Tài liệu Luận văn Phân tích tình hình tài chính công tư vấn giám sát và xây dựng công trình:  Trang 1 
Luận văn 
Phân tích tình hình tài chính 
Công tư vấn giám sát và xây 
dựng công trình 
 Trang 2 
LỜI NÓI ĐẦU 
 Để tồn tại và phát triển, con người phải tiến hành hoạt động sản xuất. Hoạt 
động sản xuất là hoạt động tự giác có ý thức của con người nhằm biến các vật thể 
tự nhiên thành các vật phẩm có ích phục vụ cho mình. Con người khi tiến hành 
làm bất cứ việc gì cũng luôn mong muốn đạt hiệu quả cao với những chi phí tối 
thiểu nhưng đem lại lợi ích tối đa cho mình. Một trong những hoạt động quan 
trọng và được con người tiến hành thường xuyên là hoạt động sản xuất kinh 
doanh. Để hoạt động sản xuất kinh doanh tiến hành đạt được kết quả như mong 
muốn thì điều tất yếu là phải thực hiện chức năng quản lý và để có thể thực hiện 
tốt chức năng quản lý thì không thể thiếu thông tin. Thông tin cung cấp cho quản 
lý được thu thập từ rất nhiều nguồn khác nhau và bằng nhiều cách khác nhau, 
trong đó có các thông tin về hoạt động tài chính. 
 Hoạt động tài chính là ...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
130 trang | 
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1010 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Phân tích tình hình tài chính công tư vấn giám sát và xây dựng công trình, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 Trang 1 
Luận văn 
Phân tích tình hình tài chính 
Công tư vấn giám sát và xây 
dựng công trình 
 Trang 2 
LỜI NÓI ĐẦU 
 Để tồn tại và phát triển, con người phải tiến hành hoạt động sản xuất. Hoạt 
động sản xuất là hoạt động tự giác có ý thức của con người nhằm biến các vật thể 
tự nhiên thành các vật phẩm có ích phục vụ cho mình. Con người khi tiến hành 
làm bất cứ việc gì cũng luôn mong muốn đạt hiệu quả cao với những chi phí tối 
thiểu nhưng đem lại lợi ích tối đa cho mình. Một trong những hoạt động quan 
trọng và được con người tiến hành thường xuyên là hoạt động sản xuất kinh 
doanh. Để hoạt động sản xuất kinh doanh tiến hành đạt được kết quả như mong 
muốn thì điều tất yếu là phải thực hiện chức năng quản lý và để có thể thực hiện 
tốt chức năng quản lý thì không thể thiếu thông tin. Thông tin cung cấp cho quản 
lý được thu thập từ rất nhiều nguồn khác nhau và bằng nhiều cách khác nhau, 
trong đó có các thông tin về hoạt động tài chính. 
 Hoạt động tài chính là một bộ phận của hoạt động sản xuất kinh doanh. Nó 
có mặt trong tất cả các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh từ khâu tạo vốn 
trong doanh nghiệp đến khâu phân phối tiền lãi thu được từ quá trình hoạt động 
sản xuất kinh doanh. 
 Nhiệm vụ của hoạt động tài chính là phải huy động đủ vốn đáp ứng cho nhu 
cầu sản xuất kinh doanh, đồng thời phải quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả trên 
cơ sở chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, chính sách, chế độ quy định về tài chính 
tín dụng của Nhà nước. 
 Trong nền kinh tế thị trường, tình hình tài chính của doanh nghiệp là một 
vấn đề được rất nhiều người quan tâm nhất là những người quan tâm đến hoạt 
động của doanh nghiệp . Chính vì vậy, phân tích tình hình tài chính là một việc 
làm vô cùng cần thiết. Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp nhằm đánh giá 
được đầy đủ, chính xác tình hình tổ chức, phân phối, sử dụng và quản lý các loại 
vốn và nguồn vốn của doanh nghiệp, vạch rõ khả năng tiềm tàng và xu hướng phát 
triển của doanh nghiệp trong tương lai. Thông qua việc quản lý, sử dụng các 
nguồn vốn, đề xuất các biện pháp cần thiết và có hiệu quả để khai thác tới mức 
cao nhất những khả năng tiềm tàng để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn phục vụ tốt 
cho sản xuất kinh doanh. 
 Trang 3 
 Tài liệu dùng để phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp chủ yếu dựa 
vào các số liệu trên báo cáo tài chính được lập theo định kỳ trong đó bảng cân đối 
kế toán được sử dụng nhiều nhất trong việc phân tích vì nó phản ánh khá đâỳ đủ 
tình hình tài chính của doanh nghiệp. Kết quả của việc phân tích tình hình tài 
chính cho ta biết thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tại 
thời điểm phân tích. 
 Vì vậy em chọn đề tài tốt nghiệp là: “Phân tích tình hình tài chính Công tư 
vấn giám sát và xây dựng công trình”. Ngoài mở đầu và kết luận đồ án gồm 3 
chương: 
 Chương 1: Một số vấn đề chung về phân tích tài chính trong doanh nghiệp . 
Chương 2: Phân tích tình hình tài chính của Công ty tư vấn giám sát và xây dựng 
công trình. 
Chương 3 : Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác phân tích tài chính của 
công ty tư vấn giám sát và xây dựng công trình. 
 Trang 4 
CHƯƠNG 1 
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 
1.1. Khái niệm và vai trò của phân tích tài chính doanh nghiệp 
1.1.1. Khái niệm phân tích tài chính doanh nghiệp : 
Phân tích tài chính là một tập hợp các khái niệm, phương pháp và các công 
cụ cho phép thu thập và xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác về quản 
lý nhằm đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức 
độ và chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đó, khả năng và tiềm lực 
của doanh nghiệp, giúp người sử dụng thông tin đưa ra các quyết định tài chính, 
quyết định quản lý phù hợp. 
Mối quan tâm hàng đầu của các nhà phân tích tài chính là đánh giá rủi ro 
phá sản tác động tới các doanh nghiệp mà biểu hiện của nó là khả năng thanh toán, 
đánh giá khả năng cân đối vốn, năng lực hoạt động cũng như khả năng sinh lãi của 
doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, các nhà phân tích tài chính tiếp tục nghiên cứu và 
đưa ra những dự đoán về kết quả hoạt động nói chung và mức doanh lợi nói riêng 
của doanh nghiệp trong tương lai. Nói cách khác, phân tích tài chính là cơ sở để dự 
đoán tài chính - một trong các hướng dự đoán doanh nghiệp. Phân tích tài chính có 
thể được ứng dụng theo nhiều hướng khác nhau : với mục đích tác nghiệp (chuẩn 
bị các quyết định nội bộ), với mục đích nghiên cứu, thông tin hoặc theo vị trí của 
nhà phân tích( trong doanh nghiệp hoặc ngoài doanh nghiệp ) 
1.1.2. Vai trò của phân tích tài chính doanh nghiệp 
 Phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp hay cụ thể hoá là việc phân 
tích các báo cáo tài chính của doanh nghiệp là quá trình kiểm tra, đối chiếu, so 
sánh các số liệu, tài liệu về tình hình tài chính hiện hành và trong quá khứ nhằm 
mục đích đánh giá tiềm năng, hiệu quả kinh doanh cũng như những rủi ro trong 
tương lai. Báo cáo tài chính là những báo cáo tổng hợp nhất về tình hình tài sản, 
vốn và công nợ cũng như tình hình tài chính, kết quả kinh doanh trong kỳ của 
doanh nghiệp. Báo cáo tài chính rất hữu ích đối việc quản trị doanh nghiệp, đồng 
thời là nguồn thông tin tài chính chủ yếu đối với những người bên ngoài doanh 
nghiệp. Do đó, phân tích báo cáo tài chính là mối quan tâm của nhiều nhóm người 
 Trang 5 
khác nhau như nhà quản lý doanh nghiệp, các nhà đầu tư, các cổ đông, các chủ nợ, 
các khách hàng, các nhà cho vay tín dụng, các cơ quan chính phủ, người lao 
động... Mỗi nhóm người này có những nhu cầu thông tin khác nhau. 
Phân tích tài chính có vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác quản lý tài 
chính doanh nghiệp. Trong hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự 
quản lý của Nhà nước, các doanh nghiệp thuộc các loại hình sở hữu khác nhau đều 
bình đẳng trước pháp luật trong việc lựa chọn ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh. 
Do vậy sẽ có nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp 
như : chủ doanh nghiệp, nhà tài trợ, nhà cung cấp, khách hàng... kể cả các cơ quan 
Nhà nước và người làm công, mỗi đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của 
doanh nghiệp trên các góc độ khác nhau. 
1.1.2.1. Đối với người quản lý doanh nghiệp : 
Đối với người quản lý doanh nghiệp mối quan tâm hàng đầu của họ là tìm 
kiếm lợi nhuận và khả năng trả nợ. Một doanh nghiệp bị lỗ liên tục sẽ bị cạn kiệt 
các nguồn lực và buộc phải đóng cửa. Mặt khác, nếu doanh nghiệp không có khả 
năng thanh toán nợ đến hạn cũng bị buộc phải ngừng hoạt động. 
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, nhà quản lý doanh nghiệp phải 
giải quyết ba vấn đề quan trọng sau đây : 
Thứ nhất : Doanh nghiệp nên đầu tư vào đâu cho phù hợp với loại hình sản 
xuất kinh doanh lựa chọn. Đây chính là chiến lược đầu tư dài hạn của doanh 
nghiệp. 
Thứ hai : Nguồn vốn tài trợ là nguồn nào? 
Để đầu tư vào các tài sản, doanh nghiệp phải có nguồn tài trợ, nghĩa là phải 
có tiền để đầu tư. Các nguồn tài trợ đối với một doanh nghiệp được phản ánh bên 
phải của bảng cân đối kế toán. Một doanh nghiệp có thể phát hành cổ phiếu hoặc 
vay nợ dài hạn, ngắn hạn. Nợ ngắn hạn có thời hạn dưới một năm còn nợ dài hạn 
có thời hạn trên một năm. Vốn chủ sở hữu là khoản chênh lệch giữa giá trị của 
tổng tài sản và nợ của doanh nghiệp. Vấn đề đặt ra ở đây là doanh nghiệp sẽ huy 
động nguồn tài trợ với cơ cấu như thế nào cho phù hợp và mang lại lợi nhuận cao 
nhất. Liệu doanh nghiệp có nên sử dụng toàn bộ vốn chủ sở hữu để đầu tư hay kết 
 Trang 6 
hợp với cả các hình thức đi vay và đi thuê? Điều này liên quan đến vấn đề cơ cấu 
vốn và chi phí vốn của doanh nghiệp. 
Thứ ba : Nhà doanh nghiệp sẽ quản lý hoạt động tài chính hàng ngày như 
thế nào? 
Đây là các quyết định tài chính ngắn hạn và chúng liên quan chặt chẽ đến 
vấn đề quản lý vốn lưu động của doanh nghiệp. Hoạt động tài chính ngắn hạn gắn 
liền với các dòng tiền nhập quỹ và xuất quỹ. Nhà quản lý tài chính cần xử lý sự 
lệch pha của các dòng tiền. 
Ba vấn đề trên không phải là tất cả mọi khía cạnh về tài chính doanh 
nghiệp, nhưng đó là những vấn đề quan trọng nhất. Phân tích tài chính doanh 
nghiệp là cơ sở để đề ra cách thức giải quyết ba vấn đề đó. 
Nhà quản lý tài chính phải chịu trách nhiệm điều hành hoạt động tài chính 
và dựa trên cơ sở các nghiệp vụ tài chính thường ngày để đưa ra các quyết định vì 
lợi ích của cổ đông của doanh nghiệp. Các quyết định và hoạt động của nhà quản 
lý tài chính đều nhằm vào các mục tiêu tài chính của doanh nghiệp : đó là sự tồn 
tại và phát triển của doanh nghiệp, tránh được sự căng thẳng về tài chính và phá 
sản, có khả năng cạnh tranh và chiếm được thị phần tối đa trên thương trường, tối 
thiểu hoá chi phí, tối đa hoá lợi nhuận và tăng trưởng thu nhập một cách vững 
chắc. Doanh nghiệp chỉ có thể hoạt động tốt và mang lại sự giàu có cho chủ sở hữu 
khi các quyết định của nhà quản lý được đưa ra là đúng đắn. Muốn vậy, họ phải 
thực hiện phân tích tài chính doanh nghiệp, các nhà phân tích tài chính trong doanh 
nghiệp là những người có nhiều lợi thế để thực hiện phân tích tài chính một cách 
tốt nhất. 
Trên cơ sở phân tích tài chính mà nội dung chủ yếu là phân tích khả năng 
thanh toán, khả năng cân đối vốn, năng lực hoạt động cũng như khả năng sinh lãi, 
nhà quản lý tài chính có thể dự đoán về kết quả hoạt động nói chung và mức doanh 
lợi nói riêng của doanh nghiệp trong tương lai. Từ đó, họ có thể định hướng cho 
giám đốc tài chính cũng như hội đồng quản trị trong các quyết định đầu tư, tài trợ, 
phân chia lợi tức cổ phần và lập kế hoạch dự báo tài chính. Cuối cùng phân tích tài 
chính còn là công cụ để kiểm soát các hoạt động quản lý. 
 Trang 7 
1.1.2.2. Đối với các nhà đầu tư vào doanh nghiệp 
Đối với các nhà đầu tư, mối quan tâm hàng đầu của họ là thời gian hoàn 
vốn, mức sinh lãi và sự rủi ro. Vì vậy, họ cần các thông tin về điều kiện tài chính, 
tình hình hoạt động, kết quả kinh doanh và tiềm năng tăng trưởng của các doanh 
nghiệp. 
Trong doanh nghiệp Cổ phần, các cổ đông là người đã bỏ vốn đầu tư vào 
doanh nghiệp và họ có thể phải gánh chịu rủi ro. Những rủi ro này liên quan tới 
việc giảm giá cổ phiếu trên thị trường, dẫn đến nguy cơ phá sản của doanh nghiệp. 
Chính vì vậy, quyết định của họ đưa ra luôn có sự cân nhắc giữa mức độ rủi ro và 
doanh lợi đạt được. Vì thế, mối quan tâm hàng đầu của các cổ đông là khả năng 
tăng trưởng, tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hoá giá trị chủ sở hữu trong doanh nghiệp. 
Trước hết họ quan tâm tới lĩnh vực đầu tư và nguồn tài trợ. Trên cơ sở phân tích 
các thông tin về tình hình hoạt động, về kết quả kinh doanh hàng năm, các nhà đầu 
tư sẽ đánh giá được khả năng sinh lợi và triển vọng phát triển của doanh nghiệp; 
từ đó đưa ra những quyết định phù hợp. Các nhà đầu tư sẽ chỉ chấp thuận đầu tư 
vào một dự án nếu ít nhất có một điều kiện là giá trị hiện tại ròng của nó dương. 
Khi đó lượng tiền của dự án tạo ra sẽ lớn hơn lượng tiền cần thiết để trả nợ và cung 
cấp một mức lãi suất yêu cầu cho nhà đầu tư. Số tiền vượt quá đó mang lại sự giàu 
có cho những người sở hữu doanh nghiệp. Bên cạnh đó, chính sách phân phối cổ 
tức và cơ cấu nguồn tài trợ của doanh nghiệp cũng là vấn đề được các nhà đầu tư 
hết sức coi trọng vì nó trực tiếp tác động đến thu nhập của họ. Ta biết rằng thu 
nhập của cổ đông bao gồm phần cổ tức được chia hàng năm và phần giá trị tăng 
thêm của cổ phiếu trên thị trường. Một nguồn tài trợ với tỷ trọng nợ và vốn chủ sở 
hữu hợp lý sẽ tạo đòn bẩy tài chính tích cực vừa giúp doanh nghiệp tăng vốn đầu 
tư vừa làm tăng giá cổ phiếu và thu nhập trên mỗi cổ phiếu (EPS). Hơn nữa các cổ 
đông chỉ chấp nhận đầu tư mở rộng quy mô doanh nghiệp khi quyền lợi của họ ít 
nhất không bị ảnh hưởng. Bởi vậy, các yếu tố như tổng số lợi nhuận ròng trong kỳ 
có thể dùng để trả lợi tức cổ phần, mức chia lãi trên một cổ phiếu năm trước, sự 
xếp hạng cổ phiếu trên thị trường và tính ổn định của thị giá cổ phiếu của doanh 
nghiệp cũng như hiệu quả của việc tái đầu tư luôn được các nhà đầu tư xem xét 
trước tiên khi thực hiện phân tích tài chính. 
 Trang 8 
1.1.2.3. Đối với các chủ nợ của doanh nghiệp 
Nếu phân tích tài chính được các nhà đầu tư và quản lý doanh nghiệp thực 
hiện nhằm mục đích đánh giá khả năng sinh lợi và tăng trưởng của doanh nghiệp 
thì phân tích tài chính lại được các ngân hàng và các nhà cung cấp tín dụng thương 
mại cho doanh nghiệp sử dụng nhằm đảm bảo khả năng trả nợ của doanh nghiệp. 
Trong nội dung phân tích này, khả năng thanh toán của doanh nghiệp được 
xem xét trên hai khía cạnh là ngắn hạn và dài hạn. Nếu là những khoản cho vay 
ngắn hạn, người cho vay đặc biệt quan tâm đến khả năng thanh toán nhanh của 
doanh nghiệp, nghĩa là khả năng ứng phó của doanh nghiệp đối với các món nợ khi 
đến hạn trả. Nếu là những khoản cho vay dài hạn, người cho vay phải tin chắc khả 
năng hoàn trả và khả năng sinh lời của doanh nghiệp mà việc hoàn trả vốn và lãi sẽ 
tuỳ thuộc vào khả năng sinh lời này. 
Đối với các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng, mối quan tâm của 
họ chủ yếu hướng vào khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Vì vậy, họ chú ý đặc biệt 
đến số lượng tiền và các tài sản khác có thể chuyển nhanh thành tiền, từ đó so sánh 
với số nợ ngắn hạn để biết được khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp. 
Bên cạnh đó, các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng cũng rất quan tâm tới 
số vốn của chủ sở hữu, bởi vì số vốn này là khoản bảo hiểm cho họ trong trường 
hợp doanh nghiệp bị rủi ro. Như vậy, kỹ thuật phân tích có thể thay đổi theo bản 
chất và theo thời hạn của các khoản nợ, nhưng cho dù đó là cho vay dài hạn hay 
ngắn hạn thì người cho vay đều quan tâm đến cơ cấu tài chính biểu hiện mức độ 
mạo hiểm của doanh nghiệp đi vay. 
Đối với các nhà cung ứng vật tư hàng hoá, dịch vụ cho doanh nghiệp, họ 
phải quyết định xem có cho phép khách hàng sắp tới được mua chịu hàng hay 
không, họ cần phải biết được khả năng thanh toán của doanh nghiệp hiện tại và 
trong thời gian sắp tới. 
1.1.2.4. Đối với người lao động trong doanh nghiệp 
Bên cạnh các nhà đầu tư, nhà quản lý và các chủ nợ của doanh nghiệp, 
người được hưởng lương trong doanh nghiệp cũng rất quan tâm tới các thông tin 
tài chính của doanh nghiệp. Điều này cũng dễ hiểu bởi kết quả hoạt động của 
 Trang 9 
doanh nghiệp có tác động trực tiếp tới tiền lương, khoản thu nhập chính của người 
lao động. Ngoài ra trong một số doanh nghiệp, người lao động được tham gia góp 
vốn mua một lượng cổ phần nhất định. Như vậy, họ cũng là những người chủ 
doanh nghiệp nên có quyền lợi và trách nhiệm gắn với doanh nghiệp. 
1.1.2.5. Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước 
Dựa vào các báo cáo tài chính doanh nghiệp, các cơ quan quản lý của Nhà 
nước thực hiện phân tích tài chính để đánh giá, kiểm tra, kiểm soát các hoạt động 
kinh doanh, hoạt động tài chính tiền tệ của doanh nghiệp có tuân thủ theo đúng 
chính sách, chế độ và luật pháp quy định không, tình hình hạch toán chi phí, giá 
thành, tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước và khách hàng... 
Tóm lại, phân tích hoạt động tài chính doanh nghiệp mà trọng tâm là phân 
tích các báo cáo tài chính và các chỉ tiêu tài chính đặc trưng thông qua một hệ 
thống các phương pháp, công cụ và kỹ thuật phân tích, giúp người sử dụng thông 
tin từ các góc độ khác nhau, vừa đánh giá toàn diện, tổng hợp khái quát, lại vừa 
xem xét một cách chi tiết hoạt động tài chính doanh nghiệp, tìm ra những điểm 
mạnh và điểm yếu về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, để nhận 
biết, phán đoán, dự báo và đưa ra quyết định tài chính, quyết định tài trợ và đầu tư 
phù hợp. 
1.1.3. Nhiệm vụ của phân tích tài chính. 
 Với ý nghĩa quan trọng như vậy, nhiệm vụ của việc phân tích tình hình tài 
chính là việc cung cấp những thông tin chính xác về moị mặt tài chính của doanh 
nghiệp, bao gồm: 
 - Đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp trên các mặt đảm bảo vốn 
cho sản xuất kinh doanh, quản lý và phân phối vốn, tình hình nguồn vốn 
 - Đánh giá hiệu quả sử dụng từng loại vốn trong quá trình kinh doanh và kết 
quả tài chính của hoạt động kinh doanh, tình hình thanh toán. 
 - Tính toán và xác định mức độ có thể lượng hoá của các nhân tố ảnh hưởng 
đến tình hình tài chính của doanh nghiệp, từ đó đưa ra những biện pháp có hiệu 
quả để khắc phục những yếu kém và khai thác triệt để những năng lực tiềm tàng 
của doanh nghiệp để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. 
 Trang 10 
1.2. Thông tin sử dụng trong phân tích tài chính 
Phân tích tài chính có mục tiêu đưa ra những dự báo tài chính giúp cho việc 
ra quyết định về mặt tài chính và giúp cho việc dự kiến kết quả tương lai của 
doanh nghiệp nên thông tin sử dụng để phân tích tài chính không chỉ giới hạn trong 
phạm vi nghiên cứu các báo cáo tài chính mà phải mở rộng sang các lĩnh vực : 
- Các thông tin chung về kinh tế, thuế, tiền tệ. 
- Các thông tin về ngành kinh doanh của doanh nghiệp. 
1.2.1. Thông tin chung 
Đây là các thông tin về tình hình kinh tế có ảnh hưởng đến hoạt động sản 
xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong năm. Sự suy thoái hoặc tăng trưởng của 
nền kinh tế có tác động mạnh mẽ đến cơ hội kinh doanh, đến sự biến động của giá 
cả các yếu tố đầu vào và thị trường tiêu thụ sản phẩm đầu ra, từ đó tác động đến 
hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Khi các tác động diễn ra theo chiều hướng 
có lợi, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được mở rộng, lợi nhuận 
tăng và nhờ đó kết quả kinh doanh trong năm là khả quan. Tuy nhiên khi những 
biến động của tình hình kinh tế là bất lợi, nó sẽ ảnh hưởng xấu đến kết quả kinh 
doanh của doanh nghiệp. Chính vì vậy để có được sự đánh giá khách quan và 
chính xác về tình hình hoạt động của doanh nghiệp, chúng ta phải xem xét cả 
thông tin kinh tế bên ngoài có liên quan. 
1.2.2. Thông tin theo ngành kinh tế 
Nội dung nghiên cứu trong phạm vi ngành kinh tế là việc đặt sự phát triển 
của doanh nghiệp trong mối liên hệ với các hoạt động chung của ngành kinh 
doanh. 
Đặc điểm của ngành kinh doanh liên quan tới: 
-Tính chất của các sản phẩm. 
- Quy trình kỹ thuật áp dụng. 
- Cơ cấu sản xuất : công nghiệp nặng hoặc công nghiệp nhẹ, những cơ cấu 
sản xuất này có tác động đến khả năng sinh lời, vòng quay vốn dự trữ... 
- Nhịp độ phát triển của các chu kỳ kinh tế. 
 Trang 11 
Việc kết hợp các thông tin theo ngành kinh tế cùng với thông tin chung và 
các thông tin liên quan khác sẽ đem lại một cái nhìn tổng quát và chính xác nhất về 
tình hình tài chính của doanh nghiệp. Thông tin theo ngành kinh tế đặc biệt là hệ 
thống chỉ tiêu trung bình ngành là cơ sở tham chiếu để người phân tích có thể đánh 
giá, kết luận chính xác về tình hình tài chính doanh nghiệp. 
1.2.3. Thông tin liên quan đến tài chính doanh nghiệp 
Phân tích tài chính sử dụng mọi nguồn thông tin có khả năng làm rõ mục 
tiêu của dự đoán tài chính. Từ những thông tin nội bộ đến những thông tin bên 
ngoài, thông tin số lượng đến thông tin giá trị đều giúp cho nhà phân tích có thể 
đưa ra nhận xét, kết luận sát thực. Tuy nhiên, thông tin kế toán là nguồn thông tin 
đặc biệt cần thiết. Nó được phản ánh đầy đủ trong các báo cáo kế toán của doanh 
nghiệp. Phân tích tài chính được thực hiện trên cơ sở các báo cáo tài chính được 
hình thành thông qua việc xử lý các báo cáo kế toán. 
Các báo cáo tài chính gồm có: 
1.2.3.1. Bảng cân đối kế toán 
Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính mô tả tình trạng tài chính của 
một doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định nào đó. Đấy là một báo cáo tài chính 
phản ánh tổng quát tình hình tài sản của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định, 
dưới hình thái tiền tệ theo giá trị tài sản và nguồn hình thành tài sản. Xét về bản 
chất, bảng cân đối kế toán là một bảng cân đối tổng hợp giữa tài sản với vốn chủ 
sở hữu và công nợ phải trả( nguồn vốn). 
 Để phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp, tài liệu chủ yếu là bản 
cân đối kế toán.Thông qua nó cho phép ta nghiên cứu, đánh giá một cách tổng quát 
tình hình tài chính và kết quả sản xuất kinh doanh, trình độ sử dụng vốn và những 
triển vọng kinh tế, tài chính của doanh nghiệp. 
 Bảng cân đối kế toán có hai hình thức trình bày: 
 - Hình thức cân đối hai bên: Bên trái là phần tài sản, bên phải là phần 
nguồn vốn. 
 - Hình thức cân đối hai phần liên tiếp: phần trên là phần tài sản, phần dưới 
là phần nguồn vốn. 
 Trang 12 
 Mỗi phần đều có số tổng cộng và số tổng cộng của hai phần luôn luôn 
bằng nhau. 
Tài sản = Nguồn vốn 
Hay Tài sản = Vốn chủ sở hữu+ Nợ phải trả 
 Phần tài sản: Bao gồm có tài sản lưu động và tài sản cố định. 
 Về mặt pháp lý, phần tài sản thể hiện số tiềm lực mà doanh nghiệp có 
quyền quản lý, sử dụng lâu dài gắn với mục đích thu được các khoản lợi ích trong 
tương lai. 
Về mặt kinh tế, các chỉ tiêu của phần tài sản cho phép đánh giá tổng quát về 
quy mô vốn, cơ cấu vốn, quan hệ giữa năng lực sản xuất và trình độ sử dụng vốn 
của doanh nghiệp. 
 Phần nguồn vốn: Bao gồm công nợ phải trả và nguồn vốn chủ sở hữu, phản 
ánh các nguồn hình thành tài sản của doanh nghiệp. 
Về mặt pháp lý, phần nguồn vốn thể hiện trách nhiệm pháp lý về mặt vật 
chất của doanh nghiệp đối với các đối tượng cấp vốn( Nhà nước, ngân hàng, cổ 
đông, các bên liên doanh...). Hay nói cách khác thì các chỉ tiêu bên phần nguồn 
vốn thể hiện trách nhiệm của doanh nghiệp về tổng số vốn đã đăng ký kinh doanh, 
về số tài sản hình thành và trách nhiệm phải thanh toán các khoản nợ( với người 
lao động, với nhà cung cấp, với Nhà nước...). 
Về mặt kinh tế, phần nguồn vốn thể hiện các nguồn hình thành tài sản hiện 
có, căn cứ vào đó có thể biết tỷ lệ, kết cấu của từng loại nguồn vốn đồng thời phần 
nguồn vốn cũng phản ánh được thực trạng tình hình tài chính của doanh nghiệp. 
Tác dụng của phân tích bảng cân đối kế toán: 
 + Cho biết một cách khái quát tình hình tài chính doanh nghiệp thông qua 
các chỉ tiêu về tổng tài sản và tổng nguồn vốn. 
 + Thấy được sự biến động của các loại tài sản trong doanh nghiệp : tài sản 
lưu động, tài sản cố định. 
 Trang 13 
 + Khả năng thanh toán của doanh nghiệp qua các khoản phải thu và các 
khoản phải trả. 
+ Cho biết cơ cấu vốn và phân bổ nguồn vốn trong doanh nghiệp. 
1.2.3.2. Báo cáo kết quả kinh doanh 
Một loại thông tin không kém phần quan trọng được sử dụng trong phân 
tích tài chính là thông tin phản ánh trong báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh. 
Khác với bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh cho biết sự 
dịch chuyển của vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; nó 
cho phép dự tính khả năng hoạt động của doanh nghiẹp trong tương lai. Báo cáo 
kết quả sản xuất kinh doanh đồng thời cũng giúp cho nhà phân tích so sánh doanh 
thu và số tiền thực nhập quỹ khi bán hàng hoá, dịch vụ với tổng chi phí phát sinh 
và số tiền thực xuất quỹ để vận hành doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, có thể xác định 
được kết quả sản xuất kinh doanh : lãi hay lỗ trong năm. Như vậy, báo cáo kết quả 
kinh doanh phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, phản ánh tình hình tài 
chính của một doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Nó cung cấp những 
thông tin tổng hợp về tình hình và kết quả sử dụng các tiềm năng về vốn, lao động, 
kỹ thuật và trình độ quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 
Biểu mẫu “Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh” có 3 phần: 
 + Phần I: Lãi, lỗ. 
 + Phần II: Tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước. 
 + Phần III: Thuế giá trị gia tăng được khấu trừ, được hoàn lại, được miễn 
giảm. 
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được lập trên cơ 
sở các tài liệu: 
 + Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh kỳ trước. 
 + Sổ kế toán trong kỳ của các tài khoản từ loại 5 đến loại 9. 
 + Sổ kế toán các tài khoản 133 “Thuế GTGT được khấu trừ” và tài khoản 
333 “Thuế GTGT phải nộp”. 
 Trang 14 
Tác dụng của việc phân tích báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh: 
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh phản ánh các chỉ tiêu về doanh thu, 
lợi nhuận và tình hình thực hiện nghĩa vụ với ngân sách nhà nước của doanh 
nghiệp. Do đó, phân tích báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh cũng cho ta đánh 
giá khái quát tình hình tài chính doanh nghiệp, biết được trong kỳ doanh nghiệp 
kinh doanh có lãi hay bị lỗ, tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu và vốn là bao nhiêu. 
Từ đó tính được tốc độ tăng trưởng của kỳ này so với kỳ trước và dự đoán tốc độ 
tăng trong tương lai. 
Ngoài ra, qua việc phân tích tình hình thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước, 
ta biết được doanh nghiệp có nộp thuế đủ và đúng thời hạn không. Nếu số thuế còn 
phải nộp lớn chứng tỏ tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là không 
khả quan. 
 Như vậy, việc phân tích báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh sẽ giúp ta có 
những nhận định sâu sắc và đầy đủ hơn về tình hình tài chính của doanh nghiệp. 
1.2.3.3. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ 
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là một trong bốn báo cáo tài chính bắt buộc mà 
bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải lập để cung cấp cho người sử dụng thông tin 
của doanh nghiệp. Nếu bảng cân đối kế toán cho biết những nguồn lực của cải (tài 
sản) và nguồn gốc của những tài sản đó; và báo cáo kết quả kinh doanh cho biết 
thu nhập và chi phí phát sinh để tính được kết quả lãi, lỗ trong một kỳ kinh doanh, 
thì báo cáo lưu chuyển tiền tệ được lập để trả lời các vấn đề liên quan đến luồng 
tiền vào ra trong doanh nghiệp, tình hình thu chi ngắn hạn của doanh nghiệp. 
Những luồng vào ra của tiền và các khoản coi như tiền được tổng hợp thành ba 
nhóm : lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động sản xuất kinh doanh, lưu chuyển tiền tệ từ 
hoạt động tài chính và lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động bất thường. 
1.2.3.4. Thuyết minh báo cáo tài chính 
Thuyết minh báo cáo tài chính được lập nhằm cung cấp các thông tin về 
tình hình sản xuất kinh doanh chưa có trong hệ thống báo cáo tài chính, đồng thời 
giải thích thêm một số chỉ tiêu mà trong các báo cáo tài chính chưa được trình bày 
nhằm giúp cho người đọc và phân tích các chỉ tiêu trong báo cáo tài chính có một 
 Trang 15 
cái nhìn cụ thể và chi tiết hơn về sự thay đổi những khoản mục trong bảng cân đối 
kế toán và kết quả hoạt động kinh doanh. 
 “Thuyết minh báo cáo tài chính” được lập căn cứ vào những số liệu và 
những tài liệu sau: 
 + Các sổ kế toán kỳ báo cáo. 
 + Bảng cân đối kế toán kỳ báo cáo. 
 + Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh kỳ báo cáo. 
 + Thuyết minh báo cáo tài chính kỳ trước, năm trước. 
“ Thuyết minh báo cáo tài chính” trình bày 7 chỉ tiêu nhằm cụ thể hoá các 
chỉ tiêu mà bảng cân đối kế toán không thể nêu lên hết được bao gồm: 
 + Chỉ tiêu 1: Đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp. 
 + Chỉ tiêu 2: Chính sách kế toán áp dụng tại doanh nghiệp. 
Khi lập hai chỉ tiêu này, phải quán triệt các nguyên tắc chung sau: 
 - Phần trình bày bằng lời văn phải ngắn gọn, rõ ràng, mạch lạc, dễ hiểu. 
 - Phần trình bày bằng số liệu phải thống nhất với số liệu trên cỏc báo cáo 
khác 
 - Các chỉ tiêu thuộc phần chế độ kế toán áp dụng tại doanh nghiệp phải 
thống nhất trong cả niên độ kế toán d?i với các báo cáo quý. Nếu có sự thay đổi 
phải trình bày rõ ràng những lý do thay đổi. 
 - Trong các biểu số liệu, cột “số kế hoạch” thể hiện số liệu kế hoạch của 
kỳ báo cáo, cột” số thực tế kỳ trước” thể hiện số liệu của kỳ ngay trước kỳ báo cáo. 
 - Các chỉ tiêu đánh giá khái quát tình hình hoạt động của doanh nghiệp chỉ 
sử dụng trong thuyết minh báo cáo tài chính năm. 
+ Chỉ tiêu 3: “Chi tiết một số chỉ tiêu trong báo cáo tài chính” bao gồm: 
 3.1. Chi phí sản xuất kinh doanh theo yếu tố: phản ánh toàn bộ chi phí 
sản xuất kinh doanh phát sinh trong kỳ của doanh nghiệp, được phân chia theo các 
yếu tố chi phí như sau: 
 Trang 16 
- Chi phí nguyên vật liệu. 
- Chi phí nhân công. 
- Chi phí khấu hao tài sản cố định. 
- Chi phí dịch vụ mua ngoài. 
- Chi phí khác bằng tiền. 
 3.2. Tình hình tăng giảm tài sản cố định: phản ánh tổng số tăng giảm 
của tài sản cố định hữu hình, tài sản cố định thuê tài chính, tài sản cố định vô hình 
theo từng nhóm tài sản trong kỳ báo cáo như nhà cửa, máy móc, thiết bị...cả về 
nguyên giá, giá trị hao mòn, giá trị còn lại và lý do tăng, giảm chủ yếu. 
Số liệu để ghi vào chỉ tiêu này được lấy từ các tài khoản 211, 212, 213, 214 
trong sổ cái. 
 3.3.Tình hình thu nhập của công nhân viên: phản ánh tổng số thu nhập 
bình quân của công nhân viên từ tiền lương và các khoản tiền thưởng, các khoản 
phụ cấp, trợ cấp có tính chất luong và các khoản tiền thưởng trước khi trừ các 
khoản giảm trừ trong kỳ báo cáo. 
 3.4.Tình hình tăng giảm vốn chủ sở hữu: phản ánh tổng số tăng giảm 
các nguồn vốn chủ sở hữu trong kỳ báo cáo như nguồn vốn kinh doanh, quỹ đầu tư 
phát triển, quỹ dự phòng tài chính...theo từng loại nguồn vốn và theo từng nguồn 
cấp như ngân sách cấp, chủ sở hữu góp, nhận vốn góp liên doanh...và lý do tăng 
giảm chủ yếu. 
 3.5. Tình hình tăng giảm các khoản đầu tư vào đơn vị khác: phản ánh 
tổng số tăng, giảm, kết quả các khoản đầu tư vào đơn vị khác theo từng loại đầu tư 
trong kỳ báo cáo như đầu tư chứng khoán, góp vốn liên doanh ngắn hạn, dài 
hạn...và lý do tăng giảm chủ yếu. 
 3.6. Các khoản phải thu và nợ phải trả: phản ánh tình hình tăng giảm 
các khoản phải thu và nợ phải trả, các khoản đã quá hạn thanh toán, đang tranh 
chấp hoặc mất khả năng thanh toán trong kỳ báo cáo theo từng đối tượng cụ thể và 
lý do chủ yếu. 
 Trang 17 
 + Chỉ tiêu 4: “Giải thích và thuyết minh một số tình hình và kết quả hoạt 
động sản xuất kinh doanh”. 
 + Chỉ tiêu 5: “Phương pháp lập một số chỉ tiêu đánh giá khái quát thực 
trạng tài chính và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp ” bao gồm: 
- Bố trí cơ cấu tài sản và nguồn vốn. 
- Khả năng thanh toán. 
- Tỷ suất sinh lời. 
 + Chỉ tiêu 6: “ Đánh giá tổng quát các chỉ tiêu”. Đây là phần doanh nghiệp 
tự đánh giá khái quát tình hình thực hiện các chỉ tiêu trong kỳ báo cáo của mình 
cùng những khó khăn, thuận lợi mà doanh nghiệp gặp phải trong kỳ báo cáo. 
 + Chỉ tiêu 7: “ Các kiến nghị” 
 Doanh nghiệp đề xuất các kiến nghị với các cơ quan hữu quan về các vấn 
đề liên quan đến chế độ, chính sách...trong hoạt động kinh doanh của doanh 
nghiệp. 
Tác dụng của việc phân tích” Thuyết minh báo cáo tài chính” 
Phân tích thuyết minh báo cáo tài chính sẽ cung cấp bổ sung những thông 
tin chi tiết, cụ thể hơn về một số tình hình liên quan đến hoạt động kinh doanh 
trong kỳ của doanh nghiệp. Cụ thể: 
 + Phân tích chỉ tiêu “Chi phí sản xuất kinh doanh theo yếu tố” sẽ cho ta 
biết tình hình biến động của chi phí trong kỳ theo từng yếu tố chi phí: nguyên vật 
liệu, nhân công, khấu hao. 
 + Phân tích chỉ tiêu: “Tình hình tăng giảm tài sản cố định” sẽ cho ta biết 
được tình hình biến động của tài sản cố định trong kỳ theo từng loại. Qua đó, đánh 
giá được tình hình đầu tư, trang bị tài sản cố định của doanh nghiệp và xây dựng 
được kế hoạch đầu tư. 
 + Phân tích chỉ tiêu: “Tình hình thu nhập của công nhân viên” sẽ giúp ta 
có những đánh giá chính xác hơn về sự phát triển của doanh nghiệp bởi vì không 
thể nói một doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả nếu thu nhập của người lao 
 Trang 18 
đông có xu hướng giảm theo thời gian và thấp so với mặt bằng chung được. Thu 
nhập của công nhân viên phải gắn liền với kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. 
 + Phân tích chỉ tiêu: “Tình hình tăng giảm nguồn vốn chủ sở hữu” để thấy 
được tình hình biến động của tổng số nguồn vốn chủ sở hữu cũng như từng loại 
nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp. Qua đó, đánh giá được tính hợp lý của 
việc hình thành và sử dụng từng nguồn vốn chủ sở hữu. 
 + Phân tích “Tình hình tăng giảm các khoản đầu tư vào các đơn vị khác” 
để nắm được tình hình đầu tư và hiệu quả đầu tư vào các đơn vị khác. 
 + Phân tích chỉ tiêu “Các khoản phải thu và nợ phải trả” sẽ nắm được tình 
hình thanh toán các khoản phải thu và các khoản nợ phải trả trong kỳ của doanh 
nghiệp. 
 Tình hình thanh toán các khoản phải thu và các khoản phải trả là một 
trong những chỉ tiêu phản ánh khá sát thực chất lượng hoạt động tài chính. Nếu 
hoạt động tài chính tốt, lành mạnh doanh nghiệp sẽ thanh toán kịp thời các khoản 
nợ phải trả cũng như thu kịp thời các khoản nợ phải thu, tránh được tình trạng 
chiếm dụng vốn lẫn nhau cũng như tình trạng công nợ dây dưa kéo dài, tình trạng 
tranh chấp, mất khả năng thanh toán. 
+ Phân tích các chỉ tiêu về tỷ suất lợi nhuận sẽ phản ánh hiệu quả hoạt động 
kinh doanh của doanh nghiệp. Các tỷ suất lợi nhuận càng lớn so với trước thì 
chứng tỏ hiệu quả kinh doanh càng tăng. 
1.3. Các bước tiến hành phân tích tài chính 
1.3.1.Các bước tiến hành phân tích tài chính 
1.3.1.1. Thu thập thông tin 
 Phân tích tài chính sử dụng mọi nguồn thông tin có khả năng lý giải và 
thuyết minh thực trạng hoạt động tài chính doanh nghiệp, phục vụ cho quá trình dự 
đoán tài chính. Nó bao gồm cả những thông tin nội bộ đến những thông tin bên 
ngoài, những thông tin kế toán và những thông tin quản lý khác, những thông tin 
về số lượng và giá trị...trong đó các thông tin kế toán phản ánh tập trung trong các 
báo cáo tài chính doanh nghiệp, là những nguồn thông tin đặc biệt quan trọng. Do 
 Trang 19 
vậy, phân tích tài chính trên thực tế là phân tích các báo cáo tài chính doanh 
nghiệp. 
1.3.1.2. Xử lý thông tin 
Giai đoạn tiếp theo của phân tích tài chính là quá trình xử lý thông tin đã 
thu thập được. Trong giai đoạn này, người sử dụng thông tin ở các góc độ nghiên 
cứu, ứng dụng khác nhau, có phương pháp xử lý thông tin khác nhau phục vụ mục 
tiêu phân tích đã đặt ra : Xử lý thông tin là quá trình xắp xếp các thông tin theo 
những mục tiêu nhất định nhằm tính toán, so sánh, giải thích, đánh giá, xác định 
nguyên nhân của các kết quả đã đạt được phục vụ cho quá trình dự đoán và quyết 
định. 
1.3.1.3. Dự đoán và quyết định 
Thu thập và xử lý thông tin nhằm chuẩn bị những tiền đề và điều kiện cần 
thiết để người sử dụng thông tin dự đoán nhu cầu và đưa ra những quyết định tài 
chính. Có thể nói mục tiêu của phân tích tài chính là đưa ra các quyết định tài 
chính. Đối với chủ doanh nghiệp, phân tích tài chính nhằm đưa ra những quyết 
định liên quan đến mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp là tăng trưởng, phát triển, 
tối đa hoá lợi nhuận hay tối đa hoá giá trị doanh nghiệp. 
1.3.2.Trình tự phân tích tài chính 
Trình tự tiến hành phân tích tài chính tuân theo các nghiệp vụ phân tích thích 
ứng với từng giai đoạn dự đoán tài chính theo sơ đồ sau : 
Giai đoạn dự đoán Nghiệp vụ phân tích 
Chuẩn bị và xử lý các nguồn thông tin 
- Thông tin kế toán nội bộ 
- Thông tin khác từ bên ngoài 
áp dụng các công cụ phân tích 
- Xử lý thông tin kế toán 
- Tính toán các chỉ số 
- Tập hợp các bảng biểu 
Xác định các biểu hiện đặc trưng Giải thích và đánh giá các chỉ số, 
bảng biểu 
- Biểu hiện hoặc hội chứng khó khăn - Cân bằng tài chính 
 Trang 20 
- Điểm mạnh và điểm yếu - Năng lực hoạt động tài chính 
- Cơ cấu vốn và chi phí vốn 
- Cơ cấu đầu tư và doanh lợi 
Phân tích thuyết minh 
- Nguyên nhân khó khăn 
- Phương tiện thành công và điều kiện bất lợi 
Tổng hợp quan sát 
Tiên lượng và chỉ dẫn 
Xác định : 
- Hướng phát triển 
- Giải pháp tài chính hoặc GP khác 
 Tuy nhiên, trình tự phân tích và một số tiểu tiết cũng có thể thay đổi hoặc 
bỏ qua một số bước tuỳ thuộc vào từng điều kiện của từng doanh nghiệp. 
1.4. Các phương pháp phân tích tài chính 
Để nắm được một cách đầy đủ thực trạng tài chính cũng như tình hình sử 
dụng tài sản của doanh nghiệp, cần thiết phải đi sâu xem xét các mối quan hệ và 
tình hình biến động của các khoản mục trong từng báo cáo tài chính và giữa các 
báo cáo tài chính với nhau. 
Việc phân tích báo cáo tài chính thường được tiến hành bằng hai phương 
pháp: phương pháp phân tích ngang và phương pháp phân tích dọc báo cáo tài 
chính. 
Phân tích ngang báo cáo tài chính là việc so sánh đối chiếu tình hình biến 
động cả về số tuyệt đối và số tương đối trên từng chỉ tiêu của từng báo cáo tài 
chính, còn phân tích dọc là việc sử dụng các quan hệ tỷ lệ, các hệ số thể hiện mối 
tương quan giữa các chỉ tiêu trong từng báo cáo tài chính và giữa các báo cáo tài 
chính với nhau để rút ra kết luận. 
Cụ thể, trong thực tế người ta thường sử dụng các phương pháp sau: 
 Trang 21 
1.4.1. Phương pháp so sánh. 
Phương pháp so sánh được sử dụng phổ biến nhất và là phương pháp chủ 
yếu trong phân tích tài chính để đánh kết quả, xác định vị trí và xu hướng biến đổi 
của chỉ tiêu phân tích. 
Có nhiều phương thức so sánh và sử dụng phương thức nào là tuỳ thuộc vào 
mục đích và yêu cầu của việc phân tích. 
 + So sánh chỉ tiêu thực tế với các chỉ tiêu kế hoạch, dự kiến hoặc định 
mức. Đây là phương thức quan trọng nhất để đánh giá mức độ thực hiện chỉ tiêu kế 
hoạch, định mức và kiểm tra tính có căn cứ của nhiệm vụ kế hoạch được đề ra. 
 + So sánh chỉ tiêu thực hiện giữa các kỳ trong năm và giữa các năm cho 
thấy sự biến đổi trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 
 + So sánh các chỉ tiêu của doanh nghiệp với các chỉ tiêu tương ứng của 
doanh nghiệp cùng loại hoặc của doanh nghiệp cạnh tranh. 
 + So sánh các thông số kinh tế- kỹ thuật của các phương án sản xuất kinh 
doanh khác nhau của doanh nghiệp. 
Để áp dụng phương pháp so sánh cần phải đảm bảo các điều kiện có thể so 
sánh được của các chỉ tiêu: 
 + Khi so sánh các chỉ tiêu số lượng phải thống nhất về mặt chất lượng. 
 + Khi so sánh các chỉ tiêu chất lượng phải thống nhất về mặt số lượng. 
 + Khi so sánh các chỉ tiêu tổng hợp, phức tạp phải thống nhất về nội dung, 
cơ cấu của các chỉ tiêu. 
 + Khi so sánh các chỉ tiêu hiện vật khác nhau phải tính ra các chỉ tiêu này 
bằng những đơn vị tính đổi nhất định. 
 + Khi không so sánh được bằng các chỉ tiêu tuyệt đối thì có thể so sánh 
bằng các chỉ tiêu tương đôí. Bởi vì, trong thực tế phân tích, có một số trường hợp, 
việc so sánh các chỉ tiêu tuyệt đối không thể thực hiện được hoặc không mang một 
ý nghĩa kinh tế nào cả, nhưng nếu so sánh bằng các chỉ tiêu tương đối thì hoàn 
toàn cho phép và phản ánh đầy đủ, đúng đắn hiện tượng nghiên cứu. 
 Trang 22 
Trong phân tích so sánh có thể sử dụng số bình quân, số tuyệt đối và số 
tương đối. 
Số bình quân phản ánh mặt chung nhất của hiện tượng, bỏ qua sự phát triển 
không đồng đều của các bộ phận cấu thành hiện tượng đó, hay nói cách khác, số 
bình quân đã san bằng mọi chênh lệch về trị số của các chỉ tiêu...Số bình quân có 
thể biểu thị dưới dạng số tuyệt đối hoặc dưới dạng số tương đối( tỷ suất). Khi so 
sánh bằng số bình quân sẽ thấy mức độ đạt được so với bình quân chung của tổng 
thể, của ngành, xây dựng các định mức kinh tế kỹ thuật. 
Phân tích bằng số tuyệt đối cho thấy rõ khối lượng, quy mô của hiện tượng 
kinh tế. Các số tuyệt đối được so sánh phải có cùng một nội dung phản ánh, cách 
tính toán xác định, phạm vi, kết cấu và đơn vị đo lường. 
Sử dụng số tương đối để so sánh có thể đánh giá được sự thay đổi kết cấu 
của hiện tượng kinh tế, đặc biệt có thể liên kết các chỉ tiêu không giống nhau để 
phân tích so sánh. Tuy nhiên số tương đối không phản ánh được thực chất bên 
trong cũng như quy mô của hiện kinh tế. Vì vậy, trong nhiều trường hợp khi so 
sánh cần kết hợp đồng thời cả số tuyệt đối và số tương đối. 
1.4.2. Phương pháp loại trừ. 
Phương pháp này được áp dụng rộng rãi để xác định xu hướng và mức độ 
ảnh hưởng của từng nhân tố đối với chỉ tiêu phân tích. Khi phân tích, để nghiên 
cứu ảnh hưởng của một nhân tố nào đó phải loại trừ ảnh hưởng của các nhân tố 
khác. 
Trong thực tế phương pháp loại trừ được sử dụng trong phân tích kinh tế 
dưới 2 dạng là: phương pháp thay thế liên hoàn và phương pháp số chênh lệch. 
1.4.2.1. Phương pháp thay thế liên hoàn. 
 Là phương pháp xác định ảnh hưởng của các nhân tố bằng cách thay thế lần 
lượt và liên tiếp các nhân tố từ giá trị kỳ gốc sang kỳ phân tích để xác định trị số 
của chỉ tiêu khi nhân tố đó thay đổi. Sau đó so sánh trị số của chỉ tiêu vừa tính 
được với trị số của chỉ tiêu khi chưa có biến đổi cuả nhân tố cần xác định sẽ tính 
được mức độ ảnh hưởng của nhân tố đó. 
 Trang 23 
Điều kiện áp dụng phương pháp là mối quan hệ giữa nhân tố cần đo ảnh 
hưởng và chỉ tiêu phân tích phải thể hiện được dưới dạng công thức. Ngoài ra việc 
sắp xếp các nhân tố ảnh hưởng và xác định ảnh hưởng của chúng đối với các chỉ 
tiêu phân tích phải theo thứ tự từ nhân tố số lượng đến nhấn tố chất lượng. Trình tự 
thay thế các nhân tố phải tuân theo nguyên tắc nhất định vừa phù hợp với ý nghĩa 
của hiện tượng nghiên cứu vừa phải đảm bảo mối liên hệ chặt chẽ về thực chất của 
các nhân tố. 
Trình tự thực hiện phương pháp thay thế liên hoàn: 
 + Bước 1: Sơ bộ phân tích về mặt lý luận mối quan hệ giữa các nhân tố và 
chỉ tiêu kết quả và phân loại các nhân tố thành nhân tố số lượng và nhân tố chất 
lượng. 
 + Bước 2: Sắp xếp các nhân tố theo thứ tự: nhân tố đứng sau chất lượng hơn 
nhân tố đứng trước. 
X= a* b* c* d 
Số liệu kế hoạch: X0=a0*b0*c0*d0 
Số liệu thực tế: X1= a1*b1*c1*d1 
 + Bước 3: Lập các tích số trung gian và ở mỗi tích số sau, chỉ tiêu báo cáo 
được thay thế tương ứng cho chỉ tiêu kế hoạch. 
X01= a1*b0*c0*d0 
X02= a1*b1*c0*d0 
X03= a1*b1*c1*d0 
 + Bước 4: Xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố bằng cách lấy tích 
số thứ hai trừ đi tích số thứ nhất, tích số thứ ba trừ đi tích số thứ hai, tích số thứ tư 
trừ đi tích số thứ thứ ba... 
Xa=( a1*b0*c0*d0)-(a0*b0*c0*d0) 
Xb=( a1*b1*c0*d0)-( a1*b0*c0*d0) 
Xc=(a1*b1*c1*d0)-(a1*b1*c0*d0) 
 Trang 24 
Xd=(a1*b1*c1*d1)-(a1*b1*c1*d0) 
Như vậy, khi có n nhân tố thì có( n- 1) lần thay thế tức là lập được( n- 1) 
tích số trung gian. Khi thay đổi trình tự thay thế thì mức độ ảnh hưởng của các 
nhân tố sẽ thay đổi, còn tổng mức độ ảnh hưởng của chúng thì không đổi. 
Ưu điểm của phương pháp thay thế liên hoàn: Xác định được mức độ và 
chiều hướng ảnh hưởng của các nhân tố, sắp xếp các nhân tố theo mức độ ảnh 
hưởng của chúng, từ đó sẽ có biện pháp nhằm khai thác, thúc đẩy những nhân tố 
tích cực và hạn chế những nhân tố tiêu cực. 
Nhược điểm của phương pháp thay thế liên hoàn: 
- Không có khả năng luận cứ rõ ràng trình tự cụ thể về sự thay thế của các 
nhân tố cũng như tính quy ước của việc phân tích các nhân tố ảnh hưởng thành các 
nhân tố số lượng và các nhân tố chất lượng. Điều này càng trở nên khó khăn khi có 
nhiều nhân tố trong tính toán phân tích. 
 - ảnh hưởng của mỗi nhân tố được xem xét tách rời, không tính đến mối 
quan hệ qua lại của nó với các nhân tố khác, mặc dù sự thay đổi của một trong các 
nhân tố dẫn tới sự thay đổi của các nhân tố khác. 
1.4.2.2. Phương pháp số chênh lệch 
Phương pháp số chênh lệch thực chất là phương pháp rút gọn của phương 
pháp thay thế liên hoàn. Do vậy, nó cũng đòi hỏi những điều kiện và cũng có 
những ưu điểm, hạn chế như thay thế liên hoàn. 
Theo phương pháp này, mức độ ảnh hưởng của nhân tố nào đó đối với chỉ 
tiêu tổng hợp được xác định bằng số chênh lệch của nhân tố đó nhân với các nhân 
tố khác được cố định trong khi lập tích số. 
Trình tự tiến hành phương pháp số chênh lệch: 
 - Xác định số chênh lệch tuyệt đối với dấu tương ứng của mỗi một nhân tố. 
 - Nhân số chênh lệch của mỗi một nhân tố với số kế hoạch của các nhân tố 
khác chưa đo ảnh hưởng và với số thực tế của các nhân tố khác đã đo ảnh hưởng. 
1.4.3. Phương pháp liên hệ 
 Trang 25 
Mọi kết quả kinh doanh đều có mối liên hệ mật thiết với nhau giữa các mặt, 
các bộ phận...Để lượng hoá các mối liên hệ đó, ngoài các phương pháp đã nêu, 
trong phân tích kinh doanh còn phổ biến các cách nghiên cứu liên hệ phổ biến như: 
liên hệ cân đối, liên hệ thuận nghịch, liên hệ tương quan. 
1.4.3.1. Phương pháp liên hệ cân đối 
Phương pháp liên hệ cân đối thường thể hiện dưới hình thức phương thức 
trình kinh tế hoặc bảng cân đối kinh tế. 
Nội dung chủ yếu của bảng cân đối kinh tế gồm hai hệ thống chỉ tiêu có 
quan hệ trực tiếp với nhau về mặt chỉ tiêu. Khi thay đổi một thành phần hệ thống 
chỉ tiêu đó sẽ dẫn tới sự thay đổi một hoặc một số thành phần khác nhưng sự thay 
đổi đó vẫn đảm bảo sự cân bằng của bảng cân đối kinh tế. Khi phân tích thường 
dùng để kiểm tra việc ghi chép hoặc để tính toán các chỉ tiêu. 
 Để tính mức độ ảnh hưởng của nhiều nhân tố một cách đồng thời đến một 
chỉ tiêu nào đó: 
Tổng= 
n
i
i
1
1.4.3.2. Phương pháp liên hệ thuận nghịch. 
 C= 
N
T 
Trong đó: C- chỉ tiêu cá biệt mà ta đang nghiên cứu. 
 T- chỉ tiêu trực tiếp hoặc chỉ tiêu thuận chiều. 
 N- chỉ tiêu ngược chiều. 
- Mức độ ảnh hưởng của nhân tố trực tiếp(T). 
 CT=
N
T
100
100 (%) 
- Mức độ ảnh hưởng của nhân tố ngược chiều(N) đến chỉ tiêu nghiên cứu: 
 C N= 
N
N
100
100 (%) 
 Trang 26 
- Tổng mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến chỉ tiêu nghiên cứu: 
 C= C T+ C N = 
N
CT
100
)(100 (%) 
Trong đó: 
 T, N: số chênh lệch tương đối của chỉ tiêu T và N. 
 CT, CN, C: mức độ ảnh hưởng của chỉ tiêu T, N và của 2 chỉ tiêu T, 
N đến chỉ tiêu cá biệt đang nghiên cứu. 
1.4.3.3.Phương pháp liên hệ tương quan 
Là phương pháp phân tích tương quan nhằm xác định sự tồn tại và dạng 
của mối liên hệ giữa các đại lượng ngẫu nhiên và cho phép đánh giá mức độ chặt 
chẽ giữa các mối quan hệ đó. 
Trình tự tiến hành: 
 - Phân tích lý luận để giải thích sự tồn tại và bản chất mối liên hệ. 
 - Thăm dò các mối quan hệ đó. 
 - Lập phương trình hồi quy căn cứ vào số tiêu thức, số lần quan sát. 
 - Tính toán các tham số của chương trình. 
 - Giải thích ý nghĩa kinh tế của các tham số. 
1.5. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp 
Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp có thể được trình bày theo hai 
cách sau: 
- Phân tích khái quát và phân tích chi tiết tình hình tài chính 
 - Phân tích các hoạt động tài chính và phân tích các tỷ lệ tài chính. 
1.5.1. Phân tích khái quát và phân tích chi tiết tình hình tài chính 
Phân tích khái quát và phân tích chi tiết tình hình tài chính là nội dung phân 
tích mà đồ án sử dụng . Vì vậy, nội dung phân tích khái quát và phân tích chi tiết 
tình hình tài chính, không được nêu chi tiết ở phần này mà đựơc trình bày chi tiết ở 
phần sau ( Chương 2). 
1.5.1.1. Phân tích khái quát tình hình tài chính 
 Trang 27 
 Để đánh giá khái quát tình hình tài chính của doanh nghiệp, trước tiên phải 
so sánh tổng tài sản và tổng nguồn vốn giữa kì và đầu năm. Qua so sánh, có thể 
thấy được sự thay đổi quy mô vốn mà doanh nghiệp sử dụng trong kỳ cũng như 
khả năng huy động vốn của doanh nghiệp. Tuy nhiên, số tổng cộng của tài sản và 
nguồn vốn tăng giảm là do nhiều nguyên nhân khác nhau, do đó cần đi sâu phân 
tích các mối quan hệ giữa các chỉ tiêu trong bảng cân đối kế toán. 
 Tài sản của doanh nghiệp bao gồm tài sản lưu động và tài sản cố định. Hai 
loại tài sản này được hình thành chủ yếu từ nguồn vốn chủ sở hữu, nhưng cân đối 
này chỉ mang tính lí thuyết tức là nguồn vốn chủ sở hữu chủ doanh nghiệp đủ trang 
trải các loại tài sản cho các hoạt động chủ yếu mà không phải đi vay hoặc chiếm 
dụng. Thực tế thường xảy ra 1 trong 2 trường hợp sau: 
- Trường hợp doanh nghiệp thừa nguồn vốn, không sử dụng hết nên sẽ bị chiếm 
dụng. 
- Trường hợp doanh nghiệp thiếu vốn để trang trải tài sản nên doanh nghiệp phải đi 
vay hoặc chiếm dụng vốn từ bên ngoài. 
 Qua phân tích các mối quan hệ cân đối, cho thấy số vốn doanh nghiệp bị 
chiếm dụng (hoặc đi chiếm dụng) đúng bằng số chênh lệch giữa số tài sản phải thu 
và nợ phải trả. 
 Bên cạnh đó, trong phân tích tổng quát ta còn tính toán và so sánh các chỉ 
tiêu tỉ suất tài trợ đẻ thấy được khả năng đảm bảo về mặt tài chính và tính chủ 
động trong kinh doanh của công ty (phần này được trình bày trong phân tích kết 
cấu nguồn vốn của doanh nghiệp). Bên cạnh đó, về khả năng thanh toán cũng cần 
được quan tâm chú ý ( được trình bày ở phần nhu cầu và khả năng thanh toán) 
1.5.1.2. Phân tích chi tiết tình hình tài chính 
Trong phân tích chi tiết tình hình tài chính ta đi phân tích tình hình phân bổ 
vốn, xem xét doanh nghiệp đã phân bổ vốn hợp lí và phát huy hiệu quả chưa? Để 
phân tích, ta tiến hành xác định tỉ trọng từng khoản vốn ở thời điểm đầu kì và cuối 
kì và so sánh sự thay đổi về tỉ trọng giữa đầu kì và cuối kì nhằm tìm ra nguyên 
nhân của sự chênh lệch này. Qua so sánh ta thấy được sự thay đổi về số lượng, quy 
mô và tỉ trọng của từng loại vốn. Để có thể thấy được tình hình thay đổi của tài sản 
 Trang 28 
là hợp lí hay không cần đi sâu nghiên cứu sự biến động của tài sản. Việc đầu tư 
chiều sâu, mua sắm trang thiết bị, đổi mới công nghệ để tạo tiền đề tăng năng suất 
lao động và sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả hoặc đầu tư tài chính dài hạn được 
xem xét thông qua các chỉ tiêu: Tỉ suất đầu tư chung, tỉ suất đầu tư tài sản cố định, 
tỉ suất đầu tư tài chính dài hạn. Bên cạnh đó việc phân tích kết cấu nguồn vốn; 
phân tích tình hình công nợ và khả năng thanh toán; phân tích hiệu quả và khả 
năng sinh lợi của vốn; phân tích tình hình đảm bảo vốn cho hoạt động sản xuất 
kinh doanh sẽ được phân tích một cách cụ thể và được trình bày cụ thể trong 
Chương 2 của đồ án này. 
1.5.2. Phân tích các hoạt động tài chính và phân tích các tỷ lệ tài chính. 
1.5.2.1. Phân tích các tỷ lệ tài chính 
Trong phân tích tài chính, các tỷ lệ tài chính chủ yếu thường được phân 
thành 4 nhóm chính. Đó là : nhóm tỷ lệ về khả năng thanh toán, nhóm tỷ lệ về khả 
năng cân đối vốn, nhóm tỷ lệ về khả năng hoạt động, nhóm tỷ lệ về khả năng sinh 
lãi. Nhìn chung, mối quan tâm trước hết của các nhà phân tích tài chính là tình 
hình tài chính của doanh nghiệp có lành mạnh không? Liệu doanh nghiệp có khả 
năng đáp ứng được những khoản nợ đến hạn không? Nhưng tuỳ theo mục đích 
phân tích tài chính mà nhà phân tích tài chính chú trọng nhiều hơn đến nhóm tỷ lệ 
này hay nhóm tỷ lệ khác. Chẳng hạn, các chủ nợ ngắn hạn đặc biệt quan tâm đến 
tình hình khả năng thanh toán của người vay. Trong khi đó, các nhà đầu tư dài hạn 
quan tâm nhiều hơn đến khả năng hoạt động có lãi và hiệu quả sản xuất kinh 
doanh. Họ cũng cần nghiên cứu tình hình về khả năng thanh toán để đánh giá khả 
năng của doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu chi trả hiện tại và xem xét lợi nhuận để dự 
tính khả năng trả nợ cuối cùng của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, họ cũng chú trọng 
tới tỷ lệ cân đối vốn vì sự thay đổi tỷ lệ này sẽ ảnh hưởng đáng kể tới lợi ích của 
họ. 
Các tỷ lệ tài chính cung cấp cho người phân tích khá đầy đủ các thông tin về 
từng vấn đề cụ thể liên quan tới tài chính doanh nghiệp. Nhiệm vụ của người phân 
tích là phải tìm hiểu mối liên hệ giữa các nhóm tỷ lệ để từ đó đưa ra kết luận khái 
quát về toàn bộ tình hình tài chính doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong quá trình phân 
tích nên lưu ý rằng một tỷ lệ tài chính riêng rẽ thì tự nó không nói lên điều gì. Nó 
 Trang 29 
cần phải được so sánh với tỷ lệ ở các năm khác nhau của chính doanh nghiệp đó và 
so sánh với tỷ lệ tương ứng của các doanh nghiệp hoạt động trong cùng ngành. 
Mỗi nhóm tỷ lệ trên bao gồm nhiều tỷ lệ và trong từng trường hợp các tỷ lệ 
được lựa chọn sẽ phụ thuộc vào bản chất, quy mô của hoạt động phân tích. 
Dưới đây, chúng ta sẽ lần lượt xem xét cả bốn nhóm tỷ lệ thường dùng để 
phân tích và đánh giá hoạt động tài chính doanh nghiệp. 
1.5.2.1.1. Các tỷ lệ về khả năng thanh toán : 
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, để tài trợ cho các tài sản 
của mình các doanh nghiệp không chỉ dựa vào nguồn vốn chủ sở hữu mà còn cần 
đến nguồn tài trợ khác là vay nợ. Việc vay nợ này được thực hiện với nhiều đối 
tượng và dưới nhiều hình thức khác nhau. Cho dù là đối tượng nào đi chăng nữa 
thì để đi đến quyết định có cho doanh nghiệp vay nợ hay không thì họ đều quan 
tâm đền khả năng thanh toán của doanh nghiệp. 
Khả năng thanh toán của doanh nghiệp phản ánh mối quan hệ tài chính giữa 
các khoản phải có khả năng thanh toán trong kỳ với các khoản phải thanh toán 
trong kỳ. Việc phân tích các tỷ lệ về khả năng thanh toán không những giúp cho 
các chủ nợ giảm được rủi ro trong quan hệ tín dụng và bảo toàn được vốn của 
mình mà còn giúp cho bản thân doanh nghiệp thấy được khả năng chi trả thực tế 
để từ đó có biện pháp kịp thời trong việc điều chỉnh các khoản mục tài sản cho hợp 
lý nhằm nâng cao khả năng thanh toán. 
Các tỷ lệ về thanh toán bao gồm : 
Hệ số thanh toán hiện hành 
Là tỷ lệ được tính bằng cách chia tài sản lưu động cho nợ ngắn hạn. Tài sản 
lưu động thường bao gồm tiền, các chứng khoán dễ chuyển nhượng, các khoản 
phải thu và dự trữ (tồn kho); còn nợ ngắn hạn thường bao gồm các khoản vay ngắn 
hạn ngân hàng và các tổ chức tín dụng, các khoản phải trả nhà cung cấp, các khoản 
phải trả khác...Cả tài sản lưu động và nợ ngắn hạn đều có thời hạn nhất định - tới 
một năm. Tỷ lệ khả năng thanh toán chung là thước đo khả năng thanh toán ngắn 
hạn của doanh nghiệp, nó cho biết mức độ các khoản nợ của các chủ nợ ngắn hạn 
 Trang 30 
được trang trải bằng các tài sản có thể chuyển thành tiền trong một giai đoạn tương 
ứng với thời hạn của các khoản nợ đó. 
Công thức của khả năng thanh toán chung như sau : 
Hệ số thanh toán hiện 
hành(ngắn hạn) 
= 
Tài sản lưu động 
Nợ ngắn hạn 
Tỷ lệ này có giá trị càng cao thì khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của doanh 
nghiệp càng tốt và ngược lại. Nêú khả năng thanh toán chung nhỏ hơn 1 thì doanh 
nghiệp không đủ khả năng thanh toán nợ ngắn hạn. Tuy nhiên, nếu con số này quá 
cao thì có nghĩa là doanh nghiệp đã đầu tư quá nhiều vào tài sản lưu động so với 
nhu cầu. Thông thường thì phần vượt trội đó sẽ không sinh thêm lợi nhuận. Vì thế 
mà việc đầu tư đó sẽ kém hiệu quả. Vấn đề này đòi hỏi nhà doanh nghiệp phải 
phân bổ vốn như thế nào cho hợp lý. 
Hệ số thanh toán nhanh: 
Một tỷ lệ thanh toán chung cao chưa phản ánh chính xác việc doanh nghiệp 
có thể đáp ứng nhanh chóng được các khoản nợ ngắn hạn trong thời gian ngắn với 
chi phí thấp hay không vì nó còn phụ thuộc vào tính thanh khoản của các khoản 
mục trong tài sản lưu động và kết cấu của các khoản mục này. Vì vậy, chúng ta 
cần phải xét đến hệ số thanh toán nhanh của doanh nghiệp. 
Hệ số thanh toán nhanh được tính bằng cách chia tài sản quay vòng nhanh 
cho nợ ngắn hạn. Tài sản quay vòng nhanh là những tài sản có thể nhanh chóng 
chuyển đổi thành tiền, bao gồm : tiền, chứng khoán ngắn hạn và các khoản phải 
thu. Hàng tồn kho là tài sản khó chuyển thành tiền hơn trong tổng tài sản lưu động 
và dễ bị lỗ khi đem bán. Do vậy, tỷ lệ khả năng thanh toán nhanh cho biết khả 
năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào việc bán dự trữ (tồn 
kho). 
Hệ số thanh toán nhanh 
(thanh toán tức thời) 
= 
Tiền + Đầu tư ngắn hạn + Khoản phải thu 
 Nợ ngắn hạn 
Nói chung tỷ lệ này thường biến động từ 0,5 đến 1. Tuy nhiên, cũng giống 
như trương hợp của hệ số thanh toán ngắn hạn để kết luận giá trị của hệ số thanh 
 Trang 31 
toán tức thời là tốt hay xấu cần xét đến đặc điểm và điều kiện kinh doanh của 
doanh nghiệp. Nếu hệ số này nhỏ hơn 0,5 thì doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong 
việc thanh toán nợ. 
1.5.2.1.2.Các tỷ lệ về khả năng cân đối vốn 
Tỷ lệ này được dùng để đo lường phần vốn góp của các chủ sở hữu doanh 
nghiệp so với phần tài trợ của chủ nợ cho doanh nghiệp. Nó còn được coi là tỷ lệ 
đòn bẩy tài chính và có ý nghĩa quan trọng trong phân tích tài chính. Bởi lẽ, các 
chủ nợ nhìn vào số vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp để thể hiện mức độ tin tưởng 
vào sự bảo đảm an toàn cho các món nợ. Nếu chủ sở hữu chỉ đóng góp một tỷ lệ 
nhỏ trong tổng nguồn vốn thì rủi ro trong hoạt động sản xuất kinh doanh là do các 
chủ nợ gánh chịu. Mặt khác, bằng cách tăng vốn thông qua vay nợ, các chủ doanh 
nghiệp vẫn nắm được quyền kiểm soát và điều hành doanh nghiệp. Ngoài ra, các 
khoản vay cũng tạo ra những khoản tiết kiệm nhờ thuế do chi phí cho vốn vay là 
chi phí trước thuế. 
Những doanh nghiệp có tỷ lệ này thấp phải chịu rủi ro lỗ ít hơn khi nền kinh 
tế suy thoái đồng thời có lợi nhuận kỳ vọng thấp hơn so với doanh nghiệp có tỷ lệ 
này cao trong nền kinh tế bùng nổ. Hay nói cách khác, những doanh nghiệp có tỷ 
lệ nợ cao có nguy cơ lỗ lớn nhưng lại có cơ hội nhận được lợi nhuận cao. Tuy lợi 
nhuận kỳ vọng cao nhưng phần lớn các nhà đầu tư đều rõ´t so? rủi ro. Vì thế quyết 
định về sử dụng nợ phải được cân bằng giữa lợi nhuận và rủi ro. 
Trên cơ sở phân tích kết cấu nguồn vốn, doanh nghiệp sẽ nắm được khả 
năng tự tài trợ về mặt tài chính, mức độ chủ động trong sản xuất kinh doanh hay 
những khó khăn mà doanh nghiệp gặp phải trong việc khai thác nguồn vốn. 
Tỷ lệ nợ trên tổng tài sản 
Hệ số nợ = 
Nợ 
Tổng tài sản 
Tỷ lệ này được sử dụng để xác định nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp đối với 
các chủ nợ đã góp vốn cho doanh nghiệp. Thông thường các chủ nợ thích tỷ lệ vay 
nợ vừa phải vì tỷ lệ này càng thấp thì các khoản nợ càng được đảm bảo trong 
trường hợp doanh nghiệp bị phá sản. Trong khi đó, các chủ sở hữu ưa thích tỷ lệ 
 Trang 32 
nợ cao vì họ muốn lợi nhuận gia tăng nhanh và muốn toàn quyền kiểm soát doanh 
nghiệp. Song nếu tỷ lệ nợ quá cao, doanh nghiệp dễ bị rơi vào trạng thái mất khả 
năng thanh toán. Để đánh giá được việc sử dụng nợ cũng như mức độ sử dụng nợ 
của doanh nghiệp người ta tính mức độ đòn bẩy tài chính (Degree of Financial 
Leverage - DFL) của doanh nghiệp. 
Mức độ ảnh hưởng của DFL được xác định như là tỷ lệ thay đổi về doanh 
lợi vốn chủ sở hữu phát sinh do sự thay đổi về lợi nhuận trước thuế và lãi vay phải 
trả. 
DLF = 
 Q (P - V) - F 
Q (P - V) – F - 1 
Trong đó : Q là sản lượng 
 P là giá bán đơn vị sản phẩm 
 V là chi phí biến đổi mỗi đơn vị sản phẩm 
 F là chi phí cố định 
 I là chi phí lãi vay phải trả 
Từ công thức trên ta thấy khi lợi nhuận trước thuế và lãi vay không đủ lớn 
để trang trải lãi vay thì doanh lợi vốn chủ sở hữu sẽ bị giảm sút. Nhưng khi lợi 
nhuận trước thuế và lãi vay đã đủ lớn để trang trải lãi vay phải trả thì chỉ cần một 
sự gia tăng nhỏ về sản lượng cũng mang lại một biến động lớn về doanh lợi vốn 
chủ sở hữu. 
Khả năng thanh toán lãi vay hay số lần có thể trả lãi 
Tỷ lệ này được xác định bằng cách chia lợi nhuận trước thuế và lãi vay cho 
lãi tiền vay. 
Khả năng thanh toán lãi vay = 
Lợi nhuận trước thuế và lãi 
 Lãi tiền vay 
 Khả năng thanh toán lãi vay cho biết mức độ lợi nhuận đảm bảo cho khả 
năng trả lãi hàng năm. Việc không trả được các khoản nợ này có thể làm cho 
doanh nghiệp bị phá sản. Cùng với tỷ lệ nợ trên tổng tài sản, tỷ lệ này giúp ta thấy 
được tình trạng thanh toán công nợ của doanh nghiệp tốt hay xấu. Một tỷ lệ nợ trên 
 Trang 33 
tổng tài sản cao cộng với khả năng thanh toán lãi thấp so với mức trung bình của 
ngành sẽ khiến cho doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc muốn gia tăng nợ. 
Khả năng độc lập về tài chính 
Khả năng độc lập về tài chính = 
Vốn chủ sở hữu 
Vốn trung và dài hạn 
Tỷ lệ này phản ánh khả năng tự bảo đảm về mặt tài chính và tính chủ động 
trong kinh doanh của doanh nghiệp. Tỷ lệ này càng lớn thì tài sản của doanh 
nghiệp càng ít chịu rủi ro. Tuy nhiên, chi phí của vốn cổ phần lớn hơn chi phí vay 
nợ và việc tăng vốn cổ phần cổ phần có thể dẫn đến bị san sẻ quyền lãnh đạo 
doanh nghiệp. 
Tỷ lệ về cơ cấu tài sản 
Đồng thời với việc xác định cho mình một cơ cấu vốn hợp lý, doanh nghiệp 
cần phải xem xét việc sử dụng vốn đó như thế nào để đáp ứng yêu cầu kinh doanh 
và nâng cao hiệu qủa kinh tế của đồng vốn. Việc phân tích tình hình phân bổ vốn 
hay kết cấu tài sản của doanh nghiệp sẽ cho ta thấy việc sử dụng vốn của doanh 
nghiệp có hợp lý hay không, có phù hợp với đặc điểm loại hình kinh doanh không 
và sự thay đổi kết cấu tài sản qua từng thời kỳ có ảnh hưởng gì đến kết quả sản 
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 
Tỷ lệ về cơ cấu tài sản = 
Tài sản cố định hoặc tài sản lưu động 
Tổng tài sản 
Chỉ tiêu này phản ánh tình hình trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật nói chung 
và máy móc thiết bị nói riêng của doanh nghiệp. Nó cho biết năng lực sản xuất và 
xu hướng phát triển lâu dài của doanh nghiệp. Giá trị của chỉ tiêu này tuỳ thuộc 
vào từng ngành kinh doanh cụ thể. 
1.5.2.1.3. Các tỷ lệ về khả năng hoạt động 
Các tỷ lệ về khả năng hoạt động được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử dụng 
nguồn vốn của doanh nghiệp. Nguồn vốn của doanh nghiệp được đầu tư cho các 
loại tài sản khác nhau như tài sản cố định, tài sản lưu động. Do đó, các nhà phân 
tích không chỉ quan tâm đến việc đo lường hiệu quả sử dụng của tổng nguồn vốn 
 Trang 34 
mà còn chú trọng tới hiệu quả sử dụng của từng bộ phận cấu thành nguồn vốn của 
doanh nghiệp. 
Chỉ tiêu doanh thu thuần được sử dụng chủ yếu trong các tỷ lệ này nhằm 
tính tốc độ quay vòng của một số đại lượng rất cần cho quản lý tài chính ngắn hạn. 
Các tỷ lệ này cho ta những thông tin hữu ích để đánh giá mức độ cân bằng tài 
chính và khả năng thanh khoản của doanh nghiệp. 
Vòng quay tiền 
Tiền là khoản mục có tính lỏng cao nhất trong tổng tài sản của doanh 
nghiệp. Việc giữ tiền và các tài sản tương đương tiền đem lại cho doanh nghiệp 
nhiều lợi thế như chủ động trong kinh doanh, mua hàng trả tiền ngay được hưởng 
chiết khấu, ngoài ra khi vật tư hàng hoá rẻ doanh nghiệp có thể dữ trữ với lượng 
lớn tạo điều kiện giảm chi phí sản xuất. Tuy nhiên, tiền được lưu giữ ở mức không 
hợp lý có thể gây ra nhiều bất lợi. Thứ nhất, điều kiện thiếu vốn đang phổ biến ở 
các doanh nghiệp thì việc giữ quá nhiều tiền sẽ gây ứ đọng vốn, hạn chế khả năng 
đầu tư vào các tài sản khác, do đó lợi nhuận của doanh nghiệp có thể bị giảm. Thứ 
hai, do có giá trị theo thời gian và do chịu tác động của lạm phát, tiền sẽ bị mất giá. 
Vì vậy, cần quan tâm đến tốc độ vòng quay tiền sao cho đem lại khả năng sinh lợi 
cao nhất cho doanh nghiệp. 
Vòng quay tiền = 
Doanh thu thuần 
Tiền và chứng khoán ngắn hạn dễ bán 
Vòng quay hàng tồn kho 
Dự trữ và tồn kho thường chiếm tỷ trọng lớn trong tài sản lưu động của 
doanh nghiệp. Vì vậy, một mặt ta phải giới hạn mức dự trữ này ở mức tối ưu, mặt 
khác tăng vòng quay của chúng. Dự trữ là một khoản đầu tư cần thiết để đảm bảo 
tính liên tục của sản xuất và không bỏ lỡ cơ hội trong kinh doanh. Khoản đầu tư 
này được giải phóng sau khi sản phẩm được tiêu thụ. 
 Trang 35 
Vòng quay hàng tồn kho là một chỉ tiêu khá quan trọng để đánh giá hoạt 
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nó được xác định bằng công thức 
dưới đây. 
Vòng quay hàng tồn kho = 
Doanh thu thuần 
Hàng tồn kho 
Chỉ tiêu vòng quay hàng tồn kho phản ánh số lần hàng tồn kho được bán ra 
trong kỳ kế toán và có ảnh hưởng trực tiếp đến nhu cầu vốn luân chuyển. Con số 
này càng cao chứng tỏ khả năng bán ra càng lớn. Trên góc độ chu chuyển vốn thì 
hệ số quay vòng tồn kho lớn sẽ giảm bớt được số vốn đầu tư vào công việc này, 
hiệu quả sử dụng vốn sẽ cao hơn. Tuy nhiên, khi phân tích cũng cần phải chú ý đến 
những nhân tố khác ảnh hưởng đến hệ số quay vòng tồn kho như việc áp dụng 
phương thức bán hàng, kết cấu hàng tồn kho, thị hiếu tiêu dùng, tình trạng nền 
kinh tế, đặc điểm theo mùa vụ của doanh nghiệp, thời gian giao hàng của nhà cung 
cấp... 
Biến động của chỉ tiêu vòng quay hàng tồn kho cung cấp cho ta nhiều thông 
tin. Việc giảm vòng quay vốn hàng tồn kho có thể do chậm bán hàng, quản lý dự 
trữ kém, trong dự trữ có nhiều sản phẩm lạc hậu. Nhưng việc giảm vòng quay hàng 
tồn kho cũng có thể là kết quả của quyết định của doanh nghiệp tăng mức dự trữ 
nguyên vật liệu khi biết trước giá cả của chúng sẽ tăng hoặc có thể có sự gián đoạn 
trong việc cung cấp các nguyên vật liệu này (có đình công, suy giảm sản xuất). 
Ngược lại, việc tăng vòng quay hàng tồn kho có thể do những cải tiến được áp 
dụng trong khâu bán hàng hay hàng hoá của doanh nghiệp đạt chất lượng cao, kết 
cấu hợp lý. Đây là điều đáng khích lệ. Còn nếu doanh nghiệp duy trì mức tồn kho 
thấp thì cũng làm cho hệ số quay vòng hàng tồn kho tăng cao nhưng điều này đôi 
khi gây ra tình trạng thiếu hàng để bán và ảnh hưởng đến việc tăng doanh thu. 
 Kỳ thu tiền bình quân 
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, việc tồn tại các khoản phải thu là 
điều khó tránh khỏi. Nhờ bán chịu, doanh nghiệp có thể thu hút thêm khách hàng, 
mở rộng thị trường và duy trì thị trường truyền thống, do đó có thể giảm hàng tồn 
kho, duy trì được mức sản xuất, nâng cao hiệu quả sử dụng máy móc, thiết bị. Hơn 
 Trang 36 
nữa, nó còn có thể mang lại lợi nhuận tiềm năng cao hơn nhờ việc tăng giá do 
khách hàng mua chịu. Song việc bán hàng chịu cũng đẩy doanh nghiệp vào tình 
trạng phải đối mặt không ít với các rủi ro. Đó là giá trị hàng hoá lâu được thực 
hiện dẫn đến giảm tốc độ chu chuyển của vốn, đặc biệt trong tình trạng thiếu vốn 
doanh nghiệp phải huy động nguồn tài trợ cho việc bán chịu; một điều đáng lo ngại 
hơn là rủi ro về khả năng thu nợ, chi phí đòi nợ. Vì vậy, nhiệm vụ của người quản 
lý doanh nghiệp là phải quan tâm đến kỳ thu tiền bình quân và có biện pháp rút 
ngắn thời gian này. 
Kỳ thu tiền bình quân được tính theo công thức sau (đơn vị của công thức 
này là ngày) : 
Kỳ thu tiền bình quân = 
Các khoản phải thu 
x 360 
Doanh thu thuần 
Trong phân tích tài chính, chỉ tiêu này được sử dụng để đánh giá khả năng 
thu hồi vốn trong thanh toán của doanh nghiệp. Các khoản phải thu lớn hay nhỏ 
phụ thuộc vào nhiều yếu tố : 
 - Tính chất của việc doanh nghiệp chấp nhận bán hàng chịu : Một số doanh 
nghiệp có chính sách mở rộng bán chịu và chấp nhận kéo dài thời hạn thanh toán 
hơn các đối thủ cạnh tranh để phát triển thị trường. 
- Tình trạng của nền kinh tế : Khi tình hình thuận lợi các doanh nghiệp có 
khuynh hướng dễ dàng chấp nhận bán chịu và ngược lại. Nếu chấp nhận tăng thời 
gian bán chịu cho khách hàng mà không tăng được mức tiêu thụ thì đó là dấu hiệu 
xấu về tình hình kinh doanh. Doanh nghiệp cần phải thay đổi chính sách tiêu thụ 
để giữ khách hàng hoặc nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Nhưng tình 
trạng đó cũng có thể là do khách hàng gặp khó khăn trong chi trả nhất là ở vào thời 
kỳ kinh tế suy thoái. Tình huống đó gây khó khăn dây chuyền cho các doanh 
nghiệp bán chịu. 
 - Chính sách tín dụng và chi phí bán hàng chịu : khi lãi suất tín dụng cấp 
cho các doanh nghiệp để tài trợ cho kinh doanh tăng, các doanh nghiệp có xu 
 Trang 37 
hướng giảm thời gian bán chịu vì nếu tiếp tục kéo dài thời hạn sẽ rất tốn kém về 
chi phí tài chính. 
 - Ngoài ra độ lớn của các khoản phải thu còn phụ thuộc vào các khoản trả 
trước của doanh nghiệp. 
 Vòng quay vốn lưu động 
Vòng quay vốn lưu động = 
Doanh thu thuần 
Vốn lưu động 
Chỉ tiêu này cho biết vốn lưu động quay được mấy vòng trong kỳ. Nếu số 
vòng quay tăng chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn tăng và ngược lại. Chỉ tiêu này còn 
được gọi là hệ số luân chuyển. Đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn sẽ góp phần giải 
quyết nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. 
Hiệu suất sử dụng tài sản cố định 
Chỉ tiêu này cho biết một đồng tài sản cố định tạo ra được bao nhiêu đồng 
doanh thu trong kỳ. Tài sản cố định ở đây được xác định là giá trị còn lại tới thời 
điểm lập báo cáo tức là bằng nguyên giá tài sản cố định trừ đi hao mòn luỹ kế. 
Hiệu suất sử dụng tài sản cố định = 
Doanh thu thuần 
Giá trị còn lại của tài sản cố định 
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản 
Tỷ lệ này cho biết một đồng tài sản đem lại bao nhiêu đồng doanh thu. Nó 
cũng thể hiện số vòng quay trung bình của toàn bộ vốn của doanh nghiệp trong kỳ 
báo cáo. Hệ số này làm rõ khả năng tận dụng vốn triệt để vào sản xuất kinh doanh 
của doanh nghiệp. Việc tăng vòng quay vốn kinh doanh này là yếu tố quan trọng 
làm tăng lợi nhận cho doanh nghiệp đồng thời làm tăng khả năng cạnh tranh, tăng 
uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. 
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản = 
Doanh thu thuần 
Tổng tài sản 
1.5.2.4. Các tỷ lệ về khả năng sinh lời 
Khả năng sinh lời là kết quả tổng hợp chịu tác động của nhiều nhân tố vì thế 
khác với các tỷ lệ tài chính phân tích ở trên chỉ phán ánh hiệu quả từng hoạt động 
 Trang 38 
riêng biệt của doanh nghiệp, tỷ lệ về khả năng sinh lời phản ánh tổng hợp nhất hiệu 
quả sản xuất kinh doanh và hiệu năng quản lý của doanh nghiệp. Mục đích chung 
của các doanh nghiệp là làm sao để một đồng vốn bỏ ra mang lại hiệu quả cao nhất 
và khả năng sinh lời nhiều nhất. Để đánh giá khả năng sinh lời người ta dùng các 
chỉ tiêu sau: 
Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm 
Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm = 
Lợi nhuận sau thuế 
Doanh thu thuần 
Chỉ tiêu trên phản ánh số lợi nhuận sau thuế có trong một đồng doanh thu. 
Chỉ tiêu này có thể tăng giảm giữa các kỳ tuỳ theo sự thay đổi của doanh thu thuần 
và chi phí. Nếu doanh thu thuần giảm hoặc tăng không đáng kể trong khi đó chi 
phí tăng lên với tốc độ lớn hơn sẽ dẫn đến lợi nhuận sau thuế giảm và kết quả là 
doanh lợi tiêu thụ sản phẩm thấp. Khi đó, doanh nghiệp vẫn cần xác định rõ 
nguyên nhân của tình hình để có giải pháp khắc phục. 
Doanh lợi vốn chủ sở hữu 
Được xác định bằng cách chia lợi nhuận sau thuế cho vốn chủ sở hữu. Nó 
phản ánh khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu và được các nhà đầu tư đặc biệt 
quan tâm khi họ quyết định bỏ vốn đầu tư vào doanh nghiệp. Tăng mức doanh lợi 
vốn chủ sở hữu cũng là mục tiêu của hoạt động quản lý tài chính doanh nghiệp. Ta 
xét các nhân tố ảnh hưởng đến doanh lợi vốn chủ sở hữu như sau: 
Lợi nhuận sau thuế 
= 
Lợi nhuận sau thuế 
X 
Doanh thu thuần 
x 
Tổng tài sản 
Vốn chủ sở hữu Doanh thu thuần Tổng tài sản Vốn chủ sở hữu 
 Như vậy, doanh lợi vốn chủ sở hữu chịu ảnh hưởng của ba nhân tố : 
 -Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm. 
 -Hiệu suất sử dụng tổng tài sản. 
 -Tỷ trọng vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản. 
 Vì vậy, khi xem xét sự biến động của doanh lợi vốn chủ sở hữu ta cần phân 
tích sự thay đổi của cả ba yếu tố trên để đưa ra những kết luận đúng đắn. 
 Doanh lợi vốn 
 Trang 39 
Đây là chỉ tiêu tổng hợp nhất được dùng để đánh giá khả năng sinh lời của 
một đồng vốn đầu tư (ROA). Tùy thuộc vào tình hình cụ thể của doanh nghiệp 
được phân tích và phạm vi so sánh mà người ta lựa chọn lợi nhuận trước thuế và 
lãi hay lợi nhuận sau thuế để so sánh với tổng tài sản. Đối với doanh nghiệp có sử 
dụng nợ trong kinh doanh, người ta thường sử dụng chỉ tiêu doanh lợi vốn xác 
định bằng cách chia lợi nhuận trước thuế và lãi cho tổng tài sản. 
Doanh lợi vốn = 
Lợi nhuận trước thuế và lãi vay 
Tổng tài sản 
1.5.2.2. Phân tích các hoạt động tài chính 
1.5.2.2.1. Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn 
Một trong những công cụ hữu hiệu của nhà quản lý tài chính là bảng nguồn 
vốn và sử dụng vốn (bảng tài trợ). Nó giúp các nhà quản lý xác định rõ các nguồn 
cung ứng vốn và mục đích sử dụng các nguồn vốn. 
Trong phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn, người ta thường xem 
xét sự thay đổi của các nguồn vốn và cách thức sử dụng vốn của một doanh nghiệp 
trong một thời kỳ theo số liệu giữa hai thời điểm lập bảng cân đối kế toán. 
 Để lập được bảng này, trước hết phải liệt kê sự thay đổi của các khoản mục 
trên bảng cân đối kế toán từ đầu kỳ đến cuối kỳ. Mỗi sự thay đổi được phân biệt ở 
hai cột sử dụng vốn và nguồn vốn theo nguyên tắc : 
 Sử dụng vốn : tăng tài sản hoặc giảm vốn. 
 Nguồn vốn : giảm tài sản hoặc tăng vốn. 
 Việc thiết lập bảng kê nguồn vốn và sử dụng vốn là cơ sở để tiến hành phân 
tích tình hình tăng giảm nguồn vốn, sử dụng vốn, chỉ ra những trọng điểm đầu tư 
vốn và những nguồn vốn chủ yếu được hình thành để tài trợ cho những đầu tư đó. 
Từ đó có giải pháp khai thác các nguồn vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn 
trong doanh nghiệp. 
1.5.2.2.2. Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh 
doanh 
Vốn lưu động thường xuyên 
 Trang 40 
Để tiến hành sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp cần phải có tài sản bao 
gồm tài sản lưu động và tài sản cố định. Để hình thành hai nguồn tài sản này phải 
có các nguồn tài trợ tương ứng bao gồm nguồn vốn ngắn hạn và nguồn vốn dài 
hạn. 
 Nguồn vốn ngắn hạn là nguồn vốn mà doanh nghiệp sử dụng trong khoảng 
thời gian dưới một năm cho hoạt động sản xuất kinh doanh bao gồm nợ ngắn hạn, 
nợ quá hạn, nợ nhà cung cấp và nợ ngắn hạn phải trả khác. 
Nguồn vốn dài hạn là nguồn vốn doanh nghiệp sử dụng lâu dài cho hoạt 
động kinh doanh, nó có thời hạn trên một năm và bao gồm nguồn vốn chủ sở hữu, 
nguồn vốn vay nợ trung hạn và dài hạn. 
Nguồn vốn dài hạn trước hết được đầu tư để hình thành tài sản cố định 
(TSCĐ), phần dư của nguồn vốn dài hạn được đầu tư để hình thành tài sản lưu 
động (TSLĐ). Chênh lệch giữa nguồn vốn dài hạn và tài sản cố định hay giữa tài 
sản lưu động và nợ ngắn hạn được gọi là vốn lưu động thường xuyên. Mức độ an 
toàn của tài sản ngắn hạn phụ thuộc vào độ lớn của vốn lưu động thường xuyên. 
VLĐ thường xuyên = Nguồn vốn dài hạn - TSCĐ = TSLĐ - Nợ ngắn hạn 
Có 3 trường hợp có khả năng xảy ra như sau: 
 - Vốn lưu động thường xuyên > 0, nghĩa là nguồn vốn dài hạn lớn hơn tài 
sản cố định, phần dư thừa đó đầu tư vào tài sản lưu động. Đồng thời, tài sản lưu 
động lớn hơn nợ ngắn hạn nên khả năng thanh toán của doanh nghiệp tốt. 
 - Vốn lưu động thường xuyên = 0, có nghĩa nguồn vốn dài hạn vừa đủ tài 
trợ cho tài sản cố định và tài sản lưu động đủ để doanh nghiệp trả các khoản nợ 
ngắn hạn, tình hình tài chính như vậy là lành mạnh. 
 - Vốn lưu động thường xuyên < 0, nguồn vốn dài hạn không đủ để tài trợ 
cho tài sản cố định. Doanh nghiệp phải đầu tư một phần nguồn vốn ngắn hạn vào 
tài sản cố định, tài sản lưu động không đủ đáp ứng nhu cầu thanh toán nợ ngắn 
hạn, cán cân thanh toán của doanh nghiệp mất thăng bằng, doanh nghiệp phải dùng 
một phần tài sản cố định để thanh toán nợ ngắn hạn đến hạn phải trả. 
Như vậy, vốn lưu động thường xuyên là một chỉ tiêu tổng hợp rất quan 
trọng để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp, nó cho biết : 
 Trang 41 
 - Một là, doanh nghiệp có khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn hay 
không? 
 - Hai là, tài sản cố định của doanh nghiệp có được tài trợ một cách vững 
chắc bằng nguồn vốn dài hạn không? 
Từ công thức tính vốn lưu động thường xuyên ta có thể thấy các yếu tố làm 
thay đổi vốn lưu động thường xuyên là những nghiệp vụ làm thay đổi nguồn vốn 
dài hạn và tài sản cố định của bảng cân đối kế toán. 
 Các nghiệp vụ làm giảm vốn lưu động thường xuyên : 
 - Tăng tài sản cố định : tài sản cố định hữu hình, tài sản cố định vô hình và 
tài sản cố định tài chính. 
 - Giảm nguồn vốn dài hạn : 
 Giảm vốn chủ sở hữu : do chia lợi tức cổ phần, lỗ trong kinh doanh... 
 Hoàn trả tiền vay : bao gồm trả tiền vay trung và dài hạn, hoàn trả trái 
phiếu đáo hạn... 
Các nghiệp vụ làm tăng vốn lưu động thường xuyên : 
- Tăng nguồn vốn dài hạn : 
 Tăng vốn chủ sở hữu : phát hành thêm cổ phiếu thường, giữ lại lợi 
nhuận không chia... 
 Tăng vay nợ trung, dài hạn; phát hành trái phiếu dài hạn... 
- Giảm tài sản cố định thông qua nhượng bán. 
Những thay đổi tài sản lưu động hoặc nợ phải trả ngắn hạn không làm thay 
đổi vốn lưu động thường xuyên, bởi vì việc tăng của một loại tài sản lưu động sẽ 
dẫn đến hoặc giảm một loại tài sản lưu động khác, hoặc tăng một dòng nợ ngắn 
hạn. Chẳng hạn, khi bán sản phẩm tồn kho sẽ làm giảm tồn kho và tăng tương ứng 
ở mục nợ phải thu (nếu bán chịu), hoặc tăng tiền mặt (nếu bán thu tiền ngay). Ta 
cũng cần chú ý là chính sách khấu hao có tác động lớn vào vốn lưu động thường 
xuyên, nếu doanh nghiệp áp dụng chế độ khấu hao nhanh thì vốn luân chuyển sẽ 
cao hơn so với áp dụng phương pháp khấu hao theo đường thẳng. 
Vốn lưu động thường xuyên thể hiện mức độ an toàn, đảm bảo cho doanh 
nghiệp chống lại rủi ro làm mất giá trị tài sản hoặc rủi ro làm giảm tốc độ luân 
 Trang 42 
chuyển vốn dự trữ. Vì vậy, mọi biến động của vốn lưu động thường xuyên phải 
được chú ý theo dõi. Tại các thời điểm khác nhau có ba tình huống xảy ra : 
 - Tăng vốn lưu động thường xuyên. 
 Trong trường hợp này, an toàn của doanh nghiệp tăng vì phần lớn tài sản cố 
định được nguồn vốn dài hạn tài trợ. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng để đạt được sự 
an toàn đó, doanh nghiệp phải tăng nợ dài hạn. Nếu khối lượng nợ dài hạn càng 
lớn sẽ dẫn đến chi phí tài chính càng cao, từ đó làm giảm kết quả kinh doanh. Nếu 
tăng vốn lưu động thường xuyên bằng việc tăng vốn chủ sở hữu thì tình hình tài 
chính doanh nghiệp được cải thiện, nhưng doanh nghiệp phải chịu chi phí sử dụng 
vốn cao hơn nợ vay và có thể phải chia sẻ quyền kiểm soát doanh nghiệp. Do vậy, 
quyết định tăng vốn lưu động và tăng bằng cách nào đòi hỏi một quyết định đúng. 
Mặt khác, khi vốn lưu động thường xuyên đã tài trợ đủ cho tài sản cố định 
còn dư thừa, nếu sử dụng vốn lưu động thường xuyên tài trợ toàn bộ cho tồn kho 
không phải là quyết định quản trị tốt, vì có thể doanh nghiệp đã sử dụng nguồn vốn 
dài hạn tốn kém cho đầu tư tài sản ngắn hạn mà lẽ ra việc sử dụng này phải do tín 
dụng ngắn hạn tài trợ. 
- Giảm vốn lưu động thường xuyên 
Khi một doanh nghiệp giảm vốn lưu động thường xuyên sẽ làm cho mức độ 
an toàn tài chính của doanh nghiệp giảm xuống. Tuy vậy, nếu việc giảm vốn này 
nhằm tài trợ cho các khoản đầu tư sinh lời mới góp phần nâng cao vị thế của doanh 
nghiệp thì cũng cần quan tâm xem xét kỹ. 
 - Giữ ổn định vốn lưu động thường xuyên 
Tình huống này thể hiện tình trạng giữ ổn định các hoạt động của doanh 
nghiệp; để điều chỉnh cơ cấu đầu tư do lợi nhuận không tăng hoặc mức tăng 
trưởng giảm lâu dài, khi cần đánh giá thực trạng của tình huống này cần tiến hành 
nghiên cứu nguồn có khả năng tạo ra lợi nhuận để xem xét. 
Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên 
Tại một thời điểm nào đó, vốn lưu động thường xuyên chỉ rõ mức độ an 
toàn mà doanh nghiệp có được nhằm tài trợ cho chu kỳ kinh doanh của nó. Vì thế 
ta phải nghiên cứu một cách đầy đủ bằng cách so sánh giữa vốn lưu động thường 
 Trang 43 
xuyên và nhu cầu vốn lưu động thường xuyên. Vậy nhu cầu vốn lưu động thường 
xuyên là gì? 
Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên là lượng vốn ngắn hạn doanh nghiệp 
cần để tài trợ cho một phần tài sản lưu động, đó là hàng dự trữ và các khoản phải 
thu (tài sản lưu động không phải là tiền). 
Như vậy, nhu cầu vốn lưu động thường xuyên phụ thuộc vào ba tham số : 
dự trữ, tồn kho và sản phẩm dở dang; nợ phải thu; nợ ngắn hạn. Nhưng tầm quan 
trọng của ba tham số này thay đổi theo tính chất của ngành và mức độ hoạt động, 
điều kiện quản lý và những biến động giá cả. Vì vậy, ta cần phải xem xét sự biến 
động của nhu cầu vốn lưu động thường xuyên theo tính chất của ngành và mức độ 
hoạt động, điều kiện quản lý và những biến động giá cả. 
Nhu cầu VLĐ thường xuyên = Dự trữ và các khoản phải thu - Nợ ngắn hạn 
- Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên và tính chất của ngành mà doanh 
nghiệp hoạt động : nhìn chung có mối liên hệ chặt chẽ giữa nhu cầu vốn lưu động 
thường xuyên và giá trị gia tăng do doanh nghiệp tạo ra. Các doanh nghiệp có giá 
trị gia tăng thấp và chu kỳ sản xuất kinh doanh ngắn (ngành thương mại) thì nhu 
cầu vốn lưu động thường xuyên nhỏ thậm chí âm do dự trữ ít và tận dụng được 
nguồn kinh phí từ bán chịu của nhà cung cấp. Các doanh nghiệp có giá trị gia tăng 
cao và chu kỳ sản xuất dài thường có nhu cầu vốn lưu động thường xuyên lớn. Đó 
là các doanh nghiệp chấp nhận bán hàng chịu trong thời gian dài và khối lượng tồn 
kho lớn (doanh nghiệp công nghiệp chế tạo máy). Tuy nhiên một số doanh nghiệp 
có thể giảm vốn lưu động thường xuyên bằng cách yêu cầu khách hàng ứng trước 
cho những hợp đồng mà họ đang thực hiện. 
- Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên và mức độ hoạt động diễn ra theo 
chu kỳ : nợ phải thu từ khách hàng và nợ phải trả đối với nhà cung cấp gần như tỷ 
lệ thuận với doanh thu. Tuy nhiên, dù tình hình tiêu thụ bị chậm lại thì nhu cầu vốn 
lưu động thường xuyên cũng không giảm ngay vì những đơn đặt hàng đã ký kết 
không thể huỷ bỏ, dự trữ và tồn kho vẫn tăng do tốc độ bán hàng chậm lại. 
- Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên và sự biến động giá cả : trong thời kỳ 
lạm phát, nhu cầu vốn lưu động thường xuyên tăng vì việc tăng nợ phải trả không 
 Trang 44 
đủ bù đắp mức tăng các khoản tồn kho và nợ phải thu, nhất là trong ngành công 
nghiệp. Tình trạng đó làm cho các doanh nghiệp phải vay mượn nhiều hơn để tài 
trợ cho các nhu cầu vốn lưu động thường xuyên. 
- Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên và quản lý : quản lý tồn kho cũng 
như quản lý bán chịu cho khách hàng là tiền đề làm tăng hay giảm nhu cầu vốn lưu 
động thường xuyên. Khi tốc độ vòng quay dự trữ tăng để giảm dự trữ cũng như 
tăng cường nhận ứng trước của khách hàng sẽ góp phần làm giảm nhu cầu vốn lưu 
động thường xuyên và ngược lại. 
Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên có thể nhận các giá trị sau : 
- Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên > 0, tức là tồn kho và các khoản phải 
thu lớn hơn nợ ngắn hạn. Tại đây các sử dụng nợ ngắn hạn của doanh nghiệp lớn 
hơn các nguồn vốn ngắn hạn mà doanh nghiệp có được từ bên ngoài, doanh nghiệp 
phải dùng nguồn vốn dài hạn để tài trợ vào phần chênh lệch. Trong trường hợp này 
doanh nghiệp cần có biện pháp để giải phóng tồn kho và giảm các khoản phải thu 
từ khách hàng. 
- Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên = 0, tức là các nguồn vốn từ bên 
ngoài vừa đủ để tài trợ cho các sử dụng ngắn hạn của doanh nghiệp. 
- Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên < 0 có nghĩa là các nguồn vốn từ bên 
ngoài đã dư thừa để tài trợ cho các sử dụng ngắn hạn của doanh nghiệp. Doanh 
nghiệp không cần nhận thêm nguồn vốn ngắn hạn để tài trợ cho chu kỳ kinh 
doanh. 
 Tiền 
Tiền = Vốn lưu động thường xuyên - Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên 
Nếu tiền < 0 sẽ xảy ra tình trạng mất cân đối trong nguồn vốn ngắn hạn và 
dài hạn ( vốn ngắn hạn nhiều, vốn dài hạn ít ) hoặc mất cân đối trong đầu tư dài 
hạn ( đầu tư dài hạn quá nhiều). 
1.5.2.2.3. Phân tích các dòng ngân quỹ của doanh nghiệp 
 Trong nền kinh tế thị trường, tiền của doanh nghiệp là một yếu tố rất quan 
trọng. Ở một thời điểm nhất định, tiền chỉ phản ánh và có ý nghĩa như một hình 
thái biểu hiện của tài sản lưu động; nhưng trong quá trình kinh doanh, sự vận động 
 Trang 45 
của tiền được xem là hình ảnh trung tâm của hoạt động kinh doanh, phản ánh năng 
lực tài chính của doanh nghiệp. Mặt khác, thông tin về luồng tiền của doanh 
nghiệp rất hữu dụng trong việc cung cấp cho người sử dụng một cơ sở để đánh giá 
khả năng hoạt động của doanh nghiệp trong việc tạo ra tiền và nhu cầu của doanh 
nghiệp trong việc sử dụng luồng tiền đó. Ngoài ra, nó còn giúp doanh nghiệp lập 
kế hoạch tài chính ngắn hạn, dự báo các luồng tiền phát sinh để chủ động trong 
đầu tư hoặc huy động vốn tài trợ. Chính vì thế, trong hệ thống báo cáo tài chính 
phải có bản báo cáo bắt buộc để công khai về sự vận động của tiền thể hiện được 
lượng tiền doanh nghiệp đã thực thu trong kỳ kế toán. 
Trong quản lý ngân quỹ người ta quan tâm đến chu kỳ vận động của tiền 
mặt. Chu kỳ vận động của tiền mặt là độ dài thời gian từ khi thanh toán tiền mua 
nguyên vật liệu (NVL) đến khi thu được tiền từ những khoản phải thu do việc bán 
sản phẩm cuối cùng, nó được tính bằng công thức sau : 
Chu kỳ vận 
động của tiền 
= Thời gian vận 
động của NVL 
+ Thời gian thu hồi các 
khoản phải thu 
+ Thời gian chậm trả 
các khoản phải thu 
 Công thức trên cho thấy chu kỳ tiền mặt cũng là một chỉ tiêu để đánh giá 
hiệu quả quản lý vốn lưu động của doanh nghiệp. 
Thời gian vận động của nguyên vật liệu = 
Hàng tồn kho x 
360 
Doanh thu thuần 
Thời gian thu hồi các khoản phải thu = 
Phải thu 
x 360 
Doanh thu thuần 
Thời gian chậm trả các khoản phải trả = 
Phải trả 
x 360 
Doanh thu thuần 
Mục tiêu doanh nghiệp là rút ngắn chu kỳ vận động của tiền. Chu kỳ nay 
càng dài thì nhu cầu tài trợ từ bên ngoài càng lớn và mỗi nguồn tài trợ đều có chi 
phí. 
 Để phân tích tài chính đạt được hiệu quả tốt nhất các nhà phân tích tài 
chính phải biết kết hợp giữa phân tích các tỷ lệ và phân tích tình hình đảm bảo 
nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh thì mới đưa ra tổng thể tình hình tài chính. 
 Trang 46 
1.6. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng phân tích tài chính 
Phân tích tài chính có ý nghĩa quan trọng với nhiều đối tượng khác nhau, 
ảnh hưởng đến các quyết định đầu tư, tài trợ. Tuy nhiên, phân tích tài chính chỉ 
thực sự phát huy tác dụng khi nó phản ánh một cách trung thực tình trạng tài chính 
doanh nghiệp, vị thế của doanh nghiệp so với các doanh nghiệp khác trong ngành. 
Muốn vậy, thông tin sử dụng trong phân tích phải chính xác, có độ tin cậy cao, cán 
bộ phân tích có trình độ chuyên môn giỏi. Ngoài ra, sự tồn tại của hệ thống chỉ tiêu 
trung bình ngành cũng là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng phân 
tích tài chính. 
1.6.1.Chất lượng thông tin sử dụng 
Đây là yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định chất lượng phân tích tài 
chính, bởi một khi thông tin sử dụng không chính xác, không phù hợp thì kết quả 
mà phân tích tài chính đem lại chỉ là hình thức, không có ý nghĩa gì. Vì vậy, có thể 
nói thông tin sử dụng trong phân tích tài chính là nền tảng của phân tích tài chính. 
Từ những thông tin bên trong trực tiếp phản ánh tài chính doanh nghiệp đến 
những thông tin bên ngoài liên quan đến môi trường hoạt động của doanh nghiệp, 
người phân tích có thể thấy được tình hình tài chính doanh nghiệp trong quá khứ, 
hiện tại và dự đoán xu hướng phát triển trong tương lai. 
Tình hình nền kinh tế trong và ngoài nước không ngừng biến động, tác 
động hàng ngày đến điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp. Hơn nữa, tiền lại có 
giá trị theo thời gian, một đồng tiền hôm nay có giá trị khác một đồng tiền trong 
tương lai. Do đó, tính kịp thời, giá trị dự đoán là đặc điểm cần thiết làm nên sự phù 
hợp của thông tin. Thiếu đi sự phù hợp và chính xác, thông tin không còn độ tin 
cậy và điều này tất yếu ảnh hưởng đến chất lượng phân tích tài chính doanh 
nghiệp. 
 1.6.2.Trình độ cán bộ phân tích 
Có được thông tin phù hợp và chính xác nhưng tập hợp và xử lý thông tin 
đó như thế nào để đưa lại kết quả phân tích tài chính có chất lượng cao lại là điều 
không đơn giản. Nó phụ thuộc rất nhiều vào trình độ của cán bộ thực hiện phân 
tích. Từ các thông tin thu thập được, các cán bộ phân tích phải tính toán các chỉ 
 Trang 47 
tiêu, thiết lập các bảng biểu. Tuy nhiên, đó chỉ là những con số và nếu chúng đứng 
riêng lẻ thì tự chúng sẽ không nói lên điều gì. Nhiệm vụ của người phân tích là 
phải gắn kết, tạo lập mối liên hệ giữa các chỉ tiêu, kết hợp với các thông tin về điều 
kiện, hoàn cảnh cụ thể của doanh nghiệp để lý giải tình hình tài chính của doanh 
nghiệp, xác định thế mạnh, điểm yếu cũng như nguyên nhân dẫn đến điểm yếu 
trên. Hay nói cách khác, cán bộ phân tích là người làm cho các con số “biết nói”. 
Chính tầm quan trọng và sự phức tạp của phân tích tài chính đòi hỏi cán bộ phân 
tích phải có trình độ chuyên môn cao. 
1.6.3. Hệ thống các chỉ tiêu trung bình ngành 
Phân tích tài chính sẽ trở nên đầy đủ và có ý nghĩa hơn nếu có sự tồn tại của 
hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành. Đây là cơ sở tham chiếu quan trọng khi tiến 
hành phân tích. Người ta chỉ có thể nói các tỷ lệ tài chính của một doanh nghiệp là 
cao hay thấp, tốt hay xấu khi đem so sánh với các tỷ lệ tương ứng của doanh 
nghiệp khác có đặc điểm và điều kiện sản xuất kinh doanh tương tự mà đại diện ở 
đây là chỉ tiêu trung bình ngành. Thông qua đối chiếu với hệ thống chỉ tiêu trung 
bình ngành, nhà quản lý tài chính biết được vị thế của doanh nghiệp mình từ đó 
đánh giá được thực trạng tài chính doanh nghiệp cũng như hiệu quả sản xuất kinh 
doanh của doanh nghiệp mình. 
Chương 2. Phân tích tình hình tài chính 
công ty tư vấn giám sát và xây dựng công trình 
2.1. Giới thiệu chung về công ty tư vấn giám sát và xây dựng công trình 
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển công ty tư vấn và giám sát xây dựng 
công trình. 
- Trong những năm 1980 -1995 ban quản lý dự án Thăng Long là một trong 
những ban lớn của Bộ Giao Thông Vận Tải. Sau khi hoàn thành một số công trình 
lớn như cầu Thăng Long, cầu Chương Dương, cầu Việt Trì, đường Bắc Thăng 
Long Nội Bài, lúc đó ban bước vào giai đoạn khó khăn về công việc . Do hết việc 
làm, toàn ban ở tình trạng: Người tồn đọng nhiều, thiếu kinh phí trả lương, cơ quan 
lâm vào tình trạng túng thiếu và khó khăn. 
 Trang 48 
- Trước tình hình trên, đồng chí tổng giám đốc ban Thăng Long báo cáo Bộ 
giao thông vận tảI về việc tạo cơ hội để cán bộ chủ yếu: Kỹ Sư Cầu Đường, Kỹ Sư 
Xây Dựng phát huy tính năng động, tự chủ, tự cứu mình đồng thời giảm bớt được 
những khó khăn trước mắt cũng như lâu dài cho ban và được Bộ đồng ý ra quyết 
định thành lập công ty Tư Vấn Giám Sát và Xây Dựng Công Trình. 
Quyết định số 2901 QĐ/ TCCB ngày 31 tháng 10 năm 1996 và số 2992/ 1998/QĐ/ 
BGTVT ngày 21 tháng 11 năm 1998 về việc cho phép ban quản lý dự án Thăng 
Long thành lập “ công ty tư vấn giám sát và xây dựng công trình”, Với những 
nhiệm vụ chủ yếu: 
+ Giám sát thiết kế công trình đường thuỷ, đường bộ 
+ Lập hồ sơ mời thầu, tư vấn đấu thầu, tư vấn giám sát, kiểm định chất 
lượng công trình xây dựng. 
+ Xây dựng công trình giao thông không do công ty thiết kế trừ hợp đồng 
theo hình thức chìa khoá trao tay 
2.1.2. Quá trình phát triển của công ty: 
Tháng 12/ 1998. Công ty được ổn định gồm ông: Phạm Văn Khánh làm 
giám đốc, bốn phó giám đốc,… và các phòng nghiệp vụ. Mở tài khoản có con dấu 
và trụ sở làm việc tại địa chỉ số 33- Dịch Vọng Cầu Giấy Hà Nội. Công ty có đủ tư 
cách pháp nhân, từng bước đi vào hoạt động. 
Cuối năm 2000 đồng chí Phạm Văn Khánh giám đốc ốm, không đủ sức 
khoẻ để chỉ đạo công ty. Tháng 7 năm 2001. Đồng chí Phạm Mạnh Lưu phó giám 
đốc lên làm giám đốc. Công việc từng bước đi vào ổn định phát triển. Từ đó đến 
nay về cơ cấu tổ chức được bố trí như sau: 
Lãnh đạo: Giám đốc và phó giám đốc. 
Các phòng nghiệp vụ: 
+ Phòng tổ chức hành chính 
+ phòng tài chính kế toán 
+ Phòng thí nghiệm 
+ Phòng giám sát 
+ Phòng kinh tế thị trường 
+ Phòng kỹ thuật thi công 
 Trang 49 
+ Phòng đầu tư 
Với tổng số công nhân viên là 578 người. Trong đó nhân viên quản lý 55 người. 
2.1.3. Chức năng nhiệm vụ của công ty: 
Căn cứ quyết định số 26/ BXD-CSXD ngày 8 tháng 2 năm 1999 của bộ 
trưởng bộ Xây Dựng. Cấp chứng chỉ hành nghề tư vấn giám sát và xây dựng cho 
công ty. Với nội dung chủ yếu: 
Thí nghiệm các chỉ tiêu kỹ thuật vật liệu xây dựng đất, bê tông và các chỉ 
tiêu vật liệu khác. 
Giám sát kỹ thuật xây dựng, kiểm định chất lượng các công trình xây dựng. 
Khảo sát thiết kế lập dự toán các công trình xây dựng. 
Thi công xây dựng các công trình xây dựng 
2.1.4. Tổ chức bộ máy quản lý ở công ty tư vấn giám sát và xây dựng công 
trình. 
Cơ cấu tổ chức quản lý của công ty theo kiểu cơ cấu trực tuyến chức năng 
bao gồm các thành phần sau: 
Giám đốc công ty: Là người có quyền lực cao nhất trong công ty, quyết 
định các chiến lược và phương án kinh doanh, bổ nhiệm và miễn nhiệm phó giám 
đốc, các trưởng phòng và cỏc vị trí quan trọng khác. 
Phó giám đốc: Là người cộng sự đắc lực của giám đốc, được giám đốc uỷ 
quyền để thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý trong lĩnh vực được giao. Công ty 
có 4 phó giám đốc. 
Kế toán trưởng: Có vai trò tham mưu cho giám đốc về lĩnh vực kinh tế tài 
chính – kế toán. 
Các phòng ban chức năng được tổ chức căn cứ theo yêu cầu của công tác 
kinh doanh bao gồm: Phòng tổ chức hành chính, phòng kỹ thuật thi công, phòng 
kinh tế thị trường, phòng tài chính kế toán, phòng đầu tư, phòng giám sát, phòng 
thí nghiệm… 
Cơ cấu tổ chức và chức năng hoạt động của các phòng ban chức năng sẽ 
được trình bày ở các mục sau: 
+ Phòng tổ chức hành chính: 
Biên chế: Gồm một trưởng phòng, một phó phòng và 3 nhân viên. 
 Trang 50 
S¬ ®å tæ chøc bé m¸y kÕ to¸n t¹i ®¬n vÞ
 kÕ to¸n trëng
 kÕ to¸n tæng hîp
 kÕ to¸n 
tµi s¶n cè
 ®Þnh
Thñ quükÕ to¸n 
lao ®éng 
tiÒn l¬ng
vµ tiÒn mÆt
kÕ to¸n 
ng©n hµng
vµ thanh 
to¸n c«ng
nî
Chức năng: Tham mưu tư vấn cho giám đốc trong các mặt công tác, bố trí 
tuyển dụng và đào tạo lao động, đảm bảo đời sống cho người lao động 
Nhiệm vụ: Ban hành điều lệ, quy chế, quy định , nội quy hoạt động của các 
bộ phận trong công ty. 
Tuyển dụng lao động cho công ty khi cần thiết. 
Bố trí lao động trong công ty sao cho phù hợp với tình hình sản xuất 
 Đào tạo , bồi dưỡng cán bộ,công nhân 
Công tác quản lý hồ sơ cán bộ và công nhân trong công ty 
Lập sổ bảo hiểm xã hội, sổ lao động, sổ hưu trí cho cán bộ công nhân viên 
đến tuổi về hưu 
 Thăm hỏi cán bộ công nhân viên trong diện công ty quản lý khi ốm đau, 
qua đời 
Kiểm tra theo dõi tổng hợp báo cáo bộ và các cơ quan liên quan theo định 
kỳ và đột xuất: Về chất lượng cán bộ, chính sách cán bộ, về lao động thu nhập, bảo 
hiểm lao động, an toàn lao động 
+ Phòng kế toán tài chính: 
Biên chế: biên chế nhân sự của phòng kế toán hiện nay có 6 người được thể 
hiện theo sơ đồ tổ chức như sau: 
 Trang 51 
Chức năng: Vì đặc điểm của ngành xây dựng là sản phẩm luôn gắn liền với 
đất đai và không tập trung ở một nơi cố định nên công tác kế toán đòi hỏi rất phức 
tạp… Công ty áp dụng hình thức nhật ký chung để hạch toán các nghiệp vụ kinh tế 
phát sinh trong đơn vị. Phòng kế toán đã sử dụng maý tính với các phần mềm kế 
toán chuyên dụng trong công tác hạch toán. 
Nhiệm vụ: 
Kế toán trưởng: Có nhiệm vụ tổ chức và kiểm tra việc thực hiện công tác kế 
toán ở công ty và ở các đội sản xuất 
Kế toán tổng hợp: Chịu trách nhiệm tổng hợp, hạch toán chi tiết giá thành, 
tổng hợp nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ sản xuất, theo dõi sự biến động của vật 
tư. Ngoài ra kế toán tổng hợp còn phảI báo cáo tài chính và phân tích hoạt động 
kinh doanh của công ty. 
Kế toán TSCĐ: Có nhiệm vụ ghi chép, phản ánh, tổng hợp số liệu về tình 
hình tăng giảm tài sản cố định, tình hình khấu hao tài sản. 
Kế toán lao động tiền lương và tiền mặt: Theo dõi các nghiệp vụ liên quan 
đến tính và trả lương, thưởng cho người lao động. Căn cứ vào bảng chấm công, kế 
toán lập bảng thanh toán lương và trích nộp các quỹ, theo dõi các nghiệp vụ về thu 
chi tiền mặt qua nghiệp lập các phiếu chi 
Kế toán ngân hàng và thanh toán công nợ: Có trách nhiệm theo dõi các 
quan hệ với ngân hàng về tiền gửi, tiền vay ngân hàng và các đơn vị kinh tế khác. 
Thủ quỹ: Làm nhiệm vụ thu chi tiền mặt và quản lý tiền mặt trong quỹ, 
cùng với kế toán lao động tiền lương và tiền mặt, kế toán thanh toán tiến hành thu 
chi tiền mặt tại các đơn vị. 
+Phòng kinh tế thị trường: 
Biên chế: Gồm 12 người: Một trưởng phòng, một phó phòng, và 10 nhân 
viên được chia thành các bộ phận như sau: Bộ phận quản lý kỹ thuật và bộ phận 
đấu thầu. Các bộ phận này ch?u sự quản lý của trưởng phòng. Nhân sự của các bộ 
phận này luôn thay đổi sao cho phù hợp với tình hình sản xuất của công ty. 
* Chức năng: Giúp giám đốc trong việc đấu thầu, lập kế hoạch đấu thầu và kế 
hoạch thi công cụ thể, đồng thời phụ trách về kỹ thuật thi công 
 Trang 52 
* Nhiệm vụ: Lập kế hoạch tuần, tháng, quý, năm, và báo cáo tình hình thực hiện kế 
hoạch. Cuối năm trước năm kế hoạch, phòng kế hoạch lập kế hoạch năm để trình 
lên ban giám đốc công ty duyệt, lập hồ sơ đăng ký dự thầu 
+ Phòng tư vấn giám sát chất lượng: 
Biên chế: Gồm một trưởng phòng, 2 phó phòng và 20 nhân viên. Thực hiện 
chức năng và nhiệm vụ theo quyết định 1562/1999/QĐ - BGTVT ngày 26 tháng 6 
năm 1999 của bộ trưởng bộ GTVT thực hiện một số nhiệm vụ chủ yếu sau: 
+Quản lý chất lượng là nhiệm vụ hàng đầu, chủ yếu đồng thời là trách 
nhiệm cao nhất của tư vấn giám sát. 
+Kiểm tra đồ án thiết kế kỹ thuật, bản vẽ thi công được duyệt, đối chiếu 
hiện trường, đề xuất với chủ đầu tư về phương án giảI quyết những tồn tại trong hồ 
sơ thiết kế cho phù hợp thực tế. 
+Thẩm tra và ký chấp thuận các bản vẽ thi công công trình, trình chủ đầu tư 
phê duyệt. 
Căn cứ hồ sơ thiết kế, các chỉ dẫn kỹ thuật đã duyệt trong hồ sơ thầu: Các 
quy trình quy phạm, tiêu chuẩn ngành, tiêu chuẩn Việt Nam hiện hành để triển 
khai công tác trong quá trình thi công. 
Kiểm tra đánh giá kịp thời các bộ phận các hạng mục công trình, nghiệm 
thu trước khi chuyển giai đoạn thi công. 
Phát hiện những sai sót, hư hỏng, khuyết tật, sự cố các bộ phận công trình, 
lập biên bản theo quy định trình cấp có thẩm quyền giảI quyết. 
Khi công trình hoàn thành đơn đốc nhà thầu lập hồ sơ hoàn thành công 
trình, tham gia vào hội đồng nghiệm thu công trình hoàn thành đưa công trình vào 
khai thác. 
Kiểm tra và xúc tiến tiến độ tổng thể và chi tiết do nhà thầu lập, kiểm tra 
đôn đốc nhà thầu thực hiện đúng tiến độ, nếu tiến độ bị vỡ hướng dẫn nhà thầu lập 
lại cho phù hợp với thực tế. 
Lập báo cáo tháng, quý, năm về tiến độ, chất lượng, khối lượng thanh toán 
giảI ngân và những vấn đề vướng mắc cho chủ đầu tư. 
Đình chỉ thi công khi thiết bị thi công không đúng chủng loại theo hồ sơ 
mời thầu .Những công trình thi công không đúng quy trình, quy phạm và không 
 Trang 53 
đúng với thiết kế. Lập văn bản đình chỉ báo cáo về chủ đầu tư và có biện pháp xử 
lý yêu cầu nhà thầu thực hiện. 
Tư vấn giỏm sát chịu trách nhiệm trước chủ đầu tư và có biện pháp xử lý 
yêu cầu nhà thầu thực hiện 
Tư vấn giám sát chịu trách nhiệm trước chủ đầu tư và pháp luật về tiến độ, 
chất lượng giá thành theo hợp đồng. Chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho chủ 
đầu tư do lỗi tư vấn giám sát gây nên. 
Thực hiện nghiêm chỉnh quy định: Trách nhiệm và hình thức xử lý với cá 
nhân về vi phạm quản lý đảm bảo chất lượng các dự án xây dựng số 
4391/2002/QĐ của Bộ Trưởng Bộ Giao Thông Vận Tải 
+Phòng kỹ thuật thi công: Bao gồm 10 người 
Trưởng phòng: một người, phó phòng một người, phụ trách kỹ thuật chung 
một người ,kế toán vật tư một người, kế toán thanh toán một người, kỹ sư thi công 
5 gười 
*Nhiệm vụ: Nghiên cứu các tài liệu thiết kế, thi công và các điều kiện có 
liên quan 
Phõn tích các tổ hợp công tác và xác định các công việc trong từng tổ hợp 
Tính khối lượng công tác 
Lựa chọn phương pháp thi công 
Tính nhu cầu lao động và xe máy thi công 
Tính toán thời hạn thực hiện các quy trình và xác định về mối liên hệ và 
thời gian giữa các quá trình kế tiếp. 
Vạch tiến độ công tác, và biểu đồ nhân lực và điều chỉnh kế hoạch tiến độ 
Lập biểu đồ chi phí vận chuyển và dự trữ vật liệu 
Đánh giá phương án tổ chức và kế hoạch tiến độ thi công 
2.1.5 Đặc điểm tổ chức công tác kế toán và năng lực tài chính công ty tư vấn 
giám sát và xây dựng công trình : 
2.1.5.1. Đặc điểm tổ chức công tác kế toán: 
Công ty áp dụng hình thức công tác kế toán nửa tập chung nửa phân tán 
theo chế độ kế toán hiện hành 
 Trang 54 
Hình thức sổ kế toán áp dụng: Chứng từ ghi sổ 
Dưới mỗi đội sản xuất có một nhân viên kế toán thống kê thu nhập chứng từ 
ban đầu, cuối tháng chuyển chứng từ về phòng tài chính kế toán. Vì ở công ty thực 
hiện giao khoán đến các đội thi công, nên ở các đội công trình, việc nhập và xuất 
vật tư ở các đội phảI cân đo cụ thể, từ đó nhập các chứng từ và chuyển về phòng 
vật tư để viết phiếu nhập kho, phiếu xuất kho. Các phiếu này được chuyển tới 
phòng tài chính kế toán để tiến hành hạch toán và lưu giữ lại để làm cơ sở cho việc 
kiểm kê năm cũng như quản lý tình hình thanh toán với người bán. Các đội trưởng, 
tổ trưởng sản xuất quản lý và theo dõi tình hình lao động trong đội, trong tổ, lập 
bảng chấm công, chi phí nhân viên quản lý đội. 
Các chứng từ ban đầu ở các đội công trình sau khi được tập hợp, phân lao 
sẽ được đính kèm với “ giấy đề nghị thanh toán” do đội trưởng hoặc kế toán đội 
lập có xác nhận khối lượng giao nhận của cán bộ kỹ thuật công ty gửi lên phòng kế 
toán xin thanh toán cho các đối tượng được thanh toán. Ở phòng tài chính, kế toán, 
sau khi nhận được đầy đủ các loại chứng từ, tổng hợp ghi sổ, hệ thống hoá các số 
liệu và cung cấp thông tin phục vụ cho yêu cầu quản lý. Đồng thời dựa trên các 
báo cáo này, kế toán tiến hành phân tích các hoạt động kinh doanh giúp lãnh đạo 
trong việc quản lý, ra quyết định và điều hành sản xuất kinh doanh ở công ty. 
2.1.5.2. phương pháp kế toán tài sản cố định (tài sản cố định) 
Nguyên tắc đánh giá tài sản cố định 
Theo giá vốn( giá mua cộng vớ
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
Luận văn- Phân tích tình hình tài chính Công tư vấn giám sát và xây dựng công trình.pdf