Luận văn Phát huy những ảnh hưởng tích cực, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam

Tài liệu Luận văn Phát huy những ảnh hưởng tích cực, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam: LUẬN VĂN: Phát huy những ảnh hưởng tích cực, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài ở Việt Nam những tư tưởng triết học Phật giáo, đặc biệt nhân sinh quan Phật giáo, là một trong những nhân tố cấu thành nền văn hóa dân tộc cũng như nhân cách, đạo đức của mỗi người dân. Từ khi du nhập vào Việt Nam, Phật giáo luôn tỏ rõ vai trò quan trọng, có ảnh hưởng sâu rộng và toàn diện trong đời sống xã hội Việt Nam. Những ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo luôn biến đổi trải qua những bước thăng trầm trong lịch sử. Đặc biệt, từ khi công cuộc đổi mới chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa diễn ra trên đất nước ta, thì sự biến đổi của ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam càng diễn ra khá rõ nét và có những biểu hiện mới. Trong thời kỳ đổi mới đất nước hiệ...

pdf84 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1161 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Phát huy những ảnh hưởng tích cực, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Phát huy những ảnh hưởng tích cực, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài ở Việt Nam những tư tưởng triết học Phật giáo, đặc biệt nhân sinh quan Phật giáo, là một trong những nhân tố cấu thành nền văn hóa dân tộc cũng như nhân cách, đạo đức của mỗi người dân. Từ khi du nhập vào Việt Nam, Phật giáo luôn tỏ rõ vai trò quan trọng, có ảnh hưởng sâu rộng và toàn diện trong đời sống xã hội Việt Nam. Những ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo luôn biến đổi trải qua những bước thăng trầm trong lịch sử. Đặc biệt, từ khi công cuộc đổi mới chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa diễn ra trên đất nước ta, thì sự biến đổi của ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam càng diễn ra khá rõ nét và có những biểu hiện mới. Trong thời kỳ đổi mới đất nước hiện nay, xu hướng biến đổi ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo Việt Nam sẽ như thế nào? Cần đánh giá những biến đổi đó theo chiều hướng tích cực hay tiêu cực? Những nhân tố nào cần phát huy trong điều kiện mới và bằng cách nào để có thể phát huy những ảnh hưởng tích cực, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam là vấn đề đang đặt ra và cần làm sáng tỏ. 2. Tình hình nghiên liên quan đến cứu đề tài Nghiên cứu ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời sống tinh thần của con người Việt Nam là đề tài rộng lớn. Đã có nhiều công trình nghiên cứu và đạt được những kết quả đáng trân trọng. Có thể kể ra một số công trình sau đây: Mấy vấn đề Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam của Viện Triết học, Hà Nội, 1986; Lịch sử Phật giáo Việt Nam của PGS Nguyễn Tài Thư (chủ biên), Viện Triết học, Hà Nội, 1991; Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập I của Nguyễn Tài Thư (chủ biên), Nxb Khoa học xã hội, 1993 ; Thiền học Trần Thái Tông của Nguyễn Đăng Thục, Nxb Văn hóa Thông tin, 1996; Tôn giáo tín ngưỡng hiện nay, mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp thiết, Trung tâm Thông tin tư liệu - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1996; Văn hóa Phật giáo và lối sống của người Việt ở Hà Nội và châu thổ Bắc Bộ của Nguyễn Thị Bảy, Nxb Văn hóa thông tin 1997; ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam hiện nay của Nguyễn Tài Thư (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội 1997; Tư tưởng triết của học Thiền phái Trúc Lâm đời Trần của Trương Văn Chung, Nxb Chính trị quốc gia, 1998; ảnh hưởng của tư tưởng triết học Phật giáo trong đời sống văn hóa tinh thần ở Việt Nam của Lê Hữu Tuấn, Luận án tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1998; Tư tưởng Phật giáo Việt Nam của Nguyễn Duy Hinh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1999 ; Phật Giáo với văn hóa Việt Nam của Nguyễn Đăng Duy, Nxb Hà Nội, 1999; Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam, tập I của Nguyễn Hùng Hậu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002 v.v... Có thể nhận xét một cách khái quát, những công trình nghiên cứu trên đều thống nhất ở một số điểm: Phật giáo có ảnh hưởng nhất định trong đời sống xã hội Việt Nam, đặc biệt là đời sống tinh thần. Những triết lý đầy tính nhân sinh của Phật giáo kết hợp với văn hóa truyền thống đã tạo nên sự phong phú của đời sống tinh thần của con người Việt Nam. Những công trình nghiên cứu nói trên, trực tiếp hoặc gián tiếp, ở các mức độ và khía cạnh khác nhau, đã thể hiện tư tưởng triết học Phật giáo và ảnh hưởng của nó đối với đời sống xã hội Việt Nam. Do đó, việc đánh giá những ảnh hưởng tích cực, tiêu cực của Phật giáo, mà trước hết là nhân sinh quan Phật giáo, trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng triết học này trong đời sống xã hội Việt Nam lâu nay, là việc làm hết sức có ý nghĩa. Tuy nhiên, việc làm sáng tỏ sự biến đổi ảnh hưởng của Phật giáo nói chung và nhân sinh quan Phật giáo nói riêng đối với đời sống tinh thần của con người Việt Nam dưới tác động mạnh mẽ của công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay thì hãy còn chưa nhiều. Vì vậy, luận văn có nhiệm vụ là: trên cơ sở tiếp thu, kế thừa những kết quả nghiên cứu của những công trình đi trước để khảo sát đánh giá sự biến đổi của ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo trong quá trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn a) Mục đích Luận văn làm rõ sự biến đổi ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo trong quá trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay. Nêu ra một số giải pháp nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo trong quá trình đổi mới ở nước ta hiện nay. b) Nhiệm vụ Một là, khái quát nội dung nhân sinh quan Phật giáo và ảnh hưởng của nó đối với đời sống tinh thần truyền thống của con người Việt Nam. Hai là, tìm hiểu sự biến đổi của ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo trong quá trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay, bao gồm: Phân tích những nhân tố tác động đến sự biến đổi đó; nêu lên một số xu hướng biến đổi của nhân sinh quan Phật giáo. Ba là, đề ra một số phương hướng, giải pháp phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo trong quá trình đổi mới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu a) Đối tượng - ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần của người dân Việt Nam b) Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu sự biến đổi của ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo trong quá trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay. 5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu a) Cơ sở lý luận Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng. b) Cơ sở thực tiễn Sự biến đổi của ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo trong quá trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay. c) Phương pháp nghiên cứu Tác giả luận văn sử dụng các phương pháp phân tích và tổng hợp; sự thống nhất giữa lôgíc và lịch sử; điều tra phỏng vấn và kết hợp các phương pháp khái quát hóa, trừu tượng hóa v.v... 6. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn - Luận văn góp phần vào việc tìm hiểu sự biến đổi của ảnh hưởng nhân sinh quan sinh Phật giáo trong quá trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay. - Luận văn bước đầu nêu lên một số giải pháp nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo trong quá trình đổi mới. 7. ý nghĩa thực tiễn của luận văn Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy tôn giáo ở các trường Đại học, Cao đẳng. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 2 chương, 5 tiết. Chương 1 nhân sinh quan Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến đời sống tinh thần người Việt Nam 1.1. Nhân sinh quan Phật giáo 1.1.1. Vị trí nhân sinh quan Phật giáo trong tư tưởng triết học Phật giáo Ph.Ăngghen đã nói: "Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo vào trong đầu óc của con người của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế" [17, tr. 73]. Điều đó có nghĩa là, tôn giáo do con người sáng tạo ra, tôn giáo không sáng tạo ra con người song lại có ảnh hưởng lớn tới đời sống của con người trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Phật giáo - một trong mười tôn giáo lớn trên thế giới - ra đời đã hơn 2500 năm nay, đã được truyền bá và ảnh hưởng tới nhiều nước trên thế giới như: Xrilanca, Xiry, Ai Cập, Mianma, Thái Lan, Việt Nam, Trung Quốc và một phần Anh, Đức, Pháp … và nhanh chóng trở thành tôn giáo mang tính thế giới. Trong quá trình du nhập trải qua các thời kỳ lịch sử, Phật giáo lại phụ thuộc vào tình hình kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia mà đã biến đổi ít nhiều. Sự ảnh hưởng của phật giáo đến ngoại bang diễn ra rất sớm và rất nhanh chóng. Ngày nay trên phạm vi quốc tế, Phật giáo đang chiếm vị trí sâu rộng trong đời sống tinh thần của con người, trong đó có Việt Nam. Người sáng lập ra Phật giáo là Hoàng tử Tất Đạt Đa - con vua Tịnh Phạn. Ông sinh năm 563 mất năm 483 trước công nguyên ở ấn Độ. Sau khi tu hành đắc đạo có danh hiệu Thích Ca Mâu Ni. Tương truyền, Hoàng tử Tất Đạt Đa từ khi mới sinh ra đã được vua cha hết đỗi chiều chuộng, "nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa". Hoàng tử, vốn là con độc nhất, được sống trong nhung lụa, được chăm sóc, giáo dục rất đầy đủ, toàn diện. Chẳng bao lâu Hoàng tử đã trở thành người văn võ song toàn. Hoàng tử được vua cha cưới vợ năm 17 tuổi, về sau có một người con trai tên là La Hầu La. Vua không muốn cho Hoàng tử phải chứng kiến quy luật của cuộc sống là sinh - lão - bệnh - tử. Mặc dù vậy, sau những lần dạo chơi ở cổng thành Hoàng tử đã chứng kiến nỗi khổ của con người về sinh - lão - bệnh - tử; thấy được cuộc sống cơ cực của người dân trong xã hội ấn Độ cổ đại lúc bấy giờ, vốn có sự phân chia đẳng cấp nghiệt ngã. Hoàng tử lại là người có tấm lòng từ bi, bác ái vô hạn, sống gần gũi với con người, đầy tình người và trí tuệ. Cái tâm đức Phật thật là từ bi Còn trong Thái tử thời kỳ Xem người cày ruộng mới đi ra ngoài Thấy cò cứ mổ sâu hoài Động lòng thương xót mọi loài chúng sinh. (Từ bi) Chứng kiến đời sống khổ cực và sự bất lực của con người trong xã hội đương thời, đã khiến Hoàng tử Tất Đạt Đa có ý định từ bỏ cuộc sống giàu sang để đi tìm đạo lý cứu đời. Năm 29 tuổi, nhân lúc vua cha, vợ con đang ngủ say, Tất Đạt Đa rời bỏ Hoàng cung ra đi trở thành người tu tập thiền định và bắt đầu cuộc sống khổ hạnh. Qua một thời gian học đạo, Người nhận thấy, cuộc sống giàu sang về vật chất, thỏa mãn dục vọng và cả cuộc sống tu hành khổ hạnh ép xác đều là con đường sai lầm. Người cho rằng, cuộc sống dù giàu sang đến đâu cũng chỉ là tầm thường, còn cuộc đời tu hành khổ hạnh thì tăm tối, mà chỉ có con đường trung đạo mới là con đường đúng đắn. Người nói: "Ta tu khổ hạnh mà như thế này, mà không thấy rõ đạo thì cái tu của ta vẫn chưa phải. Ta nên theo con đường giữa, cứ ăn uống như thường, không say mê việc đời nào vẫn không khắc khổ hại thân rồi mới thành đạo được" [14, tr. 42]. Sau khi tự mình đào sâu suy nghĩ tìm con đường giác ngộ chân lý mới, Tất Đạt Đa quyết định từ bỏ cuộc sống tu hành khổ hạnh để đi vào tư duy trí tuệ. Qua nhiều lần tu tập, sau 49 ngày ngồi thiền định dưới gốc cây Bồ đề, với những suy tư sâu thẳm, Người đã giác ngộ được chân lý. Tất Đạt Đa đã lý giải được nguồn gốc nỗi khổ của con người, cũng như phương pháp giải thoát diệt khổ. Là một tôn giáo, Phật giáo ra đời nhằm xoa dịu nỗi khổ của con người trong xã hội có sự phân chia đẳng cấp khắc nghiệt của xã hội ấn Độ cổ đại. Sinh thời, Đức Phật không viết sách, mà chỉ thuyết giảng cho các học trò của mình bằng lời nói. Sau khi Đức Phật nhập Niết bàn, các đệ tử đã tập hợp, phát triển tư tưởng của người để xây dựng một học thuyết tôn giáo hoàn chỉnh (kinh, luật và luận tạng). Về sau Phật giáo chia thành Tiểu thừa và Đại thừa với nhiều tông phái khác nhau, du nhập và phát triển ra nhiều nước trên thế giới. Dù đã trải qua lịch sử thăng trầm hơn 2500 năm, với nhiều cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau, nhưng Phật giáo, mà trước hết là triết lý nhân sinh của nó giàu lòng vị tha, thương người, rất gần gũi với con người và mang nặng tính nhân sinh hơn các tôn giáo khác. Giáo lý Phật giáo bao gồm hệ thống quan niệm về nhận thức luận, thế giới quan và nhân sinh quan có kết cấu chặt chẽ. Mỗi yếu tố chứa đựng những nội dung với chức năng riêng là tiền đề và hệ quả của nhau. Nhân sinh quan Phật giáo được bắt nguồn từ thế giới quan. Tuy nhiên, mục đích chủ yếu của Phật giáo là thoát khổ, là giải phóng con người, mang giá trị nhân sinh sâu sắc. Thích Ca Mâu Ni đã nhìn thấy rõ sự đau khổ ở đời sống con người mà sáng lập ra Phật giáo để giải thoát con người khỏi nỗi khổ đau. Triết học phương Đông nghiêng về việc nghiên cứu, tìm hiểu những vấn đề chính trị, xã hội, đạo đức, tôn giáo, đặc biệt là vấn đề con người hơn là việc tìm hiểu giới tự nhiên. Triết học phương Đông nghiên cứu thế giới để làm sáng tỏ con người, vạch ra nguyên tắc ứng xử, giải quyết các mối quan hệ giữa người với người, chú ý đến đời sống tâm linh mà ít quan tâm đến mặt sinh vật của con người. Mục đích nhận thức thế giới của triết học đều nhằm phục vụ cho đời sống của con người và xã hội. Còn triết học phương Tây chú trọng nghiên cứu thế giới, tìm hiểu giới tự nhiên, xây dựng nên các học thuyết, các phạm trù v.v... Cũng như nhiều trào lưu tư tưởng triết học phương Đông, Phật giáo đề cao và nhấn mạnh vấn đề nhân sinh. Đây cũng là một trong những đặc điểm cơ bản khác biệt của triết học phương Đông so với phương Tây. Điều này góp phần vào việc lý giải vì sao mặt vũ trụ quan của thế giới quan của Phật giáo, nhất là Phật giáo nguyên thủy, hơi mờ nhạt, trong khi nội dung nhân sinh quan lại khá rõ ràng và mang tính nổi trội. Mục đích cuối cùng của Phật giáo là giải thoát con người khỏi nỗi khổ trần thế thông qua con đường tu tập về mặt tâm linh. Do đó, Phật giáo hầu như không đề cập và không có chủ trương giải quyết những vấn đề có tính chất siêu hình, như chính lời của Đức Phật thuyết giảng: Giống hệt như người bị thương vì một mũi tên thuốc độc, bạn bè thân thích đưa một ông thầy giải phẫu nhưng anh ta nói: Ta sẽ không để cho rút mũi tên này ra trước khi biết ai làm ta bị thương, hắn ở đẳng cấp nào, tên họ hắn là gì, hắn ta to bé hay trung bình, hắn ta từ đâu tới. Ta sẽ không cho rút mũi tên này trước khi biết nó là loại cung nào, dây cung và mũi tên được làm bằng gì, đầu nhọn mũi tên được làm như thế nào? Con người này sẽ chết đi mà không biết điều đó chúng là vô ích không dẫn ta đến giải thoát. Việc cấp bách là cứu khổ giống như việc lấy mũi tên thuốc độc ra khỏi thân thể con người [12, tr. 266]. Khi các đệ tử hỏi Đức Phật về vấn đề siêu hình trừu tượng như vũ trụ có vĩnh hằng không? Nó vô hạn hay hữu hạn, linh hồn và thể xác là một hay khác nhau, Như Lai sau khi chết có tồn tại hay không?... thì người im lặng vì mục đích chủ yếu là cứu khổ cho con người. Như vậy, qua việc nghiên cứu những nội dung trên cho thấy, đối tượng nghiên cứu chủ yếu của Phật giáo là con người, là giá trị nhân sinh. Qua việc phải chứng kiến nỗi khổ của con người ở đời sống trần thế mà Thích Ca Mâu Ni đã xây dựng học thuyết mang đậm giá trị nhân sinh để giải thoát, cứu khổ cho con người khỏi khổ nạn. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ ở ấn Độ, với sự thống trị của tư tưởng duy tâm tôn giáo Bà la môn và chế độ phân biệt đẳng cấp khắt khe, Phật giáo ra đời là tiếng nói trong làn sóng phủ nhận uy thế của kinh Vêđa và đạo Bà la môn, tố cáo chế độ xã hội bất công, đòi tự do tư tưởng và sự bình đẳng xã hội, xóa bỏ nỗi khổ trong đời sống của người dân ấn Độ. Đây là sự thể hiện tinh thần phản kháng của quần chúng nhân dân đối với chế độ xã hội đương thời: Đức Phật tuyên bố: Không có đẳng cấp trong dòng máu cùng đỏ, không có đẳng cấp trong giọt nước mắt cùng mặn, con người sinh ra không phải đã mang sẵn trong bào thai dây chuyền ở cổ hay dấu tin ca (dấu hiệu quý phái của dòng Bà la môn) trên trán. Qua đó thể hiện mặt tích cực của nhân sinh quan Phật giáo trong lĩnh vực sinh hoạt xã hội. Nguyện vọng cứu khổ của Đức Phật mang tính nhân văn sâu sắc, còn có cứu được khổ hay không lại là chuyện khác. Do vậy, Phật giáo rất gần gũi với con người. ở Việt Nam, từ thuở xa xưa, Phật chính là "Bụt". Bụt ở đây là cách dịch âm khác của "Buddha" có nghĩa là Phật, là giác ngộ. Hình ảnh ông Bụt hiện lên trong nhiều câu chuyện cổ tích như truyện Tấm Cám… luôn là người đem lại niềm vui, hạnh phúc cho những người tốt bụng mà gặp điều không may, đồng thời Bụt cũng là người trừng phạt cái xấu, kẻ ác. 1.1.2. Nội dung nhân sinh quan Phật giáo Triết lý nhân sinh Phật giáo bắt nguồn từ thế giới quan, do thế giới quan Phật giáo chi phối. Mặt khác, với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, nhân sinh quan Phật giáo chịu sự qui định của tồn tại xã hội và tác động của các hình thái ý thức xã hội khác. Điều này giải thích tại sao trong lịch sử tồn tại và phát triển, nhân sinh quan Phật giáo có sự biến đổi, không còn giữ nguyên như ở Phật giáo nguyên thủy. Nghiên cứu chi tiết, cho thấy các phái Phật giáo có những quan niệm khác nhau về nhân sinh. Phật giáo Tiểu thừa coi trọng "xuất gia khổ hạnh", chủ trương "ngã không pháp hữu", đề cao sự giải thoát chính mình với mục đích cuối cùng là chứng đắc La Hán. Tư tưởng chủ yếu của Phật giáo Tiểu thừa là "tịnh độ" và "xuất thế gian", nhấn mạnh cuộc đời là bể khổ mà nguyên nhân là do "Thập nhị nhân duyên". Mục đích thoát khổ là phải xuất thế gian, xa rời cuộc sống phàm tục, diệt dục mới có thể rũ bỏ bụi trần để đạt tới cảnh giới Niết bàn. Còn Phật giáo Đại thừa không quá đề cao xuất gia khổ hạnh, chủ trương"ngã pháp đều không", tự giác ngộ và giác ngộ người khác, mục đích tu tập trở thành Phật. Giới luật của Đại thừa cũng có nhiều biến đổi khác với giới luật của Tiểu thừa ở sự tôn nghiêm cũng như nội dung. Nếu giới luật của Tiểu thừa tập trung vào việc đạt quả phúc cho mình, thì giới luật của Đại thừa lại thường hướng đến lợi ích cho người khác... Phật giáo Đại thừa về sau phát triển và lại chia thành nhiều bộ phái khác nhau, xuất phát từ ấn Độ và truyền bá ra các nước xung quanh, triết lý Phật giáo nói chung và nhân sinh quan Phật giáo nói riêng đã biến đổi, phát triển ngày càng đa dạng phong phú để thích nghi với truyền thống của mỗi quốc gia, dân tộc trong những thời kỳ lịch sử nhất định. Vì khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ là có hạn, nên tác giả luận văn chỉ nghiên cứu ảnh hưởng nhân sinh quan phật giáo trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam và sự biến đổi của nó trong quá trình đổi mới hiện nay trong thuyết tứ đế của Phật giáo. Nhân sinh quan Phật giáo là một hệ thống gồm các quan điểm về con người, đời sống của con người. Về con người Phật giáo tập trung ở học thuyết cấu tạo con người, học thuyết về sự xuất hiện và tái sinh. Theo Phật con người được cấu tạo từ những yếu tố thể hiện trong thuyết Danh sắc và thuyết Lục đại. Thuyết Danh sắc: Con người được cấu tạo từ hai yếu tố vật chất và tinh thần. Thuyết Lục đại: Con người được cấu tạo từ sáu yếu tố: Địa : Nghĩa là đất, xương thịt. Thủy : Nước, máu, chất lỏng. Hỏa : Lửa, nhiệt khí. Phong : Gió, hô hấp Không : Các lỗ trống trong cơ thể Thức : ý thức tinh thần. Trong 6 yếu tố này thì 5 yếu tố đầu thuộc về vật chất, chỉ có yếu tố cuối cùng thuộc về tinh thần. So với thuyết Danh sắc thì thuyết lục đại xét cấu tạo con người nghiêng nặng về vật chất còn thuyết kia gần như có sự cân bằng, hài hòa về hai lĩnh vực vật chất, tinh thần. Thuyết Ngũ ẩn : Xem con người được cấu tạo từ năm yếu tố. Sắc : Vật chất bao gồm địa, thủy, hỏa, phong. Thụ : Tình cảm, cảm giác con người. Tưởng : Tưởng tượng, tri giác, ký ức. Hành : ý thức, những yếu tố khiến tâm hoạt động. Thức : ý thức theo nghĩa rộng gồm cả thụ, tưởng, hành. Trong các thuyết về cấu tạo con người của Phật giáo, thì thuyết Ngũ uẩn là phổ biến hơn cả. Như vậy, Phật giáo cho rằng, con người không có thực thể là "không", gọi là "nhân vô ngã" (nhân không). Con người được tạo thành từ Ngũ uẩn cho nên không có chủ thể hằng thường tự tại. Con người là sản vật, tự nhiên không có hình thái cố định của tính vật chất nhưng vì đã ăn vật chất trên thế giới nên dần hình thành khối vật chất thô kệch có sự phân biệt tính cách, màu da. Có bốn loại thực: Đoạn thực : Thức ăn là động, thực vật, thức ăn vật chất, là cơm ăn nước uống hàng ngày. Xúc thực : Thức ăn là những cảm xúc, cảm giác. Tư thực : Thức ăn là sự suy tư, nghĩ ngợi. Thức thực : Thức ăn là tinh thần, là thức ăn ở cõi vô sắc, sống bằng tinh thần thanh cao. Phật giáo quan niệm sự vật đều luôn vận động biến đổi, không có cái gì là thường hằng, bất biến. Xuất phát từ duyên khởi luận, Phật giáo cho rằng thế gian hết thảy đều biến hóa, vô ngã, vô thường. Theo Phật giáo, có hai loại vô thường. Đó là sát na vô thường và tương tục vô thường. Trong đó, sát na vô thường chỉ sự biến hóa trong khoảng thời gian cực ngắn. Còn tương tục vô thường chỉ trong một chu kỳ nối tiếp nhau đều có sinh - trụ - dị - diệt (đối với sinh vật), hay thành - trụ - hoại - không (đối với sự vật), đối với con người là sinh - lão - bệnh- tử. Quan niệm của nhà Phật cho rằng, con người là sự kết hợp động của những yếu tố động, cho nên là giả tạm, suy cho cùng là vô ngã. Với cách nhìn như thế, Phật giáo cho rằng, mọi sự vật hiện tượng là giả danh không có thực, con người chỉ là giả hợp của Ngũ uẩn tùy duyên giả hợp mà thành, cho nên là hư vọng huyễn hóa. Đủ nhân duyên hợp lại thì gọi là sống, hết nhân duyên tan ra gọi là chết. Sống, chết là giả hợp tan của Ngũ uẩn. Do mê lầm, mà vô thường con người tưởng là thường, vô ngã mà tưởng có ngã. Thân xác con người là nguồn gốc của mọi khổ đau. Mọi đau khổ như đói khát, sinh, lão, bệnh, tử, nóng, giận, dâm dục v.v... đều có gốc từ con người mà ra. Điều này cho thấy, Phật giáo nhìn nhận cuộc đời con người là khổ. Nếu quan niệm chết là hết là chưa hiểu đúng Phật giáo, mà theo Phật giáo, chết là điều kiện để có cái sinh mới sắp tới. Phật giáo giải thích sự chết của con người bằng thuyết luân hồi nghiệp báo… Khi con người hình thành thì mọi suy nghĩ, hành động được ghi lại ở một nơi là Alaya, cứ thế tích tụ thành Karma - Luật vô hình đặc trưng của người. Khi con người chết luật vô hình quay lại gặp điều kiện thuận lợi tạo thành sinh linh mới chịu quả ở kiếp trước và nhân ở kiếp sau cứ thế luân hồi. Cuộc đời con người là một mắt xích trong chuỗi dài vô tận, chỉ là một gợn sóng trên mặt biển bao la. Cuộc sống của con người trên trần thế không thay đổi được, nó do nghiệp cũ quy định theo luật nhân quả; mọi việc làm của con người đều là nhân của sự kết hợp Ngũ uẩn tiếp theo. Học thuyết nhân quả của Phật giáo cho rằng, con người gieo nhân nào hưởng quả ấy, ở hiền gặp lành, gieo gió gặt bão. Đời này ra sức học tập thì đời sau thông minh sáng suốt; đời này lười biếng thì đời sau ngu đần dốt nát; đời này sát sinh thì đời sau chết yểu; đời này phóng sinh thì đời sau sống lâu; đời này làm khổ chúng sinh thì đời sau đau khổ; đời này có tâm vỗ về an ủi người khác thì đời sau hạnh phúc; đời này giận dữ cáu kỉnh thì đời sau tướng mạo xấu xí... Đức Phật có nói: "Những kẻ tạo nghiệp ác dù có lên trời, xuống biển hay vào hang núi cũng không nơi nào có thể trốn thoát" [12, tr. 275]. Có thể nói, Phật giáo quan niệm mối quan hệ nhân quả là mối quan hệ phổ biến và chi phối tất cả. Phật giáo nguyên thủy cho thế giới này không có nguyên nhân đầu tiên cũng như cuối cùng, thế giới không do một đấng tối cao nào sáng tạo ra; từ đó đi đến bác bỏ mọi quan niệm cho rằng Thượng đế hay linh hồn là lực lượng đầu tiên sáng tạo ra muôn vật. Tuy nhiên, quan niệm về mối liên hệ nhân quả mà Phật giáo đề cập và nhấn mạnh thuộc lĩnh vực đạo đức, tinh thần, tâm lý cá nhân. Theo quan niệm của Phật giáo, xét đến cùng muôn vật trong vũ trụ là hệ thống nhân duyên của nhau, cứ thế sinh sinh diệt diệt mãi nối tiếp nhau vô cùng tận; thế giới là vô thủy vô chung, không có cái gì là trường tồn bất biến. Mọi cái đều biến đổi vận động không ngừng, không có cái vĩnh hằng; mọi vật đều tuân theo quy luật sinh, trụ, dị, diệt. Con người cũng thuộc về thế giới hiện tượng. Thân xác con người được đề cập trong các thuyết Danh sắc, thuyết Lục đại, thuyết Ngũ uẩn của Phật giáo. Theo luật nhân quả của Phật giáo, những việc làm của con người là nguyên nhân tạo ra sự ngũ uẩn tiếp theo. Bản thân nghiệp này do kiếp trước quy định; cứ thế con người ở trong vòng luân hồi sinh tử không ngừng từ đời này sang đời khác. Điều đó ít nhiều mang tính biện chứng. Tuy nhiên, do tuyệt đối hóa sự vận động và gắn sự vận động với tính giả tạm vô thường của sự vật, cho nên Phật giáo không có được quan niệm đúng đắn về sự thống nhất biện chứng giữa vận động và đứng im tương đối, không thấy được sự vận động bao giờ cũng gắn với sự phát triển. Về cuộc đời con người Triết học Phật giáo bác bỏ Brahma và Atman, nhưng lại tiếp thu tư tưởng luân hồi Samsara và nghiệp Karma của Upanisad cho rằng, mọi vật mất đi ở chỗ này là để sinh ra ở chỗ khác, trong quá trình biểu hiện sinh tử theo nghiệp nhân quả luân hồi. Để giải thoát chúng sinh khỏi nghiệp nhân quả luân hồi sinh - tử; tử - sinh, Đức Phật nêu ra Tứ diệu đế và Thập nhị nhân duyên. Tứ diệu đế là bốn chân lý giải thoát tuyệt diệu, thiêng liêng mà mọi người đều phải nhận thức được đó là: Khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế. Khổ đế Triết lý nhân sinh Phật giáo cho rằng, bản chất cuộc đời con người là khổ: "Đời là bể khổ, đời là cả những chuỗi bi kịch liên tiếp, bốn phương đều là bể khổ, nước mắt chúng sinh nhiều hơn nước biển, vị mặn của máu và nước mắt chúng sinh mặn hơn nước biển" [16, tr. 12]. Khổ đế nói lên bản chất của nhân sinh. Quan niệm nhân sinh trong triết học Phật giáo mang tính tiêu cực yếm thế, coi đời chỉ là ảo hóa tạm bợ. Do vô minh, con người không nhận thức được điều đó, do đó cứ lặn lội mãi trong biển sinh tử, luân hồi. Cuộc đời con người đầy rẫy những nỗi khổ, nhưng không ai nhìn thấy tường tận và rõ ràng. Đức Phật chỉ rõ: "Ba giới không chút nào yên như là lò lửa, nỗi khổ đầy rẫy trong đó, thật là đáng sợ" (Kinh Pháp Hoa); "ta thấy các chúng sinh đắm chìm trong bể khổ" (Kinh Pháp Hoa, Thọ Lượng Phẩm). Nỗi khổ của thế gian là khôn cùng, song có thể chia làm ba loại khổ hay tám thứ khổ. Ba loại khổ (Tam khổ) là: khổ khổ, hoại khổ và hành khổ. Khổ khổ: Muốn nói tới cái khổ chồng chất nối tiếp cái khổ. Mỗi chúng sinh là nạn nhân của bao cái khổ. Cái khổ có ở ngay thể xác như bệnh tật hiểm nghèo… lại có cái khổ khác bên ngoài thể xác như thiên tai, chiến tranh... Tất cả những cái khổ đó liên tiếp dồn dập đến với con người. Hoại khổ: Do sự thay đổi tạo nên tuân theo luật vô thường - không có cái vĩnh hằng. Ca dao có câu "nước chảy đá mòn", để nói một sự vật vững chắc, cứng rắn như đá nhưng cùng với thời gian chịu tác động của ngoại cảnh cũng phải thay đổi rồi bị hủy diệt tan biến. Con người cũng vậy, không thể nằm ngoài quy luật chung đó. Hành khổ: Những nỗi khổ về tinh thần con người, do không làm chủ được mình bị lôi kéo vào những dục vọng làm cho tâm bị dằn vặt sinh ra buồn vui, giận hờn, yêu ghét… Tám thứ khổ (Bát khổ): Đức phật tóm tắt thành tám thứ khổ trong cuộc đời của một con người gồm: sinh, lão, bệnh, tử, ái biệt ly, oán tăng hội, sở cầu bất đắc, thủ ngũ uẩn khổ. Tám thứ khổ này là sự cụ thể hóa, tỉ mỉ hơn về các nỗi khổ của chúng sinh ở trần thế, song nội dung thì được bao hàm bởi ba khổ trên. Sinh khổ: con người khi sinh ra đã cất tiếng khóc chào đời; trước đó còn ở trong bụng mẹ thì chật chội tăm tối; người mẹ mang thai con thì vất vả mệt nhọc, kém ăn, mất ngủ, chịu bao cái khác thường so với người khác. Trong cuộc sống hàng ngày, con người muốn tồn tại được thì trước hết phải ăn, uống, mặc ở, sinh hoạt, đi lại… Muốn vậy, con người phải lao động hết sức vất vả, cực khổ, tất bật trong công việc. Đó là về mặt vật chất, còn những nỗi khổ về tinh thần dày vò con người cũng không kém nỗi khổ về vật chất, nó làm con người suy kiệt, ốm yếu,... (lão khổ). Con người đến lúc già, tuổi cao, thân thể hao mòn già yếu các giác quan, hoạt động kém; mắt mờ, chân chậm, tai điếc... dễ sinh bệnh gây đau ốm cho người bệnh và người thân xung quanh. Tử: đến một thời điểm nhất định con người phải chết, xa lìa trần thế để lại nỗi xót thương vô hạn cho người thân, bè bạn. Ai cũng vậy, sợ phải xa lìa người thân, bè bạn, bởi cuộc sống biết bao điều thú vị. ái biệt ly: nỗi khổ khi phải xa cách chia ly người mình mến thương như vợ chồng, cha mẹ, anh em… Nỗi khổ này bao gồm cả nỗi khổ sinh tử biệt ly: Sống phải xa nhau đã khổ, nhưng người ở lại người đi vào thế giới khác thì đó là nỗi khổ tình thương, tuyệt vọng biết nhường nào. Oán tăng hội khổ: nỗi khổ vì phải sống cùng với người mà mình không hề yêu thích; ở chung với những người như vậy giống như gai đâm vào mắt mà không làm gì được. Sở cầu bắt đắc khổ: là những nỗi khổ do con người mong muốn, ước ao mà không được, con người phải lao tâm khổ tứ biết bao, mong có được ngày thành đạt; nếu điều đó không thành thì nỗi khổ ấy thật khủng khiếp dày vò con người, khiến con người tuyệt vọng… Ngũ thụ uẩn khổ gây ra bởi sắc, thọ, tưởng, hành, thức làm cho thân tâm phải chịu hết thảy những nỗi khổ. Thích Ca nói với chúng sinh: già là khổ, bệnh khổ, chết khổ, cái gì của ta mà phải xa rời là khổ, cái gì không ưa thích mà phải hợp là khổ, cái gì muốn mà không được là khổ. Tóm lại là triền miên trong ngũ trọc giả hợp. Học thuyết khổ đế đã chỉ ra những nỗi khổ lớn nhất trong cuộc đời con người. Với lòng từ bi thương người của mình, Đức Phật muốn chúng sinh biết hết mọi nỗi khổ có ở đời để khi gặp phải không làm cho tinh thần hoảng loạn, mà phải biết bình tĩnh suy xét tìm cách giải khổ, làm chủ được bản thân, vượt lên trên số phận. Điều này cho thấy, Phật giáo không hề trốn tránh cuộc sống trần gian, cũng như không tô hồng nó, mà đã dũng cảm nhìn vào hiện thực cuộc đời con người. Tập đế Tập đế nói lên sự tập hợp, tích chứa những nguyên nhân đưa tới cái khổ. Đức Phật cho rằng, mọi cái khổ đều có nguyên nhân của nó (Thập nhị nhân duyên). Phật Thích Ca thuyết pháp cho môn đệ phép màu nhiệm về nguyên nhân sự khổ. Đó là lòng tham sống mà luân hồi sinh tử: càng tham, càng muốn, càng được lại càng tham. Con người tham sống, tham sướng, tham mạnh v.v... Nguyên nhân của lòng tham là vô minh, nghĩa là không sáng suốt, không nhận thức được thế giới, không thấy mọi sự vật đều là ảo giả, mà cứ cho là thực; không nhận thức được ngay chính bản thân mình, cả thế giới khách quan lẫn bản thể chủ quan đều chỉ là vô thường vô ngã trong vòng luân hồi trôi chảy bất tận, chính cái này dẫn đến lòng tham sống ở trong con người. Phật giáo nói đến đau khổ chủ yếu là chỉ tinh thần bức bách. Trong 12 nguyên nhân đưa ra thì Đức Phật cho rằng, vô minh và ái dục là hai nguyên nhân chủ yếu đưa đến đau khổ cho con người. Sự kết hợp giữa ái dục và vô minh xuất phát từ nguồn gốc của ba thứ mà phật gọi là tam độc: tham, sân, si. Tham: Biểu hiện sự tham lam của con người làm xúi dục con người hành động để thỏa mãn lòng tham của mình. Lòng tham của con người không có giới hạn, đây là nguyên nhân gây bao nỗi thống khổ cho con người như chém giết, xâm hại lẫn nhau. Sân: Sự cáu gắt, bực tức, nóng giận khi con người không hài lòng về điều gì đó, làm cho con người không kiểm soát hết hành động của mình (giận quá mất khôn); như thế cũng đem lại những điều khổ đau, không hay cho con người. Sách Phật ghi rằng, một đốm lửa giận có thể đốt hết muôn mẫu rừng công đức và một niệm sân hận nổi lên, thì trăm ngàn, cửa nghiệp chướng mở. Si: Sự si mê, lú lẫn, làm cho con người không phân biệt điều hay dở; điều đó gây bao tội lỗi, đau khổ cho mọi người. Nếu tham sân nổi lên mà có trí sáng suốt sẽ ngăn chặn được tham, sân. Tiếp đến Đức Phật trình bày những nguyên nhân của 12 nỗi khổ (Thập nhị nhân duyên). Duyên hành: là hành động có ý thức; ở đây đã có sự dao động của tâm, có mầm mống của nghiệp. Duyên thức: Tâm thức từ chỗ cân bằng trong sáng đến dần dần mất cân bằng, tùy theo nghiệp mà tâm thức tìm đến các nhân duyên để hình thành cuộc đời khác. Duyên danh sắc: là sự tụ hợp của các yếu tố vật chất tinh thần ;với các loài hữu tình thì sự hội nhập của danh sắc sinh ra các cơ quan cảm giác, trầm sức, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Duyên lục nhập: Quá trình tiếp xúc với thế giới khách quan, lục căn tiếp xúc với lục trần sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp Duyên xúc: Là sự tiếp xúc phối hợp giữa lục căn, lục trần và thức xúc, là quả của lục nhập, là nguyên nhân của thụ. Duyên thụ: Là cảm giác do tiếp xúc với thế giới bên ngoài mà sinh ra yêu,ghét,buồn, vui. Duyên ái: Là yêu nảy sinh dục vọng, mong muốn. Duyên thủ: Có ái thì có thủ, đã yêu thì muốn chiếm lấy, giữ lấy cho mình Duyên hữu: Tiến tới xác định chủ thể chiếm hữu (cái ta); từ đây chứng tỏ có nguyên nhân chứa đựng nguyên nhân. Duyên sinh: Đã có tạo nghiệp là nhân tất yếu sẽ sinh ra quả; là hiện hữu là tu sinh ra ở thế giới để làm người, hay súc sinh. Duyên lão tử: Đã có sinh tất yếu có già và có chết. Sinh - lão - bệnh - tử là kết thúc một chu kỳ, đồng thời là nguyên nhân của một chu kỳ tiếp theo, bắt đầu một vòng luân hồi mới. Cứ như thế tiếp diễn ở trong vòng đau khổ sinh tử. Diệt đế Đức Phật khẳng định, cái khổ có thể tiêu diệt được, chấm dứt được luân hồi. Đức Phật đã giảng cho môn đệ về vấn đề này ở thành Ba Nại Na: "Này các Thầy xa môn đến đạo diệt khổ, diệt lòng tham sinh hợp với thích thú và nhục dục tìm thích thú ở chỗ này chỗ khác nhất là tham dục, tham sinh, tham vô minh, diệt hết những dục vọng ấy sẽ khỏi khổ". Vì vậy, mỗi chúng sinh phải tu dưỡng thân tâm, đoạn trừ "vô minh", để cho Phật tính bừng sáng, nó sẽ là ngọn đèn pha dẫn bước chúng sinh đến cõi Niết bàn. Muốn diệt trừ "vô minh" phải có trí tuệ vì: "Có trí tuệ thì hết đam mê, luôn luôn tự thức tỉnh và tự dò xét, không để lầm lỗi có thể có được, trí tuệ chân thật là chiếc thuyền chắc chắn nhất vượt bể sinh, lão, bệnh, tử. Là ngọn đèn sáng nhất đối với hắc ám vô minh... là búa sắt chặt cây phiền não" [27. tr 36-37] Diệt đế nói lên thế giới của sự giải thoát, thế giới không còn khổ đau. Đạo đế Sau khi chỉ ra các nỗi khổ ở cuộc đời con người cũng như nguyên nhân gây nên các nỗi khổ ấy. Đức Phật khẳng định, có thể tiêu diệt được khổ, tiêu diệt nỗi khổ nhân sinh bằng trải qua tu luyện để thoát khổ đạt đến cõi Niết bàn tuyệt đối tịch tịnh sung sướng, an lạc và tốt đẹp nhất. Cuối cùng ngài đưa ra con đường để thoát khổ thực chất là diệt trừ vô minh, con đường đó là bát chính đạo. Đây là con đường tương đối phổ biến, là môn pháp chính được đề cập đến nhiều nhất đến nỗi có người lầm tưởng đạo đế và bát chính đạo là một, đồng nhất. Chính kiến: Là sự hiểu biết đúng đắn, nhận thức rõ về tứ diệu đế, hiểu đúng sự vật khách quan. Người có chính kiến sẽ biết phân biệt đúng sai, chi phối mọi hành động, tâm trí sáng suốt. Chính tư duy: Sự suy nghĩ phán xét đúng với lẽ phải. Người tu hành theo chính tư duy biết suy xét vô minh là nguyên nhân của khổ đau, tìm ra phương pháp tu luyện để thoát khổ cho mình và mọi người; đó là diệt trừ vô minh, tam độc. Chính ngữ: Lời nói ngay thẳng, là đưa chính tư duy vào thực hành trong lời nói cụ thể: không nói dối, không tạo ra sự bất hòa giữa mọi người, không nói lời ác dữ, không thừa lời vô ích. Người tu hành trước khi nói năng phải suy nghĩ người nghe, nói lời đoàn kết dịu hiền. Chính nghiệp: Đức Phật dạy chúng sinh rằng: Nếu là tà nghiệp như sát sinh, trộm cắp, tà dâm, thì phải cải tạo, cải tà quy chính, làm điều thiện tránh điều ác. Còn nếu là chính nghiệp việc làm hợp với lẽ phải, có ích cho mọi người thì phải giữ gìn. Trong chính nghiệp lại có thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp. Thân nghiệp: Không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm. Khẩu nghiệp: Không nói dối, không nói ác, không nói hai lưỡi, không nói thêu dệt. ý nghiệp: Không tham dục, không nóng giận, không tà kiến. Chính mệnh: Lối sống trong sạch, lương thiện, ngay thẳng của con người; không tham lam gian ác, ăn bám kẻ khác, không gian dối bất chính; sống chân chính bằng nghề nghiệp chính đáng. Có thể nói đây là phong cách sinh hoạt lành mạnh giúp cho con người luôn thoải mái nhẹ nhàng; như thế giúp cho sức khỏe - vốn là cái quí giá nhất ở con người để họ làm việc có hiệu quả. Chính tinh tiến: Đức Phật dạy con người cố gắng làm điều thiện, tránh điều ác; không quên lý tưởng tu đạo, luôn cảnh giác tỉnh táo trong từng việc làm; phải chủ động tích cực trong việc tìm kiếm truyền bá chân lý nhà Phật. Chính niệm: Trong đầu con người luôn có ý niệm trong sạch ngay thẳng, ghi nhớ những đạo lý chân chính, điều hay lẽ phải ở đời, chăm lo thường xuyên niệm Phật. Chính định: Sự tập trung tư tưởng vào một việc chính đáng, đúng chân lý, tĩnh lặng suy tư về tứ diệu đế của vô ngã vô thường về nỗi khổ của con người, là cơ sở cho chính kiến, chính tư duy ở trình độ cao. Với việc tu tập theo bát chính đạo mà Đức Phật đã chỉ ra, con người sẽ thu được lợi ích thiết thực cho cả mình và xã hội; họ sẽ tự ý thức, sửa mình từ bỏ mọi tội lỗi, tu thân tích đức như thế con người sẽ đạt tới sự hoàn thiện. Đây có thể coi là cơ sở, động lực để tạo ra sự yên bình, hạnh phúc không những trong xã hội hiện tại mà cả xã hội tương lai, bởi nhân nào quả ấy. Một lần nữa cho thấy, những giá trị nhân sinh sâu sắc của Phật giáo được khẳng định. Đức Phật đã rung động trước nỗi khổ của chúng sinh, nói như thế không phải Đức Phật tỏ ra bi quan trách đời mà phải thấy rằng Đức Phật đã dũng cảm chỉ ra thực tế, đoán định thế gian là chỉ có đau khổ. Từ đó mà đi tìm phương thuốc cứu giúp cho chúng sinh, tìm ra lối đi của sự tự do tuyệt đích, của hạnh phúc yên bình chính là con đường diệt khổ. Đức Phật lấy việc giải thoát đau khổ làm trọng tâm tư tưởng trong giáo lý của mình. Đức Phật thuyết giảng: "Đạo của ta đây chỉ có một vị là giải thoát như nước ngoài khơi chỉ có một vị mặn". Tinh thần triết lý nhân sinh mà Đức Phật dạy chúng sinh đòi hỏi trách nhiệm về đạo đức làm người, không được làm ngơ trước những nỗi khổ của người khác, phải toàn tâm toàn ý cứu khổ cho mọi người... Đó cũng là yêu cầu đối với chính mình, mình có thực hiện tốt thì mới hy vọng thoát khổ. Đức Phật tự nhận: "Thường trong bể khổ sinh tử, làm chiếc thuyền lớn cứu vớt chúng sinh". (Kinh Tâm Địa Quán). Phật giáo không lấy giáo lý làm trọng, mà chỉ coi đó là phương tiện để đạt đến chân lý cuối cùng. Cái cốt tủy của nó là sự thực hành của mỗi cá nhân đạt đến sự giác ngộ, tu thành đạo quả, chứ không phải nghe, giảng để hiểu đạo. Phật giáo là một tôn giáo rất quan tâm đến con người và cuộc đời con người. Các tôn giáo khác cũng có cách nhìn nhận về con người. Song sự khác biệt căn bản của giáo lý Phật giáo với các tôn giáo khác như Thiên chúa giáo, Đạo giáo, Nho giáo... là ở chỗ, Phật giáo đã chỉ ra cho chúng sinh con đường thoát khỏi khổ đau, thoát khỏi bể khổ trầm luân để đạt đến cõi Niết bàn. Đó là con đường tu học, trau dồi trí tuệ, phá vỡ vô minh. Đức Phật dạy rằng: "Giáo lý của chúng ta như chiếc bè để qua sông, như ngón tay chỉ mặt trăng, đừng lấy ngón tay làm mặt trăng, các bậc Như Lai chỉ làm cái việc là chỉ đường thôi, mỗi người phải tự mình đi đến chứ không ai đi thế cho ai cả" (Pháp cú - Phamnopada). Còn trong kinh Trường Ahàm, Phật dạy: "Hãy xem ta là người chỉ đường và hãy tự thắp đuốc lên mà đi, thắp với ngọn đuốc của chính mình đừng thắp ngọn đuốc của người khác" [24, tr. 31]. Triết học Mác - Lênin cũng nghiên cứu con người, lấy đó làm điểm xuất phát đồng thời cũng là mục đích cuối cùng để phục vụ đời sống con người. Nhưng con người trong triết học Mác là con người hiện thực sống trong một xã hội nhất định, với các quan hệ xã hội cụ thể. Còn con người trong Phật giáo là con người nô lệ của các sở cầu tham vọng của mình. Tuy vậy nó vẫn thể hiện triết lý nhân sinh sâu sắc - đó cũng là giá trị lớn nhất trong triết học Phật giáo. Mục đích của triết học mácxít là xây dựng con người phát triển toàn diện về đức, trí, thể, mĩ; còn Phật giáo với mục đích giải thoát cứu vớt con người khỏi bể khổ trở về với Phật tính của mình. Phật cho rằng, mọi chúng sinh đều có thể giác ngộ và giải thoát vì Phật và chúng sinh đều có Phật tính. Đức Phật tuyên bố: "Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành" [25, tr. 21]. 1.2. ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần của con người Việt Nam 1.2.1. Quá trình ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần của con người Việt Nam Phật giáo ra đời ở xã hội ấn độ cổ đại cách đây hơn 2500 năm và được truyền bá ra nhiều nước trên thế giới. ở mỗi nước, khi được du nhập vào, Phật giáo lại có sự cải biến cho phù hợp với tập tục của từng địa phương, từng dân tộc và mang những sắc thái khác nhau. Với tính cách là một trong những hình thái ý thức xã hội, ý thức tôn giáo trong đó có Phật giáo phụ thuộc vào tồn tại xã hội. ở ấn độ hiện nay Phật giáo tuy không còn chiếm số đông, nhưng những người có kiến thức đều tự hào về giáo lý nhà phật chính là ở tính triết lý sâu sắc. Trên thế giới cũng vậy, khi đã nói đến lý thuyết sâu sắc của xã hội ấn độ thì người ta không thể không nói đến Phật giáo. ở Việt Nam hơn 2000 năm nay, Phật giáo tuy có lúc thịnh suy, nhưng trên thực tế đã luôn gắn bó với truyền thống dân tộc. Phật giáo phát triển qua các thời kỳ Đinh, Lê, hưng thịnh và đạt đến đỉnh cao dưới thời Lý, Trần, đã góp phần ổn định, bảo vệ chế độ phong kiến tập quyền và đã để lại dấu ấn sâu đậm trong nền văn hóa Việt Nam. Nhân sinh quan Phật giáo, nhất là đức từ - bi - hỷ - xả ngày càng thấm sâu vào đời sống tâm linh, hướng con người vào con đường thiện nghiệp, tu dưỡng đạo đức. Hiện nay, tuy không còn là quốc giáo, song Phật giáo vẫn có ảnh hưởng rất lớn đến sống tinh thần của người Việt Nam. "Phật giáo đến Việt Nam, gặp bối cảnh khác, nên suy tư và vận dụng giáo lý của thiền sư cũng khác. Nếu không biết đổi khác, chỉ sống y khuôn với giáo lý nguyên thủy, chắc chắn chúng ta sẽ không có những trang sử đẹp được mệnh danh là thời kỳ vàng son của Phật giáo Lý Trần " [28, tr. 138]. Trong các tôn giáo được du nhập vào Việt Nam thì Phật giáo được truyền bá vào rất sớm sau Nho giáo. Ngay từ năm đầu công nguyên - thế kỷ I người Giao Châu đã tiếp xúc với Phật giáo từ Tây Vực truyền sang - thời kỳ này nước ta đang nằm dưới ách thống trị của nhà Hán. Các nhà nghiên cứu đều có chung ý kiến thống nhất cho rằng, Phật giáo được truyền vào Việt Nam bằng hai con đường. Thứ nhất, từ ấn Độ sang theo đường biển; thứ hai, từ Trung Quốc vào bằng đường bộ. Các tài liệu nghiên cứu cho thấy, thế kỷ thứ II cuối triều Hán Linh Đế (168 - 188) xuất hiện hai vị tăng ấn Độ sang Việt Nam truyền đạo là Ma Ha Kỳ Vực và Khưu Đà La, hình thành trung tâm Phật giáo đầu tiên của nước ta - Trung tâm Phật giáo Luy Lâu (ngày nay thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Cũng trong thế kỷ này, Mâu Tử là người Trung Quốc đến Việt Nam viết sách về Phật giáo Việt Nam "Lý hoặc luận". ở Giao Châu có nhiều người tu Phật và hình thành tầng lớp tăng sĩ trong xã hội. Một số tăng sĩ Việt Nam dịch kinh Phật từ tiếng ấn Độ sang tiếng Hán. Phật giáo Việt Nam phát triển chủ yếu dưới sự ảnh hưởng của Phật giáo ấn Độ. Phật giáo vào Việt Nam chủ yếu từ phía Bắc mang tư tưởng Đại thừa sau đó lan ra cả nước hay còn gọi Phật giáo Đại thừa, Phật giáo Bắc tông. Phật giáo được truyền từ phương Nam mang tư tưởng Tiểu thừa còn gọi là Phật giáo Tiểu thừa hay phật giáo Nam tông. Việt Nam giáp với biển Đông có đường biển dài nằm trên con đường thủy thông thương giữa Đông và Tây, giữa Bắc và Nam, giữa hai cái nôi của nền văn minh lớn ở phương Đông là Trung Hoa và ấn Độ, là nơi xuất phát về phía Nam của nhiều nhà buôn sứ giả Trung Hoa. Vị trí thuận lợi ấy khiến Phật giáo du nhập vào Việt Nam sớm. Nhà nghiên cứu Phật học -Minh Chi cho rằng, Việt Nam ngay từ thời rất xưa đã được các cao tăng ấn Độ đến truyền giáo trực tiếp và thời điểm đó có thể là xưa hơn thời điểm Phật giáo vào miền Nam Trung Hoa khá nhiều. Trung tâm Phật giáo quan trọng đó là Luy Lâu. Đó là nơi có nhiều đường thủy, đường bộ quan trọng của Việt Nam lúc bấy giờ. Với vị trí giao thông thuận lợi như vậy, đã khiến Luy Lâu trở thành trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa sầm uất. Luy Lâu trở thành nơi hội tụ các luồng văn hóa và rất thuận lợi cho việc truyền bá đạo Phật vào Việt Nam. Tuy nhiên, Phật giáo Luy Lâu không giống hoàn toàn với Phật giáo ấn Độ. Phật giáo Luy Lâu đã có nhiều biến đổi nhằm thích nghi với phong tục tập quán, cũng như điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam vào lúc bấy giờ. Trước hết, đó là sự kết hợp hai dòng tín ngưỡng: Tín ngưỡng bản địa và tín ngưỡng Phật giáo ấn Độ. Từ thế kỷ thứ VI, ảnh hưởng của Phật giáo Trung Quốc đối với Việt Nam dần dần chiếm ưu thế, trong khi đó ảnh hưởng của Phật giáo ấn Độ có xu hướng giảm dần. Trong đó, đáng chú ý là có một số dòng thiền Trung Quốc du nhập vào Việt Nam. Dòng thiền thứ nhất do Tỳ Ni Đa Lưu Chi - tổ thứ ba của phái Thiền tông Trung Quốc đã sang Việt Nam cuối thế kỷ VI (580), tu tại chùa Pháp Vân (Bắc Ninh), trở thành vị sư tổ của phái thiền mang tên ông ở Việt Nam. Dòng thiền này truyền được cả thảy 19 thế hệ. Pháp Hiền là người nối pháp của Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Người cuối cùng của dòng Thiền này là Thiền sư Y Sơn. Lưu Chi đã góp phần đào tạo nên các thế hệ nhà sư Việt Nam có quan niệm mới về đạo Phật cùng phương pháp tu tập cũng có khác trước. Đặc trưng nổi bật của dòng thiền này là quan niệm mới về tâm Phật là cái không có trong thực tế, khó hình dung trong tư duy, khó nắm bắt trong nhận thức, một cái gì đó gần với cảnh giới Niết bàn. Phật giáo đã vắng bóng thần linh. Phương pháp tu tập cũng có những nét mới như chủ trương nghiêng về tu tập thiền định làm cho trí tuệ bừng sáng để đạt đến cảnh giới giác ngộ. Năm 820, một phái Thiền khác do thiền sư Vô Ngôn Thông (Bất Ngữ Thông) truyền bá vào nước ta. Dòng Thiền này tồn tại và phát triển cho đến thời Trần. Tư tưởng chủ yếu của phái này là không dựa vào văn tự, thuyết giáo, gạt bỏ sự tu khổ hạnh lâu ngày v.v... theo truyền thống "Bất lập văn tự; Giáo ngoại biệt truyền; Trực chỉ nhân tâm; Kiến tính thành Phật" của Thiền tông Trung Quốc. Dưới thời kỳ Bắc thuộc, hai phái thiền Tì Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông cùng tồn tại và phát triển song song và về cơ bản vẫn là hai phái thiền riêng biệt, chưa chịu ảnh hưởng lẫn nhau như các thời kỳ sau này. Phái thiền thứ ba được truyền vào nước ta là Thảo Đường. Lý Thánh Tông là sư tổ thứ hai của phái thiền này. Đây là dòng thiền riêng của đời Lý và có ảnh hưởng lớn ở Việt Nam đến đầu thế kỷ XIII. Đến thời Lý (1010 - 1225) - Trần (1225 - 1400), Phật giáo Thiền Tông phát triển hưng thịnh, đạt đến đỉnh cao rực rỡ và trở thành quốc giáo, chiếm ưu thế trong đời sống tinh thần của người Việt Nam. Lý, Trần trong khoảng hai đời. Nhà nhà niệm Phật, người người tụng kinh. Sang đời Lê, vai trò tư tưởng Phật giáo dần suy giảm để nhường chỗ cho tư tưởng chiếm vị trí chủ đạo của Nho giáo. ở Việt Nam Phật giáo được truyền vào là Phật giáo Đại thừa với các tông phái như Thiền tông, Mật tông, Tịnh độ tông. Thiền tông quan niệm Phật tính là bình đẳng, có ở khắp mọi nơi và ai cũng có thể tu tập kiến tính thành Phật (Phật không chia Nam Bắc). Quan niệm này đã đem lại hy vọng giải thoát cho các tín đồ vốn là những con người đau khổ trong ách thống trị kìm kẹp nặng nề, hà khắc của chế độ phong kiến với hệ tư tưởng của Nho giáo. ở Việt Nam, cùng với Thiền tông, Tịnh độ tông, Mật tông cũng được truyền vào. Tông phái này sử dụng những phép tu huyền bí như thuật bùa phép, yểm huyệt, trấn tà, chữa bệnh cho con người… đã thỏa mãn phần nào nhu cầu tín ngưỡng, tâm lý con người, trong đó một bộ phận là quần chúng lao động nghèo khổ. Tịnh độ tông với chủ trương Adiđà, tôn thờ phật Quan Thế âm cùng với các nghi thức tương đối đơn giản như dâng hương, rước tượng Phật, niệm Phật ghi nhớ những điều Đức Phật dạy và những lời răn dạy sống từ, bi, hỷ, xả, nhân từ, độ lượng... để được lên cảnh giới Phật. Điều này tỏ ra thích hợp với nhu cầu tâm linh của đông đảo các tín đồ, vốn những người bình dân. Tịnh độ tông kết hợp với các tông phái Phật giáo khác, có sức lôi cuốn hấp dẫn đối với nhiều người dân Việt Nam. Do vậy mà nó tồn tại và phát triển trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc. Cuối thế kỷ XIV đầu XV Phật giáo bị hạn chế, suy yếu dần và đi vào dân gian. Nhiều người Việt Nam trong giới thượng lưu từ bỏ Phật giáo. Mặc dù vậy ở nông thôn, làng xã Phật giáo vẫn được duy trì tồn tại. Vì muốn đưa Nho giáo lên vị trí thống trị, triều đình Nhà Lê đã đề ra và thực hiện nhiều chính sách kiềm chế Phật giáo. Chẳng hạn, sư sãi trong chùa phải thi đỗ mới được làm tăng đạo, việc xây dựng chùa chiền bị hạn chế. Cuối 1461 vua Lê Thánh Tông ra lệnh cấm xây dựng thêm chùa quán, hay như việc tạc tượng đúc chuông mới phải xin phép chính quyền. Năm 1463, ông lại ra lệnh cấm những người Đạo thích trong nước ra vào trò chuyện trong hoàng cung v.v... Phật giáo cung đình không còn tồn tại, mà dần dần truyền bá vào dân gian. Dưới thời Nhà Mạc - thế kỷ XVI, Phật giáo lại hưng khởi, các chùa mới được mọc lên nhiều. Nhiều chùa cũ được xây dựng từ thời Lý - Trần được trùng tu to đẹp hơn. Thế kỷ XVIII, vua Quang Trung có quan tâm đến việc chấn hưng đạo Phật. Thời kỳ này Phật giáo được coi trọng, được triều đình quan tâm chú ý, thần dân tôn thờ. Vua xuống chiếu chỉnh đốn việc cất chùa, chọn lựa các tăng nhân có đạo đức, có học thức để trông coi chùa, song việc làm này ít thu được kết quả vì vua mất sớm. ở vùng đồng bằng sông Hồng làng nào cũng có chùa, làng lớn thì có đến hai ba chùa, các thương nhân Việt Nam tin vào Phật giáo hơn Nho giáo. ở đàng trong, Phật giáo cũng được phổ biến rộng rãi. Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX phong trào chấn hưng Phật giáo được dấy lên bắt đầu từ các đô thị miền Nam. Sở dĩ có tình trạng này là do sự giao lưu với văn hóa bên ngoài thúc đẩy. Các giáo hội Phật giáo miền Nam, Trung, Bắc ra đời và Phật giáo có ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống tinh thần con người Việt Nam. Số tín đồ Phật giáo đông đảo hơn cả so với các tôn giáo khác. Phật giáo đã gắn bó, gần gũi với người dân Việt Nam trong suốt hơn 20 thế kỷ qua; những triết lý nhân sinh sâu sắc của nó được coi như sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử hình thành nền văn hóa, đời sống của dân tộc. Phải khẳng định rằng, Phật giáo rất gần gũi thân thiết với nhiều người dân Việt Nam. Có thể thấy rằng, sự khác biệt của Nho giáo và Phật giáo trong quá trình ảnh hưởng đến đời sống tinh thần của con người Việt Nam là ở chỗ: Nho giáo (là ý thức hệ tư tưởng của giai cấp thống trị-giai cấp phong kiến Trung Quốc), là một học thuyết chính trị - xã hội - triết học, với hệ thống "tam cương", "ngũ thường". Nho giáo phải thông qua học vấn, qua giáo dục nhà trường, thông qua các thiết chế xã hội để đi vào đời sống của con người, chủ trương tổ chức và xây dựng một xã hội cụ thể. Còn Phật giáo thông qua sinh hoạt tôn giáo trong giới tăng ni, phật tử và trong cả những sinh hoạt gia đình của con người Việt Nam. Đó là: "Nhờ biết ứng dụng phương tiện một cách linh động toàn hảo, trải qua bao thăng trầm đổi thay của lịch sử, Phật giáo Việt Nam vẫn tồn tại sáng ngời với thời gian" [28, tr. 139]. 1.2.2. ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đến một số lĩnh vực trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam 1.2.2.1. ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đến đạo đức Hơn 20 thế kỷ qua Phật giáo đã cùng chung sống với dân tộc ta. Triết lý nhân sinh của Phật giáo đã thẩm thấu vào tinh thần dân tộc và có ảnh hưởng sâu sắc đến nhân sinh quan con người Việt Nam, góp phần đắc lực vào việc tạo nên nhân cách của nhiều người dân Việt Nam. Phật giáo đề cập rất nhiều đến thuyết nhân duyên, đến quan hệ nhân quả, nhìn sự vật từ kết quả để tìm nguyên nhân và từ kết quả này lại là nguyên nhân của quả khác trong mối liên hệ khác. Luân hồi nghiệp báo là giáo lý Phật giáo dựa trên luật nhân quả. Luật nhân quả của Phật giáo đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành phát triển nhân sinh quan và đạo đức trong nhân dân ta. Nho giáo có tư tưởng thiên mệnh. Theo Nho giáo, con người sinh ra phục tùng tuân theo quy luật tự nhiên như một định mệnh, chịu sự chi phối của lực lượng siêu nhiên là mệnh trời. Khổng Tử ví con người trong tự nhiên giống con cá bơi lội trong dòng nước, dù có ngược xuôi như thế nào cũng phải tuân theo sự trôi chảy của dòng nước. Tư tưởng Nho giáo cũng ảnh hưởng mạnh đến nhân sinh quan con người Việt Nam. Nếu hệ tư tưởng Nho giáo làm cho con người tin tuyệt đối vào số mệnh, con người tuân thủ một cách nghiêm ngặt định mệnh của mình, như thế không thôi thúc con người hành động vươn lên mà trông chờ, ỷ lại vào số phận… thì luật nhân quả cho con người thấy được bản thân ta phải tu tập. Mệnh trời trong tư tưởng Nho giáo đã kết hợp hài hòa với triết lý nhân quả. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du viết: "Cho hay muôn sự tại trời Phụ người chẳng bõ khi người phụ ta Những người bạc ác tinh ma Mình làm mình chịu kêu mà ai thương". Những câu thơ của Nguyễn Du cho thấy, triết lý ác giả ác báo của Phật giáo được đề cập vần xoay hại nhân nhân hại xưa nay lẽ thường ảnh hưởng thấm sâu vào nhân sinh quan con người Việt Nam. Tác phẩm của Nguyễn Du gián tiếp thể hiện triết lý nhân sinh, mang đậm màu sắc Phật giáo; cách thử nghiệm lý giải cuộc đời đau khổ cũng như phương pháp thoát khổ. Phật giáo nêu cao thiện tâm, bình đẳng cho mọi người như là những tiêu chuẩn đạo đức cơ bản của đời sống xã hội. Những quan niệm ở hiền gặp lành, gieo gió phải gặt bão, nhân nào quả đấy, cha mẹ hiền lành để đức cho con, bản chất từ hy hỷ xả trong triết lý nhân sinh Phật giáo thấm sâu vào đời sống tinh thần dân tộc hướng mọi tầng lớp nhân dân vào con đường thiện nghiệp tu dưỡng đạo đức vì dân vì nước. Có tác giả đã nhận xét: Cái sống đời đời trong đạo đức Phật giáo là từ bi và cứu khổ cứu nạn. Nó vượt thời gian, không gian, bởi vì nó nhằm bảo vệ, phát huy, duy trì nhân bản "làm điều lành", "hướng về điều lành" hoặc ít nhất "đừng làm ác", "đừng hướng về cái ác". Luật nhân quả theo Phật giáo đề cập đến dòng biến động, sinh diệt nối tiếp nhau, đã chỉ cho các tín đồ điều kiện để đạt đến đỉnh cao của trí tuệ, thì người tu hành phải có đức độ, lòng từ bi mà không ỷ lại hay tự ty với chính mình. Tư tưởng này là nguồn động lực thôi thúc con người hành động, vững tin vào cuộc sống. Luật nhân quả còn khẳng định khi chúng ta gieo nhân tức là đã gây nghiệp, gây nghiệp lành được quả lành, gây nghiệp dữ bị quả dữ. Vì vậy đã hướng con người vào việc thiện, xa lánh điều ác. Nếu chúng ta gạt bỏ yếu tố thần bí về kiếp người trong luật nhân quả, sẽ thấy được tinh thần nhân bản trong việc giáo dục con người sống lành mạnh, làm việc tốt, từ đó góp phần vào việc xây dựng xã hội yên lành và có nhân tính hơn. Ngoài ý nghĩa tích cực trong việc giáo dục và xây dựng một gia đình tốt, một xã hội yên bình, Phật giáo nhấn mạnh sự nỗ lực là yếu tố quyết định của mỗi con người trong quá trình tu tập đi đến giác ngộ. Giáo lý nhân quả của Phật giáo không ra lệnh cũng không trừng phạt, mà đưa con người về vị trí thực sự của họ, không tách khỏi ý thức trách nhiệm vai trò vị trí của mình trong gia đình và xã hội, không ngừng tự giáo dục theo các chuẩn mực đạo đức, đạt đến sự hoàn thiện của bản thân Triết lý về luật nhân quả của Phật giáo còn góp phần trong việc phòng ngừa ý định, hành vi phạm pháp luật của con người khi còn chưa bộc lộ. Con người, trước nguy cơ trở thành tội phạm, thì lương tâm thường hay cắn rứt, dày vò. Trong suy nghĩ ban đầu của họ luôn có sự đắn đo, đấu tranh tư tưởng... Do đó, nếu như họ sợ bị quả báo trừng phạt, quả báo có thể ứng ngay với bản thân mình thậm chí còn chịu hậu quả lâu dài về sau (đời cha ăn mặn đời con khát nước), thì họ sẽ ăn năn hối cải, từ đó có hành động tích cực để chuộc lỗi lầm cải tạo nghiệp. Phật dạy chỉ có chính ta mới là chủ nhân thực sự cuộc sống của ta, nên ta phải gắng sức rèn luyện để trở thành người tốt, mà không trông chờ ở một thế lực siêu tự nhiên nào ngoài bản thân mình. Đức Phật dạy rằng: "Hãy tự mình là ngọn đèn soi sáng cho mình, hãy tự tạo cho mình một chỗ nương tựa và đừng nương tựa vào ai khác ngoài bản thân mình" [25, tr. 22]. Phật giáo với một hệ thống triết lý sâu sắc ít mang tính siêu hình, mà trái lại có tính thực tiễn cao. Đó là con đường giúp con người thoát khổ (giải thoát). Phật giáo có ảnh hưởng tác động sâu sắc đến nền tảng đạo đức, sự hình thành nhân cách con người Việt Nam - bản sắc độc đáo ở mỗi con người. Hiện nay có những quan niệm khác nhau về nhân cách và trong cuộc sống đời thường có người quan niệm sai lầm đồng nhất nhân cách với đạo đức. Triết học Mác - Lênin quan niệm, nhân cách là khái niệm chỉ bản sắc độc đáo riêng biệt của mỗi cá nhân, là nội dung và tính chất bên trong mỗi cá nhân. Nhân cách là khái niệm chỉ sự khác biệt giữa các các nhân. Với nhân cách riêng, mỗi cá nhân có khả năng tự ý thức về mình, làm chủ cuộc sống của mình, tự lựa chọn chức năng, niềm vui, trách nhiệm hoạt động cụ thể trong xã hội. Trong đó, đạo đức là thành phần quan trọng nhất, là gốc của nhân cách. Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức là toàn bộ những quy tắc nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội. Truyền thống đạo đức của dân tộc ta chịu ảnh hưởng sâu sắc của đạo đức Phật giáo. Dân tộc Việt Nam từ khi được hình thành đến nay đã trải qua bao thăng trầm lịch sử, những thuận lợi cũng như khó khăn thử thách đã hun đúc làm nên tinh thần dân tộc bền vững. Trong đó tiêu biểu nhất là lòng yêu nước nồng nàn, là cốt lõi của nhân phẩm. Phật giáo vừa là một hệ thống triết học tôn giáo, vừa là một học thuyết có giá trị đạo đức rất cao, mà mục đích duy nhất của nó là cứu khổ độ sinh. Theo Đức Phật, một đời sống hạnh phúc là một đời sống có đạo đức. Ngay từ khi được du nhập vào nước ta, Phật giáo đã tham gia vào nền đạo đức dân tộc một cách hòa bình, thẩm thấu vào truyền thống yêu nước trong suốt chiều dài lịch sử truyền thống dân tộc. Đạo đức Phật giáo thâm nhập vào đạo đức dân tộc theo truyền thống vì nghĩa, vì nước. Điều này có thể coi là sự hóa thân của Phật giáo vào truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam. Trong lịch sử, đạo đức Phật giáo đã thích ứng với hoàn cảnh Việt Nam, biến thái từ một nền đạo đức tiêu cực, từ bi sang tinh thần dũng cảm, anh dũng đấu tranh vì dân vì nước. Trần Nhân Tông, vị Sư tổ khai sáng Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử - dòng thiền lớn nhất của Việt Nam thời Trần - ông là người đã có công trong việc đưa chính pháp vào đời sống đạo đức xã hội Việt Nam thời kỳ này. Nhân Tông là vị vua yêu nước, đã lãnh đạo toàn dân chiến thắng trong hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông 1285 - 1288, giữ vững độc lập chủ quyền dân tộc. Ông còn là vị vua có lòng nhân từ, thân dân nhất. Dưới thời Trần Nhân Tông, nước Đại Việt đã làm nên những kì tích trong lịch sử của mình. Suốt triều đại Lý - Trần, lý tưởng vô ngã, vị tha được xếp là chuẩn mực của nếp sống đạo đức Phật giáo, mà nhờ đó đã có ảnh hưởng sâu đậm tới đời sống đạo đức của nhân dân ta. Không phải chỉ khi Phật giáo trở thành quốc giáo mà ngay cả khi nó đã nhường chỗ cho Nho giáo (đầu thế kỷ XV), thì sự ảnh hưởng của nó đến đời sống đạo đức của nhân dân ta vẫn đậm nét. Ví như tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi rất gần gũi và tương đồng với đạo đức Phật giáo. Nhân sinh quan Phật giáo đã hòa đồng với các tôn giáo khác, cũng như tập quán tín ngưỡng truyền thống của dân tộc Việt Nam. Đạo lý từ - bi - hỉ - xả, bình đẳng, của Phật giáo đã ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống tinh thần người Việt, là một trong những yếu tố tham gia vào quá trình hình thành giá trị văn hóa dân tộc. Đạo đức xã hội coi trọng chữ tâm là gốc để tạo nên sức mạnh và là động lực cho sự phát triển xã hội. Tư tưởng, hành vi đạo đức Phật giáo phù hợp với truyền thống nhân đạo, thương người như thể thương thân của đạo lý người Việt Nam. Bầu ơi thương lấy bí cùng Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn. Trong gia đình, việc thờ cúng tổ tiên là truyền thống của con người Việt Nam. Truyền thống đó được cộng hưởng bởi đạo đức Phật giáo. Cho đến tận ngày nay, trong mỗi gia đình người Việt Nam, thậm chí ở cả nước ngoài, khi mở đầu bài khấn lễ gia tiên, hay trước khi tiến hành các thủ tục tế lế thì bao giờ cũng được mở đầu bằng câu "Nam mô a di đà phật". ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo đã trở thành một bộ phận hợp thành đạo đức của xã hội Việt Nam từ thuở xa xưa. Thời kỳ Lý - Trần, Phật giáo chiếm vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội, thì có thể nói, đạo đức Phật giáo gần như đồng nhất với đạo đức xã hội. Ngay cả khi Phật giáo lui vào dân gian thì ảnh hưởng của nó vẫn không hề mất đi. Nhiều giá trị đạo đức của Phật giáo nói riêng và tôn giáo nói chung có tính phổ quát. Chính vì vậy, khi đánh giá vai trò của tôn giáo, Kant - nhà triết học người Đức (1724-1804) - cho rằng, chức năng cơ bản của tôn giáo là chức năng đạo đức. Cũng như các tôn giáo khác, Phật giáo là niềm an ủi cho con người bằng một sự đền bù hư ảo, hay là đem lại sự thỏa mãn nhu cầu tâm linh một cách ảo tưởng, coi sự giải thoát khỏi thế giới trần tục làm cứu cánh cho cuộc đời đau khổ của mình. C. Mác đã từng nói: "Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của những trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân" [17, tr. 8]. V.I. Lênin coi: "Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân. Tôn giáo là thứ rượu tinh thần" [17, tr. 226]. Như vậy, C. Mác và Ph. Ăngghen xem tôn giáo như một thứ thuốc an thần ở đó quần chúng nhân dân tìm thấy sự an ủi, con đường giải thoát cho mình. Phật giáo đem đến cho con người sự thanh thản, niềm hy vọng vào một cuộc sống tốt đẹp ở cõi Niết bàn. Con người tin và theo đạo Phật và nhờ đó nhu cầu tâm linh của họ được an ủi, đền đáp. Nhưng Phật giáo là một tôn giáo bởi nó có nghi lễ, cúng lễ, cầu nguyện và khi gặp khó khăn được Phật tổ cứu giúp. Với người phật tử, Đức Phật hay Ông Bụt đều là hình tượng của sự sáng suốt, lòng nhân từ bao dung độ lượng luôn cứu vớt và ban phước lành cho con người. Mặt tích cực của nhân sinh quan Phật giáo nói chung và đạo đức Phật giáo bao gồm nhiều khía cạnh. Trước hết, nó góp phần củng cố đạo đức xã hội, tôn vinh những giá trị văn hóa dân tộc, khơi dậy tinh thần đoàn kết tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách góp phần tạo nên nhân cách con người Việt Nam. Tuy nhiên, sẽ là không đầy đủ nếu như chỉ nhấn mạnh những ảnh hưởng tích cực của sinh quan Phật giáo, mà không thấy ảnh hưởng tiêu cực của nó đối với đời sống tinh thần nói chung và đạo đức xã hội. Thuyết nhân quả của Phật giáo tạo cho mọi người tính nhẫn nhục, cam chịu bằng lòng với số phận của mình ở cuộc sống trần gian. Như vậy, vô hình chung đã tạo điều kiện thuận lợi để giai cấp thống trị lợi dụng ru ngủ nhân dân, loại bỏ ý thức vươn lên đấu tranh của họ, dẫn đến sự cai trị của chúng dễ dàng hơn. Mặt khác, trong thực tế chùa chiền trở thành nơi ẩn náu của một số người tỏ ra bất mãn trước cuộc sống, gặp khó khăn hay thất bại trong cuộc sống và chưa làm chủ được cuộc sống của chính mình, do vậy họ vào chùa nương nhờ cửa Phật, lẩn trốn thực tại. Là một tôn giáo có những yếu tố thần bí, Phật giáo đã làm con người dễ tin tưởng một cách mù quáng, mà không thấy cuộc sống của mình do mình làm chủ, không dựa vào tri thức, không dựa vào khoa học để chiến thắng khổ nạn, cố gắng tự vươn lên làm chủ mình trong mọi hoàn cảnh giành lấy hạnh phúc cho mình. Quan niệm đời là bể khổ, cuộc sống ở trần gian là tạm bợ, là sự chuẩn bị bắt đầu cho cuộc sống ở cõi Niết bàn. Điều này đã làm con người xa lánh cuộc đời, an phận thủ thường, thu mình trước mọi bất công, nảy sinh tâm trạng bi quan, yếm thế trước cuộc sống. Đó là điều không phù hợp và thậm chí là sự cản trở đối với sự tiến bộ của nhân loại, đặc biệt là trong điều kiện hiện nay. Con người sống ở thế giới thực tại, nhất là trong xã hội hiện đại, càng phải có niềm tin, lý tưởng, biết vươn lên vượt mọi khó khăn, thử thách làm chủ cuộc sống của mình cần thiết phải có thái độ lạc quan yêu đời, tin vào bản thân mình. Khi nghiên cứu ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đến đạo đức của con người Việt Nam hiện nay, chúng ta phải thấy được cả mặt tích cực cũng như tiêu cực. Mặt tích cực, góp phần hình thành nhân cách con người, làm cho họ có cuộc sống lành mạnh, trong sạch, giản dị, có tấm lòng nhân ái, khoan dung, yêu thương đồng loại, biết cảm thông, quan tâm đến nỗi khổ của người khác, cứu người trong lúc gặp khó khăn hoạn nạn v.v... mọi hành động ấy đều được bắt đầu từ tâm, từ tính tự giác. Những tư tưởng về đạo đức Phật giáo đã góp phần nâng cao và làm phong phú hơn những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc. Chúng hòa quyện vào nhau, tạo nên sức mạnh chiến thắng của dân tộc Việt Nam. Trên cơ sở phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của đạo đức truyền thống nói chung và của nhân sinh quan Phật giáo nói riêng, Đảng và Nhà nước ta đã phát động phong trào tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách, lá rách ít đùm lá rách nhiều trong quần chúng nhân dân. 1.2.2.2. ảnh hưởng của Phật giáo đến lối sống Lối sống của con người được hình thành trong quá trình con người tham gia vào các hoạt động, mà trước tiên là lao động sản xuất, hoạt động chính trị xã hội và các hoạt động khác v.v… Lối sống có nguồn gốc từ phương thức sản xuất. C.Mác đã viết: "Không nên nghiên cứu phương thức sản xuất ấy đơn thuần theo khía cạnh nó là sự tái sản xuất ra sự tồn tại thể xác của các cá nhân mà hơn thế nó đã là một hình thức hoạt động nhất định của sự biểu hiện đời sống của họ, một phương thức sống nhất định của họ" [20, tr. 269]. Như vậy, phương thức sản xuất, quy định quá trình tái sản xuất ra con người và đồng thời cũng quyết định đời sống của họ. Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định rằng, mỗi phương thức sản xuất tạo nên một cách sinh hoạt, cách sống tương ứng. Vì vậy, mỗi giai đoạn lịch sử của từng dân tộc, từng địa bàn dân cư, từng cá nhân có lối sống riêng, nghĩa là không có lối sống cho mọi thời đại, đặc biệt trong xã hội có giai cấp. Tuy nhiên, bản thân lối sống không phụ thuộc hoàn toàn vào phương thức sản xuất - tuy đây là yếu tố cơ bản có ý nghĩa quyết định. Sự phụ thuộc lối sống đối với phương thức sản xuất mang tính tương đối. Lối sống ngoài việc chịu sự quy định của kinh tế, còn chịu sự ảnh hưởng của văn hóa. Qua biểu hiện của lối sống, người ta có thể đánh giá trình độ văn hóa của một dân tộc, một cộng đồng xã hội. Trong cùng một phương thức sản xuất có những lối sống khác nhau hoặc có thể còn đối lập nhau. Như vậy, lối sống bao gồm tất cả mọi lĩnh vực hoạt động của con người. Trong một xã hội nhất định, lối sống được biểu hiện qua quan hệ của con người với tự nhiên, quan hệ giữa người với người trong lao động sản xuất, chính trị, tư tưởng văn hóa và trong ứng xử giao tiếp hàng ngày, "lối sống không phải là hoạt động mà là lối hoạt động; không phải là sự giải trí mà là lối giải trí; không phải là giao tiếp mà là lối giao tiếp" [44, tr.56]. Lối sống là cách thức sống của con người trong một chế độ xã hội nhất định được biểu hiện trên các lĩnh vực của đời sống như lao động sản xuất, hoạt động chính trị, hoạt động văn hóa tinh thần và hoạt động sinh hoạt hàng ngày. Lối sống của con người trong mỗi quốc gia, dân tộc được hình thành trên cơ sở của điều kiện tự nhiên, bao gồm vị trí địa lý, đất đai, khí hậu hệ động, thực vật, của các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa tư tưởng, truyền thống v.v… Theo quan điểm triết học Mác - Lênin, trong các yếu tố nói trên, thì điều kiện xã hội có ý nghĩa quyết định. Trong đó, phương thức sản xuất lại đóng vai trò quyết định đối với chính trị xã hội và văn hóa tư tưởng của mỗi quốc gia, dân tộc. Lối sống của con người Việt Nam có nhiều nét đặc thù. Về cơ bản, đời sống tinh thần của con người Việt Nam chịu ảnh hưởng rất nhiều của tư tưởng Tam giáo, trong đó có các vấn đề nhận thức luận, thế giới quan và đặc biệt là nhân sinh quan của Phật giáo. Việt Nam nằm ở vị trí giữa hai lục địa ấn Độ và Trung Quốc, nên đã chịu ảnh hưởng sâu sắc của cả hai nền văn hóa lâu đời vào bậc nhất thế giới đó, trong đó phải kể đến ảnh hưởng của Phật giáo. Ngay từ buổi đầu, Phật giáo Việt Nam đã có mầm mống hình thành các khuynh hướng khác nhau, trong đó khuynh hướng nổi trội là Phật giáo dân gian. Như đã trình bày ở trên, Phật giáo, đặc biệt nhân sinh quan của nó đã ảnh hưởng rất nhiều tới lối sống con người Việt Nam. Hệ thống chùa tháp - một bộ phận cấu thành giá trị vật chất và tinh thần của di sản văn hóa dân tộc. Chùa tháp được thiết kế xây dựng mang dáng vẻ thanh thoát, trầm mặc, đậm sắc thái riêng của phương Đông. Chùa là nơi thờ tự, là nơi cụ thể hóa hệ tư tưởng, tình cảm có từ lâu đời đã chi phối cách ăn ở, đối nhân xử thế của quần chúng nhân dân, cũng như chi phối phong tục tập quán truyền thống thói quen của con người Việt Nam. Chùa là nơi biểu hiện quan niệm từ - bi- hỷ - xả... gợi cho con người sự hướng thiện, hướng về những điều thanh cao trong cuộc sống. Mái chùa che chở hồn dân tộc. Nếp sống muôn đời của tổ tông. Đi chùa lễ Phật lâu nay đã trở thành nếp sống quen thuộc không thể thiếu trong đời sống tâm linh của rất nhiều người dân Việt Nam. Người Việt đến chùa với lòng thành kính cầu mong sự an bình, hạnh phúc cho cá nhân và cho người thân, kể cả cầu mong sự thanh thản cho người đã quá cố ở cõi vĩnh hằng mà không nặng về phần cúng lễ để xin sự phú quý giàu sang. Cuộc sống đạo hạnh của các vị chân tu luôn là những tấm gương, là niềm tin có vị trí vững chắc trong tâm hồn tình cảm của con người Việt Nam. Vì vậy, hiện nay nhiều gia đình Việt Nam ở Huế, người Khơme Nam Bộ vẫn gửi con em mình vào chùa để mong muốn nhận được sự giáo dục, rèn luyện cuộc sống đạo hạnh ngay từ khi còn nhỏ. Việc ăn chay niệm Phật vào các ngày mồng một, mười rằm... hàng tháng cũng là nếp sống của một bộ phận không nhỏ dân chúng, biểu hiện sự mộ đạo, do vậy được nhiều người hưởng ứng, đã có tác dụng làm nên chiều sâu trong tâm tưởng, tư duy của nhiều người dân Việt Nam. Trong lối sống của người Việt Nam, các phong tục tập quán chịu ảnh hưởng khá rõ của nhân sinh quan giáo lý Phật giáo. Cầu siêu, giải hạn cũng là nếp sống quen thuộc của một bộ phận không nhỏ dân cư, chẳng hạn, mỗi khi có người đau ốm hoặc gặp chuyện chẳng lành, thì gia đình họ thường mời nhà chùa tới tụng kinh cầu siêu, thậm chí trẻ em khó nuôi cũng làm lễ gửi nhà chùa (bán khoán) v.v... Những ngày lễ hội Phật Đản, lễ Vu Lan đã trở thành đại lễ của đông đảo quần chúng nhân dân. Đây cũng là dịp giáo dục con người phải biết sống tốt, sống đẹp cùng với tình yêu nước nồng nàn, lòng nhân ái bao dung đã là những giá trị truyền thống tốt đẹp của con người Việt Nam từ ngàn xưa. Trong "Bài hát về nhân ái", nhà chí sĩ Phan Bội Châu có viết: Có nhân ái mới ra nhân chủng Nếu bất nhân là giống chim muông. Đạo lý "Thương người như thể thương thân" của người Việt được biểu hiện qua hành động của từng cá nhân và lối sống của cộng đồng. Nhân sinh quan Phật giáo quan niệm cuộc đời chúng sinh tràn ngập trong khổ đau. Từ đó, đạo Phật (còn gọi là đạo từ bi) đòi hỏi một tình thương nhân loại đối với tất cả mọi người, phải giúp đỡ san sẻ, đùm bọc, không vụ lợi, không đợi chờ sự đền đáp và hoàn toàn mang tính tự nguyện. Nếp sống của con người Việt Nam nghiêng về nội tâm, hướng nội. Ngày nay, sau khi đã trải qua nhiều mất mát, hy sinh trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, người dân Việt Nam rất nhạy cảm trước mọi niềm vui nỗi buồn của mọi người, sẵn sàng chia sẻ, đồng cam cộng khổ với những người xung quanh. Dân gian ta có câu "hàng xóm láng giềng những khi tắt lửa tối đèn có nhau" có ý muốn nói tới sự đùm bọc, quan tâm chu đáo, chia sẻ lẫn nhau khi gặp khó khăn. Đây là một nghĩa cử cao đẹp của con người Việt Nam. Cái nghĩa cử ấy, ngoài yếu tố truyền thống, phải chăng cũng có ảnh hưởng từ giáo lý nhân sinh quan Phật giáo? Bởi vậy, trong việc giải quyết các mối quan hệ xã hội, người Việt Nam đề cao và lấy cái tâm làm gốc, thiên về tình cảm. Cho đến hiện nay, đối với nhiều gia đình người Việt Nam thì mười điều tâm niệm và mười bốn điều răn của Phật được xem là những giá trị đạo đức và được họ treo ở những nơi trang trọng nhất với ý muốn luôn nhắc nhở những thành viên trong gia đình phải sống theo những điều Đức Phật đã dạy. Điều răn thứ sáu trong mười bốn điều Phật dạy có ghi: "Tội lỗi lớn nhất của đời người là bất hiếu". Phật đã dạy các đệ tử rằng, cùng tột các điều thiện không gì bằng hiếu, cùng tột các điều ác không gì bằng bất hiếu. Ngay trong gia đình, Phật dạy mọi tín đồ phải có hiếu với ông bà cha mẹ: Phụng dưỡng cha mẹ khi cha mẹ già yếu; thay mặt cha mẹ thực hiện những việc cần thiết thuộc bổn phận của cha mẹ; duy trì bảo vệ làm vẻ vang cho truyền thống gia đình, giữ gìn tài sản của gia đình do cha mẹ tích lũy được; sau khi cha mẹ mất làm lễ thành phục theo đúng lễ, tổ chức an táng trọng thể [46, tr. 175]. Vợ chồng phải thủy chung, kính trọng và thông cảm lẫn nhau. Cha mẹ phải thương yêu con cái, "phải tránh cho con rơi vào ác đạo; dạy con cái làm những công việc hữu ích; đem lại cho con cái một sự giáo dục tốt đẹp; cưới vợ gả chồng cho con cái thành hôn với con em những gia đình lương hảo, đến một lúc thích hợp thì phân chia tài sản cho các con" [46, tr. 175]. Hàng xóm, bạn bè phải ân cần khoản đãi, rộng lượng vui vẻ giúp đỡ lẫn nhau... Đây cũng là những điều hết sức cần thiết đối với mỗi thành viên trong gia đình hiện đại. Những điều Phật dạy đã được thẩm thấu và được phát huy trong mỗi gia đình Việt Nam. Điều đó đã nói lên triết lý nhân sinh của Phật giáo đã có ảnh hưởng sâu rộng trong lối sống của con người Việt Nam, nó góp phần hình thành và duy trì nguyên tắc sống và hoạt động của người Việt. Còn trong quan hệ cộng đồng, con người Việt Nam lấy tâm làm gốc, đây là sự tự tâm, là thứ tình cảm trong sáng. Trong mười điều tâm niệm Phật đã dạy và được con người Việt Nam lĩnh hội: "Thi ân đừng cầu đền đáp vì cầu đền đáp là thi ân có mưu tính" [23, tr. 20]. Tình cảm này được con người Việt Nam coi trọng, là sự thể hiện của tấm lòng và đem bày tỏ với mọi người, đặt tình cảm lên trên hết, đây vốn là truyền thống trọng nghĩa của dân tộc ta. 1.2.2.3. ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đến văn hóa Giữa đạo đức, lối sống,văn hóa không có ranh giới rõ ràng, rành mạch, ví như sự khác nhau về lối sống là do sự khác biệt về văn hóa quy định, hay đạo đức là phần cơ bản trong giá trị của văn hóa truyền thống. Tuy nhiên, ngoài đạo đức, lối sống thì văn hóa còn có ngoại diên rộng: như văn học nghệ thuật, thị hiếu, thẩm mỹ... vì vậy tác giả luận văn xin đề cập những tiểu tiết chưa có dịp bàn đến trong những nội dung nói trên (đạo đức, lối sống). Từ khi được truyền bá vào Việt Nam, Phật giáo đã trải qua nhiều bước thăng trầm trong lịch sử, có lúc đạt tới đỉnh cao rực rỡ, cũng có lúc bị lãng quên. Mỗi bước phát triển của Phật giáo đều gắn bó chặt chẽ, hòa quyện với sự hình thành nền văn hóa Việt Nam (bao gồm: Tư tưởng, văn học nghệ thuật, kiến trúc, điêu khắc...). Trong thời kỳ đầu, ảnh hưởng của Phật giáo đối với văn hóa Việt Nam được biểu hiện chủ yếu thông qua việc chép kinh học Phật, sinh hoạt Phật giáo còn rất thô sơ, việc dịch kinh, làm chùa được thực hiện vào khoảng thế kỷ thứ II. Nguyễn Lang đã viết: "Đạo Phật thấm vào văn minh Giao Châu tự nhiên và dễ dàng như nước thấm vào lòng đất" [19, tr. 48]. Đến thế kỷ thứ X - XV, con người Việt Nam trong quá trình lao động sản xuất đảm bảo đời sống của mình vừa tạo ra những cái đáp ứng nhu cầu tất yếu đầu tiên như ăn, mặc, ở... đồng thời còn thỏa mãn sự tưởng tượng hư ảo bằng việc xây dựng các đền chùa để thờ Phật, thờ Thần. Trong kiến trúc truyền thống Việt Nam, chùa tháp là một trong những công trình kiến trúc có giá trị văn hóa, truyền thống khá đậm nét nhằm thỏa mãn nhu cầu tôn giáo. Phật giáo, trong đó triết lý nhà Phật là yếu tố chủ đạo của kiến trúc chùa tháp Việt Nam. Dưới đời Trần chùa được mọc lên ở khắp mọi nơi, các tín đồ Phật giáo cũng tăng lên rất nhanh và nhiều. Làng lớn có đến 10 chùa, làng nhỏ cũng khoảng 5-6 chùa. Số tăng sĩ ít nhất cũng khoảng 30.000 vị. Dưới triều Nguyễn, chùa được xây dựng nhiều, trong đó có nhiều chùa nổi tiếng như chùa Thiên Mụ, chùa Tháp v.v... Chùa không chỉ là nơi quy tụ tín ngưỡng mà còn là địa điểm sinh hoạt văn hóa, biểu diễn văn nghệ, vui chơi hội hè, diễn xướng của người dân, là môi trường nuôi dưỡng cho sự khéo léo của bàn tay khối óc con người. Phật giáo không chỉ dừng lại ở tầng lớp trên mà đã thâm nhập vào tầng lớp bình dân ở khắp miền đất nước. Phật giáo không gò ép con người vào trật tự chính trị xã hội, cũng không biện hộ cho ngoại xâm. Nó nêu cao lòng từ bi, giáo dục lòng thương yêu mọi người, đặc biệt là những người nghèo khổ. Phật giáo đi vào lòng người dân Việt Nam và được cải biến cho phù hợp với tín ngưỡng truyền thống của nhân dân Việt Nam. Ông Bụt tượng trưng cho đấng tối cao luôn hiểu thấu mọi chuyện trên đời, luôn thân thiện gần gũi với mọi người ngay cả những em bé. Bụt luôn xuất hiện kịp thời, giúp đỡ những người tốt bị điều oan ức, Bụt rất nhân từ và thương người. Thời Lý - Trần với sự phát triển cường thịnh của Phật giáo Việt Nam, số lượng chùa chiền và tăng lữ đông hơn hẳn các thời khác. Thời Lý, các Thiền sư có công giúp vua về mọi mặt như chính trị, quân sự, ngoại giao. Sư Khuông Việt và sư Pháp Thuận được nhà Vua cho tiếp xứ Trung Quốc, sư Vạn Hạnh được Vua Lê Đại Hành hỏi ý kiến trước khi xuất đánh quân Tống v.v... Giai đoạn này các nhà sư là lực lượng tri thức của xã hội, họ là lực lượng đông đảo sống gần gũi với quần chúng nhân dân, thông cảm và hiểu được mọi khổ đau của người dân đang bị chính sách độ hộ hà khắc thống trị bóc lột. Các Thiền sư không có ý muốn tranh ngôi vua, không dành quyền bính cũng như địa vị ngoài đời; họ được vua tin tưởng, coi trọng, yêu mến; họ chỉ tâm niệm có một điều là giúp vua. Họ đã cộng tác, liên kết với vua để hy vọng có thể đem lại hạnh phúc cho dân chúng, giúp họ thoát khỏi cảnh sống khổ cực. Bên cạnh đó các ông vua rất cần sức học tập của các Thiền sư. Như vậy có thể thấy, Phật giáo có ảnh hưởng sâu rộng trực tiếp đến chính trị của đất nước ta. Thời kỳ này, nhiều vị vua, quan là những tín đồ Phật giáo có tư tưởng triết lý về cuộc sống nhập thế, nhưng không tách khỏi tư tưởng dân tộc. Có nhà vua rất mộ Phật như Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông cuối đời đã vào chùa tu Phật. Phật giáo được xem là yếu tố không thể thiếu trong cấu trúc văn hóa dân tộc, góp phần tạo nên nét bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam. Ta có thể thấy chí hướng xây dựng nền văn hóa Việt Nam độc lập của các Thiền sư rất rõ rệt. Trên phương diện địa lý, các Thiền sư muốn dời kinh đô tới một nơi có thể dựng nên sự nghiệp độc lập lâu dài. ở phương diện học thuật, họ có công rất lớn trong việc đào tạo tầng lớp trí thức, không có chấp vào thuyết trung quân, biết dung hợp các ý thức hệ dị biệt như Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo. ở phương diện văn hóa, họ đã tạo nên cả một triều đại lấy đức từ bi làm yếu tố căn bản cho chính trị. Còn trên phương diện văn học, họ lại là những người đóng góp vào lĩnh vực sáng tác nhiều nhất, những sáng tác này đều mang chủ đề Phật giáo. Các Thiền sư đều đã để lại cho đời sau những tác phẩm có giá trị nhiều mặt... Trong đó phải kể đến các tác phẩm như: "Khóa hư lục" của Trần Thái Tông; "Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục…" của Tuệ Trung Thượng Sĩ - đó là những tác phẩm rất có giá trị về mặt triết lý. Đặc biệt, các nhà sư còn là thầy dạy văn hóa một thời. Các Thiền sư đã mở trường dạy học cho cả tăng sĩ và tu sĩ. Sư Vạn Hạnh đã đào tạo Lý Công Uẩn tại chùa Lục Tổ. Trí Thiền sư trên núi cao đã đào tạo Tô Hiến Thành và Ngô Hoài Nghĩa... Về mỹ thuật, thời Lý cũng mang đậm dấu tích của Phật giáo. Lý Thái Tổ lên ngôi năm 1010 đã cho xây 8 ngôi chùa ở quê nhà, 300 ngôi chùa khác trong nước cũng được dựng lên, các chùa hư nát thì đều được sửa lại; năm 1024, ông cho xây dựng thêm chùa Trấn Giáo. Năm 1036, vua Lý Thái Tông tổ chức việc đúc tượng Phật Đại Nguyện; năm 1049, xây dựng chùa Một Cột; Năm 1056, Lý Thánh Tông khởi công xây dựng chùa Sùng Khánh Báo Thiên và phát 12.000 cân đồng để đúc chuông; năm 1058 Lý Nhân Tông dựng chùa Lam Sơn và xây Tháp đá tại huyện Quế Dương… Thời vua Trần Nhân Tông là thời kỳ hưng thịnh của Phật giáo. Phật giáo Trúc Lâm là một nền Phật giáo độc lập, uy tín và tinh thần của nó là uy tín và tinh thần của quốc gia Đại Việt. Tuy nó tiếp nhận ảnh hưởng của Phật giáo Trung Hoa nhưng có nét độc đáo riêng của mình, là một giáo hội Việt Nam phục vụ cho người dân Việt Nam, duy trì cũng như bồi đắp cá tính con người Việt Nam. Đặc điểm nổi bật của Phật giáo Trúc Lâm là vấn đề nhập thế. Đạo Phật phục vụ đời sống tâm linh giải thoát và đời sống xã hội, triết lý về đời sống nhập thế của các Thiền sư là không thoát lý khỏi tư tưởng dân tộc. Tuy là một tín đồ Phật giáo, nhưng Trần Thái Tông không quên trách nhiệm của mình. Ông đã viện dẫn lời của Quốc sư để nói lên điều đó: "Phàm đã làm vua trong thiên hạ phải lấy ý muốn của thiên hạ là ý muốn của mình, phải lấy tấm lòng của thiên hạ làm tấm lòng của mình" [34, tr. 212]. Nhiều vị cao tăng thời Lý - Trần đã tham gia chính sự và các hoạt động xã hội, rất nhiều vị vua, quan, tướng lĩnh là các tín đồ Phật giáo hết lòng nâng đỡ Phật giáo. Với tư tưởng triết lý nhập thế, Phật giáo, đặc biệt là Phật giáo thời Trần, đã có nhiều đóng góp vào công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc và ảnh hưởng sâu đậm đến văn hóa dân tộc. Văn hóa đời Trần đã có những đóng góp hết sức lớn lao của đạo Phật, mang đậm màu sắc của triết lý Phật giáo với ưu điểm nổi bật là tinh thần khoan dung, con người được giải thoát có cuộc sống thoải mái, tự do không phải tuân thủ nghiêm ngặt những giới luật của nhà chùa: "Cư trần lạc đạo hãy tùy duyên. Hễ đói thì ăn mệt ngủ liền, Châu báu đầy nhà đừng chạy kiếm, Vô tâm đối cảnh hỏi chi thiền?" [19, tr. 349]. Triều đình đã nhiều lần tổ chức các khoa thi để chọn người hiền tài. Người tài xuất hiện nhiều được triều đình đãi ngộ. Phong trào học tập các kinh điển của cả Nho, Phật và Lão phát triển sâu rộng. Đặc biệt chữ Nôm xuất hiện đã góp phần tô đậm thêm bản sắc văn hóa Việt Nam. Văn hóa đời Trần là nền văn hóa độc lập mà cốt tủy là tư tưởng triết học Phật giáo trong đó có triết lý về nhân sinh. Đến đời Lê, Phật giáo không còn đóng vai trò là quốc giáo. Hoạt động chủ yếu của các tín đồ Phật giáo chủ yếu là việc tu hành nhằm thoát khỏi cuộc sống trần thế và Phật giáo chuyển dần vào dân gian, gắn bó với làng xóm cộng đồng. Nho giáo bước lên chiếm lĩnh vũ đài chính trị, trở thành hệ tư tưởng chủ đạo trong đời sống tinh thần người Việt Nam. Sau thế kỷ XV, chế độ phong kiến Việt Nam bước vào thời kỳ suy tàn. Nhiều giá trị Nho giáo bị đảo lộn, do đó các tập đoàn phong kiến muốn dựa vào Phật giáo để ru ngủ quần chúng nhân dân đồng thời giảm bớt sự phẫn nộ của họ... Nhờ vậy Phật giáo dần được khôi phục trở lại. Tuy là tư tưởng Phật giáo có nhiều tính chất thần bí, song những triết lý nhân sinh của Phật giáo vẫn là chỗ dựa tinh thần của nhiều người dân Việt Nam. Triều đình nhà Nguyễn góp phần quan trọng trong sự phát triển lâu dài của Phật giáo Việt Nam, duy trì nền văn hóa mang màu sắc Phật giáo của dân tộc. Tư tưởng nhân sinh Phật giáo là gốc, yếu tố căn bản của văn hóa Việt Nam, nó đã có công lao đáng kể trong việc tạo dựng một nền văn hóa phong phú đậm đà bản sắc dân tộc, định hình, hướng dẫn sự hình thành nếp sống, lối tư duy của người dân Việt Nam. Tóm lại, từ khi du nhập vào Việt Nam, theo suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, Phật giáo luôn có mặt và gắn bó mật thiết với đời sống tinh thần của người dân Việt Nam biểu hiện trên một số lĩnh vực như: đạo đức, lối sống, văn hóa..., trong đó ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đạo đức có phần nổi trội hơn. Phật giáo đã được người Việt tiếp nhận một cách dễ dàng tự nhiên, vì có nhiều điểm tương đồng. Phật giáo từ cái ngoại lai trở thành cái bản địa, từ xa lạ trở thành thân thuộc với mọi người. Có thể nói, chính truyền thống sẵn có của dân tộc đã dễ dàng hòa quyện với giáo lý nhà Phật, tạo nên một chủ nghĩa tích cực mang màu sắc Việt Nam, một nhân tố bền vững trong nhân sinh quan Việt Nam. Chương 2 Sự biến đổi của những ảnh hưởng nhân sinh quan phật giáo ở Việt Nam hiện nay- xu hướng và giải pháp 2.1. Những nhân tố tác động đến sự biến đổi của ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo ở nước ta hiện nay 2.1.1. Nhân tố kinh tế Là một trong những bộ phận hợp thành kiến trúc thượng tầng của xã hội, với tư cách là một tôn giáo, Phật giáo chịu sự quy định của tồn tại xã hội (trước hết là các quan hệ kinh tế). Điều này đúng như C.Mác đã nói: Mỗi lần xã hội có biến đổi to lớn thì quan điểm và quan niệm của con người lại biến đổi theo, có nghĩa là quan niệm của tôn giáo cũng biến đổi. Còn Ph.Ăngghen cũng đã viết trong tác phẩm "Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức" như sau: "Chỉ có thể nói đến những bước ngoặt lịch sử lớn có kèm theo những sự thay đổi về tôn giáo" [30, tr. 260]. Từ đó dẫn đến sự ảnh hưởng của nó trong đời sống tinh thần con người Việt Nam cũng biến đổi. ở Việt Nam trước đây, trong thời kỳ chiến tranh, cơ chế kinh tế tập trung quan liêu bao cấp đã phát huy tác dụng, nhưng khi đất nước đi vào xây dựng kinh tế - xã hội trong thời kỳ hòa bình thì cơ chế ấy tỏ ra lạc hậu không còn phù hợp nữa. Trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp không phát huy được khả năng sáng tạo của con người trong lao động sản xuất, mọi người làm ăn cầm chừng, dẫn đến tình trạng nền kinh tế nước ta nhiều năm dậm chân tại chỗ, không phát triển được. Thêm vào đó là sự sai lầm trong quản lý kinh tế - xã hội của nước ta cộng với sự khủng hoảng của mô hình chủ nghĩa xã hội, đế quốc Mỹ bao vây cấm vận, cũng như khó khăn do thiên tai v.v... đã làm cho đời sống kinh tế - xã hội gặp nhiều khó khăn. Để khắc phục tình hình, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đã tiến hành công cuộc đổi mới trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc đổi mới của nhân dân ta đã từng bước thu được những thành tựu rất quan trọng và vững chắc trên tất cả các mặt của đời sống xã hội, trước hết là lĩnh vực kinh tế. Đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần của Đảng đã chỉ rõ, các thành phần kinh tế phải tuân theo pháp luật và là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, không cô lập cùng tồn tại trong một nền kinh tế quốc dân. Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nên càng phải quan tâm đến tính chất của sự tăng trưởng, gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc với việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ cải thiện môi trường, khuyến khích làm giàu hợp pháp, đi đôi với xóa đói giảm nghèo, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Sự phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa là quy luật để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh; thực hiện nhất quán việc phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đã khai thác, phát huy được mọi tiềm năng, sức mạnh của các thành phần kinh tế nhằm phát triển kinh tế đất nước, như Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 6 khóa VI (tháng 3/1989) khẳng định: "Phát triển kinh tế nhiều thành phần có kế hoạch, có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đến sản xuất lớn, xã hội chủ nghĩa" [8, tr. 57] - đó là sự thể hiện bước phát triển mới trong tư duy kinh tế của Đảng. Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng là nhằm phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Điều đó đã được thể hiện nhất quán trong đường lối phát triển kinh tế tại các kỳ Đại hội của Đảng khóa VII, VIII và IX. Trên đất nước ta hiện nay, sự đổi mới về kinh tế đã làm biến đổi bộ mặt xã hội, sự nghiệp đổi mới đã làm thay đổi sâu sắc và toàn diện đời sống xã hội, trong đó nét nổi bật là sự phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Cùng với sự đổi mới đi lên của đất nước, sự phát triển Phật giáo cũng có nhiều nét mới so với trước thời kỳ đổi mới, số lượng chùa chiền và tín đồ Phật giáo tăng lên nhanh chóng. Sự phát triển nhanh chóng của Phật giáo hiện nay đã đặt ra nhiều vấn đề phải quan tâm giải quyết. Lý do hướng tới đạo Phật của nhiều người không giống nhau. Chẳng hạn, do hiểu biết không đầy đủ giáo lý của nhà Phật cho nên nhiều người đi chùa và sa đà vào việc lễ bái, mê tín dị đoan; thậm chí đã có rất nhiều người đã trở thành nô lệ của việc tướng số, cúng bái, tiêu phí nhiều thời gian và tiền bạc, ảnh hưởng đến hoạt động lao động sản xuất và đời sống của cá nhân và xã hội. Bên cạnh những thành tựu, những mặt tích cực do đổi mới đem lại thì cũng xuất hiện nhiều biểu hiện tiêu cực như tham nhũng, hối lộ, thói quen tiêu dùng, tệ nạn xã hội, ô nhiễm môi trường v.v... phát triển. Do tác động của cơ chế thị trường, những người dân buôn bán ở thành thị thích nghi nhanh chóng hơn cả, họ chấp nhận sự cạnh tranh, cuộc sống có nhiều rủi ro. Trong cơ chế mới, rất nhiều người nhanh chóng thích nghi, vươn lên tự khẳng định mình; tuy nhiên, cũng có bộ phận nhân dân chưa bắt nhịp và thích ứng với điều kiện mới. Nhiều người trong số họ cảm thấy hoang mang, không tự tin vào chính bản thân, do vậy họ hướng tới Phật giáo, mong tìm thấy chỗ dựa về mặt tinh thần. Vì sao hiện nay khi kinh tế - xã hội của đất nước đang trên đà phát triển thì số người tham gia các hoạt động tôn giáo tín ngưỡng nói chung và Phật giáo nói riêng lại có xu hướng ngày càng gia tăng? Phải chăng là do tác động mặt trái của kinh tế thị trường, như đã đề cập ở trên, là một trong những nguyên nhân của tình trạng đó? Cuộc sống sôi động của kinh tế thị trường có mặt trái của nó, một trong số đó là sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội ngày càng phát triển. Chính ảnh hưởng của sự phân hóa ấy đã hình thành và phát triển niềm tin tôn giáo ở một bộ phận không nhỏ của các tầng lớp dân cư. Tuy nhiên, cơ chế thị trường khiến người giàu trong phút chốc có thể trắng tay, nhưng cũng làm cho không ít người trở nên giàu có một cách nhanh chóng. Tình trạng này đã thúc đẩy không ít người tìm đến sự đền bù hư ảo của tôn giáo, tín ngưỡng, trong đó có Phật giáo. Những người giàu có thì luôn mong muốn giàu hơn nữa, kéo dài sự giàu sang đó mãi mãi. Khi cuộc sống đầy đủ về mặt vật chất những con người này tìm đến tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng để mong muốn duy trì cuộc sống, kéo dài cuộc sống "mến yêu" ấy. Họ đến chùa xin Phật, Thần, Thánh cứu giúp phù hộ cho cuộc sống được đầy đủ an nhàn ở thế giới hiện thực. Còn khi phải ra đi sang thế giới bên kia họ cầu mong được vào nơi mát mẻ an lạc... Những người giàu có đã vậy, còn những người nghèo thì sao? Họ luôn tâm niệm mong sao có cuộc sống được đầy đủ bằng người; họ cầu mong Đức Phật ra tay cứu giúp, vì vậy họ luôn tin theo tôn giáo, Phật giáo, tin vào các đấng cứu thế. Điều này có thể giải thích được hiện tượng trong xã hội ta hiện nay ngày càng có nhiều người đến với Phật giáo, họ tham gia hoạt động Phật giáo không còn thuần túy chỉ là giác ngộ thành Phật. Nhiều người đến chùa lễ Phật để cầu may, giải hạn, tìm đến những nơi thờ tự để xin thẻ, xem tử vi, thậm chí còn tham gia, tổ chức hoạt động đồng bóng hay khấn bái cầu mong Phật che chở cho hành vi sai trái, phi pháp của mình được trót lọt, trúng quả. Họ ngộ nhận Phật là ông Thần, chỉ năng cầu xin và lễ bái là được Phật ủng hộ che chở (tiền xuất Phật biết), hoặc quan niệm có thờ có thiêng, có kiêng có lành. Xét về mặt kinh tế, ta thấy những người này đóng góp nguồn kinh phí không nhỏ để thực hiện việc tu bổ sửa chữa chùa trong những năm gần đây. Từ những quan niệm, cách hiểu và cách làm của một số người như trên đã nêu làm cho kinh tế thị trường đã ùa vào chân của Phật tổ. Có nhà sư đã kiếm chọn những chùa to ở những trung tâm buôn bán lớn, trọng phong bì hơn là hương, hoa; chùa chiền cũng bị ảnh hưởng bởi cuộc sống trần tục. Chính ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế - xã hội và mặt trái của kinh tế thị trường, sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu đã làm cho không ít người đến với tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng để tìm chỗ dựa về mặt tinh thần, tâm linh. Sau hơn 17 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta giành được những thành tựu rất cơ bản và quan trọng. Lực lượng sản xuất không ngừng được phát triển, quan hệ sản xuất càng được củng cố, đời sống nhân dân đang từng bước được cải thiện, bộ mặt của đất nước ngày càng biến đổi theo hướng hiện đại văn minh v.v... Tuy nhiên, hiện nay đất nước ta đang đứng trước cả cơ hội và thách thức lớn. Nguy cơ tụt hậu về kinh tế vẫn thường trực, Việt Nam vẫn nằm trong nhóm những nước nghèo trên thế giới với hơn 70% lực lượng lao động nông nghiệp, nền kinh tế tiểu nông vẫn tồn tại cơ bản trong kinh tế nước ta hiện nay, kinh tế nông nghiệp chủ yếu vẫn còn phù hợp với mô hình gia đình truyền thống. Môi trường xã hội có ảnh hưởng quyết định đến việc hình thành niềm tin tôn giáo của con người. Gia đình truyền thống Việt Nam gắn liền ảnh hưởng giáo lý Phật giáo với quan niệm, phong tục tập quán, lễ hội đền chùa kết hợp với tôn giáo của các thế hệ trước trong gia đình hình thành các thế hệ con cháu sau này của người Việt Nam đến với Phật giáo một cách tự nhiên; ngày mồng một, ngày rằm chùa nào cũng đông chật người; hầu như trong gia đình nào cũng có bàn thờ đầy ắp hương hoa; thậm chí ngay ở nơi làm việc của nhiều công sở hay trên các phương tiện giao thông như tàu, thuyền, ô tô v.v.. cũng có bát hương. Nền kinh tế thị trường đã và đang được xác lập trên đất nước ta, sự tác động của nó đã dẫn nhiều người tìm đến Phật giáo bằng những con đường khác nhau. Thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần đã làm cho kinh tế nước ta phát triển, nâng cao đời sống cho nhân dân, kinh tế thị trường đã thức tỉnh tư duy kinh tế của từng người dân và toàn xã hội, làm thay đổi tồn tại xã hội. Điều này góp phần làm giảm bớt niềm tin hư ảo của con người vào Phật giáo, nhiều người đã nhận thấy cuộc sống của họ trên trần thế do chính bản thân họ quyết định, làm chủ, nhiều tín đồ tạm thời không sống đời sống tôn giáo để kiếm tiền, làm các công việc đời thường, hướng đến đời sống thế tục, nhiệt tình với lợi ích thế tục, làm cho lối sống của các tín đồ, phật tử cũng biến đổi nhiều. Cũng có thể lý giải rằng, khi cuộc sống được cải thiện thì nhu cầu tâm linh ngày càng cao hơn, đây là đòi hỏi bản tính của con người cần có niềm tin, thỏa mãn đời sống văn hóa tinh thần. Điều đó chứng tỏ ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo cũng có sự thay đổi rõ rệt. Nhưng sự may rủi trong kinh tế thị trường cũng có khi làm tăng niềm tin hư ảo, kinh tế thị trường lại có mặt trái của nó đó là quy luật cạnh tranh, đi liền sau đó là những toan tính, thủ đoạn, mưu mô. Trong cơ chế thị trường có nhiều người đã giàu lên một cách nhanh chóng do họ chớp được thời cơ, nhưng cũng đưa không ít người đến chỗ phá sản... sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội ngày càng rõ rệt, dẫn đến sự khác biệt cơ bản về mức sống, tiện nghi sinh hoạt, mức hưởng thụ văn hóa cũng như nâng cao đời sống tinh thần. Từ sự phân hóa giàu nghèo tất yếu dẫn đến sự phân tầng trong xã hội. Vấn đề giải quyết công ăn việc làm trong cơ chế thị trường hiện nay cũng là vấn đề cấp bách ở xã hội ta. Đến năm 2010 nước ta có khoảng 56,8 triệu người ở độ tuổi lao động, tăng gần 11 triệu người so với năm 2000. Để có thể giải quyết vấn đề việc làm, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách và biện pháp tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho tất cả các thành phần kinh tế, đầu tư phát triển rộng rãi các cơ sở sản xuất, kinh doanh… khôi phục các làng nghề, mở rộng thị trường lao động trong nước, đẩy nhanh xuất khẩu lao động có tổ chức và hiệu quả. Hiện nay, tình trạng thiếu việc làm dẫn tới sự khó khăn bế tắc trong cuộc sống của con người, từ đó cũng làm cho họ đến với tôn giáo bằng thái độ bi quan, tiêu cực, đặt các vấn đề của hiện thực xã hội đằng sau các vấn đề ảo tưởng trần thế. Nền kinh tế thị trường là một trong những nguyên nhân quan trọng làm nảy sinh các hiện tượng hạn chế, tiêu cực của các hoạt động tín ngưỡng và tôn giáo. Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy những biểu hiện đó qua sinh hoạt Phật giáo. Nhiều người lấy việc đi tu là một nghề kiếm sống, có nhiều biểu hiện vụ lợi. Trong xã hội, một số gia đình có nhiều người đi tu, cũng có trường hợp đi tu vài năm rồi đưa cả người thân đến sinh sống ở chùa, hoặc có ý định đi tu một thời gian để kiếm chút vốn liếng để sau này hoàn tục làm ăn sinh sống v.v… Đó cũng là một trong những lý do khiến số lượng người đi đến chùa ngày càng gia tăng. Tuy nhiên cũng phải thấy rằng, chính những động cơ tu hành không đúng đắn của những người nói trên đã làm ảnh hưởng đến những người tín đồ chân chính, đến những vị chân tu, làm giảm uy tín của Phật giáo. Như vậy, qua sự phân tích trên đây cho ta thấy rõ sự biến đổi của ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo Việt Nam hiện nay có những nguyên nhân, mà đầu tiên là do sự phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa Cùng với nguyên nhân này còn có thể chỉ ra nguyên nhân khác đó là sự giao lưu văn hóa giữa các nước trên thế giới. 2.1.2. Sự giao lưu văn hóa với các nước trên thế giới Trong xã hội ta hiện nay, nhu cầu hưởng thụ văn hóa (tức nhu cầu đời sống tinh thần) là rất phong phú. Con người Việt Nam từ ngàn xưa vốn có truyền thống trong bầu không khí của các tín ngưỡng dân gian. Để nhanh chóng thích ghi với truyền thống đó, từ khi du nhập vào Việt Nam Phật giáo đã kết hợp với tín ngưỡng bản địa để tìm chỗ đứng cho mình trở thành nét độc đáo đặc sắc của văn hóa dân tộc. Văn hóa Phật giáo đã thẩm thấu vào văn hoá dân tộc. Với xu thế toàn cầu hóa hiện nay trên thế giới, bên cạnh việc phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường thì trên lĩnh vực văn hóa cũng đặt ra nhiều nhiệm vụ quan trọng phải giải quyết. Đảng và Nhà nước ta chủ trương tăng cường mở rộng giao lưu văn hóa với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định: "Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là động lực, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội… Tiếp thu tinh hoa và góp phần làm phong phú nền văn hóa nhân loại" [6, tr. 114- 115]. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội. Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn bó mật thiết với văn hóa tiến bộ của nhân loại, làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp cách mạng lâu dài của toàn Đảng toàn dân. Nhiệm vụ bao quát của sự nghiệp văn hóa là phát huy chủ nghĩa yêu nước, ý thức độc lập, tự chủ, tự cường, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, xây dựng xã hội chủ nghĩa. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, sự giao lưu văn hóa với các nước trên thế giới đã làm cho quần chúng nhân dân có điều kiện tiếp nhận cái mới, cái hiện đại của nhân loại. Trên thực tế ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo bị hạn chế, có sự biến đổi. Nếu trước đây quan niệm nhân sinh quan Phật giáo

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Phát huy những ảnh hưởng tích cực, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam.pdf
Tài liệu liên quan