Tài liệu Luận văn Những giải pháp vượt qua hàng rào phi thuế quan đối với xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào thị trường EU và Mỹ: Luận văn 
Những giải pháp vượt qua 
hàng rào phi thuế quan đối 
với xuất khẩu thủy sản của 
Việt Nam vào thị trường EU 
và Mỹ 
 1 
MỤC LỤC 
MỞ ĐẦU ................................................................................................................................. 2 
PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HÀNG RÀO PHI THUẾ QUAN VÀ CHÍNH SÁCH 
THƯƠNG MẠI CỦA EU VÀ MỸ ............................................................................................ 5 
I.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HÀNG RÀO PHI THUẾ QUAN .............................................. 5 
I.1.1. Khái niệm và vai trò của hàng rào phi thuế quan .......................................................... 5 
I.1.2. Các loại hàng rào phi thuế quan .................................................................................... 5 
I.1.2.1. Hạn ngạch nhập khẩu ............................................................................................ 6 
I.1.2.2. Hạn chế xuất khẩu tự nguyện ......................
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
42 trang | 
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1323 | Lượt tải: 1
              
            Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Những giải pháp vượt qua hàng rào phi thuế quan đối với xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào thị trường EU và Mỹ, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn 
Những giải pháp vượt qua 
hàng rào phi thuế quan đối 
với xuất khẩu thủy sản của 
Việt Nam vào thị trường EU 
và Mỹ 
 1 
MỤC LỤC 
MỞ ĐẦU ................................................................................................................................. 2 
PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HÀNG RÀO PHI THUẾ QUAN VÀ CHÍNH SÁCH 
THƯƠNG MẠI CỦA EU VÀ MỸ ............................................................................................ 5 
I.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HÀNG RÀO PHI THUẾ QUAN .............................................. 5 
I.1.1. Khái niệm và vai trò của hàng rào phi thuế quan .......................................................... 5 
I.1.2. Các loại hàng rào phi thuế quan .................................................................................... 5 
I.1.2.1. Hạn ngạch nhập khẩu ............................................................................................ 6 
I.1.2.2. Hạn chế xuất khẩu tự nguyện ................................................................................. 6 
I.1.2.3. Biện pháp liên quan đến quản lý giá ...................................................................... 7 
I.1.2.4. Biện pháp liên quan đến doanh nghiệp .................................................................. 8 
I.1.2.5. Biện pháp liên quan đến tiêu chuẩn kỹ thuật .......................................................... 8 
I.1.2.6. Biện pháp quản lý hành chính................................................................................ 9 
I.2. CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI CỦA EU VÀ MỸ ......................................................... 9 
I.2.1. Chính sách thương mại chung của liên minh Châu Âu (EU) ..................................... 9 
I.2.1.1. Chính sách thương mại nội khối ........................................................................ 9 
I.2.1.2. Chính sách ngoại thương của EU ...................................................................... 9 
I.2.1.3. Quy chế nhập khẩu chung của EU ................................................................... 10 
I.2.2. Chính sách thương mại của Mỹ .............................................................................. 13 
I.2.2.1. Quy định về hải quan ...................................................................................... 13 
I.2.2.2. Quy chế nhập khẩu chung của Mỹ ................................................................... 14 
PHẦN II: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU THỦY SẢN CỦA VIỆT NAM VÀ HÀNG 
RÀO PHI THUẾ QUAN ĐỐI VỚI HÀNG THỦY SẢN VIỆT NAM XUẤT KHẨU VÀO 
EU VÀ MỸ ............................................................................................................................ 18 
II.1. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU THỦY SẢN CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN 
QUA 18 
II.1.1. Tình hình sản xuất, nuôi trồng và đánh bắt thủy sản ............................................. 18 
II.1.2. Thực trạng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào các thị trường ........................... 20 
II.2. CÁC HÀNG RÀO PHI THUẾ QUAN CHỦ YẾU CỦA EU VÀ MỸ ĐỐI THỦY 
SẢN XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM ............................................................................... 26 
II.2.1. Đối với thị trường EU ......................................................................................... 26 
II.2.2. Đối với thị trường Mỹ .......................................................................................... 30 
PHẦN III: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP VƯỢT QUA HÀNG RÀO PHI THUẾ 
QUAN NHẰM THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG THỦY SẢN CỦA VIỆT NAM VÀO . 33 
THỊ TRƯỜNG EU VÀ MỸ .................................................................................................. 33 
III.1.ĐỊNH HƯỚNG CHUNG ............................................................................................ 33 
III.2. CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ..................................................................................... 34 
III.2.1. Chính sách tạo nguồn nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu ................................... 34 
III.2.2. Chính sách thị trường ........................................................................................... 35 
III.2.3. Chính sách tạo vốn .............................................................................................. 35 
III.2.4. Chính sách công nghệ .......................................................................................... 36 
KẾT LUẬN ........................................................................................................................... 38 
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................................... 40 
 2 
MỞ ĐẦU 
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI 
Việt Nam bình thường hóa quan hệ ngoại giao với liên minh Châu Âu 
(EU) vào ngày 20/10/1990, (kí hợp đồng buôn bán hàng dệt may với EU ngày 
15/12/1992) và hiệp định khung với EU ngày 17/7/1995. Các sự kiện quan trọng 
trên chính là yếu tố thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế Việt Nam – Liên minh 
Châu Âu phát triển mạnh trên cả ba lĩnh vực : thương mại, đầu tư và viện trợ, 
đặc biệt là lĩnh vực thương mại. 
Hiện nay EU thực sự là thị trường tiềm năng của Việt Nam. Điều này 
được thể hiện ở chỗ EU là một trong những trung tâm tiêu thụ lớn trên thế giới, 
có nhu cầu rất đa dạng và phong phú về hàng hóa, nhu cầu nhập khẩu hàng năm 
của EU về những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam là rất lớn. Đồng 
thời chính sách thương mại của EU đối với Việt Nam đang dần hoàn thiện. Hơn 
nữa EU là khu vực phát triển kinh tế khá ổn định trên thế giới, cùng với sự ra 
đời của đồng EURO, vị thế của EU ngày càng được nâng cao trên trường quốc 
tế. Tại thời điểm này, Việt Nam lại đang thực hiện chiến lược “Công nghiệp hóa 
hướng vào xuất khẩu”. Do vậy, thị trường EU là môi trường lí tưởng cho các 
nhà xuất khẩu Việt Nam thể hiên sức mạnh của mình. 
Bên cạnh đó, một thị trường tiềm năng không kém thị trường EU là Hoa 
Kỳ. Kể từ ngày B.Clinton ký quyết định xóa bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam 
(3/2/1994), thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức giữa hai nước (28/1/1995) và 
đặc biệt sau khi hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ có hiệu 
lực (10/12/2001), quan hệ thương mại Việt - Mỹ đã có những bước phát triển 
đáng kể, kim ngạch hàng hóa hai chiều tăng mạnh, mở ra cho các doanh nghiệp 
hai nước cơ hội đầu tư, kinh doanh bình đẳng cùng có lợi, tạo đà quan trọng cho 
tiến trình phát triển Việt Nam – Hoa Kỳ sau bình thường hóa quan hệ. 
Trên thị trường thế giới, hàng thủy sản đựợc xếp vào nhóm sản phẩm cơ 
bản, luôn trong tình trạng cung không đáp ứng nổi cầu trên quy mô toàn cầu. 
 3 
Trong mấy năm vừa qua, Việt Nam luôn được xếp vào nhóm những nước xuất 
khẩu thủy sản lớn nhất thế giới, tính đến hết tháng 11 năm 2006 kim ngạch xuất 
khẩu của Việt Nam đã vượt ngưỡng trên ba tỷ USD (3,08 tỷ USD, tăng gần 25% 
so với cùng kỳ năm trước). Cơ hội còn rất nhiều, áp lực cạnh tranh cũng rất lớn, 
nếu muốn trụ vững trên thương trường quốc tế, đặc biệt khi một số nước tham 
gia xuất khẩu tăng lên và mở rộng năng lực sản xuất, đồng thời các nước nhập 
khẩu sẽ đưa ra những hàng rào thương mại ngày càng khắt khe hơn mà nhất là 
những rào cản phi thuế quan của hai thị trường lớn là EU và Mỹ. Để xuất khẩu 
thủy sản Việt Nam trụ vững trên thương trường thế giới, đồng thời đẩy mạnh 
xuất khẩu thủy sản vào hai thị trường lớn này, chúng ta phải làm gì để vượt qua 
được hàng rào phi thuế quan đó? 
Xuất phát từ thực tế nêu trên và là một trong những người quan tâm đến 
vấn đề này , em tiến hành nghiên cứu đề tài: 
 “Những giải pháp vượt qua hàng rào phi thuế quan đối với xuất khẩu 
thủy sản của Việt Nam vào thị trường EU và Mỹ” 
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 
a. Mục tiêu chung 
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng xuất khẩu hàng thủy sản của Việt Nam, 
từ đó đề xuất những định hướng và giải pháp nhằm vượt qua hàng rào phi thuế 
quan của hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường EU và Mỹ. 
b. Mục tiêu cụ thể 
- Tìm hiểu những rào cản phi thuế, cụ thể ở thị trường EU và Mỹ. 
- Đánh giá thực trạng xuất khẩu thủy sản ở Việt Nam và tìm ra các nguyên 
nhân chủ yếu. 
- Đề xuất định hướng và đưa ra một số giải pháp cụ thể để vượt qua hàng 
rào phi thuế quan của ngành xuất khẩu thủy sản Việt Nam trên hai thị trường EU 
và Mỹ. 
 4 
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 
a. Đối tượng nghiên cứu 
Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề liên quan về xuất khẩu hàng thủy 
sản và một số hàng rào phi thuế quan. 
b. Phạm vi nghiên cứu 
Phạm vi về nội dung: Tập trung vào nghiên cứu hàng rào phi thuế quan và 
các giải pháp vượt qua các hàng rào phi thuế quan của hàng xuất khẩu thủy sản 
của Việt Nam trên hai thị trường EU và Mỹ. 
Phạm vi về thời gian: tìm hiểu vấn đề chủ yếu qua các năm 2000 - 2006 
 5 
PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HÀNG RÀO PHI THUẾ QUAN 
VÀ CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI CỦA EU VÀ MỸ 
I.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HÀNG RÀO PHI THUẾ QUAN 
I.1.1. Khái niệm và vai trò của hàng rào phi thuế quan 
Chính sách thương mại quốc tế là một hệ thống các quan điểm, nguyên 
tắc, mục tiêu, biện pháp và các công cụ mà các quốc gia sử dụng nhằm điều 
chỉnh các hoạt động thương mại quốc tế phù hợp với các lợi thế quốc gia trong 
từng thời kỳ nhằm đem lại lợi ích cao nhất cho quốc gia từ thương mại quốc tế. 
Khi tham gia vào thương mại quốc tế, các quốc gia sẽ phát huy được các 
thế mạnh của nước mình, tận hưởng được những lợi thế từ thị trường thế giới. 
Nhưng mặt khác cũng sẽ bộc lộ những mặt yếu kém và bất lợi của chính quốc 
gia đó. Do vậy các quốc gia thường phải sử dụng một hệ thống các cộng cụ để 
điều chỉnh hoạt động thương mại quốc tế. Trong đó phải kể đến việc sử dụng 
hàng rào phi thuế quan – một công cụ được coi là linh hoạt, tác động nhanh, 
mạnh. 
Hiện nay có nhiều quan niệm về hàng rào phi thuế quan, tổ chức Hợp tác 
và Phát triển kinh tế (OECD) năm 1997 đã định nghĩa : “Hàng rào phi thuế quan 
là những biện pháp biên giới nằm ngoài phạm vi thuế quan có thể được các quốc 
gia sử dụng, thông thường dựa trên cơ sở lựa chọn, nhằm hạn chế nhập khẩu”. 
Như vậy vai trò chính của hàng rào phi thuế quan chính là nhằm hạn chế 
nhập khẩu, một quốc gia khi sử dụng hàng rào phi thuế quan này thực chất 
là việc bảo hộ cho nền sản xuất trong chính quốc gia đó. Ngoài ra, hàng 
rào phi thuế quan không chỉ có ý nghĩa trong việc bảo hộ thị trường nội 
địa, hướng dẫn tiêu dùng, điều tiết vĩ mô nền kinh tế khá có hiệu quả mà 
còn là công cụ dùng để phân biệt đối xử trong quan hệ đối ngoại. 
I.1.2. Các loại hàng rào phi thuế quan 
 Các hàng rào phi thuế quan chủ yếu mà các nước thường áp dụng là: 
 6 
I.1.2.1. Hạn ngạch nhập khẩu 
Hạn ngạch nhập khẩu được hiểu là quy định của Nhà nước về số lượng 
cao nhất của một mặt hàng hoặc một nhóm hàng được phép nhập khẩu từ thị 
trường nhất định trong một khoảng thời gian nhất định thông qua hình thức cấp 
giấy phép. 
Hạn ngạch nhập khẩu đưa tới sự hạn chế số lượng hàng nhập khẩu đồng 
thời gây ra ảnh hưởng đến giá nội địa của hàng hóa, do mức cung hàng hóa thấp 
đi làm cho giá cân bằng cao hơn so với giá trong thương mại tự do. Hạn ngạch 
nhập khẩu tạo điều kiện cho các nhà sản xuất trong nước thực hiện quy mô sản 
xuất với hiệu quả thấp hơn so với điều kiện thương mại tự do. Hạn ngạch nhập 
khẩu là một công cụ quan trọng để thực hiện chiến lược sản xuất thay thuế nhập 
khẩu bảo hộ nền sản xuất nội địa. 
I.1.2.2. Hạn chế xuất khẩu tự nguyện 
Hạn chế xuất khẩu tự nguyện là biện pháp hạn chế xuất khẩu mà theo đó 
một quốc gia nhập khẩu đòi hỏi quốc gia xuất khẩu phải hạn chế bớt lượng hàng 
xuất sang nước mình một cách “tự nguyện”, nếu không các quốc gia nhập khẩu 
sẽ áp dụng các biện pháp cần thiết để buộc các quốc gia xuất khẩu phải giảm bớt 
số lượng hàng hóa xuất khẩu sang nước mình. 
Thực chất hạn chế xuất khẩu tự nguyện là những cuộc thương lượng mậu 
dịch giữa bên xuất khẩu và bên nhập khẩu để hạn chế bớt sự xâm nhập của hàng 
hóa nhập khẩu nhằm thực hiện những mục tiêu nhất định ở các nước nhập khẩu, 
chẳng hạn: tạo công ăn việc làm, bảo hộ những ngành công nghiệp non trẻ có 
tiềm năng... Khi thực hiện hạn chế xuất khẩu tự nguyện nó có tác động kinh tế 
tương tự như hạn ngạch nhập khẩu. Tuy nhiên hạn ngạch nhập khẩu mang tính 
chủ động và thường là biện pháp tự bảo vệ thị trường trong nước còn hạn chế 
xuất khẩu tự nguyện thực ra mang tính miễn cưỡng và gắn với những điều kiện 
nhất định. Hình thức này thường được áp dụng đối với những quốc gia có sản 
lượng xuất khẩu quá lớn ở một số mặt hàng nào đó. 
 7 
I.1.2.3. Biện pháp liên quan đến quản lý giá 
 Các biện pháp quản lý giá nhập khẩu hoặc giá bán trong nước có thể tác 
động trực tiếp hoặc gián tiếp tới xuất nhập khẩu hàng hóa. Việc tính giá tùy tiện 
sẽ gây nên những khó khăn lớn cho thương mại quốc tế vì giá tính thuế cao thì 
giá của sản phẩm nhập về sẽ cao, khả năng thanh toán sẽ giảm. Một số nước 
ngoài mục tiêu tránh gian lận thương mại họ khéo sử dụng biện pháp liên quan 
đến việc xác định trị giá tính thuế hải quan như một công cụ gián tiếp bảo hộ sản 
xuất trong nước. Trị giá tính thuế hải quan cao hoặc thấp sẽ tác động trực tiếp 
đến khoản thuế nhập khẩu mà các doanh nghiệp phải nộp và qua đó tác động lên 
giá bán của sản phẩm. 
Ở một số nước phát triển thường không sử dụng giá bán thực tế ghi trên 
hóa đơn để tính thuế mà dùng trị giá tính thuế tối thiểu hoặc giá tham khảo. 
Thậm chí có nước còn sử dụng giá hóa đơn cao nhất của sản phẩm cùng loại 
nhập khẩu từ bất kì nước nào trong thời gian trước đó để xác định trị giá tính 
thuế. Cách xác định trị giá tính thuế như vậy khiến các nhà xuất khẩu phải chịu 
giá cao một cách vô lý và không thể dự đoán được khả năng cạnh tranh về giá 
sản phẩm của mình. 
Hiệp định xác định trị giá tính thuế quan của tổ chức thương mại thế giới 
quy định giá tính thuế hàng nhập khẩu là giá giao dịch, tức giá đã trả hoặc phải 
trả cho hàng hóa khi được bán để xuất khẩu đến nước nhập khẩu có tính đến 
những điều chỉnh nhất định như phí hoa hồng, môi giới, đóng gói… 
Tổ chức thương mại thế giới không cho phép xác định trị giá tính thuế 
quan theo giá nhập khẩu tối thiểu và giá bán trong nước của hàng hóa tương tự 
được sản xuất tại nước nhập khẩu. Giá bán tối đa trong nước đối với một hàng 
hóa nào đó cũng có thể hạn chế nhập khẩu. Chính vì vậy Tổ chức thương mại 
thế giới thừa nhận các biện pháp quản lý giá tối đa dù cho có phù hợp với 
nguyên tắc không phân biệt đối sử cũng có thể tác động xấu tới lợi ích của các 
nước thành viên xuất khẩu. 
 8 
I.1.2.4. Biện pháp liên quan đến doanh nghiệp 
Với các hình thức sở hữu khác nhau nếu Nhà nước ban cho doanh nghiệp 
Nhà nước những độc quyền nhất định thì có thể gây ra những trở ngại nhất định 
đối với hoạt động thương mại quốc tế. Các doanh nghiệp Nhà nước được quyền 
kinh doanh xuất nhập khẩu đã tạo ra một rào cản đối với hoạt động mua bán trên 
thị trường thế giới. Các nước sử dụng biện pháp này thường cho rằng họ cần 
phải bình ổn giá cả và khối lượng của các mặt hàng có ảnh hưởng lớn đến các 
cân đối lớn của nền kinh tế. Tuy nhiên trên thực tế biện pháp này đã hạn chế 
quyền kinh doanh xuất nhập khẩu tạo độc quyền cho một số doanh nghiệp nhất 
định. 
I.1.2.5. Biện pháp liên quan đến tiêu chuẩn kỹ thuật 
Những quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật đều là những quy định về vệ sinh 
đo lường, an toàn lao động, bao bì, đóng gói ….Các tiêu chuẩn này thường được 
các nước áp dụng, một mặt chúng tạo thuận lợi cho thương mại quốc tế bằng 
cách giúp cho người mua đánh giá được quy cách chất lượng sản phẩm, mặt 
khác chúng dễ trở thành rào cản thương mại nếu quá khác biệt giữa các nước. 
Trên thực tế một sản phẩm nhập khẩu nếu không đáp ứng được các quy 
định của yêu cầu kỹ thuật thì sẽ không được phép bán ra trên thị trường; về mặt 
tiêu chuẩn, nếu hàng nhập khẩu không tuân thủ các tiêu chuẩn đặt ra thì vẫn 
được phép bán ra trên thị trường mặc dù có thể bị người tiêu dùng không ưa 
chuộng. Nói chung những quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật là xuất phát từ đòi hỏi 
thực tế của đời sống xã hội phản ánh trình độ phát triển mà con người đã đạt 
được. 
Tuy nhiên, trên thực tế người ta thường khéo sử dụng các quy định này 
một cách thiên lệch giữa các doanh nghiệp trong nước với các công ty nước 
ngoài để biến chúng trở thành công cụ cạnh tranh trong quan hệ thương mại 
quốc tế. Để khắc phục tình trạng này người ta tìm cách ban hành các tiêu chuẩn 
kỹ thuật quốc tế thống nhất. 
 9 
I.1.2.6. Biện pháp quản lý hành chính 
Mặc dù hầu hết các nước trên thế giới đều có mục tiêu chung là tự do hóa, 
thuận lợi hóa thương mại quốc tế. Nhưng trên thực tế vì những lý do kinh tế 
chính trị nhất định mà mỗi nước áp dụng những biện pháp khá tinh vi nhằm cản 
trở tự do hóa thương mại quốc tế. Ví dụ như: quy định về thanh toán, quy định 
về đặt cọc, quy định về quảng cáo… 
I.2. CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI CỦA EU VÀ MỸ 
I.2.1. Chính sách thương mại chung của liên minh Châu Âu (EU) 
Liên minh Châu Âu (EU) ngày nay được xem như một đại quốc gia ở 
Châu Âu, bởi vậy chính sách thương mại của EU cũng giống như chính sách 
thương mại của một quốc gia, gồm: chính sách thương mại nội khối, chính sách 
ngoại thương và quy chế nhập khẩu chung của EU . 
I.2.1.1. Chính sách thương mại nội khối 
Chính sách này tập trung vào việc xây dựng và vận hành thị trường chung 
Châu Âu nhằm xóa bỏ việc kiểm soát biên giới lãnh thổ quốc gia, biên giới hải 
quan (xóa bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan) để tự do lưu thông hàng hóa, 
sức lao động, dịch vụ và vốn, điều hòa các chính sách kinh tế xã hội của các 
nước thành viên. 
I.2.1.2. Chính sách ngoại thương của EU 
Tất cả các nước thành viên EU cùng áp dụng một chính sách ngoại thương 
chung đối với các nước ngoài khối. Ủy ban Châu Âu (EC) là người đại diện duy 
nhất cho liên minh trong việc đàm phán, ký kết các hiệp định thương mại và dàn 
xếp tranh chấp trong lĩnh vực này. 
Chính sách ngoại thương của EU gồm: chính sách thương mại tự trị và 
chính sách thương mại dựa trên cơ sở hiệp định. Các biện pháp được áp dụng 
phổ biến trong chính sách này là: thuế quan, hạn chế về số lượng (Quota), hàng 
rào kỹ thuật (TBT: Technical Barrier to Trade), hàng rào an thực phẩm và dịch 
bệnh thủy sản (SPS: Sanitary and Phitosanitary), chống bán phá giá 
(Untidumping), và trợ cấp xuất khẩu. 
 10
Hiện nay, 25 nước thành viên EU (bao gồm 15 nước cũ và 10 nước mới 
gia nhập ngày 1/5/2004) đều áp dụng một biểu thuế quan chung đối với hàng 
hóa xuất nhập khẩu, EU đang thực hiện chương trình mở rộng hàng hóa: đẩy 
mạnh tự do hóa thương mại (giảm thuế quan đánh vào hàng hóa xuất nhập khẩu 
và tiến tới xóa bỏ hạn ngạch). Đối với hàng hóa xuất khẩu vào EU, mức thuế 
trung bình đánh vào hàng nông sản là 18%, còn hàng công nghiệp chỉ là 2%. 
Chính sách phát triển ngoại thương của EU từ năm 1951 đến nay gồm 
những nhóm chính sách chủ yếu sau: chính sách khuyến khích xuất khẩu, chính 
sách thay thế nhập khẩu, chính sách tự do hóa thương mại. Việc ban hành và 
thực hiện các chính sách này có liên quan chặt chẽ đến tình hình phát triển kinh 
tế, tiến trình nhất thể hóa Châu Âu và khả năng cạnh tranh trong từng thời kỳ 
của các sản phẩm trong liên minh trên thị trường thế giới. Ngoài các chính sách 
trên, EU còn có Quy chế nhập khẩu chung. 
EU không chỉ sử dụng các biện pháp chống cạnh tranh không lành mạnh 
trong thương mại mà còn sử dụng hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập GSP 
(General System of Preferences) – một biện pháp quan trọng nhằm đẩy mạnh 
thương mại với các nước đang phát triển và chậm phát triển. Bằng cách này, EU 
có thể làm cho nhóm các nước đang phát triển (trong đó có Việt Nam ) và các 
nước chậm phát triển dễ dàng thâm nhập vào thị trường của mình. Nhóm các 
nước chậm phát triển được hương ưu đãi cao hơn nhóm các nước phát triển. EU 
áp dụng chương trình thuế quan ưu đãi phổ cập (GSP) cho thời kỳ từ 1/7/1999 
đến 31/12/2001. 
I.2.1.3. Quy chế nhập khẩu chung của EU 
Tất cả các nước thành viên EU đều áp dụng chính sách thương mại chung 
đối với những nước ngoài khối. Để thực thi chính sách thương mại, ngoài các 
biện pháp thuế quan và phi thuế quan, EU còn ban hành và thực hiện Quy chế 
nhập khẩu chung. 
 Các nhà xuất khẩu có thể xâm nhập vào thị trường EU với điều kiện có 
các hiệp định thương mại song phương, vượt qua hàng rào thuế quan và phi thuế 
 11
quan, tuân thủ quy chế nhập khẩu chung và các yêu cầu của thị trường về chất 
lượng, an toàn cho người sử dụng và bảo vệ môi trường. Hiện nay hàng rào kỹ 
thuật (TBT), quy chế nhập khẩu chung và các yêu cầu của thị trường chính là 
những rào cản khó vượt qua đối với hàng xuất khẩu của các nước đang phát 
triển, trong đó có Việt Nam. 
Quy chế nhập khẩu chung của EU chính là quy định cụ thể để thực hiện 
chính sách nhập khẩu của EU như sau: 
i. Về thuế 
 1. Thuế nhập khẩu: một trong những việc đáng chú ý nhất của việc hình 
thành thị trường chung là các thủ tục thông quan đồng nhất và thuế nhập khẩu 
chỉ phải thanh toán tại cảng vào EU. Khi đã vào EU thì không cần các thủ tục 
thông quan tại biên giới nội địa. Bởi vậy, hàng có thể được vận chuyển nhanh 
với giá cước rẻ trong phạm vi EU. 
Thuế nhập khẩu được áp dụng đối với tất cả các sản phẩm nhập khẩu vào 
EU. Nhờ chương trình ưu đãi thuế quan phổ cập và các hiệp định thương mại mà 
xuất khẩu từ các nước đang phát triển có thể miễn thuế nhập khẩu hoặc chịu một 
mức thuế thấp. Trong các trường hợp đặc biệt, hàng hóa có thể được miễn thuế 
vì các lý do khác nhau: vận chuyển hàng mẫu không có giá thương mại, hàng 
hóa để sửa chữa hoặc các sản phẩm nhập khẩu tạm thời. 
2. Thuế nhằm bảo hộ 
Các sản phẩm thực phẩm: chính sách nông nghiệp chung (CAP) đã được 
ban hành và thực thi ở EU trong nỗ lực để bảo hộ sản xuất thực phẩm nội địa. 
Một đặc điểm quan trọng của CAP là hệ thống thuế. Các loại thuế được hợp nhất 
thành hệ thống giá khởi điểm. Nếu giá nhập khẩu nằm dưới giá khởi điểm tối 
thiểu, một mức thuế bổ sung được đánh thêm vào thuế hải quan. 
 Thuế chống bán phá giá: thuế chống bán phá giá là thuế đánh vào các sản 
phẩm nhập khẩu được bán ở EU với mức giá thấp hơn so với mức giá được bán 
ở các nước sản xuất. Khi các sản phẩm nhập khẩu gây ảnh hưởng tiêu cực 
nghiêm trọng đối với ngành công nghiệp nội địa của EU, ngành công nghiệp này 
 12
có thể gửi đơn kiện đến Brussels. Nếu qua điều tra nhận thấy có hiện tượng bán 
phá giá thì thuế chống bán phá giá được áp dụng trên cơ sở điều khoản 113 của 
hiệp ước EU. Thuế này có thể đánh vào hàng hóa ngay khi thông báo. 
3. Thuế tiêu thụ 
Thuế tiêu thụ áp dụng đối với một số sản phẩm phụ thuộc vào dung lượng, 
được áp dụng phổ biến đối với các sản phẩm nội địa và hàng nhập khẩu. Mức 
thuế tiêu thụ đối với một sản phẩm nhất định có thể rất khác biệt giữa các nước 
thành viên EU. 
 Thuế giá trị gia tăng (VAT): Tất cả sản phẩm bán ở EU là đối tượng chịu 
thuế VAT. Nhìn chung mức thuế áp dụng đối với các sản phẩm thiết yếu là thấp 
và mức thuế áp dụng đối với các sản phẩm xa xỉ là cao. Mặc dù mục tiêu ban 
đầu là hài hòa thuế quan, các miền thuế đã được thu hẹp, nhưng sự khác biệt vẫn 
còn tồn tại giữa các nước thành viên EU. 
ii.Giấy phép nhập khẩu 
Giấy phép nhập khẩu có thể được yêu cầu đối với hàng nhạy cảm và hàng 
chiến lược, trong số này có hàng dệt, các sản phẩm đá, thép và vũ khí. Giấy 
phép nhập khẩu thông thường được cấp không có quá nhiều khó khăn và các nhà 
nhập khẩu có trách nhiệm viết đơn xin giấy cấp phép. 
iii.Hạn ngạch 
Hạn ngạch là sự hạn chế về số lượng nhập khẩu hoặc xuất khẩu và được 
sử dụng để điều chỉnh nguồn cung. Hạn ngạch phổ biến nhất ở EU là hạn ngạch 
số lượng. Các quốc gia EU đang tiến hành hủy bỏ dần hạn ngạch nên hệ thống 
hạn ngạch đang bị tháo dỡ ở một số nước. Sự điều chỉnh hoạt động nhập khẩu 
hàng nông sản vẫn được thực hiện thông qua hệ thống thuế và giá khởi điểm. 
Như vậy hạn ngạch sẽ không tồn tại lâu. 
iv. Giấy chứng nhận kiểm dịch thực vật 
Các quy định kiểm dịch thực vật có thể áp dụng đối với các sản phẩm tươi 
như hoa quả. Điều đó có nghĩa là giấy chứng nhận phải được cung cấp bởi nước 
có sản phẩm xuất khẩu trong điều kiện đảm bảo sức khỏe. Sản phẩm phải được 
 13
giám định bởi cơ quan giám định thực phẩm có thẩm quyền của nước sản xuất 
để đảm bảo rằng không bị côn trùng và dịch bệnh. 
v. Lệnh cấm 
EU ban hành lệnh cấm đối với một số sản phẩm, điều này có nghĩa là sản 
phẩm nhập khẩu bị cấm hoặc chỉ cho phép trong những điều kiện nhất định. 
Lệnh cấm này chủ yếu được áp dụng đối với việc mua bán các sản phẩm nguy 
hiểm như: phế thải hóa chất, thuốc tân dược, thuốc trừ sâu. Thực phẩm, cây 
trồng và vật nuôi nhập khẩu cũng có thể là đối tượng bị cấm trên cơ sở cân nhắc 
về an toàn và sức khỏe. Các luật quốc tế đối với sản phẩm này là: luật về chất 
thải hóa chất và công ước thương mại quốc tế về các loại hàng hóa gây nguy 
hiểm. 
vi. Chính sách hóa chất – rào cản mới của EU 
Ủy ban Châu Âu (EC) đang chuẩn bị ban hành chính sách hóa chất trên 
lãnh thổ EU nhằm ngăn ngừa tác hại của hóa chất đối với sức khỏe con người và 
môi trường. Theo đó, chính sách mới sẽ ban hành những quy định về đăng ký, 
kiểm tra, cấp phép và hạn chế đối với hoạt động sản xuất kinh doanh, lưu hành 
và sử dụng hóa chất được sử dụng làm nguyên liệu đầu vào và hóa chất để xử lý 
nguyên liệu trong quá trình sản xuất. 
I.2.2. Chính sách thương mại của Mỹ 
Dù là một nước chủ trương tự do hóa thương mại, nhưng Mỹ cũng có 
những chính sách về nhập khẩu nhằm bảo vệ người tiêu dùng và sản xuất trong 
nước. 
I.2.2.1. Quy định về hải quan 
Hải quan Mỹ là cơ quan thực thi và áp dụng các quy định của luật thuế 
quan và những luật lệ khác của các bộ để điều chỉnh việc nhập khẩu hàng hóa. 
Họ cũng phụ trách việc chống các hành vi buôn lậu, vi phạm quyền sở hữu trí 
tuệ, hàng gian, hàng giả được nhập khẩu. 
Ngoài các yêu cầu khắt khe của hải quan và nhà nhập khẩu, doanh nghiệp 
phải chú ý đến xuất xứ của các linh kiện hoặc nguyên liệu được dùng để sản 
 14
xuất. Hải quan không cho phép lô hàng nhập khẩu nào có linh kiện hay nguyên 
liệu từ các nước bị lệnh cấm vận và trừng phạt của Mỹ như: Cuba, Iran… Sản 
phẩm do phạm nhân, trẻ em dưới tuổi vị thành niên tại các trại lao động cải tạo 
làm ra cũng bị coi bất hợp pháp và không được hải quan Mỹ chấp nhận. 
Hải quan Mỹ cũng có quyền bắt giữ và phạt rất nặng những lô hàng nhập 
khẩu bị nghi ngờ là hàng giả, hàng ăn cắp bản quyền và những lô hàng ghi nhãn 
hiệu, thành phần … sai với thực tế kiểm tra của hải quan.Một nhà nhập khẩu có 
thể bị khép tội lừa dối khách hàng nếu không ghi chi tiết, thành phần sản phẩm 
ngay trên nhãn hiệu bao bì. 
I.2.2.2. Quy chế nhập khẩu chung của Mỹ 
a) Về thuế 
Điều này ở Mỹ được căn cứ trên bảng hệ thống điều hòa trong mô tả và 
mã hàng (HS – Harmonized tarriff System) của hội đồng hợp tác hải quan. Bảng 
này liệt kê các loại hàng hóa và mã số của chúng với mức thuế áp dụng. Giá tính 
thuế của Mỹ dựa trên cơ sở giá FOB chứ không phải giá CIF, áp dụng cho cả 
hàng xuất và nhập khẩu, do đó chi phí vận tải và bảo hiểm không bị gộp vào giá 
trị hàng hóa để tính thuế. 
Hoa Kỳ ấn định thuế quan theo ba cách: 
Thứ nhất, thuế tính theo giá (ad valorem ) là thuế tính theo tỷ lệ phần trăm 
trên giá hàng hóa nhập khẩu. Cách tính này chiếm tỷ lệ lớn trong biểu thuế của 
Hoa Kỳ. 
Thứ hai, thuế đặc định hay thuế theo lượng (specific) là thuế đánh theo 
trọng lượng hay dung tích hàng hóa. 
Thứ ba, thuế hàng hóa được tính dựa trên cơ sở cả hai cách tính trên. 
Ngoài ra có một số mặt hàng phải chịu thêm thuế doanh thu hay mua bán 
(ngoài thuế quan) như rượu, bia, thuốc lá, nước hoa và các sản phẩm dầu khí. 
b) Lệ phí 
Lệ phí gồm có: phí xử lý hàng và phí bảo dưỡng cảng. 
 15
Phí xử lý hàng: được đánh vào từng chuyến tàu hàng. Biểu thuế dành cho 
việc nhập hàng chính thức (tức là hàng có giá trị trên 1500 USD, gọi là hàng 
mậu dịch) liệt kê các loại phí khác nhau từ 21 đến 400 USD cho mỗi lần nhập 
cùng với một số phí đánh theo tỷ lệ của món hàng này là 19%. Cũng chi phí này 
nhưng cho loại hàng hóa nhập không chính thức (tức là phi mậu dịch) thì mức 
phí là 2 USD cho hàng xử lý bằng máy, 4 USD cho hàng xử lý bằng tay mà 
không phải do hải quan Mỹ làm và 8 USD do họ làm. Giá trị cho hàng phi mậu 
dịch lớn nhất là 2500 USD. Một vài mặt hàng như vải sợi không được nhập theo 
lối phi mậu dịch và nếu có thì giá trị tối đa cũng rất thấp. 
Phí bảo dưỡng cảng: là phí tính theo giá trị % của chuyến tàu hàng nhập 
vào, phí này là 0,125% trên giá trị tiền hàng và trả hàng quý. 
c) Hạn ngạch (quota) 
Hạn ngạch là sự kiểm soát về mặt số lượng hàng nhập khẩu trong một thời 
gian nhất định vào Mỹ. Có một số mặt hàng nằm trong sự hạn chế này theo luật 
của Quốc hội, quy định của các cơ quan quản lý theo lệnh của Tổng thống. Có 
hai loại hạn ngạch: 
 Hạn ngạch ấn định theo mức thuế quan: loại này cho người nhập được 
đem vào Mỹ một mặt hàng nhất định nào đó với mức thuế được giảm bớt trong 
một khoảng thời gian nhất định. Số hàng nào nhập vào mà vượt quá số lượng 
cho phép sẽ bị đánh thuế cao. Các mặt hàng này thường là: sữa, kem, cá hồi… 
 Hạn ngạch tuyệt đối: cho phép nhập một số lượng của mặt hàng nào đó 
trong một khoảng thời gian nhất định. Hàng đem vào quá hạn ngạch sẽ bị trả về 
hay cho vào kho để chờ đưa vào trong thời gian có hiệu lực của hạn ngạch mới. 
Các mặt hàng này là: một vài loại cồn, sữa đặc, bơ hỗn hợp… 
d) Giấy phép nhập khẩu 
Những mặt hàng dưới đây khó đem vào Mỹ, muốn nhập phải xin giấy 
phép cơ quan có thẩm quyền: vũ khí đạn dược,rượu và thức uống có cồn, sản 
phẩm từ sữa, thuốc, vật liệu sinh học và côn trùng, các loại giống gây nguy hiểm 
 16
hay có tính đe dọa, các chất độc hại, côn trùng, gia súc, thịt và các sản phẩm từ 
thịt, máy móc động cơ, các chất phống xạ và phản ứng hạt nhân. 
Yêu cầu giấy phép nhập khẩu có thể là một biện pháp duy trì sự kiểm soát 
trong quản lý ngoại hối, quota, và thuế quan. Giấy phép nhập khẩu cũng có thể 
được sử dụng tương tự như quota để hạn chế số lượng hàng hóa nhập vào.Sự 
khác nhau giữa quota và giấy phép nhập khẩu là quota kiểm soát lượng hàng đưa 
vào một nước, còn chế độ giấy phép nhập khẩu mềm mại hơn. Nói chung quota 
chỉ nêu ra một giai đoạn thời gian nhất định, còn giấy phép thì hạn chế số lượng 
dựa trên cơ sở trù tính cho từng ngày. 
e) Các tiêu chuẩn kỹ thuật bắt buộc 
Có nhiều mặt hàng cả nội lẫn ngoại bán ở Mỹ đều phải tuân thủ những 
tiêu chuân về chất lượng an toàn. Ai nhập khẩu vào Mỹ những mặt hàng này đều 
phải xin giấy xác nhận đạt chuẩn. Giấy này phải được xuất trình cùng lúc với 
hàng rào và người nhập phải nộp số tiền kí quỹ đảm bảo để chắc chắn là hàng 
phù hợp với tiêu chuẩn đòi hỏi. Các mặt hàng thuộc loại này thường là: xe hơi 
và phụ tùng, sản phẩm men,đò điện gia dụng… 
f) Ghi dấu hiệu 
* Nước xuất xứ: Thông thường, người nhập hàng phải ghi rõ ở bên ngoài 
sản phẩm một nhãn hàng bằng tiếng Anh của nước sản xuất hay chế tạo món 
hàng. Dấu hiệu phải ghi ở nơi dễ thấy, rõ ràng và bền như chính tuổi thọ của sản 
phẩm. Nếu sản phẩm không có nhãn hàng đúng cách, khi nhập vào nước Mỹ thì 
người nhập phải trả một khoản thu bằng 10% của tiền thuế quan đóng cho sản 
phẩm đó. 
* Ghi dấu đặc biệt: Ngoài những yêu cầu về ghi nước xuất xứ của hàng 
hóa, có một số mặt hàng đòi hỏi phải có dấu hiệu đặc biệt như: chữ không được 
phai, chữ nổi, chữ lõm cho những mặt hàng như ống sắt hay thép, khung, xi 
lanh, các dụng cụ kỹ thuật, kéo kim…Có những cơ quan chỉ dẫn việc ghi những 
nhãn hiệu đặc biệt này. Trong trường hợp sản phẩm bị ghi sai làm người tiêu thụ 
hiểu nhầm sẽ không được nhập khẩu. 
 17
g) Các biện pháp hỗ trợ thương mại 
* Thuế chống bán phá giá: Luật chống bán phá giá phân tích hành vi định 
giá của các nhà sản xuất nước ngoài. Việc phân tích luôn được thực hiện theo 
cách riêng biệt đối với từng công ty. Khái niệm đơn giản nhất về chống bán phá 
giá tại thị trường Mỹ là bán một sản phẩm ở Mỹ với mức giá thị trường thấp hơn 
giá của chính sản phẩm đó tại thị trường nước xuất khẩu. Mỹ sẽ áp dụng quy 
định tính tỷ lệ lợi nhuận đặc biệt đối với các nước mà họ coi là nền kinh tế phi 
thị trường như Trung Quốc, Việt Nam …Giá sản phẩm ở những nước này không 
được công nhận với lý do là nền kinh tế do Chính phủ điều tiết. 
Một vấn đề tiếp theo được xem xét là việc xét duyệt hành chính nhằm xác 
định mức thuế phá giá thực tế mà người nhập khẩu phải nộp. Nếu chưa được xét 
duyệt, khoản tiền mặt đặt cọc nộp cho hải quan Mỹ sẽ chính thức là mức thuế 
chống bán phá giá. Việc định giá này có thể được thực hiện hàng năm. Còn một 
lệnh chống bán phá giá có thể có hiệu lực vô hạn, mặc dù cứ 5 năm một lần 
công tác đánh giá lại được tiến hành. 
* Thuế chống trợ giá: Luật pháp Mỹ quy định những hình thức trợ giúp 
doanh nghiệp của Chính phủ bao gồm: trợ cấp tiền mặt,trợ cấp xuất khẩu, các 
khoản cho vay với lãi suất ưu đãi, các khoản bảo lãnh tín dụng, xóa nợ, giảm 
thuế. Giống như trong một vụ điều tra thuế chồng bán phá giá, số tiền trợ cấp 
được định lượng và tính theo tỷ lệ % để làm cơ sở áp thuế theo giá hàng vào tất 
cả các sản phẩm nhập khẩu được trợ giá. 
 18
PHẦN II: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU THỦY SẢN CỦA VIỆT 
NAM VÀ HÀNG RÀO PHI THUẾ QUAN ĐỐI VỚI HÀNG 
THỦY SẢN VIỆT NAM XUẤT KHẨU VÀO EU VÀ MỸ 
II.1. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU THỦY SẢN CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI 
GIAN QUA 
II.1.1. Tình hình sản xuất, nuôi trồng và đánh bắt thủy sản 
Việt Nam là nước có tiềm năng lớn về NTTS với diện tích mặt nước nội 
địa khoảng 1 triệu ha, vùng triều khoảng 0,7 triệu ha và hệ thống đầm phá ven 
biển có thể phát triển NTTS. Trong khi diện tích có khả năng NTTS của cả nước 
ước tính khoảng gần 2 triệu ha thì mới chỉ sử dụng 902.900 ha (năm 2004). 
Từ giữa thập kỷ 90 trở lại đây, NTTS của Việt Nam phát triển rất nhanh. 
Qua bảng dưới ta cũng có thể thấy tổng diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản 
của nước ta trong mấy năm qua tăng rất nhanh, tăng từ 641,9 nghìn ha năm 2000 
lên đến 959,9 nghìn ha năm 2005. 
Bảng 1: Diện tích mặt nước nuôi trồng và sản lượng thuỷ sản 
giai đoạn 2000 – 2006 
1) Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 
2006 
(ước 
tính) 
A.Tổng số diện tích nuôi trồng (nghìn ha) 641,9 755,2 797,7 867,6 920,1 959,9 
1.Diện tích nước mặn, lợ 397,1 502,2 556,1 612,8 642,3 677,2 
Nuôi cá 50,0 24,7 14,3 13,1 11,2 16,5 
Nuôi tôm 324,1 454,9 509,6 574,9 598,0 616,9 
Nuôi hỗn hợp và thuỷ sản khác 22,5 22,4 31,9 24,5 32,7 43,4 
Ươm, nuôi giống thuỷ sản 0,5 0,2 0,3 0,3 0,4 0,4 
2. Diện tích nước ngọt 244,8 253,0 241,6 254,8 277,8 282,7 
Nuôi cá 225,4 228,9 232,3 245,9 267,4 272,1 
Nuôi tôm 16,4 21,8 6,6 5,5 6,4 6,5 
Nuôi hỗn hợp và thuỷ sản khác 2,2 0,5 0,4 1,0 1,1 1,2 
Ươm, nuôi giống thuỷ sản 0,8 1,8 2,3 2,4 2,9 2,9 
B. Tổng sản lượng thuỷ sản (nghìn tấn) 2250,5 2434,7 2647,4 2859,2 3142,5 3432,8 3707,4 
Khai thác 1660,9 1724,8 1802,6 1856,1 1940,0 1995,4 2155,0
Nuôi trồng 589,6 709,9 844,8 1003,1 1202,5 1437,4 1552,4
 Nguồn: Tổng cục Thống kê 
 19
Những nỗ lực trong việc đổi mới đã đem lại kết quả đáng khích lệ là 
ngành thuỷ sản phát triển toàn diện trên các mặt nuôi trồng, khai thác, chế biến 
và xuất khẩu. 
Cũng từ đầu năm 2006 đến nay, toàn ngành đã khai thác được gần 3,5 
triệu tấn, tăng 8% so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó sản lượng thu được từ 
nuôi trồng thuỷ sản trên 1,5 triệu tấn và còn lại là từ khai thác biển. Tốc độ tăng 
bình quân hàng năm của giá trị sản xuất thuỷ sản thời kỳ 1986 – 2006 đạt mức 
cao, gần 10%. Theo Bộ Thủy sản, tính đến ngày 24-11, kim ngạch xuất khẩu 
thủy sản của cả nước đã đạt gần 3,1 tỉ USD, bằng 110,06% kế hoạch đề ra cho 
cả năm (3 tỉ USD) và tăng 24,45% so với cùng kỳ. 
Quá trình tăng trưởng sản lượng thuỷ sản diễn ra đồng thời với quá trình 
tăng trưởng diện tích NTTS. Tuy nhiên, tốc độ tăng sản lượng nhanh hơn do 
năng suất nuôi trồng tăng lên. 
Bảng 2:Xuất khẩu thuỷ sản chính ngạch sang các thị trường 
năm 2005 
Thị trường Số 
lượng(tấn) 
Giá trị(USD) 
Châu Á (không kể Nhật 
Bản) 
131559.9 378035774 
Châu Âu 115696.6 380904754 
Mỹ 89025.6 617172589 
Nhật Bản 123078.8 785875894 
Thị trường khác 177018.9 576737747 
Total 636379.8 2738726758 
Nguồn: Trung tâm Tin học - Bộ Thủy sản 
 Tuy vậy, trong quá trình phát triển và nuôi trồng thủy sản cũng đã thể 
hiện nhiều bất cập như: diện tích nuôi tôm và diện tích thâm canh ở nhiều địa 
phương tăng quá nhanh, chưa có hoặc không theo quy hoạch đang diễn ra ở 
nhiều nơi. Việc quản lý chất lượng con giống và quản lý an toàn vệ sinh trong 
nuôi trồng thủy sản còn chưa đáp ứng yêu cầu, mặc dù đã đầu tư khá nhiều. Cả 
nước chỉ có 7 phòng kiểm nghiệm lớn,nhiều địa phương thiếu cán bộ và phương 
 20
tiện kiểm tra. Nhiều doanh nghiệp thực hiện HACCP theo kiểu đối phó… 
Những bất cập trên đã tác động không nhỏ đến môi trường sinh thái và hình 
thành nguy cơ cho sự phát triển nuôi trồng thủy sản bền vững. 
II.1.2. Thực trạng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào các thị trường 
II.1.2.1. Đối với thị trường EU 
Từ những năm 1980, sản phẩm thủy sản xuất khẩu của Việt Nam đã xuất 
hiện trên thị trường EU dưới một nhãn hiệu chung là Seaprodex. Ngay từ những 
năm đầu thâm nhập thị trường EU, sản phẩm thủy sản được xuất khẩu chung với 
các sản phẩm nông sản khác với số lượng ít nhưng đã gây được cảm tình của 
người tiêu dùng châu Âu. Vào năm 1985, 1986, Công ty xuất nhập khẩu thuỷ 
sản Việt Nam SEAPRODEX đã được trao tặng danh hiệu “ Nhãn hiệu sản phẩm 
thủy sản uy tín”. 
Nhận thức được rằng, quá trình tiêu thụ sản phẩm cuối cùng, đặc biệt là 
tiêu thụ với giá trị gia tăng thông qua xuất khẩu, là động lực bảo đảm cho sự 
tăng trưởng và phát triển của các hoạt động sản xuất khai thác và nuôi trồng, bên 
cạnh việc giữ vững các thị trường truyền thống, ngành thuỷ sản đã chủ trương 
tích cực đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, trong đó EU là một trong những lựa 
chọn hàng đầu. Do đây là một thị trường lớn, ổn định, giá tốt nhưng có đòi hỏi 
rất cao về chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm, nhất là sau những vụ ngộ 
độc thực phẩm, nên để thu được thành công ở thị trường này, ngành đã xác định 
không ngừng nâng cao chất lượng và vệ sinh an toàn sản phẩm là nhiệm vụ quan 
trọng hàng đầu trong chiến lược xúc tiến thâm nhập thị trường. Ngành đã hướng 
dẫn các doanh nghiệp phấn đầu liên tục nhiền năm để tạo nên những bước 
chuyển biến tích cực theo hướng này. Từ Bộ Thuỷ sản đến các doanh nghiệp đã 
thực hiện hàng loạt biện pháp, từ cải thiện hệ thống thể chế, hoàn thiện văn bản 
quy phạm pháp luật, nâng cao năng lực các cơ quan thẩm quyền, đổi mới cách 
tiếp cận trong quản lý chất lượng, an toàn sản phẩm, cho đến đầu tư đổi mới 
công nghệ, ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nâng cấp điều 
kiện sản xuất nhằm thoả mãn các điều tương đồng với các nước nhập khẩu về hệ 
 21
thống pháp lý, năng lực của cơ quan thực thi pháp lý và điều kiện sản xuất của 
các doanh nghiệp. 
Từ một hệ thống nhà máy chế biến lạc hậu và cũ kỹ, phụ thuộc hầu như 
hoàn toàn vào thị trường Nhật, với quyết tâm đổi mới cơ bản về điều kiện vệ 
sinh và công nghệ sản xuất, áp dụng các hệ thống đảm bảo chất lượng tiên tiến 
nhất theo yêu cầu của thị trường tiêu thụ, gần 200 nhà máy chế biến thủy sản 
của Việt Nam đã gần như trải qua một cuộc lột xác với quá trình tiếp cận những 
phương pháp công nghệ, quản lý an toàn vệ sinh tiến tiến,... quá trình đổi mới 
trong chế biến phục vụ hoạt động xuất khẩu được tiến hành trên mọi mặt: từ 
nâng cấp điều kiện sản xuất; đổi mới công nghệ thiết bị; thay đổi cách tiếp cận 
trong quản lý an toàn, chất lượng theo HACCP, từ quản lý sản phẩm đầu cuối 
sang quản lý toàn bộ quá trình sản xuất; tăng cường hệ thống luật pháp; tăng 
cường năng lực hệ thống thanh, kiểm tra; đổi mới cách tiếp cận thị trường từ 
“bán cái mình có” sang “bán cái khách hàng cần”, chủ động tìm đến với khách 
hàng. 
Việt Nam cũng đã thực hiện các chương trình giám sát dư lượng các hoá 
chất độc hại có trong thủy sản nuôi từ vùng nuôi đến nhà máy chế biến, giám sát 
vùng thu hoạch nhuyễn thể hai mảnh vỏ và được EU đánh giá cao. Và cùng với 
nguồn nguyên liệu nhiệt đới phong phú về chủng loại và khối lượng, chất lượng 
cao, thủy sản Việt Nam đã hội tụ đầy đủ những điều kiện cần thiết để trở thành 
một đối tác lớn xuất khẩu thủy sản cho bạn hàng EU. 
Những nỗ lực đó đã đem lại kết quả rõ rệt. Từ tháng 11/1999, Việt Nam 
được công nhận vào danh sách 1 (List A) các nước xuất khẩu thuỷ sản vào EU, 
sản phẩm thủy sản của Việt Nam đã chính thức được công nhận về pháp lý để 
khẳng định được chỗ đứng tại 15 nước EU. Đến 01/01/2006, Việt Nam có 171 
doanh nghiệp (trong tổng số 394 doanh nghiệp chế biến thủy sản lớn của cả 
nước) đủ tiêu chuẩn được cấp phép (code) xuất khẩu thủy sản vào thị trường 
EU. 
 22
Từ năm 1996 – 1999, kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang 
EU tăng rất nhanh với tốc độ trung bình hàng năm 54,92%. Theo số liệu thống 
kê của EU, năm 1996 kim ngạch nhập khẩu thuỷ sản từ Việt Nam đạt 26,9 triệu 
USD, năm 1998 tăng lên 92,5 triệu USD. Theo số liệu thống kê của Trung tâm 
Tin học Bộ Thuỷ sản, kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang EU năm 
1999 đạt 89,1 triệu. Trong những năm 2000 – 2002, hoạt động xuất khẩu bị 
chững lại và có xu hướng giảm sút, sau khi EU tăng cường kiểm tra dư lượng 
các chất kháng sinh và hạ thấp ngưỡng phát hiện dư lượng các chất này trong 
sản phẩm. Nhờ những nỗ lực khắc phục của các cơ quan quản lý, các doanh 
nghiệp và nông ngư dân Việt Nam, từ năm 2003, kim ngạch xuất khẩu thủy sản 
của Việt Nam đã tăng trưởng nhanh chóng trở lại. Năm 2003, kim ngạch xuất 
khẩu thuỷ sản Việt Nam sang EU đạt 116, 7 triệu đôla, năm 2004 - 231,5 triệu 
đôla, năm 2005 - 367,3 triệu đôla. Hàng thủy sản hiện là mặt hàng có kim ngạch 
đứng thứ tư trong số các mặt hàng Việt Nam xuất khẩu vào thị trường EU. Tuy 
nhiên, cho đến nay, tỷ trọng nhập khẩu thủy sản từ Việt Nam hàng năm chỉ 
bằng 0,3-0,4% trị giá nhập khẩu thủy sản của toàn EU. Khối lượng thuỷ sản xuất 
khẩu của Việt Nam vào EU năm 2005 mới đạt gần 120 nghìn tấn, trị giá 380,9 
triệu USD, chiếm 7% kim ngạch xuất khẩu thủy sản cả nước. 
Bảng 3: Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào EU 
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 
Kim ngạch 
(triệuUSD) 
71,8 90,7 73,7 116,7 231,5 380,9 
Khối lượng 
(tấn) 
20.290,8 26.659,1 28.612,8 38.186,8 73.459,2 
115.696,
6 
(Nguồn: Trung tâm Tin học, Bộ Thuỷ sản) 
Sản phẩm nhập khẩu từ Việt Nam chủ yếu là cá, tôm, mực, bạch tuộc, cá 
ngừ, đồ hộp. Trong giai đoạn từ 2000-2001, mặt hàng có khối lượng nhập khẩu 
lớn nhất của EU từ Việt Nam là tôm đông lạnh. Kim ngạch xuất khẩu tôm đông 
 23
lạnh năm 2000 đạt 38,6 triệu đôla, năm 2001 - 43,6 triệu đôla. Năm 2002, kim 
ngạch xuất khẩu tôm của Việt Nam có giảm sút, chỉ còn 15,7 triệu đôla. Thời 
gian đó, một số lô tôm đông lạnh của Việt Nam xuất sang EU bị phát hiện có dư 
lượng kháng sinh cao quá mức cho phép và bị huỷ, gây thiệt hại lớn cho nhà 
xuất khẩu. Nguyên nhân của tình trạng trên là do chúng ta chưa đáp ứng được 
yêu cầu vệ sinh thực phẩm từ khâu nuôi trồng đến bàn ăn được công bố trong 
Sách Trắng của EU đối với thực phẩm chế biến nhập khẩu. Thực hiện chính 
sách bảo đảm an toàn cho người tiêu dùng EU quy định “cấm” sử dụng 16 loại 
hoá chất trong đó có chloramphenicol và nitrofuran có trong thực phẩm, tức phải 
hiểu là “dư lượng kháng sinh bằng 0”. Trong thực tế EU cho phép dư lượng 
kháng sinh dưới 0,3 phần tỷ là đạt yêu cầu. 
Từ năm 2002, thương mại tôm giữa Việt Nam và EU đã có những dấu 
hiệu phục hồi và có sự gia tăng cả về giá trị và khối lượng tôm xuất sang thị 
trường này trong năm 2003 và 2004. Năm 2003, Việt Nam đã xuất khẩu hơn 
5316 tấn tôm sang EU, tăng 28% so với 4000 tấn năm 2002. Năm 2004, tôm 
Việt Nam đã thâm nhập mạnh hơn vào các thị trường mới tại khu vực EU, khi 
các nhà xuất khẩu tôm Việt Nam chuyển hướng từ Bỉ, thị trường truyền thống số 
một tại EU, sang các thị trường khác như Anh, Đức, Italy. Đối với mặt hàng tôm 
của Việt Nam, vấn đề quan trọng nhất là đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, 
ngoài ra không bị cản trở bởi các biện pháp phi quan thuế nào khác. 
Cá đông lạnh cũng là mặt hàng có mức tăng xuất khẩu sang EU đều và 
đáng kể. Xuất khẩu cá của Việt Nam sang thị trường này đã vượt xa tôm không 
những về khối lượng mà cả về giá trị, vươn lên đứng trên Nhật (66 triệu USD 
năm 2003), chỉ sau Mỹ (141 triệu USD) và chiếm 20% tổng giá trị xuất khẩu cá 
của Việt Nam (552 triệu USD). Năm 2004, xuất khẩu cá của Việt Nam sang EU 
tiếp tục tăng trưởng với giá trị xuất khẩu đạt 231,5 triệu USD, gấp 3 lần so với 
năm 2003, chiếm gần một nửa giá trị xuất khẩu thủy sản sang EU. Sản phẩm cá 
chủ lực của Việt Nam xuất sang thị trường này là cá tra, cá basa (pangasius) và 
cá ngừ. 
 24
II.1.2.2. Đối với thị trường Mỹ 
Trước năm 1994, do chính sách cấm vận của Hoa Kỳ đối với Việt Nam, 
sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam không thể xuất trực tiếp sang Hoa Kỳ. Tuy 
nhiên, thuỷ sản Việt Nam vẫn xuất sang Hoa Kỳ thông qua nước hoặc vùng lãnh 
thổ thứ ba mà chủ yếu là Singapo và Hồng Kông. Tháng 2 năm 1994 Hoa Kỳ 
chính thức bãi bỏ lệnh cấm vận kinh tế với Việt Nam. Tháng 7 năm 1994 lô 
hàng thuỷ sản đầu tiên của Việt Nam do Công ty Cafatex xuất khẩu cập cảng 
tiểu bang Florida, mở đầu cho một giai đoạn mới trong quan hệ thương mại thuỷ 
sản giữa hai nước. Năm 1995 Hoa Kỳ và Việt Nam chính thức bình thường hoá 
quan hệ và quan hệ ngoại giao giữa hai nước chính thức được thiết lập. Kể từ đó 
Việt Nam và Hoa Kỳ đã hình thành và phát triển quan hệ hợp tác trong lĩnh vực 
thuỷ sản, cả về quản lý, khoa học công nghệ và thương mại. Bộ Thuỷ sản Việt 
Nam, Hiệp hội chế biến xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam (VASEP) thường xuyên 
có liên hệ, trao đổi với Cục nghề cá biển Hoa Kỳ (MNFS), Cục quản lý thực 
phẩm và dược phẩm (FDA). Phía Hoa Kỳ đã cử nhiều đoàn đại biểu sang làm 
việc với Việt Nam và toạ đàm về áp dụng HACCP đối với các cơ sở chế biến 
xuất khẩu. Năm 1998, hai nước đã ký biên bản thoả thuận hợp tác giữa nghề cá 
hai nước và kể từ đó kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào Hoa Kỳ đã tăng 
đáng kể. 
Sau khi Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ có hiệu lực tháng 
12/2001, kim ngạch buôn bán giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đã phát triển nhảy vọt. 
Hiệp định đã tác động rất lớn tới việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng thuỷ sản của 
Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ, đưa Hoa Kỳ trở thành một trong những thị 
trường nhập khẩu thuỷ sản hàng đầu của Việt Nam. 
 25
Bảng 4 : Mặt hàng thuỷ sản của Việt Nam xuất sang Hoa Kỳ 
năm 2000 - 2004 
Đơn vị : Nghìn USD 
i. Mặt hàng 2000 2001 2002 2003 2004 
Tôm nước lợ 185,12 308,70 368,62 468,93 277,45 
Cá sống 175 216 201 271 357 
Cá sấy khô, ướp muối, hun khói … 374 596 722 1,005 3,549 
Hải sản thân mềm, nhuyễn thể 8,17 6,16 5,82 7,44 6,18 
Cá đông lạnh (không bao gồm cá 
filê hoặc cá thịt khác) 
6,80 10,22 9,23 10,70 14,71 
Cá tươi (không bao gồm cá filê 
hoặc cá thịt khác) 
9,59 16,64 24,67 23,66 25,38 
Cá filê và cá thịt khác tươi, hoặc 
đông lạnh 
32,61 41,72 69,17 56,45 78,36 
Nguồn : Số liệu của Bộ Thương mại Hoa Kỳ 
Năm 2000, cơ cấu thị trường nhập khẩu Hoa Kỳ có sự điều chỉnh mạnh và 
Việt Nam đã nắm bắt cơ hội chen chân vào thị trường rộng lớn này. Xuất khẩu 
thuỷ sản của Việt Nam sang Hoa Kỳ tăng đột ngột lên 2,14 lần so với năm 1999 
và là mức tăng nhanh nhất trong số các quốc gia xuất khẩu thuỷ sản vào Hoa 
Kỳ. Trong các mặt hàng thuỷ sản của Việt Nam xuất sang Hoa Kỳ, tôm chiếm tỷ 
trọng chính 74% tổng giá trị hàng thuỷ sản xuất khẩu. Việt Nam vươn lên vị trí 
thứ tư về giá trị xuất khẩu tôm sang Hoa Kỳ (về khối lượng đứng hàng thứ 7). 
Cá tra, ba sa philê đông lạnh là mặt hàng độc đáo của Việt Nam tại thị trường 
Hoa Kỳ. 
Năm 2002, khối lượng các mặt hàng xuất khẩu đã tăng lên 98.664 tấn, đạt 
654.98 triệu USD, chiếm 32,4% tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam. 
Năm 2003, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng hải sản (kể cả chế biến) đạt 
777.66 triệu USD, tiếp tục xếp vị trí thứ hai sau hàng dệt may trong bảng xuất 
khẩu của Việt Nam vào Hoa Kỳ, chiếm 35,3% tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản 
 26
của Việt Nam. Trong nhóm hàng thuỷ sản, tôm đông lạnh đạt kim ngạch 469 
triệu, chiếm 64% tổng kim ngạch nhóm hàng thuỷ sản. Tôm và cua chế biến đạt 
162 triệu USD. Kim ngạch xuất khẩu cá phi lê giảm khoảng 19% so với trước do 
tác động của thuế chống bán phá giá. 
Năm 2004, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu vào Hoa Kỳ các mặt hàng như 
mực đông lạnh, bạch tuộc đông lạnh, tôm đông lạnh, cá ngừ, cá đông lạnh, mực 
khô, các khô và các mặt hàng khác với tổng số lượng đạt 91.380.6 tấn, trị giá là 
602.9 triệu USD. Hoa Kỳ chiếm 25,1% thị phần xuất khẩu thuỷ sản của Việt 
Nam. Trong đó, tôm đông lạnh đạt 37.060 tấn, trị giá 397 triệu USD, cá đông 
lạnh đạt 33.680 tấn, trị giá 119 triệu USD. 
Năm 2005, do tác động đồng thời của việc áp thuế chống bán phá giá cá 
tra, cá ba sa philê đông lạnh và tôm đông lạnh, xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam 
sang Hoa Kỳ có phần giảm sút, thị trường Hoa Kỳ chỉ chiếm 23% thị phần xuất 
khẩu của Việt Nam. 
II.2. CÁC HÀNG RÀO PHI THUẾ QUAN CHỦ YẾU CỦA EU VÀ MỸ ĐỐI THỦY 
SẢN XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM 
II.2.1. Đối với thị trường EU 
Các nước đang phát triển đóng vai trò quan trọng trong cung cấp thủy sản 
vào thị trường EU, chủ yếu là các loại thủy sản nước ấm. Thị trường EU là môi 
trường lý tưởng cho các nhà xuất khẩu của Việt Nam thể hiện sức mạnh của 
mình vì đây là thị trường tương đối ổn định. Nhưng để xâm nhập và chiếm lĩnh 
thị trường này các nhà xuất khẩu của Việt Nam cần phải vượt qua những rào cản 
thương mại chủ yếu là hàng rào phi thuế quan ngày càng có xu hướng chặt chẽ 
hơn. 
EU là thành viên Tổ chức thương mại thế giới (WTO) nên có chế độ quản 
lý nhập khẩu dựa trên nguyên tắc của tổ chức này. Các mặt hàng quản lý bằng 
hạn ngạch không nhiều, nhưng lại sử dụng khá nhiều những biện pháp phi thuế 
quan. Mặc dù thuế quan của EU thấp hơn so với các cường quốc kinh tế lớn và 
có xu hướng giảm nhưng EU vẫn là một thị trường bảo hộ rất chặt chẽ vì có 
 27
những rào cản kỹ thuật và hàng rào an toàn thực phẩm, dịch bệnh thủy sản rất 
nghiêm ngặt.Rào cản kỹ thuật chính là quy chế nhập khẩu chung và các biện 
pháp bảo vệ quyền lợi ngươi tiêu dùng của EU, được cụ thể hóa bằng năm tiêu 
chuẩn của sản phẩm là: tiêu chuẩn chất lượng, tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm, 
tiêu chuẩn an toàn cho người sử dụng, tiêu chuẩn bảo vệ môi trường và tiêu 
chuẩn về lao động. 
 * Đối với tiêu chuẩn chất lượng: hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 
gần như là yêu cầu bắt buộc đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu 
sang thị trường EU thuộc các nước đang phát triển. Thực tế cho thấy, các nước 
đang phát triển ở Châu Á trong đó có Việt Nam, hàng của những doanh nghiệp 
có giấy chứng nhận ISO 9000 thâm nhập vào thị trường EU dễ dàng hơn nhiều 
so với hàng hóa của những doanh nghiệp không có giấy chứng nhận này. ISO 
9000 là hệ thống quản lý chất lượng. Nói một cách khái quát, ISO 9000 do tổ 
chức tiêu chuẩn quốc tế đặt ra để giúp các đơn vị sản xuất cải tiến hệ thống quản 
lý nhằm đạt được các mục tiêu tăng năng suất và chất lượng sản phẩm, giảm 
lãng phí và tỷ lệ phế phẩm, để duy trì một dạng sản phẩm luôn có chất lượng 
đồng nhất, phù hợp với giá thành. 
* Đối với tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm: các công ty chế biến thực phẩm 
phải tuân thủ các tiêu chuẩn vệ sinh chặt chẽ. Về phương diện này, việc áp dụng 
hệ thống HACCP là rất quan trọng và gần như là yêu cầu bặt buộc đối với các xí 
nghiệp chế biến thủy, hải sản của các nước đang phát triển muốn xuất khẩu sản 
phẩm vào thị trường EU. Dần dần HACCP trở thành đòi hỏi chung của các nhà 
xuất khẩu của các nước đang phát triển nếu không muốn mất thị trường, chỉ còn 
cách áp dụng hệ thống HACCP trong sản xuất để thuyết phục các nhà nhập khẩu 
EU rằng họ đã đi theo đúng các nguyên tắc của hệ thống phòng ngừa nguy cơ 
này. 
* Đối với tiêu chuẩn an toàn cho người sử dụng: ký mã hiệu trở nên quan 
trọng số một trong việc lưu thông hàng hóa trên thị trường EU. Các sản phẩm có 
 28
liên quan tới sức khỏe mà người tiêu dùng phải có ký mã hiệu theo quy định của 
EU. 
* Đối với tiêu chuẩn bảo vệ môi trường: thị trường EU yêu cầu hàng hóa 
có liên quan đến môi trường phải dán nhãn hiện theo quy định (nhãn sinh thái, 
nhãn tái sinh…)và có chứng chỉ được quốc tế công nhận. Ngoài ra, còn có các 
tiêu chuẩn về hệ thống quản lý môi trường (các tiêu chuẩn ISO 14000) và các bộ 
luật mang tính xã hội về đạo đức. Tiêu chuẩn The Social Accountability 8000 sẽ 
ngày càng trở nên quan trọng trong nhưng năm tới. ISO 14000 là hệ thống quản 
lý môi trường, được xây dựng trên cơ sở thỏa thuận quốc tế, bao gồm các yêu 
cầu đối với các yếu tố cơ bản có thể điều chỉnh được, để thiết lập nên hệ thống 
quản lý có khả năng cải thiện môi trường một cách liên tục tại các tổ chức cơ sở. 
Bộ tiêu chuẩn ISO 14000 đem đến cách tiếp cận hệ thống cho việc quản lý môi 
trường và cung cấp các công cụ hỗ trợ có liên quan như đánh giá môi trường, 
nhãn môi trường, phân tích chu trình sống của sản phẩm…cho các doanh nghiệp 
và các cơ sở khác để quản lý tác động các hoạt động của họ đối với môi trường, 
ngăn ngừa ô nhiễm và liên tục cải thiên môi trường với sự cam kết của lãnh đạo 
và sự tham gia có ý thức của mọi thành viên cơ sở, từ người sản xuất trực tiếp 
đến các cán bộ quản lý. Việc thừa nhận cam kết áp dụng ISO 14000 đã trở thành 
một tiêu chí để duy trì sự cạnh tranh tại thị trường EU. Bằng phương pháp trên 
các doanh nghiệp Việt Nam sẽ tăng cường khả năng cạnh tranh và uy tín của 
mình trên thị trường này. 
* Đối với tiêu chuẩn về lao động: Ủy ban Châu Âu đình chỉ hoạt động của 
các xí nghiệp sản xuất nội địa ngay khi phát hiện ra các nghiệp này sử dụng lao 
động cưỡng bức và cấm nhập khẩu những hàng hóa mà quá trình sản xuất sử 
dụng bất kì một hình thức cưỡng bức nào như lao động tù nhân, lao động trẻ 
em…được xác định trong các Hiệp ước Gơnevơ ngày 25/9/1926 và ngày 
7/7/1956 và các Hiệp ước lao động quốc tế số 29,205. Có thể nói rằng ISO 9000, 
ISO 14000 và HACCP chính là chìa khóa để các doanh nghiệp Việt Nam mở 
cánh cửa vào thị trường EU . 
 29
EU sử dụng “rào cản kỹ thuật – TBT”là biện pháp chủ yếu để bảo hộ sản 
xuất và tiêu dùng nội địa hiện nay vì thuế nhập khẩu vào EU đang giảm dần. Bởi 
vậy, yếu tố quyết định việc hàng hóa của các nước đang phát triểncó thâm nhập 
được vào thị trường EU hay không chính là hàng hóa đó có vượt qua được rào 
cản kỹ thuật của EU hay không. 
Ngoài ra, theo Bộ Thương Mại Việt Nam , ỦY ban Châu Âu sắp tới sẽ 
ban hành chính sách hóa chất mới trên toàn lãnh thổ EU nhằm ngăn ngừa tác hại 
của hóa chất đối với con người và môi trường. Chính sách nay sẽ có những ảnh 
hưởng bất lợi trực tiếp đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành công 
nghiệp hóa chất và các ngành có liên quan. Nhìn chung các nhà sản xuất tại các 
nước đang phát triển sẽ phải đối mặt với những chướng ngại mới mà chính sách 
hóa chất của EU yêu cầu. Theo đánh giá của các chuyên gia, rào cản này trên 
thực tế còn tai hại hơn cho các nước đang phát triển nếu các cơ quan có thẩm 
quyền của EU không công nhận các cuộc xét nghiệm, trắc nghiệm được thực 
hiện tại những nước này. Do vậy, các doanh nghiệp cần sớm chủ động nghiên 
cứu, chuẩn bị các giải pháp kinh doanh, kỹ thuật, quản lý để sẵn sàng đáp ứng 
các yêu cầu kỹ thuật mới của chính sách trên và ứng phó với các biến động thị 
trường do chính sách này gây ra. 
Liên minh châu Âu (EU) là khu vực thị trường tiêu thụ thủy sản và nông 
sản nhiều nhất thế giới. Từ đầu năm 2006, liên minh này đưa ra luật mới đối với 
mặt hàng thủy sản nhập khẩu. Luật mới được xem là nhất thể hóa qui định của 
EU. An toàn vệ sinh thực phẩm chính là yêu cầu và cũng là mục tiêu của chính 
sách và qui định mới đối với mặt hàng thủy sản nhập khẩu vào EU được áp dụng 
từ đầu năm nay. Truy xuất xuất xứ nguồn gốc được yêu cầu đối với các doanh 
nghiệp có mặt hàng thủy sản xuất khẩu vào EU từ đầu năm nay. Tuy nhiên, do 
Việt Nam có tính chất đặc thù về quy trình sản xuất nên qui định này được bắt 
đầu trễ hơn, sau năm 2008. Tại Việt Nam, Cục quản lý và an toàn vệ sinh và thú 
y thủy sản (NAFIQUAVED) là cơ quan giám sát được EC công nhận. Luật mới 
của EC không có sự phân biệt, các nhà sản xuất trong liên minh hay ngoài liên 
 30
minh đều phải tuân thủ các qui định đã được nhất thể hóa và hài hòa hóa của 
EC. 
II.2.2. Đối với thị trường Mỹ 
Hiện nay, Mỹ là một trong những nước phát triển mà thị trường trong 
nước được bảo hộ rất chặt chẽ bằng hàng rào phi thuế quan ngày càng tinh vi. 
Hạn ngạch nhập khẩu là một trong những biện pháp đầu tiên mà Mỹ áp 
dụng, Mỹ duy trì hạn ngạch đối với 844/932 mặt hàng. 
Biện pháp thứ hai trong số các hàng rào phi thuế quan mà Mỹ áp dụng với 
hàng thủy sản Việt Nam là hàng rào kỹ thuật (TBT) và các biện pháp kiểm dịch 
thực vật (SPS) như một hàng rào hạn chế nhập khẩu. Thí dụ như năm 2000, Mỹ 
định ngăn chặn việc nhập khẩu cá ba sa của Việt Nam vì cho rằng Chính Phủ 
Việt Nam đã trợ giá cho người nuôi hoặc trợ giá cho nhà xuất khẩu. Cùng năm 
đó, đoàn chuyên gia Mỹ tới Việt Nam kiểm tra môi trường và chương trình kiểm 
soát dư lượng hóa chất độc hại trong vùng nuôi cá trra, cá ba sa. Đồng thời cũng 
cử thanh tra đến Việt Nam kiểm tra chương trình HACCP của 15 doanh nghiệp 
xuất khẩu hàng thủy sản vào Mỹ. Năm 2001, một số nghị sĩ Mỹ trình Quốc hội 
không cho cá tra, cá ba sa Việt Nam mang tên catsfish dù catsfish là tên tiếng 
Anh dùng chung cho các loài cá da trơn. Chỉ trong tháng 12 năm 2003, 56 lô 
hàng của các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ bị cơ quan Quản lý 
thực phẩm và dược phẩm (FDA) giữ lại sau khi kiểm tra “có vấn đề” vệ sinh an 
toàn thực phẩm. Các lô hàng này sẽ bị tiêu hủy, trả lại hay bị phạt, như vậy, uy 
tín của doanh nghiệp sẽ bị tổn thất rất lớn. 
Biện pháp thứ ba là chống bán phá giá, đây là công cụ được Mỹ sử dụng 
thường xuyên,ở góc độ thương mại các vụ kiện chống bán phá giá đối với hàng 
hóa chỉ là một phương tiện để bảo hộ hàng hóa trong nước. Bán phá giá là một 
hành vi không lành mạnh nhằm thâu tóm thị phần, thanh toán các đối thủ cạnh 
tranh khác, nhưng điều đáng nói là những vụ kiện chống bán phá giá đối với 
hàng thủy sản Việt Nam nói riêng, hàng hóa của Việt Nam nói chung tại nước 
ngoài là không có căn cứ. Về thực tế không thể phủ nhận rằng: Việt Nam có 
 31
nhiều ưu thế về điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên, giá đầu vào thấp 
nên giá thành thấp là điều tất yếu. 
Những biện pháp gắn với môi trường, chống khủng bố sinh học và tiêu 
chuẩn lao động để hạn chế nhập khẩu là một loại rào cản mới mà nước Mỹ là 
nước áp dụng rào cản này rất triệt để. Về môi trường, Mỹ đơn phương áp dụng 
các tiêu chuẩn của mình để hạn chế cá hồi và tôm. Mỹ cấm nhập khẩu cá hồi từ 
nước mà Mỹ cho rằng phương pháp đánh bắt của họ làm ảnh hưởng xấu tới cá 
heo và cấm nhập tôm từ những nước sử dụng lưới quét có hại cho rùa biển. 
Thực tế cho thấy, trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay, để đối phó với 
những nước đang phát triển, nhiều khi những người khổng lồ cũng phải tìm đến 
chính sách bảo hộ đã quá lỗi thời, dẫu họ thường là những người lớn tiếng ủng 
hộ cho tự do cạnh tranh. Trong quá trình hội nhập kinh tế, Việt Nam đã chủ 
trương tự do thương mại và chấp nhận sự cạnh tranh lành mạnh. Những người 
nuôi, chế biến, xuất khẩu cá tra, cá ba sa Việt Nam hiểu rất rõ rằng khi nghề 
nuôi trồng thủy sản phát triển và được hoàn thiện dần trên quy mô toàn cầu, nó 
sẽ làm đảo lộn những thị trường thủy sản truyền thống, làm nảy sinh mâu thuẫn 
giữa người nuôi với ngư dân, giữa người nuôi với người nuôi, giữa người mua 
với người bán, giữa nước này với nước khác. Sự vận động đó sẽ chẳng bao giờ 
được chấm dứt, bởi nó chính là động lực để thúc đẩy kinh tế phát triển, mang lại 
lợi ích cho nhười tiêu dùng. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là có thế chấp 
nhận những kiểu cạnh tranh không bình đẳng, những hoạt động bất chấp luật lệ 
và các công ước quốc tế của một số nước, bất chấp quyền lợi của người tiêu 
dùng ngay tại nước mình. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, việc dựng 
nên các hàng rào kỹ thuật đang được nhiều nước, nhất là các nước phát triển áp 
dụng như một thứ ”bảo bối” nhằm ngăn hàng nhập khẩu từ bên ngoài, bảo vệ 
nền sản xuất trong nước. 
Trong số các hàng rào trên thì chống bán phá giá là vũ khí mà Hoa Kỳ hay 
áp dụng nhất để ngăn cản hàng hóa của nước khác vào nước này. Các vụ kiện 
chống bán phá giá vừa qua là bài học thức tỉnh các doanh nghiệp Việt Nam 
 32
không chỉ quan tâm sản xuất và tìm kiếm thị trường mà còn phải giữ vững thị 
trường và làm cho nó ngày một lớn mạnh. 
Tranh chấp thương mại là chuyện bình thường trong đời sống kinh tế hiện 
nay. Tuy vậy,chúng ta cần có yêu cầu khi có tranh chấp thì hai bên phải ngồi lại 
với nhau trên cơ sở tôn trọng các thỏa thuận, cam kết đã ký kết, hợp tác từng 
bước tháo gỡ khó khăn, tìm kiếm tiếng nói chung đưa quan hệ song phương 
ngày càng tốt đẹp. 
 33
PHẦN III: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP VƯỢT QUA HÀNG 
RÀO PHI THUẾ QUAN NHẰM THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU 
HÀNG THỦY SẢN CỦA VIỆT NAM VÀO 
THỊ TRƯỜNG EU VÀ MỸ 
III.1. ĐỊNH HƯỚNG CHUNG 
 Tính đến hết tháng 11 năm 2006, hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam 
đã vượt ngưỡng 3 tỷ USD (3,08 tỷ USD, bằng 110.06% kế hoạch đề ra, tăng 
24,45% so với cùng kỳ năm 2005 và đã hoàn thành xuất sắc chỉ tiêu đề ra là 
mức 2,8 tỷ USD). Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu của cả nước dự kiến sẽ đạt 
43,8 tỷ USD. Theo mục tiêu này, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản năm 2007 dự 
kiến đạt là 3,3 tỷ USD.Chúng ta còn được các chuyên gia đánh giá là có tiềm 
năng thủy sản lớn hơn Thái Lan. 
Năm 2007,để dạt được mục tiêu dự kiến là kim ngạch xuất khẩu đạt 3,3 tỷ 
USD, để tăng cường xuất khẩu và đạt mục tiêu đã đề ra ngành thủy sản Việt 
Nam cần phải giải quyết một số tồn tại sau: 
Trước hết, phải khắc phục những yếu kém liên quan đến đảm bảo nguyên 
liệu cho chế biến với số lượng phù hợp, giá cả phải chăng đối với cả người mua 
và người bán, tổ chức lại việc cung ứng nguyên liệu một cách tiên tiến và lành 
mạnh để bớt đi những thất thoát vô lý, giữ gìn vệ sinh cho nguyên liệu chế biến 
xuất khẩu. 
Sự chấp nhận hay từ chối của thị trường về vệ sinh không chỉ phụ thuộc 
vào một công đoạn trong nhà máy chế biến. Việc quản lý vệ sinh trong nuôi 
trồng, khai thác thủy sản đến khi vào nhà máy cần phải chặt chẽ. 
Từng bước đa dạng hóa các sản phẩm nuôi trồng kể cả nuôi nước biển và 
nuôi nước ngọt, tăng tỷ trọng xuất khẩu từ hải sản khai thác như cá biển… để 
tránh phụ thuộc quá lớn vào một mặt hàng. Đây là một trọng tâm của Bộ thủy 
sản liên quan đến các hoạt động chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong ngành và trong 
khối nông nghiệp. 
 34
Công tác xúc tiến thương mại và giúp đỡ các doanh nghiệp chủ động trong 
quá trình hội nhập, tăng cường công tác thông tin, tiếp thị, mở rộng thị trường là 
một việc mà thủy sản ở mức nào đó đã thành công. Tuy nhiên việc nay cần phải 
đẩy mạnh hơn nữa. 
Đặc biệt hiện nay khi mà Việt Nam đã gia nhập WTO thì để hỗ trợ công 
tác xuất khẩu, Bộ Kế hoạch - Đầu tư cho rằng cần tiếp tục hỗ trợ và khuyến 
khích doanh nghiệp xuất khẩu nhưng phải đảm bảo không trái với các quy định 
của WTO. Bên cạnh đó cũng cần xây dựng các hàng rào kỹ thuật phù hợp với 
quy định của WTO đối với những mặt hàng hạn chế nhập khẩu. Các biện pháp 
nâng cao năng lực cạnh tranh và xúc tiến thương mại cần được tiến hành đồng 
bộ và có hiệu quả nhất. 
Công tác tiêu chuẩn kỹ thuật và an toàn vệ sinh thực phẩm sẽ được lưu ý 
hết sức. Theo đó, Việt Nam sẽ xây dựng các tiêu chuẩn kỹ thuật phù hợp với 
quốc tế và thúc đẩy sự công nhận lẫn nhau về tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh thực 
phẩm và kiểm dịch nhất là đối với các bạn hàng lớn như EU, Mỹ, Nhật... nhằm 
tránh thiệt hại cho hàng xuất khẩu của Việt Nam. 
III.2. CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU 
Hiện nay, theo Bộ thủy sản, cả nước có trên 300 doanh nghiệp chế biến 
thủy sản xuất khẩu. Để sản xuất và xuất khẩu thủy sản một cách bền vững, ổn 
định và tăng cường được vị thế trên các thị trường xuất khẩu quan trọng, đặc 
biệt là EU và Mỹ thì Việt Nam cần phải tiếp tục thực hiện các biện pháp nâng 
cao sức cạnh tranh của thủy sản nước nhà. EU và Mỹ là hai thị trường lớn, nhu 
cầu tiêu thụ thủy sản không phải là nhỏ, đồng thời lại rất đa dạng. Nhưng do các 
thị trường này đòi hỏi một lượng hàng ổn định và có chất lượng cao.Vì vậy 
chung ta cần thực tốt các chính sách sau: 
III.2.1. Chính sách tạo nguồn nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu 
Trong khi nguồn tài nguyên ven bờ ở nước ta đã bị cạn kiệt do khai thác 
quá công suất chỉ còn tiềm năng tăng sản lượng bằng cách đánh bắt xa bờ, đánh 
 35
bắt nước sâu và nuôi trồng thủy sản. Theo Bộ thủy sản, hiện chúng ta mới chỉ 
khai thác được 13% trữ lượng và 25-26% khả năng khai thác cho phép. 
Điều kiện của nước ta rất thuận lợi để phát triển nuôi trồng thủy sản, đặc 
biệt là tôm sú và tôm càng xanh, có giá trị xuất khẩu cao, để xuất sang thị trường 
Nhật Bản, EU và Mỹ. Tuy nhiên cần phải có sự quản lý và trợ giúp tài chính, kỹ 
thuật …của Nhà nước và cộng đồng quốc tế để đảm bảo cung cấp đủ nguyên 
liệu chất lượng cao cho chế biến thủy sản xuất khẩu, đáp ứng được đòi hỏi về 
chất lượng ngặt nghèo từ phía các nhà nhập khẩu EU và Mỹ. 
III.2.2. Chính sách thị trường 
Bằng cách đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, đăng ký thương hiệu 
sản phẩm trên thị trường thế giới, cần thực hiện tốt việc nghiên cứu thị trường, 
công tác quảng cáo, tiếp xúc khách hàng và hoàn thiện dịch vụ khách hàng. 
Trong chiến lược cạnh tranh cần chú ý tới chiến lược giá, chất lượng hàng vì các 
rào cản thương mại mà EU, Mỹ sử dụng có luật bán phá giá và các hàng rào kỹ 
thuật. Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) cần chủ động 
phối hợp tốt hơn với Hiệp hội các nước xuất khẩu để đấu tranh chống lại việc áp 
đặt các hàng rào thương mại của các nước nhập khẩu, tăng cường sự liên kết 
giữa các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu cá tra, cá ba sa, tôm… Chỉ có như vậy 
mới có thể tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp và hàng thủy sản Việt Nam 
trên thị trường EU và Mỹ. 
III.2.3. Chính sách tạo vốn 
Chính sách này vận dụng linh hoạt chính sách tài chính tín dụng trong các 
đơn vị kinh doanh nhằm khuyến khích xuất khẩu hàng thủy sản. Nhà nước cần 
thực hiện nhất quán chính sách khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia 
đầu tư vào mọi khâu của quá trình sản xuất kinh doanh, sớm ban hành chính 
sách phù hợp và đồng bộ để khuyến khích đầu tư nước ngoài vào nuôi trồng 
khai thác và chế biến thủy sản xuất khẩu. Mặt khác, cần hướng vốn đầu tư nước 
ngoài tập trung vào khu vực đánh bắt xa bờ, đánh bắt nước sâu, nuôi trồng thủy 
sản, nuôi tôm công nghiệp, chế biến kỹ thuật cao, sản xuất thiết bị lạnh chất 
 36
lượng cao… nhằm đáp ứng đầy đủ yêu cầu kỹ thuật mà các thủy sản nhập khẩu 
đòi hỏi. 
III.2.4. Chính sách công nghệ 
 Chính sách công nghệ thích hợp và có hiệu quả nhất trong ngành thủy 
sản ở giai đoạn trước mắt là phải kết hợp nhiều trình độ công nghệ khác nhau, 
chú trọng loại công nghệ tạo việc làm tốn ít vốn. Trong ngành thủy sản, hình 
thành cơ cấu công nghệ nhiều tầng, cần chú trọng nghiên cứu ứng dụng và triển 
khai, nắm bắt và làm chủ được công nghệ mới, công nghệ cơ bản, lựa chọn một 
số vĩnh vực, ngành nghề, đối tượng mà ta có khả năng và lợi thế để nghiên cứu 
“đón đầu”. Hướng trọng điểm nghiên cứu là công nghệ thông tin, công nghệ 
sinh học trong đánh bắt nuôi trồng và chế biến các sản phẩm chủ lực nhằm tạo ra 
bước đột phá về công nghệ và kinh tế. 
 Nhà nước cần sớm ban hành các chính sách khuyến khích các doanh 
nghiệp nhập khẩu các công nghệ hiện đại, bí quyết công nghệ, thuê chuyên gia 
giỏi của nước ngoài và tăng đầu tư nghiên cứu, ứng dụng các công nghệ mới, 
phát triển các mặt hàng mới. 
 Cải tiến chất lượng an toàn vệ sinh hàng thủy sản xuất khẩu theo tiêu 
chuẩn HACCP, đảm bảo giống tốt và công nghệ nuôi trồng tiên tiến để đạt tiêu 
chuẩn vệ sinh, đổi mới công nghệ chế biến, thực hiện nghiêm ngặt các tiêu 
chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm. Ngoài việc phấn đấu giảm giá thành, tăng sức 
cạnh tranh hàng thủy sản, còn phải chú trọng tăng số lượng doanh nghiệp đủ tiêu 
chuẩn theo HACCP để được xuất khẩu vào các thị trường EU và Mỹ. Đồng thời 
khuyến khích xây dựng tiêu chuẩn hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 và 
ISO 14000, vì những đòi hỏi của các thị trường này còn bao gồm các yêu cầu về 
thẩm mỹ, độ tiện dụng, an toàn, các dịch vụ khách hàng….và cũng nhờ các bộ 
tiêu chuẩn này mà Việt Nam có thể chủ động hơn trong sản xuất và tiêu thụ sản 
phẩm của mình. 
Làm quen với các vụ kiện tụng, giải quyết tốt các tranh chấp. Thông qua 
các vụ kiện trong thời gian vừa qua cho thấy một mặt các doanh nghiệp phải thật 
 37
am hiểu về luật pháp của Mỹ, EU, cũng như luật thương mại quốc tế. Mặt khác 
phải có đội ngũ chuyên viên thành thạo, đủ sức đối phó với các tranh chấp 
thương mại, sớm nắm bắt được thông tin để tư vấn cho các doanh nghiệp, giúp 
các doanh nghiệp có thể điều chỉnh kịp thời trước những biến động của thị 
trường. Cùng với nó, một sự hợp tác liên kết và học tập kinh nghiêm xử lý của 
các nước cũng bị kiện như mình là rất quan trọng. Nhà nước cần sớm có các quy 
định công nhận địa vị pháp lý của các tổ chức liên kết, các doanh nghiệp như 
các Hiệp hội, câu lạc bộ doanh nghiệp, hội nghề nghiệp… nhằm pháp chế hóa 
các quy tắc, luật lệ của tổ chức này khi bị vi phạm. Đồng thời Nhà nước cần xây 
dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước và các tổ chức liên kết để giải 
quyết các tranh chấp thương mại và đàm phán để khắc phục những rào cản 
thương mại, cản trở các hoạt động thương mại nhằm bảo hộ sản xuất trong nước 
của các thị trường nhập khẩu thủy sản lớn như EU và Mỹ nhưng không vi phạm 
các thỏa thuận song phương và đa phương. 
Để ổn định và không ngừng tăng nguồn hàng xuất khẩu vào thị trường thế 
giới, đặc biệt là các thị trường EU và Mỹ, giải pháp chung cho toàn ngành thủy 
sản Việt Nam là tiếp tục thực hiện 3 chương trình lớn đã được Chính phủ phê 
duyệt, đó là: Chương trình đánh bắt xa bờ, chương trình phát triển nuôi trồng 
thủy sản thời kỳ 1999 – 2010 và chương trình xuất khẩu thủy sản, đưa ngành 
thủy sản nước ta từng bước chuyển sang một ngành sản xuất có hiệu quả và phát 
triển bền vững, là một ngành kinh tế mũi nhọn với mục tiêu kim ngạch xuất 
khẩu 5 tỷ USD vào năm 2010. 
 38
KẾT LUẬN 
 Việt Nam nằm trên một bán đảo gần trung tâm Đông Á với bờ biển dài 
3260 km, nhiều sông ngòi, đầm, kênh, rạch, lại nằm trong khu vực nhiệt đới gió 
mùa, nắng lắm, nhiều mưa, tài nguyên thủy sản phong phú. Đó là điều kiện hết 
sức thuận lợi cho một nghành thủy sản phát triển mạnh mẽ và tăng khả năng 
xuất khẩu. 
 Do nhiều nguyên nhân, đặc biệt là do trình độ kinh tế phát triển không 
đồng đều, các nước đều duy trì các rào cản thương mại nhằm bảo hộ nền sản 
xuất nội địa vì thế mà các hàng rào phi thuế quan ra đời và ngày càng trở nên đa 
dạng. 
 Trước tình trạng hàng xuất khẩu của Việt Nam bị các nước nhập khẩu áp 
dụng nhiều rào cản thương mại, đặc biệt khi kim ngạch xuất khẩu nhiều mặt 
hàng tăng mạnh, việc giải quyết những khó khăn từ những tranh chấp thương 
mại với Việt Nam là rất cần thiết. Thực tế cho thấy trong thời gian qua chúng ta 
liên tục phải đối đầu với những vụ kiện chống bán phá giá của Mỹ làm thu hẹp 
thị trường xuất khẩu dẫn tới giảm giá trị kim ngạch xuất khẩu. 
Hiện nay, không một nước nào trên thế giới lại từ bỏ việc áp dụng các 
biện pháp thuế quan và phi thuế quan, mà coi nó như một công cụ để bảo hộ sản 
xuất trong nước hay để đạt được một số mục tiêu kinh tế xã hội nhất định.Theo 
quy định của WTO, các nước sẽ phải xóa bỏ một số hàng rào thương mại, đặc 
biệt là các biện pháp hạn chế định lượng. Tuy nhiên,cùng với tiến trình đó việc 
tạo ra và sử dụng các công cụ thương mại mới tinh vi hơn là điều không thể 
tránh khỏi. Là một nước đang phát triển, đặc biệt khi Việt Nam đã trở thành một 
thành viên của WTO, Việt Nam cần hiểu rõ các hàng rào thương mại, đặc biệt là 
các hàng rào phi thuế quan nhằm đẩy mạnh và bảo vệ ngành xuất khẩu mũi nhọn 
và bảo hộ có hiệu quả các ngành sản xuất non trẻ trong nước trước sức ép cạnh 
tranh khốc liệt của thị trường thế giới trong quá trình hội nhập. 
Tóm lại, Mỹ và EU là hai thị trường khắt khe, phức tạp nhưng không phải 
chúng ta không thể vượt qua những rào cản của nó. Việc ngành thủy sản có đáp 
 39
ứng được những mong đợi của Việt Nam hay không phụ thuộc rất nhiều vào sự 
nỗ lực của mỗi cơ sở, mỗi doanh nghiệp trong ngành, kết hợp với sự hỗ trợ đồng 
bộ, có hiệu quả từ phía Nhà nước và các cơ quan quản lý. Chúng ta hoàn toàn có 
thể hy vọng vào một triển vọng tăng trưởng bền vững không chỉ ở thị trường Mỹ 
và EU mà còn ở các thị trường tiềm năng khác, phục vụ đắc lực cho công cuộc 
phát triển kinh tế xã hội của đất nước. 
 40
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Nguyễn Đỗ: "Những hạn chế nhập khẩu vào Hoa Kỳ" - Thời báo Kinh 
tế Việt Nam - số 128 ngày 25/10/2000. 
2. Trần Thuý Hà: "Năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam 
trong bối cảnh hội nhập" - Tạp chí những vấn đề kinh tế thế giới - Số 2 năm 
2002. 
3. Bảo Minh: "Phải làm gì sau USA chính thức khởi kiện Việt Nam bán 
phá giá tôm?" - Tạp chí Đầu tư chứng khoán - ngày 05/01/2004 - số 213. 
4. Phùng Thị Vân Kiều: "Thị trường EU với hàng rào phi thuế quan" - Tạp 
chí Thương mại - số 27 năm 2002. 
5. Nguyễn Thị Thanh Thuỷ: "Hàng rào phi thuế quan - các rào cản đối với 
thương mại quốc tế" - Tạp chí Thương mại - số 18 năm 2002. 
6. Trần Thị Miêng: "Thị trường xuất khẩu thuỷ sản và các giải pháp chủ 
yếu đẩy mạnh xuất khẩu trong những tháng cuối năm" - Tạp chí Thuỷ sản - 
số7/2004. 
7. Nguyễn Thị Thanh Hà, Nguyễn Văn Tiến: "Ngành thuỷ sản Việt Nam: 
Thực trạng và thách thức trong quá trình hội nhập quốc tế" - Nghiên cứu kinh tế 
- số 321 - tháng 2/2005. 
8. Nguyễn Hữu Khải - Hàng rào phi thuế quan trong chính sách thương 
mại quốc tế. 
9. “Kim ngạch xuất khẩu dự kiến đạt 43,8 tỷ USD năm 2007” - 
10. “Luật mới xuất khẩu thuỷ sản vào EU” - 
w&templateId=1005 
11. “Xuất khẩu tháng 11 vượt mức 3 tỷ USD” - 
ongmai.com.vn/article.aspx?article_id=32086 
 41
12. “Xuất nhập khẩu của EU và Mỹ” - 
13. “Diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản” – “Sản lượng thuỷ sản” 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
Luận văn- Những giải pháp vượt qua hàng rào phi thuế quan đối với xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào thị trường EU và Mỹ.pdf