến trung tâm xã. Hiện nay toàn tỉnh có 3.444,6 km đường giao thông bộ, trong đó quốc lộ 389,3 km, tỉnh lộ 353 km và 2702,3 km là đường huyện, thôn xã và nội đồng. Nhìn chung hệ thống đường giao thông bộ của tỉnh chất lượng còn thấp, việc đi lại vào mùa mưa gặp rất nhiều khó khăn. Mạng lưới giao thông đường thuỷ ít, khó khai thác do hệ thống sông nhỏ hẹp, dốc, nước chảy siết nhiều thác ghềnh. Hiện tại chỉ có thể khai thác giao thông đường thuỷ thuận lợi từ sông Đăk Bla đi lòng hồ Yaly. Ngoài ra trên địa bàn tỉnh còn hai đường băng của hai sân bay được xây dựng từ trước năm 1975, sử dụng cho mục đích quân sự. Hiện tại chỉ sử dụng được cho máy bay trực thăng, chưa khai thác phục vụ cho máy bay dân dụng. - Về thuỷ lợi: Công tác thuỷ lợi của tỉnh trong những năm qua đã có những bước phát triển khá nhanh. Tỉnh đã xây dựng được nhiều công trình, với những quy mô phương án kỹ thuật phức tạp, diện tích tưới của các công trình không ngừng tăng lên, đóng góp một phần quan trọng đối với phát triển sản xuất nông nghiệp. Toàn tỉnh hiện có 29 công trình xây dựng cơ bản, 130 công trình tiểu nông và hàng trăm công trình tạm, đảm bảo tưới cho 14.490 ha đất gieo trồng. - Về giáo dục và đào tạo: Sự nghiệp giáo dục - đào tạo tiếp tục phát triển và đạt được nhiều kết quả. Quy mô các ngành học, bậc học được mở rộng; tỷ lệ học sinh huy động đến lớp đạt cao; đã khắc phục cơ bản tình trạng thiếu giáo viên ở vùng sâu, vùng xa; chất lượng dạy và học được nâng lên một bước. Đến năm 2005: 100% số xã, phường được công nhận phổ cập giáo dục tiểu học và 26,31% số xã, phường được công nhận phổ cập giáo dục trung học cơ sở [5, tr.200] Hoạt động khoa học - công nghệ đã tập trung nghiên cứu chuyển giao ứng dụng các thành tựu khoa học trong lĩnh vực nông - lâm nghiệp, xúc tiến nghiên cứu các đề tài thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn; bước đầu tiến hành điều tra, khảo sát, nghiên cứu một số loại khoáng sản. - Về y tế: Công tác y tế, chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân có bước tiến bộ. Mạng lưới y tế cơ sở tiếp tục được tăng cường về cơ sở vật chất, trang thiết bị và đội ngũ y, bác sĩ (81% số xã có trạm y tế kiên cố, bán kiên cố; 48% số xã có bác sĩ). Đến năm 2005 toàn tỉnh có 114 cơ sở y tế, trong đó có 8 bệnh viện; 9 phòng khám đa khoa khu vực; 1 bệnh viện điều dưỡng và phục hồi chức năng: 92 trạm y tế xã phường và 1 trại phong. Tổng số giường bệnh là 1.400 và 1.200 cán bộ biên chế ngành y tế [5, tr.205]. - Về văn hoá - thể thao: Nhiều công trình văn hoá, phúc lợi xã hội được đầu tư xây dựng. Các di tích lịch sử, văn hoá được bảo vệ và từng bước được tôn tạo. Văn hoá vật thể, phi vật thể đặc sắc của các dân tộc thiểu số được khôi phục và phát triển. Công tác phát thanh - truyền hình, nhất là chương trình bằng tiếng dân tộc thiểu số (Ba Na, Xê Đăng, Jẻ Triêng) được duy trì và nâng dần về chất lượng. Phong trào thể dục thể thao, rèn luyện sức khoẻ có nhiều tiến bộ. Đến nay 100% số hộ được phủ sóng phát thanh; 85% số hộ được phủ sóng truyền hình; 100% số xã được cấp phát Báo Nhân dân, Báo Kon Tum. * Thực trạng phát triển đô thị: Toàn tỉnh có 1 thị xã và 8 thị trấn, hệ thống đô thị này giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, nó tạo ra tổng sản phẩm cho tỉnh rất lớn, phản chiếu sinh động sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Thị xã Kon Tum là đô thị hạt nhân lớn nhất (cấp IV) của hệ thống đô thị trong tỉnh. Trong những năm qua đã có chuyển biến lớn về quy mô dân số đô thị, về khôi phục xây dựng phát triển, mở rộng đô thị theo hướng hiện đại và bền vững. Các thị trấn chỉ mang tính chất hành chính, ít mang màu sắc của đô thị công nghiệp, chưa có các trung tâm thương mại lớn, chỉ có một số ít các cơ sở tiểu thủ công nghiệp vừa và nhỏ tồn tại, một số cơ sở về chế biến và các điểm dịch vụ. Trong những năm gần đây các cấp, các ngành đã quan tâm đến việc đầu tư phát triển hệ thống đô thị, song còn gặp nhiều khó khăn về vốn và kinh nghiệm, do đó công tác quản lý đô thị chưa theo kịp tốc độ đô thị hoá. *Thực trạng phát triển khu dân cư nông thôn: Do nền kinh tế có trình độ thấp kém, cơ cấu kinh tế chuyển đổi chậm, nên các điểm dân cư nông thôn vẫn phân bố theo hình thái tự nhiên, phương thức sản xuất nông nghiệp manh mún, quy mô nhỏ, phân bố rải rác với các hình thái: bám theo tuyến quốc lộ, tỉnh lộ, liên huyện, liên xã và hình thái phân tán nhỏ ở trong nội đồng. Trong những năm gần đây đang hình thành một điểm dân cư mới, đó là các điểm dân cư nằm trên các trục giao thông quan trọng hoặc ở các trung tâm khu kinh tế mới, trung tâm xã, nông trường, trung tâm cụm xã. Đây là một hình thái phát triển mới mầm mống của đô thị nhỏ, tốc độ phát triển mạnh, có ưu thế trong tương lai, khi có sự chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp, công nghiệp hoá nông thôn, kết hợp quá trình chuyển giao công nghệ trong nông nghiệp, sẽ hình thành nên nhiều thị tứ, thị trấn trên địa bàn tỉnh. *Dân số - lao động - việc làm - thu nhập và mức sống: Tính đến cuối năm 2005 dân số toàn tỉnh là 377.007 người. Trong đó có 246.589 nhân khẩu nông thôn (chiếm 65,41%) và 130.418 nhân khẩu ở thành thị (chiếm 34,59% tổng dân số). Mật độ dân số trung bình toàn tỉnh là 39,2 người/km2, là tỉnh có mật độ dân số thấp của vùng cũng như toàn quốc, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 2,1%. Dân số phân bố không đồng đều giữa các đơn vị hành chính trong tỉnh. Thị xã Kon Tum là nơi có mật độ dân số cao nhất là 315,5 người/km2 và huyện Kon Plong là nơi có mật độ dân số thấp nhất 12,6 người/km2 [5, tr.11]. * Lao động - việc làm: Tổng số lao động trong độ tuổi của tỉnh tính đến cuối năm 2004 là 180.173 lao động, chiếm 47,79% dân số. Lao động nông - lâm nghiệp có tỷ trọng lớn trong cơ cấu lao động, chiếm 77,86% tổng số lao động làm việc trong các ngành kinh tế. Tuy nhiên hiệu suất lao động ở khu vực nông thôn còn thấp (75% thời gian lao động) [5, tr.17]. Trình độ lao động còn thấp chưa qua đào tạo kỹ năng, tỷ lệ qua đào tạo rất thấp 21% tổng số lao động. * Thu nhập và mức sống: Là một tỉnh miền núi Tây Nguyên, thu nhập của người dân chủ yếu từ các sản phẩm nông - lâm nghiệp. Trong những năm qua, cùng với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của người dân đã không ngừng được nâng lên. Thu nhập bình quân đầu người đạt 183 USD năm 2000, 210 USD năm 2002 và năm 2005 là 289 USD. Sản lượng lương thực bình quân đầu người là 260 kg [5, tr.27]. Nhìn chung đời sống dân cư của những ngành: thương nghiệp, xây dựng, công nghiệp, giao thông vận tải có mức thu nhập và mức sống ổn định. Riêng đời sống dân cư ngành nông nghiệp còn nhiều khó khăn, đặc biệt là các xã vùng sâu, vùng xa. Tính đến năm 2005 số hộ nghèo theo tiêu chí mới còn cao (chiếm 38,63%). Toàn tỉnh có 51 xã đặc biệt khó khăn và biên giới. Nguyên nhân do thiếu vốn, thiếu công cụ sản xuất tiên tiến, trình độ canh tác, chăn nuôi còn yếu kém. Ngoài ra còn phải kể đến kết cấu hạ tầng thấp, do đó ảnh hưởng đến nền kinh tế hàng hoá, trình độ dân trí thấp dẫn đến đời sống xã hội gặp nhiều khó khăn. 2.1.3. Đánh giá chung 2.1.3.1. Những thuận lợi, lợi thế Qua tổng hợp và phân tích điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh cho thấy Kon Tum có những lợi thế sau: Một là, so với các tỉnh trong khu vực Tây Nguyên, Kon Tum là tỉnh có bình quân diện tích tự nhiên/ người lớn nhất (bình quân diện tích tự nhiên/ khẩu của tỉnh Kon Tum là 28.387 m2, khu vực Tây Nguyên là 13.000m2/khẩu) diện tích đất chưa sử dụng còn nhiều (khoảng 220.880 ha), đặc biệt là quỹ đất cho phát triển lâm nghiệp và cây công nghiệp lâu năm. Sự đa dạng về đất đai, địa hình và khí hậu tạo điều kiện cho Kon Tum đa dạng hoá cây trồng theo hướng chuyên canh ở từng khu vực sinh thái. Hai là, tỉnh có nguồn tài nguyên phong phú và đa dạng, trong đó phải kể đến sự giàu có của tài nguyên rừng. Là tỉnh có độ che phủ rừng cao nhất Tây Nguyên, với 65,5% diện tích đất tự nhiên được che phủ bởi rừng, trữ lượng gỗ 54 triệu m3 và gần 2 tỷ cây tre nứa, dưới tán rừng là hệ động vật phong phú và đa dạng. Trong đó có nhiều loại cây con quý hiếm và có giá trị kinh tế cao như sâm ngọc linh. Ba là, trên địa bàn tỉnh có hệ thống sông suối khá dày đặc và đang chứa đựng một tiềm năng về thuỷ điện lớn nhất miền Nam nước ta. Bốn là, Kon Tum nằm ở ngã ba biên giới Việt - Lào - Campuchia, nơi hội tụ của các quốc lộ 14, quốc lộ 40 và quốc lộ 24 nên có vị trí quan trọng về đầu mối giao lưu kinh tế. Mặt khác, Kon Tum cách không xa các khu vực phát triển của miền Trung nên sẽ có nhiều điều kiện cuốn hút vào sự phát triển và chịu ảnh hưởng lớn của những khu vực phát triển này trong quá trình giao lưu kinh tế, tiếp nhận chuyển giao công nghệ, mở rộng thị trường tiêu thụ và thu hút đầu tư. Năm là, trong những năm qua, tốc độ và cơ cấu kinh tế của tỉnh đã có sự tăng trưởng và chuyển dịch hợp lý làm thay đổi dần tính chất của nền kinh tế. Từ một nền kinh tế tự cung, tự cấp, đến nay đã chuyển dần sang nền kinh tế hàng hoá, hình thành nhiều vùng sản xuất chuyên canh. Kết cấu hạ tầng, văn hoá, giáo dục, y tế đã có những bước chuyển biến tích cực, đời sống đại bộ phận nhân dân từng bước được cải thiện và nâng cao, chính trị, an ninh quốc phòng được giữ vững. Sáu là, trình độ dân trí ngày càng không ngừng được nâng cao, nhận thức về vai trò và tác dụng của đất đai cũng đầy đủ hơn, kiến thức về canh tác, bảo vệ đất, không ngừng nâng cao sức sản xuất của đất đã được các hộ nông dân tiếp thu và áp dụng vào thực tiễn sản xuất. Việc áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào quá trình sử dụng đất đai đã đem lại hiệu quả cao. Những lợi thế đó là nguồn lực thúc đẩy nền kinh tế - xã hội của tỉnh phát triển vươn lên bắt kịp với các địa phương trong vùng và khu vực. 2.1.3.2. Những khó khăn, hạn chế Kon Tum là tỉnh nằm ở cực Bắc Tây Nguyên, địa hình phức tạp, chia cắt mạnh, đây là khó khăn lớn nhất trong phát triển giao thông, hạn chế giao lưu với bên ngoài và thu hút vốn đầu tư. Mặt khác, hạ tầng cơ sở còn yếu kém không đồng bộ. Sự xuống cấp và chưa đầy đủ của các tuyến quốc lộ, tỉnh lộ, các công trình thuỷ lợi, hệ thống điện, sự thiếu hụt các công trình phúc lợi công cộng đã trực tiếp hoặc gián tiếp gây áp lực với sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung cũng như việc sử dụng đất trên địa bàn tỉnh nói riêng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn tăng, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo đúng quy luật nhưng diễn ra chậm. Tỷ trọng ngành nông - lâm - ngư nghiệp vẫn còn cao. Tỷ trọng ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp mặc dù tăng lên hàng năm nhưng vẫn còn ở mức thấp, sản xuất nông nghiệp vẫn giữ vai trò chủ đạo. Trình độ dân trí nhìn chung còn thấp, khả năng tiếp thu và ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất còn chậm dẫn đến chưa khai thác được triệt để tiềm năng đất đai. Đầu ra và giá tiêu thụ một số sản phẩm nông sản chủ lực như cà phê, sắn, hạt tiêu thường xuyên không ổn định gây khó khăn trong việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng. Là tỉnh có nhiều dân tộc thiểu số sinh sống, trình độ dân trí của đại bộ phận dân cư còn thấp, đời sống của nhân dân còn nghèo và bấp bênh. Vùng sâu, vùng xa phương thức canh tác lạc hậu còn khá phổ biến, tình trạng đốt rừng làm rẫy vẫn thường xuyên xảy ra. Tất cả những vấn đề trên đây đều đi tới một nhận định thực trạng phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đang gây áp lực rất lớn đối với đất đai và môi trường. Việc phân bố quỹ đất đai cho các ngành, các lĩnh vực đảm bảo khoa học và hiệu quả hợp lý tạo điều kiện cho phát triển kinh tế - xã hội dựa trên quan điểm tiết kiệm đất và bảo vệ môi trường là nhiệm vụ đặt ra cho công tác quy hoạch sử dụng đất trong thời kỳ tới. 2.2. THỰC TRẠNG QUY HOẠCH, SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP ĐỂ PHÁT TRIỂN CÂY CÔNG NGHIỆP Ở TỈNH KON TUM TỪ NĂM 2000 ĐẾN NAY 2.2.1. Hiện trạng sử dụng và tình hình quản lý đất nông nghiệp ở tỉnh Kon Tum * Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp năm 2005 : Theo kết quả tổng hợp số liệu thống kê đất đai năm 2005 của Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Kon Tum, tính đến ngày 31/12/2005, tổng diện tích tự nhiên của toàn tỉnh là 961450 ha. Là tỉnh có diện tích vào loại lớn so với các tỉnh trong cả nước, chiếm 2,92% diện tích tự nhiên toàn quốc và 17,65% diện tích vùng Tây Nguyên. Toàn tỉnh có 8 đơn vị hành chính cấp huyện và 1 thị xã. Diện tích đất nông nghiệp của tỉnh năm 2005 là 128.404,57 ha, bình quân diện tích đất nông nghiệp trên một nhân khẩu là 3.405m2. Diện tích đất nông nghiệp của tỉnh phân bố không đều giữa các đơn vị hành chính. Cơ cấu đất nông nghiệp được phân bố như sau: - Đất trồng cây hàng năm: Diện tích 87.825,27 ha chiếm 68,4% diện tích đất nông nghiệp toàn tỉnh, trong đó: + Đất trồng lúa là 17626,68 ha, chiếm 20,07% diện tích đất trồng cây hàng năm. + Đất nương rẫy là 35.269,57 ha, chiếm 40,16% diện tích đất trồng cây hàng năm. + Đất trồng cây hàng năm khác: 34929,02 ha, chiếm 39,77% diện tích đất trồng cây hàng năm. Đất trồng lúa có tỷ lệ nhỏ nhất so với tổng diện tích đất trồng cây hàng năm (20,07%), được phân bố ở tất cả các huyện dọc theo các sông suối, vùng trũng thấp, chủ yếu là ruộng 1 vụ và 2 vụ, trong đó ruộng 1 vụ có diện tích là 7.156 ha chiếm 40,6% diện tích đất trồng lúa. Vì vậy, để khai thác có hiệu quả hơn, diện tích ruộng 1 vụ này, cần có biện pháp thâm canh tăng vụ, đặc biệt là biện pháp thuỷ lợi để đưa diện tích đất trồng lúa 1 vụ lên sản xuất 2 vụ, nâng cao hệ số sử dụng đất nông nghiệp trên toàn tỉnh. Đất nương rẫy chiếm tỷ lệ lớn nhất trong đất trồng cây hàng năm (40,16% diện tích) trong đó có 6.728 ha nương rẫy trồng lúa. Diện tích nương rẫy phân bố tập trung nhiều ở các huyện Sa Thầy 7.660 ha, huyện Đăk Tô 7.040 ha, ít nhất là huyện Kon Plong 1.173 ha. Đất trồng cây hàng năm khác chiếm hơn 1/3 diện tích trong đất trồng cây hàng năm, hầu hết là đất chuyên mầu và cây công nghiệp hàng năm với diện tích 30733,02 ha, chiếm 88% diện tích đất trồng cây hàng năm khác, chủ yếu là loại cây màu lương thực như khoai, ngô... và cây công nghiệp hàng năm như mía, sắn, vừng, lạc... - Đất trồng cây lâu năm: diện tích 40.262,14 ha, chiếm 31,36% diện tích đất nông nghiệp, đứng hàng thứ hai trong cơ cấu đất nông nghiệp toàn tỉnh. Trong đất trồng cây lâu năm, diện tích chủ yếu là đất trồng cây công nghiệp lâu năm 35.224,14 ha chiếm 87,70%. Với diện tích cà phê khoảng 11.550 ha, còn lại là đất trồng cây cao su. Đất trồng cây ăn quả và các loại cây lâu năm khác chỉ chiếm tỷ lệ diện tích rất ít trong cơ cấu đất trồng cây lâu năm. - Đất cỏ dùng vào chăn nuôi: diện tích 317 ha, phần lớn là đất cỏ tự nhiên cải tạo 188,16 ha, còn lại là 129 ha đất cỏ trồng [phụ lục 4]. * Tình hình quản lý đất đai tỉnh Kon Tum: + Quản lý đất đai theo địa giới hành chính: Kon Tum là tỉnh có địa hình chia cắt, vừa giáp ranh với các đơn vị hành chính thuộc tỉnh khác (Quảng Nam, Quảng Ngãi, Gia Lai) vừa là biên giới quốc gia với các nước Lào, Campuchia. Trải qua nhiều biến động của tiến trình lịch sử, tình hình địa giới hành chính trong tỉnh thường có sự thay đổi. Từ khi chỉ thị số 364/CP của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) được thực hiện, ranh giới hành chính giữa Kon Tum với các tỉnh khác về cơ bản đã được xác định, Ban Tổ chức Chính phủ (nay là Bộ Nội vụ) đã công nhận và đưa vào khai thác sử dụng, phục vụ kịp thời công tác quản lý lãnh thổ và quản lý đất đai trên địa bàn toàn tỉnh. Tuy nhiên trên thực tế, ranh giới giữa tỉnh Kon Tum với tỉnh Gia Lai vẫn chưa được giải quyết theo tinh thần công văn số 920/CP-NC ngày 06/8/1998, cụ thể là việc giao xã Kon Pne thuộc huyện KBang và 300 ha diện tích đất tại thôn Tơ Huỳnh xã Ia Khươi huyện Chư Pả, tỉnh Gia Lai về Kon Tum quản lý. Ngoài ra, nhằm đáp ứng quá trình phát triển kinh tế - xã hội, tỉnh đã có sự điều chỉnh, bổ sung đơn vị hành chính. Đến nay tỉnh có 1 thị xã và 8 đơn vị hành chính huyện. + Về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất gắn với đo đạc, lập bản đồ địa chính: Trước đây, khi chưa tách khỏi tỉnh Gia Lai - Kon tum, việc đầu tư kinh phí để đo đạc, lập bản đồ ở Kon tum chưa được quan tâm đúng mức. Sau khi lập lại tỉnh Kon Tum cho đến nay, được sự quan tâm của Tổng Cục Địa chính (nay là Bộ Tài nguyên và Môi trường) và UBND tỉnh. Sở Địa chính tỉnh (nay là Sở Tài nguyên và Môi trường) đã tiến hành thường xuyên công tác đo đạc, lập bản đồ địa chính, bản đồ giải thửa và đạt được những kết quả đáng khích lệ. Từ năm 1997 tỉnh đã triển khai lập quy hoạch sử dụng đất cho tất cả các xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh. Năm 1998 - 1999 tỉnh tiếp tục triển khai lập quy hoạch sử dụng đất cấp huyện trên địa bàn 9 huyện thị giai đoạn 1998 - 2010. Đến năm 2000 tỉnh đã tổ chức triển khai lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất tỉnh Kon Tum đến 2010 và đã được Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1033/QĐ-TTg ngày 08/11/2002. Đến nay toàn bộ việc quy hoạch sử dụng đất của cả 3 cấp (tỉnh, huyện, xã) đã hoàn thành, làm căn cứ cho công tác quản lý đất đai toàn tỉnh trong thời gian tới. Tuy nhiên, trong những năm tới cần phải thường xuyên theo dõi và kịp thời chỉnh lý, bổ sung điều chỉnh quy hoạch theo đúng quy định của Luật đất đai và phù hợp với thực tế của quá trình phát triển tại địa phương. Việc xây dựng kế hoạch sử dụng đất là nhiệm vụ thường xuyên của ngành địa chính. Hàng năm, Sở Tài nguyên và Môi trường đánh giá kế hoạch sử dụng đất năm thực hiện và xây dựng kế hoạch sử dụng đất cho năm tiếp theo, trình UBND tỉnh thông qua để trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. + Về giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp: Sau 5 năm thực hiện chỉ thị số 10/1998/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ và chỉ thị 12/CT-UB của UBND tỉnh về việc giao đất, cấp đất chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp, tính đến tháng 6/2003 toàn tỉnh đã cấp được 46.795 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp cho 46.795 hộ gia đình, cá nhân với diện tích 47.731 ha, đạt 75,62% tổng diện tích đất trồng cây hàng năm của các hộ gia đình, cá nhân. Mặc dù, các huyện thị đã cơ bản hoàn thành việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân quản lý, sử dụng lâu dài, song vẫn còn một số diện tích đất nông nghiệp lớn chưa được giao cho chủ sử dụng đất. Nguyên nhân cơ bản là một phần tương đối lớn diện tích đất nông nghiệp này đang nằm trong vùng ngập và bán ngập lòng hồ Yaly, một phần diện tích do các hộ vượt hạn điền, diện tích do phát nương làm rẫy không đúng quy hoạch và một vài khu còn có sự tranh chấp. Đặc biệt có một số hộ gia đình không tham gia đăng ký sử dụng đất do chưa thấy rõ được quyền lợi và nghĩa vụ của mình. + Về thanh tra pháp chế: Trong những năm qua, tỉnh đã tiến hành nhiều cuộc thanh tra, kiểm tra việc quản lý, sử dụng đất nông nghiệp của nhiều tổ chức, hộ gia đình, cá nhân. Thông qua việc thanh tra, kiểm tra đã phát hiện và xử lý kịp thời các sai phạm trong công tác quản lý và sử dụng đất nông nghiệp. Từ năm 1996 đến nay, thực hiện Chỉ thị 245/TTg của Thủ tướng Chính phủ, UBND tỉnh đã thành lập 2 đoàn thanh tra (có đại diện của các cơ quan có chức năng tham gia) với mục đích thanh tra, đôn đốc việc thực hiện Chỉ thị 245/TTg; thanh tra, kiểm tra việc thực hiện Luật đất đai trên địa bàn các xã, phường. Kết quả kiểm tra cho thấy tình hình vi phạm Luật đất đai trong quản lý, sử dụng đất nông nghiệp của các tổ chức, cá nhân trên địa bàn tỉnh chủ yếu tập trung vào các doanh nghiệp, các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần là nghiêm trọng. Các hình thức vi phạm cụ thể là: - Tự ý lấy đất nông nghiệp chia cho các cá nhân làm nhà ở. - Tự ý chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp. - Tự ý chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp. - Sử dụng đất nông nghiệp không theo quy hoạch. - Lấn chiếm đất nông nghiệp. - Sử dụng đất nông nghiệp chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép. Toàn bộ những vi phạm trên đã được kiến nghị với UBND tỉnh xử lý theo từng vụ việc cụ thể; xử phạt hành chính hoặc truy tố theo Luật tố tụng hình sự, còn lại thu hồi hoặc hoàn tất các thủ tục theo đúng pháp luật. Từ đó đến nay việc thanh tra, kiểm tra được tiến hành thường xuyên liên tục, đáp ứng nhu cầu của công tác quản lý. Công tác giải quyết tranh chấp đất đai, đơn thư khiếu nại tố cáo các vi phạm trong sử dụng đất nông nghiệp đạt kết quả cao trong những năm qua. Ngoài ra, thực hiện Quyết định số 132/2002/QĐ-TTg ngày 08/10/2002 của Thủ tướng Chính phủ về giải quyết đất sản xuất và đất ở cho đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ ở Tây Nguyên, tỉnh đã tổ chức điều tra, rà soát toàn bộ tình hình giao đất, cho thuê và sử dụng ruộng đất của đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh cũng như tình hình quản lý, sử dụng đất nông nghiệp, lâm nghiệp của các nông lâm trường. Trên cơ sở đó tổng hợp số hộ đồng bào dân tộc thiểu số thiếu đất sản xuất và đất ở, các nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng thiếu đất để từ đó đề ra phương hướng giải quyết đối với từng địa bàn cụ thể. 2.2.2. Thực trạng quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp để phát triển cây công nghiệp ở tỉnh Kon Tum từ năm 2000 đến năm 2005 2.2.2.1. Những thành tựu đạt được Trên cơ sở phân tích, đánh giá số liệu thống kê đất nông nghiệp từ năm 2000 đến năm 2005, có thể thấy các loại hình sử dụng đất nông nghiệp của tỉnh Kon Tum đều có sự biến động theo chiều hướng tăng. Quá trình tăng giảm các loại đất nông nghiệp trong giai đoạn này nhìn nhận một cách tổng quát là phù hợp mục tiêu phát triển kinh tế của tỉnh. Tuy nhiên, cần phân tích xu hướng biến động các loại đất nông nghiệp chi tiết để đánh giá chính xác thực trạng quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp ở giai đoạn hiện nay. Trong những năm từ năm 2000 đến năm 2005, diện tích đất nông nghiệp tăng 36.821,88 ha, từ 91.582,69 ha năm 2000 lên 128.404,57 ha năm 2005. Bình quân mỗi năm tăng khoảng 7.364 ha. Diện tích đất nông nghiệp tăng chủ yếu tập trung ở huyện Sa Thầy, một số xã thuộc phía Bắc thị xã Kon Tum, huyện Đăk Hà, Đăk Tô. Trong đất nông nghiệp diện tích trồng cây hàng năm là tăng lớn nhất trong cả giai đoạn tăng 26919,60 ha. Trong đó đất trồng lúa tăng 2428,12 ha, đất nương rẫy tăng 11.963,57 ha và đất trồng cây hàng năm khác tăng 12.527,91 ha (tăng mạnh ở diện tích đất chuyên màu và cây công nghiệp hàng năm tăng 11620,41 ha) [phụ lục 4]. Phân tích xu thế tăng diện tích đất nông nghiệp trồng cây hàng năm ở giai đoạn này có thể thấy rằng, bên cạnh cố gắng của ngành nông nghiệp trong việc cải tạo, khai hoang vùng đất chưa sử dụng, thì vài loại đất khác lại có sự gia tăng đột biến theo chiều hướng bất lợi như đất nương rẫy. Diện tích đất nương rẫy tăng trong vòng 5 năm là 11.963,57 ha. Kết quả diện tích đất nương rẫy tăng trong giai đoạn này được lý giải có chủ trương điều chỉnh một số diện tích đất nông nghiệp sử dụng kém hiệu quả của các nông, lâm trường giao cho đồng bào dân tộc thiểu số thiếu đất sản xuất theo tinh thần quyết định số 132/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Bảng 2.2: So sánh biến động diện tích đất nông nghiệp giai đoạn 2000 - 2005 [29] Loại đất Diện tích (ha) 2000 Diện tích 2005 Biến động: tăng (+), giảm (-) Tổng diện tích đất nông nghiệp 91.582,69 128.404,57 +36.821,88 I. Đất trồng cây hàng năm 60.905,67 87.825,27 +26.919,60 1. Đất trồng lúa 15.198,56 17.626,68 +2.428,12 2. Đất nương rẫy 23.306 35.269,57 +11.963,57 3. Đất trồng cây hàng năm khác 22.401,11 34.929,02 +12.527,91 a. Đất chuyên mầu và cây công nghiệp hàng năm 19.112,61 30.733,02 +11.620,41 b. Đất chuyên rau 1.415 1.545 +130 c. Đất trồng cây hàng năm khác 1.873,5 2.651 +777,5 II. Đất trồng cây lâu năm 30.677,02 40.262,14 +9.585,12 1. Đất trồng cây công nghiệp lâu năm 30.201,02 35.312 +4.110,98 2. Đất trồng cây ăn quả 374 2.748 +2.374 3. Đất trồng cây lâu năm khác 96 2.183,14 +2.084,14 4. Đất ươm cây giống 6 19 +13 III. Đất trồng cỏ dùng chăn nuôi 0 317,16 +317,16 1. Đất cỏ trồng 0 129 +129 2. Đất cỏ tự nhiên cải tạo 0 188,16 +188,16 Loại đất có mức độ tăng lớn thứ hai của đất nông nghiệp là đất trồng cây lâu năm, tăng 9585 ha trong cả giai đoạn. Tuy nhiên, mức độ tăng diện tích đất trồng cây lâu năm trong giai đoạn này thấp hơn rất nhiều so với giai đoạn trước năm 1995 - 2000 (diện tích tăng bình quân của cả giai đoạn này là 4.343 ha/năm). Thực chất vấn đề này có thể hiểu do diện tích đất trồng cây công nghiệp lâu năm như cà phê đã phát triển mạnh gần như bão hoà ở giai đoạn 1995 - 2000, nên có xu hướng tăng chậm ở giai đoạn này. Mặc dù vậy, do giá mủ cao su trong những năm qua luôn ở mức cao và ổn định nên diện tích cây cao su trong thời gian quan luôn tăng lên. Đất trồng cỏ dùng vào chăn nuôi đứng thứ 3 về mức độ gia tăng trong đất nông nghiệp. Vào năm 2000, theo chỉ tiêu thống kê đất nông nghiệp của tỉnh không có đất trồng cỏ dùng vào chăn nuôi. Hiện nay, do nhu cầu phát triển chăn nuôi gia súc (trâu, bò, dê) nên tỉnh đã có chủ trương mở rộng diện tích đất trồng cỏ và cải tạo đồng cỏ tự nhiên. Diện tích tăng hơn 317 ha, tập trung ở các huyện Sa Thầy, Kon rẫy, Đăk Hà. Các loại đất còn lại trong đất nông nghiệp như đất vườn tạp và đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản có diện tích tăng không đáng kể, chủ yếu phục vụ nhu cầu sinh hoạt hằng ngày. Trong 5 năm từ 2000 - 2005, diện tích đất lâm nghiệp có rừng của tỉnh Kon Tum tăng 56203 ha, bình quân mỗi năm tăng hơn 11240 ha. Song trên thực tế diện tích tăng thêm chỉ tập trung vào đất rừng trồng. Trung bình mỗi năm trên địa bàn tỉnh trồng thêm khoảng hơn 13714,64 ha, chủ yếu là trồng rừng nguyên liệu giấy. Tuy nhiên, trong nhóm rừng trồng, đất trồng rừng phòng hộ tăng rất ít, từ năm 2000 đến năm 2005 cả tỉnh chỉ tăng được 2738 ha. Trong khi đó diện tích rừng phòng hộ tự nhiên trong giai đoạn 2000 - 2005 đã giảm 13.000 ha. Rừng phòng hộ tự nhiên của tỉnh Kon Tum tập trung chủ yếu ở các khu vực như rừng phòng hộ trọng yếu Thạch Nham, rừng phòng hộ trọng yếu thuỷ điện Yaly... Sự giảm sút của rừng phòng hộ tự nhiên sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến độ an toàn của các công trình. Mặc dù, một phần diện tích đất lâm nghiệp không có rừng giảm đi là do thực hiện Quyết định số 132/2002/QĐ- TTg của Thủ tướng Chính phủ chuyển giao cho địa phương quản lý để giải quyết đất cho đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ thiếu đất sản xuất. Song xét về lâu dài, đây vẫn là những mất mát khó có thể bù đắp về mặt tự nhiên (kể cả việc trồng rừng mới) và là một trong những nguyên nhân gây ra các thảm hoạ sinh thái ngày càng tăng trong thời gian gần đây tại tỉnh Kon Tum, vùng Tây Nguyên và cả ở các vùng lân cận (Duyên hải Nam Trung Bộ, Đông Nam Bộ) (bảng 2.3). Bảng 2.3: So sánh biến động diện tích đất lâm nghiệp có rừng giai đoạn 2000 - 2005 [29] Đơn vị tính: ha Loại đất Diện tích 2000 Diện tích 2005 Biến động: tăng (+), giảm (-) Tổng diện tích đất lâm nghiệp có rừng 606.669,2 662.872,24 56.203,04 I. Rừng tự nhiên 594.103 578.195 -15.908 1. Đất có rừng sản xuất 311.280 295.327 -15.953 2. Đất có rừng phòng hộ 206.771 193.771 -13.000 3. Đất có rừng đặc dụng 76.052 89.097 +13.045 II. Rừng trồng 12.547,02 84677,24 +72.130,22 1. Đất có rừng sản xuất 3.797,02 72.370,24 +68.573,22 2. Đất có rừng phòng hộ 8519 11257 +2738 3. Đất có rừng đặc dụng 231 1031 +800 III. Đất ươm giống cây 19 19 0 Trong vòng 5 năm, từ 2000 đến năm 2005, diện tích chưa sử dụng và sông suối, núi đá đã giảm 90.150,45 ha. Trung bình một năm đất chưa sử dụng giảm hơn 18030,09 ha, diện tích giảm tập trung vào đất đồi núi chưa sử dụng, loại đất có tỷ lệ diện tích lớn nhất trong nhóm đất chưa sử dụng. Tuy nhiên, trong nhóm đất chưa sử dụng, diện tích đất bằng chưa sử dụng đã giảm được đáng kể (trên 4500 ha). Đây là diện tích có được do hậu quả của quá trình phá rừng (đặc biệt là rừng tự nhiên) dẫn đến đất bị hoang hoá trở lại. Ngoài ra việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất trái phép từ đất lâm nghiệp sang đất nông nghiệp không theo quy hoạch cũng là một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng trên (bảng 2.4). Bảng 2.4: So sánh biến động diện tích đất chưa sử dụng giai đoạn 2000 - 2005 [26] Đơn vị tính: ha Loại đất Diện tích 2000 Diện tích 2005 Biến động: tăng (+), giảm (-) Tổng diện tích đất chưa sử dụng 238.553,94 148.403,49 -90.150,45 1. Đất bằng chưa sử dụng 4070,25 732,52 -3337,73 2. Đất đồi núi chưa sử dụng 234429,05 147668,32 -86760,73 3. Núi đá không có rừng cây 54,64 2,65 -51,93 Như vậy, quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp tỉnh Kon Tum đến năm 2010 đã thực hiện được 5 năm (từ năm 2000 đến năm 2005). Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp của tỉnh năm 2005 chính là một phần thực hiện của cả thời kỳ quy hoạch và năm quyết định trong giai đoạn kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp 5 năm đầu (2000 - 2005). Vì thế, khi đánh giá tình hình sử dụng đất nông nghiệp của tỉnh Kon Tum giai đoạn 2000 đến năm 2005 cần so sánh giữa kết quả đạt được của cả giai đoạn với kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp của giai đoạn 2000 - 2005 của tỉnh, để từ đó rút ra những nhận định chính xác về các nội dung đã thực hiện của phương án quy hoạch, những phần chưa thực hiện được so với phương án đề ra, các nội dung hợp lý hay bất hợp lý trong những phần đã thực hiện; các vấn đề nảy sinh ngoài dự kiến tác động đến phương án quy hoạch theo chiều hướng tích cực hoặc tiêu cực, những vấn đề cần phải tiếp tục xử lý... Nội dung so sánh giữa kết quả thực hiện sử dụng đất nông nghiệp giai đoạn 2000 - 2005 với kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp của tỉnh Kon Tum giai đoạn 2000 - 2005 được thể hiện như sau: Đất trồng cây hàng năm: theo kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp 2000 - 2005, diện tích đất trồng cây hàng năm sẽ giảm đi 6.827 ha, chỉ còn 48.496 ha vào năm 2005. Trong đó giảm chủ yếu vào đất nương rẫy, tiếp theo là đất trồng cây hàng năm khác. Còn đất ruộng lúa, lúa mầu sẽ tăng lên qua các năm để đảm bảo an ninh lương thực. Tuy nhiên, diện tích thực hiện năm 2005 so với thực trạng năm 2000 và kế hoạch năm 2005 có những biến động không theo đúng kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp đã dự kiến. Thể hiện rõ nhất trong sự biến động ngược chiều này là sự gia tăng mạnh mẽ của đất nương rẫy trong giai đoạn 2000 - 2005 (tăng trên 11.963,57 ha). Mặc dù, nguyên nhân của việc gia tăng đất nương rẫy trong giai đoạn này được lý giải (giành đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số theo Quyết định 132/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ), song đó chỉ là giải pháp tình thế. Vì vậy, trong những năm tới cần có kế hoạch điều chỉnh giảm dần sự gia tăng của đất nương rẫy. Đất vườn tạp: tương tự đất nương rẫy, đất vườn tạp năm 2005 cũng tăng lên so với kế hoạch năm 2005, tuy mức độ tăng không lớn nhưng cũng phản ánh một phần sự cần thiết phải điều chỉnh kế hoạch cho phù hợp với thực tế địa phương. Đất trồng cây lâu năm: so với kế hoạch năm 2005, diện tích thực hiện năm 2005 là tương đối phù hợp, hầu hết các loại đất trong đất trồng cây lâu năm đều tăng lên theo chiều thuận với kế hoạch đề ra. Đất cỏ dùng vào chăn nuôi: Kế hoạch đến năm 2005 toàn tỉnh sẽ có 8.755 ha, song đến năm 2005 mới phát triển được 317 ha (bằng 1/27 diện tích theo kế hoạch). Nguyên nhân do khi xây dựng phương án quy hoạch chưa khảo sát kỹ vùng có khả năng phát triển đồng cỏ. Vì vậy, cần thiết phải có sự điều chỉnh diện tích đồng cỏ trong tương lai để có khả năng thực thi [phụ lục 4]. Đất mặt nước nuôi trồng thuỷ sản: đã phát triển mạnh. Vậy, xét tổng thể, diện tích đất nông nghiệp năm 2005 đã đạt và vượt mức kế hoạch đề ra năm 2005. Tuy nhiên, như đã phân tích đối với từng loại đất thì cần có những điều chỉnh cụ thể nhằm đạt được kế hoạch tổng thể của quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp của tỉnh Kon Tum đến năm 2010, cũng như có sự nghiên cứu để điều chỉnh kế hoạch cho sát với khả năng thực thi và tình hình thực tế ở địa phương. Những thành tựu đã đạt được trong công tác quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp của tỉnh trong thời gian qua, đã góp phần thúc đẩy ngành nông nghiệp không ngừng phát triển. Giá trị sản xuất của ngành nông nghiệp (theo thời giá hiện hành) năm 2005 đạt 1025,971 tỷ đồng chiếm 58,94% cơ cấu của nhóm ngành, tốc độ tăng bình quân giai đoạn 2000 - 2005 là 9,15% [5, tr.39]. Bảng 2.5: Giá trị sản xuất theo giá hiện hành của ngành nông nghiệp [5] Đơn vị tính: triệu đồng Năm Tổng số Trồng trọt Chăn nuôi Dịch vụ 2000 498.821 383.227 88.935 26.659 2001 518.120 387.153 94.962 36.005 2002 595.931 472.573 89.128 34.230 2003 713.252 576.623 101.229 35.400 2004 891.561 709.719 142.322 39.520 2005 1.025.971 805.310 170.219 50.010 Về cơ cấu cây trồng, trong những năm qua, sản xuất trồng trọt ở tỉnh tập trung vào 2 nhóm cây chính là: cây lương thực (gồm lúa, ngô); cây hàng hoá (gồm cây công nghiệp ngắn ngày và cây công nghiệp lâu năm như sắn, mía, cao su, cà phê...). Năm 2005 giá trị sản xuất của hai nhóm cây này chiếm 87,6% giá trị sản xuất của ngành trồng trọt và chiếm 79,60% giá trị sản xuất của ngành nông nghiệp. Diện tích gieo trồng cây lương thực tăng từ 25.350 ha năm 2000 lên 34.033 ha năm 2005, sản lượng lương thực tăng từ 64.940 tấn năm 2000 lên 98.123 tấn năm 2005, bình quân lương thực đầu người 260 kg, đảm bảo ở mức tiêu thụ bình thường, nhưng chưa đảm bảo được mức an toàn lương thực.[5, tr.47]. Bảng 2.6: Biến động diện tích, năng suất và sản lượng nhóm cây lương thực từ năm 2000 - 2005 [5] 2000 2001 2002 2003 2004 2005 1. Cây lúa - Diện tích (ha) 20.905 21.324 20.798 20.994 22.380 24.354,68 - Năng suất (tạ/ha) 24,79 26,54 28,60 29,49 30,13 27.02 - Sản lượng (tấn) 51.830 56.601 59.483 61.901 67.439 65.810 2. Cây ngô - Diện tích (ha) 4.445 5.949 7.218 8.087 8.717 9.679 - Năng suất (tạ/ha) 29,49 32,88 34,12 36,25 35,86 33,3 - Sản lượng (tấn) 13.110 19.562 24.627 29.312 31.264 32.313 Diện tích cây hàng hoá trong những năm qua có nhiều biến động. Một số cây có diện tích tăng nhanh nhưng ngược lại một số cây thì diện tích lại suy giảm đi do sự biến động của giá cả. Trong những năm qua diện tích cây sắn tăng nhanh chiếm 98,6% tổng diện tích cây chất bột có củ, diện tích cây sắn tăng từ 15049 ha năm 2000 lên 27397 ha năm 2005, bình quân mỗi năm tăng 2469,6 ha. Sản lượng sắn năm 2005 là 372.271 tấn. Bảng 2.7: Biến động diện tích, sản lượng nhóm cây hàng hoá giai đoạn 2000 - 2005 [5] Đơn vị tính: ha, tấn 2000 2001 2002 2003 2004 2005 1. Cây sắn - Diện tích (ha) 15.049 15.616 20.140 23.429 24.272 27.397 - Sản lượng (tấn) 143.279 155.802 240.172 299.678 317.178 272.271 2. Cây mía - Diện tích (ha) 3.589 3.563 3.501 3.651 3.356 2771 - Sản lượng (tấn) 150.063 150.255 159.087 171.031 154.030 115.571 3. Cây cà phê - Diện tích (ha) 14.404 14.196 12.984 12.362 11.513 11.550 - Sản lượng (tấn) 11.847 13.683 14.806 19.188 19.388 14.326 4. Cây cao su - Diện tích (ha) 14.207 14.700 15.833 16.583 19.934 23.762 - Sản lượng (tấn) 1.398 1.235 1.555 2.552 4.564 7.441 Qua bảng 2.7 cho thấy diện tích cây mía trong những năm qua liên tục giảm từ 3589 ha năm 2000 đến năm 2005 chỉ còn 2771 ha, sự suy giảm diện tích của cây mía trong thời gian qua là do biến động về giá cả cộng với chính sách thu mua nguyên liệu mía ở tỉnh chưa hợp lý làm cho người dân không trồng mía nữa chuyển sang trồng các loại cây khác có giá trị kinh tế hơn. Trong thời gian qua diện tích cây cà phê ở tỉnh Kon Tum cũng liên tục giảm, do sự biến động của giá cả thị trường thế giới nên nhiều diện tích cây cà phê không được chăm sóc và bị phá bỏ đi năm 2000 diện tích cây cà phê là 14404 ha thì đến năm 2005 chỉ còn 11550 ha, đạt sản lượng 14.326 tấn. Riêng đối với cây cao su trong những năm qua luôn có sự tăng trưởng đều đặn từ 14207 ha năm 2000 đến năm 2005 đã tăng lên 23.762 ha chiếm 67,4% diện tích trồng cây công nghiệp dài ngày, đạt sản lượng 7.441 tấn [5, tr.80]. Đến năm 2005 diện tích cây ăn quả của tỉnh Kon Tum là 2.748 ha tăng 2.374 ha so với năm 2000. Diện tích cây chè, cây quế và cây tiêu, cây dừa... thời gian qua vẫn không có biến động lớn, tổng diện tích các loại cây này chỉ khoảng 912,14 ha chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng diện tích cây công nghiệp dài ngày. Như vậy, nhờ có sự quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp hợp lý và hiệu quả, trong giai đoạn 2000 - 2005 sản xuất nông nghiệp của tỉnh Kon Tum đã có bước chuyển biến tích cực, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 9,15%. Sản xuất lương thực có tốc độ phát triển nhanh, có tác dụng trực tiếp ổn định cuộc sống cho nhân dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số. Bước đầu hình thành các vùng chuyên canh sản xuất cây công nghiệp tập trung với quy mô ngày càng lớn như cao su, cà phê, mía, sắn... là cơ sở thuận lợi cho đầu tư thâm canh cao, ứng dụng có hiệu quả các tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Tuy nhiên, việc quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp để phát triển cây công nghiệp của tỉnh Kon Tum thời gian qua còn gặp những khó khăn hạn chế. 2.2.2.2. Những tồn tại và hạn chế trong quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp để phát triển cây công nghiệp ở tỉnh Kon Tum * Những tồn tại và hạn chế : Kon Tum là tỉnh giàu tiềm năng về đất đai, đặc biệt là đất nông nghiệp để phát triển cây công nghiệp. Tuy nhiên, thời gian qua tỉnh vẫn chưa khai thác và phát huy tốt những lợi thế vốn có này, hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp để phát triển cây công nghiệp còn thấp. Trình độ sản xuất nông nghiệp của người lao động còn thấp, năng suất cây trồng chưa cao, việc chuyển giao và ứng dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật, ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất còn chậm, đặc biệt là công nghệ sau thu hoạch dẫn tới chất lượng nông lâm sản có chất lượng thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Vì vậy, giá nông sản bán ra thấp làm ảnh hưởng trực tiếp đến người lao động. Là một tỉnh miền núi với 50,18% dân số là người dân tộc thiểu số nên ruộng đất canh tác còn bị phân tán, còn mang nặng tính chất độc canh, quảng canh và tính chất tự cấp, tự túc. Nhìn chung vấn đề đầu tư vốn, kỹ thuật, công nghệ vào những khâu then chốt của sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh chỉ giới hạn ở một số vùng có điều kiện. Việc chuyển dịch cơ cấu trong công nghiệp của nhiều vùng trong tỉnh còn chậm. Diện tích đất nông nghiệp dành cho cây trồng hàng năm còn chiếm tỷ lệ lớn so với diện tích cây lâu năm. Chưa hình thành được những vùng sản xuất tập trung, chuyên môn hoá lớn đối với một số cây mũi nhọn. Sản xuất kinh doanh trong ngành nông nghiệp theo cơ chế thị trường chưa chuyển biến mạnh, chưa tạo ra sự gắn kết giữa sản xuất - chế biến - tiêu thụ sản phẩm có hiệu quả. Hệ thống kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn tuy đã được cải thiện nhưng vẫn trong tình trạng yếu kém, chưa đồng bộ, nhiều xã vùng sâu vùng xa điều kiện đi lại còn khó khăn, nhất là vào mùa mưa. Đây cũng là nguyên nhân cơ bản để hệ thống dịch vụ nông thôn không tiếp cận được tới vùng sâu, vùng xa, tạo nên sự chênh lệch cao về mặt bằng giá, gây khó khăn trực tiếp cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm ở những vùng này. Diện tích đất nông nghiệp đang bị thu hẹp dần trong quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá vì tốc độ xây dựng những công trình giao thông, thuỷ lợi và các công trình phúc lợi xã hội không ngừng phát triển. Mặt khác, việc quản lý đất đai còn nhiều điểm bất cập, khiến cho việc quy hoạch, sử dụng đất chưa phát huy được hết tính tích cực để đem lại hiệu quả kinh tế cao. Công tác quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp của tỉnh thời gian qua chưa chú trọng đến việc xây dựng và hình thành các vùng chuyên canh cây công nghiệp, cây thực phẩm gắn với việc xây dựng hệ thống chế biến. Công tác giao đất, giao rừng và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng ruộng đất còn chậm. Đất nông nghiệp còn phân tán, manh mún, nhỏ lẻ, nhiều nơi còn diễn ra tình trạng cho thuê, mua bán, sang nhượng đất nông nghiệp mà chính quyền địa phương không kiểm soát được. Đặc biệt là vùng đất canh tác của người đồng bào dân tộc thiểu số, làm cho một số lớn hộ đồng bào dân tộc thiểu số không còn đất sản xuất và đất ở dẫn đến tình trạng, để có đất nông nghiệp sản xuất họ phải đốt rừng làm rẫy và một số thế lực thù địch lợi dụng vào vấn đề này xuyên tạc và lôi kéo bà con đồng bào dân tộc thiểu số vào các hoạt động gây mất ổn định tình hình chính trị - xã hội. Vấn đề tiêu thụ nông sản phẩm đang là nỗi lo thường xuyên của nông dân. Trong khi giá cả vật tư đầu vào phục vụ cho sản xuất nông nghiệp tăng nhanh, từ chi phí sản xuất đến các vật tư như phân bón, thuốc trừ sâu, xăng dầu và giá cước vận tải... đều tăng lên khá cao. Thì giá cả nông sản phẩm luôn trong tình trạng bấp bênh gây ra ứ đọng, thậm chí là không tiêu thụ được. Làm cho người nông dân không đủ bù đắp giá trị sức lao động v

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuận văn- Quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp để phát triển cây công nghiệp ở tỉnh Kon Tum.pdf
Tài liệu liên quan