Tài liệu Luận văn Quản lý tiền cho vay của ngân hàng thương mại:  - - 1 
Luận Văn 
"Quản lý tiền cho vay của ngân hàng thương mại" 
 - - 2 
LỜI NÓI ĐẦU 
 Trong công cuộc đổi mới hiện nay, trên đất nước ta đang diễn ra sôi 
động quá trình phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động 
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng Xã Hội 
Chủ Nghĩa. Điều đó đòi hỏi phải nghiên cứu một cách có hệ thống nhiều 
lĩnh vực hoạt động kinh tế thuộc cơ chế mới, trong đó một lĩnh vực có vị 
trí hết sức quan trọng đó là lĩnh vực tiền tệ-ngân hàng. Bởi vì tiền tệ-ngân 
hàng là hệ thống thần kinh của nền kinh tế. Nó có vai trò rất to lớn trong 
việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững. Kinh nghiệm phát triển kinh tế 
của các nước đã chỉ ra rằng, mỗi bước thăng trầm của nền kinh tế đều có 
nguyên nhân sâu xa gắn liền với chính sách tiền tệ và hoạt động của ngân 
hàng. 
Mặt khác, trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành 
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước mọi vận hành kinh tế 
đều được ti...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
44 trang | 
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1376 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Quản lý tiền cho vay của ngân hàng thương mại, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 - - 1 
Luận Văn 
"Quản lý tiền cho vay của ngân hàng thương mại" 
 - - 2 
LỜI NÓI ĐẦU 
 Trong công cuộc đổi mới hiện nay, trên đất nước ta đang diễn ra sôi 
động quá trình phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động 
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng Xã Hội 
Chủ Nghĩa. Điều đó đòi hỏi phải nghiên cứu một cách có hệ thống nhiều 
lĩnh vực hoạt động kinh tế thuộc cơ chế mới, trong đó một lĩnh vực có vị 
trí hết sức quan trọng đó là lĩnh vực tiền tệ-ngân hàng. Bởi vì tiền tệ-ngân 
hàng là hệ thống thần kinh của nền kinh tế. Nó có vai trò rất to lớn trong 
việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững. Kinh nghiệm phát triển kinh tế 
của các nước đã chỉ ra rằng, mỗi bước thăng trầm của nền kinh tế đều có 
nguyên nhân sâu xa gắn liền với chính sách tiền tệ và hoạt động của ngân 
hàng. 
Mặt khác, trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành 
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước mọi vận hành kinh tế 
đều được tiền tệ hoá. Do vậy, bất kỳ một quá trình sản xuất kinh doanh nào 
dù ở bất kỳ cấp độ nào: gia đình, doanh nghiệp, quốc gia luôn cần một 
lượng vốn nhất định dưới dạng tiền tệ. Ngân hàng là một trong những tổ 
chức cung cấp vốn quan trọng nhất cho phần lớn các hoạt động sản xuất 
của nền kinh tế, ngân hàng thực hiện việc chu chuyển vốn từ nơi thừa đến 
nơi thiếu. Sau khi xác định được vốn dự trữ bắt buộc theo định mức và vốn 
tiền gửi có thể sử dụng để kinh doanh. Ngân hàng tìm những khách hàng 
có tín nhiệm, có thể đầu tư vốn an toàn. thu hồi vốn đúng hạn, tăng được 
tốc độ quay vòng vốn tín dụng, thu được nhiều lợi nhuận nhằm nâng cao 
hiệu qủa sử dụng vốn. Nhưng để thực hiện việc cho vay này đúng theo 
mong muốn thì đòi hỏi ngân hàng phải thực hiện đúng nguyên tắc quản lý 
 - - 3 
tiền cho vay, phải am hiểu khách hàng thị trường và những chính sách, quy 
đinh của nhà nước về tiền tệ và tín dụng. Là một nhà hoạt đọng trong lĩnh 
vực ngân hàng trong tương lai để có kiến thức phục vụ cho việc kinh doanh 
trong lĩnh vực ngân hàng ngày càng tốt hơn, đem lại lợi ích cho bản thâm 
và xã hội em đã tiến hành nghiên cứu một số vấn đề quản lý tiền cho vay 
của các ngân hàng thương mại ở Việt nam hiện nay. Đây là một trong số 
những lĩnh vực được các nhà ngân hàng quan tâm để tăng cường hoạt động 
có lợi. 
MỤC LỤC 
 Trang 
Lời nói đầu 1 
Nội dung. 2 
Chương I. Cơ sở lý luận của việc quản lý tiền cho vay 4 
I.1. Tín dụng là gì? 6 
I.2. Bản chất của tín dụng 7 
I.3. Chức năng của tín dụng 9 
I.4. Vai trò của tín dụng 10 
I.5. Tín dụng ngân hàng 11 
I.6. Nghiệp vụ cho vay của ngân hàng thương mại 17 
Chương II. Những nguyên tắc quản lý tiền cho vay 22 
II.1. Những thông tin cần nắm được trước khi quyết định cho vay 24 
II.2. Những điều kiện cho vay và những đảm bảo cho khoản vay 25 
II.3. Vấn đề quản lý tiền cho vay có hiệu quả 27 
Chương III. Thực trạng việc cho vay của các ngân hàng thương 
mại ở Việt Nam hiện nay 
30 
III.1. Quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng 31 
 - - 4 
III.2. Các loại cho vay ngắn hạn về vốn lưu động 32 
III.3. Các loại cho vay trung hạn và dài hạn 35 
III.4. Cho vay tiêu dùng 36 
III.5. Thành tựu và hạn chế của việc cho vay của các ngân hàng 
thương mại ở Việt Nam 
36 
Chương IV. Giải pháp cho vay an toàn và hiệu quả của các ngân 
hàng thương mại 
40 
IV.1. Giải pháp về rủi ro cho vay 34 
IV.2. Giải pháp về nguyên tắc cho vay 31 
IV.3. Giải pháp về phương thức cho vay 
IV.4. Giải pháp về tín dụng của ngân hàng thương mại 
IV.5. Giải pháp cho vấn đề ứ đọng vốn hiện nay 
IV.6. Giải pháp về nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ tín dụng 
Chương V. Phương hướng để nâng cao hiệu quả của việc quản lý 
tiền cho vay của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam 
V.1. Chiến lược sử dụng vốn gắn liền với chiến lược kinh tế - xã hội 
V.2. Phân bổ thành phần vốn đầu tư trong từng dự án 
V.3. Nhiệm vụ đặt ra đối với ngành ngân hàng 
Kết luận 
Tài liệu tham khảo 
NỘI DUNG 
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC QUẢN LÝ TIỀN CHO 
VAY 
 - - 5 
I.1. Tín dụng là gì ? 
Theo các nhà kinh tế học người Pháp: tín dụng là sự trao đổi một tài 
hoá hiện tại để lấy một tài hoá trong tương lai. Tín dụng là việc dịch 
chuyển vốn tạm thời từ nơi thừa sang nơi thiếu. 
 Theo Việt Nam: tín dụng là sự vay mượn lẫn nhau giữa nguyên tắc 
hoàn trả kèm theo lợi tức . 
I.2. Bản chất của tín dụng 
 Tín dụng là một phạm trù của nền kinh tế hàng hóa. Cần xem xét nội 
dung của phạm trù này để hiểu bản chất của nó. Tín dụng là mối quan hệ 
kinh tế giữa các doanh nghiệp. Vì vậy để hiểu được bản chất của tín dụng, 
phải xuất phát từ quá trình hoạt động của các doanh nghiệp. Mỗi loại hình 
doanh nghiệp khác nhau sẽ có quá trình luôn chuyển vốn khác nhau.Hơn 
nữa ngay trong bản thân doanh nghiệp quả trình luôn chuyển các loại vốn 
cũng khác nhau. Nên đối với một doanh nghiệp xẩy ra sự không trùng 
khớp giữa nhu càu về vốn và vôn tự có,coi như tư có: hoặc là doanh nghiệp 
đang tạm thời thiếu vốn hoặc là đang tự thừa vốn. Nếu doanh nghiệp đang 
tạm thời thiếu vốn thì doanh nghiệp sẽ có nhu cầu huy động thêm vốn để 
tiếp tục quá trình sản xuất kinh doanh. Nếu doanh nghiệp đang tạm thời 
thừa vốn thì doanh nghiệp có nhu cầu cho vay lấy lãi. Mặc dù doanh 
nghiệp luân tìm cách sử dụng tối đa vốn tự có và coi như tự có, song nếu 
khả năng thu hồi vốn thấp,hoặc lãi cho vay thấp không bù đáp nổi rủi ro có 
thể doanh nghiệp cũng không cho vay.Nếu chúng ta xem xét nhiều doanh 
nghiệp trong cùng một thời gian sẽ thấy có doanh nghiệp đang tạm thời 
thiếu vốn có nhu cầu đi vay và có doanh nghiệp đang tạm thời thừa vốn có 
nhu cầu cho vay. Hiện tượng kinh tế trên làm nảy sinh một số mối quan hệ 
kinh tế mà nội dung của nó là vốn được dịch chuyển tạm thời từ nơi thừa 
sang nơi thiếu với điều kiện hoàn trả vốn và lãi tiền vay. Từ nội dung của 
 - - 6 
quan hệ tín dụng ta thấy, thực chất của tín dụng là quan hệ kinh tế nhằm bổ 
sung vốn tạm thời thiếu hụt của các doanh nghiệp. Một nhu cầu vốn 
thường xuyên lớn hơn vốn tự có và coi như tự có không thể được hình 
thành thông qua quan hệ tín dụng. Mặt khác tín dụng là quan hệ kinh tế 
nhằm giải quyết cả hai loại nhu cầu của các doanh nghiệp. Do đó về bản 
chất nó là quan hệ bình đẳng hai bên cùng có lợi, và mang tính thoả thuận 
rất lớn. 
I.3. Chức năng của tín dụng. 
 Huy động và phân phối vốn tạm thời nhàn rỗi trên nguyên tắc hoàn 
trả. Đây là chức nâng chủ yếu của tín dụng phản ánh bản chất cuả tín dụng. 
Chức năng này của tín dụng được thể hiện thông qua các nghiệp vụ cơ bản 
sau: huy động vốn tạm thời nhàn rỗi của các doanh nghiệp, các tổ chức xã 
hội, dân cư thông qua các hình thức góp vốn, huy động tiếp kiệm, phát 
hành trái phiếu. Cho vay đối với các doanh nghiệp, cá nhân nhằm phục vụ 
sản xuất kinh doanh và tiêu dùng dưới hình thức cho vay bằng tiền hoặc 
bằng hàng hoá. 
 Kiểm soát các hoạt động kinh tế: Tín dụng là quan hệ kinh tế được 
hình thành trên cơ sở rất nhiều quan hệ kinh tế khác. Bản thân quan hệ tín 
dụng cũng lại bao hàm nhiều mối quan hệ như: Quan hệ vay, quan hệ về 
dư nợ. Do đó quan hệ tín dụng bao hàm cả khả năng kiểm soát các loại 
hoạt đọng kinh tế của các doanh nghiệp. Để hình thành được quan hệ tín 
dụng, người cho vay phải biết và kiểm soát hoạt động của người đi vay như 
tình vốn liếng mặt hàng sản xuất kinh doanh, khả năng trả nợ nói riêng và 
tình hình tài chính nói chung, quan hệ với các chủ nợ khác…Các trục trặc 
trong quan hệ tín dụng như vay không trả được hoặc trả khong đúng hạn 
phản ánh những trục trặc trong quá trình sản xuất kinh doanh như khâu tiêu 
thụ hàng hoá, không có lãi, bị phá sản… 
 - - 7 
I.4. Vai trò của tín dụng 
 Là một mối quan hệ kinh tế, tín dung có những tác động nhất định 
đối với các hoạt động kinh tế. Tuy nhiên vai trò của tín dụng phụ thuộc chủ 
yếu vào nhận thức và vận dụng quan hệ tín dụng vào xây dựng và quản lý 
kinh tế của con người. Trước hết tín dụng là công cụ tích tụ và tập trung 
vốn rất quan trọn. Thông qua tín dụng: Các doanh nghiệp nhận khối lượng 
vốn bổ sung rất lớn từ đó tăng quy mô sản xuất, tăng năng suất lao động, 
đổi mới thiết bị, áp dụng tiến bộ kỹ thuật. Tín dụng tâp trung các khoản tín 
dụng nhỏ, lẻ tẻ thành các khoản vốn lớn, tạo khả năng đầu tư vào các công 
trình lớn, hiệu quả cao. Tóm lại, thông qua quá trính tích tụ và tập trung 
vốn, tín dụng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Sau nữa tín dụng là 
công cụ bình quân hoá tỉ suất lợi nhuận. Tín dụng giúp các nhà doanh 
nghiệp đầu tư vào các ngành có tỉ suất lợi nhuận cao, kích thích khả năng 
cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp 
chuyển hướng sản xuất kinh doanh.Tín dụng trở thành công cụ làm cho 
kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng trở nên năng động,mềm 
dẻo, linh hoạt. Bên cạnh đó, tín dụng là công cụ tăng vòng quay của vốn và 
tiết kiệm tiền mặt trong lưu thông. 
 Chúng ta đã xem xét vai trò của tín dụng trên những phương diện 
tích cực. Điều cần lưu ý là những vai trò trên sẽ còn tích cực, thậm sẽ là 
tiêu cực dưới nhận thức và vận dụng sai lệch của con người. 
I.5. Tín dụng ngân hàng. 
 Là một hình thức tín dụng quan trọng. Có thể nói mối quan hệ tín 
dụng giữa ngân hàng với các doanh nghiệp là quan hệ tín dụng chủ yếu, 
cung cấp phần lớn nhu cầu tín dụng cho các doanh nghiệp. Với công nghệ 
 - - 8 
ngân hàng hiện nay, tín dụng ngân hàng càng trở thành một hình thức tín 
dụng chủ yếu không những ở trong nước mà còn trên trường quốc tế. 
I.5.1.Bản chất của tín dụng ngân hàng 
 Tín dụng ngân hàng cũng mang bản chất chung của quan hệ tín dụng. 
Đó là quan hệ vay mượn có hoàn trả vốn và lãi sau một thời gian nhất định, 
là quan hệ chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn, là quan hệ bình 
đẳng và cả hai bên cùng có lợi. Đặc biệt tín dụng ngân hàng là mối quan hệ 
vay mượn giữa ngân hang và tất cã các doanh nghiệp, các cá nhân khác. 
Mối quan hệ tín dụng này không phải là mối quan hệ dịch chuyển vốn trực 
tiếp từ nơi thừa sang nơi thiếu mà thông qua cơ quan trung gian là các ngân 
hàng. 
I.5.2. Chức năng của tín dụng ngân hàng. 
 Tín dụng ngân hàng thực hiện chức năng huy động và cho vay vốn 
tiền tệ trên nguyên tắc hoàn trả. Đối với tín dụng ngân hàng , chức năng 
này bao gồm hai nghiệp vụ được tách hẳn ra :Huy động vốn tạm thời nhàn 
rỗi và cho vay đối với những nhu cầu đang thiếu tạm thời. Đó là điểm mà 
nhiều loại hình tín dụng khác không có. 
 Kiểm soát các hoạt động kinh tế khả năng kiểm soát các hoạt động 
kinh tế của tín dụng ngân hàng là rộng lớn hơn các hình thức tín dụng 
khác. Bởi vì bên cạnh quan hệ tín dụng với các doanh nghiệp và cá nhân, 
ngan hàng còn có quan hệ tiền tệ, thanh toán…với họ. Các mối quan hệ 
này bổ xung cho nhau, tạo điều kiện cho ngân hàng kiểm soát các doanh 
nghiệp dễ dàng hơn trong quan hệ tín dụng so với các doanh nghiệp khác. 
Chẳng hạn, trước khi cho một doanh nghiệp vay,ngân hàng có thể biết 
tương đối chính xác tình hình tài chính của doanh nghiệp đó 
 - - 9 
 I.6.Nghiệp vụ cho vay của ngân hàng Thương mại. 
 Đối với một ngân hàng sau khi huy động được nguồn vốn thì tiến 
hành kinh doanh trên nguồn vốn đó. Ngân hàng Thương mại thực hiện 
nhiệm vụ cho vay đối với nền kinh tế đáp ứng nhu cầu vốn cho các thanhf 
viên của nền kinh tế. Cho vay là hoạt động kinh doanh chủ chốt để tạo ra 
lợi nhuận. Chỉ có lãi suất thu được từ cho vay mới bù nổi các chi phí tiền 
gửi, chi phí dự trữ, chi phí kinh doanh và quản lý, chi phí vốn trôi nổi, chi 
phí thuế và cả chi phí rủi ro đầu tư. 
CHƯƠNG II: NHỮNG NGHUYÊN TẮC QUẢN LÝ TIỀN CHO 
VAY. 
II.1. Những thông tin cần nắm được trước khi quyết định cho vay. 
 Trước khi quyết định làm bất cứ việc gì, phải nắm bắt đầy đủ những 
thông tin chính xác có liên quan đến việc đó thì mới tránh được những thiệt 
hại do sai lầm thiếu thông tin gây ra. Trong việc cho khách hàng vay vốn, 
nếu ngân hàng không có đủ những thông tin cần thiết về người đi vay thì 
rất dễ dàng bị thiệt hại do không đòi được nợ hoặc nợ quá hạn tăng lên. 
 Ngân hàng thương mại kinh doanh trên địa bàn nào trước hết đòi hỏi 
phải am hiểu tường tận địa bàn đó như: tình hình kinh tế, xã hội, lịch sử, 
đất đai, hạb tầng tầng cơ sở, tài nguyên, dân cư, vốn liếng, của cải, bất 
động sản, tài sản lưu động, các quan hệ giao lưu kinh tế, tài chính đối với 
cấp trên, với địa bàn khác… bằng các số liệu thống kê cụ thể, chính xác do 
ngân hàng tự điều tra, sưu tầm có thể tin cậy được. 
 - - 10
 Nền kinh tế thị trường vận động, biến đổi không ngừng nên hàng 
ngày phải theo dõi kịp thời diễn biến của các thị trường hàng hoá, thị 
trường tiền tệ, thị trường tài chính, thị trường chứng khoán, sản lượng các 
sản phẩm chủ yếu của các nghành kinh tế, các chính sách kinh tế tài chính, 
đầu tư, xuất nhập khẩu, tỉ giả hối đoái, lãi suất, thuế, các đạo luật mới ban 
hành, những bíên động về giá hàng xuất nhập khẩu, giá vàng, giá ngoại tệ 
mạnh, giá nội tệ, những biến động về đầu tư trong nước, từ nước ngoài 
vào, thu chi ngân sách, những biến động có liên quan trực tiếp đến những 
người gửi tiền và vay tiền ngân hàn… để dự kiến các giải pháp đối phó hay 
chuẩn đối phó trong thời gian tới. 
 Có những thông tin kinh tế chung là điều cần thiết không thể thiếu 
được, nhưng như vậy vẫn chưa đủ, còn phải có thông tin nhiều mặt về đối 
tượng đến vay vốn. Phải tiếp cận đến nơi đến chốn quá trình sản xuất kinh 
doanh của doanh nghiệp, phải đánh giá được trình độ quản lý kinh doanh 
của chủ doanh nghiệp, vì trình độ kinh doanh nghiệp càng kém thì khả 
năng rủi ro mất vốn của ngân hàng khi cho vay càng lớn. 
II.2. Những điều kiện cho vay và những đảm bảo cho khoản vay. 
 Ngân hàng chỉ cho khách hàng vay vốn khi đã có đủ cơ sở để tin 
tưởng khách hàng sẽ trả nợ đúng hạn đủ vốn và lãi. Chỉ khi nào khách hàng 
có đủ điều kiện để ngân hàng tin tưởng, thì lúc ấy mới có quan hệ tín dụng. 
Luật ngân hàng qui định: Các doanh nghiệp,tổ chức,cá nhân muốn vay tiền 
ngân hàng phải có đủ các điều kiện sau:phải có đơn xin vay, được ngân 
hàng kiểm tra khả năng vay nơ và khả năng trả nợ, người đi vay kí hợp 
đồng tin dụng với ngân hàng, người đi vay kí hơp đồng đảm bảo tín đụng 
với ngân hàng. Để đảm bảo trong hoạt động vay vốn của ngân hàng nhà 
nước ta có những quy định chặt chẽ việc cho vay phải có: 
 - - 11
 Bảo lãnh : bảo lãnh là hành động cam kết trả nợ ngân hàng bằng giấy 
tờ hợp pháp của người nhận bảo lãnh cho người đi vay khi khoản nợ đã 
đến hạn mà người đi vay không có khả năng trả nợ. Trong giấy bảo lãnh 
phải ghi rõ tên người mắc nợ và số tền nhận bảo lãnh , như vậy có nghĩa là 
người bảo lãnh chỉ hạn chế việc bảo lãnh của mình trong phạm vi số tiền 
nợ mà người đi vay đã thừa nhận . 
 Cầm cố giấy tờ có giá, hàng hoá và tài sản khác:để được vay vốn, 
người đi vay phải cầm cố cho ngân hàng tài sản của mình như giấy tờ có 
giá, hàng hoá, vàng, đá quý… Nhà nước ta quy định giá trị khoản vay 
không được vượt quá 70% giá trị tài sản cầm cố hoặc thế chấp, ngân hàng 
Nhà Nước ban hành quyết định 217 về “giao tài sản” là việc bên cầm cố 
phải đưa tài sản cho ngân hàng, hoặc bên thứ 3 nắm giữ trong suốt thời 
gian hợp đồng. Và quy định bên bảo lãnh phải lập một danh mục tài sản 
dùng vào việc bảo lãnh và số tiền cho vay tối đa không vượt quá 70% giá 
trị tài sản dùng vào việc bảo lãnh. 
 Cầm cố bất động sản : bất động được cầm cố như nhà ở, đất đai, 
ruộng rẫy, sau khi làm thủ tục càm cố người đi vay mới nhận được tiền 
vay. Người đi vay phải trả nợ đúng hạn theo hợp đồng tín dụng, không 
được đem bất động sản đã cầm cố cho ngân hàng này tiếp tục cầm cố cho 
ngân hàng khác để đượcvay thêm tiền ở ngân hàng khác. 
 Cần chú ý thường xuyên đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng, 
nếu khả năng này không có thì có nghĩa là người vay đã mất khả năng 
thanh toán hoặc đã vỡ nợ. Cho nên, sau khi đã bỏ vốn ra cho các công ty 
vay, việc kiểm tra sử dụng vốn vay, kiểm tra khả năng toán, trả nợ đối với 
ngân hàng không lúc nào được lơ là, mà phải tiến hành thường xuyên, liên 
tục. 
 - - 12
 II.3. Vấn đề quản lý tiền cho vay có hiệu quả 
 Sự lựa chọn đối nghịch trong thị trường cho vay nảy sinh bởi vì 
những người rất kém tín nhiệm lại là những người thường xếp hàng để vay 
tiền, những người vay tiền với những dự án đầu tư rất rủi ro có nhiều cái để 
được lợi nếu các dự án của họ được thành công và như vậy họ là nhữnh 
người khao khát nhận món vay nhất. Mặt khác, rủi ro đạo đức nảy sinh 
trong các thị trường vay nợ bởi vì những người vay tiền có ý muốn thực 
hiện những hoạt động không đáng mong muốn theo quan điểm của người 
cho vay, khi những người vay đã có món tiền vay, họ dễ có thể đàu tư vào 
những dự án có rủi ro cao. Để có lợi nhuận, các ngân hàng phải vượt qua 
những vấn 
đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức này, những vấn đề khiến cho sự 
vỡ nợ có thể xảy ra. Sự cố gắng của các ngân hàng để giải quyết các vấn đề 
này giúp ta giải thích những nguyên tắc quản lý các món tiền cho vay sau 
đây. 
II.3.1. Sàng lọc và giám sát. 
 Lựa chọn đối nghịch trong các thị trường cho vay đòi hỏi rằng các 
ngân hàng phải lọc những người mạo hiểm vay tín dụng có tiển vọng tốt ra 
khỏi những người mạo hiểm vay tín dụng có triển vọng xấu, nhờ vậy các 
món tiền cho vay sẽ có lợi cho ngân hàng đó. Nhằm thực hiện việc sàng 
lọc một cách có hiệu quả, các ngân hàng phải tập hợp thông tin tin cậy về 
những người vay tiền có triển vọng. Sàng lọc một cách có hiệu quả và tập 
hợp thông tin, tạo ra một nguyên tắc quan trọng của việc quản lý món tiền 
cho vay. Khi một người đến vay ngân hàng, ngân hàng nắm bắt thông tin 
về người này và tiến hành phân tích xem người này có phải là người mạo 
 - - 13
hiểm và tín dụng có triển vọng tốt đến mức nào, nó dự báo liêuj người đó 
có khó khăn khi tanh toán món tiền vay hay không. 
 Việc giám sát va cưỡng chế thi hành những qui định hạn chế. Một 
khi một món tiền cho vay được thực hiện, người vay có ý muốn tiến hành 
những hoạt động rủi ro để món vay này có thể ít có khả năng thanh toán. 
Để giảm bớt tính chất có thể như vậy của rủi ro đạo đức, các ngân hàng 
phải theo nguyên tắc quản lý tiền vay bằng cách giám sát những hoạt động 
của người vay để xem liệu họ có tuân theo những quy định hay không và 
cưỡng chế thi hành những quy định nếu họ không tuân theo. 
 II.3.2. Quan hệ khách hàng lâu dài và quy tắc tín dụng 
Một cách nữa để các ngân hàng thu được thông tin về những người 
vay tiền của họ là nhờ quan hệ khách hàng lâu dài-một nguyên lý quan 
trọng khác của việc quản lý ngân hàng. Quan hệ khách hàng lâu dài giúp 
cho các ngân hàng có thể đối phó với những sự bất ngờ rủi ro đạo đức mà 
ngay cả ngân hàng cũng không lườn trước được ở lúc ban đầu. Mối quan 
hệ khách hàng lâu dài dễ dàng cho việc tập hợp thông tin. Ngoài ra, các 
điều khoản trong thoả ước về mức tín dụng này đòi hỏi hãng đó cung cấp 
thường xuyên cho ngân hàng này những thông tin về tình hình thu nhập, tài 
sản có và tài sản nợ, về các hoạt động kinh doanh…một thoả ước về mức 
tín dụng là một phương pháp rất hữu hiệu để giảm chi phí cho việc sàng 
lọc và tạp hợp thông tin của ngân hàng . 
 II.3.3.Vật thế chấp và số dư bù. 
Những bắt buộc về vật thế chấp đối với tiền cho vay là những công 
cụ quan trọng để quản lý ngân hàng. Vật thế chấp là vật sở hữu được hứa 
cho người cho vay nếu người vay vỡ nợ. Một dạng riêng của vật thế chấp 
 - - 14
bắt buộc khi ngân hàng cho vay thương mại gọi là số dư bù. Một hãng khi 
nhận đựơc tiền vay phải giữ một số vốn tối thiểu bắt buộc trong một tài 
khoản séc ở ngân hàng cho nó vay. Ngoài việc có tác dụng như vật thế 
chấp, các số dư bù giúp tăng được khả năng món tiền cho vay sẽ được 
hoàn trả. Số dư bù đóng vai trò này giúp ngân hàng giám sát người vay đó 
và ngăn ngừa rủi ro đạo đức. Bất kỳ thay đổi quan trọng nào trong các thủ 
tục thanh toán của người vay đều là một tín hiệu báo cho ngân hàng rằng 
phải tiến hành điều tra. Những số dư bù giúp cho ngân hàng dễ giám sát 
những người vay tiền một cách hiệu quả hơn và là một công cụ quảm lý 
quan trọng. 
 II.3.4.Hạn chế tín dụng 
Một phương pháp khác để giúp những ngân hàng thành đạt đối phó 
với lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức là việc hạn chế tín dụng. Những 
ngân hàng từ chối cho vay mặc dù những người vay sẵn lòng thanh toán lãi 
suất đã được công bố thậm chí một lãi suất cao hơn. Việc hạn chế tín dụng 
có hai dạng: Dạng thứ nhất diễn ra khi một ngân hàng từ chối một món cho 
vay với số lượng bất kỳ nào đối với người vay, ngay cả khi người vay sẵn 
lòng thanh toán một lãi suất cao hơn. Dạng thứ hai diễn ra khi một ngân 
hàng sẵn lòng cho vay nhưng hạn chế mức vay đó dưới mức mà người vay 
này muốn. Để đề phòng rủi ro đạo đức các ngân hàng thường thực hiện 
dạng hạn chế tín dụng thứ hai vì món tiền vay được càng lớn thì người vay 
càng có nhiều ý muốn thực hiện những hoạt động khiến ít có thể thanh toán 
được món vay đó. 
 - - 15
Chương III: THỰC TRẠNG VIỆC CHO VAY CỦA CÁC NGÂN 
HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY. 
III.1.Quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng. 
 Quy chế này được ban hành kèm theo quyết định số 324/1998/QĐ-
NHNN nfgày 30/9/1998 của Thống Đốc Ngân hàng Nhà nước quy định về 
việc cho vay bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ của tổ chức tín dụng đối với 
khách hàng nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất và kinh doanh, dịch 
vụ, đầu tư phát triển và đời sống. Cụ thể: quy chế quy định về: quyền tự 
chủ trong cho vay của các tổ chức tín dụng, nguyên tắc vay vốn, điều kiện 
vay vốn, loại cho vay, đối tượng cho vay, thời hạn cho vay, lãi suất cho 
vay, mức cho vay, trả nợ gốc và lãi. 
Điều 14: Quy định về hồ sơ vay vốn. 
 Khi có nhu cầu vay vốn, khách hàng gửi cho tổ chức tín dụng những 
giấy tờ sau: Giấy đề nghị vay vốn. Giấy đề nghị vay vốn phải có nội dung 
cơ bản như: tên, địa chỉ khách hàng vay vốn, số tiền cần vay, mục đích vay 
vốn, các cam kết và sử dụng tiền vay, trả nợ, trả lãi và các cam kết khác. 
Tổ chức tín dụng quy định cụ thể các loại tài liệu khách hàng cần phải gửi 
phù hợp với đặc điểm cụ thể của từng loại khách hàng. 
Điều 15: Thẩm định và quyết định cho vay. 
 Tổ chức tín dụng xây dựng quy định trình xét duyệt cho vay theo 
nguyên tắc bảo đảm tính độc lập và phân định rõ ràng trách nhiệm cá nhân, 
trách nhiệm liên đới giữa khâu thẩm định và quyết định cho vay. Tổ chức 
tín dụng kiểm tra các tài liệu khách hàng gửi đến, đồng thời tiến hành thẩm 
định tính khả thi, hiệu quả của dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh 
 - - 16
doanh và khả năng hoàn trả nợ vay. Trong thời gian không quá mười ngày 
làm việc đối với cho vay ngắn hạn và không quá 45 ngày làm việc đối với 
cho vay trung, dài hạn kể từ khi tổ chức tín dụng nhận được đầy đủ hồ sơ 
vay vốn hợp lệ và thông tin cần thiết của khách hàng theo yêu cầu của tổ 
chức vay đối với khách hàng. Trong trường hợp quy định không cho vay, 
tổ chức tín dụng phải thông báo cho khách hàng bằng văn bản, trong đó 
nêu rõ căn cứ từ chối cho vay. 
Điều 16: Phương thức cho vay. 
 Tổ chức tín dụng thoả thuận với khách hàng về phương thức cho vay 
phù hợp với nhu cầu sử dụng vốn vay và khả năng kiểm tra, giám sát việc 
khách hàng sử dụng vốn vay theo một trong các phương thức cho vay sau: 
 Cho vay từng lần: Mỗi lần vay vốn khách hàng và tổ chức tín dụng 
làm thủ tục vay vốn cần thiết và ký hợp đồng tín dụng. 
 Cho vay theo hạn mức tín dụng: Tổ chức tín dụng và khách hàng 
xác định và thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong thời gian nhất 
định hoặc theo chu kỳ sản xuất kinh doanh. 
 Cho vay vốn: Một nhóm tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với một 
dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng: trong đó, có một 
tổ chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với các tổ chức tín dụng 
khác. Việc cho vay hợp vốn thức hiện theo quy định của quy chế này và 
quy chế đồng tài trợ của các tổ chức tín dụng do Thông Đốc Ngân hàng 
Nhà nước ban hành. 
 Cho vay trả góp: Khi vay vốn, tổ chức tín dụng và khách hàng xác 
định và thoả thuận số lãi tiền vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra 
trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho vay, tài sản mua bằng vốn vay 
chỉ thuộc sở hữu của bên vay khi trả nợ đủ gốc và lãi. 
 - - 17
 Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: Tổ chức tín dụng cam 
kết đảm bảo sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín 
dụng nhất định. Tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận thời hạn hiệu 
lực của hạn mức tín dụng dự phòng, mức phí trả cho mức hạn mức tín 
dụng dự phòng. 
 Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: 
Tổ chức tín dụng chấp thuận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay 
trong phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ 
và rút tiền tự động hoặc diểm ứng tiền mặt là đại lý của tổ chức tín dụng. 
Khi cho vay phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, tổ chức tín dụng và khách 
hàng phải tuân theo các quy định của chính phủ và ngân hàng Nhà nước về 
phát hành và sử dụng thẻ tín dụng. 
Điều 18: Hợp đồng tín dụng. 
 Sau khi quyết định cho vay, tổ chức tín dụng và khách hàng ký kết 
hợp đồng tín dụng. Hợp đồng tín dụng phải có nội dung về điều kiện vay, 
mục đích sử dụng tiền vay, cách thức giải ngân và sử dụng vốn vay, số tiền 
vay, lãi suất, thời hạn vay, phương thức và kỳ trả nợ, hình thức bảo đảm 
tiền vay, giá trị tài sản đảm bảo, biện pháp xử lý tài sản làm đảm bảo, 
chuyển nhượng hoặc không chuyển nhượng hợp đồng tín dụng và những 
cam kết khác được các bên thoả thuận. 
Điều 22: Kiểm tra, giám sát vốn vay. 
 Tổ chức tín dụng có thách nhiệm kiểm tra, giám sát quá trình vay 
vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ của khách hàng. Tổ chức tín dụng tiến hành 
kiểm tra, giám sát trước, trong và sau khi cho vayphù hộp với đặc điểm 
 - - 18
hoạt động của tổ chức tín dụng và đặc điểm kinh doanh và sử dụng vốn 
vay của khách hàng. 
Điều 25: Quyền và nghĩa vụ của khách hàng. 
 Khách hàng vay có quyền: Từ chối yêu cầu của tổ chức tín dụng 
không đúng với thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Khiếu nại, khởi kiện 
việc vi phạm hợp đồng tín dụng theo quy định của pháp luật. 
 Khách hàn có nghĩa vụ: Cung cấp đầy đủ, trung thực các thông tin, 
tài liệu liên quan đến việc vay vốn và chịu trách nghiệm về tính chính xác 
của các thông tin, tài liệu đã cung cấp. Sử dung tiền vay đúng mục đích và 
thức hiện đúng các nội dung khác đã thoả thuậ trong hợp đồng tín dụng. 
Trả nợ gốc và lãi tiền vay theo thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Chịu 
trách nhiệm trước pháp luật khi không thứ hiện đúng những thoả thuận về 
việc trả nợ vay và thức hiện các nghĩa vụ bảo đảm nợ vay đã cam kết trong 
hợp đồng tín dụng. 
Điều 26: Quyền và nghĩa vụ của tổ chức tín dụng. 
 Tổ chức tín dụng có quyền: yêu cầu khách hàng cung cấp tài liệu 
chứng minh dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh khả thi, khả 
năng tài chính của mình và của người bảo lãnh trước khi quyết định cho 
vay. Từ chối yêu cầu vay vốn của khách hàng nếu thấy không đủ điều kiện 
vay vốn, dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn không có hiệu quả, không 
phù hợp với quy định của pháp luật hoặc tổ chức tín dụng không có đủ 
nguồn vốn để cho vay. Kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn 
vay và trả nợ của khách hàng. Cấm dứt việc cho vay, thu hồi nợ trước hạn 
khi phát hiện khách hàng cung cấp thông tin sai sự thật, vi phạm hợp đồng 
tín dụng. Khởi kiện khách hàng vi phạm hợp đồng tín dụng hoặc người bảo 
 - - 19
lãnh theo quy định của pháp luật. Khi đến hạn trả nợ, nếu các bên không có 
thoả thuận khác thì tổ chức tín dụng có quyền bán tài sản làm bảo đảm theo 
sự thoả thuận trong hợp đồng để thu hồi nợ theo quy định của pháp luật 
hoặc yêu cầu người bảo lãnh thức hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối với trường 
hợp người khách hàng được bảo lãnh vay vốn. Miễn, giảm lãi tiền vay, gia 
hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ, mua bán nợ theo quy định của ngân hàng 
Nhà nước và thức hiện việc đảo nợ, khoanh nợ, xoá nợ theo quy đinh của 
chính phủ. 
 Tổ chức tín dụng có nghĩa vụ: thức hiệ đúng thoả thuân trong hợp 
đồng tín dụng. Lưu giữ hồ sơ tín dụng phù hợp với quy định của pháp luật. 
 Ngoài ra quy chế còn quy định về cho vay bằng ngoại tệ, giới hạn cho vay, 
những trường hợp không cho vay được, hạn chế cho vay, ra hạn nợ, điều 
chỉnh kỳ hạn trả nợ, miễn, giảm lãi tiền vay, cho vay ưu đãi, cho vay đầu 
tư xây dựng theo kế hoạch Nhà nước. 
III.2. Các loại cho vay ngắn hạn về vốn lưu động. 
Về nguyên tắc, vốn tự có của doanh nghiệp lúc nào cũng phải thoả 
mãn được các nhu cầu ngắn hạn về vốn lưu động để đảm bảo cho các 
doanh nghiệp hoạt động bình thường. Nhưng thực tế không phải lúc nào 
cũng diễn ra đúng như vậy, mà có lúc nhu cầu về vốn lưu động thấp hơn 
vốn lưu động tự có, ngược lại có lúc nhu cầu về vốn lưu động lại cao hơn 
vốn lưu động tự có khi đó doanh nghiệp phải xin vay vốn ngân hàng để bù 
đắp cho đủ nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh bị thiếu hụt. Thường thì các 
doanh nghiệp có chu kỳ sản xuất dài đều thiếu vốn lưu động, còn các 
doanh nghiệp có chu kỳ sản xuất ngắn ít khi thiếu vốn lưu động. Những 
doanh nghiệp có nhiều hàng tồn kho hoặc bị khách hàng chiếm dụngvốn, 
 - - 20
sẽ phải vay vốn ngân hàng nhiều hơn. Cho vay ngắn hạn về vốn lưu động 
của ngân hàng thương mại bao gồm: 
 Cho vay hỗ trợ ngân quỹ: loại cho va0y này được dùng để bù đắp số 
vốn tạm thời thiếu hụt trong một thời gian ngắn trong quỹ của doanh 
nghiệp. Do chưa đến hạn thu tiền bán hàng đã phải trả tiền mua nguyên vật 
liệu sản phẩm , trả lương cho công nhân, nộp thuế… nên doanh nghiệp có 
nhu cầu vay vốn trong vài ba ngày đẻ thực hiện những khoản chi trước 
mắt. 
 Chiết khấu thương phiếu: Những người cung cấp hàng hoá, dịch vụ 
chấp nhận cho khách hàng không phải trả tiền ngay mà được trả chậm theo 
kỳ hạn, nhưng phải viết giấy nhận nợ do người bán lập ra. Những giấy tờ 
đó gọi là thương phiếu. Trong việc cho vay chiết khấu thương phiếu 
thường có hợp đòng tín dụng chiết khấu. Cơ sở đảm bảo cho tiền vay trong 
tín dụng chiết khấu thương phiếu là lượng hàng hoá mua chịu của người 
mua khong thể tránh khỏi trường hợp thương phiếu lập ra không có cơ sở 
vật tư hàng hoá bảo đảm. 
 Tín dụng ứng trước: Tín dụng ứng trước là một thể thức cho vay 
được thực hiện trên cơ sở hợp đồng tín dụng, trong đó ngân hàng chấp 
nhận cho người vay sử dụng một mức cho vay trong mmọt thời gian nhất 
định. Có hai loại cho vay ứng trước là cho vay ứng trước có bảo đảm và 
cho vay ứng trước khong bảo đảm. Cho vay ứng trước có bảo đảm được 
thực hiện khi ngân hàng chưa thực sự tin tưởng vào khả năng kinh doanh 
và tình hình tài chính của người đi vay, nên đòi hỏi người đi vay phải có tài 
sản đảm bảo cho khoản vay để ngân hàng yên tâm đã có một nguồn khác 
trả nợ cho ngân hàng nếu khoản cho vay này khong thu hồi được khi đến 
hạn trả, thông thường có một số ứng trước có đảm bảo như: ứng trước có 
sự bảo lãnh của người thứ ba, ứng trước có đảm bảo bằng thế chấp bất 
 - - 21
động sản, ứng trước có đảm bảo bằng hàng hoá, ứng trước có đảm bảo 
bàng kim loại quý hoặc chứng khoán. Cho vay trước không bảo đảm, đây 
là loại tín dụng trung hạn và tín dụng tiêu dùng. 
III.3. Các loại cho vay trung hạn và dài hạn. 
 Tín dụng trung hạn và dài hạn là loại tín dụng đầu tư bao gồm các 
khoản cho vay tài sản cố định. Những khoản vay có thời hạn từ một đến 
hai năm được coi là tín dụng trung hạn. Những khoản vay từ hai năm trở 
nên được coi là tín dụng trung dài hạn. Đối tượng cho vay của tín dụng 
trung, dài hạn là: chi phí mua đất, thuê đất, chi phí xây dựng cơ bản nông, 
lâm, ngư nghiệp, chi phí xây dựng nhà xưởng, kho tàng, chi phí mua sắm 
máy móc, thiết bị, phương tiện sản xuất, chi phí xây dựng cơ sở hạ tầng, 
chi phí mua sắm phương tiện vận tải. Các khoản cho vay trung hạn và dài 
hạn của ngân hàng đều được hoàn trả bằng nguồn vốn tự tài trợ của doanh 
nghiệp vay vốn ngân hàng. Nguồn vốn tự tài trợ của doanh nghiệp trước 
hết là các khoản khấu hao sau đó là các khoản dự trữ, dự phòng, tích trữ lợi 
nhuận hàng năm của doanh nghiệp. 
III.3.1. Cho vay trung hạn. 
 Thời hạn cho vay của cho vay trung hạn trong phạm vi từ hai đến 
bẩy năm. Khi quy định thời hạn này, người ta căn cứ vào thời hạn khấu hao 
của các tài sản cố định được dùng để đảm bảo cho khoản vay, đó là những 
máy móc,công cụ, thiết bị nhỏ mà thời hạn khấu hao của chúng chỉ trong 
phạm vi từhai đến bẩy năm. Ngân hàng quy định thời hạn của tín dụng 
trung hạn đến bẩy năm nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiẹep vay vốn có 
đủ khả năng trả nơj bằng nguồn vố tự tài trợ. Đây là loại tín dụng thích hợp 
 - - 22
với doanh nghiệp vừa và nhỏ nên được các doanh nghiệp này đem tài sản 
đến cầm cố ở ngân hàng ngày càng nhiều để vay trung hạn. 
III.3.2. Cho vay dài hạn. 
 Tín dụng dài hạn là các khoản cho vay dài hạn của các ngân hàng có 
thời hạn từ bẩy năm trở nên. Trên lý thuyết, thời hạn của tín dụng dài hạn 
không có giới hạn cuối cùng nhưng hiện nay các ngân hàng thương mại chỉ 
cho vay với thời hạn từ 10 đến 15 năm. Thời hạn cụ thể của khoản cho vay 
dài hạn được xác định tuỳ theo thời hạn khấu hao của bất động sản thế 
chấp nhằm tài trợ cho các doanh nghiệp mua sắm máy móc, công cụ mới 
thay thế những công cụ lạc hậu, không dùng đến hoặc xây dựng những 
công trình mới. Thông thường tín dụng dài hạn được cung cấp dưới hình 
thức các khản cho vay. Người đi vay nhận được một số tiền để sử dụng vào 
ngày cho vay với những cam kết về thời hạn trả nợ, tài sản đảm bảo khoản 
vay, người bảo lãnh… theo nguyên tắc tín dụng, nhằm bảo đảm an toàn 
cho khoản vay, giảm bớt ruỉ ro tín dụng cho ngân hàng. 
 Hiện nay, thị trường luôn luôn biến đổi không ngừng, khó mà lường 
trước được mọi vấn đề, nhất là thị trường công thương nghiệp nên thời hạn 
cho vay càng dài mọi dự đoán càng khó khăn, hệ số rủi ro càng lớn. Vì thế 
ngân hàng cho vay dài hạn càng phải thận trọng, kiểm soát thường xuyên 
và chặt chẽ số tiền đã cho vay, cũng như phải có hạn mức tín dụng hợp lý 
và những tài sản đảm bảo tương ứng với khoản dư nợ của người đi vay. 
III.4.Cho vay tiêu dùng. 
 Cho vay tiêu dùng là loại tín dụng hỗ trợ cho những nhu cầu tiêu 
dùng cá nhân, giúp người tiêu dùng sử dụng được hàng hoá, dịch vụ đời 
sống cần thiết trước khi họ có khả năng tích luỹ để chi trả. Tại nghị định 
 - - 23
178/1999/NĐCP ngày 29/12/1999 chính phủ cho phép các tổ chức tín dụng 
cho vay có bảo lãnh tín chấp của tổ chức đoàn thể chính trị-xã hội cho cá 
nhân, hộ nghèo. Văn bản số 34/CV.NHNN1 ngày 7/1/00 và số 
98/CV.NHNN1 ngày 28/1/00 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước cho 
phép các tổ chức tín dụng cho vay không có bảo đảm bằng tài sản đối với 
cán bộ, công nhân viên và thu nợ từ tiền lương, trợ cấp, các khoản thu nhập 
khác. ngày 25/8/00 Thống đốc Ngân hàng nhà nước có quyết định 
284/00/QĐ-NHNN1 ban hành “quy chế cho vay của tổ chứ tín dụng đối 
với khách hàng”. Trong đó ở điều 5 quy định đối tượng khách hàng vay 
gồm doanh nghiệp, hợp tác xã, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ 
phần, cá nhân, hộ gia đình… Đối tượng vay tập trung ở vùng thị xã, thị 
trấn, những người cần mua sắm phương tiện đi lại, đồ dùng sinh hoạt gia 
đình, cải tạo, sửa chữa nhà ở, mở nghề phụ để tận dụng thời gian, tăng thu 
nhập… những người vay vố được thủ trưởng, chủ tịch công đoàn cơ quan 
xác nhận có điều kiện thu nhập ổn định và có khả năng trả nợ theo cam kết. 
Việc xác nhận này bước đầu đã có hiệu lực, trong một đợt quý 3/00 đã có 
người vay tự trích thu nhập trả nợ dần. Ngân hàng Nhà nước và phát triển 
nông thôn, quỹ tín dụng đã thu nợ gần 800 triệu đồng. Qua một thời gian 
thực hiện có thể thấy được những tác dụng, lợi ích thiết thực và một số khó 
khăn, hạn chế. Lợi ích đối với người tiêu dùng là được hưởng thụ các nhu 
cầu cần thiết về vật chất, tinh thần khi chưa kịp có đủ nguồn để chi 
tiêu.Qua đó mà gop phần ổn định, nâng mức sống, tạo phấn khởi, tich cực 
trong lao động, công tac, học tập. Đối với nền kinh tế mở cho vay tiều 
dùng sẽ kích thích tiêu thụ hàng hoá, thúc đẩy sản xuất, lưu thông phát 
triển. Về phía ngân hàng,tổ chức tín dụng mỏ rộng thêm nghiệp vụ,đa dạng 
hoá các hoạt động tín dụng. Với nhiều khách hàng vay, mỗi món vay 
không lớn thì phân tán được rủi ro. Các phức tạp khác qua cho vay và thực 
 - - 24
hiện bảo lãnh, tổ chức đoàn thể tìm hiểu thêm thị trường vốn để huy động 
và phát triển thị phần tín dụng, dịch vụ ngân hàng. 
III.5.Thành tựu và hạn chế của việc cho vay của các ngân hàng thương 
mại ở Việt Nam. 
III.5.1.Thành tựu. 
 Sau những năm thực hiện đổi mới, xác định mục tiêu, phương hướng 
kinh tế xã hội từ nay đến năm 2010 và những năm tiếp theo phù hợp với 
giai đoạn mới, giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chúng ta 
rất vui mừng về những kết quả đạt được như: Các chỉ tiêu kinh tế quan 
trọng đạt và vượt mức kế hoạch, tổng sản phẩm trong nước tăng sản xuất 
nông nghiệp tăng, sản xuất công nghiệp tăng, các ngành dịch vụ tăng, lạm 
phát được kiềm chế, hoạt động có nhiều thuận lợi, các cam kết được bảo 
đảm, cơ cấu đầu tư chuyển dịch theo hướng tích cực, nhiều công trình đã 
được xây dựng và đưa vào hoạt động, tạo thêm việc làm và giải quyết hàng 
vạn lao động, quan hệ hợp tác kinh tế- thương mại với nhiều nước, với các 
tổ chức quốc tế, các tổ chức tài chính tiền tệ lớn cảu thế giới và các cộng 
đồng quốc tế được mở rộng. Những kết quả của chúng ta đạt được là sự cô 
gắng lớn của toàn Đảng, toàn dân. Trong thành quả chung của cả nước, 
ngành ngân hàng trong những năm qua cũng có những đóng góp rất quan 
trọng. Có thể nói ngành ngân hàng có nhiều tiến bộ, hoàn thành nhiều 
nhiệm vụ quan trọng mà Đảng và Nhà nước giao. Cùng với chính sách 
quản lý vĩ mô chung, hoạt động ngân hàng đã tập trung thực hiện tốt chính 
sách tiền tệ, kiềm chế lạm phát, ổn định và nâng dần giá trị đồng tiền, đẩy 
mạnh huy động vốn, tăng cường quản lý ngoại hối và thực hiện chính sách 
tỉ giá, chính sách lãi suất có hiệu quả. Vấn đề cho vay của ngân hàng 
thương mại đã đóng góp những thành tựu quan trọng trong sự nghiệp phát 
 - - 25
triển đất nước. Tạo điều kiện cho các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp 
,các gia đình, các cá nhân có vốn để hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngân 
hàng mở rộng các hình thức cho vay để người dân có nhiều cơ hội được 
vay vốn để mở rộng sản xuất. Đồng thời ngân hàng tìm được nhiều khách 
hàng để cho vay, tạo cơ hội tăng doanh thu cho ngân hàng.Ví dụ như việc 
cho vay tiêu dùng thông qua người đại diện vừa đạt được hiệu quả kinh tế, 
vừa đạt được hiệu quả xã hội. Người vay không phải đến ngân hàng, không 
mất thời gian cho thủ tục vay và trả nợ, đảm bảo được giờ giấc làm 
việc.Thủ trưởng đơn vị có điều kiện quản lí chặt chẽ việc vay nợ của công 
nhân viên chức.Đầu tư vào nông nghiệp và phát triển nông thôn, cho các 
hộ gia đình vay để phát triển kinh tế trang trại,đàu tư vào các công trình 
lớn. 
III.5.2.Hạn chế. 
 Bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động cho vay của các 
ngân hàng thương mại ở Việt Nam cũng còn có những hạn chế, thiếu sót 
càn tiếp tục đổi mới và hoàn thiện. 
 Hành lang pháp lí cho việc cho vay theo cơ chế thị trường mới tuy đã 
có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn chưa hoàn toàn đồng bộ và hoàn chỉnh. 
Ngày nay nhiều văn bản đã tạo điều kiện cho ngan hàng đi vào cuộc sống 
và bước đầu phát huy hiệu lực,hiệu quả. Tuy nhiên, một số văn bản vẫn 
còn trong quá trình soạn thảo, chậm được ban hành theo tiến độ đã đề ra, 
một số khác mới được ban hành nhưng sau một thời gian cọ sát với thực 
tiễn đã bộc lộ những hạn chế, thiếu sót cần được bổ xung, sửa đổi tiếp.Do 
vậy,có thể nói hệ thóng văn bản chưa hoàn toàn đồng bộ và hoàn chỉnh. 
 Thị trường tiền tệ-tín dụng còn non yếu, kém phát triển, một số điều 
kiện cần thiết để phát huy đầy đủ vai trò tích cực của cơ chế thị trường 
chưa được đảm bảo đầy đủ. Tuy đã được hình thành và có một quá trình 
 - - 26
phát triển, nhưng so với các nước trong khu vực, các thị trường tiền tệ-tín 
dụng ở Việt Nam còn có nhiều hạn chế như: Các thị trường chưa có sự liên 
kết chặt chẽ và phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau ở mức độ cần thiết. Khối lượng 
hàng hoá và giao dịch trên một số thị trường mới như thị trường mở, thị 
trường chứng khoán còn nhỏ, các chỉ sốvà thông tin về hoạt động thị ở 
chừng mực nào đó còn bị chia cắt, thiếu kịp thời, hoạt động của một số thị 
trường như thị trường chứng khoán còn phải chụi sự quản lý trực tiếp của 
nhà nước. 
 Hiệu lực và hiệu quả của cơ chế mới chưa được phát huy đầy đủ. Cơ 
chế mới đến nay thực chất vẫn đang trong quá trình hình thành và hoàn 
thiện, chưa hoàn toàn loại bỏ được các tàn dư của cơ chế cũ. Nhất là các 
thói quen, cách làm cũ đã ăn sâu vào tiềm thức của nhiều cán bộ không thể 
loại bỏ ngay. Do vậy, các công cụ cũ, phương thức hoạt động cũ đôi khi 
vẫn còn được ưa dùng. Một số tổ chức tín dụng và một số doanh nghiệp 
chưa thích ứng kịp với cơ chế mới, chưa sẵn sàng chấp nhận cạnh tranh 
thường có xu hướng quay về tìm kiếm sự bảo hộ của nhà nước. 
 - - 27
CHƯƠNG IV : GIẢI PHÁP CHO VAY AN TOÀN VÀ HIỆU QUẢ 
CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 
IV.1 Giải pháp về rủi ro cho vay. 
 Việc cho vay của các ngân hàng thương mại thường xuyên hiện rủi 
ro và các ngân hàng chỉ quyết định cho vay sau khi đã phân tích cẩn thận 
các yếu tố có liên quan đến tính chân thật và khả nâng của người đi vay 
trong việc hoàn trả nợ. Tuy nhiên, sự phân tích tín dụng không đạt đến 
mức có thể dự đoán hoàn toàn chính xác về một khoản cho vay có được 
hoàn trả như đã thảo thuận hay không. Rủi ro có nguyên nhân khách quan, 
nguyên nhân chủ quan, có rủi ro bất khả kháng và rủi ro tự nhiên, nhưng là 
loại rủi ro nào đều có khả năng phòng ngừa với các phương phgáp có thể 
khác nhau. Nghiệp vụ cho vay là nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng, nó 
thường chiếm phần lớn trong các hoạt động kinh doanh của ngân hàng cả 
về khối lượng công việc, cũng như với mức độ tạo lợi nhuận. Tỉ lệ thuận 
với nó là mức độ rủi ro trong nghiệp vụ này chiếm phần lớn trong tổng 
mức rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Ngoài rủi ro như 
các nghành kinh tế khác ngân hàng còn bị rủi ro ngay cả khi đơn vị kinh tế 
này vay vốn ngân hàng gặp rủi ro dẫn đến làm ăn thua lỗ và không có khả 
nâng trả nợ vốn vay ngân hàng. Như vậy ngân hàng đã gặp rủi ro khi khách 
hàng của mình gặp rủi ro. Rõ ràng khả năng gặp rủi ro của ngân hàng đã 
được nhân lên gấp đôi. Khi đàu tư tín dụng có nghĩa là ngân hàng đã trao 
quyền sử dụng sản phẩm của mình là tiền cho khách hàng. Mà khả năng 
kiểm soát quá trình sử dụng sản phẩm của ngân hàng là rất khó khăn bởi 
tính phức tạp của việc sử dụng tiền vay. Lúc này hoạt động của ngân hàng 
với sản phẩm của mình như: ”Đem con bỏ chợ” sự kiểm soát của ngân 
hàng chỉ có giới hạn nên yếu tố rủi ro luôn thường trực đối vơí nghiệp vụ 
 - - 28
này. Tiền là sản phẩm của ngân hàng, khi thực hiện nghiệp vụ tín dụng nó 
lại là mục đích của người vay vốn. Một số doanh nghiệp làm ăn không 
đúng đắn khi vay được vốn đã thực hiện mục tiêu của mình, họ không 
những sử dụng quyền sử dụng đồng tiền của ngân hàng mà còn muốn 
chiếm đoạt luôn quyền sở hữu chúng. Với loại doanh nghiệp này rủi ro 
phát sinh ngay từ khi ngân hàng bắt đầu thực hiện nghiệp vụ tín dụng phát 
tiền vay đối với họ. 
 Rủi ro cho vay thường dẫn đến những khoản cho vay khó đòi, khả 
năng trả nợ của các doanh nghiệp đối với ngân hàng rất thấp. 
 IV.1.1.Những khoản cho vay khó đòi. 
 Khoản cho vay khó đòi là những khoản mà người vay không có khả 
năng trả nợ hoặc người vay chốn nợ. Nguyên nhân của những khoản cho 
vay khó đòi là: Các khoản cho vay tiêu dùng: khi người vay bị thất nghiệp 
hoặc ảnh hưởng do tình huống cá nhân dẫn đến không đủ khả năng trả nợ, 
khoản cho vay vì mục đích sản xuất: các doanh nghiệp bị phá sản. Tổn thất 
của cho vay khó đòi là: Các tổn thất cho vay ròng, lạm phát cao, các khoản 
cho vay không hoạt động. Dấu hiệu của khoản cho vay khó đòi là: Trì hoãn 
nộp các báo cáo tài chính, chậm trễ trong việc dàn xếp ngũng cuộc viếng 
thăm nhà máy, số dư tiền ký thác giảm sút, xuất hiện séc rút quá số dư 
hoặc bị trả lại, một sự gia tăng bất thường số hàng tồn kho, hoàn trả vay 
ngân hàng chậm hoặc quá thời hạn, sự gia tăng của các tích sản cố định, sự 
thay đổi nhà quản lý, cách bố trí tài chính mới hoặc các khoản nợ mới, các 
thảm hoạ về thiên tai. 
 IV1.2. Giải pháp của khoản cho vay khó đòi. 
 - - 29
 Khi gặp phải rủi ro tín dụng chúng ta phải xử lý các khoản cho vay 
này. Trong xử lý các khoản cho vay có vấn đề, ngân hàng thương mại có 
hai sự lựa chọn tổng quát khai thác hoặc thanh lý: Khai thác là một quá 
trình làm việc với người vay cho đến khi khoản cho vay được trả một phần 
hay toàn bộ và không dựa vào các công cụ pháp lý để ép buộc thu ngân. 
Thanh lý là ép người vay tuân theo các điều khoản của hợp đồng cho vay, 
áp dụng và thực hiện tất cả các biện pháp pháp lý để đạt mục tiêu. 
 Mặt khác, để không gặp rủi ro cho vay khó đòi chúng ta phải ngăn 
ngừa và có biện pháp phòng ngừa có thể áp dụng để giảm bớt các thiệt hại 
bao gồm: Tăng chio phí giám sát, thu ngân, mất vốn và những ảnh hưởng 
đến cấu trúc tài chính nếu chúng xảy ra. Ngay khi có bằng chứng là người 
vay đã gặp khó khăn tài chính chúng ta phải có biện pháp để xử lý chúng. 
Phải có quy định về bảo lãnh, cầm cố, cho vay có bảo đảm. 
 IV.2. Giải pháp về nguyên tắc cho vay. 
 Các ngân hàng thương mại phải xác định được khi nào thì cho vay và 
cho vay đối tượng nào. Thường thì cho các doanh nghiệp nhỏ vay thì bao 
giờ cũng rủi ro hơn cho các doanh nghiệp lớn vay. Mặc dù nguyên tắc cho 
vay được áp dụng cho các doanh nghiệp nhỏ cũng tương tự như các doanh 
nghiệp lớn, nhưng trong doanh nghiệp nhỏ có ít người quản lý hơn, doanh 
nghiệp nhỏ hơn có thể dễ dàng hơn trong việc đạt được sự nhất quán của 
các nhân viên đối với mục tiêu của công ty. Trong các doanh nghiệp nhỏ, 
nguồn tài chính cũng hạn hẹp hơn. 
 Thực hiện chất lượng tín dụng quan trọng hơn việc mở rộng tín dụng. 
Chúng ta đã biết câu ngạn ngữ cổ “bất kỳ một thằng ngốc nào cũng có thể 
cho vay tiền nhưng để thu được nợ thì cần một cái đầu thông minh”. Ngay 
 - - 30
từ đầu, tất cả các khoản cho vay phải có hai phương án trả nợ tách biệt: 
Phương án một là mọi chuyện đều trôi chảy, cho vay thành công. Phương 
án hai là dự phòng trường hợp nếu dự án không thành công thì doanh 
nghiệp phải lấy tài sản của họ để trả nợ hay đi vay để trả nợ, bao gồm cả 
việc sử dụng công cụ vay nợ trên thị trường…Phẩm chất đòi hỏi đối với 
người vay tiền là hoàn toàn trung thực: Nếu ngân hàng nghi ngờ sự trung 
thực, tư cách đạo đức hoặc ý định của người đi vay thì tốt nhất không tiến 
hành cho vay. Nếu không hiểu rõ về doanh nghiệp thì đừng quyết định cho 
vay: các ngân hàng thành công thường xác định một cách chính xác các 
điều kiện cho vay phù hợp với các tài sản có mức độ rủi ro khác nhau và 
họ phải chấp nhận những thiệt hại để có thể hiểu được khu vực thị trường 
mà họ định tiếp cận. 
 Việc có cho vay tiền hay không là quyết định của ngân hàng, ngân 
hàng phải cảm thấy hoàn toàn thoải mái khi ra quyết định cho vay: Việc có 
cho vay hay không là một quyết định mang tính độc lập. Người ta không 
thể đưa ra quyết định này mà chỉ trên những văn bản hướng dẫn hay những 
kỹ thuật phân tích. Mỗi cán bộ tín dụng phải có sự nhạy cảm và khả năng 
đánh giá chính xác. Với tư cách là người cho vay, cán bộ tín dụng phải dự 
tính được mọi khả năng xẩy ra chứ không phải chỉ đối phó trước tình thế 
một cách thụ động. Bạn phải thực sự cảm thấy chắc chắn về quyết định của 
mình bởi vì bạn sẽ phải chịu trách nhiệm về nó. 
 Mục tiêu của khoản tiền cho vay phải hàm chứa cơ sở việc trả nợ: Để 
hiểu được đầy đủ nguyên tắc này, bạn phải xem xét biểu phân bổ tài sản 
của một ngân hàng xét trên phương diện tính lỏng. 
 Một ngân hàng phải có nhiều cơ sở dữ liệu thông tin về khoản cho 
vay: Ngân hàng phải cố gắng biết được thông tin. Cán bộ tín dụng ngân 
hàng cần quan tâm nhiều đến doanh nghiệp xin vay để nắm bắt thông tin 
 - - 31
của doanh nghiệp. Những người đi vay muốn giao dịch với những người 
cho vay hiểu biết về lĩnh vực mà họ đang hoạt động. Cơ sở thông tin rất 
hữu ích và nếu được sắp xếp tổ chức một cách phù hợp sẽ tạo điều kiện 
cho việc quyết định cho vay dễ dàng hơn rất nhiều. 
 Cần phải đánh giá chất lượng quản lý của doanh nghiệp bên cạch 
đánh giá các báo cáo tài chính: chất lượng quản lý thể hiện trên nhiều 
phương diện đó là sự lựa chọn mang tính độc đoán hay dân chủ đối với 
một cung cách thích hợp cho nghành công nghiệp và công ty đang hoạt 
động, sự dễ dàng hoặc khắt khe trong việc cho phép nhũng người bên 
ngoài công ty lắm giữ những chức vụ quan trọng, phong cách hoạt động 
của các văn phòng công ty, cách thức tiến hành đổi mới, danh tiếng trong 
cạnh tranh. 
 Các khoản thế chấp không thể được coi là thay thế cho việc trả nợ: 
Việc tin rằng lắm được tài sản thế chấp là cầm chắc việc thu hồi khoản nợ 
của người vay chẳng khác gì chuyện “đười ươi giữ ống”. 
 Khi khoản vay được đảm bảo bằng thế chấp thì các tài sản thế chấp 
phải có tính khả mại, đồng thời ngân hàng nên có cách nhìn nhận ở góc độ 
chuyên môn và không thiên vị đối với những tài sản này: các khoản nợ 
được lấy từ nguồn vốn luân chuỷên. Chính vì vậy, các khoản thế chấp được 
thiết lập một phần là để ngăn chặn việc những tài sản này được thanh toán 
cho những người đi vay khác và một phần là để người cho vay được vị thế 
mạnh hơn. 
 Không đựơc cẩu thả trong việc lập hồ sơ tín dụng kể cả các chi tiết 
nhỏ vì chúng dễ làm hỏng khoản vay mà đáng lẽ có chất lượng tốt: Tỉ lệ 
khoanh lớn thườnglà kết quả của việc tổ chức và quản lý sổ sách cẩu thả. 
Không nên lúc nào cũng cho rằng các hợp đồng tín dụng sẽ không được 
tôn trọng. Thông thường chỉ có những hợp đồng được chuẩn bị một cách 
 - - 32
vội vàng, cẩu thả mới hay xảy ra tranh chấp, mà kết cục sẽ được giải quyết 
ở toà án. 
 Các ngân hàng địa phương phải là những người cho các doanh 
nghiệp địa phương vay: Đây là một dấu hiệu báo trước nguy cơ rủi ro khi 
các ngân hàng địa phương lại không phải là người cho các doanh nghiệp 
địa phương vay. 
 Cần xem xét thái độ nôn nóng khi vay tiền của doanh nghiệp: Bất kỳ 
ai thúc giục bạn sớm ra quyết định cho vay đều nên được xem xét kỹ 
lưỡng. Mặt khác, việc chuẩn bị kỹ trước khi trả lời người đi vay cũng phải 
tốn nhiều công sức. 
Nếu một khoản nợ vay được bảo lãnh thì phải chắc chắn rằng lợi ích và 
trách nhiệmcủa người bảo lãnh cũng tương đương như người đi vay. Khi 
một nhà bảo lãnh ký một hợp đồng bảo lãnh, cán bộ tín dụng chắc chắn 
dựa trên cam kết của nhà bảo lãnh này đối với việc thu hồi nợ thì bạn cũng 
cần phải thận trọng. Cán bộ tín dụng cần phải biết rằng người bảo lãnh 
hoàn toàn nhận thức được trách nhiệm của mình. 
 Cần phải biết chắc rằng khoản tiền mà ngân hàng cho vay được 
doanh nghịêp dùng vào việc gì: Nếu như cán bộ tín dụng không trực tiếp 
đến thăm doanh nghiệp thì cán bộ tín dụng không bao giờ cảm nhận được 
môi trường, phong cách công ty và những tài sản vô hình khác. Thường 
thường, bạn phải mất nhiều công sức trong việc thẩm định lại những gì mà 
Giám đốc doanh nghệp nói, đặc biệt là với các doanh nghiệp nhỏ. 
 Trước hết phải nghĩ về lợi ích của ngan hàng, khi các nguyên tắc cho 
vay bị vi phạm thì rủi ro sẽ tăng lên: Đánh giá tài sản là một danh mục 
chính thức về tất cả tài sản có và tất cả tài sản nợ. 
IV.3. Giải pháp về phương thức cho vay 
 - - 33
 Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận 
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Vì vậy ngân hàng 
thương mại phải có phương thức cho vay phù hợp với cơ chế thi trường 
hiện nay. 
 Phương thức cho là một nội dung quan trọng thuộc kỹ thuật cung 
ứng vốn tín dụng đối với các tổ chức kinh tế, khi xác định phương cho vay 
thích hợp với một tổ chức kinh tế, sẽ tạo điều kiện tốt nhất để thực hiện các 
nguyên tắc tín dụng, gắn sự vận động của vốn tín dụng với sự hoạt động 
của đối tượng vay vốn. Ngày nay chúng ta nên vận dụng phương thức cho 
vay theo nguyên tắc sau: 
 Trước hết, việc áp dụng phương thức cho vay này hay phương thức 
cho vay khác phải trên cơ sở chu chuyển vốn và uy tín (độ tin cậy) của 
khách hàng vay vốn đối với ngân hàng, không phân biệt thành phần kinh 
tế, tránh tình trạng theo ý muốn chủ quan muốn giành phần lợi về mình. 
 Phương thức cho vay theo món: Nên áp dụng cho những khách hàng 
vay vốn không thường xuyên, chu chuyển vốn chạm. Quá trình sản xuất 
kinh doanh dịch vụ dứt điểm từng dụ án hay từng “thương vụ” nhất định 
hoặc thiếu tín nhiệm trong quan hệ vay- trả với ngân hàng. 
 Áp dụng, có vận dụng phương thức cho vay luân chuyển: Đây là 
phương thức cho vay rất phù hợp với tính năng động, nhanh nhậy của cơ 
chế thị trường, rất thuận lợi cho khách hàng vay vốn có số vốn quay vòng 
thường xuyên, hàng ngày, tạo điều kiện để vốn tín dụng luân chuyển đều 
đặn qua quĩ ngân hàng. Qua đó tăng cường vai trò kiểm tra, kiểm soát của 
tín dụng trong quá trình sử dụng vốn vay, bổ trợ chức năng Giám đốc bằng 
đồng tiền của ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Nhưng phương thức này 
cũng dễ làm cho ngân hàng mất thế chủ động về nguồn vốn kinh doanh, vì 
các nội dung đã cam kết trong bản hợp đồng vay- trả. 
 - - 34
IV.4. Giải pháp về tín dụng của ngân hàng thương mại 
 Trong số các chức năng của ngân hangf thương mại thì chức năng 
tập trung và phân phối lại vốn của nền kinh tế giữ vai trò trung tâm có ảnh 
hưởng dến các chức năng khác và là chức năng quan trọng nhất. Trong thời 
gian qua, các ngân hàng thương mại đã làm được chức năng này một cách 
khá rõ nét. Tuy nhiên, những bất cập trong tập trung và phân phối vốn nói 
trên vẫn đặt ra những câu hỏi lớn cần được phân tích để làm sáng tỏ. Nhìn 
từ khía cạch là các trung tâm cung ứng cho nền kinh tế, mà cụ thể là các 
doanh nghiệp thì các phương thức cấp tín dụng của ngân hàng thương mại 
có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của doanh nghiệp. Nói một cách khác, 
các sản phẩm tín dụng của ngân hàng thương mại với tính năng cụ thể ra 
sao, có phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp hay không giữ vai trò lớn 
quyết định hiệu quả sử dụng của người mua sản phẩm đó. Theo tiêu chí 
của ngân hàng Thế giới (WB), thì các ngân hàng thương mại không được 
đánh giá cao khi sản phẩm của họ chủ yếu là tín dụng, tức các ngân hàng 
hoạt động chủ yếu là đi vay để cho vay. Các ngân hàng mạnh không chỉ 
thể hện ở chỗ cung ứng một khối lượng tín dụng to lớn cho thị trường mà 
còn ở chỗ phương thức cấp tín dụng như thế nào. Việc cho vay của các 
ngân hàng không chỉ phụ thuộc quy mô hay cơ cấu nguồn vốn của mình 
mà phải dựa trên sức mua của khách hàng, nhất là đặc điểm kinh tế, kỹ 
thuật của đối tượng cho vay, đặc điểm tài chính của bên vay. Nói tóm lại là 
có nhiều loại cho vay cụ thể để khách hàng lựa chọn phù hợp với yêu cầu 
và khả năng của họ. Ttong thực tế hiện nay, các khách hàng hầu như ít có 
cơ hội lựa chọn, nhiều khách hàng cần vốn dài hạn nhưng bắt buộc phải 
vay vốn ngắn hạn để đầu tư dài hạn. Đây là điều bất cập mà ngay cả chính 
các ngân hàng cũng lúng túng khi khách hàng đáo hạn phải dàn xếp cho 
 - - 35
khách hàng gia hạn hay đảo nợ mà đáng lẽ các ngân hàng có thể khắc phục 
được bằng cách đưa ra các loại chi vay phù hợp với yêu cầu của khách 
hàng. Chính vì thế các ngân hàng thương mại cần phải đa dạng hoá sản 
phẩm tín dụng. 
IV.5. Giải pháp cho vấn đề ứ đọng vốn hiện nay 
 Hiện nay trong hệ thống ngân hàng thương mại đang phải gặp một 
trở ngại đáng tiếc là sự ứ đọng vốn đã được huy động chưa tìm kiếm được 
đầu ra. Điều này cần phải tìm cho hệ thống ngân hàng thương mại một 
giải pháp thích hợp để giải toả số vốn đang ứ đọng cần phải tìm nguyên 
nhân của nó: nguyên nhân thứ nhất là sự hạn chế về đầu ra, nguyên nhân 
thứ hai thuộc về chính sách tiền tệ.Để giải quyết vấn đề ứ đọng vốn trong 
hệ thống ngân hàng chúng ta cần phải thực hiện những vấn đề sau: 
 Nhà nước cần phát hành các trái phiếu dài hạn với lãi suất tương đối 
hấp dẫn đẻ thu hút nguồn vốn tiết kiệm trong xã hội. Điều này sẽ thu hút 
một bộ phận vốn đang có ngoài hệ thống ngân hàng và cả một vốn đang 
nằm trong hệ thống ngân hàng do dân chúng rút lại tiền gửi để mua trái 
phiếu dài hạn của nhà nước. 
 Nhà nước cho phép các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, có triển 
vọng mở rộng sản xuất, kinh doanh và trên cơ sở đó phát hành các trái 
phiếu dài hạn, hoặc cổ phiếu đẻ thu hút vốn. Bên cạnh đó các ngân hàng 
thương mại, các tổ chức tín dụng tích cực chuẩn bị tinh thần, điều kiện và 
thực hiện phương thức tín dụng chiết khấu trái phiếu cho các chủ thể đã 
mua trái phiếu nhưng hiện tại họ đang cầm tiền để chi tiêu. 
 Một biện pháp khác cần phải thực hiện ngay trên thị trường liên 
ngân hàng một cách có hiệu quả. Tất cả ngân hàng thương mại đều có thế 
tham gia để vay mượn lẫn nhau, qua đó ngân hàng. Nhà nước thực hiện 
điều hoà lưu thông tiền tệ trên cương vị là người vay hoặc cho vay cuối 
 - - 36
cùng. Cần phải nghiêm túc nhìn nhận sự ứ đọng vốn trong nền kinh tế hiện 
nay, đặc biệt là trong hệ thống ngân hàng là kết quả của toàn bộ hoạt động 
của toàn bộ quá trình kinh tế vừa qua chứ không phải do kết quả điều hành 
chính sách tiền tệ của ngân hàng Nhà nước. 
IV.6. Giải pháp về nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ tín dụng. 
 Vì môi trường kinh doanh tiền tệ ngày càng trở nên phức tạp, các 
ngân hàng không ngừng yêu cầu các nhân viên tín dụng phải nâng cao 
trình độ nghiệp vụ. Trái với thông lệ trước đây của một số ngân hàng, nhân 
viên thường được đề bạt lên các chức vụ phụ trách tín dụng đều dựa vào 
thời gian làm việc và tuổi tác cùng với một chút quan tâm về năng lực 
chuyên môn thì hiện nay phần lớn các ngân hàng yêu cầu những người 
muốn lầm cán bộ tín dụng phải có bằng cấp về ngân hàng, tài chính, kế 
toán hoặc quản trị kinh doanh, hoặc có kinh nghiệm trong lĩnh vực này. 
Nhiều ngân hàng cỡ lớn còn đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có bằng thạc sĩ về 
kinh tế. Trên thực tế, do trình độ của khách hàng được nâng lên nên đòi hỏi 
đội ngũ cán bộ tín dụng trong các ngân hàng thương mại tối thiểu phải có 
trình độ tương đương với khách hàng của mình. Nhiều ngân hàng thương 
mại xây dựng cho mình một chương trình đào tạo chính thức đối với cán 
bộ tín dụng. Cơ chế một kèm một là cách tốt nhất để một học viên trực tiếp 
học hỏi kiến thức từ nghiệp vụ tín dụng hàng ngày. Cán bộ tín dụng còn 
được đào tạo bằng cách tham gia hội thảo, hội nghị, học tập ở các trường 
đại học. Chương trình đào tạo cán bộ tín dụng của các tổ chức rất coi trọng 
các kiến thức về chuyên môn cơ bản cho cán bộ tín dụng. Ngoài ra chương 
trình đào tạo tín dụng thường được chú trọng vào các kinh nghiệm về quản 
lý tín dụng trong các quy định về chính sách. Và được trang bị kiến thức 
chuyên sâu về tín dụng cho vay bất động sản. Ngoài những tổ chức như các 
trường, các viện… đào tạo mang tính chất chính quy, còn có những tổ chức 
 - - 37
khác để đào tạo lại hoặc nâng cao kiến thức và sự hiểu biết cho cán bộ tín 
dụng đã có những thời gian làm việc nhất định. Bên cạnh đó trong tất cả 
các ngân hàng thương mại đều có những thư viện lớn để các cán bộ tín 
dụng đi sâu tìm hiểu, tự học hỏi để nâng cao trình độ của mình. 
 - - 38
CHƯƠNG V: PHƯƠNG HƯỚNG ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA 
VIỆC QUẢN LÝ TIỀN CHO VAY CỦA CÁC NGÂN HÀNG 
THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM 
 Chúng ta biết rằng có vốn là điều kiện cần, nhưng chưa đủ để đạt tới 
mục tiêu tăng trưởng. Cần phải có những giải pháp cụ thể, chi tiết và khoa 
học nhằm định hướng sử dụng các nguồn vốn trong giai đoạn tới. 
V.1.Chiến lược sử dụng vốn gắn với chiến lược kinh tế – xã hội. 
 Điều này thể hiện ở việc bố trí cơ cấu vốn đầu tư giữa các ngành các 
vùng kinh tế. Vì vậy nguồn vốn đầu tư cần bố trí theo trình tự ưu tiên vào 
các ngành và lĩnh vực như sau: 
 Vốn đầu tư tập trung mạnh mẽ cho khu vực sản xuất các loại hàng 
hoá tiêu dùng và xuất khẩu với mục đích thu hồi vốn nhanh và tạo ra sự 
phong phú cho thị trường hàng hoá, đồng thời tìm kiếm và tiến tới ổn định 
thị trường ngoài nước và mặt hàng xuất khẩu chủ lực có khả năng cạnh 
tranh mạnh và tiếp đó đầu tư cho phát triển một số ngành then chốt. Các dự 
án đầu tư về kết cấu hạ tầng cần được thực hiện trên cơ sở kết hợp một 
phần vốn huy động trong nước với phần huy động vốn từ nước ngoài, trong 
đó cố gắng tạo được các nguồn vốn hỗ trợ chủ yếu từ nước ngoài. 
V.2.Phân bổ thành phần vốn đầu tư trong từng dự án. 
 Phải khuyến khích mạnh mẽ và tạo mọi điều kiện cần thiết cho các 
nhà đàu tư tập trung đàu tư cho máy móc, thiết bị và công nghệ. Đồng thời, 
giảm tới mức thấp nhất các chi phí đầu tư cho công trìng xây lắp về kỹ 
thuật cơ bản khác. áp dụng tiến bộ kỹ thuật và dây truyền công nghệ tiên 
tiến, hiện đại phải trở thành một chính sách lớn của chính phủ đối với tất cả 
các chủ đầu tư và phải thể hiện công khai và rõ ràng trong tất cả các sắc 
 - - 39
luật về thuế kháo và ngiã vụ. Có như vậy, nền sản xuất của chúng ta mới 
thoát khỏi cảnh trạng hiện nay và mới toạ ra được môi trường sinh hoạt 
công nghệ trong sản xuất và trong đời sống, đòng vốn đầu tư mới có thể 
mang lại hiệu quả cao với chất lượng đảm bảo có khả năng cạnh tranh trên 
thị trường. Bên cạnh đó, phải nâng cao hệ số đổi mới thiết bị nên ít nhất 
bầng mức thiết bị của thế giới. Sớm nghiên cứu, xây dụng và thi hành các 
giẩi pháp nhằm khuyến khính và bắt buộc các doanh nghiệp sử dụng tối đa 
công suất máy móc thiết bị, khai thác hết mọi khả năng, tiềm tàng về lao 
động, vật tư, tài nguyên thiên nhiên của đất nước. Tất nhiên, việc khai thác 
và sử dụng các tài nguyên thiên nhiên đất nước càn được thể hiện trên cơ 
sở các dự án quy hoạch tổng thể để đảm bảo hiệu quả và tránh những ảnh 
hưởng xấu tới hệ sinh thái. 
V.3. Nhiệm vụ đặt ra đối với nghành ngân hàng. 
 Tiếp tục thực hiện tốt mục tiêu ổn định sức mua đồng tiền một cách 
vững chắc coi đây là nhiệm vụ hàng đầu xuyên suốt quá trình ổn định và 
phát triển đất nước. Ngân hàng phải lường trước được những khó khăn của 
nền kinh tế, cảnh giác với những nguy cơ tiềm ẩn của sự bùng nổ lạm phát, 
chủ động điều hành tốt hơn chính sách tiền tệ, chính sách tỉ giá và quản lý 
ngoại hối để góp phần kiềm chế lạm phát theo mục tiêu quốc hội đã đề ra. 
Đồng thời ngân hàng phải thường xuyên quán xuyến mục tiêu lâu dài là 
trên đất nước Việt Nam chỉ tiêu tiền Việt Nam. 
 Vấn đề cung ứng vốn cho nền kinh tế đang là đòi hỏi rất lớn, đặc biệt 
là vốn trung, dài hạn để đầu tư phát triển, cải tạo và mở rộng năng lực sản 
xuất. Đáp ứng yêu cầu này ngành ngân hàng phải tập trung mọi biện pháp 
để khai thác vốn cả trong nước và ngoài nước. Cần phải phối hợp với cán 
bộ các ngành xây dựng và tổ chức thị trường vốn, mở thị trường thứ cấp để 
 - - 40
tạo điều kiện cho dân mạnh dạn đầu tư vốn dài hạn. Có như vậy mới có 
vốn để phục vụ cho nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hoá là nhiệm vụ 
trọng tâm của giai đoạn mới. 
 Nâng cao chất lượng tín dụng, bao đảm an toàn hệ thống ngân hàng 
mỗi ngân hàng cũng như toàn bộ hệ thống cần phải phân tích các loại dư 
nợ để xác định nguyên nhân và biện pháp xử lý. Nợ quá hạn, mất vốn do 
quản lý yếu kém, do chủ quan cá nhân gây ra phải chịu trách nhiệm thu hồi 
hoặc xử lý trước pháp luật. Nợ quá hạn do khánh quan cần phối hợp với 
các bộ ngành liên quan thống kê tập hợp để trình Chính Phủ các phương án 
xử lý nhằm lành mạnh hoá và trong sạch về tài chính của hệ thống ngân 
hàng. Toàn ngành phải có biện pháp khắc phục đến mức thấp nhất nợ quá 
hạn mới phát sinh, nghiêm khắc và kiên quyết xử lý đưa ra khỏi ngành 
ngân hàng những cán bộ vi phạm pháp luật và quy chế chế độ, tham 
nhũng,thiếu trách nhiệm, tư lợi cá nhân. 
 Cần chủ động xử lý những vi phạm và tồn tại theo kết luận của tổng 
thanh tra nhà nước và chỉ đạo của thủ tướng chính phủ. Tất cả các trường 
hợp vi phạm pháp luật, vi phạm chế độ quản lý của ngành đều được xử lý 
nghiêm túc. Những vi phạm pháp luật của các ngân hàng thương mại là 
nghiêm trọng, nếu không có các biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn và khắc 
phục sẽ gây tác hại rất lớn đối với kinh tế đất nước và những hậu quả xấu 
khác về mặt xã hội. 
 Vấn đề thanh tra, kiểm tra phải được tăng cường và phải làm thường 
xuyên nhằm ngăn chặn và phát hiện kịp thời những vi phạm. Các ngân 
hàng phải chú trọng kiểm soát nội bộ, ngăn chặn các vụ việc phát sinh, sử 
lý kịp thời những vi ngay trong bản thân mỗi một ngân hàng. 
 Cuối cùng là vấn đề cán bộ và đào tạo cán bộ. Thực tiễn những vấp 
váp, vi phạm, tồn tại vừa qua, rõ ràng vấn đề không phải chỉ do cơ chế 
 - - 41
chính sách không đúng hoặc chưa đủ, mà quan trọng nhất là do con người 
thực hiện không nghiêm túc, do phẩm chất đạo đức, năng lực trình độ của 
một số cán bộ kém. Vì vậy công tác đào tạo, tuyển chọn và sử dụng cán bộ 
là vô cùng quan trọng, bao gồm đào tạo cả về kiến thức và phẩm chất đạo 
đức… 
 - - 42
KẾT LUẬN 
 Qua việc nghiên cứu đề tài” Một số vấn đề về quản lý tiền cho vay 
của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay” với những tài liệu 
khá phong phú, cập nhật em đã hiểu được việc quản lý tiền cho vay của các 
ngân hàng thương mại hiện nay là một vấn đề quan trọng. Nó có ý nghĩa 
qyuết định đến việc kinh doanh của ngân hàng có lợi hay không và việc 
thực hiện đúng đắn, chính xác những nguyên tắc quản lý tiền cho vay là 
một vấn đề rất lớn nó ảnh hưởng đến cả một quá trình sản xuất kinh doanh 
của các doanh nghiệp hiện nay và sự tăng trưởng, ổn định của nền kinh tế. 
 Nước ta là một trong những nước đang phát triển so với sự phát triển 
chung của thế giới.Trình độ của chúng ta còn thấp nhiều khi gây ra những 
thiệt hại lớn cho đất nước. Vì vậy, là một chính sách quan trọng của nhà 
nước ta, chính sách tài chính tiền tệ phải làm sao đầu tư vào những ngành, 
nghề chủ chốt, những dự án khả thi…thúc đẩy quá trình sản xuất để năng 
cao năng xuất lao động, khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên 
của đất nước, giảm bớt lạm phát… 
 - - 43
 TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại 
2. Cẩm nang quản lí tín dụng ngân hàng 
3. Những giải pháp huy đọng và sử dụng các nguồn vốn 
4. Tiền tệ và hoạt động ngân hàng- Lê Vinh Danh 
5. Tiền tệ, Ngân hàng và thị trường tài chính-Miskin 
6. Cẩm nang quan quản lí tín dụng ngân hàng 
7. Các tạp chí ngân hàng số 7/01, 12/99, 3/95, 2/01… 
8. Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ 
9. Tạp chí kinh tế phát trển 
 - - 44
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
Luận Văn- Quản lý tiền cho vay của ngân hàng thương mại.pdf