Luận văn Pháp luật chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu và cơ chế thực thi tại Việt Nam

Tài liệu Luận văn Pháp luật chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu và cơ chế thực thi tại Việt Nam: Luận văn Pháp luật chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu và cơ chế thực thi tại Việt Nam 1 LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu Khi cạnh tranh trong thương mại trở thành vấn đề toàn cầu thì pháp luật điều tiết cạnh tranh cũng không còn là vấn đề nội bộ của các quốc gia. Vì thế, các chế định về phòng vệ thương mại đã trở thành nội dung quan trọng trong khuôn khổ pháp luật về thương mại quốc tế của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Trong đó, chế định pháp luật về chống bán phá giá luôn có vị trí quan trọng và được các nước áp dụng khá phổ biến để bảo vệ các ngành sản xuất trong nước trước áp lực cạnh tranh từ hàng hóa nhập khẩu bán phá giá. Tại Việt Nam, pháp luật về chống bán phá giá đã có những bước phát triển nhất định với việc ban hành Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam năm 2004. Lần đầu tiên các quy định về bán phá giá và chống bán phá giá được ghi nhận trong một văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao là Pháp l...

pdf215 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1130 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Pháp luật chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu và cơ chế thực thi tại Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn Pháp luật chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu và cơ chế thực thi tại Việt Nam 1 LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu Khi cạnh tranh trong thương mại trở thành vấn đề toàn cầu thì pháp luật điều tiết cạnh tranh cũng không còn là vấn đề nội bộ của các quốc gia. Vì thế, các chế định về phòng vệ thương mại đã trở thành nội dung quan trọng trong khuôn khổ pháp luật về thương mại quốc tế của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Trong đó, chế định pháp luật về chống bán phá giá luôn có vị trí quan trọng và được các nước áp dụng khá phổ biến để bảo vệ các ngành sản xuất trong nước trước áp lực cạnh tranh từ hàng hóa nhập khẩu bán phá giá. Tại Việt Nam, pháp luật về chống bán phá giá đã có những bước phát triển nhất định với việc ban hành Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam năm 2004. Lần đầu tiên các quy định về bán phá giá và chống bán phá giá được ghi nhận trong một văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao là Pháp lệnh. Tuy nhiên, do vấn đề chống bán phá giá còn mới trong khoa học pháp lý và việc nghiên cứu kinh nghiệm của các nước, việc tiếp nhận pháp luật của WTO vào pháp luật nội địa còn nhiều hạn chế nên các quy định trong Pháp lệnh chống bán phá giá còn nhiều điểm chưa hợp lý, các quy định còn đơn giản và mang tính nguyên tắc, nhiều nội dung quan trọng chưa được quy định hoặc chưa được giải quyết triệt để. Sự đơn giản và thiếu hoàn chỉnh của pháp luật là một trong những nguyên nhân lớn làm giảm khả năng thực thi của pháp luật chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu. Từ khi được ban hành cho đến nay, Pháp lệnh chống bán phá giá chưa được áp dụng trong thực tiễn. Nghị quyết 08/NQ/TW ngày 05 tháng 02 năm 2007 của Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới có nhận định một trong những thách thức lớn đối với Việt Nam là nước ta phải chịu sức ép cạnh tranh gay gắt hơn trên cả ba cấp độ: sản phẩm, doanh nghiệp và quốc gia. Các sản phẩm và doanh nghiệp của Việt Nam sẽ phải cạnh tranh với các sản phẩm và doanh nghiệp nước ngoài không chỉ trên thị trường thế giới mà ngay trên thị trường trong nước [2, tr 1]. Vì vậy, việc xây dựng và hoàn thiện các công cụ pháp lý cần thiết và phụ hợp với các nguyên tắc, quy định của WTO nhằm bảo vệ sản phẩm, doanh nghiệp Việt Nam ngay trên thị trường trong nước trước những hành vi cạnh 2 tranh không công bằng của doanh nghiệp nước ngoài là một trong những nội dung quan trọng đảm bảo cho hội nhập kinh tế quốc tế thành công. Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của WTO vào năm 2007. Yêu cầu về sự tương thích giữa pháp luật nội địa và các chuẩn mực pháp lý của WTO là một trong những đòi hỏi buộc chúng ta phải cam kết và triệt để tuân thủ. Hiệp định chống bán phá giá của WTO năm 1994 (ADA) đã quy định những căn cứ xác định hiện tượng bán phá giá, xác định thiệt hại vật chất và đặt ra những nguyên tắc cho việc điều tra, xử lý vụ việc chống bán phá giá. Các quy định này đã và đang trở thành chuẩn mực chung cho pháp luật của các quốc gia thành viên. Các quốc gia có quyền xây dựng quy trình điều tra, xử lý vụ việc và xây dựng bộ máy thực thi pháp luật dựa trên những nguyên tắc đã được ghi nhận trong ADA. Hiện nay, các vấn đề pháp lý về chống bán phá giá đang được các quốc gia thành viên WTO đề xuất sửa đổi và hoàn thiện trong các vòng đàm phán Doha. Dù kết quả đàm phán chưa đạt được sự thống nhất cần thiết để sửa đổi pháp luật song cũng cho thấy khả năng phát triển của lĩnh vực pháp luật này. Việc nghiên cứu và tiếp thu pháp luật của WTO vào pháp luật Việt Nam và định hướng cho sự phát triển của lĩnh vực pháp luật này trong tương lai là cần thiết không chỉ nhằm bảo đảm sự tương thích mà còn đảm bảo khả năng thực thi của pháp luật trên thực tế. Nghiên cứu về bản chất pháp lý của hành vi bán phá giá hàng hóa nhập khẩu và chống bán phá giá tại Việt Nam đặt ra nhiều vấn đề phức tạp cả về lý luận và thực tiễn do chúng ta tiếp cận lĩnh vực pháp luật này trong bối cảnh đặc biệt. Các quy định trong Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam năm 2004 được xây dựng từ kết quả tiếp thu một cách đơn giản và chưa đầy đủ pháp luật WTO cũng như pháp luật các nước nên các vấn đề lý luận về vấn đề này vẫn còn bỏ ngỏ trong khoa học pháp lý. Từ những lý do trên tác giả đã lựa chọn đề tài “Pháp luật chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu và cơ chế thực thi tại Việt Nam” làm đề tài luận án. Việc nghiên cứu cơ sở lý luận và các vấn đề đặt ra từ thực tiễn pháp luật chống bán phá giá không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có giá trị thực tiễn sâu sắc. 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài Mục đích chính của luận án là nghiên cứu một cách có hệ thống các vấn đề lý luận để làm rõ bản chất pháp lý và kinh tế của bán phá giá hàng hóa nhập khẩu; nghiên cứu các quy định của pháp luật chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam nhằm đưa ra những đánh giá có cơ sở khoa học và thực tiễn về thực trạng pháp luật; 3 luận án phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật nhằm lý giải về tình trạng pháp luật đã không được áp dụng trong thời gian có hiệu lực vừa qua và dự báo những khó khăn cần giải quyết khi tổ chức thực thi pháp luật. Thông qua luận án, tác giả mong muốn góp phần hoàn thiện một bước lý luận, các quy định của pháp luật và đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực áp dụng pháp luật chống bán phá già hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam. Theo đó, đề tài có các nhiệm vụ sau: 1. Nghiên cứu các cơ sở kinh tế - pháp lý về bán phá giá, phân tích bản chất của hiện tượng bán phá giá và tác động nhiều mặt của nó đến sự phát triển thị trường của quốc gia nhập khẩu, đồng thời nghiên cứu về nhu cầu điều chỉnh của pháp luật chống bán phá giá tại Việt Nam. 2. Trên cơ sở nghiên cứu hiện trạng pháp luật chống bán phá giá bao gồm các quy định về căn cứ xác định bán phá giá, xác định thiệt hại đáng kể và quan hệ nhân quả; các quy định về thủ tục điều tra, xử lý vụ việc và áp dụng các biện pháp chống bán phá giá, luận án sẽ nêu lên những nội dung chưa được pháp luật giải quyết hoặc giải quyết chưa triệt để cũng như các nội dung chưa phù hợp với pháp luật WTO để đưa ra các giải pháp khắc phục. 3. Nghiên cứu bộ máy thực thi pháp luật chống bán phá giá tại Việt Nam. Trên cơ sở phân tích và đối chiếu với định hướng hoàn thiện bộ máy nhà nước hiện nay, luận án có những phân tích về đặc trưng và những bất cập của hệ thống cơ quan chống bán phá giá hiện nay để đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật chống bán phá giá và cơ chế thực thi tại Việt Nam và các kiến nghị nhằm nâng cao nâng lực áp dụng pháp luật trong lĩnh vực này. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là cơ sở kinh tế- pháp lý về bán phá giá, thực trạng pháp luật và những vấn đề đặt ra từ thực tiễn có ảnh hưởng đến khả năng áp dụng pháp luật chống bán phá giá nhằm hoàn thiện về mặt lý luận và các quy định của pháp luật về chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam. Luận án giới hạn nghiên cứu việc ứng dụng các nguyên lý kinh tế vào khoa học pháp lý để xác định bản chất pháp lý của hiện tượng bán phá giá, theo đó đặt ra giới hạn điều chỉnh của pháp luật, nghiên cứu thực trạng pháp luật chống bán phá giá tại Việt Nam trên cơ sở so sánh với các quy định tương ứng của ADA và pháp luật của một số quốc gia tiên phong trong lĩnh vực pháp luật này là Canađa, EU và Hoa Kỳ. Do pháp luật chống bán phá giá Việt Nam chưa được áp dụng trên thực tế nên luận án không có điều kiện nghiên cứu thực tiễn xử lý vụ việc mà chỉ tập trung phân tích các 4 vấn đề đặt ra từ thực tiễn có ảnh hưởng đến năng lực áp dụng pháp luật và đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và tăng cường khả năng thi hành của pháp luật trên thực tế. Về cơ chế thực thi pháp luật chống bán phá giá tại Việt Nam, do giới hạn về dung lượng của Luận án nên tác giả chỉ tập trung phân tích hệ thống và mối quan hệ về thẩm quyền giữa các cơ quan điều tra, xử lý vụ việc chống bán phá giá theo pháp luật hiện hành. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra những đánh giá về tính hợp lý, hiệu quả và đề xuất phương hướng hoàn thiện bộ máy thực thi pháp luật. 4. Tình hình nghiên cứu Bán phá giá và áp dụng các biện pháp chống bán phá giá là đề tài đã được một số nhà khoa học nghiên cứu. Đã có một số sách và một số đề tài chuyên khảo về vấn đề này, như “Bán phá giá và biện pháp chống bán phá giá hàng nhập khẩu” của tác giả Đoàn Văn Trường do Nhà xuất bản thống kê xuất bản năm 1998; Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ của Vụ chính sách đa biên – Bộ thương mại “ cơ sở khoa học áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hàng nhập khẩu ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế” được nghiệm thu năm 2000; đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ do VCAD chủ trì “ Các giải pháp ứng phó của Việt Nam đối với việc chống bán phá giá trong thương mại quốc tế” đã được nghiệm thu năm 2005. Ngoài ra, trong quá trình soạn thảo Pháp lệnh chống bán phá giá, Bộ thương mại tổ chức nhiều cuộc hội thảo về vấn đề này, như cuộc hội thảo về pháp luật chống bán phá giá của Hoa Kỳ và EU vào cuối năm 2003; hội thảo về nâng cao năng lực chống bán phá giá cho Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới do Quỹ xây dựng năng lực quản lý quốc gia có hiệu quả Việt Nam- Australia năm 2005; Hội thảo về Pháp luật và thực tiễn chống bán phá giá tại Liên minh Châu Âu do Nhà pháp luật Việt – Pháp tổ chức tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh vào năm 2004…. Bên cạnh các sách chuyên khảo và các đề tài khoa học, còn có một số bài viết của các nhà luật học cũng như kinh tế về phá giá trong thương mại quốc tế như: Tác giả Lê Xuân Trường Trường và Nguyễn Đình Chiến với bài viết “Để áp dụng thành công thuế đối kháng, thuế chống bán phá giá ở Việt Nam” đăng trên Tạp chí Tài chính số 4 năm 2003; “Bàn về chống phá giá trong nền kinh tế thị trường” của tác giả Đoàn Văn Trường đăng trên Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 227 tháng 4 năm 1997; “Góp ý dự thảo Pháp lệnh chống bán phá giá đối với hàng nhập khẩu vào Việt Nam” của Vũ Thái Hà đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 9 năm 2003; “Bán phá giá trong thương mại quốc tế và thực tiễn Việt Nam của tác giả Nguyễn Quốc Thịnh, “Cam kết 5 theo pháp lệnh chống bán phá giá của EU” đăng trên Tạp chí Cộng sản số 9 năm 2004; “Các vụ kiện chống bán phá giá – một chẳng đường nhìn lại”; “Các vụ kiện chống bán phá giá- những đặc điểm cần lưu ý đối với các DN Việt Nam” của tác giả Đinh Thị Mỹ Loan trên Tạp chí Thương mại các số 44/2005, số 1+2/2006 và Tạp chí Cộng sản điện tử 2006. Ngoài ra, vấn đề bán phá giá cũng được đề cập trong một số công trình nghiên cứu về cạnh tranh như : “Cạnh tranh và xây dựng pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay” của Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật do PGS. Nguyễn Như Phát và PGS. Trần Đình Hảo chủ biên do Nhà xuất bản Công an nhân dân xuất bản năm 2001; “Tiến tới xây dựng pháp luật về cạnh tranh và chống độc quyền trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường” của PGS Nguyễn Như Phát và Thạc sỹ Bùi Nguyên Khánh do Nhà xuất bản Công an Nhân dân xuất bản năm 2001. Về đề tài cao học luật, có hai đề tài nghiên cứu về vấn đề này là: 1) “Pháp luật về chống bán phá giá trong ngoại thương một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Nguyễn Văn Niêm đã bảo vệ thành công năm 2003 tại Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh; và 2) “Pháp luật chống bán phá giá hàng nhập khẩu tại Việt Nam – những vấn đề lý luận và thực tiễn” của NCS thực hiện năn 2004. Vấn đề pháp luật chống bán phá giá của WTO và của các nước còn được nghiên cứu tương đối sâu và toàn diện trong các tác phẩm của các tác giả nước ngoài như: Policy makers dumping on trade của Casey J.Lartigue Jr được công bố năm 2002 tại cato Institutes, Washington D.C; Trade remedies and WTO disputes settlement:why are so few challenged của Chad P.Bown được công bố năm 2004; The politics behind the Application of antidumping Laws to nonmarket economies: Distrust and informal constraints của Cythia Horne được công bố năm 2001; Legal and economic interfaces between antidumping and competition policy của Joses Tavares de Araujo Jr được công bố năm 2001; Antidumping: how it works and who gets hurt của J Michael Finger được công bố năm 1993, Cải cách hiệp định chống bán phá giá: con đường cho các đàm phán WTO của các tác giả Lindsey Brink và Dan Ikensoon đăng trên tạp chí phân tích chính sách thương mại của Viện Casto số 21 năm 2002; Luật chống bán phá giá mới trong quá trình đàm phán của M. Koulen được công bố năm 1995; Hệ thống thương mại thế giới của John H.Jackson được dịch sang tiếng Việt do Nhà xuất bản Thanh niên xuất bản năm 2001…. Các công trình nghiên cứu trên của các tác giả đã tiếp cận vấn đề pháp luật chống bán phá giá ở nhiều góc độ khác nhau và là những tài liệu quí báu cho chúng tôi trong 6 quá trình nghiên cứu đề tài của mình. Tuy nhiên, đề tài mà chúng tôi lựa chọn chỉ tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam về bán phá giá và chống bán phá giá. Cho đến nay, vấn đề chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam nói chung và pháp luật về vấn đề này nói riêng là mảng đề tài chưa được nghiên cứu ở bậc nghiên cứu sinh tại Việt Nam. Đề tài mà tác giả nghiên cứu là sự phát triển một bước của luận văn cao học của mình. Ở luận văn cao học tác giả tập trung nghiên cứu những nội dung cơ bản của pháp luật Việt Nam về chống bán phá giá. Luận án được nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện cơ sở kinh tế và pháp lý để xác định bản chất của hiện tượng bán phá giá; nghiên cứu tổng thể và sâu về các chế định cụ thể trong pháp luật chống bán phá giá làm cơ sở đánh giá về sự tương thích của pháp luật Việt Nam với pháp luật WTO, đánh giá khả năng áp dụng của pháp luật trong thực tiễn và đưa ra những đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật và cơ chế thực thi. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận án được trình bày trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin về Nhà nước và Pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế. Nội dung của luận án được nêu và phân tích dựa trên cơ sở các văn bản pháp luật của Nhà nước, các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật và các tài liệu pháp lý. Luận án sử dụng phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp như: tổng hợp, phân tích, so sánh, đối chiếu lịch sử…. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án Về mặt lý luận: đây là luận án nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện về pháp luật chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam. Các kiến nghị, kết luận nêu ra trong luận án là những luận cứ khoa học của tác giả. Có thể nói đây là công trình khoa học được nghiên cứu một cách nghiêm túc, có hệ thống và đề cập đến nhiều vấn đề về pháp luật chống bán phá giá tại Việt Nam mà từ trước đến nay chưa được giải quyết hoặc giải quyết chưa triệt để. Đó là vấn đề về quá trình nhận thức về bán phá giá trong khoa học pháp lý của Việt Nam, cơ sở kinh tế - pháp lý cho việc xác định bản chất của hiện tượng bán phá giá hàng hóa nhập khẩu, những thành tựu và tồn tại trong pháp luật chống bán phá giá của Việt Nam…. Nội dung và kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo hữu ích trong việc nghiên cứu về lý luận và pháp luật chống bán phá giá, làm tài 7 liệu giảng dạy và học tập cho sinh viên đại học chuyên ngành luật học hoặc kinh tế đối ngoại. Về thực tiễn: những nghiên cứu, kết luận, đề xuất của luận án còn có ý nghĩa trong việc hoàn thiện pháp luật chống bán phá giá tại Việt Nam và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong lĩnh vực này. 7. Cơ cấu của luận án Cơ cấu của luận án được quyết định bởi mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu. Luận án bao gồm các phần sau: - Lời nói đầu - Phần nội dung gồm bốn chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về bán phá giá hàng hóa nhập khẩu và pháp luật chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu tại Việt Nam. Chương 2: Các căn cứ xác định hàng hóa nhập khẩu bán phá giá, xác định thiệt hại thực tế của ngành sản xuất trong nước theo pháp luật Việt Nam. Chương 3: Thủ tục điều tra, xử lý vụ việc chống bán phá giá theo Pháp luật Việt Nam. Chương 4: Các cơ quan thực thi pháp luật và một số đề xuất hoàn thiện pháp luật chống bán phá giá tại Việt Nam. - Kết luận - Danh mục tài liệu tham khảo. 8 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BÁN PHÁ GIÁ HÀNG HÓA NHẬP KHẨU VÀ PHÁP LUẬT CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ HÀNG HÓA NHẬP KHẨU TẠI VIỆT NAM 1.1. KHÁI NIỆM VỀ BÁN PHÁ GIÁ HÀNG HÓA NHẬP KHẨU 1.1.1. Các quan niệm về bán phá giá hàng hóa nhập khẩu Có nhiều cách hiểu khác nhau về bán phá giá, dưới góc độ học thuật, bán phá giá hàng hóa nhập khẩu được hiểu ngắn gọn là bán hàng ra nước ngoài với giá thấp hơn giá bán tại thị trường nội địa. Ví dụ Từ điển kinh tế học hiện đại cho rằng bán phá giá (dumping) được hiểu là việc bán một hàng hoá ở nước ngoài với mức giá thấp hơn so với mức giá ở thị trường trong nước [57, tr 282]; Theo Từ điển chính sách thương mại: phá giá được hiểu là thực tiễn bán hàng của một công ty với giá bán ra nước ngoài thấp hơn giá bán tại thị trường trong nước (giá nội địa của nước xuất khẩu) [35, tr 82]; cuốn Black’s Law dictionary định nghĩa phá giá là hành vi bán hàng hoá ra nước ngoài với giá thấp hơn giá bán tại thị trường nội địa [93, tr 518]. Theo cách hiểu này, bán phá giá hàng hóa nhập khẩu là sự phân biệt giá của cùng loại sản phẩm tiêu thụ trên thị trường nước xuất khẩu và tiêu thụ trên thị trường nước nhập khẩu. Do đó, để xác định việc bán phá giá, người ta phải tính toán được giá xuất khẩu và giá bán trên thị trường xuất khẩu của hàng hóa (còn gọi là giá nội địa). Dưới góc độ pháp lý, khái niệm pháp lý về bán phá giá lần đầu tiên được ghi nhận trong đạo luật thuế hải quan Canađa được thông qua ngày 10 tháng 8 năm 1904. Sau đó, New Zealand và Úc cũng ban hành các văn bản pháp luật về chống bán phá giá vào năm 1905 và 1906. Khi chống bán phá giá đã trở thành một nội dung quan trọng trong pháp luật thương mại quốc tế thì khái niệm bán phá giá cũng được ghi nhận tại Điều VI Hiệp định chung về thuế quan và thương mại năm 1947 (gọi tắt là GATT) và trong Hiệp định thực thi Điều VI của GATT 1994 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO)1. Điều 2.1 của ADA quy định: trong phạm vi Hiệp định này, một sản phẩm bị coi là bán phá giá (tức là được đưa vào lưu thông thương mại của một nước khác với giá thấp hơn trị giá thông thường của sản phẩm đó) nếu như giá xuất khẩu của sản phẩm được xuất khẩu từ một nước này sang một 1 Còn gọi là Hiệp định chống bán phá giá của WTO (viết tắt là ADA). Điều 2.1 của ADA lặp lại khái niệm bán phá giá được quy định trong điều VI của GATT 1947. Điều VI.1 của GATT 1947 quy định “các thành viên ký kết của GATT thừa nhận rằng bán phá giá, nghĩa là các sản phẩm của một quốc gia đưa vào giao lưu thương mại tại một quốc gia khác với giá thấp hơn giá trị thông thường của các sản phẩm đó…”. 9 nước khác thấp hơn mức giá có thể so sánh được của sản phẩm tương tự được tiêu dùng tại nước xuất khẩu theo các điều kiện thương mại thông thường. Về cơ bản, khái niệm pháp lý giống với các khái niệm học thuật khi cho rằng bán phá giá là hiện tượng phân biệt giá song căn cứ để xác định không còn là giá bán của hàng hóa trên thị trường xuất khẩu và trên thị trường nhập khẩu mà là giá xuất khẩu (giá bán vào thị trường nhập khẩu) và giá trị thông thường của hàng hóa nhập khẩu. Giá trị thông thường không phải là giá nội địa của hàng hóa bị điều tra mà là giá có thể so sánh được của hàng hóa tương tự được tiêu dùng tại nước xuất khẩu. Giá thông thường được hiểu là “mức giá chuẩn” mà các DN áp dụng cho các giao dịch mua bán trên thị trường nước xuất khẩu. Để có thể xác định được “mức giá chuẩn” trong mọi tình huống, các nhà làm luật đã đặt ra nhiều tiêu chuẩn và phương pháp tính toán phức tạp và mềm dẻo. Những thay đổi trong khái niệm pháp lý về bán phá giá đã giải quyết được trường hợp không thể xác định được giá bán trên thị trường nội địa của hàng hóa bị điều tra do chúng được sản xuất chỉ để xuất khẩu hoặc giá bán hàng hóa trên thị trường nội địa không bình thường do thấp hơn chi phí sản xuất hoặc là giá bán độc quyền….. Kết quả so sánh hai chỉ số giá trên chưa phản ánh ưu thế cạnh tranh của hàng hóa nhập khẩu so với hàng hóa nội địa của nước nhập khẩu mà chỉ cho thấy hiện tượng phân biệt giá của sản phẩm nhập khẩu. Muốn xác định ưu thế cạnh tranh về giá của hàng hóa nhập khẩu, cần tiến hành so sánh giữa giá xuất khẩu của hàng hóa nhập khẩu và giá bán của hàng hóa cạnh tranh nội địa. Kết quả so sánh có thể là2: Thứ nhất, giá xuất khẩu của hàng hóa nhập khẩu vào thấp hơn giá thông thường trên thị trường xuất khẩu nhưng vẫn cao hơn giá của sản phẩm cạnh tranh nội địa. Trong tình huống này, hiện tượng bán phá giá vẫn tồn tại song hàng hóa nội địa đang có lợi thế cạnh tranh về giá so với hàng hóa nhập khẩu. Do đó, việc hàng hóa nhập khẩu bán phá giá không thể gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước. Thứ hai, giá xuất khẩu của hàng hóa nhập khẩu thấp hơn giá bán của sản phẩm cạnh tranh nội địa nên có lợi thế cạnh tranh về giá. Khi đó, các DN nội địa sản xuất sản phẩm cạnh tranh bị đẩy vào tình trạng hoặc phải hạ giá bán để giữ khách hàng hoặc mất thị phần với giá bán hiện tại. Trong tình huống này, có hai giả định được đặt ra: 2 Các tình huống này được đặt ra trong điều kiện hàng hóa nhập khẩu và hàng hóa cạnh tranh nội địa chỉ cạnh tranh về giá, các điều kiện cạnh tranh khác là giống nhau và không thay đổi. 10 - Giả định hàng hóa nhập khẩu không bán phá giá (giá xuất khẩu không thấp hơn giá thông thường). Giá của hàng hóa nhập khẩu có lợi thế cạnh tranh do chi phí sản xuất thấp hơn của sản phẩm nội địa. Thị trường nhập khẩu đang được hưởng lợi từ hàng hóa nhập khẩu vì người tiêu dùng có cơ hội mua hàng hóa giá rẻ. - Giả định có hiện tượng bán phá giá (giá xuất khẩu thấp hơn giá thông thường) thì hiện tượng bán phá giá đang tạo lợi thế cạnh tranh một cách không công bằng cho hàng hóa nhập khẩu trước hàng hóa nội địa. Các biện pháp chống bán phá giá cần được áp dụng để bảo vệ ngành sản xuất nội địa trước thiệt hại do bán phá giá gây ra. Như vậy, hiện tượng bán phá giá hàng hóa nhập khẩu không đương nhiên đưa đến kết quả là hàng hóa nhập khẩu có lợi thế cạnh tranh so với sản phẩm cạnh tranh nội địa. Ngược lại, khi hàng hóa nhập khẩu có ưu thế cạnh tranh về giá so với sản phẩm nội địa, không nên vội vàng kết luận có hiện tượng bán phá giá. Vấn đề được đặt ra là cần có cơ chế để phân biệt hiện tượng bán phá giá hàng hóa nhập khẩu với việc hàng hóa nhập khẩu được bán với giá rẻ do có lợi thế cạnh tranh lành mạnh; cần phân biệt bán phá giá có khả năng hay không có khả năng gây thiệt hại cho ngành sản xuất nội địa. Tại Việt Nam, các nhà làm luật có những quan niệm khác nhau về bán phá giá. Sự khác nhau này được thể hiện qua hai văn bản pháp luật là Pháp lệnh giá năm 2002 (gọi tắt là Pháp lệnh giá) và Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam năm 2004 (gọi tắt là Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu). Trong Pháp lệnh giá năm 2002, bán phá giá được hiểu là hành vi bán hàng hoá, dịch vụ với giá quá thấp so với giá thông thường trên thị trường Việt Nam để chiếm lĩnh thị trường, hạn chế cạnh tranh đúng pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh khác và lợi ích của Nhà nước [81, k3 đ4]. Với khái niệm trên, hành vi bán phá giá được xác định từ hai dấu hiệu: - DN đã bán hàng hóa, dịch vụ với giá quá thấp so với giá thông thường của nó trên thị trường Việt Nam. Phương thức để xác định bán phá giá theo Pháp lệnh giá là so sánh hai chỉ số giá: giá bán thực tế và giá thông thường của sản phẩm bị điều tra. Tuy nhiên, hai chỉ số này đều được xác định từ thị trường Việt Nam. Do đó, hành vi bán phá giá trong Pháp lệnh giá không phải là hiện tượng phân biệt giá mà chỉ là việc bán hàng hóa, dịch vụ với mức giá không theo đúng giá trị thông thường của sản phẩm. 11 - Mục đích của hành vi là chiếm lĩnh thị trường, hạn chế cạnh tranh đúng pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân kinh doanh khác, lợi ích của Nhà nước. Do đó, nếu chưa xác định được mục đích của hành vi thì chưa thể kết luận DN đã bán phá giá hàng hóa, dịch vụ. Khoản 1 và 2 Điều 1 Pháp lệnh giá quy định: Pháp lệnh này quy định quản lý nhà nước về giá và hoạt động về giá của tổ chức, cá nhân hoạt động sản xuất kinh doanh; và Pháp lệnh này áp dụng áp dụng đối với tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài hoạt động sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam [81, k1, 2 Đ 1]. Căn cứ vào quy định này, tác giả cho rằng cần phải làm rõ một số vấn đề liên quan đến việc áp dụng quy định về bán phá giá trong Pháp lệnh giá. (1) Văn bản này chỉ giới hạn đối tượng áp dụng là tổ chức, cá nhân hoạt động sản xuất kinh doanh tại Việt Nam mà không phân biệt về nguồn gốc của hàng hóa, dịch vụ, nên quy định về bán phá giá có thể áp dụng đối với sản phẩm nội địa (được sản xuất và tiêu thụ tại Việt Nam) và sản phẩm nhập khẩu. Tuy nhiên, đối với hàng hóa nhập khẩu, các quy định về bán phá giá chỉ điều chỉnh hành vi tiêu thụ hàng hóa đó trên thị trường Việt Nam mà không áp dụng đối với việc nhập khẩu chúng. (2) Với hàng hóa nhập khẩu, Pháp lệnh giá được áp dụng đối với các tổ chức, cá nhân có hoạt động kinh doanh chúng tại Việt Nam đã có hành vi bán hàng với mức giá quá thấp so với giá thông thường. Do đó, việc bán phá giá hàng hóa vào Việt Nam của các doanh nghiệp nước ngoài sẽ không chịu sự điều chỉnh của Pháp lệnh giá năm 2004. Chỉ khi hàng hóa được lưu thông trên thị trường Việt Nam và người kinh doanh chúng có hành vi bán hàng hóa quá thấp so với giá thông thường thì các quy định về bán phá giá được áp dụng để xử lý người thực hiện hành vi. (3) Theo Pháp lệnh giá, việc chống bán phá giá là một trong những nội dung của hoạt động quản lý nhà nước về giá, tuy nhiên, có thể thấy rằng các quy định về chống bán phá giá trong văn bản này chủ yếu nhằm thực hiện chức năng quản lý cạnh tranh bằng cách ngăn chặn và xử lý hành vi hạn chế cạnh tranh về giá trên thị trường. Hành vi bán phá giá đã được Pháp lệnh giá mô tả dưới góc nhìn của quan hệ cạnh tranh trên thị trường (hành vi có mục đích chiếm lĩnh thị trường, hạn chế cạnh tranh đúng pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh khác và lợi ích của Nhà nước). Mặc dù Pháp lệnh giá năm 2002 có giới hạn điều chỉnh như trên, song đây là văn bản pháp luật đầu tiên đưa ra khái niệm bán phá giá hàng hóa, dịch vụ. Mặt khác, do văn bản này có thể áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu khi được lưu thông trên thị trường Việt Nam nên việc áp dụng các quy định về bán phá giá có những ảnh hưởng 12 nhất định đến quan hệ thương mại quốc tế. Đánh giá về khái niệm này, chúng tôi cho rằng khái niệm bán phá giá được ghi nhận trong pháp lệnh giá đã bộc lộ những hạn chế cả về lý luận lẫn thực tiễn áp dụng. Đồng thời, khái niệm này cũng cho thấy những khác biệt đáng kể giữa bán phá giá trong thương mại quốc tế và trong quan hệ thương mại nội địa, cụ thể: Thứ nhất, khi sử dụng giá thông thường của hàng hóa nhập khẩu trên thị trường Việt Nam làm cơ sở để xác định hành vi, nhà làm luật đã quan niệm bán phá giá là việc DN bán hàng hóa, dịch vụ với giá thấp một cách bất thường. Quan niệm này hoàn toàn không không thể áp dụng đối với hành vi kinh doanh hàng hóa nhập khẩu trên thị trường Việt Nam và cũng không phù hợp với chính sách và pháp luật cạnh tranh áp dụng cho các quan hệ cạnh tranh trong một quốc gia. Với hàng hóa nhập khẩu, chúng ta không thể xác định được giá thông thường mà chỉ có thể xác định được giá xuất khẩu và giá tiêu dùng của nó trên thị trường Việt Nam - với tư cách là thị trường nhập khẩu. Một khi chưa làm rõ được khái niệm giá thông thường trên thị trường Việt Nam của hàng hóa nhập khẩu thì chưa thể xác định hành vi bán phá giá trên thực tế. Nếu sử dụng một giá trị nào đó trên thị trường Việt Nam làm giá thông thường cho hàng hóa nhập khẩu để kết luận chúng bán phá giá thì việc sử dụng ấy chắc chắn tạo ra những xung đột giữa Việt Nam và các nước có liên quan. Thứ hai, Trong pháp luật cạnh tranh có quy định về hành vi định giá hủy diệt (định giá cướp đoạt). Luật cạnh tranh năm 2004 quy định về hành vi bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ với mức giá thấp hơn giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền để hạn chế cạnh tranh. Trong lý thuyết cạnh tranh và pháp luật cạnh tranh, có hai vấn đề cần lưu ý đối với hành vi này là (1) hành vi định giá hủy diệt chỉ áp dụng đối với các doanh nghiệp thống lĩnh hoặc doanh nghiệp độc quyền. Bởi lẽ, các doanh nghiệp chỉ có thể loại bỏ đối thủ cạnh tranh, gây ra hậu quả hạn chế cạnh tranh trên thị trường bằng việc bán hàng hóa, dịch vụ dưới giá thành khi chúng khả năng chi phối thị trường bằng vị trí thống lĩnh hoặc độc quyền. (2) Cơ sở để xác định hành vi là giá bán và giá thành toàn bộ của sản phẩm. Vì vậy, khái niệm bán phá giá trong Pháp lệnh giá không phù hợp với các nguyên lý căn bản của pháp luật cạnh tranh cả về chủ thể áp dụng và căn cứ xác định hành vi. Thứ ba, việc sử dụng mục đích chiếm đoạt thị trường, gây hạn chế cạnh tranh trên thị trường, gây thiệt hại cho các tổ chức cá nhân khác, gây thiệt hại cho Nhà nước là căn cứ xác định hành vi cho thấy các nhà làm luật đã đánh đồng bán phá giá với 13 hành vi định giá hủy diệt đã được quy định trong pháp luật cạnh tranh. Quan niệm này cho thấy sự khác biệt về cơ sở để xác định hành vi bán phá giá trong thương mại nội địa và thương mại quốc tế. Trong thương mại quốc tế, người thực hiện hành vi bán phá giá hàng hóa nhập khẩu là DN xuất khẩu nước ngoài. Việc truy tìm mục đích thực sự của chủ thể bên ngoài lãnh thổ của quốc gia nhập khẩu không thể thực hiện được. Vì vậy, chính sách và pháp luật thương mại quốc tế không sử dụng mục đích làm căn cứ để xác định hiện tượng bán phá giá mà sử dụng thiệt hại vật chất do bán phá giá gây ra làm cơ sở để quyết định áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với hàng hóa nhập khẩu. Từ những nghiên cứu về hoàn cảnh xây dựng Pháp lệnh giá, chúng tôi cho rằng các hạn chế trong những quy định về bán phá giá trong văn bản này có thể được lý giải từ các nguyên nhân sau: - Việt Nam biết đến pháp luật chống bán phá giá khi các hàng hóa có xuất xứ từ Việt Nam bị kiện bán phá giá tại các nước khác. Tính đến tháng 9 năm 2009, tổng số vụ việc phòng vệ thương mại mà các nước điều tra đối với hàng hóa xuất xứ từ Việt Nam là 37 vụ (chủ yếu là điều tra về bán phá giá) trong khi chúng ta chưa từng điều tra về bán phá giá đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam. Vì vậy, các nhà khoa học, các cơ quan nhà nước, các DN đã dành nhiều nỗ lực để tìm kiếm các giải pháp ứng phó với những vụ kiện chống bán phá giá với tư cách bị đơn hơn là xây dựng cơ chế để chủ động khởi kiện hàng hóa nước ngoài nhập khẩu bán phá giá vào thị trường Việt Nam. Với tâm lý đó, việc tiếp cận các quy định của pháp luật quốc tế và các quốc gia khác chủ yếu nhằm phục vụ cho công tác kháng kiện mà chưa có những nỗ lực cần thiết để tiếp nhận những nguyên tắc và lý luận về phòng vệ quốc tế vào pháp luật Việt Nam (PL VN). Trong thập niên 1990, một số nhà nghiên cứu còn đưa ra những quan điểm sai lệch về bán phá giá, ví dụ, trong sách tham khảo Bán phá giá và biện pháp, chính sách chống bán phá giá hàng nhập khẩu, do Nxb Thống kê xuất bản năm 1998, tác giả Đoàn Văn Trường lại đánh đồng hiện tượng bán phá giá hàng hóa nhập khẩu với tình trạng hàng hóa nhập lậu bán hàng giá thấp do không chịu thuế nhập khẩu và không phân biệt bán phá giá hàng hóa nhập khẩu với việc hàng hóa được các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sản xuất tại Việt Nam bán hàng hóa với giá quá thấp gây thiệt hại cho các doanh nghiệp trong nước [72, tr 95-132]. - Chủ trương về hội nhập kinh tế của Đảng và Nhà nước trong thời gian Pháp lệnh giá được xây dựng có ảnh hưởng nhất định đến quá trình nhận thức về pháp luật chống bán phá giá. Trong suốt thời gian dài từ thập niên 1990, chủ trương hội nhập 14 của Việt Nam chủ yếu tập trung vào nhiệm vụ đẩy mạnh xuất khẩu. Việc phát triển ngành sản xuất nội địa chú trọng đến nhiệm vụ xây dựng những ngành kinh tế mũi nhọn, những mặt hàng chiến lược cho xuất khẩu. Nghị quyết 01/NQ-TW của Bộ Chính trị ngày 18 tháng 11 năm 1996 về mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại đã chỉ rõ 4 phương hướng phát triển kinh tế đối ngoại cho giai đoạn 1996 -2000, trong đó, tăng cường xuất khẩu là chiến lược trọng điểm của kinh tế đối ngoại. Việc phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn đáp ứng cho nhu cầu xuất khẩu tập trung vào các nhiệm vụ đầu tư, nghiên cứu, phát triển kỹ thuật, nguồn nhân lực có tay nghề cao, kinh tế tri thức… mà chưa có những quan tâm thích đáng mang tính chỉ đạo cho việc sử dụng các công cụ bảo hộ được pháp luật quốc tế thừa nhận trong thương mại quốc tế. Vì thế, cho dù vẫn là nước nhập siêu, song các chủ trương phát triển ngoại thương chưa dành nhiều sự quan tâm đến các tác động của dòng hàng hóa nhập khẩu, đến sự phát triển của thị trường và của các ngành kinh tế nội địa. Tình trạng này đã có tác động không nhỏ đến thái độ chủ động hay thụ động của DN, của các cơ quan Nhà nước và của các nhà khoa học về khả năng áp dụng pháp luật chống bán phá giá nói riêng và pháp luật về bảo hộ thương mại nói chung. Trong 15 năm đầu xây dựng kinh tế thị trường, chế định về phòng vệ thương mại chưa được đầu tư nghiên cứu và xây dựng tại Việt Nam. Quy định về bán phá giá trong Luật thương mại năm 1997 và Pháp lệnh giá chỉ là những quy định đơn lẻ trong pháp luật thương mại và chế định về quản lý giá mà chưa trở thành một chế định pháp luật riêng biệt. Với chủ trương và tình trạng pháp luật như trên, việc nghiên cứu không đầy đủ và toàn diện về bán phá giá là tất yếu. - Điều kiện xây dựng thị trường của Việt Nam là một trong những yếu tố làm hạn chế khả năng tiếp cận các chuẩn mực luật pháp và kinh doanh quốc tế. Chúng ta xây dựng thị trường và thực hiện chủ trương hội nhập kinh tế từ những thành tựu và thất bại của mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Thị trường được xây dựng trong bối cảnh những phương thức, con người quản lý của cơ chế kế hoạch hóa, thói quen và lối mòn trong nhận thức về vai trò chỉ huy kinh tế của nhà nước vẫn còn tồn tại. Những yếu kém trong nhận thức và sự bảo thủ trong tư duy không chỉ xâm hại đến sự tự do của thị trường, làm cho những thay đổi trong các chính sách vĩ mô trở thành tuyên ngôn không có giá trị thực tế mà còn cản trở quá trình tiếp thu, vận dụng những nguyên lý và luật pháp của thương mại quốc tế vào phát triển đất nước. Quy định về bán phá giá trong Pháp lệnh giá là kết quả của sự nóng vội cần có pháp luật về bán phá giá trong khi còn hạn chế trong nhận thức về vấn đề này. 15 Quan niệm thứ hai về bán phá giá được các nhà làm luật ghi nhận trong Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam năm 2004. Theo đó, hàng hoá có xuất xứ từ nước hoặc vùng lãnh thổ bị coi là bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam nếu hàng hoá đó được bán với giá thấp hơn giá trị thông thường. Giá trị thông thường của hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam là giá có thể so sánh được của hàng hóa tương tự đang được bán trên thị trường nội địa của nước hoặc vùng lãnh thổ xuất khẩu theo các điều kiện thương mại thông thường[83, k1 đ3]. So sánh với khái niệm bán phá giá trong Pháp lệnh giá năm 2002, có thể nhận thấy rằng đã có những thay đổi cơ bản trong các quy định của pháp luật về hiện tượng này: Một là, giá chuẩn được sử dụng xác định về việc bán phá giá là giá thông thường của sản phẩm tương tự trên thị trường xuất khẩu mà không là giá thông thường trên thị trường Việt Nam như quy định trong Pháp lệnh giá. Sẽ không có hiện tượng bán phá giá nếu giá xuất khẩu của hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam không thấp hơn giá bán của sản phẩm tương tự trên thị trường xuất khẩu cho dù có thấp hơn giá của sản phẩm cạnh tranh được sản xuất tại Việt Nam. Mặt khác, bán phá giá không phải là hiện tượng các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa với mức giá gây lỗ nên cơ quan có thẩm quyền sẽ không so sánh giá xuất khẩu với giá thành sản xuất của hàng hóa bị điều tra. Bán phá giá đơn giản chỉ là hiện tượng phân biệt giá quốc tế, có nghĩa là cùng một loại hàng hóa như nhau được tiêu thụ ở hai thị trường (bao gồm thị trường nước xuất khẩu và thị trường Việt Nam) với những mức giá khác nhau một cách bất thường. Sự bất thường của hành vi phân biệt giá là giá bán vào thị trường nhập khẩu thấp hơn giá bán trên thị trường xuất khẩu. Hai là, thiệt hại của các tổ chức, cá nhân kinh doanh Việt Nam (ngành sản xuất nội địa) do bán phá giá gây ra không là căn cứ xác định hiện tượng bán phá giá mà là một trong các điều kiện để áp dụng biện pháp chống bán phá giá. Cách tiếp cận này phù hợp với quan niệm truyền thống về bán phá giá và tương thích với những quy định tương tứng trong ADA. Khi tách thiệt hại vật chất ra khỏi khái niệm bán phá giá thì nội dung điều tra một vụ việc sẽ luôn có hai phần cơ bản là điều tra về hiện tượng bán phá giá và điều tra về thiệt hại vật chất của ngành sản xuất nội địa. Dưới góc độ lịch sử, hai khái niệm khác nhau về bán phá giá trong hệ thống PLVN hiện nay phản ánh quá trình nhận thức của các nhà làm luật về chống bán phá giá. Trong giai đoạn đầu, nhà làm luật chưa tiếp nhận một cách nghiêm túc các 16 nguyên lý của thương mại quốc tế và các chuẩn mực pháp lý quốc tế về vấn đề này, chưa xác định một cách chính xác ranh giới và mối quan hệ giữa các lĩnh vực pháp luật như pháp luật cạnh tranh, pháp luật quản lý giá, pháp luật chống bán phá giá. Vì vậy, quan niệm về bán phá giá được ghi nhận trong Pháp lệnh giá còn sơ khai và không có giá trị thực thi. Trong giai đoạn thứ hai, khi vấn đề chống bán phá giá được nghiên cứu nghiêm túc và nhu cầu xây dựng chế định pháp luật về vấn đề này này đang là yêu cầu cần thiết phục vụ cho công tác đàm phán và tham gia tổ chức thương mại thế giới thì nhà làm luật Việt Nam đã tiếp nhận khá đầy đủ những nguyên lý của pháp luật chống bán phá giá để xây dựng nên Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu. Khái niệm bán phá giá được ghi nhận trong văn bản pháp luật này không phản ánh nhận thức riêng có của nhà làm luật Việt Nam mà là kết quả của quá trình tiếp nhận pháp luật WTO vào pháp luật nội địa. Quá trình tiếp nhận pháp luật chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu có những đặc thù và có những ảnh hưởng nhất định đến nhận thức của Việt Nam về khái niệm bán phá giá và pháp luật chống bán phá giá. Những ảnh hưởng đó bao gồm: Thứ nhất, nhà làm luật Việt Nam đã tiếp thu một cách thụ động khái niệm bán phá giá đã được ghi nhận trong pháp luật WTO. Qua hơn một thế kỷ phát triển (tính từ năm 1904)3, pháp luật chống bán phá giá đã trở thành khung pháp lý cho thương mại toàn cầu bằng Điều VI của GATT 1947 và ADA. Với nguyên tắc luật quốc gia của các nước thành viên phải phù hợp với các hiệp định của WTO, khái niệm bán phá giá được ghi nhận trong ADA đã trở thành chuẩn mực pháp lý cho pháp luật của các nước thành viên WTO. Do đó, kinh nghiệm cho thấy, các đạo luật về chống bán phá giá của các nước thường lặp lại tất cả các nguyên tắc của Hiệp định chống bán phá giá, thậm chí lấy lại nguyên văn Hiệp định trong trường hợp nhiều nước chỉ mới ban hành luật này sau khi gia nhập WTO [47, tr 19]. Việc đưa ra khái niệm pháp lý chuẩn về bán phá giá không phải là việc khó khăn đối với nhà làm luật Việt Nam. Tuy nhiên, Pháp luật của WTO chỉ quy định khái niệm và những căn cứ để xác định hiện tượng hàng hóa nhập khẩu bán phá giá. Các vấn đề về phương pháp xác định, cách thức tính toán các yếu tố cấu thành hiện tượng bán phá giá sẽ do pháp luật quốc gia quy định. Như vậy, sự tương thích về khái niệm không có nghĩa là phương thức tính toán và quy trình điều tra việc bán phá giá của hàng hóa nhập khẩu phải đồng nhất. Các phương thức để tính toán giá thông thường, giá xuất khẩu, biên độ phá giá… có thể có những khác biệt nhất định giữa các nước thành viên của WTO. Do đó, đặc trưng trong pháp luật chống bán 3 Năm 1904, Canađa là quốc gia đầu tiên trên thế giới ban hành Luật chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu. 17 phá giá của từng quốc gia không thể hiện ở các khái niệm mà ở những đặc thù trong quy trình và cách thức điều tra một vụ việc bán phá giá. Hiện nay, vấn đề hoàn thiện pháp luật chống bán phá giá đang là một trong những nội dung đấu tranh giữa hai nhóm quốc gia phát triển và đang phát triển tại các cuộc đàm phán về tự do hóa thương mại. Trong Hội nghị Bộ trưởng WTO tại Seattle năm 1999, các nước nghèo đòi hỏi sửa đổi, củng cố các điều khoản trong khung pháp luật về chống bán phá giá để tránh lạm dụng và yêu cầu xác lập một chế độ đặc biệt để hỗ trợ họ. Tại đoạn 28 của Tuyên bố Doha cấp Bộ trưởng, các nước nhất trí rằng việc đàm phán nên làm rõ và hoàn thiện các quy định trong ADA. Trong suốt thời gian diễn ra Hội nghị Bộ trưởng WTO tại Doha, chống bán phá giá bị nhìn nhận như một vấn đề gây chia rẽ giữa một bên là các nước đang phát triển với một bên là các nước công nghiệp phát triển khác [47, tr 20-21]. Cuộc tranh luận giữa các nước không tập trung vào khái niệm bán phá giá mà về cách thức điều tra để xác định việc bán phá giá. Nói tóm lại, trong bối cảnh pháp luật chống bán phá giá đã được quốc tế hóa thì sẽ không còn những tranh cãi giữa các quốc gia và các nhà khoa học về khái niệm bán phá giá. Sự khác nhau chỉ còn là các phương tiện kỹ thuật và phương pháp để xác định các căn cứ pháp lý của hiện tượng bán phá. Thứ hai, trình độ phát triển khác nhau giữa các nước gây ra những hạn chế và khó khăn trong nhận thức về tự do hoá thương mại nói chung và bán phá giá nói riêng. Trong quá trình phát triển của pháp luật chống bán phá giá của WTO, có hai vấn đề được đặt ra: (1) Ảnh hưởng của pháp luật chống bán phá giá của các nước phát triển (đặc biệt là Hoa Kỳ) đến pháp luật chống bán phá giá của WTO. Với ưu thế về vốn, trình độ công nghệ, thị trường, các nước tư bản phát triển và các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia đang chi phối toàn cầu hóa [90, tr 82]. Các lực lượng này luôn có xu hướng áp đặt những chuẩn mực cho tự do thương mại và thiết lập các biện pháp pháp lý và kinh tế để bảo vệ nó. Mặc dù khung khổ pháp lý của các tổ chức thương mại quốc tế là kết quả đàm phán giữa các nước thành viên, song thực tế cho thấy, sự ảnh hưởng từ pháp luật của các nước phát triển đến pháp luật thương mại quốc tế là khá lớn. Trong đó, khái niệm bán phá giá được ghi nhận trong ADA chỉ là sự lặp lại quan niệm về bán phá giá đã được các nước phát triển ghi nhận trong pháp luật của họ trước đó. Nói cách khác, pháp luật của WTO (trong đó có khái niệm bán phá giá) được xây dựng từ những nguyên lý thương mại - pháp lý của các nước phát triển. Với kinh nghiệm của mình, các quốc gia phát triển luôn tạo ra những khoảng trống tinh vi trong khái niệm 18 trên bằng việc đưa ra những căn cứ pháp lý có tính định tính và luôn có ngoại lệ như giá trị thông thường, điều kiện thương mại thông thường, giá có thể so sánh được… với mục đích có thể sử dụng linh hoạt trong các tranh chấp quốc tế. Các khoảng trống này thường bị lạm dụng để bảo hộ ngành sản xuất trong nước trước áp lực cạnh tranh từ hàng hóa nhập khẩu (ngay cả khi ưu thế cạnh tranh của hàng hóa nhập khẩu có được từ lợi thế so sánh). Để có thể phát hiện và khai thác triệt để những khoảng trống pháp lý nhằm bảo hộ nền kinh tế trong nước, các cơ quan có thẩm quyền và những người thực thi pháp luật cần am hiểu sâu sắc pháp luật và dày dạn kinh nghiệm trong việc điều tra và xử lý vụ việc. Các nước tham gia vào WTO khi khung pháp luật về chống bán phá giá đã ổn định như Việt Nam thường bị buộc phải tiếp nhận những nguyên tắc sẵn có như điều kiện để trở thành thành viên của tổ chức này. Chúng ta có thể xây dựng một đạo luật với những nguyên tắc và những khái niệm pháp lý hiện đại, phù hợp với chuẩn mực quốc tế ngay cả khi nhận thức về bán phá giá và chống bán phá giá chưa thực sự đầy đủ và toàn diện. Trong bối cảnh ấy, việc khai thác các khoảng trống trong pháp luật chống bán phá giá nói chung và trong các căn cứ cấu thành nên khái niệm bán phá giá không đơn giản. (2) Các chuẩn mực của tự do thương mại là những điểm nối kết thương mại của toàn cầu hóa mà bất cứ quốc gia nào khi muốn tham gia phải đáp ứng. Các quốc gia đang phát triển hoặc đang trong danh sách những nước nghèo vì bị hạn chế về nhận thức và có vị thế thấp phải chấp nhận những tiêu chuẩn của toàn cầu hoá đã được các nước phát triển đặt ra. Các quốc gia đi sau (trong đó có Việt Nam) với quan niệm đi tắt đón đầu luôn có mong muốn tận dụng mọi cơ hội của toàn cầu hóa để phát triển cho dù các điều kiện về nhận thức và vật chất chưa được chuẩn bị chu đáo. Sau hơn 20 năm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, Việt Nam đã hoàn thành cơ bản chiến lược hội nhập về mặt tổ chức. Cũng trong thời gian đó, để đáp ứng những điều kiện cho việc gia nhập vào thị trường chung, chúng ta phải tiếp thu khối lượng quá lớn về các tiêu chuẩn pháp lý - kinh tế của thương mại quốc tế mà pháp luật chống bán phá giá là điển hình. Cho dù có khả năng lĩnh hội thì chúng ta cũng không đủ thời gian để hiểu cặn kẽ tất cả các nội dung của ADA. Việc xây dựng pháp luật chống bán phá giá đôi khi chỉ là nghĩa vụ để đảm bảo tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra theo đúng lộ trình đã đặt ra. Vì thế, nội dung của Pháp lệnh chống bán phá giá chỉ là sự tiếp thu các nội dung cơ bản của ADA, luật mẫu về chống bán phá giá của WTO mà chưa khai thác được quyền sáng tạo trong phạm vi cho phép của các định chế quốc tế. Từ những phân tích trên, tác giả có một số kết luận ban đầu như sau: 19 1. Các quan điểm về khái niệm bán phá giá trong khoa học pháp lý và trong thương mại quốc tế đều thống nhất rằng bán phá giá là hiện tượng phân biệt giá quốc tế. Nhà làm luật của các nước tiên phong đã ứng dụng và phát triển quan niệm về bán phá giá trong các lý thuyết thương mại quốc tế để xây dựng nên cấu thành pháp lý của hiện tượng bán phá giá. 2. Phá giá với tư cách là một vấn đề thương mại tồn tại trong một thời gian dài, nhưng phá giá chỉ trở thành vấn đề trong chính sách thương mại quốc tế sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất và đặc biệt trong thời kỳ đại khủng hoảng của những năm 30 [35, tr 69]. Chống bán phá giá đã trở thành một nội dung trong khung pháp lý quốc tế bằng sự ghi nhận của Điều VI GATT 1947 và sự ra đời của ADA năm 1994. Hiện nay, trong khoa học pháp lý không có những mâu thuẫn hay xung đột về khái niệm bán phá giá. Pháp luật của WTO đã trở thành chuẩn mực chung cho pháp luật của các nước và là căn cứ pháp lý cơ bản cho các nghiên cứu trong khoa học pháp lý về vấn đề này. Sự khác biệt trong pháp luật của các nước chủ yếu là cách thức tính toán những yếu tố cấu thành nên hiện tượng bán phá giá. 3. Khái niệm bán phá giá đã khẳng định những quan niệm đánh đồng bán phá giá với hiện tượng bán hàng hóa thấp hơn chi phí sản xuất là sai và cũng là cơ sở để phân biệt bán phá giá với việc chính phủ của các quốc gia trợ cấp xuất khẩu trái với thông lệ chung. Tác động của việc bán phá giá và của trợ cấp xuất khẩu tới thị trường nhập khẩu có thể là giống nhau song bán phá giá được giả thiết là hành vi của DN nước ngoài phân biệt đối xử về giá và các doanh nghiệp này sử dụng chính nguồn lực của mình để trợ giá. Ngược lại, trợ cấp được giả thiết là việc chính phủ trực tiếp hoặc gián tiếp thanh toán các khoản trợ giá xuất khẩu cho các DN. 4. Tại Việt Nam, các nhà làm luật có những thay đổi trong quan niệm về bán phá giá. Những thay đổi đó được phản ánh qua sự ra đời của hai văn bản pháp luật là Pháp lệnh giá được ban hành năm 2002 và Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam được ban hành năm 2004. Khái niệm bán phá giá trong Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu được đánh giá là hoàn chỉnh và phù hợp với pháp luật WTO. 1.1.2. Tác động của bán phá giá hàng hóa nhập khẩu đối với thị trường nhập khẩu Tác động của hiện tượng bán phá giá được nhìn nhận cả góc độ tích cực và tiêu cực bằng việc phân tích ảnh hưởng của nó đối với lợi ích của người tiêu dùng, nhà sản xuất có liên quan và các DN kinh doanh sản phẩm cạnh tranh nội địa. 20 Việc hàng hóa nhập khẩu bán phá giá có những ảnh hưởng đáng kể đến người tiêu dùng của nước nhập khẩu cả trong ngắn hạn và dài hạn. Trong ngắn hạn, việc bán phá giá đã tối đa hóa lợi ích cho người tiêu dùng vì họ có cơ hội mua được hàng hóa nhập khẩu giá rẻ. Với tâm lý vị lợi, người tiêu dùng luôn có xu hướng lựa chọn hàng hóa phù hợp với nhu cầu sử dụng ở mức giá thấp nhất có thể. Sự xuất hiện của hàng hóa nhập khẩu phá giá trên thị trường đã làm tăng khả năng thỏa mãn nhu cầu của họ. Phân tích thị trường trong trạng thái tĩnh, dùng phương pháp nhân độ thỏa dụng của từng cá nhân thành độ thỏa dụng của cả thị trường, có thể thấy, hiện tượng bán phá giá có khả năng làm tăng thặng dư tiêu dùng tại nước nhập khẩu. Với nguyên tắc, trong kinh tế thị trường, lượng hàng hóa người ta mua phụ thuộc vào giá cả của nó [55, tr 102], hiện tượng bán phá giá của hàng hóa nhập khẩu có thể là động lực kích thích tiêu dùng. Theo đó, bằng việc tối đa hóa độ thỏa dụng cho người tiêu dùng, hàng hóa nhập khẩu phá giá tác động đến nhu cầu của người tiêu dùng qua hiệu ứng thu nhập. Trong giáo trình Kinh tế học tập 1, hai nhà kinh tế học Paul A Samuelson - Wiliam D. Nordhalls khẳng định rằng hiệu ứng thu nhập phản ánh tác động của sự thay đổi giá cả đến lượng cầu của hàng hóa bằng cách làm tăng hoặc giảm thu nhập thực tế của người tiêu dùng [55, tr 178]. Một khi giá của hàng hóa có xu hướng giảm, sẽ làm tăng hiệu ứng thu nhập của người tiêu dùng, từ đó tăng lượng tiêu thụ hàng hóa. Ngoài ra, việc bán phá giá hàng hóa nhập khẩu còn làm tăng mức độ cạnh tranh trên thị trường. Việc hàng hóa nhập khẩu phá giá với giá bán rẻ hơn so với hàng hóa nội địa đã tạo ra sức ép cho ngành sản xuất nội địa trong việc tìm phương cách nâng cao khả năng cạnh tranh theo nguyên tắc giá cả là tín hiệu đối với người sản xuất và người tiêu dùng. Khi hàng hóa nhập khẩu có giá rẻ hơn, hàng hóa nội địa trở thành mặt hàng có giá cao tương đối. Với sự tác động của hiệu ứng thay thế, người tiêu dùng có xu hướng dùng hàng hóa nhập khẩu với giá rẻ hơn để thỏa mãn nhu cầu của mình và đẩy các DN nội địa vào tình trạng hoặc tìm cách giảm chi phí để tăng khả năng cạnh tranh về giá, hoặc mất khách hàng. Mức cạnh tranh tăng sẽ có tác dụng làm giảm sức ỳ của các DN nội địa, làm giảm khả năng bóc lột khách hàng của các DN nội địa với giả thiết rằng trước khi có hiện tượng bán phá giá của hàng hóa nhập khẩu, các DN này đang có vị trí độc quyền. Trong dài hạn, quyền lợi của người tiêu dùng có thể bị xâm hại nếu DN nước ngoài bán phá giá hàng hóa để thực hiện chiến lược chiến đoạt thị trường bằng cách định giá hủy diệt ngành sản xuất trong nước. Mặc dù bán phá giá đem lại lợi ích 21 cho người tiêu dùng ở hiện tại, song khi đã chiếm đoạt được thị trường nhập khẩu, giá của hàng hóa nhập khẩu sẽ tăng vọt trong tương lai để các DN lấy lại những gì đã mất từ việc phá giá. Người tiêu dùng lại trở thành nạn nhân của mức giá độc quyền do các DN nước ngoài ấn định. Sự suy đoán về khả năng giá tăng trong tương lai hoặc sản lượng hàng hóa nhập khẩu sẽ giảm để chi phối cung cầu là một trong những căn cứ để kết luận về bản chất hạn chế cạnh tranh của hành vi bán phá giá có mục đích cướp đoạt thị trường [60, tr 59 - 60]. Tác động của bán phá giá đối với các DN có liên quan tại nước nhập khẩu. Các DN có liên quan được xác định là những DN của nước nhập khẩu hoạt động ở ngành sản xuất khác có sử dụng hàng hóa nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất. Khi hàng hóa nhập khẩu bán phá giá, các DN nói trên có được nguồn nguyên liệu rẻ để sản xuất, kinh doanh, từ đó góp phần thúc đẩy tăng trưởng cho ngành sản xuất mà họ hoạt động. Tác động của bán phá giá đến ngành sản xuất nội địa kinh doanh sản phẩm cạnh tranh với hàng hóa nhập khẩu (gọi tắt là ngành sản xuất nội địa hoặc DN sản xuất nội địa). Tác động tiêu cực của bán phá giá hàng hóa nhập khẩu chủ yếu được chứng minh bằng những thiệt hại mà ngành sản xuất nội địa phải gánh chịu. Các DN sản xuất nội địa và người lao động trong các DN này là nạn nhân thực tế và trực tiếp của việc hàng hóa nhập khẩu bán phá giá. Nếu mức phá giá làm giá cạnh tranh của sản phẩm nhập khẩu thấp hơn chi phí sản xuất của hàng hóa nội địa, DN nội địa sẽ bị đẩy vào tình trạng cạnh tranh không lối thoát, hoặc chịu lỗ để chạy đua theo mức giá phá giá, hoặc mất khách hàng. Trong trường hợp mức phá giá làm giá cạnh tranh của hàng hóa nhập khẩu thấp hơn giá bán hiện tại nhưng không thấp hơn chi phí sản xuất của hàng hóa nội địa thì thiệt hại mà ngành sản xuất nội địa phải chịu là sự suy giảm lợi nhuận, suy giảm lợi tức đầu tư…. Tuy nhiên, trong trường hợp này có hai khả năng trái ngược nhau xảy ra: Thứ nhất, việc suy giảm lợi nhuận của ngành sản xuất nội địa là cần thiết cho lợi ích chung của thị trường nước nhập khẩu do các DN nội địa đang chi phối thị trường. Hàng hóa nội địa đang được bán với mức giá độc quyền nên việc bán phá giá của hàng hóa nhập khẩu có thể giải phóng khách hàng khỏi tình trạng bị bóc lột cho dù gây thiệt hại cho ngành sản xuất nội địa. Thứ hai, sự suy giảm lợi nhuận làm giảm tính hấp dẫn về đầu tư của thị trường nội địa. Khi mức phá giá đẩy mặt bằng giá hàng hóa cạnh tranh với hàng hóa nhập khẩu trên thị trường nhập khẩu xuống gần bằng chi phi phí bình quân (giá 22 thành của hàng hóa) sẽ làm giảm khả năng có lợi nhuận xuống mức tối thiểu. Đương nhiên, sức hấp dẫn các nguồn vốn đầu tư vào ngành sản xuất nội địa sẽ giảm cho dù việc bán phá giá không đủ để loại bỏ các DN đang hoạt động. Như vậy, việc bán phá giá của hàng hóa nhập khẩu vừa có những tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực cho thị trường của nước nhập khẩu. Vì thế, khi tiến hành xử lý hành vi phá giá, Nhà nước bị đặt vào tình trạng phải giải quyết xung đột giữa quyền lợi của người tiêu dùng đang được thụ hưởng (hiện tại đang mua được hàng hoá giá rẻ) và lợi ích của nhà sản xuất trong nước (phải hạ giá thành để có thể cạnh tranh với hàng hoá đang phá giá, và việc mất dần thị phần của họ). Vấn đề là Nhà nước phải lựa chọn lợi ích cơ bản cần được bảo vệ. Đôi khi, trong các vụ việc chống bán phá giá, các lực lượng thị trường với lợi ích đối lập luôn đấu tranh với nhau và tạo ra những áp lực không nhỏ để buộc cơ quan có thẩm quyền đưa ra các quyết sách phù hợp với lợi ích của họ. 1.2. CƠ SỞ KINH TẾ - PHÁP LÝ CHO VIỆC XÁC ĐỊNH BẢN CHẤT CỦA BÁN PHÁ GIÁ HÀNG HÓA NHẬP KHẨU Trong quá trình phát triển của pháp luật chống bán phá giá tại các nước phát triển, quan niệm về sự không lành mạnh của bán phá giá hàng hóa nhập khẩu đã có sự thay đổi. Vào thời sơ khai, các nhà kinh tế đã cảnh báo với các nhà lập pháp rằng việc hàng hóa nhập khẩu bán phá giá là nguy hại bởi chúng cản trở việc hình thành ngành sản xuất nội địa hoặc tiêu diệt đối thủ. Trong cuốn sách Hệ thống thương mại thế giới, tác giả John H. Jackson đã trích dẫn những ghi nhận của nhà kinh tế học người Canađa Jacob Viner về những tuyên bố của Alexander Hamilton trong các cuộc tranh luận tại Mỹ vào năm 1791, cảnh báo về các thủ pháp của các đối thủ cạnh tranh bán hạ giá tại các nước khác nhằm vô hiệu hóa những nỗ lực đầu tiên để đưa (một DN)… vào một lãnh vực mới bằng những hy sinh tạm thời, được đền bù, có thể bằng những khoản bồi thường rất lớn của chính phủ nước đó… [44, tr 347]. Do đó, đã có quan điểm cho rằng việc bán phá giá hàng hóa nhập khẩu là không lành mạnh bởi nó là hành vi định giá hủy diệt (Predatory pricing). Hiện nay, bán phá giá lại được nhìn nhận là hành vi phân biệt giá quốc tế và chỉ bị xử lý nếu gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho ngành sản xuất của nước nhập khẩu [35, tr 198]. Sự thay đổi trên đã dẫn đến những thay đổi trong cấu thành pháp lý của khái niệm bán phá giá. Nhiều nguyên lý trong kinh tế học đã được sử dụng để xác định bản chất pháp lý và cấu thành pháp lý của việc bán phá giá bao gồm lý thuyết về hành vi định giá hủy diệt (còn gọi là định giá cướp đoạt), các nguyên lý 23 của thương mại tự do và lý thuyết về hành vi phân biệt giá. Các lý thuyết này được sử dụng để lý giải cơ chế hình thành việc bán phá giá, đặt ra cơ sở pháp lý - kinh tế để áp dụng các biện pháp chống bán phá giá và xác định giới hạn của việc xử lý các hành vi bán phá giá trong thương mại quốc tế. 1.2.1. Bán phá giá được hình thành trong môi trường của thương mại tự do Quá trình toàn cầu hoá kinh tế với sự ra đời của nhiều tổ chức kinh tế quốc tế và hình thành nên nhiều vùng thị trường khu vực và quốc tế rộng lớn thông qua việc xoá bỏ các rào cản thuế quan và phi thuế quan. Quan hệ thương mại quốc tế được biểu hiện thông qua sự dịch chuyển các giá trị thương mại dưới hình thức hàng hoá hoặc dịch vụ giữa thị trường của các nước với nhau dựa trên quy chế Tối huệ quốc (MFN) và quy chế Đãi ngộ quốc gia (NT). Hai quy chế này đảm bảo cho nguyên tắc tự do và bình đẳng thực sự phát huy được hiệu quả trong thương mại quốc tế cũng như bảo đảm cho hàng hoá được lưu thông một cách tự do trên tinh thần không phân biệt đối xử. Thương mại tự do tất yếu làm phát sinh môi trường cạnh tranh quốc tế. Cuộc cạnh tranh quốc tế diễn ra bằng sự phát huy và phối hợp lợi thế so sánh của các quốc gia. Để có thể tồn tại, các nước cần có được những ngành kinh tế mũi nhọn, có lợi thế so sánh để tranh giành cơ hội phát triển. Đồng thời, quá trình lưu chuyển tự do của thương mại sẽ đưa đến cho người tiêu dùng của mọi quốc gia những sản phẩm có chất lượng với giá tối ưu. Tiến trình cắt giảm thuế quan và xóa bỏ các hàng rào phi thuế quan trong các cam kết thương mại quốc tế, các rào cản từ chi phí vận chuyển ngày càng bị xóa mờ; sự phát triển của thông tin liên lạc đã làm cho sự cạnh tranh giữa sản phẩm nội địa và sản phẩm nhập khẩu, giữa các sản phẩm nhập khẩu với nhau ngày càng gay gắt. Cạnh tranh quốc tế được xem như động lực quan trọng cho sự phát triển của các dòng thương mại. Tuy nhiên, cạnh tranh sẽ chỉ trở thành động lực phát triển khi các nguyên lý vận hành của thương mại tự do được Nhà nước và DN của các quốc gia tôn trọng. Nhà nước không chỉ giảm thiểu đến mức thấp nhất sự can thiệp vào các dòng thương mại mà còn không được dùng các biện pháp kinh tế như tài trợ bất chính để làm méo mó tương quan cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Các DN cần tôn trọng các nguyên tắc về cạnh tranh công bằng, bình đẳng. Trong quan hệ cạnh tranh, cạnh tranh về giá cả để tranh giành khách hàng luôn được coi là nội dung quan trọng được pháp luật cạnh tranh của các quốc gia và các chính sách cạnh tranh trong thương mại quốc tế quan tâm. 24 Khi môi trường cạnh tranh được hình thành và sự can thiệp của nhà nước giảm đi, tất yếu sẽ xuất hiện khuynh hướng lạm dụng tự do để cạnh tranh không lành mạnh hoặc hạn chế cạnh tranh mà tiêu biểu là hiện tượng bán phá giá của hàng hóa nhập khẩu. Sự thúc giục của lợi nhuận, của nhu cầu bành trướng thị phần và bằng khả năng sáng tạo, các DN luôn có xu hướng thực hiện những hành vi cạnh tranh bất chính nhằm loại bỏ đối thủ hoặc chiếm đoạt thị phần. Như vậy, bản chất cạnh tranh không lành mạnh của hành vi bán phá giá được nhìn nhận dưới góc độ của lý thuyết về tự do hóa thương mại là sự lạm dụng tự do để xâm hại đến thương mại tự do bằng cách tranh giành thị trường của các đối thủ cạnh tranh, cụ thể là các DN cạnh tranh nội địa. Sự suy giảm của ngành sản xuất nội địa ở hiện tại hoặc tương lai do bán phá giá gây ra là bằng chứng chứng minh rằng quốc gia nhập khẩu đã bị cản trở khả năng phát triển lợi thế so sánh. Việc áp dụng các biện pháp chống bán phá giá được đặt ra nhằm bảo vệ thương mại tự do, bảo vệ lợi thế so sánh của quốc gia nhập khẩu đang bị đe dọa bởi hành vi bán phá giá hàng hóa nhập khẩu. Với tư cách là hiện tượng xảy ra trong giao thương quốc tế, hành vi bán phá giá và các lý thuyết về nó chịu ảnh hưởng từ những đặc thù của thương mại quốc tế. Những ảnh hưởng này được phân tích dưới hai góc độ. Thứ nhất, thương mại quốc tế có hai đặc điểm quan trọng tạo nên sự khác biệt với thương mại trong nước của bất cứ quốc gia nào. Trước hết, mỗi nước đều có đơn vị tiền tệ riêng của mình. Nhà sản xuất ở bất cứ nước nào đều muốn được trả tiền cho hàng hóa, dịch vụ mình sản xuất ra bằng tiền của nước đó và người mua cũng muốn sử dụng tiền tệ của nước mình để trả cho hàng hóa và dịch vụ mà họ muốn sử dụng. Sau nữa, chủ nghĩa dân tộc và các mục tiêu chính trị luôn được đưa vào trong các mối quan hệ giữa các quốc gia [34, tr 425-426]. Hai đặc điểm trên của thương mại quốc tế đã làm phát sinh những tranh luận về bản chất bất chính của hành vi bán phá giá. Ngoài những quan điểm truyền thống cho rằng bán phá giá là sự lạm dụng tự do thương mại để thực hiện mục đích chiếm đoạt thị trường, còn có quan điểm cho rằng phá giá xuất phát từ sự khác biệt giữa chính sách pháp lý và kinh tế quốc dân giữa hai thị trường quốc gia. Quan điểm này được đưa ra từ Nhà kinh tế học Gabrielle Marceau và được trích dẫn trong cuốn Từ điển chính sách thương mại quốc tế của tác giả Walter Goode [35, tr 83]. Bà cho rằng những khác biệt quốc gia là điều bình thường và hợp lý trừ phi các nước có thỏa thuận về tiêu chuẩn quốc tế. Những khác biệt trong chính sách kinh tế quốc dân đã ảnh hưởng 25 đến cách thức phân bổ chi phí và quan niệm về các bộ phận của giá thành sản xuất, ảnh hưởng đến chiến lược định giá trên các thị trường khác nhau. Sự khác biệt trong chính sách pháp lý có thể tạo nên cách thức tính toán về giá thông thường và giá xuất khẩu khác nhau. Điều này có thể chi phối kết quả của cuộc điều tra và dễ dàng kết luận hàng hóa nhập khẩu có bán phá giá. Vấn đề được đặt ra là một khi bán phá giá là kết quả tất yếu của sự khác biệt trong chính sách pháp lý và kinh tế của hai quốc gia thì pháp luật không thể lên án nếu chưa gây ra hậu quả xấu cho nền kinh tế của nước nhập khẩu. Mặt khác, từ lý thuyết về lợi thế so sánh và thực tiễn phát triển của toàn cầu hóa, mỗi quốc gia đều có những đặc thù về tập quán, dân cư, tự nhiên…; có sự khác nhau trong cấu trúc và giá trị của các loại chi phí sản xuất, kinh doanh; có những tiêu chuẩn chất lượng, tiêu chuẩn kỹ thuật và nhu cầu tiêu dùng đối với một loại sản phẩm khác nhau. Những khác biệt trên đã dẫn đến hiện tượng dị biệt sản phẩm cho dù chúng có cùng mục đích sử dụng4 và phân hóa về giá thành sản xuất, giá giao dịch giữa sản phẩm xuất khẩu và sản phẩm tiêu dùng trong nội địa. Sự biến động trong tỷ giá hối đoái thường có những tác động làm tăng hoặc giảm sức cạnh tranh về giá của hàng hóa lưu thông trên thị trường quốc tế. Do đó, các căn cứ để xác định bán phá giá luôn ở trong tình trạng động, tức là các chi phí sản xuất và giá thị trường luôn thay đổi theo thời gian và theo điều kiện thị trường. Từ nhiều thông số về giá mua bán hàng hóa trên thị trường nội địa và các thông số về giá xuất khẩu không đồng nhất, cơ quan có thẩm quyền phải tính toán biên độ phá giá cho mỗi loại sản phẩm của từng DN xuất khẩu. Điều đó cho thấy việc điều tra về bán phá giá không đơn giản. Kết quả của những khác biệt trên là các nước chỉ thống nhất về khái niệm mà chưa có sự thống nhất về phương pháp thống kê, tính toán giá thông thường, giá xuất khẩu và biên độ phá giá. Thứ hai, đặc thù của tự do thương mại có ảnh hưởng đến giới hạn của pháp luật chống bán phá giá và các lý thuyết về bán phá giá. Pháp luật của WTO và của các nước chỉ đề cập đến bán phá giá hàng hóa nhập khẩu mà chưa bàn luận đến bán phá giá dịch vụ trong thương mại quốc tế. Điều này có thể được lý giải từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Một là, từ sự khác nhau giữa khái niệm hàng hóa và dịch vụ. Cho đến nay, chưa có một định nghĩa về dịch vụ được chấp nhận trên phạm vi toàn cầu. Tính vô 4 Có thể nhận thấy ngày càng có sự khác biệt giữa hàng hóa được sản xuất để tiêu thụ trong nước và hàng hóa xuất khẩu, có sự khác biệt giữa hàng hóa xuất khẩu vào những thị trường khác nhau của một DN cho dù chúng có cùng mục đích sử dụng. 26 hình và khó nắm bắt của dịch vụ, sự đa dạng, phức tạp của các loại hình dịch vụ làm cho định nghĩa về dịch vụ trở nên khó khăn. Hơn nữa, các quốc gia khác nhau có cách hiểu về dịch vụ không giống nhau, phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Ngay cả trong Hiệp định chung về thương mại dịch vụ của WTO (GATS) cũng chỉ đưa ra khái niệm dịch vụ bằng cách liệt kê 12 ngành lớn và 155 phân ngành dịch vụ khác nhau. Khi phân biệt với hàng hóa, các nhà kinh tế đã nhận dạng dịch vụ bằng ba đặc trưng là (i) tính vô hình của dịch vụ; (ii) quá trình sản xuất (cung ứng) dịch vụ và tiêu dùng dịch vụ xảy ra đồng thời; (iii) không thể lưu trữ dịch vụ. Vì thế, khó có thể lượng hóa các tiêu chuẩn để xác định chất lượng dịch vụ một cách trực tiếp hay thống nhất các nguyên tắc xác định chi phí, giá thành của dịch vụ trên phạm vi toàn cầu… trong khi những vấn đề nói trên có thể thực hiện được trong thị trường hàng hóa. Cho dù dưới góc độ kinh tế, không có sự khác biệt giữa sản xuất hàng hóa và dịch vụ bởi cả hai đều được điều chỉnh bởi tập hợp các mục đích, các động lực và các hạn chế tương tự [78, tr 30]. Tuy nhiên, thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ có nội diên và ngoại hàm khác nhau nên quy chế pháp lý để điều chỉnh chúng cũng phải được thiết kế khác nhau. Những chuẩn mực trong việc xác định tính lành mạnh của thương mại hàng hóa dường như đã được định hình rõ nét. Trong khi đối với thương mại dịch vụ còn là vấn đề của tương lai. Hai là, trong hơn 100 năm hình thành và phát triển, pháp luật chống bán phá giá hàng hoá được xây dựng trên cơ sở nguyên tắc đối vật. Nguyên tắc này xuất phát từ bản chất vật chất hiện hữu của hàng hoá và nhấn mạnh đến đối tượng xử lý của các biện pháp chống bán phá giá là hàng hoá [44, tr 375]. Khi hàng hóa nhập khẩu bán phá giá gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước, pháp luật được sử dụng để xử lý hàng hoá nhập khẩu mà không xử phạt người đã thực hiện hành vi. Các biện pháp được sử dụng không nhằm mục đích loại bỏ sản phẩm bị bán phá giá ra khỏi thị trường, cũng không để trừng phạt chủ thể thực hiện hành vi mà chỉ là loại bỏ hoặc ngăn chặn thiệt hại do hành vi phá giá gây ra cho ngành sản xuất trong nước. Trong khi đó, việc cung ứng dịch vụ luôn gắn liền với nhân thân, trình độ, tri thức… của người cung ứng dịch vụ. Sự chuyển giao dịch vụ giữa người cung ứng và người tiêu dùng diễn ra ngay khi dịch vụ được sản xuất. Vì thế nguyên tắc đối vật khó có thể áp dụng khi chưa có những tiêu chuẩn phân tách đối tượng phá giá và chủ thể thực hiện hành vi. 27 Ba là, từ góc độ lịch sử, sau nửa thế kỷ đấu tranh và đàm phán, các nước tham gia thành lập WTO đã hình thành được khung pháp lý cơ bản cho tự do thương mại trên thị trường hàng hóa. Những vấn đề của tự do thương mại đối với dịch vụ bắt đầu được quan tâm một cách đúng mức trong vòng đàm phán Uruguay với sự ra đời của GATS5. Tuy nhiên, cho đến nay, các nội dung về việc mở cửa thị trường dịch vụ vẫn đang được đàm phán. Mặt khác, sự phức tạp trong việc xác định khái niệm dịch vụ, các loại dịch vụ và kéo theo là việc xây dựng những chuẩn mực chung cho thương mại dịch vụ đã gây ra những khó khăn cho quá trình thiết lập các khung pháp lý chung trong lĩnh vực này. Có nhiều nội dung của thương mại dịch vụ chưa hình thành và vấn đề bán phá giá cũng đang nằm trong tình trạng tương tự. Vấn đề bán phá giá dịch vụ đã từng được bàn luận trong quá trình dự thảo Hiến chương Havana6. Theo đó, bán phá giá dịch vụ được quan niệm từ việc sử dụng các thỏa thuận phân biệt hoặc trợ giá trong các điều khoản về dịch vụ vận tải biển. Thực chất khi đề cập đến phá giá trong lĩnh vực dịch vụ, Hiến chương lên án hành vi này do nó tạo cho sản phẩm những lợi thế bất chính từ việc phá giá chi phí vận chuyển tàu biển. Như vậy, cách hiểu về phá giá dịch vụ theo Hiến chương Havana được giới hạn rất hẹp chỉ trong lĩnh vực vận chuyển tàu biển mà không bao gồm hết các ngành dịch vụ trong thương mại quốc tế. Cho đến nay, khái niệm phá giá dịch vụ chỉ có giá trị nghiên cứu về lý thuyết mà không được phản ánh trong các quy tắc về chống bán phá giá hiện hành của WTO và của các nước. Để bảo vệ các nhà cung cấp dịch vụ nội địa trước sự cạnh tranh của dịch vụ nhập khẩu, Điều X của GATS về “các biện pháp tự vệ khẩn cấp” cho phép các nước thành viên thay đổi hoặc rút các cam kết cụ thể trong trường hợp khẩn cấp7 [28, tr 25]. Tại Việt Nam, vấn đề bán phá giá dịch vụ được đề cập đến trong Pháp lệnh giá năm 2002. Tuy nhiên, văn bản này vẫn chưa có giải thích chính thức về các căn cứ để xác định việc bán phá giá dịch vụ. Trên thực tế, chưa xảy ra vụ tranh chấp về phá giá dịch vụ được cơ quan có thẩm quyền thụ lý, giải quyết. Vì vậy, mặc dù vẫn còn hiệu lực, song quy định của pháp lệnh giá về bán phá giá dịch vụ vẫn chỉ có giá trị tham khảo về học thuật mà chưa đem lại hiệu quả điều chỉnh trên thực tế. 5 Hiệp định chung về thương mại dịch vụ là một trong các kết quả của Vòng Uruguay, có hiệu lực ngày 1 tháng 1 năm 1995. Hiệp định này bao gồm tất cả thương mại dịch vụ trừ các quyền hàng không song phương và các dịch vụ mua bán do các cơ quan chính phủ thực hiện. 6 Hiến chương của Tổ chức thương mại quốc tế (ITO) 7 Tất nhiên, GATS cũng đòi hỏi là chỉ sau thời gian 1 năm, kể từ ngày bất đầu thực hiện cam kết, các nước mới được sử dụng biện pháp này. Hiện nay, việc cụ thể hóa các quy định tại điều X của GATS về các biện pháp tự vệ khẩn cấp trong thương mại dịch vụ vẫn đang tiếp tục được đặt lên bàn đàm phán. 28 1.2.2. Lý thuyết về phân biệt giá được sử dụng làm nền tảng lý luận để xây dựng cấu thành pháp lý và xác định bản chất hạn chế cạnh tranh của hành vi bán phá giá Lý thuyết về hành vi phân biệt giá là một trong những cơ sở lý luận để xây dựng nên chế định về hành vi hạn chế cạnh tranh của pháp luật cạnh tranh. Khi nhìn nhận bán phá giá là một dạng hạn chế cạnh tranh trong thương mại quốc tế, pháp luật chống bán phá giá đã sử dụng lý thuyết này để lý giải về nguồn gốc và xây dựng nên cấu thành pháp lý của hành vi bán phá giá. Phân biệt giá được hiểu là việc DN áp dụng các mức giá khác nhau cho những khách hàng có giao dịch như nhau. Nói cách khác, phân biệt giá là hành vi của người bán hàng hóa áp dụng những mức giá khác nhau tùy theo loại khách hàng mà không dựa vào sự chênh lệch về chi phí [70, tr 171]. Trong pháp luật cạnh tranh, hành vi phân biệt giá được xác định dựa trên những căn cứ sau: Thứ nhất, phân biệt giá được xác định từ việc so sánh giá mua bán của sản phẩm trong các giao dịch tương tự nhau với những khách hàng khác nhau. Nếu mức giá được áp dụng khác nhau thì kết luận có sự phân biệt giá và ngược lại. Thứ hai, các giao dịch bị phân biệt giá phải là các giao dịch tương tự nhau. Căn cứ này được xây dựng từ nguyên tắc DN được quyền định giá theo nội dung của giao dịch. DN có quyền áp dụng những mức giá khác nhau cho các giao dịch không giống nhau về đối tượng, giá trị, thời điểm giao kết và thực hiện giao dịch…. Thông thường, các giao dịch được coi là tương tự nhau khi đáp ứng đủ các điều kiện sau: - Đối tượng của các giao dịch là những loại hàng hóa, dịch vụ tương tự nhau. Tính tương tự được xem xét từ các thuộc tính của sản phẩm, thành phần vật lý hay hóa học, các đặc điểm hoạt động hay chức năng của sản phẩm…. - Các giao dịch được dùng để so sánh trong lý thuyết phân biệt giá phải tương đương về giá trị. Giá trị hợp đồng phụ thuộc vào trị giá của sản phẩm và số lượng, khối lượng được mua bán trong giao dịch. Trong thực tế, các DN có thể thực hiện những chiến lược dành ưu đãi cho các giao dịch có giá trị lớn8, có tính thường xuyên hoặc thưởng tăng trưởng9.... - Thời điểm xác lập các giao dịch: cùng với thời gian và các biến động thị trường, các điều kiện về quan hệ cung cầu, mức độ cạnh tranh trên thị trường và chiến 8 Còn gọi tính kinh tế nhờ quy mô dẫn đến việc giảm giá thành đơn vị của sản phẩm được mua bán. 9 Thưởng tăng trưởng là việc DN thực hiện các kế hoạch chiết khấu cho những khách hàng có sự gia tăng về khối lượng, giá trị mua so với kỳ giao dịch trước. 29 lược kinh doanh của DN sẽ thay đổi. Các giao dịch cho dù tương tự về sản phẩm và giá trị nhưng được xác lập ở những điều kiện thị trường không giống nhau thì có thể sẽ áp dụng các điều kiện thương mại (trong đó có giá cả) khác nhau. Do đó, muốn xác định sự phân biệt giá cần phải xác định về thời gian mà các giao dịch giữa DN và khách hàng được xác lập. Các giao dịch chỉ được coi là như nhau khi chúng được xác lập ở những thời điểm mà điều kiện thị trường giống nhau. Điều này không có nghĩa là chúng phải được hình thành tại cùng một thời điểm. Thời điểm xác lập có thể khác nhau nhưng trong khoảng thời gian đó, điều kiện thị trường chưa thay đổi, hoặc nếu có thay đổi thì mức độ thay đổi chưa đủ để làm cho điều kiện thương mại phải khác nhau giữa các giao dịch [60, tr 180-182]. - Các giao dịch được dùng để so sánh phải nằm ở những công đoạn tương đương của quá trình phân phối, tiêu thụ (tương xứng về cấp độ thương mại). Nếu một giao dịch đang ở cấp bán buôn, thì giao dịch còn lại cũng là giao dịch ở cấp độ bán buôn. Nếu là giao dịch bán lẻ, tất cả giao dịch được so sánh cũng ở những cấp độ bán lẻ tương ứng. Thứ ba, có sự phân khúc thị trường để ngăn chặn khả năng thông đồng giữa các nhóm khách hàng nói trên hoặc ngăn chặn hành vi đầu cơ làm vô hiệu việc phân biệt giá. Nếu có sự thông đồng giữa các nhóm khách hàng nói trên hoặc có lượng đầu cơ sẵn sàng mua hàng hóa ở khu vực thị trường có giá thấp để bán lại trên thị trường có giá cao thì mục đích của việc phân biệt giá không thể đạt được. Muốn việc phân biệt giá đạt được mục đích, người thực hiện hành vi phải có khả năng phân khúc thị trường. Thông thường, các DN lợi dụng các rào cản có sẵn trên thị trường như chi phí, thời gian vận chuyển, tính ỳ của khách hàng… để ngăn chặn khả năng thông đồng hoặc khả năng đầu cơ nói trên. Trong thương mại quốc tế, khi giao dịch mua bán được thực hiện qua biên giới hữu hình và vô hình của thị trường các nước thì luôn tồn tại những rào cản ngăn trở việc dịch chuyển ngược của hàng hóa xuất khẩu về thị trường xuất khẩu. Thứ tư, lý thuyết phân biệt giá còn đặt ra yêu cầu về tính chiến lược của hành vi phân biệt giá. Theo đó, bán hàng đơn lẻ có sự khác biệt về giá giữa các nhóm khách hàng cụ thể chưa cấu thành sự phân biệt giá bởi sự khác biệt đó có thể do năng lực đàm phán của khách hàng; là những phản ứng với những thay đổi nhất thời trên thị trường; hoặc là một hành động để tạo sự chú ý khi gia nhập thị trường… [26, tr 276 -277]. Chỉ cấu thành hành vi phân biệt giá nếu việc áp dụng 30 các mức giá khác nhau có tính hệ thống hoặc phản ánh chiến lược bán hàng lâu dài của DN. Trong thương mại quốc tế, bán phá giá bị coi là hành vi phân biệt giá nên lý thuyết về phân biệt giá được pháp luật sử dụng để xác định cấu thành pháp lý của hành vi bán phá giá. Việc áp dụng lý thuyết về phân biệt giá vào pháp luật chống bán phá giá đã đưa đến những kết quả sau: (1) Bán phá giá là việc các DN nước ngoài áp dụng mức giá mua bán khác nhau đối với cùng loại hàng hóa trên hai vùng thị trường là thị trường nhập khẩu và thị trường của nước xuất khẩu. Trong đó, giá xuất khẩu thấp hơn giá bán trên thị trường xuất khẩu. Việc điều tra về hành vi bán phá giá là quá trình xác định và so sánh giá trong hai nhóm giao dịch tương tự nhau trên hai vùng thị trường khác nhau, bao gồm: giao dịch mua bán ngoại thương giữa các DN xuất khẩu và DN nhập khẩu (giá sử dụng là giá xuất khẩu); và giao dịch mua bán hàng hóa tương tự trên thị trường nước xuất khẩu (giá thông thường). (2) Đặc thù của mậu dịch quốc tế là sự trao đổi hàng hóa, dịch vụ qua biên giới của các quốc gia. Cho dù các nước đã có những cố gắng để xây dựng các nguyên tắc chung của thương mại quốc tế, song trên thực tế, luôn tồn tại những đặc thù riêng về thị hiếu của người tiêu dùng, năng lực sản xuất của DN, cơ cấu chi phí, hệ thống kế toán, tập quán kinh doanh tiêu dùng, về tiền tệ, tỷ giá hối đoái, tương quan cạnh tranh trên thị trường… của từng quốc gia. Vì vậy, sự khác biệt về chủng loại sản phẩm, giá trị, điều kiện thị trường trong các giao dịch xuất khẩu và giao dịch nội địa là phổ biến trong thương mại quốc tế. Để đảm bảo cho các giao dịch được lựa chọn tương tự nhau và việc so sánh công bằng, pháp luật phải có cơ chế chỉnh lý thích hợp những sai số trên. Ví dụ, nếu hàng hóa trong giao dịch nội địa có các khác biệt với hàng hóa trong giao dịch xuất khẩu, cơ quan điều tra phải điều chỉnh về giá trị bằng cách khấu trừ hoặc cộng thêm một số loại chi phí nhất định nào đó để quy đổi chúng về một tiêu chuẩn chung. (3) Khi điều tra vụ việc chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu, cơ quan có thẩm quyền của các quốc gia không thể căn cứ vào một vài giao dịch cụ thể để đưa ra kết luận mà cần có sự tính toán, tổng hợp nhiều giao dịch xuất khẩu và giao dịch nội địa trong một khoảng thời gian đủ dài nhằm chứng minh về tần suất thực hiện việc phân biệt giá như một chiến lược của các DN. Lý thuyết phân biệt giá không chỉ được sử dụng để xác định cấu thành pháp lý mà còn được dùng để giới hạn mức độ can thiệp của nhà nước đối với hành vi bán 31 phá giá. Từ việc phân tích những lý do để DN thực hiện chiến lược phân biệt giá (tương ứng là bán phá giá), các nhà kinh tế đã cho rằng không phải mọi hiện tượng bán phá giá đều là bất chính và đáng bị xử lý. Các lý thuyết kinh tế đã đưa ra một số khả năng có thể xảy ra hiện tượng bán phá giá. Một là, bán phá giá để tối đa hóa doanh thu và lợi nhuận. Khi hành vi bán phá giá được thực hiện với mục đích tối đa hóa lợi nhuận và doanh thu thì đương nhiên mức độ phá giá sẽ không gây lỗ cho DN. Tức là, giá xuất khẩu chỉ thấp hơn giá bán nội địa của hàng hóa tương tự mà không thấp hơn chi phí sản xuất của sản phẩm bị bán phá giá. Để tối đa hóa lợi nhuận bằng cách bán phá giá, các DN có hai cách định giá: - DN định giá theo khả năng thanh toán của người tiêu dùng tại các vùng thị trường. Với những nhóm khách hàng khác nhau, người ta có thể đo được độ co giãn của cầu theo giá khác nhau [55, tr 135]10. Tương ứng với từng độ co giãn của cầu theo giá là khả năng thanh toán của mỗi nhóm khách hàng. Nếu khả năng thanh toán của từng nhóm khách hàng không giống nhau, DN có thể áp dụng các mức giá khác nhau để thu hút lượng khách hàng cao nhất có thể nhằm tối đa hóa doanh thu và lợi nhuận. Trong tình huống này mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận được xác định bằng cách so sánh chiến lược áp dụng hai giá với chiến lược một giá. Kinh tế học đưa ra hai nguyên lý: (1) mỗi nhóm khách hàng có độ co giãn của cầu theo giá khác nhau, các DN có thể bằng cách định giá bằng doanh thu biên do mỗi nhóm mang lại, sẽ thu được lợi nhuận cao hơn ở trường hợp mà tính một giá đồng nhất; (2) bằng cách định giá mỗi đơn vị sản phẩm bằng với số tiền tối đa mà mỗi khách hàng sẵn sàng thanh toán, các DN chiếm được tất cả thặng dư của người tiêu dùng11 mà mỗi người tiêu dùng có thể có được nếu mua với mức giá thống nhất [55, tr 186] [57, tr 812-813]. Nếu hàng hóa được bán với giá thống nhất cho cả hai vùng thị trường, sẽ có những khách hàng ở thị trường nhập khẩu đã không mua hàng hóa vì cho rằng giá bán là quá cao gây ra tổn thất tải trọng cho DN. Lúc đó, thặng dư trên thị trường bằng tổng lợi nhuận của DN (thặng dư của DN) và thặng dư của người tiêu dùng. Trong trường hợp có sự phân biệt giá theo khả năng thanh toán của khách hàng, cho dù tất cả các giao dịch mua bán được thiết lập và diễn ra để 10 Độ co giãn của cầu theo giá đo lường mức độ thay đổi của lượng cầu về một hàng hóa khi giá của hàng hóa đó thay đổi. Định nghĩa chính xác của độ co giãn theo giá là phần trăm thay đổi của lượng cầu trên phần trăm thay đổi của giá. Độ co dãn theo giá (độ nhạy cảm của cầu) với sự thay đổi của giá của các hàng hóa là vô cùng khác nhau. 11 Thặng dư tiêu dùng là chênh lệch giữa độ thỏa dụng của một hàng hóa với tổng giá trị thị trường của hàng hóa đó. 32 làm lợi cho đôi bên, song lại không có tổn thất tải trọng nên toàn bộ thặng dư có được từ thị trường được chuyển cho DN dưới dạng lợi nhuận. Như vậy, phân biệt giá giữa các nhóm khách hàng có thể là chiến lược tăng lợi nhuận bằng cách tăng doanh thu dựa trên sự gia tăng của tổng sản lượng tiêu thụ trên thực tế [60, tr 188]. Trong thương mại quốc tế, nếu khách hàng trên thị trường nhập khẩu có độ nhạy cảm với giá cao hơn và mức giá sẵn sàng thanh toán của họ thấp hơn so với thị trường nội địa thì các DN xuất khẩu phải cân nhắc đến chiến lược cạnh tranh giá hợp lý để xây dựng hoặc giữ thị phần. Khi đó, giá xuất khẩu có thể thấp hơn giá bán hàng hóa tương tự trên thị trường nội địa và hiện tượng bán phá giá xảy ra. - DN xuất khẩu có vị thế độc quyền trên thị trường nước xuất khẩu trong khi phải cạnh tranh trên thị trường nước nhập khẩu. Theo đó, DN độc quyền ở thị trường nội địa có thể lợi dụng vị thế của mình để ấn định giá bán độc quyền trong nước. Mặt khác, vì phải cạnh tranh ở thị trường nước xuất khẩu12, DN chỉ có thể bán với giá cạnh tranh [6, tr 2-3]. DN đã tối đa hóa lợi nhuận bằng giá độc quyền trên thị trường nội địa. Trong trường hợp này, giá xuất khẩu vẫn đem lại lợi nhuận cho DN cho dù thấp hơn giá bán của sản phẩm tương tự trên thị trường trong nước. Việc phân tích các tình huống trên cho thấy hành vi bán phá giá hàng hóa nhập khẩu có thể chỉ là các chiến lược định giá để tối đa hóa doanh thu và lợi nhuận mà chưa có mục đích tiêu diệt DN cạnh tranh tại nước nhập khẩu. Hai là, bán phá giá để thực hiện chiến lược đòn bẩy trong cạnh tranh. Các DN xuất khẩu có thể xuất khẩu hàng hóa với mức giá thấp hơn giá thành sản xuất để chiếm lĩnh thị trường và khoản lỗ sẽ được bù bằng lợi nhuận của hàng hóa tiêu thụ trên thị trường nội địa. Trong trường hợp này, hành vi bán phá giá được thực hiện nhằm chiếm đoạt thị phần trên thị trường nhập khẩu. Theo đó, các DN xuất khẩu có thể thực hiện các chiến lược cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu để thu được lợi nhuận độc quyền (có thể bằng các thỏa thuận ấn định giá, thỏa thuận giảm sản lượng để chi phối giá…). Đồng thời, xuất khẩu với mức giá lỗ để giành ưu thế cạnh tranh về giá với các DN sản xuất hàng hóa cạnh tranh của nước nhập khẩu và các DN xuất khẩu hàng hóa cạnh tranh từ nước thứ ba. Với mức giá có ưu thế trong cạnh tranh, DN xuất khẩu giành được thị phần, thậm chí có thể loại bỏ được các đối thủ cạnh tranh trên thị trường nước nhập khẩu. Tuy nhiên, nếu tính tổng thể, DN không bị lỗ do đã được bù khoản lỗ trong hoạt động xuất khẩu bằng lợi nhuận độc 12 Cạnh tranh với những DN sản xuất hàng hóa tương tự ở nước nhập khẩu hoặc những nhà xuất khẩu cạnh tranh từ các quốc gia khác. 33 quyền trên thị trường nội địa. Tiêu biểu cho chiến lược đòn bẩy là việc định giá xuất khẩu theo chi phí biến đổi bình quân. Thông thường, cơ cấu chi phí của sản phẩm được phân chia thành chi phí cố định và chi phí biến đổi13 [57, tr 382,1072]. Tổng của hai loại chi phí trên tính theo đơn vị sản phẩm được gọi là chi phí bình quân. Về nguyên tắc, giá của sản phẩm được xác định theo chi phí bình quân. Tuy nhiên, với những DN sản xuất sản phẩm để tiêu thụ nội địa và xuất khẩu, họ có thể thực hiện chiến lược phân biệt giá bằng cách phân bổ toàn bộ chi phí cố định cho quá trình sản xuất vào giá thành của sản phẩm tiêu thụ nội địa. Do đó, số sản phẩm được dùng để xuất khẩu được coi như sản lượng sản xuất thêm. Giá thành của sản phẩm xuất khẩu chỉ còn là chi phí biến đổi bình quân (không bao gồm chi phí cố định bình quân). Trong tình huống này, dù giá trên thị trường nội địa cao hơn và giá xuất khẩu lại thấp hơn chi phí bình quân, song DN vẫn có được lợi nhuận từ hai thị trường [44, tr 343-344]. Mặc dù hành vi bán phá giá đã cấu thành, song người chịu thiệt hại trực tiếp là người tiêu dùng trên thị trường xuất khẩu và các DN cạnh tranh trên thị trường nhập khẩu. Ba là, bán phá giá hàng hóa để thực hiện các chiến lược củng cố thị trường tiêu thụ. Các DN có thể thực hiện việc bán phá giá với mức giá xuất khẩu gây lỗ (thấp hơn giá thành của hàng hóa) để tạo thói quen tiêu dùng trên thị trường nhập khẩu nhằm mở rộng thị trường; hoặc giữ chân những khách hàng có khả năng chuyển sang nhà cung cấp khác [44, tr 345-346]. Với tình huống này, việc phân biệt giá bằng cách bán phá giá hàng hóa nhập khẩu chỉ có thể diễn ra trong ngắn hạn với hy vọng lượng hàng hóa bán được trong tương lai với giá bình thường đủ để bù đắp phần lỗ. Do ảnh hưởng bởi quan niệm của thời trung cổ về giá cả công bằng nên các chính sách nền tảng của thương mại quốc tế đã luôn coi bán phá giá ít nhiều mang bản chất không lành mạnh do đã phân biệt đối xử về giá [44, tr 345]. Tuy nhiên, với những phân tích về đặc trưng và mục đích của việc phân biệt giá, hành vi áp dụng các mức giá khác nhau cho các nhóm khách hàng hoặc cho các vùng thị trường đôi khi chỉ là kết quả ngẫu nhiên do tác động của các điều kiện khách quan hoặc là kết quả của những chiến lược kinh doanh hợp lý của DN. Pháp luật chỉ nên cấm đoán hoặc ngăn chặn hậu quả của hành vi nếu nó gắn với chiến lược đòn bẩy hoặc chiếm giữ thị phần bởi nó được thực hiện với mục đích ngăn cản sự phát triển 13 Chi phí cố định (fix cost) là chi phí của các yếu tố sản xuất cố định (yếu tố sản xuất không thay đổi theo sản lượng) như chi phí nhà xưởng, chi phí quản lý chung…; Chi phí biến đổi (variable costs) là chi phí biến đổi theo mức sản lượng như chi phí lao động, nguyên vật liệu…. 34 hoặc tiêu diệt đối thủ cạnh tranh. Từ quan điểm này, pháp luật đã đặt ra nguyên tắc biện pháp chống bán phá giá chỉ được thực hiện khi nó là nguyên nhân gây ra thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước và chỉ áp dụng ở mức độ đủ loại bỏ hoặc ngăn chặn thiệt hại. 1.2.3. Lý thuyết về định giá hủy diệt (predatory pricing) là cơ sở lý luận để xem xét khả năng gây hại của bán phá giá đối với thị trường nội địa của nước nhập khẩu Từ sơ khai, pháp luật bán phá giá của các nước tiên phong như Canađa, Hoa kỳ đã gắn liền bán phá giá với hành vi định giá hủy diệt và việc chống bán phá giá cũng để ngăn chặn khả năng hủy diệt ngành sản xuất nội địa của nước nhập khẩu. Như hầu hết các chế định khác trong pháp luật cạnh tranh, chế định về hành vi định giá hủy diệt được xây dựng từ những luận thuyết của kinh tế học. Cho đến nay, dù chưa có sự thống nhất tuyệt đối về tác hại của định giá hủy diệt và giới hạn điều chỉnh của pháp luật, song các lý thuyết kinh tế cũng đã có quan điểm thống nhất về khái niệm của hành vi. Theo đó, định giá hủy diệt là việc các DN có quyền lực thị trường ấn định giá bán sản phẩm thấp một cách bất hợp lý trong khoảng thời gian đủ dài nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh ra khỏi thị trường hoặc (và) ngăn cản không cho các đối thủ cạnh tranh mới gia nhập thị trường. Sau khi hoàn tất mục đích ngăn cản hoặc loại bỏ, DN này sẽ tăng giá một cách đáng kể nhằm bù đắp lại các khoản lỗ và các khoản lợi nhuận đã bỏ qua bởi mức độ cạnh tranh trên thị trường đã bị giảm [57, tr 808]. Lý thuyết định giá hủy diệt ra đời từ nhận thức giá cả hoạt động như một tín hiệu đối với người sản xuất và tiêu dùng, khi giá của hàng hóa hạ xuống sẽ khuyến khích tiêu dùng và không khuyết khích sản xuất [55, tr 70-71]. Các DN lôi kéo khách hàng của đối thủ bằng cách hạ giá thấp tương đối so với đối thủ cạnh tranh. Một DN áp dụng giá bán hàng hóa, dịch dụ quá thấp để buộc các đối thủ chấp nhận lỗ để chạy đua về giá thì mức giá đó được coi là có khả năng hủy diệt. Mức giá có khả năng hủy diệt đối thủ có thể là kết quả của quá trình cạnh tranh lành mạnh và cũng có thể là kết quả của hành vi hạn chế cạnh tranh. Sẽ là cạnh tranh lành mạnh nếu các DN hạ giá bán hàng hóa mà vẫn có được lợi nhuận bằng cách giảm chi phí sản xuất, kinh doanh cho dù đối thủ có phải rời bỏ thị trường [26, tr 292]. Sẽ là hạn chế cạnh tranh nếu DN chấp nhận lỗ hoặc không có lợi nhuận để đẩy giá thị trường xuống mức không thể có lãi trong một thời gian nhằm làm suy yếu hoặc loại bỏ đối thủ cạnh tranh [57, tr 808]. Vấn đề đặt ra là cần 35 có cơ chế để phân biệt hai trường hợp trên để vừa ngăn chặn những hành vi định giá hủy diệt mà vẫn tôn trọng quyền được cạnh tranh lành mạnh của DN. Để giải quyết vấn đề này, lý thuyết về định giá hủy diệt đã đặt ra hai căn cứ cấu thành hành vi: DN thực hiện hành vi phải có khả năng chi phối giá thị trường; mức giá bán thực tế của hàng hóa, dịch vụ thấp một cách bất hợp lý. Thứ nhất, khả năng chi phối giá thị trường được hiểu là việc DN định giá thấp đã làm cho mặt bằng giá trên thị trường liên quan hạ xuống tương ứng. DN có khả năng này khi có quyền lực thị trường và hành vi bán sản phẩm với giá thấp được thực hiện như một chiến lược kinh doanh trong một thời gian đáng kể. Với hành vi định giá hủy diệt, DN chi phối giá thị trường qua hai giai đoạn: - Giai đoạn hủy diệt đối thủ bằng cách đẩy mặt bằng giá thị trường xuống thấp hơn chi phí sản xuất. Với nguyên lý về độ co dãn chéo của cầu theo giá, khi giá bán của một DN được đặt thấp hơn của đối thủ cạnh tranh sẽ tăng mức thỏa dụng cho người tiêu dùng và làm giá bán của các đối thủ cạnh tranh sẽ trở nên cao tương đối nên lôi kéo khách hàng về phía mình kể cả những khách hàng của đối thủ. Sự suy giảm lượng khách hàng sẽ là tín hiệu đòi hỏi các DN khác phải có hành động kịp thời để duy trì thị trường. Tuy nhiên, phản ứng của họ sẽ phụ thuộc vào khả năng duy trì giá bán lỗ của DN thực hiện hành vi. Với những DN chưa đủ khả năng chi phối thị trường, chiến lược bán lỗ của họ chưa thể tạo nên ảnh hưởng lớn và lâu dài đến mặt bằng giá của thị trường. Trong trường hợp này, nếu không có các lý do khách quan nào khác thì việc bán lỗ là chiến lược cạnh tranh liều lĩnh và mạo hiểm bởi nó sẽ hủy diệt DN thực hiện hành vi trước khi gây tổn hại cho đối thủ cạnh tranh. Với DN có quyền lực thị trường, bằng sức mạnh tài chính, công nghệ và thị phần, DN có thể áp đặt mức giá với độ chênh lệch lớn so với giá của đối thủ và duy trì trong thời gian đủ dài. Phản ứng của đối thủ sẽ là chạy đua về giá nếu muốn tiếp tục tồn tại. Khi đó, sức mạnh thị trường tiếp tục được khai thác cho đến khi các đối thủ yếu hơn rời bỏ thị trường. Trong giai đoạn này, việc định giá được thực hiện nhằm củng cố vị trí của DN, thậm chí nhằm tạo thế độc quyền trên thị trường. - Giai đoạn đặt giá độc quyền để bù lỗ các chi phí đã bỏ ra trong giai đoạn thứ nhất khi tình trạng cạnh tranh trên thị trường bị hạn chế và không thể phục hồi. Khi đã trở thành độc quyền, DN khai thác lợi thế độc quyền để áp đặt mức giá cao nhằm bóc lột khách hàng. Khả năng chi phối giá của một DN còn phải được chứng minh qua chiến lược định giá của DN đó trên thị trường thông qua năng lực kéo dài thời gian áp đặt giá 36 bán quá thấp hoặc giá mua quá cao…. Sẽ chỉ có thể tác động đến giá thị trường để hủy diệt đối thủ khi có đủ cơ sở để kết luận việc bán hàng hóa với giá thấp là một chiến lược bán hàng mà không phải là những phản ứng tự vệ một cách thuần túy trước áp lực cạnh tranh về giá từ các đối thủ khác hoặc không là một phương thức cạnh tranh trong khoảng thời gian ngắn hoặc không là những sự kiện diễn ra một cách ngẫu nhiên gắn liền với những hoàn cảnh kinh doanh cụ thể đang xảy ra trên thị trường vào bất kỳ một thời điểm nào [26, tr 303]. Việc định giá thấp cho một lượng hàng hóa không đáng kể trên thị trường, diễn ra trong một vài giao dịch hoặc trong khoảng thời gian tương đối ngắn khó có thể tác động đến mặt bằng giá trên thị trường. Trong trường hợp này, lượng khách hàng chuyển hướng tiêu dùng chưa đủ lớn để tạo áp lực buộc đối thủ hạ giá bán. Phần lớn nhu cầu của thị trường vẫn phụ thuộc vào khả năng cung ứng hàng hóa của các đối thủ cạnh tranh. Sẽ cấu thành chiến lược bán hàng khi việc định giá thấp bất hợp lý là một phần của chương trình định giá áp dụng trên toàn bộ hoặc phần lớn thị trường trong khoảng thời gian đủ dài. Vì thế, để xác định hành vi định giá hủy diệt cần phân tích lượng hàng hóa và khoảng thời gian diễn ra việc bán hàng với giá thấp. Thứ hai, xác định sự bất hợp lý của giá bán thực tế nhằm phân biệt định giá hủy diệt với bán sản phẩm với giá thấp hơn đối thủ để cạnh tranh lành mạnh. Với quan niệm nếu không có các hoàn cảnh bất thường thì một DN chỉ tiếp tục hoạt động nếu giá bán sản phẩm có thể bù đắp được các chi phí sản xuất nên về cơ bản định giá hủy diệt là việc DN chấp nhận lỗ để giành khách hàng. Vì vậy, định giá hủy diệt được xác định từ kết quả so sánh giá bán thực tế với giá thành của sản phẩm (chi phí sản xuất). Khi giá bán thực tế thấp hơn chi phí sản xuất thì kết luận có dấu hiệu về hành vi định giá hủy diệt. Tuy nhiên, việc so sánh giữa giá bán thực tế và giá thành của sản phẩm chỉ cho thấy dấu hiệu khách quan của hành vi mà chưa chứng minh được mục đích tiêu diệt đối thủ của DN. Các nhà kinh tế học cho rằng việc DN chấp nhận lỗ khi bán sản phẩm có thể là định giá hủy diệt nhưng cũng có thể chỉ là những phản ứng hợp lý trước hoàn cảnh đặc biệt của tình hình kinh doanh hoặc của thị trường cạnh tranh. Trong cuốn Kinh tế học (phần phân tích chi phí), hai nhà kinh tế Paul A Samuelson và Wiliam D. Nordhalls đã đưa ra những trường hợp DN chấp nhận bán 37 sản phẩm với giá thấp hơn giá thành nhưng không là định giá hủy diệt dựa trên nguyên tắc định giá theo chi phí biên và nguyên tắc đóng cửa14 [55, tr 265,306]. (1) DN tính toán sai lầm về sản lượng sản xuất nên chi phí biên của hàng hóa cao hơn mặt bằng giá trên thị trường. Vì thế, DN không thể định giá sản phẩm theo chi phí thực tế của họ bởi nếu làm như thế sẽ mất khách hàng. Để có thể tiêu thụ sản phẩm, DN buộc phải bán lỗ theo giá thị trường. Trong trường hợp này, DN thực hiện hành vi không nhằm mục đích hủy diệt đối thủ. (2) Thị trường có những suy thoái như biến động về cầu, sự dư thừa về sản lượng… làm cho các DN gặp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm. Tình trạng này buộc DN phải xem xét lại các điều kiện sản xuất, mua bán cho phù hợp thậm chí phải chấp nhận lỗ để giữ chân khách hàng nếu muốn tồn tại. Bằng nguyên tắc đóng cửa, kinh tế học luận giải rằng các DN vẫn có thể bán hàng hóa với mức giá thấp hơn chi phí trung bình nhưng cao hơn chi phí biến đổi trong ngắn hạn để tối thiểu hóa thua lỗ15 [55, tr 286]. Theo đó, ngay cả khi không sản xuất, các DN vẫn phải chịu chi phí cố định như tiền lãi ngân hàng, tiền thuê nhà xưởng, chi phí sử dụng bản quyền, chi phí quản lý…. Trong những trường hợp này, DN vẫn có thể giảm thiểu lỗ bằng cách bán với giá cao hơn chi phí biến đổi trung bình. Khi doanh thu lớn hơn tổng chi phí biến đổi thì phần chênh lệch có thể bù đắp một phần chi phí cố định. Trong tình huống này, giá bán của hàng hóa chịu sự chi phối rất lớn từ các điều kiện khách quan trên thị trường (cụ thể là những biến động về cung cầu). Ngay cả khi có hiện tượng một số DN phải chấm dứt hoạt động thì cũng không thể gắn mục đích hủy diệt đối thủ cho việc bán hàng hóa với giá lỗ bởi nguyên nhân tàn phá các DN là tình trạng suy thoái của nền kinh tế. - Việc bán sản phẩm với giá thấp hơn giá thành chỉ là phản ứng của DN trước sức ép cạnh tranh từ các sản phẩm khác. Tình huống này đòi hỏi lý thuyết về định giá hủy diệt phải so sánh giá bán lỗ của DN với giá bán của đối thủ và hoàn cảnh xảy ra hiện tượng nói trên. Nói cách khác, mức độ hủy diệt của giá bán không chỉ phụ thuộc vào chênh lệch giữa chúng và chi phí sản xuất mà còn phụ thuộc vào chênh lệch với giá của sản phẩm cạnh tranh trên thị trường. Sẽ không là định giá hủy diệt nếu giá bán thấp hơn chi phí sản xuất của DN nhưng vẫn cao hơn giá bán của đối thủ cạnh tranh 14 Chi phí biên là phần chi phí tăng thêm do có thêm một đơn vị sản phẩm đầu ra; điểm đóng cửa được xem xét từ chi phí biên của DN. dưới điểm đóng cửa, DN sẽ thua lỗ nhiều hơn với chi phí cố định, do vậy, DN sẽ đóng cửa và ngừng sản xuất khi giá thấp hơn điểm đóng cửa. 15 Nguyên tắc đóng cửa được hiểu là khi giá cả xuống thấp đến mức tổng doanh thu nhỏ hơn chi phí biến đổi, và giá thấp hơn chi phí biến đổi trung bình thì các DN chỉ có thể tối thiểu hóa sự thua lỗ bằng cách đóng cửa sản xuất. 38 hoặc chỉ là phản ứng tự vệ trước hành vi chủ động định giá thấp của đối thủ khác đã thực hiện trước đó. Từ ba trường hợp trên, lý thuyết định giá hủy diệt đã tìm được cơ chế xác định mục đích hủy diệt đối thủ của hành vi bán lỗ bằng cách sử dụng phương pháp loại suy. Theo đó, hành vi định giá hủy diệt được xác định bằng cách so sánh và phân tích giá bán của sản phẩm với chi phí toàn bộ bình quân16 (average total cost - ATC) và chi phí biến đổi bình quân17 (average variable cost - AVC) [57, tr 67, 1032]. Có ba khả năng xảy ra: (1) Mức giá cao hơn chi phí toàn bộ bình quân sẽ không bị coi là định giá huỷ diệt cho dù mức giá đó có thể dẫn đến loại bỏ DN khác ra khỏi thị trường. (2) Mức giá thấp hơn chi phí biến đổi bình quân là định giá hủy diệt vì với mức giá này, DN không thể thực hiện được chiến lược tối đa hoá lợi nhuận hay tối thiểu hoá tổn thất trong bất cứ điều kiện nào. (3) Mức giá nằm ở khoảng giữa chi phí toàn bộ bình quân và chi phí biến đổi bình quân (gọi là mức giá trong khu vực màu xám), tức là cao hơn chi phí biến đổi bình quân và thấp hơn chi phí toàn bộ bình quân có thể bị coi là định giá huỷ diệt nhưng cũng có thể được chấp nhận nếu như chứng minh được rằng DN đang thực hiện chiến lược tối thiểu hóa thiệt hại trong những điều kiện đặc biệt của thị trường hoặc DN đang phản ứng trước tình trạng cạnh tranh về giá… [26, tr 78]. Thứ ba, hành vi định giá hủy diệt có những tác động tích cực và cũng là mối nguy cơ cho nền kinh tế. Người tiêu dùng được hưởng lợi do mua hàng hóa với giá rẻ trong giai đoạn hành vi được thực hiện và tình trạng cạnh tranh sinh tử về giá đã buộc các DN đối thủ phải xem xét quy trình sản xuất, kinh doanh để có thể sử dụng tối ưu các nguồn lực kinh tế mà họ đang nắm giữ. Tuy nhiên, khi mục đích tiêu diệt đối thủ đã đạt được, DN thực hiện hành vi củng cố được vị trí trên thị trường liên quan và khai thác lợi thế đó bằng các chiến lược bóc lột khách hàng nhằm bù đắp những gì đã mất trong quá khứ. Do đó, hành vi định giá hủy diệt bị lên án không phải bởi vì nó khiến giá của hàng hóa giảm ở hiện tại mà là những lo ngại khả năng suy giảm sản lượng và giá tăng vọt trong tương lai [70, tr 178]. Về nhận định này, một số nhà kinh tế, trong đó có Jacop Viner lại hoài nghi trước lý luận về sự cướp đoạt vì họ không tin rằng có nhiều cơ may cướp đoạt thành công [44, tr 345]. Nếu một DN hoàn tất chiến lược tiêu diệt đối t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuận văn- Luận văn Pháp luật chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu và cơ chế thực thi tại Việt Nam.pdf