Tài liệu Luận văn Quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp để phát triển cây công nghiệp ở tỉnh Kon Tum: Luận văn 
Quy hoạch, sử dụng đất 
nông nghiệp để phát triển 
cây công nghiệp ở tỉnh 
 Kon Tum 
MỞ ĐẦU 
1. Tính cấp thiết của đề tài 
Trong các hoạt động kinh tế ở nông thôn đặc biệt là sản xuất nông 
nghiệp luôn gắn liền với đất đai. Trong nông nghiệp, đất đai không chỉ là địa 
điểm để tiến hành sản xuất kinh doanh như trong các ngành kinh tế khác, mà 
đất đai còn trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, hơn nữa còn là tư liệu 
sản xuất đặc biệt. Nhận thấy được tầm quan trọng của đất đai, đặc biệt là đất 
nông nghiệp, trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ 
trương, chính sách phù hợp trong việc khai thác sử dụng đất đai góp phần 
thúc đẩy nền nông nghiệp nước nhà phát triển. Trong đó, công tác lập quy 
hoạch, kế hoạch sử dụng đất luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng, 
Chính phủ được triển khai trên phạm vi cả nước và đạt được một số kết quả 
nhất định. Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 và kế hoạch sử dụng đất đến 
năm 2005 của cả nước đã đượ...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
104 trang | 
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1424 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp để phát triển cây công nghiệp ở tỉnh Kon Tum, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn 
Quy hoạch, sử dụng đất 
nông nghiệp để phát triển 
cây công nghiệp ở tỉnh 
 Kon Tum 
MỞ ĐẦU 
1. Tính cấp thiết của đề tài 
Trong các hoạt động kinh tế ở nông thôn đặc biệt là sản xuất nông 
nghiệp luôn gắn liền với đất đai. Trong nông nghiệp, đất đai không chỉ là địa 
điểm để tiến hành sản xuất kinh doanh như trong các ngành kinh tế khác, mà 
đất đai còn trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, hơn nữa còn là tư liệu 
sản xuất đặc biệt. Nhận thấy được tầm quan trọng của đất đai, đặc biệt là đất 
nông nghiệp, trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ 
trương, chính sách phù hợp trong việc khai thác sử dụng đất đai góp phần 
thúc đẩy nền nông nghiệp nước nhà phát triển. Trong đó, công tác lập quy 
hoạch, kế hoạch sử dụng đất luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng, 
Chính phủ được triển khai trên phạm vi cả nước và đạt được một số kết quả 
nhất định. Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 và kế hoạch sử dụng đất đến 
năm 2005 của cả nước đã được Quốc hội thông qua ngày 15/6/2004 tại kỳ họp 
thứ 5, khoá XI. Quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh đã được triển khai ở tất cả 64 
tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương trong cả nước và được Thủ tướng 
Chính phủ phê duyệt. 
Tuy nhiên, quá trình triển khai và thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử 
dụng đất vẫn còn bộc lộ một số tồn tại. Đặc biệt sau khi quy hoạch, sử dụng 
đất được phê duyệt và đưa vào thực hiện, tình hình theo dõi, giám sát việc 
thực hiện quy hoạch còn nhiều bất cập diễn ra dẫn đến tình trạng "quy hoạch 
treo" hoặc không điều chỉnh kịp những biến động về sử dụng đất trong quá 
trình thực thi quy hoạch tại địa phương. 
Do đó, tôi lựa chọn đề tài " Quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp để 
phát triển cây công nghiệp ở tỉnh Kon Tum " để nghiên cứu, khảo sát tình 
hình quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp thực tế trên địa bàn tỉnh Kon Tum 
nhằm đưa ra những giải pháp điều chỉnh kịp thời, những nội dung sử dụng đất 
nông nghiệp bất hợp lý, không phù hợp với phương án quy hoạch sử dụng đất 
nông nghiệp đã được phê duyệt góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông 
nghiệp ở địa phương. 
2. Tình hình nghiên cứu đề tài 
Từ khi đổi mới đến nay, ở nước ta việc nghiên cứu vấn đề đất nông 
nghiệp đã có một số công trình, bài viết về vấn đề này như: 
- "Giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông lâm 
nghiệp ở huyện Bạch Thông tỉnh Bắc Cạn" của Ngô Xuân Hoàng, Luận án 
tiến sĩ, Đại học Nông nghiệp I Hà Nội, 2003. 
- "Khai thác nguồn lực đất đai để phát triển nông nghiệp tỉnh Đồng 
Nai", của Bùi Thị Thuận, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2000. 
- "Khai thác tiềm năng đất đai nông nghiệp để phát triển kinh tế hàng 
hóa trên địa bàn tỉnh Phú Thọ" của Nguyễn Tiến Khôi, Học viện Chính trị 
quốc gia Hồ Chí Minh, 1999. 
- "Sử dụng đất nông nghiệp ở tỉnh Sơn La hiện nay" của Hà Công 
Nghĩa, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2004. 
- "Quản lý sử dụng đất nông nghiệp ở Tây Nguyên" của TS. Nguyễn 
Thế Toàn (chủ nhiệm đề tài), Đề tài khoa học cấp bộ, 2000. 
- "Thực trạng quản lý nhà nước về đất đai nông nghiệp ở Việt Nam và 
kiến nghị" Nguyễn Mạnh Tuân, Nông nghiệp và phát triển nông thôn, 
số 7/2004. 
- "Quản lý và sử dụng đất ở các nông, lâm trường các tỉnh miền núi 
phía Bắc" Bùi Quang, Tài nguyên và môi trường, số 12/2004. 
Đối với Kon Tum, những đề tài đi sâu vào nghiên cứu quy hoạch, sử 
dụng đất nông nghiệp để phát triển cây công nghiệp chưa có công trình nào. 
Do đó, tôi mạnh dạn chọn đề tài này hy vọng góp một phần nhỏ trong việc tìm 
ra những giải pháp để phát huy tiềm năng, thế mạnh của đất đai trong việc 
phát triển cây công nghiệp ở tỉnh Kon Tum. 
3. Mục đích và nhiệm vụ 
* Mục đích: 
Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về đất nông nghiệp và quy hoạch, 
sử dụng đất nông nghiệp; phân tích đánh giá thực trạng sử dụng đất nông 
nghiệp ở Kon Tum, từ đó đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện quy 
hoạch, sử dụng đất nông nghiệp để phát triển cây công nghiệp ở tỉnh Kon Tum. 
* Nhiệm vụ: 
- Khái quát, hệ thống hoá lý luận về đất nông nghiệp và quy hoạch, sử 
dụng đất nông nghiệp. 
- Phân tích, đánh giá thực trạng quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp để 
phát triển cây công nghiệp của tỉnh Kon Tum trong thời gian qua. 
- Đề xuất những giải pháp nhằm quy hoạch, sử dụng có hiệu quả đất 
nông nghiệp để phát triển cây công nghiệp ở tỉnh Kon Tum trong thời gian 
tới. 
4. Đối tượng nghiên cứu 
Nghiên cứu quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp để phát triển cây công 
nghiệp ở tỉnh Kon Tum từ năm 2000 đến nay. 
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 
Thực hiện đề tài này, tác giả dựa trên cơ sở phương pháp luận và 
phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin, như phương pháp 
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, trừu tượng hoá khoa học, trong đó đặc 
biệt coi trọng phương pháp phân tích, tổng hợp thống kê, nghiên cứu và tổng 
kết thực tiễn. 
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn 
- Phân tích, đánh giá thực trạng quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp để 
phát triển cây công nghiệp ở tỉnh Kon Tum từ năm 2000 đến nay. 
- Đề xuất những giải pháp từng bước hoàn thiện quy hoạch, sử dụng đất 
nông nghiệp để phát triển cây công nghiệp ở Kon Tum trong thời gian tới. 
7. Kết cấu của luận văn 
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn 
gồm 3 chương, 6 tiết. 
Chương 1 
ĐẤT NÔNG NGHIỆP VÀ QUY HOẠCH, SỬ DỤNG 
 ĐẤT NÔNG NGHIỆP 
1.1. ĐẤT NÔNG NGHIỆP, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẤT NÔNG NGHIỆP 
1.1.1. Đất nông nghiệp và đặc điểm của đất nông nghiệp 
* Khái niệm đất nông nghiệp: 
Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá của mọi quốc gia, là tư liệu sản 
xuất chủ yếu và đặc biệt là của sản xuất nông nghiệp, là một trong các yếu tố 
quan trọng nhất của môi trường sống, là địa bàn phân bố dân cư, xây dựng các 
cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, và quốc phòng; có ý nghĩa kinh tế, 
chính trị, xã hội sâu sắc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Như 
vậy, đất đai được dùng hầu hết vào các ngành sản xuất, các lĩnh vực của đời 
sống. Theo từng ngành sản xuất, từng lĩnh vực của đời sống, đất đai được 
phân thành các loại khác nhau và gọi tên theo ngành, lĩnh vực chung được sử 
dụng. 
Với ý nghĩa đó, đất nông nghiệp là đất được sử dụng chủ yếu vào sản 
xuất của các ngành nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản 
hoặc để sử dụng nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp. Ngoài tên gọi đất 
nông nghiệp, đất sử dụng vào sản xuất nông nghiệp còn được gọi là ruộng đất. 
Khi nói đất nông nghiệp người ta nói đất được sử dụng chủ yếu vào sản 
xuất của ngành nông nghiệp, bởi vì trên thực tế có trường hợp đất đai được sử 
dụng vào những mục đích khác nhau của các ngành. Trong trường hợp đó, đất 
đai được sử dụng chủ yếu cho mục đích hoạt động sản xuất nông nghiệp mới 
được coi là đất nông nghiệp nếu không là các loại đất khác (tuỳ theo việc sử 
dụng vào mục đích nào là chính). Tuy nhiên, để sử dụng đầy đủ hợp lý ruộng 
đất, trên thực tế người ta coi đất đai có thể tham gia vào hoạt động sản xuất 
nông nghiệp mà không cần có sự đầu tư nào lớn cả là đất nông nghiệp cho dù 
đất đó đã đưa vào sản xuất nông nghiệp hay chưa. 
Căn cứ vào mục đích sử dụng chủ yếu của đất đai, tại Điều 13 luật đất 
đai năm 2003 có ghi: 
* Nhóm đất nông nghiệp bao gồm các loại đất: 
- Đất trồng cây hàng năm gồm đất trồng lúa, đất trồng cỏ dùng vào 
chăn nuôi, đất trồng cây hàng năm khác. 
- Đất trồng cây lâu năm. 
- Đất rừng sản xuất. 
- Đất rừng phòng hộ. 
- Đất rừng đặc dụng. 
- Đất nuôi trồng thuỷ sản. 
- Đất làm muối. 
- Đất nông nghiệp khác theo quy định của Chính phủ. 
Như vậy, có thể hiểu đất nông nghiệp là đất được sử dụng chủ yếu vào 
sản xuất của ngành nông nghiệp bao gồm: đất trồng cây hàng năm, đất trồng 
cây lâu năm, đất rừng sản xuất, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng, đất 
nuôi trồng thuỷ sản, đất làm muối và đất nông nghiệp khai thác theo quy định 
của Chính phủ. 
* Đặc điểm cơ bản của đất nông nghiệp: 
Ở mỗi quốc gia đất đai đều được sử dụng vào nhiều mục đích khác 
nhau, riêng đất nông nghiệp có những đặc điểm cơ bản giống nhau, được biểu 
hiện cụ thể: 
Một là, đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất đặc biệt và chủ yếu. 
Đất nông nghiệp là tài sản quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất 
đặc biệt không thể thay thế được của ngành nông - lâm nghiệp. Nó là cơ sở tự 
nhiên là tiền đề trước tiên của mọi quá trình sản xuất. C.Mác đã từng chỉ rõ: 
"đất là không gian, yếu tố cần thiết của tất thảy mọi quá trình sản xuất và mọi 
hoạt động của loài người" [24, tr.473]. 
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt 
Nam đã khẳng định "đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu 
sản xuất đặc biệt, là nguồn nội lực và là nguồn vốn to lớn của đất nước" [8, 
tr.61]. 
Trong hoạt động sản xuất nông nghiệp đất đai là tư liệu sản xuất chủ 
yếu và đặc biệt không thể thay thế được. Vì đất nông nghiệp vừa là tư liệu lao 
động vừa là đối tượng lao động. Đối với các loại đất chuyên dùng khác thì đất 
đai chỉ là đối tượng lao động, con người phải sử dụng tư liệu lao động để tác 
động vào tạo ra sản phẩm. 
Đất nông nghiệp là đối tượng lao động khi con người sử dụng công cụ 
sản xuất tác động vào đất làm cho đất thay đổi hình dạng, như cày, bừa, lên 
luống... quá trình đó làm tăng chất lượng của ruộng đất, tạo điều kiện thuận 
lợi để tăng năng suất và chất lượng cây trồng. Ngược lại, khi con người sử 
dụng công cụ sản xuất tác động lên đất, thông qua các thuộc tính lý học, hoá 
học, sinh vật học và các thuộc tính khác của đất để tác dụng lên cây trồng. 
Trong quá trình này đất nông nghiệp đóng vai trò là tư liệu lao động. Sự kết 
hợp của đối tượng lao động và tư liệu lao động đã làm cho đất nông nghiệp 
trở thành tư liệu sản xuất trong sản xuất nông nghiệp. 
Hai là, đất nông nghiệp có vị trí cố định và không thể di chuyển được. 
Đất đai nói chung, đất nông nghiệp nói riêng là tài nguyên thiên nhiên 
không sinh sản được. Bởi vì, không giống như vốn, chúng không thể sản sinh 
thêm thông qua quá trình sản xuất. Đất nông nghiệp có vị trí cố định không di 
chuyển được và có khả năng tái tạo được. 
Các tư liệu sản xuất khác có thể di chuyển đến những nơi thiếu và cần 
thiết, nhưng hầu hết đều không có khả năng tái tạo lại được. Ngược lại, đất 
nông nghiệp là tư liệu sản xuất chủ yếu, nhưng lại có vị trí cố định không thể 
di chuyển từ vị trí này sang vị trí khác, nó gắn liền với điều kiện tự nhiên, 
điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi vùng. Đặc tính này đồng thời nó quy định tính 
giới hạn về quy mô theo không gian gắn liền với môi trường mà đất đai chịu sự 
chi phối, gắn liền với nguồn gốc hình thành của đất đai, địa hình, khí hậu, kết 
cấu đất, độ màu mỡ, vị trí của đất... vị trí của đất nông nghiệp có ý nghĩa lớn về 
mặt kinh tế trong quá trình khai thác sử dụng đất. Thông thường, đất nông 
nghiệp ở gần các khu đô thị, thuận tiện về giao thông thường được khai thác sử 
dụng triệt để hơn đất đai ở các vùng xa xôi, hẻo lánh, và do đó vị trí đất mang 
lại cho đất nông nghiệp đặc tính xã hội là có giá trị sử dụng lớn hơn. 
Mặt khác, cùng với xu thế đô thị hoá ngày càng nhanh, chủ thể sử dụng 
đất có xu hướng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang các mục 
đích khác để thu được hiệu quả kinh tế cao hơn. Quá trình này làm cho diện 
tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp. Ở Việt Nam xu hướng này đã và 
đang diễn ra ngày một nhanh chóng, trong 10 năm từ năm 1990 - 2000 đất 
trồng lúa nước ở hai vùng đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ bị giảm 
không có diện tích bù đã lên tới 62.612ha thường là ruộng lúa tốt [4, tr.15]. 
Đặc điểm này đòi hỏi để sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả, cần kết 
hợp sức lao động với các tư liệu sản xuất khác một cách hợp lý. Muốn thế, 
một mặt phải quy hoạch đồng bộ các khu vực canh tác đất nông nghiệp, bố trí 
các trung tâm dịch vụ và phân bố các điểm dân cư hợp lý; mặt khác, phải cải 
thiện điều kiện tự nhiên, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và hệ thống kết cấu 
hạ tầng nhằm tạo điều kiện sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả, nâng cao 
đời sống nông dân và từng bước thay đổi bộ mặt nông thôn. 
Ba là, đất nông nghiệp bị giới hạn về mặt diện tích, nhưng sức sản xuất 
của nó lại là không giới hạn. 
Do đặc điểm tự nhiên của đất đai quy định, cho nên diện tích đất nông 
nghiệp đưa vào canh tác luôn bị giới hạn bởi không gian nhất định, bao gồm: 
giới hạn tuyệt đối và giới hạn tương đối. Xét trên góc độ giới hạn tuyệt đối 
thì diện tích đất đai của toàn bộ hành tinh, của từng quốc gia, của từng địa 
phương là những con số hữu hạn, có thể lượng hoá bằng những con số cụ thể. 
Ví dụ, tổng diện tích đất tự nhiên của tỉnh Kon Tum là 961.450ha của cả nước 
Việt Nam là 32.924,1 nghìn ha [4, tr.5], tổng diện tích đất có tiềm năng sản 
xuất nông nghiệp của thế giới là khoảng 3.200 triệu ha, trong đó có 46% đang 
được canh tác [15, tr.17]. Theo tính toán của Liên hợp quốc, có khoản 23% 
diện tích trên toàn thế giới là sa mạc hoặc đất cằn, 20% là nửa khô cằn, 
khoảng 80 triệu người sống ở những vùng đất hầu như không sử dụng được vì 
xói mòn, bãi cát hoặc ngập mặn. 
Không phải tất cả diện tích tự nhiên đều đưa vào canh tác được, tùy 
thuộc vào điều kiện đất đai, địa hình và trình độ phát triển kinh tế của từng 
nước mà diện tích đất nông nghiệp đưa vào canh tác chỉ chiếm tỷ lệ phần trăm 
thích hợp. Đó là giới hạn tương đối, giới hạn này nhỏ hơn nhiều so với tổng 
quỹ đất tự nhiên bởi tác động của yếu tố đất đai, khí hậu, thời tiết đa dạng, 
phức tạp dẫn đến việc sử dụng các nguồn lực vào sản xuất nông nghiệp mang 
tính khu vực và tính thời vụ rõ rệt. 
Ở nước ta tỷ lệ đất nông nghiệp so với tổng quỹ đất tự nhiên năm 2000 
chiếm 28,38%, có khả năng đưa lên tối đa là 35% với tổng diện tích tự nhiên 
329.241km2, Việt Nam là nước có quy mô trung bình, xếp thứ 66 trong tổng 
số trên 200 nước, nhưng là nước đông dân thứ 13 thế giới nên bình quân đất 
đai theo đầu người rất thấp, chỉ bằng 1/6 mức bình quân của thế giới (0,45ha), 
đứng hàng thứ 8 Đông Nam Á và thứ 170 trong số trên 200 nước trên thế 
giới [4, tr.5]. 
Trong những năm gần đây, quỹ đất nông nghiệp ở nước ta đã có những 
biến động đáng kể theo hướng tăng lên từ mức xấp xỉ 7 triệu ha năm 1990 lên 
9.345.200 ha vào năm 2000. Nhưng đó chủ yếu là sự gia tăng mạnh về diện 
tích đất trồng cây lâu năm ở vùng Đông Nam Bộ và Tây Nguyên lên mức 
1.467.951, chiếm 67,3% diện tích trồng cây lâu năm của cả nước, còn diện 
tích trồng lúa lại giảm xuống. Việc mở rộng diện tích đất nông nghiệp luôn 
chịu ảnh hưởng của giới hạn về diện tích đất tự nhiên, nhất là những vùng hay 
khu vực có quỹ đất tự nhiên gần như đã được đưa vào khai thác và sử dụng 
hết thì việc mở rộng diện tích tự nhiên gặp rất nhiều trở ngại. Mặt khác, 
không phải toàn bộ diện tích đất tự nhiên đều có thể dễ dàng chuyển hoá 
thành đất nông nghiệp. Trên thực tế, việc chuyển hoá đất tự nhiên thành đất 
nông nghiệp còn phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố như địa hình, kết cấu của đất, 
điều kiện canh tác, khả năng tưới tiêu... 
Tuy nhiên, dù bị giới hạn về mặt không gian, nhưng sức sản xuất của 
đất nông nghiệp lại không có giới hạn, nghĩa là trên mỗi đơn vị diện tích 
đất nông nghiệp, nếu không ngừng tăng cường đầu tư vốn, sức lao động, 
đưa khoa học và công nghệ mới vào sản xuất thì số lượng sản phẩm đem 
lại trên một đơn vị sản phẩm là ngày càng nhiều hơn và chất lượng hơn. 
Đây là con đường chủ yếu để nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp 
và phát triển kinh tế nông thôn nhằm đáp ứng yêu cầu tăng lên về nông sản 
phẩm cung cấp cho xã hội. 
Adam Smith đã viết: "đất, trong hầu hết các tình huống, sản sinh ra một 
lượng lương thực nhiều hơn so với số lượng đủ để duy trì sự sống của người 
lao động" [1, tr.240]. 
Như vậy, xét về tổng thể, quỹ đất tự nhiên nói chung và quỹ đất nông 
nghiệp nói riêng luôn bị giới hạn về mặt diện tích, trong khi đó nhu cầu về 
nông sản phẩm của con người ngày càng tăng lên. Do đó, phải sử dụng đất 
nông nghiệp hết sức tiết kiệm và xem xét kỹ lưỡng hợp lý khi bố trí sử dụng 
các loại đất. Mặt khác, phải chú ý ứng dụng tiến bộ kỹ thuật để tăng khả năng 
phục hồi và tái tạo của đất đai. 
Bốn là, đất nông nghiệp vừa là sản phẩm tự nhiên, vừa là sản phẩm của 
lao động. 
Đất nông nghiệp vốn là sản phẩm của tự nhiên, nó xuất hiện và tồn tại 
ngoài ý muốn của con người. Đất nông nghiệp được hình thành do quá trình 
phong hoá đá và sự tác động của vi sinh vật, nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng... và 
do con người tiến hành khai phá, đưa vào sử dụng nhằm phục vụ lợi ích của 
con người. Trong quá trình lịch sử lâu dài đó, lao động của con người qua 
nhiều thế hệ đã được kết tinh vào đó. Do đó, ngày nay đất nông nghiệp vừa là 
sản phẩm của tự nhiên, vừa là sản phẩm của lao động. 
C.Mác viết: "Tuy có những thuộc tính như nhau, nhưng một đám đất 
được canh tác có giá trị hơn một đám đất bị bỏ hoang" [24, tr.246]. 
Đặc điểm này đặt ra trong quá trình sử dụng con người cần phải không 
ngừng cải tạo và bồi dưỡng, đồng thời phải khai thác đất nông nghiệp cho hợp 
lý làm cho đất ngày càng màu mỡ hơn. Thực tế cho thấy, đất đai là tư liệu sản 
xuất chủ yếu không bị đào thải khỏi quá trình sản xuất, nếu sử dụng hợp lý thì 
đất đai ngày càng tốt hơn. Việc sử hợp lý ruộng đất hay không là tuỳ thuộc 
vào quá trình sử dụng có kết hợp chặt chẽ giữa khai thác, sử dụng ruộng đất 
với việc bảo vệ, bồi dưỡng và cải tạo đất đai hay không. Vì thế trong quá trình 
sử dụng đất nông nghiệp phải tìm mọi biện pháp để bảo vệ đất, chống xói 
mòn, rửa trôi. Phải thường xuyên coi trọng công tác bồi dưỡng và cải tạo đất 
làm tăng độ phì nhiêu của đất đai. 
Ở nước ta, đất đai thuộc sở hữu toàn dân. Nhà nước, với tư cách là đại 
diện cho quyền sở hữu đó, thông qua hệ thống chính sách, pháp luật để thực 
hiện việc giao quyền sử dụng đất, cho thuê đất đối với các tổ chức và các hộ 
gia đình và cá nhân có nhu cầu. Qua đó thực hiện việc quy hoạch sử dụng đất 
đai một cách hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả khuyến khích người lao động định 
hướng, lựa chọn ngành nghề kinh doanh phù hợp. 
Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá IX 
của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: "quyền sử dụng đất là hàng 
hoá đặc biệt. Chính sách đất đai phải chú ý đầy đủ tới các mặt kinh tế, 
chính trị, xã hội; bảo đảm hài hoà lợi ích của nhà nước, người đầu tư và 
người sử dụng đất, trong đó cần chú trọng đúng mức lợi ích của nhà nước, 
của xã hội..." [9, tr.61]. 
Như vậy, việc Đảng và Nhà nước ta thừa nhận quyền sử dụng đất là 
một hàng hoá đặc biệt đã tạo cho lĩnh vực nông nghiệp có bước phát triển 
mới. Nó đòi hỏi người sản xuất nông nghiệp phải sử dụng đất hợp lý, tiết 
kiệm để đem lại hiệu quả cao nhất. 
Năm là, đất nông nghiệp có chất lượng không đồng đều 
Đất nông nghiệp không đồng nhất về chất lượng do sự khác nhau giữa 
các yếu tố dinh dưỡng vốn có của nó. Đó là kết quả một mặt là của quá trình 
hình thành đất, mặt khác quan trọng hơn là quá trình canh tác của con người. 
Độ màu mỡ của đất nông nghiệp nói lên khả năng cung cấp dinh dưỡng cho 
cây trồng. Con người không những chỉ sử dụng độ màu mỡ tự nhiên của đất, 
mà còn có khả năng làm tăng thêm độ màu mỡ của đất. Ngược lại, nếu sử 
dụng không hợp lý thì làm giảm độ màu mỡ của tự nhiên. Thực tế này đã diễn 
ra ở một số vùng miền núi và trung du nước ta. Ở những vùng này, trước đây 
con người chỉ lợi dụng độ màu mỡ tự nhiên vốn có của đất đai để canh tác, 
không chú ý bồi dưỡng, cải tạo nên đất bị bạc màu, một số diện tích trước đây 
có độ màu mỡ cao nay đã kiệt quệ. 
Vì vậy, trong quá trình sử dụng, khai thác đất nông nghiệp cần thiết 
phải thường xuyên cải tạo và bồi dưỡng cho đất, không ngừng nâng cao 
độ đồng đều của đất nông nghiệp ở từng cánh đồng, từng khu vực để đạt 
năng suất cây trồng cao. Nó đòi hỏi người sản xuất phải xác định tỷ lệ về 
các nguồn lực tương xứng một cách hợp lý như vốn, nhân lực, loại cây 
trồng vật nuôi... có như vậy thì mới có thể đem lại được hiệu quả kinh tế 
cao cho mình. 
C.Mác viết: "Ưu thế của đất là những khoản đầu tư liên tiếp có thể đem 
lại lợi nhuận mà không làm thiệt hại đến những khoản đầu tư trước, ưu thế đó 
của đất đồng thời cũng bao hàm cả khả năng có những sự chênh lệch trong 
sản phẩm của những khoản đầu tư liên tiếp ấy" [24, tr.1845]. 
Điều này có nghĩa là việc nâng cao chất lượng, độ phì nhiêu, độ đồng đều 
của đất là điều cần thiết để vừa không ngừng nâng cao năng suất và chất lượng 
nông sản, lại vừa bảo vệ đất, giữ cho đất được sử dụng lâu dài và bền vững. 
Mặt khác, không phải bất kỳ trường hợp nào cũng cần đến việc nâng 
cao độ đồng đều, trong một số trường hợp xuất phát từ đặc điểm chất lượng 
đất phân bố không đồng đều, mỗi loại đất ở những vị trí nhất định lại chịu sự 
chi phối của các đặc tính tự nhiên của vị trí, dẫn đến nó chỉ cho phép trồng 
trọt hay chăn nuôi những loại cây trồng và vật nuôi thích hợp. Từ đó, ở những 
nơi có chất lượng đất đặc biệt cần phải chuyên canh những loại cây trồng và 
vật nuôi thích hợp nhất, để đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất, nhằm khai thác 
tối đa lợi thế so sánh có được. 
1.1.2. Vai trò của đất nông nghiệp 
Đất nông nghiệp có vai trò hết sức quan trọng, quyết định đến toàn bộ 
hoạt động sản xuất của ngành nông nghiệp. Vai trò này thể hiện ở những nội 
dung sau đây: 
* Đất nông nghiệp là một điều kiện tối cần thiết cho hoạt động kinh tế 
nông thôn 
Từ xa xưa đến nay, hoạt động kinh tế của nông dân chủ yếu là sản xuất 
nông nghiệp. Để sản xuất, họ phải sử dụng công cụ lao động tác động vào đất 
đai. Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt quan trọng không thể thiếu được đối 
với người nông dân. Nếu không có đất để sản xuất thì không thể có bất cứ 
một nền nông nghiệp nào. Điều này đúng với mọi thời đại. 
Đất đai là tặng vật của tự nhiên cho con người. Nhờ có đất mà nông 
dân đã sản xuất ra lương thực, thực phẩm đáp ứng nhu cầu của họ, gia 
đình và của cả xã hội. Trong điều kiện kinh tế nông nghiệp, đất đai đã trở 
thành tư liệu sản xuất quan trọng nhất và là điều kiện sống còn đối với 
hoạt động sản xuất nông nghiệp của người nông dân. Người nông dân 
không thể tiến hành sản xuất nông nghiệp nếu như không có đất. Đất nông 
nghiệp là điều kiện tối cần thiết để người nông dân đem kết hợp nó với 
sức lao động sẵn có của mình để tạo ra sản phẩm nông sản Điều này có 
nghĩa là họ không thể sống được nếu không được hưởng lợi do việc sử 
dụng đất nông nghiệp. Vì vậy, đất nông nghiệp là một tư liệu sản xuất 
không thể thiếu đối với bất kỳ người nông dân nào. 
* Đất nông nghiệp là một nguồn lực đầu vào đặc biệt quan trọng của 
sản xuất nông nghiệp 
Nguồn lực là tất cả các nguồn tài nguyên đang được sử dụng hoặc có 
thể được sử dụng vào sản xuất của cải vật chất hoặc dịch vụ. Về mặt kinh tế, 
các yếu tố nguồn lực của sản xuất là phạm trù kinh tế dùng để chỉ những 
nguồn tài nguyên thiên nhiên, kinh tế và xã hội đã, đang và sẽ được sử dụng 
vào hoạt động kinh tế để tạo ra của cải vật chất hay dịch vụ đáp ứng yêu cầu 
nhất định của xã hội. 
Khi nói đến vai trò của đất đai, C.Mác viết: "đất là không gian, yếu tố 
cần thiết của tất thảy mọi sự sản xuất và mọi hoạt động của loài người" 
[24, tr.474]. Cũng như đối với sản xuất nói chung, sản xuất nông nghiệp tất 
yếu cần đến sự tham gia của đất đai. 
Thật vậy, để có được nông sản, cần phải kết hợp hai yếu tố sức lao 
động với tư liệu sản xuất, trong đó quan trọng nhất và cũng là nhân tố không 
thể thiếu được của tư liệu sản xuất là đất nông nghiệp. Đất nông nghiệp không 
chỉ thuần tuý là tư liệu sản xuất, mà là một loại tư liệu sản xuất đặc biệt. Nó là 
một trong những nhân tố quyết định đến giá trị của nông phẩm hàng hoá sản 
xuất ra. 
Hơn nữa, sản xuất nông nghiệp có tính đặc thù cao so với các ngành 
sản xuất khác. Đó là ngành sản xuất dựa trên mối quan hệ của các cơ thể sinh 
vật sống với môi trường, tuân theo các quy luật sinh học và chịu ảnh hưởng 
trực tiếp bởi điều kiện ngoại cảnh. Đặc biệt, đất nông nghiệp vừa là nơi cư 
ngụ của các sinh vật sống, vừa là nơi cung cấp nước, chất dinh dưỡng, vừa là 
môi trường cho mọi hoạt động sống, sinh trưởng, phát triển của các sinh vật 
sinh sống diễn ra. Nếu không có đất hoặc thiếu đất thì mọi hoạt động sinh học 
đó không thể diễn ra một cách bình thường. 
Như vậy, đất nông nghiệp là một trong những nguồn lực đầu vào quan 
trọng không thể thiếu được của quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh trong 
lĩnh vực nông nghiệp. Tất nhiên, trong hoạt động kinh tế, con người có thể 
làm tăng độ phì của đất, có thể tìm kiếm, lựa chọn cây trồng, vật nuôi thích 
hợp để làm tăng và phát huy vai trò của đất nông nghiệp trong sản xuất. Nếu 
không có phương thức canh tác hợp lý thì các tiềm năng của đất nông nghiệp 
không trở thành hiện thực tức là không thể phát huy được vai trò của nó đối 
với sản xuất của con người. 
* Đất nông nghiệp là một nhân tố tự nhiên đặc biệt quan trọng trong 
việc xây dựng cơ cấu kinh tế 
Việc phát hiện ra đặc tính của từng loại đất có ý nghĩa quan trọng trong 
phân bổ đất đai giữa các ngành nông nghiệp, qua đó xây dựng cơ cấu nông 
nghiệp hợp lý. 
Trong sản xuất nông nghiệp có câu thành ngữ "đất nào cây ấy". Tức 
là mỗi loại đất đều có một thành phần cơ giới nhất định, được tạo nên từ 
các loại đá mẹ nhất định. Từ đó, các loại đất khác nhau có độ phì khác 
nhau, thành phần các nguyên tố đa lượng, vi lượng chứa đựng trong chúng 
là khác nhau, đặc tính thấm hút nước, độ tơi xốp cũng khác nhau. Cho nên, 
từng loại đất chỉ phù hợp với từng loại cây trồng, vật nuôi nhất định. Chỉ 
trong điều kiện được canh tác trên loại đất phù hợp với đặc tính sinh lý, 
sinh hoá của cây trồng, vật nuôi thì chúng mới có thể cho thu hoạch sản 
phẩm năng suất cao, chất lượng tốt. Đặc biệt, là đối với cây trồng sử dụng 
trực tiếp các chất dinh dưỡng có sẵn trong đất để sinh trưởng và phát triển. 
Do vậy, việc phát hiện ra đặc tính của các loại đất khác nhau có một ý 
nghĩa vô cùng quan trọng trong việc lựa chọn và phân bổ đất đai trong quá 
trình canh tác. Từ đó, mới có thể xây dựng một cơ cấu kinh tế nông nghiệp 
hợp lý, tận dụng có hiệu quả các tiềm năng sẵn có của đất đai nhằm phát triển 
một nền nông nghiệp hàng hoá có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. 
1.1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến sử dụng đất nông nghiệp 
- Về điều kiện tự nhiên: 
Khi sử dụng đất nông nghiệp, ngoài bề mặt không gian (diện tích 
trồng trọt), cần lưu ý đến việc thích ứng với điều kiện tự nhiên và quy luật 
sinh thái tự nhiên của đất cũng như các yếu tố bao quanh mặt đất (nhiệt độ, 
ánh sáng, lượng mưa, không khí và các khoáng sản dưới lòng đất). Trong 
đó, điều kiện tự nhiên, khí hậu là yếu tố hạn chế hàng đầu của việc sử dụng 
đất đai, sau đó là điều kiện đất đai (chủ yếu là địa hình, thổ nhưỡng) và các 
yếu tố khác. 
* Yếu tố khí hậu: 
Yếu tố khí hậu ảnh hưởng rất lớn, trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp và 
điều kiện sinh hoạt của con người. Sự khác nhau về nhiệt độ, độ ẩm trong 
ngày, giữa các mùa mưa trong năm hay các khu vực khác nhau... trực tiếp ảnh 
hưởng đến sự phân bố, sinh trưởng và phát triển của cây trồng, rừng tự 
nhiên... Cường độ ánh sáng mạnh hay yếu, thời gian chiếu sáng dài hay ngắn 
cũng có tác dụng nhất định đối với sinh trưởng, phát triển và quang hợp của 
cây trồng. Chế độ nước, lượng mưa nhiều hay ít, bốc hơi mạnh hay yếu có ý 
nghĩa quan trọng trong việc giữ nhiệt độ và độ ẩm của đất đai, cũng như khả 
năng đảm bảo cung cấp nước cho sinh trưởng của cây trồng, thảm thực vật, 
gia súc và thuỷ sản... 
* Điều kiện đất đai: 
Sự khác nhau giữa địa hình, địa mạo, độ cao so với mặt nước biển, độ 
dốc và sự xói mòn mặt đất... thường dẫn tới sự khác nhau về đất đai và khí 
hậu, từ đó làm ảnh hưởng tới sản xuất và phân bố các ngành nông nghiệp, 
lâm nghiệp, hình thành sự phân dị địa giới theo chiều thẳng đứng đối với 
nông nghiệp. Địa hình và độ dốc ảnh hưởng lớn đến phương thức sử dụng 
đất nông nghiệp. Điều kiện thổ nhưỡng quyết định rất lớn đến hiệu quả sản 
xuất nông nghiệp. Độ phì nhiêu của đất là tiêu chí quan trọng về sản lượng 
cao hay thấp. Độ dầy của tầng đất và tính chất đất có ảnh hưởng lớn đối với 
sinh trưởng cây trồng. 
Vị trí địa lý của vùng với sự khác biệt về điều kiện ánh sáng, nhiệt độ, 
nguồn nước và các điều kiện tự nhiên khác sẽ quyết định đến khả năng, công 
dụng và hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp. Vì vậy, trong thực tiễn sử dụng 
đất nông nghiệp cần tuân thủ quy luật tự nhiên, tận dụng các lợi thế nhằm đạt 
hiệu quả cao nhất về kinh tế. 
- Về điều kiện kinh tế - xã hội: 
Điều kiện kinh tế - xã hội thường có ý nghĩa quyết định chủ đạo đối với 
việc sử dụng đất nông nghiệp. Phương hướng sử dụng đất nông nghiệp được 
quyết định bởi yêu cầu của xã hội và mục tiêu kinh tế trong từng thời kỳ nhất 
định. Điều kiện tự nhiên của đất nông nghiệp cho phép xác định khả năng 
thích ứng về phương thức sử dụng đất nông nghiệp. Còn sử dụng đất như thế 
nào được quyết định bởi sự năng động của con người và các điều kiện kinh tế 
- xã hội, kỹ thuật hiện có; quyết định bởi tính hợp lý, tính khả thi về kinh tế 
kỹ thuật và bởi nhu cầu của thị trường. 
Trong phạm vi một vùng, điều kiện vật chất tự nhiên của đất nông 
nghiệp thường có sự khác biệt không lớn, về cơ bản là giống nhau. Nhưng 
với điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau, dẫn đến tình trạng có vùng đất 
nông nghiệp được khai thác sử dụng triệt để từ lâu đời và đã đem lại những 
hiệu quả kinh tế xã hội rất cao; ngược lại, có nơi bị bỏ hoang hoá hoặc khai 
thác với hiệu quả rất thấp... Có thể nhận thấy, điều kiện tự nhiên của đất 
nông nghiệp chỉ là một tồn tại khách quan, khai thác và sử dụng đất nông 
nghiệp yếu tố quyết định vẫn là con người. Dù điều kiện tự nhiên có nhiều 
lợi thế, nhưng các điều kiện kinh tế - xã hội, kỹ thuật không tương ứng, thì 
ưu thế tài nguyên cũng khó trở thành sức sản xuất hiện thực, cũng như 
chuyển hoá thành ưu thế kinh tế. Ngược lại, điều kiện kinh tế, kỹ thuật được 
ứng dụng vào khai thác và sử dụng đất, sẽ phát huy mạnh mẽ tiềm lực sản 
xuất của đất nông nghiệp, biến điều kiện tự nhiên từ bất lợi thành có lợi 
cho phát triển kinh tế - xã hội. 
- Về không gian: 
Trong thực tế, mọi ngành sản xuất vật chất và phi vật chất, đều cần đến 
đất đai như điều kiện không gian để hoạt động. Không gian, bao gồm cả vị trí 
và mặt bằng. Đặc tính cung cấp không gian của đất đai là yếu tố vĩnh cửu của 
tự nhiên ban phát cho xã hội loài người. 
Không gian mà đất nông nghiệp cung cấp có đặc tính vĩnh cửu và 
cố định, vị trí khi sử dụng và số lượng sử dụng không thể vượt quá quy 
mô hiện có. Do vị trí không gian của đất nông nghiệp không thể bị mất đi 
và cũng không tăng thêm trong quá trình sử dụng, nên phần nào đã giới 
hạn sức tải nhân khẩu và số lượng lao động. Có nghĩa tác dụng hạn chế 
của không gian đất nông nghiệp luôn xảy ra trong khi dân số và kinh tế xã 
hội luôn phát triển. 
Sự bất biến của tổng diện tích đất nông nghiệp không chỉ hạn chế khả 
năng mở rộng không gian sử dụng đất, mà còn chi phối giới hạn thay đổi của 
cơ cấu đất đai. Điều này quyết định việc điều chỉnh cơ cấu đất đai theo loại, 
số lượng được sử dụng căn cứ sức sản xuất của đất và yêu cầu sản xuất của xã 
hội nhằm đảm bảo lực tải của đất nông nghiệp. 
Việc khẳng định chuyển được của đất nông nghiệp dẫn đến việc phân 
bố về số lượng và chất lượng đất đai mang tính khu vực rất chặt chẽ. Cùng 
với mật độ dân số của các khu vực khác nhau, tỷ lệ cơ cấu và lượng đầu tư 
sẽ có sự khác biệt rõ rệt. Tài nguyên đất nông nghiệp có hạn, lại giới hạn 
về không gian, đây là nhân tố hạn chế lớn nhất đối với việc sử dụng đất 
nông nghiệp ở nước ta. Vì vậy, cần phải thực hiện nghiêm ngặt nguyên tắc 
sử dụng đất nông nghiệp hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả kết hợp bảo vệ tài 
nguyên đất và môi trường. 
1.2. QUY HOẠCH, SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP 
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp 
1.2.1.1. Khái niệm về quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp 
"Đất đai" là một phần lãnh thổ nhất định (vùng đất, khoanh đất, vạt đất, 
mảnh đất, miếng đất...) có vị trí, hình thể, diện tích với những tính chất tự 
nhiên hoặc mới tạo thành (đặc tính thổ nhưỡng, điều kiện địa hình, địa chất, 
thuỷ văn, chế độ nước, nhiệt độ, ánh sáng, thảm thực vật, các tính chất lý hoá 
tính...), tạo ra những điều kiện nhất định cho việc sử dụng theo các mục đích 
khác nhau. Như vậy, để sử dụng đất nông nghiệp trước hết cần phải làm quy 
hoạch, đây là quá trình nghiên cứu, lao động sáng tạo nhằm xác định ý nghĩa 
mục đích từng phần lãnh thổ và đề xuất một trật tự sử dụng đất nông nghiệp 
nhất định. 
Về mặt bản chất, đất nông nghiệp là đối tượng của các mối quan hệ sản 
xuất trong lĩnh vực sử dụng đất (gọi là các mối quan hệ đất đai) và việc tổ 
chức sử dụng đất nông nghiệp như "tư liệu sản xuất đặc biệt" gắn chặt với 
phát triển kinh tế - xã hội. Như vậy, quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp sẽ là 
một hiện tượng kinh tế - xã hội thể hiện đồng thời 3 tính chất: kinh tế (thể 
hiện bằng hiệu quả sử dụng đất), kỹ thuật (bao gồm các tác nghiệp chuyên 
môn kỹ thuật: điều tra, khảo sát, xây dựng bản đồ, khoanh định xử lý số 
liệu...) và pháp chế (xác nhận tính pháp lý về mục đích và quyền sử dụng đất 
nhằm đảm bảo sử dụng và quản lý đất nông nghiệp theo pháp luật). 
Từ đó, có thể đưa ra định nghĩa: "quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp 
là hệ thống các biện pháp kinh tế, kỹ thuật, pháp chế của nhà nước về tổ chức, 
sử dụng và quản lý đất đai đầy đủ, hợp lý, khoa học và có hiệu quả cao nhất 
thông qua việc phân bổ quỹ đất nông nghiệp (khoanh định cho các mục đích) 
và tổ chức sử dụng đất như tư liệu sản xuất (các giải pháp sử dụng đất nông 
nghiệp cụ thể), nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất của xã hội, tạo điều kiện bảo 
vệ đất đai và môi trường". 
Như vậy, về thực chất quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp là quá trình 
hình thành các quyết định nhằm tạo điều kiện đưa đất đai vào sử dụng bền 
vững để mang lại lợi ích kinh tế cao nhất, thực hiện đồng thời hai chức năng: 
điều chỉnh các mối quan hệ đất đai và tổ chức sử dụng đất nông nghiệp như tư 
liệu sản xuất đặc biệt với mục đích nâng cao hiệu quả sản xuất của xã hội kết 
hợp với bảo vệ đất đai và môi trường. 
Căn cứ vào đặc điểm điều kiện tự nhiên, phương hướng, nhiệm vụ và 
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của mỗi vùng lãnh thổ. Quy hoạch, sử 
dụng đất nông nghiệp được tiến hành nhằm định hướng cho các cấp, các 
ngành trên địa bàn lập quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp chi 
tiết của mình. Xác lập sự ổn định về mặt pháp lý cho công tác quản lý nhà 
nước về đất đai; làm cơ sở để tiến hành giao cấp đất và đầu tư để phát triển 
sản xuất, đảm bảo an ninh lương thực phục vụ các nhu cầu dân sinh, văn hoá - 
xã hội. 
Mặt khác, quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp còn là biện pháp hữu 
hiệu của nhà nước nhằm tổ chức lại việc sử dụng đất nông nghiệp theo đúng 
mục đích, hạn chế sự chồng chéo gây lãng phí đất đai, tránh tình trạng chuyển 
mục đích tuỳ tiện, làm giảm sút nghiêm trọng quỹ đất nông nghiệp, lâm 
nghiệp (đặc biệt là diện tích trồng lúa và đất lâm nghiệp có rừng); ngăn chặn 
các hiện tượng tiêu cực, tranh chấp, lấn chiếm huỷ hoại đất, phá vỡ cân bằng 
sinh thái, gây ô nhiễm môi trường dẫn đến những tổn thất hoặc kìm hãm sản 
xuất, phát triển kinh tế - xã hội và các hậu quả khó lường về những tình hình 
bất ổn định chính trị, an ninh quốc phòng ở từng địa phương, đặc biệt là trong 
giai đoạn chuyển sang nền kinh tế thị trường. 
1.2.1.2. Đặc điểm của quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp 
Quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp thuộc loại quy hoạch có tính lịch 
sử - xã hội, tính khống chế vĩ mô, tính chỉ đạo, tính tổng hợp trung hạn và dài 
hạn, là bộ phận hợp thành quan trọng của hệ thống kế hoạch phát triển xã hội 
và kinh tế quốc dân. Các đặc điểm của quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp 
được thể hiện cụ thể như sau: 
- Tính lịch sử - xã hội : 
Lịch sử phát triển của xã hội chính là lịch sử phát triển của quy 
hoạch, sử dụng đất đai. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều có một phương 
thức sản xuất của xã hội thể hiện theo hai mặt: lực lượng sản xuất (mối 
quan hệ giữa người với sức hoặc vật tự nhiên trong quá trình sản xuất) và 
quan hệ sản xuất (quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất). 
Trong quy hoạch sử dụng đất luôn nảy sinh quan hệ giữa người với đất đai 
- là sức tự nhiên (như điều tra, đo đạc, khoanh định, thiết kế...) cũng như 
quan hệ giữa người với người (nhận bằng văn bản về sở hữu và quyền sử 
dụng đất giữa những người chủ đất). Quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp 
thể hiện đồng thời là yếu tố thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, vừa là 
yếu tố thúc đẩy các mối quan hệ sản xuất, vì vậy nó luôn là một bộ phận 
của phương thức sản xuất của xã hội. 
Tuy nhiên, trong xã hội có phân chia giai cấp, quy hoạch, sử dụng đất 
nông nghiệp mang tính tự phát, hướng tới mục tiêu vì lợi nhuận tối đa và nặng 
về mặt pháp lý (là phương tiện mở rộng, củng cố, bảo vệ quyền tư hữu đất 
đai: phân chia, tập trung đất đai để mua bán, phát canh thu tô...). Ở nước ta 
quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp phục vụ nhu cầu của người sử dụng đất 
và quyền lợi của toàn xã hội. Góp phần tích cực thay đổi quan hệ sản xuất xã 
hội. Đặc biệt, trong nền kinh tế thị trường, quy hoạch sử dụng đất nông 
nghiệp góp phần giải quyết các mâu thuẫn nội tại của từng lợi ích kinh tế, xã 
hội và môi trường nảy sinh trong quá trình sử dụng đất, cũng như mâu thuẫn 
giữa các lợi ích trên với nhau. 
- Tính tổng hợp : 
Tính tổng hợp của quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp biểu hiện chủ 
yếu ở hai mặt; đối tượng của quy hoạch là khai thác, sử dụng, cải tạo, bảo 
vệ... toàn bộ tài nguyên đất nông nghiệp cho nhu cầu của nền kinh tế quốc 
dân. Quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp đề cập đến nhiều lĩnh vực về khoa 
học, kinh tế và xã hội như: khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, dân số, sản 
xuất nông nghiệp, môi trường sinh thái... 
Với đặc điểm này, quy hoạch lãnh trách nhiệm tổng hợp toàn bộ nhu 
cầu sử dụng đất; điều hoà các mâu thuẫn về đất đai, xác định và điều phối 
phương hướng, phương thức phân bố sử dụng đất phù hợp với mục tiêu kinh 
tế - xã hội, bảo đảm cho nền kinh tế quốc dân luôn phát triển bền vững, đạt 
tốc độ cao và ổn định. 
- Tính dài hạn : 
Căn cứ vào các dự báo xu thế biến động dài hạn của những yếu tố kinh 
tế xã hội quan trọng (sự thay đổi về nhân khẩu, tiến bộ kỹ thuật; đô thị hoá, 
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp...), từ đó xác định quy hoạch trung 
và dài hạn về đất đai, đề ra các phương hướng, chính sách và biện pháp có 
tính chiến lược, tạo căn cứ khoa học cho việc xây dựng kế hoạch sử dụng đất 
nông nghiệp hàng năm và dài hạn. 
Quy hoạch dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu đất nông nghiệp để phát triển 
kinh tế - xã hội. Cơ cấu và phương thức sử dụng đất, được điều chỉnh từng 
bước trong thời gian dài (cùng với quá trình phát triển dài hạn kinh tế - xã 
hội) cho đến khi đạt được mục tiêu dự kiến. Thời hạn (xác định phương 
hướng, chính sách và biện pháp sử dụng đất nông nghiệp để phát triển kinh tế 
và hoạt động xã hội) của quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp thường từ 5 
năm đến 10 năm hoặc lâu hơn. 
- Tính chiến lược và chỉ đạo vĩ mô : 
Với đặc tính trung và dài hạn, quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp chỉ 
dự kiến trước được các xu thế thay đổi phương hướng, mục tiêu, cơ cấu và 
phân bổ sử dụng đất (mang tính đại thể, không dự kiến được các hình thức và 
nội dung cụ thể, chi tiết của sự thay đổi). Vì vậy, quy hoạch, sử dụng đất nông 
nghiệp là quy hoạch mang tính chiến lược, các chỉ tiêu của quy hoạch mang 
tính vĩ mô tính phương hướng và khái lược về sử dụng đất nông nghiệp như: 
+ Phương hướng, mục tiêu và trọng điểm chiến lược của việc sử dụng 
đất nông nghiệp trong vùng. 
+ Cân đối tổng quát nhu cầu sử dụng đất nông nghiệp. 
+ Điều chỉnh cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp và phân bố đất nông 
nghiệp trong vùng. 
+ Phân định ranh giới và các hình thức quản lý việc sử dụng đất nông 
nghiệp trong vùng. 
+ Đề xuất các biện pháp, các chính sách lớn để đạt được mục tiêu của 
phương hướng sử dụng đất nông nghiệp. 
Do khoảng thời gian dự báo tương đối dài, chịu ảnh hưởng của nhiều 
nhân tố kinh tế - xã hội khó xác định, nên chỉ tiêu quy hoạch càng khái lược 
hoá, quy hoạch sẽ càng ổn định. 
- Tính chính sách: 
Quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp thể hiện rất mạnh đặc tính chính 
trị và chính sách xã hội. Khi xây dựng phương án phải quán triệt các chính 
sách và quy định có liên quan đến đất đai của Đảng và Nhà nước, đảm bảo thể 
hiện cụ thể trên mặt bằng đất đai các mục tiêu phát triển nền kinh tế quốc dân, 
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, tuân thủ các quy định, các chỉ tiêu khống 
chế về dân số, đất đai và môi trường sinh thái. 
- Tính khả biến : 
Dưới sự tác động của nhiều nhân tố khó dự đoán trước, chỉ là một trong 
những giải pháp biến đổi hiện trạng sử dụng đất sang trạng thái mới thích hợp 
hơn cho việc phát triển kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Khi xã hội phát 
triển, khoa học kỹ thuật ngày càng tiến bộ, chính sách và tình hình kinh tế thay 
đổi, các dự kiến của quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp không còn phù hợp. 
Việc chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện quy hoạch và điều chỉnh biện pháp thực 
hiện là cần thiết. Điều này thể hiện tính khả biến của quy hoạch. Quy hoạch, sử 
dụng đất nông nghiệp luôn là quy hoạch động, một quá trình lặp lại theo chiều 
xoắn ốc "quy hoạch - thực hiện - quy hoạch lại hoặc chỉnh lý - tiếp tục thực 
hiện..." với chất lượng, mức độ hoàn thiện và tính phù hợp ngày càng cao. 
1.2.2. Những căn cứ pháp lý của quy hoạch sử dụng đất 
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, sự chuyển dịch 
cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ sang công nghiệp - dịch 
vụ - nông nghiệp đã và đang gây áp lực ngày càng lớn đối với đất đai (bình 
quân mỗi năm phải chuyển khoảng 30.000 ha đất nông nghiệp, lâm nghiệp có 
rừng sang mục đích khác). 
Kinh nghiệm thực tiễn cùng với đổi mới tư duy và nhận thức đã trả lại 
cho đất đai giá trị đích thực vốn có của nó. Luật đất đai năm 1993 nhấn mạnh 
"đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất, là thành 
phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu vực 
dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh và quốc phòng". 
Với ý nghĩa đó việc sử dụng hợp lý đất đai liên quan chặt chẽ tới mọi 
hoạt động của từng ngành và từng lĩnh vực, quyết định đến hiệu quả sản xuất. 
Do đó, Đảng và Nhà nước nước ta luôn coi đây vấn đề bức xúc, cần được 
quan tâm hàng đầu. 
Ý chí của toàn Đảng, toàn dân về vấn đề đất đai thể hiện rõ trong các 
văn bản pháp luật như hiến pháp, luật và các văn bản dưới luật. Những văn 
bản này tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử 
dụng đất, giúp giải quyết về mặt nguyên tắc những vấn đề đặt ra. 
- Sự cần thiết về mặt pháp lý phải lập ra quy hoạch sử dụng đất : 
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1991 đã 
khẳng định: "đất đai thuộc sở hữu toàn dân", "nhà nước thống nhất quản lý 
đất đai theo quy hoạch và pháp luật, bảo đảm sử dụng đúng mục đích và có 
hiệu quả " (chương II, Điều 18). 
Điều 1 luật đất đai năm 1993 sửa đổi, bổ sung cũng nêu rõ "đất đai 
thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý". 
Điều 13 luật đất đai xác định một trong những nội dung quản lý nhà 
nước về đất đai là "quy hoạch và kế hoạch hoá việc sử dụng đất". 
Điều 19 luật đất đai khẳng định "căn cứ để quyết định giao đất, cho 
thuê đất là quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai đã được cơ quan nhà nước có 
thẩm quyền xét duyệt". 
Nghị quyết số 01/1997/QH9 Quốc hội khoá 9, kỳ họp thứ 11 (tháng 
4/1997) và kế hoạch sử dụng đất cả nước năm 2000 và đẩy mạnh công tác quy 
hoạch sử dụng đất các cấp trong cả nước... 
Nghị định số 68/2001/NĐ-CP ngày 01/10/2001 của Chính phủ về quy 
hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai. 
Luật đất đai năm 2003 đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ 
nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 4 thông qua cũng dành hẳn một mục gần 
10 điều quy định các nội dung về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất (mục 2 - từ 
điều 21 đến điều 30). 
Như vậy, để sử dụng và quản lý đất đai (thuộc sở hữu toàn dân, là tư 
liệu sản xuất đặc biệt) một cách tiết kiệm, hợp lý và có hiệu quả nhất thì cần 
phải có sự quy hoạch đất đai đồng bộ. 
- Trách nhiệm lập quy hoạch sử dụng đất: 
Điều 15 (luật đất đai năm 2003) quy định rõ trách nhiệm lập quy hoạch, 
kế hoạch sử dụng đất đai theo các cấp lãnh thổ hành chính. 
Chính phủ tổ chức thực hiện việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất 
của cả nước. 
Uỷ ban nhân dân các cấp (tỉnh, huyện, xã) tổ chức thực hiện việc lập 
quy hoạch theo lãnh thổ hành chính - trừ trường hợp các đơn vị hành chính 
cấp dưới thuộc khu vực quy hoạch phát triển đô thị). Trình hội đồng nhân dân 
thông qua trước khi trình cơ quan nhà nước có thẩm quyển xét duyệt. 
Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất phải được trình đồng thời với kế 
hoạch phát triển kinh tế - xã hội. 
- Thẩm quyền xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất : 
Quốc hội quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của cả nước do 
chính phủ trình. 
Chính phủ xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của tỉnh, thành 
phố trực thuộc Trung ương. 
Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xét duyệt quy 
hoạch, kế hoạch sử dụng đất của đơn vị hành chính cấp dưới trực tiếp. 
Uỷ ban nhân dân huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh xét duyệt quy hoạch, 
kế hoạch sử dụng đất xã không thuộc khu vực quy hoạch phát triển đô thị. 
1.2.3. Quy hoạch sử dụng đất và sự nghiệp công nghiệp hoá nông 
nghiệp nông thôn 
Do đặc thù nền kinh tế nước ta, vấn đề công nghiệp hoá nông nghiệp và 
nông thôn có vị trí hết sức quan trọng trong quá trình thực hiện công nghiệp 
hoá, hiện đại hoá đất nước. Công nghiệp hoá nông thôn là quá trình phát triển 
kinh tế - xã hội mà nội dung chủ yếu là chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội ở 
nông thôn gắn liền với công nghệ theo hướng công nghiệp và dịch vụ. Nói 
cách khác, công nghiệp hoá nông thôn là quá trình áp dụng phương tiện vật 
chất - kỹ thuật, phương pháp sản xuất công nghiệp vào sản xuất nông nghiệp 
trên địa bàn ở nông thôn. Về mặt hình thức, công nghiệp hoá nông thôn được 
biểu hiện trên các mặt sau: 
Phát triển cơ sở hạ tầng (giao thông, thuỷ lợi, cung cấp năng lượng, bưu 
chính viễn thông, giáo dục, đào tạo, y tế...) cho sản xuất nông nghiệp và phát 
triển nông thôn. 
Áp dụng tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp và phát triển nông 
thôn (sử dụng máy móc trong các khâu làm đất, tưới tiêu, vận chuyển, bảo 
quản chế biến, sử dụng giống mới, phương pháp canh tác tiên tiến). 
Phát triển công nghiệp (bao gồm cả xây dựng) và dịch vụ ở nông thôn 
gồm, các ngành gắn với đầu vào cũng như đầu ra của nông nghiệp (như sản 
xuất và sửa chữa nông cụ, sản xuất nguyên liệu), các ngành tận dụng lao 
động, vốn tay nghề ở nông thôn để sản xuất ra các mặt hàng tiêu dùng và xuất 
khẩu. 
Quy hoạch sử dụng đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng, đặc 
biệt là cấp huyện, xã với nội dung: phân bổ đất đai phù hợp với quá trình 
chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với phân công lại lao động ở nông thôn chiếm 
vị trí quan trọng trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá nông nghiệp, nông 
thôn. Trong nông nghiệp tăng cường đầu tư vào thuỷ lợi hoá, điện khí hoá và 
ứng dụng công nghệ sinh học cải thiện môi trường sinh thái, hướng vào thâm 
canh tăng vụ là chính và mở thêm diện tích ở những nơi có điều kiện. Để đảm 
bảo mục tiên an ninh lương thực quốc gia, cần xác định, diện tích lúa nước 
phải duy trì, bảo vệ, tập trung đầu tư thâm canh, nâng cao năng suất, chất 
lượng và hiệu quả. Quy hoạch sử dụng đất đai theo lãnh thổ hành chính các 
cấp có nhiệm vụ tạo cơ sở, căn cứ để thực hiện chương trình trồng mức 5 triệu 
ha rừng giai đoạn 1998 - 2010. 
Nền nông nghiệp nước ta đã bước sang giai đoạn sản xuất dư thừa so 
với nhu cầu và sức mua ở trong nước. Vì vậy, phương thức chủ đạo là vừa 
nâng cao sức mua trong nước vừa tìm kiếm thị trường xuất khẩu. Để thực 
hiện nhiệm vụ đặt ra, cần lựa chọn đúng những sản phẩm có ưu thế của nền 
nông nghiệp nước ta, tập trung đầu tư thích đáng cả về ứng dụng sinh học và 
công nghiệp chế biến nhằm tạo ra một số hàng nông sản xuất khẩu chủ lực có 
chất lượng cao đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Nghị quyết Trung 
ương 4 Đại hội Đảng VIII đã chỉ rõ nội dung quan trọng trong công nghiệp 
hoá nông nghiệp và nông thôn là phát triển mạnh các hình thức kinh tế hợp 
tác trong nông nghiệp và nông thôn, điều này đòi hỏi quy hoạch sử dụng đất 
phải giữ vai trò tích cực để thực hiện nhiệm vụ này. 
Chương 2 
THỰC TRẠNG QUY HOẠCH, SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP 
ĐỂ PHÁT TRIỂN CÂY CÔNG NGHIỆP Ở TỈNH KON TUM 
2.1. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC 
QUY HOẠCH, SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP ĐỂ PHÁT TRIỂN CÂY CÔNG 
NGHIỆP Ở TỈNH KON TUM 
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên 
- Vị trí địa lý: 
Kon Tum là tỉnh miền núi vùng cao, biên giới, nằm ở phía Bắc Tây 
Nguyên 107020'15" đến 108032'30" kinh độ đông và từ 13055'10" đến 
15027'15" vĩ độ bắc. Có diện tích tự nhiên là 9.614,5 km2, chiếm 2,92% diện 
tích toàn quốc, phía Bắc giáp tỉnh Quảng Nam, phía Đông giáp Quảng Ngãi, 
phía Tây giáp Lào và Campuchia. 
Nằm ở vùng ngã ba Đông Dương và là nơi hội tụ của các quốc lộ: 
QL40, QL14, QL24; Kon Tum cách không xa khu vực phát triển miền trung 
(200 - 300km) là khu vực nằm trong chiến lược phát triển vùng và hệ thống 
cảng biển miền trung (khu công nghiệp Liên Chiểu, Dung Quất, khu kinh tế 
mở Chu Lai) được nâng cấp, mở rộng và xây dựng mới. Mặt khác, cửa khẩu 
Bờ Y - Ngọc Hồi sau khi được nâng cấp thành cửa khẩu quốc tế, kết hợp với 
việc xây dựng và cải tạo các tuyến quốc lộ (QL40, QL24, QL14) sẽ tạo cho địa 
bàn tỉnh trở thành khu vực khởi đầu hội nhập, một địa điểm trung chuyển quan 
trọng trên tuyến thương mại quốc tế nối Mianma - Đông Bắc Thái Lan - Nam 
Lào với khu vực Tây Nguyên, Duyên hải miền Trung và Đông Nam Bộ. Là 
tuyến hành lang thương mại Đông Tây ngắn nhất thông qua cửa khẩu quốc tế Bờ 
Y. 
- Địa hình : 
Phần lớn tỉnh Kon Tum nằm ở phía Tây dãy Trường Sơn, địa hình thấp 
dần từ Bắc xuống Nam và từ Đông sang Tây. Địa hình của tỉnh Kon Tum khá 
đa dạng: đồi núi, cao nguyên và vùng trũng xen kẽ nhau. Trong đó: 
+ Địa hình đồi, núi: chiếm khoảng 2/5 diện tích toàn tỉnh, bao gồm 
những đồi núi liền dải có độ dốc 150 trở lên. Các núi ở Kon Tum do cấu tạo 
bởi đá biến chất nên có dạng khối như khối Ngọc Linh (có đỉnh Ngọc Linh 
cao 2.598m) nơi bắt nguồn của nhiều con sông chảy về Quảng Nam, Đà Nẵng 
như sông Thu Bồn, Vu Gia. Địa hình núi cao liền dải phân bố chủ yếu ở phía 
Bắc - Tây Bắc chạy sang phía Đông tỉnh Kon Tum. Mặt địa hình bị phân cách 
hiểm trở, tạo thành các thung lũng hẹp, khe, suối. Địa hình đồi chủ yếu tập 
trung ở huyện Sa Thầy có dạng nghiêng về phía Tây và thấp dần về phía Tây 
nam, xen kẽ giữa vùng đồi là dãy núi chư Mon Ray. 
+ Địa hình thung lũng: nằm dọc theo sông Pô Kô đi về phía nam của 
tỉnh, có dạng lòng máng thấp dần về phía nam, theo thung lũng có những đồi 
lượn sóng như Đắk Uy, Đắk Hà và có nhiều chỗ bề mặt bằng phẳng như vùng 
thị xã Kon Tum. 
+ Địa hình cao nguyên: tỉnh Kon Tum có cao nguyên Konp Long nằm 
giữa dãy An Khê và dãy Ngọc Linh có độ cao 1.100 - 1.300m, đây là cao 
nguyên nhỏ, chạy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam. 
- Khí hậu: 
Kon Tum thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa cao nguyên. Nhiệt độ 
trung bình trong năm dao động trong khoảng 22-230C, biên độ nhiệt độ dao 
động trong ngày 8-90C. 
Kon Tum có 2 mùa rõ rệt: mùa mưa chủ yếu bắt đầu từ tháng 1 đến 
tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau. Lượng mưa trung bình 
hàng năm khoảng 2.121 mm, lượng mưa năm cao nhất là 2.260 mm, năm thấp 
nhất 1.234 mm, tháng có lượng mưa cao nhất là tháng 8. Mùa khô, gió chủ 
yếu theo hướng Đông Bắc; mùa mưa gió chủ yếu theo hướng Tây Nam. 
Độ ẩm trung bình hàng năm dao động trong khoảng 78-87%. Độ ẩm 
không khí tháng cao nhất là tháng 8-9 (khoảng 90%) tháng thấp nhất là 
tháng 3 (66%) [19, tr.30]. 
- Tài nguyên đất: 
Tài nguyên đất của tỉnh Kon Tum được chia thành 5 nhóm với 17 loại 
đất chính: 
+ Nhóm đất phù sa: diện tích 15.670 ha chiếm 1,63% tổng diện tích tự 
nhiên bố trí chủ yếu ven sông suối rải rác ở các huyện thị. 
+ Nhóm đất xám: diện tích khoảng 10.442 ha chiếm 1,09% diện tích 
đất tự nhiên, phân bổ ở hầu hết các huyện, thị. 
+ Nhóm đất đỏ vàng: diện tích khoảng 483.570 ha, chiếm 50,3% diện 
tích đất tự nhiên phân bố trên địa hình đồi núi dốc chia cắt mạnh, độ dầy tầng 
biến động theo địa hình. 
+ Nhóm đất mùn vàng trên núi: Diện tích khoảng 437.330 ha chiếm 
45,48% diện tích tự nhiên, tập trung chủ yếu ở vùng núi có độ cao trên 1000m 
thuộc các huyện Đắk Glei, Đăk Tô, Kon Plong. 
+ Nhóm đất thung lũng: Nhóm đất này toàn tỉnh chỉ có một loại chính 
là đất thung lũng có sản phẩm dốc tụ, diện tích ít khoảng 3.400 ha, chiếm 
0,35% tổng diện tích đất tự nhiên [19, tr.30] 
Như vậy, diện tích có tầng đất mỏng ở Kon Tum chiếm tỷ lệ rất lớn, hàm 
lượng dinh dưỡng của các nhóm đất chính đa phần là trung bình hoặc nghèo, độ 
chua, độ bazơ thấp. Đất có khả năng nông nghiệp chủ yếu là loại đất xám trên 
phù sa cổ, đất xám trên macma axit, đất phù sa được bồi và đất phù sa có tầng 
loang lổ. Ở một số vùng có tầng dày canh tác rất phù hợp với phát triển cây công 
nghiệp dài ngày (huyện Đắk Hà, Đắk Tô, Ngọc Hồi, thị xã Kon Tum). 
- Tài nguyên nước: 
+ Nguồn nước mặt: chủ yếu là sông, suối bắt nguồn từ phía bắc và 
Đông Bắc của tỉnh Kon Tum, thường có lòng dốc, thung lũng hẹp, nước chảy 
siết, bao gồm hai nhánh chính là Pô Kô và Đắkbla cùng hệ thống sông suối 
khe nhỏ dày đặc tạo dòng Sê San với tổng lượng dòng chảy rất lớn xấp xỉ 10 - 
11 tỷ m3 hàng năm. 
Ngoài hệ thống các sông suối, nguồn nước mặt còn được dự trữ ở hệ 
thống các hồ chứa thuỷ lợi, thuỷ điện, trong đó phải kể đến hồ thuỷ điện 
YaLy, có diện tích bề mặt rất lớn với dung tích trên 1 tỷ m3. 
Như vậy, nguồn nước mặt là rất lớn nhưng có tới 80% lượng mưa tập 
trung vào các tháng mùa mưa, hơn nữa hệ thống sông suối nhỏ, hẹp, có nhiều 
thác ghềnh, sườn dốc đứng nên khả năng giữ nước hạn chế. Vì vậy, việc sử 
dụng nguồn nước mặt phục vụ phát triển kinh tế - xã hội trong mùa khô là rất 
khó khăn, cần phải xây dựng các công trình thuỷ lợi kết hợp với thuỷ điện 
đảm bảo sinh hoạt và sản xuất của nhân dân. 
+ Nguồn nước ngầm: Theo số liệu của liên đoàn thuỷ văn Miền Nam, 
nguồn nước ngầm của tỉnh được phân bố ở độ sâu từ 10 - 25 m, đặc biệt ở 
độ sâu 60m - 300m có trữ lượng tương đối lớn. Lưu lượng từ các lỗ khoan 
từ 1 - 3 l/s, chất lượng nước tốt về thành phần hoá học, về thành phần sinh 
học còn nhiễm bẩn, nhưng nhìn chung chất lượng đạt các tiêu chuẩn quy định. 
Ngoài ra, huyện Đăk Tô, Kon Plong còn có 9 điểm có nước khoáng nóng, có 
khả năng khai thác, sử dụng làm nước giải khát và chữa bệnh [19, tr.30]. 
- Tài nguyên rừng, thực vật rừng: 
Đến năm 2005, diện tích đất lâm nghiệp của Kon Tum là 662.872,67 ha 
chiếm 65,5% diện tích đất tự nhiên. Tổng trữ lượng gỗ vào khoảng 54 triệu m3, 
trong đó rừng gỗ có khoảng 46 triệu m3. Rừng Kon Tum có nhiều loại gỗ quý 
như trắc, cẩm lai, hương, thông... Động vật rừng phong phú đa dạng có voi, hổ, 
beo, gấu, bò rừng... Ngoài ra, rừng Kon Tum còn là nơi chứa nhiều nguồn gen 
động thực vật quý hiếm, mang tính dạng học có giá trị và ý nghĩa rất lớn cho 
công tác nghiên cứu khoa học, điển hình là cây sâm Ngọc Linh [19, tr.32] 
- Tài nguyên khoáng sản: 
Là tỉnh có nhiều mỏ và điểm quặng, theo số liệu điều tra sơ bộ trên địa 
bàn toàn tỉnh có 214 mỏ và điểm quặng và khoáng sản, nguồn khoáng sản đa 
dạng phong phú, có tới 40 loại với các loại hình nguồn gốc khác nhau: vàng 
gốc, vàng khoáng, quặng nhôm, đá quý... 
Tuy nhiên, cho tới nay mức độ điều tra địa chất còn sơ lược. Để có thể 
khai thác sử dụng tài nguyên khoáng sản có hiệu quả kinh tế cao cần được 
nhanh chóng đầu tư, điều tra, thăm dò đánh giá chính xác chất lượng, trữ 
lượng trên diện rộng, cũng như tập trung vào khai thác một số tài nguyên 
khoáng sản có nhu cầu trước mắt như đá quý, vàng sa khoáng, vàng gốc, đất 
sét, đá xây dựng... 
2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội 
Là một tỉnh nghèo miền núi, vùng cao biên giới sản xuất nông - lâm 
nghiệp là chủ yếu. Trong những năm qua, thực hiện đường lối đổi mới của 
Đảng, tỉnh Kon Tum đã đề ra đường lối chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 
đúng đắn. Từ đó, đã phát huy được tiềm năng, thế mạnh của địa phương đưa 
nền kinh tế của tỉnh đi vào ổn định, đang đà phát triển và đạt được một số 
thành tựu đáng kể. Điều này được thể hiện qua bảng 2.1. 
Bảng 2.1: Tổng sản phẩm tỉnh Kon Tum phân theo khu vực kinh tế [5] 
(Đơn vị tính: Triệu đồng, tính theo giá gốc 1994) 
Năm Tổng số Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 
Công nghiệp 
và xây dựng Dịch vụ 
1995 485.616 272.244 46.738 166.634 
1997 584.018 342.194 66.359 210.544 
1999 706.077 405.299 79.665 221.113 
2001 843.943 437.830 143.830 262.865 
2003 1.056.894 545.088 194.037 317.769 
2005 1.268.263 626.000 232.593 409.670 
Qua bảng 2.1 cho thấy quy mô tăng trưởng, giá trị tổng sản phẩm của 
tỉnh không ngừng tăng lên. Nếu năm 1995 tổng sản phẩm tỉnh Kon Tum đạt 
485.616 triệu đồng thì đến năm 2005 đạt 1.268.263 triệu đồng. 
Trong sản xuất nông nghiệp, tập trung phát triển sản xuất theo hướng 
sản xuất hàng hoá và đã có những chuyển biến tích cực. Cụ thể là tổng sản 
phẩm khu vực nông nghiệp và thuỷ sản tăng từ 272.244 triệu đồng năm 1995 
lên 626.000 triệu đồng năm 2005. 
Công nghiệp và xây dựng tăng trưởng cao đã có những đóng góp đáng 
kể vào sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương góp phần làm tăng nguồn 
thu ngân sách và giải quyết việc làm cho người lao động. Năm 1995 tổng sản 
phẩm khu vực công nghiệp và dịch vụ là 46.738 triệu đồng đến năm 2005 đã 
tăng lên 232.593 triệu đồng. 
Ngành thương mại dịch vụ những năm gần đây phát triển đa dạng, đảm 
bảo yêu cầu tăng trưởng kinh tế, lưu thông vật tư hàng hoá, dịch vụ phát triển 
phong phú, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân trên địa bàn về số 
lượng, chất lượng và chủng loại. Tốc độ tăng của ngành thương mại dịch vụ 
là rất cao từ 166.634 triệu đồng năm 1995 lên 409.670 triệu đồng năm 2005. 
Trong những năm qua tổng sản phẩm của tỉnh Kon Tum luôn tăng cao, 
trong giai đoạn 2000 - 2005 tăng bình quân năm là 11%, trong đó tỷ trọng 
ngành công nghiệp - xây dựng tăng từ 15,69% lên 19,04% thương mại - dịch 
vụ tăng từ 38,05% lên 38,58%; nông lâm thuỷ sản từ 45,89% giảm xuống 
42,38% [5]. 
* Thực trạng kết cấu hạ tầng: 
- Về giao thông: 
Mạng lưới giao thông đường bộ thời gian qua đã được quan tâm đầu tư 
nâng cấp, nhờ đó chất lượng phục vụ của các công trình giao thông đã được 
nâng lên. Mạng lưới giao thông liên huyện, liên xã và các tuyến nội thị, thị 
trấn, giao thông nông thôn cơ bản đáp ứng được nhu cầu đi lại. Đến năm 2005 
toàn tỉnh 100% số xã có đường ô tô đến trung tâm xã. 
Hiện nay toàn tỉnh có 3.444,6 km đường giao thông bộ, trong đó quốc 
lộ 389,3 km, tỉnh lộ 353 km và 2702,3 km là đường huyện, thôn xã và nội 
đồng. Nhìn chung hệ thống đường giao thông bộ của tỉnh chất lượng còn thấp, 
việc đi lại vào mùa mưa gặp rất nhiều khó khăn. 
Mạng lưới giao thông đường thuỷ ít, khó khai thác do hệ thống sông 
nhỏ hẹp, dốc, nước chảy siết nhiều thác ghềnh. Hiện tại chỉ có thể khai thác 
giao thông đường thuỷ thuận lợi từ sông Đăk Bla đi lòng hồ Yaly. 
Ngoài ra trên địa bàn tỉnh còn hai đường băng của hai sân bay được xây 
dựng từ trước năm 1975, sử dụng cho mục đích quân sự. Hiện tại chỉ sử dụng 
được cho máy bay trực thăng, chưa khai thác phục vụ cho máy bay dân dụng. 
- Về thuỷ lợi: 
Công tác thuỷ lợi của tỉnh trong những năm qua đã có những bước phát 
triển khá nhanh. Tỉnh đã xây dựng được nhiều công trình, với những quy mô 
phương án kỹ thuật phức tạp, diện tích tưới của các công trình không ngừng 
tăng lên, đóng góp một phần quan trọng đối với phát triển sản xuất nông 
nghiệp. Toàn tỉnh hiện có 29 công trình xây dựng cơ bản, 130 công trình tiểu 
nông và hàng trăm công trình tạm, đảm bảo tưới cho 14.490 ha đất gieo trồng. 
- Về giáo dục và đào tạo: 
Sự nghiệp giáo dục - đào tạo tiếp tục phát triển và đạt được nhiều kết 
quả. Quy mô các ngành học, bậc học được mở rộng; tỷ lệ học sinh huy động 
đến lớp đạt cao; đã khắc phục cơ bản tình trạng thiếu giáo viên ở vùng sâu, 
vùng xa; chất lượng dạy và học được nâng lên một bước. Đến năm 2005: 
100% số xã, phường được công nhận phổ cập giáo dục tiểu học và 26,31% số 
xã, phường được công nhận phổ cập giáo dục trung học cơ sở [5, tr.200] 
Hoạt động khoa học - công nghệ đã tập trung nghiên cứu chuyển giao 
ứng dụng các thành tựu khoa học trong lĩnh vực nông - lâm nghiệp, xúc tiến 
nghiên cứu các đề tài thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn; bước đầu 
tiến hành điều tra, khảo sát, nghiên cứu một số loại khoáng sản. 
- Về y tế: 
Công tác y tế, chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân có bước tiến bộ. 
Mạng lưới y tế cơ sở tiếp tục được tăng cường về cơ sở vật chất, trang thiết bị 
và đội ngũ y, bác sĩ (81% số xã có trạm y tế kiên cố, bán kiên cố; 48% số xã 
có bác sĩ). Đến năm 2005 toàn tỉnh có 114 cơ sở y tế, trong đó có 8 bệnh viện; 
9 phòng khám đa khoa khu vực; 1 bệnh viện điều dưỡng và phục hồi chức 
năng: 92 trạm y tế xã phường và 1 trại phong. Tổng số giường bệnh là 1.400 
và 1.200 cán bộ biên chế ngành y tế [5, tr.205]. 
- Về văn hoá - thể thao: 
Nhiều công trình văn hoá, phúc lợi xã hội được đầu tư xây dựng. Các di 
tích lịch sử, văn hoá được bảo vệ và từng bước được tôn tạo. Văn hoá vật thể, 
phi vật thể đặc sắc của các dân tộc thiểu số được khôi phục và phát triển. 
Công tác phát thanh - truyền hình, nhất là chương trình bằng tiếng dân tộc 
thiểu số (Ba Na, Xê Đăng, Jẻ Triêng) được duy trì và nâng dần về chất lượng. 
Phong trào thể dục thể thao, rèn luyện sức khoẻ có nhiều tiến bộ. Đến nay 
100% số hộ được phủ sóng phát thanh; 85% số hộ được phủ sóng truyền hình; 
100% số xã được cấp phát Báo Nhân dân, Báo Kon Tum. 
* Thực trạng phát triển đô thị: 
Toàn tỉnh có 1 thị xã và 8 thị trấn, hệ thống đô thị này giữ vai trò quan 
trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, nó tạo ra tổng sản phẩm 
cho tỉnh rất lớn, phản chiếu sinh động sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. 
Thị xã Kon Tum là đô thị hạt nhân lớn nhất (cấp IV) của hệ thống đô 
thị trong tỉnh. Trong những năm qua đã có chuyển biến lớn về quy mô dân số 
đô thị, về khôi phục xây dựng phát triển, mở rộng đô thị theo hướng hiện đại 
và bền vững. 
Các thị trấn chỉ mang tính chất hành chính, ít mang màu sắc của đô thị 
công nghiệp, chưa có các trung tâm thương mại lớn, chỉ có một số ít các cơ sở 
tiểu thủ công nghiệp vừa và nhỏ tồn tại, một số cơ sở về chế biến và các điểm 
dịch vụ. 
Trong những năm gần đây các cấp, các ngành đã quan tâm đến việc đầu 
tư phát triển hệ thống đô thị, song còn gặp nhiều khó khăn về vốn và kinh 
nghiệm, do đó công tác quản lý đô thị chưa theo kịp tốc độ đô thị hoá. 
*Thực trạng phát triển khu dân cư nông thôn: 
Do nền kinh tế có trình độ thấp kém, cơ cấu kinh tế chuyển đổi chậm, 
nên các điểm dân cư nông thôn vẫn phân bố theo hình thái tự nhiên, phương 
thức sản xuất nông nghiệp manh mún, quy mô nhỏ, phân bố rải rác với các 
hình thái: bám theo tuyến quốc lộ, tỉnh lộ, liên huyện, liên xã và hình thái 
phân tán nhỏ ở trong nội đồng. 
Trong những năm gần đây đang hình thành một điểm dân cư mới, đó là 
các điểm dân cư nằm trên các trục giao thông quan trọng hoặc ở các trung tâm 
khu kinh tế mới, trung tâm xã, nông trường, trung tâm cụm xã. Đây là một 
hình thái phát triển mới mầm mống của đô thị nhỏ, tốc độ phát triển mạnh, có 
ưu thế trong tương lai, khi có sự chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp, công nghiệp 
hoá nông thôn, kết hợp quá trình chuyển giao công nghệ trong nông nghiệp, 
sẽ hình thành nên nhiều thị tứ, thị trấn trên địa bàn tỉnh. 
*Dân số - lao động - việc làm - thu nhập và mức sống: 
Tính đến cuối năm 2005 dân số toàn tỉnh là 377.007 người. Trong đó 
có 246.589 nhân khẩu nông thôn (chiếm 65,41%) và 130.418 nhân khẩu ở 
thành thị (chiếm 34,59% tổng dân số). 
Mật độ dân số trung bình toàn tỉnh là 39,2 người/km2, là tỉnh có mật độ 
dân số thấp của vùng cũng như toàn quốc, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 2,1%. 
Dân số phân bố không đồng đều giữa các đơn vị hành chính trong tỉnh. 
Thị xã Kon Tum là nơi có mật độ dân số cao nhất là 315,5 người/km2 và 
huyện Kon Plong là nơi có mật độ dân số thấp nhất 12,6 người/km2 [5, tr.11]. 
* Lao động - việc làm: 
Tổng số lao động trong độ tuổi của tỉnh tính đến cuối năm 2004 là 
180.173 lao động, chiếm 47,79% dân số. Lao động nông - lâm nghiệp có tỷ 
trọng lớn trong cơ cấu lao động, chiếm 77,86% tổng số lao động làm việc 
trong các ngành kinh tế. Tuy nhiên hiệu suất lao động ở khu vực nông thôn 
còn thấp (75% thời gian lao động) [5, tr.17]. 
Trình độ lao động còn thấp chưa qua đào tạo kỹ năng, tỷ lệ qua đào tạo 
rất thấp 21% tổng số lao động. 
* Thu nhập và mức sống: 
Là một tỉnh miền núi Tây Nguyên, thu nhập của người dân chủ yếu từ 
các sản phẩm nông - lâm nghiệp. Trong những năm qua, cùng với sự phát 
triển của nền kinh tế - xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của người dân đã 
không ngừng được nâng lên. Thu nhập bình quân đầu người đạt 183 USD 
năm 2000, 210 USD năm 2002 và năm 2005 là 289 USD. Sản lượng lương 
thực bình quân đầu người là 260 kg [5, tr.27]. 
Nhìn chung đời sống dân cư của những ngành: thương nghiệp, xây 
dựng, công nghiệp, giao thông vận tải có mức thu nhập và mức sống ổn định. 
Riêng đời sống dân cư ngành nông nghiệp còn nhiều khó khăn, đặc biệt là các 
xã vùng sâu, vùng xa. Tính đến năm 2005 số hộ nghèo theo tiêu chí mới còn 
cao (chiếm 38,63%). Toàn tỉnh có 51 xã đặc biệt khó khăn và biên giới. 
Nguyên nhân do thiếu vốn, thiếu công cụ sản xuất tiên tiến, trình độ canh tác, 
chăn nuôi còn yếu kém. Ngoài ra còn phải kể đến kết cấu hạ tầng thấp, do đó 
ảnh hưởng đến nền kinh tế hàng hoá, trình độ dân trí thấp dẫn đến đời sống xã 
hội gặp nhiều khó khăn. 
2.1.3. Đánh giá chung 
2.1.3.1. Những thuận lợi, lợi thế 
Qua tổng hợp và phân tích điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh 
cho thấy Kon Tum có những lợi thế sau: 
Một là, so với các tỉnh trong khu vực Tây Nguyên, Kon Tum là tỉnh có 
bình quân diện tích tự nhiên/ người lớn nhất (bình quân diện tích tự nhiên/ 
khẩu của tỉnh Kon Tum là 28.387 m2, khu vực Tây Nguyên là 
13.000m2/khẩu) diện tích đất chưa sử dụng còn nhiều (khoảng 220.880 ha), 
đặc biệt là quỹ đất cho phát triển lâm nghiệp và cây công nghiệp lâu năm. Sự 
đa dạng về đất đai, địa hình và khí hậu tạo điều kiện cho Kon Tum đa dạng 
hoá cây trồng theo hướng chuyên canh ở từng khu vực sinh thái. 
Hai là, tỉnh có nguồn tài nguyên phong phú và đa dạng, trong đó phải 
kể đến sự giàu có của tài nguyên rừng. Là tỉnh có độ che phủ rừng cao nhất 
Tây Nguyên, với 65,5% diện tích đất tự nhiên được che phủ bởi rừng, trữ 
lượng gỗ 54 triệu m3 và gần 2 tỷ cây tre nứa, dưới tán rừng là hệ động vật 
phong phú và đa dạng. Trong đó có nhiều loại cây con quý hiếm và có giá trị 
kinh tế cao như sâm ngọc linh. 
Ba là, trên địa bàn tỉnh có hệ thống sông suối khá dày đặc và đang chứa 
đựng một tiềm năng về thuỷ điện lớn nhất miền Nam nước ta. 
Bốn là, Kon Tum nằm ở ngã ba biên giới Việt - Lào - Campuchia, nơi 
hội tụ của các quốc lộ 14, quốc lộ 40 và quốc lộ 24 nên có vị trí quan trọng về 
đầu mối giao lưu kinh tế. Mặt khác, Kon Tum cách không xa các khu vực 
phát triển của miền Trung nên sẽ có nhiều điều kiện cuốn hút vào sự phát 
triển và chịu ảnh hưởng lớn của những khu vực phát triển này trong quá trình 
giao lưu kinh tế, tiếp nhận chuyển giao công nghệ, mở rộng thị trường tiêu 
thụ và thu hút đầu tư. 
Năm là, trong những năm qua, tốc độ và cơ cấu kinh tế của tỉnh đã có 
sự tăng trưởng và chuyển dịch hợp lý làm thay đổi dần tính chất của nền kinh 
tế. Từ một nền kinh tế tự cung, tự cấp, đến nay đã chuyển dần sang nền kinh 
tế hàng hoá, hình thành nhiều vùng sản xuất chuyên canh. Kết cấu hạ tầng, 
văn hoá, giáo dục, y tế đã có những bước chuyển biến tích cực, đời sống đại 
bộ phận nhân dân từng bước được cải thiện và nâng cao, chính trị, an ninh 
quốc phòng được giữ vững. 
Sáu là, trình độ dân trí ngày càng không ngừng được nâng cao, 
nhận thức về vai trò và tác dụng của đất đai cũng đầy đủ hơn, kiến thức về 
canh tác, bảo vệ đất, không ngừng nâng cao sức sản xuất của đất đã được 
các hộ nông dân tiếp thu và áp dụng vào thực tiễn sản xuất. Việc áp dụng 
những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào quá trình sử dụng đất đai đã đem lại 
hiệu quả cao. 
Những lợi thế đó là nguồn lực thúc đẩy nền kinh tế - xã hội của tỉnh 
phát triển vươn lên bắt kịp với các địa phương trong vùng và khu vực. 
2.1.3.2. Những khó khăn, hạn chế 
Kon Tum là tỉnh nằm ở cực Bắc Tây Nguyên, địa hình phức tạp, chia 
cắt mạnh, đây là khó khăn lớn nhất trong phát triển giao thông, hạn chế giao 
lưu với bên ngoài và thu hút vốn đầu tư. Mặt khác, hạ tầng cơ sở còn yếu kém 
không đồng bộ. Sự xuống cấp và chưa đầy đủ của các tuyến quốc lộ, tỉnh lộ, 
các công trình thuỷ lợi, hệ thống điện, sự thiếu hụt các công trình phúc lợi 
công cộng đã trực tiếp hoặc gián tiếp gây áp lực với sự phát triển kinh tế - xã 
hội nói chung cũng như việc sử dụng đất trên địa bàn tỉnh nói riêng. 
Tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn tăng, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch 
theo đúng quy luật nhưng diễn ra chậm. Tỷ trọng ngành nông - lâm - ngư 
nghiệp vẫn còn cao. Tỷ trọng ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp mặc 
dù tăng lên hàng năm nhưng vẫn còn ở mức thấp, sản xuất nông nghiệp vẫn 
giữ vai trò chủ đạo. Trình độ dân trí nhìn chung còn thấp, khả năng tiếp thu và 
ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất còn chậm dẫn đến chưa 
khai thác được triệt để tiềm năng đất đai. 
Đầu ra và giá tiêu thụ một số sản phẩm nông sản chủ lực như cà phê, 
sắn, hạt tiêu thường xuyên không ổn định gây khó khăn trong việc chuyển 
dịch cơ cấu cây trồng. 
Là tỉnh có nhiều dân tộc thiểu số sinh sống, trình độ dân trí của đại bộ 
phận dân cư còn thấp, đời sống của nhân dân còn nghèo và bấp bênh. Vùng 
sâu, vùng xa phương thức canh tác lạc hậu còn khá phổ biến, tình trạng đốt 
rừng làm rẫy vẫn thường xuyên xảy ra. 
Tất cả những vấn đề trên đây đều đi tới một nhận định thực trạng phát 
triển kinh tế - xã hội của tỉnh đang gây áp lực rất lớn đối với đất đai và môi 
trường. Việc phân bố quỹ đất đai cho các ngành, các lĩnh vực đảm bảo khoa 
học và hiệu quả hợp lý tạo điều kiện cho phát triển kinh tế - xã hội dựa trên 
quan điểm tiết kiệm đất và bảo vệ môi trường là nhiệm vụ đặt ra cho công tác 
quy hoạch sử dụng đất trong thời kỳ tới. 
2.2. THỰC TRẠNG QUY HOẠCH, SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP ĐỂ 
PHÁT TRIỂN CÂY CÔNG NGHIỆP Ở TỈNH KON TUM TỪ NĂM 2000 ĐẾN NAY 
2.2.1. Hiện trạng sử dụng và tình hình quản lý đất nông nghiệp ở 
tỉnh Kon Tum 
* Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp năm 2005 : 
Theo kết quả tổng hợp số liệu thống kê đất đai năm 2005 của Sở Tài 
nguyên và môi trường tỉnh Kon Tum, tính đến ngày 31/12/2005, tổng diện 
tích tự nhiên của toàn tỉnh là 961450 ha. Là tỉnh có diện tích vào loại lớn so 
với các tỉnh trong cả nước, chiếm 2,92% diện tích tự nhiên toàn quốc và 
17,65% diện tích vùng Tây Nguyên. Toàn tỉnh có 8 đơn vị hành chính cấp 
huyện và 1 thị xã. 
Diện tích đất nông nghiệp của tỉnh năm 2005 là 128.404,57 ha, bình 
quân diện tích đất nông nghiệp trên một nhân khẩu là 3.405m2. Diện tích đất 
nông nghiệp của tỉnh phân bố không đều giữa các đơn vị hành chính. Cơ cấu 
đất nông nghiệp được phân bố như sau: 
- Đất trồng cây hàng năm: Diện tích 87.825,27 ha chiếm 68,4% diện 
tích đất nông nghiệp toàn tỉnh, trong đó: 
+ Đất trồng lúa là 17626,68 ha, chiếm 20,07% diện tích đất trồng cây 
hàng năm. 
+ Đất nương rẫy là 35.269,57 ha, chiếm 40,16% diện tích đất trồng cây 
hàng năm. 
+ Đất trồng cây hàng năm khác: 34929,02 ha, chiếm 39,77% diện tích 
đất trồng cây hàng năm. 
Đất trồng lúa có tỷ lệ nhỏ nhất so với tổng diện tích đất trồng cây hàng 
năm (20,07%), được phân bố ở tất cả các huyện dọc theo các sông suối, vùng 
trũng thấp, chủ yếu là ruộng 1 vụ và 2 vụ, trong đó ruộng 1 vụ có diện tích là 
7.156 ha chiếm 40,6% diện tích đất trồng lúa. Vì vậy, để khai thác có hiệu quả 
hơn, diện tích ruộng 1 vụ này, cần có biện pháp thâm canh tăng vụ, đặc biệt là 
biện pháp thuỷ lợi để đưa diện tích đất trồng lúa 1 vụ lên sản xuất 2 vụ, nâng 
cao hệ số sử dụng đất nông nghiệp trên toàn tỉnh. 
Đất nương rẫy chiếm tỷ lệ lớn nhất trong đất trồng cây hàng năm 
(40,16% diện tích) trong đó có 6.728 ha nương rẫy trồng lúa. Diện tích nương 
rẫy phân bố tập trung nhiều ở các huyện Sa Thầy 7.660 ha, huyện Đăk Tô 
7.040 ha, ít nhất là huyện Kon Plong 1.173 ha. 
Đất trồng cây hàng năm khác chiếm hơn 1/3 diện tích trong đất trồng 
cây hàng năm, hầu hết là đất chuyên mầu và cây công nghiệp hàng năm với 
diện tích 30733,02 ha, chiếm 88% diện tích đất trồng cây hàng năm khác, chủ 
yếu là loại cây màu lương thực như khoai, ngô... và cây công nghiệp hàng 
năm như mía, sắn, vừng, lạc... 
- Đất trồng cây lâu năm: diện tích 40.262,14 ha, chiếm 31,36% diện tích 
đất nông nghiệp, đứng hàng thứ hai trong cơ cấu đất nông nghiệp toàn tỉnh. 
Trong đất trồng cây lâu năm, diện tích chủ yếu là đất trồng cây công nghiệp lâu 
năm 35.224,14 ha chiếm 87,70%. Với diện tích cà phê khoảng 11.550 ha, còn lại 
là đất trồng cây cao su. Đất trồng cây ăn quả và các loại cây lâu năm khác chỉ 
chiếm tỷ lệ diện tích rất ít trong cơ cấu đất trồng cây lâu năm. 
- Đất cỏ dùng vào chăn nuôi: diện tích 317 ha, phần lớn là đất cỏ tự 
nhiên cải tạo 188,16 ha, còn lại là 129 ha đất cỏ trồng [phụ lục 4]. 
* Tình hình quản lý đất đai tỉnh Kon Tum: 
+ Quản lý đất đai theo địa giới hành chính: 
Kon Tum là tỉnh có địa hình chia cắt, vừa giáp ranh với các đơn vị hành 
chính thuộc tỉnh khác (Quảng Nam, Quảng Ngãi, Gia Lai) vừa là biên giới 
quốc gia với các nước Lào, Campuchia. Trải qua nhiều biến động của tiến 
trình lịch sử, tình hình địa giới hành chính trong tỉnh thường có sự thay đổi. 
Từ khi chỉ thị số 364/CP của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng 
Chính phủ) được thực hiện, ranh giới hành chính giữa Kon Tum với các tỉnh 
khác về cơ bản đã được xác định, Ban Tổ chức Chính phủ (nay là Bộ Nội vụ) 
đã công nhận và đưa vào khai thác sử dụng, phục vụ kịp thời công tác quản lý 
lãnh thổ và quản lý đất đai trên địa bàn toàn tỉnh. 
Tuy nhiên trên thực tế, ranh giới giữa tỉnh Kon Tum với tỉnh Gia Lai 
vẫn chưa được giải quyết theo tinh thần công văn số 920/CP-NC ngày 
06/8/1998, cụ thể là việc giao xã Kon Pne thuộc huyện KBang và 300 ha diện 
tích đất tại thôn Tơ Huỳnh xã Ia Khươi huyện Chư Pả, tỉnh Gia Lai về Kon 
Tum quản lý. Ngoài ra, nhằm đáp ứng quá trình phát triển kinh tế - xã hội, 
tỉnh đã có sự điều chỉnh, bổ sung đơn vị hành chính. Đến nay tỉnh có 1 thị xã 
và 8 đơn vị hành chính huyện. 
+ Về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất gắn với đo đạc, lập bản đồ địa chính: 
Trước đây, khi chưa tách khỏi tỉnh Gia Lai - Kon tum, việc đầu tư 
kinh phí để đo đạc, lập bản đồ ở Kon tum chưa được quan tâm đúng mức. 
Sau khi lập lại tỉnh Kon Tum cho đến nay, được sự quan tâm của Tổng Cục 
Địa chính (nay là Bộ Tài nguyên và Môi trường) và UBND tỉnh. Sở Địa 
chính tỉnh (nay là Sở Tài nguyên và Môi trường) đã tiến hành thường 
xuyên công tác đo đạc, lập bản đồ địa chính, bản đồ giải thửa và đạt được 
những kết quả đáng khích lệ. 
Từ năm 1997 tỉnh đã triển khai lập quy hoạch sử dụng đất cho tất cả 
các xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh. Năm 1998 - 1999 tỉnh tiếp tục triển 
khai lập quy hoạch sử dụng đất cấp huyện trên địa bàn 9 huyện thị giai đoạn 
1998 - 2010. Đến năm 2000 tỉnh đã tổ chức triển khai lập quy hoạch, kế 
hoạch sử dụng đất tỉnh Kon Tum đến 2010 và đã được Chính phủ phê duyệt 
tại Quyết định số 1033/QĐ-TTg ngày 08/11/2002. Đến nay toàn bộ việc quy 
hoạch sử dụng đất của cả 3 cấp (tỉnh, huyện, xã) đã hoàn thành, làm căn cứ 
cho công tác quản lý đất đai toàn tỉnh trong thời gian tới. Tuy nhiên, trong 
những năm tới cần phải thường xuyên theo dõi và kịp thời chỉnh lý, bổ sung 
điều chỉnh quy hoạch theo đúng quy định của Luật đất đai và phù hợp với 
thực tế của quá trình phát triển tại địa phương. 
Việc xây dựng kế hoạch sử dụng đất là nhiệm vụ thường xuyên của 
ngành địa chính. Hàng năm, Sở Tài nguyên và Môi trường đánh giá kế 
hoạch sử dụng đất năm thực hiện và xây dựng kế hoạch sử dụng đất cho 
năm tiếp theo, trình UBND tỉnh thông qua để trình Thủ tướng Chính phủ 
phê duyệt. 
+ Về giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất và cấp giấy chứng nhận quyền 
sử dụng đất nông nghiệp: 
Sau 5 năm thực hiện chỉ thị số 10/1998/CT-TTg của Thủ tướng Chính 
phủ và chỉ thị 12/CT-UB của UBND tỉnh về việc giao đất, cấp đất chứng nhận 
quyền sử dụng đất nông nghiệp, tính đến tháng 6/2003 toàn tỉnh đã cấp được 
46.795 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp cho 46.795 hộ gia 
đình, cá nhân với diện tích 47.731 ha, đạt 75,62% tổng diện tích đất trồng cây 
hàng năm của các hộ gia đình, cá nhân. Mặc dù, các huyện thị đã cơ bản hoàn 
thành việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân quản lý, sử dụng lâu 
dài, song vẫn còn một số diện tích đất nông nghiệp lớn chưa được giao cho 
chủ sử dụng đất. Nguyên nhân cơ bản là một phần tương đối lớn diện tích đất 
nông nghiệp này đang nằm trong vùng ngập và bán ngập lòng hồ Yaly, một 
phần diện tích do các hộ vượt hạn điền, diện tích do phát nương làm rẫy 
không đúng quy hoạch và một vài khu còn có sự tranh chấp. Đặc biệt có một 
số hộ gia đình không tham gia đăng ký sử dụng đất do chưa thấy rõ được 
quyền lợi và nghĩa vụ của mình. 
+ Về thanh tra pháp chế: 
Trong những năm qua, tỉnh đã tiến hành nhiều cuộc thanh tra, kiểm tra 
việc quản lý, sử dụng đất nông nghiệp của nhiều tổ chức, hộ gia đình, cá 
nhân. Thông qua việc thanh tra, kiểm tra đã phát hiện và xử lý kịp thời các sai 
phạm trong công tác quản lý và sử dụng đất nông nghiệp. 
Từ năm 1996 đến nay, thực hiện Chỉ thị 245/TTg của Thủ tướng Chính 
phủ, UBND tỉnh đã thành lập 2 đoàn thanh tra (có đại diện của các cơ quan có 
chức năng tham gia) với mục đích thanh tra, đôn đốc việc thực hiện Chỉ thị 
245/TTg; thanh tra, kiểm tra việc thực hiện Luật đất đai trên địa bàn các xã, 
phường. Kết quả kiểm tra cho thấy tình hình vi phạm Luật đất đai trong quản 
lý, sử dụng đất nông nghiệp của các tổ chức, cá nhân trên địa bàn tỉnh chủ yếu 
tập trung vào các doanh nghiệp, các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ 
phần là nghiêm trọng. Các hình thức vi phạm cụ thể là: 
- Tự ý lấy đất nông nghiệp chia cho các cá nhân làm nhà ở. 
- Tự ý chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp. 
- Tự ý chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp. 
- Sử dụng đất nông nghiệp không theo quy hoạch. 
- Lấn chiếm đất nông nghiệp. 
- Sử dụng đất nông nghiệp chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền 
cho phép. 
Toàn bộ những vi phạm trên đã được kiến nghị với UBND tỉnh xử lý 
theo từng vụ việc cụ thể; xử phạt hành chính hoặc truy tố theo Luật tố tụng 
hình sự, còn lại thu hồi hoặc hoàn tất các thủ tục theo đúng pháp luật. Từ đó 
đến nay việc thanh tra, kiểm tra được tiến hành thường xuyên liên tục, đáp 
ứng nhu cầu của công tác quản lý. 
Công tác giải quyết tranh chấp đất đai, đơn thư khiếu nại tố cáo các vi 
phạm trong sử dụng đất nông nghiệp đạt kết quả cao trong những năm qua. 
Ngoài ra, thực hiện Quyết định số 132/2002/QĐ-TTg ngày 08/10/2002 của 
Thủ tướng Chính phủ về giải quyết đất sản xuất và đất ở cho đồng bào dân tộc 
thiểu số tại chỗ ở Tây Nguyên, tỉnh đã tổ chức điều tra, rà soát toàn bộ tình 
hình giao đất, cho thuê và sử dụng ruộng đất của đồng bào dân tộc thiểu số 
trên địa bàn tỉnh cũng như tình hình quản lý, sử dụng đất nông nghiệp, lâm 
nghiệp của các nông lâm trường. Trên cơ sở đó tổng hợp số hộ đồng bào 
dân tộc thiểu số thiếu đất sản xuất và đất ở, các nguyên nhân cơ bản dẫn 
đến tình trạng thiếu đất để từ đó đề ra phương hướng giải quyết đối với 
từng địa bàn cụ thể. 
2.2.2. Thực trạng quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp để phát 
triển cây công nghiệp ở tỉnh Kon Tum từ năm 2000 đến năm 2005 
2.2.2.1. Những thành tựu đạt được 
Trên cơ sở phân tích, đánh giá số liệu thống kê đất nông nghiệp từ năm 
2000 đến năm 2005, có thể thấy các loại hình sử dụng đất nông nghiệp của 
tỉnh Kon Tum đều có sự biến động theo chiều hướng tăng. 
Quá trình tăng giảm các loại đất nông nghiệp trong giai đoạn này nhìn 
nhận một cách tổng quát là phù hợp mục tiêu phát triển kinh tế của tỉnh. Tuy 
nhiên, cần phân tích xu hướng biến động các loại đất nông nghiệp chi tiết để 
đánh giá chính xác thực trạng quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp ở giai đoạn 
hiện nay. 
Trong những năm từ năm 2000 đến năm 2005, diện tích đất nông 
nghiệp tăng 36.821,88 ha, từ 91.582,69 ha năm 2000 lên 128.404,57 ha năm 
2005. Bình quân mỗi năm tăng khoảng 7.364 ha. Diện tích đất nông nghiệp 
tăng chủ yếu tập trung ở huyện Sa Thầy, một số xã thuộc phía Bắc thị xã Kon 
Tum, huyện Đăk Hà, Đăk Tô. 
Trong đất nông nghiệp diện tích trồng cây hàng năm là tăng lớn nhất 
trong cả giai đoạn tăng 26919,60 ha. Trong đó đất trồng lúa tăng 2428,12 ha, 
đất nương rẫy tăng 11.963,57 ha và đất trồng cây hàng năm khác tăng 
12.527,91 ha (tăng mạnh ở diện tích đất chuyên màu và cây công nghiệp hàng 
năm tăng 11620,41 ha) [phụ lục 4]. 
Phân tích xu thế tăng diện tích đất nông nghiệp trồng cây hàng năm ở 
giai đoạn này có thể thấy rằng, bên cạnh cố gắng của ngành nông nghiệp 
trong việc cải tạo, khai hoang vùng đất chưa sử dụng, thì vài loại đất khác lại 
có sự gia tăng đột biến theo chiều hướng bất lợi như đất nương rẫy. Diện tích 
đất nương rẫy tăng trong vòng 5 năm là 11.963,57 ha. Kết quả diện tích đất 
nương rẫy tăng trong giai đoạn này được lý giải có chủ trương điều chỉnh một 
số diện tích đất nông nghiệp sử dụng kém hiệu quả của các nông, lâm trường 
giao cho đồng bào dân tộc thiểu số thiếu đất sản xuất theo tinh thần quyết 
định số 132/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. 
Bảng 2.2: So sánh biến động diện tích đất nông nghiệp 
 giai đoạn 2000 - 2005 [29] 
Loại đất Diện tích (ha) 2000 
Diện tích 
2005 
Biến động: 
tăng (+), 
giảm (-) 
Tổng diện tích đất nông nghiệp 91.582,69 128.404,57 +36.821,88 
I. Đất trồng cây hàng năm 60.905,67 87.825,27 +26.919,60 
1. Đất trồng lúa 15.198,56 17.626,68 +2.428,12 
2. Đất nương rẫy 23.306 35.269,57 +11.963,57 
3. Đất trồng cây hàng năm khác 22.401,11 34.929,02 +12.527,91 
a. Đất chuyên mầu và cây công nghiệp 
hàng năm 19.112,61 30.733,02 +11.620,41 
b. Đất chuyên rau 1.415 1.545 +130 
c. Đất trồng cây hàng năm khác 1.873,5 2.651 +777,5 
II. Đất trồng cây lâu năm 30.677,02 40.262,14 +9.585,12 
1. Đất trồng cây công nghiệp lâu năm 30.201,02 35.312 +4.110,98 
2. Đất trồng cây ăn quả 374 2.748 +2.374 
3. Đất trồng cây lâu năm khác 96 2.183,14 +2.084,14 
4. Đất ươm cây giống 6 19 +13 
III. Đất trồng cỏ dùng chăn nuôi 0 317,16 +317,16 
1. Đất cỏ trồng 0 129 +129 
2. Đất cỏ tự nhiên cải tạo 0 188,16 +188,16 
Loại đất có mức độ tăng lớn thứ hai của đất nông nghiệp là đất trồng 
cây lâu năm, tăng 9585 ha trong cả giai đoạn. Tuy nhiên, mức độ tăng diện 
tích đất trồng cây lâu năm trong giai đoạn này thấp hơn rất nhiều so với giai 
đoạn trước năm 1995 - 2000 (diện tích tăng bình quân của cả giai đoạn này là 
4.343 ha/năm). Thực chất vấn đề này có thể hiểu do diện tích đất trồng cây 
công nghiệp lâu năm như cà phê đã phát triển mạnh gần như bão hoà ở giai 
đoạn 1995 - 2000, nên có xu hướng tăng chậm ở giai đoạn này. Mặc dù vậy, 
do giá mủ cao su trong những năm qua luôn ở mức cao và ổn định nên diện 
tích cây cao su trong thời gian quan luôn tăng lên. 
Đất trồng cỏ dùng vào chăn nuôi đứng thứ 3 về mức độ gia tăng trong 
đất nông nghiệp. Vào năm 2000, theo chỉ tiêu thống kê đất nông nghiệp của 
tỉnh không có đất trồng cỏ dùng vào chăn nuôi. Hiện nay, do nhu cầu phát 
triển chăn nuôi gia súc (trâu, bò, dê) nên tỉnh đã có chủ trương mở rộng diện 
tích đất trồng cỏ và cải tạo đồng cỏ tự nhiên. Diện tích tăng hơn 317 ha, tập 
trung ở các huyện Sa Thầy, Kon rẫy, Đăk Hà. 
Các loại đất còn lại trong đất nông nghiệp như đất vườn tạp và đất có 
mặt nước nuôi trồng thuỷ sản có diện tích tăng không đáng kể, chủ yếu phục 
vụ nhu cầu sinh hoạt hằng ngày. 
Trong 5 năm từ 2000 - 2005, diện tích đất lâm nghiệp có rừng của tỉnh 
Kon Tum tăng 56203 ha, bình quân mỗi năm tăng hơn 11240 ha. Song trên 
thực tế diện tích tăng thêm chỉ tập trung vào đất rừng trồng. Trung bình mỗi 
năm trên địa bàn tỉnh trồng thêm khoảng hơn 13714,64 ha, chủ yếu là trồng 
rừng nguyên liệu giấy. 
Tuy nhiên, trong nhóm rừng trồng, đất trồng rừng phòng hộ tăng rất ít, 
từ năm 2000 đến năm 2005 cả tỉnh chỉ tăng được 2738 ha. Trong khi đó diện 
tích rừng phòng hộ tự nhiên trong giai đoạn 2000 - 2005 đã giảm 13.000 ha. 
Rừng phòng hộ tự nhiên của tỉnh Kon Tum tập trung chủ yếu ở các khu vực 
như rừng phòng hộ trọng yếu Thạch Nham, rừng phòng hộ trọng yếu thuỷ 
điện Yaly... Sự giảm sút của rừng phòng hộ tự nhiên sẽ ảnh hưởng trực tiếp 
đến độ an toàn của các công trình. Mặc dù, một phần diện tích đất lâm 
nghiệp không có rừng giảm đi là do thực hiện Quyết định số 132/2002/QĐ-
TTg của Thủ tướng Chính phủ chuyển giao cho địa phương quản lý để giải 
quyết đất cho đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ thiếu đất sản xuất. Song xét 
về lâu dài, đây vẫn là những mất mát khó có thể bù đắp về mặt tự nhiên (kể 
cả việc trồng rừng mới) và là một trong những nguyên nhân gây ra các thảm 
hoạ sinh thái ngày càng tăng trong thời gian gần đây tại tỉnh Kon Tum, vùng 
Tây Nguyên và cả ở các vùng lân cận (Duyên hải Nam Trung Bộ, Đông 
Nam Bộ) (bảng 2.3). 
Bảng 2.3: So sánh biến động diện tích đất lâm nghiệp có rừng 
 giai đoạn 2000 - 2005 [29] 
Đơn vị tính: ha 
Loại đất Diện tích 2000 
Diện tích 
2005 
Biến động: 
tăng (+), 
giảm (-) 
Tổng diện tích đất lâm nghiệp có rừng 606.669,2 662.872,24 56.203,04 
I. Rừng tự nhiên 594.103 578.195 -15.908 
1. Đất có rừng sản xuất 311.280 295.327 -15.953 
2. Đất có rừng phòng hộ 206.771 193.771 -13.000 
3. Đất có rừng đặc dụng 76.052 89.097 +13.045 
II. Rừng trồng 12.547,02 84677,24 +72.130,22 
1. Đất có rừng sản xuất 3.797,02 72.370,24 +68.573,22 
2. Đất có rừng phòng hộ 8519 11257 +2738 
3. Đất có rừng đặc dụng 231 1031 +800 
III. Đất ươm giống cây 19 19 0 
Trong vòng 5 năm, từ 2000 đến năm 2005, diện tích chưa sử dụng và 
sông suối, núi đá đã giảm 90.150,45 ha. Trung bình một năm đất chưa sử 
dụng giảm hơn 18030,09 ha, diện tích giảm tập trung vào đất đồi núi chưa sử 
dụng, loại đất có tỷ lệ diện tích lớn nhất trong nhóm đất chưa sử dụng. 
Tuy nhiên, trong nhóm đất chưa sử dụng, diện tích đất bằng chưa sử 
dụng đã giảm được đáng kể (trên 4500 ha). Đây là diện tích có được do hậu 
quả của quá trình phá rừng (đặc biệt là rừng tự nhiên) dẫn đến đất bị hoang 
hoá trở lại. Ngoài ra việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất trái phép từ đất 
lâm nghiệp sang đất nông nghiệp không theo quy hoạch cũng là một trong 
những nguyên nhân gây ra tình trạng trên (bảng 2.4). 
Bảng 2.4: So sánh biến động diện tích đất chưa sử dụng 
 giai đoạn 2000 - 2005 [26] 
Đơn vị tính: ha 
Loại đất Diện tích 2000 
Diện tích 
2005 
Biến động: 
tăng (+), 
giảm (-) 
Tổng diện tích đất chưa sử dụng 238.553,94 148.403,49 -90.150,45 
1. Đất bằng chưa sử dụng 4070,25 732,52 -3337,73 
2. Đất đồi núi chưa sử dụng 234429,05 147668,32 -86760,73 
3. Núi đá không có rừng cây 54,64 2,65 -51,93 
Như vậy, quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp tỉnh Kon Tum đến năm 
2010 đã thực hiện được 5 năm (từ năm 2000 đến năm 2005). Hiện trạng sử 
dụng đất nông nghiệp của tỉnh năm 2005 chính là một phần thực hiện của cả 
thời kỳ quy hoạch và năm quyết định trong giai đoạn kế hoạch sử dụng đất 
nông nghiệp 5 năm đầu (2000 - 2005). Vì thế, khi đánh giá tình hình sử dụng 
đất nông nghiệp của tỉnh Kon Tum giai đoạn 2000 đến năm 2005 cần so sánh 
giữa kết quả đạt được của cả giai đoạn với kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp 
của giai đoạn 2000 - 2005 của tỉnh, để từ đó rút ra những nhận định chính xác 
về các nội dung đã thực hiện của phương án quy hoạch, những phần chưa 
thực hiện được so với phương án đề ra, các nội dung hợp lý hay bất hợp lý 
trong những phần đã thực hiện; các vấn đề nảy sinh ngoài dự kiến tác động 
đến phương án quy hoạch theo chiều hướng tích cực hoặc tiêu cực, những vấn 
đề cần phải tiếp tục xử lý... Nội dung so sánh giữa kết quả thực hiện sử dụng 
đất nông nghiệp giai đoạn 2000 - 2005 với kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp 
của tỉnh Kon Tum giai đoạn 2000 - 2005 được thể hiện như sau: 
Đất trồng cây hàng năm: theo kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp 2000 - 
2005, diện tích đất trồng cây hàng năm sẽ giảm đi 6.827 ha, chỉ còn 48.496 ha 
vào năm 2005. Trong đó giảm chủ yếu vào đất nương rẫy, tiếp theo là đất 
trồng cây hàng năm khác. Còn đất ruộng lúa, lúa mầu sẽ tăng lên qua các năm 
để đảm bảo an ninh lương thực. 
Tuy nhiên, diện tích thực hiện năm 2005 so với thực trạng năm 2000 
và kế hoạch năm 2005 có những biến động không theo đúng kế hoạch sử 
dụng đất nông nghiệp đã dự kiến. Thể hiện rõ nhất trong sự biến động 
ngược chiều này là sự gia tăng mạnh mẽ của đất nương rẫy trong giai đoạn 
2000 - 2005 (tăng trên 11.963,57 ha). Mặc dù, nguyên nhân của việc gia 
tăng đất nương rẫy trong giai đoạn này được lý giải (giành đất sản xuất cho 
đồng bào dân tộc thiểu số theo Quyết định 132/2002/QĐ-TTg của Thủ 
tướng Chính phủ), song đó chỉ là giải pháp tình thế. Vì vậy, trong những 
năm tới cần có kế hoạch điều chỉnh giảm dần sự gia tăng của đất nương 
rẫy. 
Đất vườn tạp: tương tự đất nương rẫy, đất vườn tạp năm 2005 cũng 
tăng lên so với kế hoạch năm 2005, tuy mức độ tăng không lớn nhưng cũng 
phản ánh một phần sự cần thiết phải điều chỉnh kế hoạch cho phù hợp với 
thực tế địa phương. 
Đất trồng cây lâu năm: so với kế hoạch năm 2005, diện tích thực hiện 
năm 2005 là tương đối phù hợp, hầu hết các loại đất trong đất trồng cây lâu 
năm đều tăng lên theo chiều thuận với kế hoạch đề ra. 
Đất cỏ dùng vào chăn nuôi: Kế hoạch đến năm 2005 toàn tỉnh sẽ có 
8.755 ha, song đến năm 2005 mới phát triển được 317 ha (bằng 1/27 diện 
tích theo kế hoạch). Nguyên nhân do khi xây dựng phương án quy hoạch 
chưa khảo sát kỹ vùng có khả năng phát triển đồng cỏ. Vì vậy, cần thiết 
phải có sự điều chỉnh diện tích đồng cỏ trong tương lai để có khả năng thực 
thi [phụ lục 4]. 
Đất mặt nước nuôi trồng thuỷ sản: đã phát triển mạnh. 
Vậy, xét tổng thể, diện tích đất nông nghiệp năm 2005 đã đạt và vượt 
mức kế hoạch đề ra năm 2005. Tuy nhiên, như đã phân tích đối với từng loại 
đất thì cần có những điều chỉnh cụ thể nhằm đạt được kế hoạch tổng thể của 
quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp của tỉnh Kon Tum đến năm 2010, cũng 
như có sự nghiên cứu để điều chỉnh kế hoạch cho sát với khả năng thực thi và 
tình hình thực tế ở địa phương. 
Những thành tựu đã đạt được trong công tác quy hoạch, sử dụng đất 
nông nghiệp của tỉnh trong thời gian qua, đã góp phần thúc đẩy ngành nông 
nghiệp không ngừng phát triển. Giá trị sản xuất của ngành nông nghiệp (theo 
thời giá hiện hành) năm 2005 đạt 1025,971 tỷ đồng chiếm 58,94% cơ cấu của 
nhóm ngành, tốc độ tăng bình quân giai đoạn 2000 - 2005 là 9,15% [5, tr.39]. 
Bảng 2.5: Giá trị sản xuất theo giá hiện hành của ngành nông nghiệp [5] 
Đơn vị tính: triệu đồng 
Năm Tổng số Trồng trọt Chăn nuôi Dịch vụ 
2000 498.821 383.227 88.935 26.659 
2001 518.120 387.153 94.962 36.005 
2002 595.931 472.573 89.128 34.230 
2003 713.252 576.623 101.229 35.400 
2004 891.561 709.719 142.322 39.520 
2005 1.025.971 805.310 170.219 50.010 
Về cơ cấu cây trồng, trong những năm qua, sản xuất trồng trọt ở tỉnh 
tập trung vào 2 nhóm cây chính là: cây lương thực (gồm lúa, ngô); cây hàng 
hoá (gồm cây công nghiệp ngắn ngày và cây công nghiệp lâu năm như sắn, 
mía, cao su, cà phê...). Năm 2005 giá trị sản xuất của hai nhóm cây này chiếm 
87,6% giá trị sản xuất của ngành trồng trọt và chiếm 79,60% giá trị sản xuất 
của ngành nông nghiệp. 
Diện tích gieo trồng cây lương thực tăng từ 25.350 ha năm 2000 lên 
34.033 ha năm 2005, sản lượng lương thực tăng từ 64.940 tấn năm 2000 
lên 98.123 tấn năm 2005, bình quân lương thực đầu người 260 kg, đảm 
bảo ở mức tiêu thụ bình thường, nhưng chưa đảm bảo được mức an toàn 
lương thực.[5, tr.47]. 
Bảng 2.6: Biến động diện tích, năng suất và sản lượng nhóm cây lương 
 thực từ năm 2000 - 2005 [5] 
 2000 2001 2002 2003 2004 2005 
1. Cây lúa 
- Diện tích (ha) 20.905 21.324 20.798 20.994 22.380 24.354,68 
- Năng suất (tạ/ha) 24,79 26,54 28,60 29,49 30,13 27.02 
- Sản lượng (tấn) 51.830 56.601 59.483 61.901 67.439 65.810 
2. Cây ngô 
- Diện tích (ha) 4.445 5.949 7.218 8.087 8.717 9.679 
- Năng suất (tạ/ha) 29,49 32,88 34,12 36,25 35,86 33,3 
- Sản lượng (tấn) 13.110 19.562 24.627 29.312 31.264 32.313 
Diện tích cây hàng hoá trong những năm qua có nhiều biến động. Một 
số cây có diện tích tăng nhanh nhưng ngược lại một số cây thì diện tích lại 
suy giảm đi do sự biến động của giá cả. 
Trong những năm qua diện tích cây sắn tăng nhanh chiếm 98,6% tổng 
diện tích cây chất bột có củ, diện tích cây sắn tăng từ 15049 ha năm 2000 lên 
27397 ha năm 2005, bình quân mỗi năm tăng 2469,6 ha. Sản lượng sắn năm 
2005 là 372.271 tấn. 
Bảng 2.7: Biến động diện tích, sản lượng nhóm cây hàng hoá 
giai đoạn 2000 - 2005 [5] 
Đơn vị tính: ha, tấn 
 2000 2001 2002 2003 2004 2005 
1. Cây sắn 
- Diện tích (ha) 15.049 15.616 20.140 23.429 24.272 27.397 
- Sản lượng (tấn) 143.279 155.802 240.172 299.678 317.178 272.271 
2. Cây mía 
- Diện tích (ha) 3.589 3.563 3.501 3.651 3.356 2771 
- Sản lượng (tấn) 150.063 150.255 159.087 171.031 154.030 115.571 
3. Cây cà phê 
- Diện tích (ha) 14.404 14.196 12.984 12.362 11.513 11.550 
- Sản lượng (tấn) 11.847 13.683 14.806 19.188 19.388 14.326 
4. Cây cao su 
- Diện tích (ha) 14.207 14.700 15.833 16.583 19.934 23.762 
- Sản lượng (tấn) 1.398 1.235 1.555 2.552 4.564 7.441 
Qua bảng 2.7 cho thấy diện tích cây mía trong những năm qua liên tục 
giảm từ 3589 ha năm 2000 đến năm 2005 chỉ còn 2771 ha, sự suy giảm diện 
tích của cây mía trong thời gian qua là do biến động về giá cả cộng với chính 
sách thu mua nguyên liệu mía ở tỉnh chưa hợp lý làm cho người dân không 
trồng mía nữa chuyển sang trồng các loại cây khác có giá trị kinh tế hơn. 
Trong thời gian qua diện tích cây cà phê ở tỉnh Kon Tum cũng liên tục 
giảm, do sự biến động của giá cả thị trường thế giới nên nhiều diện tích cây cà 
phê không được chăm sóc và bị phá bỏ đi năm 2000 diện tích cây cà phê là 
14404 ha thì đến năm 2005 chỉ còn 11550 ha, đạt sản lượng 14.326 tấn. 
Riêng đối với cây cao su trong những năm qua luôn có sự tăng trưởng đều 
đặn từ 14207 ha năm 2000 đến năm 2005 đã tăng lên 23.762 ha chiếm 67,4% 
diện tích trồng cây công nghiệp dài ngày, đạt sản lượng 7.441 tấn [5, tr.80]. 
Đến năm 2005 diện tích cây ăn quả của tỉnh Kon Tum là 2.748 ha tăng 
2.374 ha so với năm 2000. Diện tích cây chè, cây quế và cây tiêu, cây dừa... thời 
gian qua vẫn không có biến động lớn, tổng diện tích các loại cây này chỉ khoảng 
912,14 ha chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng diện tích cây công nghiệp dài ngày. 
Như vậy, nhờ có sự quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp hợp lý và hiệu 
quả, trong giai đoạn 2000 - 2005 sản xuất nông nghiệp của tỉnh Kon Tum đã 
có bước chuyển biến tích cực, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 9,15%. Sản 
xuất lương thực có tốc độ phát triển nhanh, có tác dụng trực tiếp ổn định cuộc 
sống cho nhân dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số. Bước đầu hình 
thành các vùng chuyên canh sản xuất cây công nghiệp tập trung với quy mô 
ngày càng lớn như cao su, cà phê, mía, sắn... là cơ sở thuận lợi cho đầu tư 
thâm canh cao, ứng dụng có hiệu quả các tiến bộ khoa học kỹ thuật và công 
nghệ mới nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Tuy nhiên, việc quy hoạch, sử dụng 
đất nông nghiệp để phát triển cây công nghiệp của tỉnh Kon Tum thời gian 
qua còn gặp những khó khăn hạn chế. 
2.2.2.2. Những tồn tại và hạn chế trong quy hoạch, sử dụng đất nông 
nghiệp để phát triển cây công nghiệp ở tỉnh Kon Tum 
* Những tồn tại và hạn chế : 
Kon Tum là tỉnh giàu tiềm năng về đất đai, đặc biệt là đất nông nghiệp 
để phát triển cây công nghiệp. Tuy nhiên, thời gian qua tỉnh vẫn chưa khai 
thác và phát huy tốt những lợi thế vốn có này, hiệu quả sử dụng đất nông 
nghiệp để phát triển cây công nghiệp còn thấp. 
Trình độ sản xuất nông nghiệp của người lao động còn thấp, năng suất 
cây trồng chưa cao, việc chuyển giao và ứng dụng các tiến bộ khoa học - kỹ 
thuật, ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất còn chậm, đặc biệt là công nghệ 
sau thu hoạch dẫn tới chất lượng nông lâm sản có chất lượng thấp, chưa đáp 
ứng được nhu cầu của thị trường. Vì vậy, giá nông sản bán ra thấp làm ảnh 
hưởng trực tiếp đến người lao động. 
Là một tỉnh miền núi với 50,18% dân số là người dân tộc thiểu số nên 
ruộng đất canh tác còn bị phân tán, còn mang nặng tính chất độc canh, quảng 
canh và tính chất tự cấp, tự túc. Nhìn chung vấn đề đầu tư vốn, kỹ thuật, công 
nghệ vào những khâu then chốt của sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh chỉ 
giới hạn ở một số vùng có điều kiện. 
Việc chuyển dịch cơ cấu trong công nghiệp của nhiều vùng trong tỉnh 
còn chậm. Diện tích đất nông nghiệp dành cho cây trồng hàng năm còn chiếm 
tỷ lệ lớn so với diện tích cây lâu năm. Chưa hình thành được những vùng sản 
xuất tập trung, chuyên môn hoá lớn đối với một số cây mũi nhọn. Sản xuất 
kinh doanh trong ngành nông nghiệp theo cơ chế thị trường chưa chuyển biến 
mạnh, chưa tạo ra sự gắn kết giữa sản xuất - chế biến - tiêu thụ sản phẩm có 
hiệu quả. 
Hệ thống kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn tuy đã được cải thiện 
nhưng vẫn trong tình trạng yếu kém, chưa đồng bộ, nhiều xã vùng sâu vùng 
xa điều kiện đi lại còn khó khăn, nhất là vào mùa mưa. Đây cũng là nguyên 
nhân cơ bản để hệ thống dịch vụ nông thôn không tiếp cận được tới vùng sâu, 
vùng xa, tạo nên sự chênh lệch cao về mặt bằng giá, gây khó khăn trực tiếp 
cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm ở những vùng này. 
Diện tích đất nông nghiệp đang bị thu hẹp dần trong quá trình công 
nghiệp hoá và đô thị hoá vì tốc độ xây dựng những công trình giao thông, 
thuỷ lợi và các công trình phúc lợi xã hội không ngừng phát triển. Mặt khác, 
việc quản lý đất đai còn nhiều điểm bất cập, khiến cho việc quy hoạch, sử 
dụng đất chưa phát huy được hết tính tích cực để đem lại hiệu quả kinh tế cao. 
Công tác quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp của tỉnh thời gian qua chưa chú 
trọng đến việc xây dựng và hình thành các vùng chuyên canh cây công 
nghiệp, cây thực phẩm gắn với việc xây dựng hệ thống chế biến. Công tác 
giao đất, giao rừng và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng ruộng đất còn 
chậm. Đất nông nghiệp còn phân tán, manh mún, nhỏ lẻ, nhiều nơi còn diễn ra 
tình trạng cho thuê, mua bán, sang nhượng đất nông nghiệp mà chính quyền 
địa phương không kiểm soát được. Đặc biệt là vùng đất canh tác của người 
đồng bào dân tộc thiểu số, làm cho một số lớn hộ đồng bào dân tộc thiểu số 
không còn đất sản xuất và đất ở dẫn đến tình trạng, để có đất nông nghiệp sản 
xuất họ phải đốt rừng làm rẫy và một số thế lực thù địch lợi dụng vào vấn đề 
này xuyên tạc và lôi kéo bà con đồng bào dân tộc thiểu số vào các hoạt động 
gây mất ổn định tình hình chính trị - xã hội. 
Vấn đề tiêu thụ nông sản phẩm đang là nỗi lo thường xuyên của 
nông dân. Trong khi giá cả vật tư đầu vào phục vụ cho sản xuất nông 
nghiệp tăng nhanh, từ chi phí sản xuất đến các vật tư như phân bón, 
thuốc trừ sâu, xăng dầu và giá cước vận tải... đều tăng lên khá cao. Thì giá 
cả nông sản phẩm luôn trong tình trạng bấp bênh gây ra ứ đọng, thậm chí là 
không tiêu thụ được. Làm cho người nông dân không đủ bù đắp giá trị sức 
lao động v
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
Luận văn- Quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp để phát triển cây công nghiệp ở tỉnh Kon Tum.pdf