Tài liệu Luận văn Nghiên cứu đặc điểm sinh học, sâu bệnh hại và sử dụng chất điều hoà sinh trưởng đối với hồng không hạt Bảo Lâm - Tại Lạng Sơn: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM 
HOÀNG VĂN ĐẢY 
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC, 
SÂU BỆNH HẠI VÀ SỬ DỤNG CHẤT ĐIỀU HOÀ SINH TRƯỞNG 
 ĐỐI VỚI HỒNG KHÔNG HẠT BẢO LÂM - TẠI LẠNG SƠN 
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP 
THÁI NGUYÊN- 2008 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
Lời cam đoan 
 Tôi xin cam đoan luận văn này do chính tôi thực hiện, dưới sự hướng 
dẫn khoa học của PGS.TS. Đào Thanh Vân. Số liệu và kết quả nghiên cứu 
trong luận văn hoàn toàn trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học 
vị nào. 
 Các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được chỉ rõ nguồn gốc. Nếu 
sai tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm. 
 Lạng Sơn, tháng 8 năm 2008 
 HỌC VIÊN CAO HỌC 
 Hoàng Văn Đảy 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
Lời cảm ơn 
 Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu Trường Đại học Nông Lâm 
Thái Nguyên, khoa Sau đại học, khoa Nông học, các thầy cô giáo đã tạo điều ...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
91 trang | 
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1584 | Lượt tải: 1
              
            Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Nghiên cứu đặc điểm sinh học, sâu bệnh hại và sử dụng chất điều hoà sinh trưởng đối với hồng không hạt Bảo Lâm - Tại Lạng Sơn, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM 
HOÀNG VĂN ĐẢY 
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC, 
SÂU BỆNH HẠI VÀ SỬ DỤNG CHẤT ĐIỀU HOÀ SINH TRƯỞNG 
 ĐỐI VỚI HỒNG KHÔNG HẠT BẢO LÂM - TẠI LẠNG SƠN 
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP 
THÁI NGUYÊN- 2008 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
Lời cam đoan 
 Tôi xin cam đoan luận văn này do chính tôi thực hiện, dưới sự hướng 
dẫn khoa học của PGS.TS. Đào Thanh Vân. Số liệu và kết quả nghiên cứu 
trong luận văn hoàn toàn trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học 
vị nào. 
 Các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được chỉ rõ nguồn gốc. Nếu 
sai tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm. 
 Lạng Sơn, tháng 8 năm 2008 
 HỌC VIÊN CAO HỌC 
 Hoàng Văn Đảy 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
Lời cảm ơn 
 Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu Trường Đại học Nông Lâm 
Thái Nguyên, khoa Sau đại học, khoa Nông học, các thầy cô giáo đã tạo điều 
kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn này. 
 Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Đào Thanh Vân 
giảng viên bộ môn cây ăn quả, phó trưởng khoa Nông học trường Đại học 
Nông Lâm Thái Nguyên đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình 
thực hiện đề tài và bảo vệ luận văn. 
 Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới Chi cục Bảo vệ thực vật 
Lạng Sơn, Viện Bảo vệ thực vật, Bộ môn Kiểm nghiệm chất lượng rau quả - 
Viện nghiên cứu rau quả, phòng phân tích đất - Viện quy hoạch & thiết kế 
nông nghiệp, các phòng ban chuyên môn của huyện Cao Lộc - tỉnh Lạng Sơn, 
Đảng uỷ, HĐND, UBND và các hộ gia đình xã Bảo Lâm đã tạo điều kiện và 
nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình theo dõi thu thập số liệu cho luận văn. 
 Tôi xin tỏ lòng biết ơn chân thành tới bạn bè và gia đình đã giúp đỡ và 
động viên tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thiện luận văn này. 
Lạng Sơn, Tháng 8 năm 2008 
 HỌC VIÊN CAO HỌC 
 Hoàng Văn Đảy 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM 
HOÀNG VĂN ĐẢY 
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC, 
SÂU BỆNH HẠI VÀ SỬ DỤNG CHẤT ĐIỀU HOÀ SINH TRƯỞNG 
 ĐỐI VỚI HỒNG KHÔNG HẠT BẢO LÂM - TẠI LẠNG SƠN 
CHUYÊN NGÀNH: TRỒNG TRỌT 
MÃ SỐ: 60.62.01 
LUẬN VĂN 
THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP 
 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 
 PGS.TS ĐÀO THANH VÂN 
THÁI NGUYÊN- 2008 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
1 
MỞ ĐẦU 
 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI 
 Cây hồng (Diospyros Kaki Lim) là một loại cây ăn quả lâu năm có nguồn 
gốc á nhiệt đới đã được trồng lâu đời ở Việt Nam và nhiều nước trên thế giới. Ở 
nước ta hồng được trồng nhiều ở phía Bắc từ Hà Tĩnh trở ra, ở phía Nam hồng 
được trồng ở vùng Đà Lạt- Lâm Đồng nơi có độ cao từ 1000- 1500 m so với mặt 
nước biển. Phạm Văn Côn [5]; Nguyễn Đức Lương, Trần Như Ý [19]; Mai Xuân 
Lương [20]. Hiện nay ở nước ta có trồng rất nhiều giống hồng nổi tiếng như 
hồng Nhân Hậu ( Hà Nam), hồng Hạc Trì ( Phú Thọ), hồng Thạch Thất ( Hà 
Tây), hồng vuông Thạch Hà ( Hà Tĩnh)...Trong đó giống hồng không hạt Bảo 
Lâm được trồng tại xã Bảo Lâm, tỉnh Lạng Sơn cũng là một giống hồng quý 
được coi là giống cây ăn quả đặc sản của tỉnh Lạng Sơn. Sở nông nghiệp và phát 
triển nông thôn Lạng Sơn [25], UBND tỉnh Lạng Sơn [42]. 
 Quả hồng có giá trị dinh dưỡng khá cao. Kết quả phân tích hàm lượng các 
chất dinh dưỡng trong một quả hồng tươi ( nặng 168g) của các nhà khoa học Mỹ 
như sau: nước 139,4g (82,98%); chất béo 0,3g (0,18%); chất đạm 1,0g ( 0,59%); 
bột đường 31,2g ( 18,57%); carories 118 mg; vitamin C 13 mg; vitamin B12 
0,03 mg; vitamin A 3640 IU; vitamin B1 0,5 mg; folate 13 mg; niacin 0,2 mg; 
natri 3 mg; canxi 13 mg; magie 15 mg; kẽm 0,18 mg; mangan 0 ,596 mg; kali 
270mg; phospho 28 mg; sắt 0,26 mg; đồng 0,19 mg. Website [77]. 
 Quả hồng khi chín có phẩm vị thơm ngon có thể sử dụng để ăn tươi, sấy 
khô, làm mứt, làm bánh nướng.... hoặc sử dụng làm nguyên liệu cho công nghiệp 
mỹ phẩm để sản xuất kem dưỡng da. Ngoài ra quả hồng và các bộ phận khác của 
quả còn có rất nhiều giá trị dược lý khác như sử dụng ăn tươi có tác dụng chữa 
bệnh táo bón, bệnh trĩ, giảm sốt, giảm căng thẳng, chữa say rượu, phòng ngừa 
bệnh bướu cổ; quả hồng sấy khô được sử dụng để chữa bệnh viêm phế quản, 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
2 
bệnh ho khan, trừ giun sán, cầm máu, chữa long đờm...; cuống và đài hoa được 
sử dụng để chữa ho và nấc rất tốt; dịch quả xanh được sử dụng để chữa bệnh cao 
huyết áp. Vũ Công Hậu [15]; Đỗ Tất Lợi [18]; Trần Thế Tục [38]; Đào Thanh 
Vân, Ngô Xuân Bình [44]; Duke J.A và công sự [56]. Theo Kotami và cộng sự 
(2000) [63]; Yamada M [73]; Yonemori và cộng sự [74], [75] chất tanin và các 
hợp chất có trong quả hồng có tác dụng kháng khuẩn, chống dị ứng và chữa bệnh 
cao huyết áp rất tốt. 
So với các cây ăn quả dài ngày khác cây hồng có rất nhiều ưu điểm như: 
dễ trồng, chịu hạn tốt, chịu được đất xấu, ít sâu bệnh, sinh trưởng khoẻ, lá to tán 
lá rộng tạo độ che phủ chống xói mòn tốt, năng suất cao và tương đối ổn định. Vì 
vậy trồng hồng cho thu nhập cao hơn trồng các loại cây ăn quả khác trên cùng 
địa bàn. Cây hồng Bảo Lâm ở độ tuổi 20-30 năm có diện tích tán lá khoảng 15 -
20 m 2 . Chăm sóc tốt mỗi năm cho thu hoạch từ 70-80 kg quả tương ứng giá trị 
1- 1,2 triệu đồng. Vì vậy giống hồng Bảo Lâm đã được tỉnh Lạng Sơn coi là một 
cây trồng quan trọng trong chương trình xoá đói giảm nghèo và phủ xanh đất 
trống đồi trọc ở Bảo Lâm và các vùng lân cận với mục tiêu đưa diện tích giống 
hồng này lên 1800 - 2500 ha năm 2015 [42] tạo vùng hồng hàng hoá tập trung 
chất lượng cao. Nhưng việc mở rộng diện tích trồng hồng còn gặp nhiều khó 
khăn trong nhân giống, phòng trừ sâu bệnh hại, kỹ thuật trồng và chăm sóc, biện 
pháp chống rụng quả cũng như các chỉ dẫn địa lý cho vùng trồng giống hồng 
Bảo Lâm....các vấn đề vừa nêu chưa được nghiên cứu xem xét một cách đầy đủ 
vì vậy cho đến nay vẫn chưa xây dựng được các quy trình trồng và chăm sóc 
hồng để hướng dẫn và khuyến cáo cho người làm vườn. Thực tế đó đã dẫn đến 
tình trạng các diện tích hồng được trồng ở Bảo Lâm hiện nay có năng suất thấp, 
quả bé, giống bị thoái hoá.... không đáp ứng được nhu cầu của sản xuất trong nền 
kinh tế thị trường. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
3 
Xuất phát từ tình hình thực tế trên nhằm từng bước xác định được các biện 
pháp canh tác phù hợp, góp phần hoàn thiện quy trình trồng và chăm sóc đối với 
giống hồng không hạt Bảo Lâm tại Lạng Sơn chúng tôi tiến hành thực hiện đề 
tài: 
 " Nghiên cứu đặc điểm sinh học, sâu bệnh hại và sử dụng chất điều hoà 
sinh trưởng đối với hồng không hạt Bảo Lâm - tại Lạng Sơn." 
2. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI 
 Xác định một số đặc điểm sinh học, tình hình sâu bệnh hại và sử dụng chất 
điều hoà sinh trưởng nhằm nâng cao năng suất, chất lượng hồng không hạt Bảo 
Lâm tại Lạng Sơn. 
3. YÊU CẦU CỦA ĐỀ TÀI 
 - Điều tra hiện trạng sản xuất hồng Bảo Lâm tại xã Bảo Lâm, huyện Cao 
Lộc, tỉnh Lạng Sơn. 
 - Nghiên cứu một số đặc điểm nông sinh học của giống hồng không hạt 
Bảo Lâm. 
 - Nghiên cứu thành phần, mức độ phổ biến của các loài sâu bệnh hại trên 
hồng Bảo Lâm. 
 - Nghiên cứu thử nghiệm phòng trừ bệnh thán thư hại hồng và sử dụng 
chất điều hoà sinh trưởng đối với hồng Bảo Lâm. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
4 
Phần I 
TỔNG QUAN TÀI LIỆU 
1.1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI 
1.1.1. Cơ sở khoa học của việc điều tra hiện trạng sản xuất cây hồng Bảo 
Lâm tại xã Bảo lâm, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn 
 Giống hồng không hạt Bảo Lâm là một giống cây ăn quả lâu năm đã được 
người dân Bảo Lâm trồng từ rất lâu và được đặt tên theo địa danh của xã, hiện 
nay giống hồng này được tỉnh Lạng Sơn coi là một giống hồng quý, là cây ăn 
quả đặc sản của địa phương. Nhưng đến nay các nghiên cứu về giống hồng này 
còn rất hạn chế, các biện pháp kỹ thuật canh tác, chăm sóc hầu như chưa được áp 
dụng hoặc nếu có thì cũng không đồng bộ nên năng suất, chất lượng quả thấp . 
Thông qua việc điều tra hiện trạng sản xuất hồng chúng ta sẽ biết được mức độ 
áp dụng các biện pháp nhân giống, kỹ thuật canh tác, chăm bón, quản lý dịch 
hại... Từ đó có những đề xuất về các nội dung cần xem xét, nghiên cứu nhằm 
từng bước hoàn chỉnh quy trình kỹ thuật khuyến cáo cho người làm vườn tại Bảo 
Lâm và các vùng lân cận. 
1.1.2. Cơ sở khoa học của việc nghiên cứu quy luật ra cành hồng 
 Cây hồng ra hoa kết trái, sinh trưởng hàng năm phụ thuộc rất lớn vào các 
yếu tố đất đai, khí hậu thời tiết, tuổi cây, giống...Trong một năm cây hồng 
thường có 2-3 đợt lộc là lộc xuân, lộc hè, lộc thu . Phạm Văn Côn [6], [7]; Vũ 
Công Hậu [14], [15]; Trần Như Ý [50], [51]. Các đợt lộc thường có liên quan 
khá chặt chẽ với nhau, quá trình ra lộc của năm trước là tiền đề cho sự ra hoa kết 
trái của năm sau. Nguyễn Thế Huấn [16]. Nghiên cứu quy luật ra cành để có các 
biện pháp kỹ thuật cần thiết, hợp lý tác động và điều chỉnh quá trình ra lộc nhằm 
hạn chế hoặc thậm chí loại bỏ hiện tượng ra quả cách năm, bồi dưỡng cành mẹ 
của cành quả năm sau góp phần nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả sản 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
5 
xuất hồng. Vũ Công Hậu [13], [14]. 
1.1.3. Cơ sở khoa học của việc điều tra thành phần sâu bệnh hại hồng 
 Sâu bệnh hại cũng là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến sinh 
trưởng, phát triển, của cây, năng suất và chất lượng quả. Theo Đường Hồng Dật 
(1984) [9]; Hà Quang Hùng [17]; Lê Lương Tề, Vũ Triệu Mân (1998) [29]; 
Nguyễn Công Thuật (1996) [32] thì sâu bệnh hại có thể làm giảm từ 20 -30% 
năng suất, thậm chí mất trắng. Cây hồng cũng như các cây ăn quả lâu năm khác 
đều có rất nhiều đối tượng sâu bệnh gây hại. Phạm Văn Côn [7]; Chu Vĩnh 
Đông, Lộ Hoa Trung [12]; Vũ Công Hậu [15]; Trần Thế Tục [37], [39]; Nguyễn 
Văn Tuất và cộng sự [40], [41]; Viện Bảo vệ thực vật [47]. Tuy nhiên các nghiên 
cứu về sâu bệnh gây hại đối với cây hồng vẫn chưa đầy đủ, thực tế những năm 
vừa qua do không kiểm soát được sâu bệnh đã dẫn đến nhiều vườn hồng ở Bảo 
Lâm bị giảm năng suất, có nhiều cây bị chết...Nghiên cứu, điều tra thành phần 
sâu bệnh hại cây hồng Bảo Lâm để có cơ sở áp dụng các biện pháp phòng trừ 
thích hợp là rất cần thiết nhằm từng bước bổ sung hoàn chỉnh quy trình trồng và 
thâm canh tăng năng suất cây hồng không hạt Bảo Lâm tại Lạng Sơn. 
1.1.4. Cơ sở khoa học của việc phun chất điều hoà sinh trưởng 
 Ngày nay các chất điều hoà sinh trưởng đã và đang được sử dụng rộng rãi 
trong sản xuất trồng trọt như là một phương tiện quan trọng điều chỉnh các quá 
trình sinh trưởng, phát triển của cây trồng như: kích thích tăng trưởng sinh khối, 
điều khiển sự ngủ nghỉ của hạt, củ, chồi, sự ra hoa kết quả, sự lão hoá của mô 
cây, tạo quả không hạt, điều chỉnh sự chín của quả, kích thích ra rễ, tăng khả 
năng chống chịu với điều kiện không thuận lợi của môi trường. Hoàng Minh Tấn 
và cộng sự [27], [28]. 
 Sau khi quá trình thụ phấn, thụ t inh kết thúc, hợp tử sẽ phát triển thành 
phôi, phôi sinh trưởng là trung tâm sinh ra các chất kích thích sinh trưởng có bản 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
6 
chất auxin và gibberellin, các chất này khuyếch tán vào bầu và kích thích sự lớn 
lên của quả. Vì vậy nếu quá trình thụ tinh, thụ phấn không xảy ra thì hầu hết hoa 
sẽ rụng. Hoàng Minh Tấn và cộng sự [26]; Lê Văn Tri [34], [35]; Vũ Văn Vụ và 
cộng sự [49]. 
 Sử dụng các phytohocmon (chất điều hoà sinh trưởng cây trồng) ngoại 
sinh thay thế cho các phytohocmon nội sinh trước khi xảy ra quá trình thụ phấn, 
thụ tinh thì quả sẽ được hình thành và lớn lên không có hạt. Việc sử dung các 
phytohocmon nhằm làm tăng sự đậu quả và tạo quả không hạt đã được sử dụng 
rộng rãi, đem lại hiệu quả cao trong sản xuất trên các cây trồng như: nho, bầu bí, 
cà chua, táo... Nguyễn Quang Thạch và cộng sự [30]; Đào Thanh Vân [43], [45]. 
 Trong thực tế năng suất hồng còn đạt thấp và không ổn định là do nhiều 
nguyên nhân như: trình độ canh tác của người làm vườn, mức độ đầu tư thâm 
canh, giống... Trong đó sự rụng quả là một nguyên nhân quan trọng. Hồng có tỷ 
lệ đậu quả khá cao nhưng tỷ lệ rụng quả cũng lớn. Nguyễn Thế Huấn (2006) 
[16]; Hoàng Thị Nam (2007) [21]; Lưu Vinh Quang (1995) [24], mức độ rụng 
cũng tuỳ thuộc vào giống, khí hậu thời tiết và chế độ chăm sóc. Theo Lưu Vinh 
Quang (1995) [24], thì nguyên nhân rụng quả hồng gồm: rụng quả sinh lý, rụng 
quả do thiếu dinh dưỡng trong đất, rụng quả do thời tiết khí hậu, rụng quả do sâu 
bệnh hại, rụng quả do tác động cơ giới như tập quán nhân giống bằng rễ của 
người làm vườn... Trong đó rụng quả sinh lý là nguyên nhân chủ yếu. Rụng quả 
sinh lý là do các nguyên nhân nội tại như: 
 - Quả không thụ tinh. 
 - Mất cân đối về dinh dưỡng do bón phân không cân đối, không đầy đủ, 
hoặc thiếu hụt các nguyên tố vi lượng như: Bo, S, Mg, Zn... 
 - Tác động bất lợi của môi trường như nhiệt độ quá cao, hạn, úng. 
 - Mất cân đối về chất điều hoà sinh trưởng như hàm lượng IAA giảm sẽ 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
7 
làm tăng sự rụng quả... Vì vậy việc sử dụng một số chất điều hoà sinh trưởng 
phun bổ sung nhằm làm giảm tỷ lệ rụng quả là cần thiết. Phun chất điều hoà sinh 
trưởng không những thúc đẩy quá trình sinh trưởng phát triển của cây mà còn 
làm chậm việc hình thành tầng rời, đảm bảo cho việc vận chuyển các chất 
dinh dưỡng vào nuôi quả nên giảm được tỷ lệ quả bị rụng. Lê Văn Tri [33], [34]. 
1.2. MỘT SỐ NGHIÊN CỨU VỀ CÂY HỒNG 
1.2.1. Những nghiên cứu về nguồn gốc, phân loại 
1.2.1.1. Nguồn gốc 
 Cây hồng (Diospyros) thuộc bộ thị (Ebenales), họ thị (Ebenaceae), phân 
lớp sổ (Dilleniaceae), lớp hai lá mầm (Dicotyledoneae), ngành thực vật hạt kín 
(Angiospermae). Võ Văn Chi, Dương Đức Tiến [1]; Vũ Văn Chuyên [2]. 
 Các nghiên cứu về nguồn gốc của cây hồng phương Đông cho rằng một số 
nhóm hồng thuộc loài hồng dại ( Diospyros kaki) tồn tại trong những khu rừng 
của Trung Quốc và đều đi đến thống nhất là cây hồng có nguồn gốc từ Trung 
Quốc ( nguyên sản ở lưu vực sông Trường Giang), phân bố tự nhiên ở 33 0 - 37 0 
vĩ Bắc. Tại Trung Quốc đã xuất hiện các tài liệu viết về cây hồng từ thế kỷ thứ 5, 
thứ 6. Grubov [57]. Từ Trung Quốc hồng được đưa đến trồng ở Địa Trung Hải, 
sau đó được đưa sang châu Âu năm 1789, sang Mỹ năm 1852, Liên Xô (cũ) năm 
1889 và nhiều nước khác trên thế giới trong đó có Việt Nam . Phạm Văn Côn 
[7]; Vũ Công Hậu [15]; Yung Kyung Choi và cộng sự [52]; Wilson [72]. 
1.2.1.2. Phân loại 
 Theo các nhà phân loại học Nhật Bản hiện nay trên thế giới có khoảng 
800- 1000 loài hồng và được trồng phổ biến ở các nước có khí hậu ôn hoà thuộc 
châu Á, bắc Mỹ, trong đó có 04 loài được trồng để lấy quả là: D.kaki Linn; 
D.oleifera Cheng; D. virginiana Linn; D.lotus Linn. (dẫn theo Yung Kyung 
Choi, Jung Hokim [52]). 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
8 
 Chi Diospyros gồm 400 loài chủ yếu phân bố ở vùng á nhiệt đới châu Á, 
châu Phi và nam Mỹ. Môt số loài (trong đó có hồng phương Đông) phân bố rộng 
trên các vùng ôn đới. Whitmore (1978) [71]. 
 Cây hồng (Diospyros kaki Linn) được trồng rộng rãi ở Trung Quốc, Nhật 
Bản, Hàn Quốc, bang Califonia (Mỹ), Italia, Brazin, Úc, Newdilan, Israen. Hồng 
được chia ra thành hai nhóm là hồng chát và hồng không chát trong đó nhóm 
hồng không chát có khả năng thương mại lớn hơn. Nguyễn Văn Cương (1997) 
[4]; Konishi và cộng sự (1994) [62]; Mowat và công sự (1994) [69]. 
Yung Kyung Choi, Jung Hokim (1972) [52] trích dẫn kết quả nghiên 
cứu cho biết: Mori (1953) chia hồng thành 4 nhóm đó là: 
 - Nhóm 1: Nhóm PCNA ( Pollination Constant Non- Astringent) là nhóm 
gồm những giống hồng không chát, không biến đổi với sự thụ phấn, thịt quả 
thường có những đốm tanin sẫm. Các giống thuộc nhóm này như: Fuju, Jiro, 
Gosh, Suruga... 
 - Nhóm 2: Nhóm PVNA (Pollination Variant Non-Astringent) là nhóm 
gồm những giống không chát và biến đổi với sự thụ phấn, thịt quả có những đốm 
tanin sẫm, khi không có hạt thì thịt quả có vị chát. Các giống thuộc nhóm này 
như: Zenjimaru, Shogatsu, Mizushima, Anahya kume... 
 - Nhóm 3: Nhóm PCA (Pollination Constant Astringent) là nhóm gồm 
những giống chát, không biến đổi với sự thụ phấn, thịt quả không có những đốm 
tanin sẫm. Các giống thuộc nhóm này như: Y okomo, Yosumizo, Shakokashi, 
Hagakushi, Hachiya... 
 - Nhóm 4: Nhóm PVA (Pollination Variant Astringent) là nhóm gồm 
những giống chát và biến đổi với sự thụ phấn, quả có thể chát khi được thụ phấn 
và có một vài đốm tanin sẫm xung quanh hạt. Các giống thuộc nhóm này như: 
Azumi, Shirazu, Emon, Kosshuhya kume, Hiratanenashi. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
9 
 Theo Voronxov (1982) [48] thì trên thế giới hiện nay trồng phổ biến 03 
loại hồng là: 
 - Hồng dại (Diospyros lotus L): Nhị bội thể 2n = 30, cây có thể cao 20-
30m, đường kính gốc thân có thể đạt 70 cm, thuộc loại cây có hoa đơn tính khác 
gốc, quả bé (trọng lượng trung bình 15g/quả), rất chát. 
 - Hồng Virginiana (D.virginiana L): Tứ bội thể 4n = 60 hoặc lục bội thể 
6n = 90, cây có thể cao 30-35 m, đường kính gốc thân có thể đạt 70-80cm, thuộc 
loại cây có hoa đơn tính khác gốc, quả bé (trung bình 22g/quả), quả khi chín màu 
đỏ thơm ngon không chát, chất lượng quả tốt hơn hồng phương Đông. 
 - Hồng phương Đông (D.kaki T): Lục bội thể 6n = 90, cây sinh trưởng 
nhanh, rụng lá mùa đông, chiều cao cây đạt 12 - 15m, tán cây loà xoà, hoa có thể 
đơn tính cùng gốc hay khác gốc, quả to ( trọng lượng có thể đạt 200g/quả ). 
 Theo Phạm Văn Côn [5] những kết quả điều tra về hồng từ những năm 
1990 cho thấy ở Việt Nam có 03 loài hồng là: 
 - Hồng lông (Diospyros tokinensis L.) phân bố rải rác khắp nơi trên miền 
Bắc, thân cây cao to, phân cành ngang, tạo nhiều tầng cành, tán hình tròn. Lá 
thuôn dài, mặt trên màu xanh sẫm có lông màu xanh, mặt dưới màu xanh nhạt có 
lông màu hơi vàng. Quả to tròn hoặc hơi dẹt, khi chín lông trên quả rụng đi quả 
chuyển sang màu vàng hồng, quả có nhiều hạt (6-9 hạt), cây sinh trưởng khoẻ, 
sản lượng cao nhưng chất lượng quả kém (quả có mùi hôi nên còn được gọi là 
hồng hôi hay hồng trâu). 
 - Hồng cậy (Diospyros lotus L.) được trồng rải rác ở các tỉnh phía Bắc 
như: Nam Định, Thái Bình, Ninh B ình... Thân cây cao to, tán lớn. Lá nhỏ hẹp 
mặt trên màu xanh đậm nhẵn nhưng không bóng, mặt dưới màu xanh nhạt có ít 
lông. Quả bé hình tròn dẹt, trọng lượng trung bình 10g/quả, hạt nhiều (6-7 hạt), 
quả chín vàng, ăn ngọt. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
10 
 - Hồng trơn có lá nhẵn (Diospyros kaki L.) được trồng ở miền Bắc và 
vùng Đà Lạt tỉnh Lâm Đồng. Thân cây thường có màu nâu, góc độ phân cành 
hẹp, tán hình tròn hoặc hình tháp. Lá hình bầu dục hoặc elíp, mặt trên lá có màu 
xanh sẫm, mặt dưới lá có màu vàng nhạt. Quả chưa chín có màu xanh lục, nhẵn , 
trơn, khi chín có màu vàng đỏ, quả có thể không hạt hoặc ít hạt hơn so với hai 
loài trên tuỳ theo giống, hạt nhỏ khó mọc mầm, cây sinh tưởng khoẻ, phẩm chất 
quả ngon. Loài này được chia ra hai nhóm chính là hồng ngâm và hồng dấm: 
 + Nhóm hồng ngâm: Chất chát (tanin) trong quả có khả năng hoà tan trong 
nước, nên được khử chát bằng cách ngâm quả trong nước sạch để rút chất chát 
(tanin) trong qua ra làm cho quả không còn vị chát, cũng có thể đem dấm cho 
quả chín mềm mà không cần ngâm, khi đó tanin ở dạng tự do chuyển sang dạng 
kết hợp thì quả sẽ có vị ngọt và không còn vị chát, nếu sử lý chát bằng dấm chín 
thì quả sẽ ngọt hơn so với ngâm vì trong quá trình dấm thì một phần chất tanin 
được chuyển thành đường. 
 + Nhóm hồng dấm: Chất tanin trong quả thuộc dạng không hoà tan trong 
nước. Nên được khử chát bằng cách dấm đất đèn hoặc đốt hương.... Sau khi 
được dấm thì quả chín mềm và không còn chát. 
1.2.2. Những nghiên cứu về phân bố và sản xuất hồng 
1.2.2.1. Phân bố và sản xuất hồng trên thế giới 
Các nghiên cứu đều cho rằng Trung Quốc là nước trồng hồng nhiều nhất 
thế giới, hồng được trồng trên khắp đất nước Trung Quốc (trừ các tỉnh Hắc Long 
Giang, Nội Mông, Tân Cương và Tây Tạng), các tác giả Trung Quốc cho rằng 
vùng trồng hồng tốt nhất là từ vĩ tuyến 33 0 - 37 0 vĩ Bắc, ở đây có nhiều giống 
hồng tốt, chất lượng cao, sinh trưởng, phát dục thuận lợi. Vũ Công Hậu [13], 
[14], những nước có diện tích, sản lượng hồng lớn sau Trung Quốc là: Hàn 
Quốc, Nhật Bản...(bảng 1.1) 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
11 
Bảng 1.1. Diện tích, sản lượng hồng một số nước trên thế giới 
Tên nước 
Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 
Diện tích 
(ha) 
Sản lượng 
(tấn) 
Diện tích 
(ha) 
Sản lượng 
(tấn) 
Diện tích 
(ha) 
Sản lượng 
(tấn) 
Trung Quốc 540.003 1.775.338 603.108 1.833.357 653.200 1.825.000 
Hàn Quốc 29.070 281.143 27.943 249.207 28.000 250.000 
Nhật Bản 24.400 269.300 24.400 265.000 24.400 232.500 
Brazin 6.350 65.500 6.400 66.000 6.700 67.000 
Italia 2.891 54.170 2.900 55.000 2.900 55.000 
Israen 4.400 39.800 4.400 39.400 4.400 40.000 
Niudilan 385 1.200 385 1.200 390 1.300 
Iran 100 1.000 100 1.000 100 1.000 
Oxtraylia 75 650 75 650 75 650 
Mehico 50 450 50 450 50 450 
Tổng số 607.724 2.488.551 669.761 2.511.264 720.215 2.472.900 
 ( Nguồn: FAO 2005) 
 Morton (1987) [70] cho rằng hồng được trồng đầu tiên ở Trung Quốc, sau 
đó du nhập vào Nhật Bản, Triều Tiên, Hàn Quốc, đến cuối thế kỷ 19 hồng mới 
được du nhập vào Mỹ, Ôxtraylia, Palestine, Italia, Pháp, Nga, Brazin, Mexico...
 Trung Quốc là nước có diện tích hồng đang thu hoạch lớn nhất thế giới 
(chiếm 90,7%) sau đó là Hàn Quốc, Nhật Bản. Đây cũng là ba quốc gia có những 
nghiên cứu sâu về cây hồng trên tất cả các lĩnh vực. 
Do những tính chất và đặc điểm sinh học khác nhau nên các loài thuộc chi 
Diospyros cũng có các vùng phân bố khác nhau nhưng tập trung chủ yếu ở châu 
Á và bắc Mỹ, sự phân bố của các loài còn phụ thuộc vào mục đích và nhu cầu sử 
dụng của người trồng. 
 Loài Diospyros kaki L. Phân bố chủ yếu ở 4 nước: Nhật Bản, Trung Quốc, 
Hàn Quốc và Việt Nam. Ở châu Á quả hồng được sử dụng chủ yếu để ăn tươi, tại 
Trung Quốc, Nhật Bản quả hồng được sử dụng làm một trong những món tráng 
miệng chính trong khẩu phần ăn hàng ngày. Các sản phẩm chế biến từ hồng 
thường được tiêu thụ mạnh ở thị trường châu Âu, người châu Âu ở vùng Địa 
Trung Hải đã quen với cây hồng và cho rằng quả hồng chín rất ngọt, hương vị 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
12 
đậm đà và có tập quán thường dùng thìa ăn hồng khi đã chín nhũn. Vũ Công Hậu 
[15]; Trần Thế Tục [37]. 
1.2.2.2. Phân bố và sản xuất hồng ở Việt Nam 
Bảng 1.2. Diện tích, sản lượng hồng ở Việt Nam 
Năm Diện tích (ha) Năng suất (Tạ/ha) Sảnlượng (tấn) 
1998 2.575,00 46,00 5.469 
2000 4.713,00 46,20 9.750 
2004 4.827,70 47,00 10.507 
 Nguồn: Viện nghiên cứu rau quả Trâu Quỳ, Hà Nội 
 Hồng là một loại cây ăn quả quan trọng đã được trồng từ rất lâu ở Việt 
Nam vì quả hồng có phẩm vị ngon, trồng hồng có hiệu quả kinh tế cao hơn so 
với trồng một số loại cây ăn quả khác như mơ, mận, đào...Những năm gần đây 
cây hồng đang ngày càng được chú ý phát triển ở nhiều tỉnh trên cả nước, nhưng 
tập trung chủ yếu ở vùng trung du, miền núi phía Bắc như Lạng Sơn, Bắc Giang,
 Bảng 1.3. Diện tích hồng ở một số tỉnh năm 2006 
Số TT Tên tỉnh Diện tích (ha) Tỷ lệ (%) 
1 Thái Nguyên* 1.565,00 17,24 
2 Bắc Giang 1.562,00 17,20 
3 Lâm Đồng* 700,00 7,71 
4 Lạng Sơn 2.200,30 24,23 
5 Hoà Bình 615,00 6,77 
6 Yên Bái 631,50 6,96 
7 Bắc Cạn 173,00 1,91 
8 Nghệ An* 221,00 2,43 
9 Hà Tĩnh* 229,00 2,52 
10 Hải Phòng* 117,00 1,29 
11 Phú Thọ 59,00 0,65 
12 Các tỉnh khác* 1.007,00 11,09 
 Ghi chú: - Nguồn Cục thống kê các tỉnh. 
 - Những tỉnh có đánh dấu (*) Số liệu năm 2004. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
13 
Thái Nguyên và tỉnh Lâm đồng thuộc vùng cao nguyên nam Trung bộ. Phạm 
Văn Côn [7], Vũ Công Hậu [15], Yung Kyung Choi và cộng sự [5 2], (bảng 1.2 
và 1.3). 
Kết quả điều tra và nghiên cứu về cây hồng của nhiều tác giả. Phạm 
Văn Côn [5]; Nguyễn Đức lương, Trần Như Ý [19]; Mai Xuân Lương [20], đều 
thống nhất cho rằng ở Việt Nam có rất nhiều vùng trồng hồng, mỗi vùng 
đều có những giống hồng ngon và nổi tiếng. 
* Vùng Đà Lạt - Lâm Đồng 
Đà Lạt là thành phố thuộc tỉnh Lâm Đồng nằm ở nam Tây Nguyên, có độ 
cao trung bình 1.500m so với mặt nước biển, nên khí hậu Đà Lạt mang đậm nét 
khí hậu á nhiệt đới, nhiệt độ thấp và tương đối ôn hoà. 
- Nhiệt độ không khí trung bình hàng năm 17,5- 18,20C. Biên độ nhiệt 
ngày và đêm khoảng 9 0C, các tháng trong mùa khô có biên độ nhiệt ngày đêm 
lớn hơn mùa mưa. 
- Mùa mưa thường bắt đầu từ giữa tháng 4 đầu tháng 5, kết thúc vào cuối 
tháng 10 giữa tháng 11 và chiếm khoảng 80% tổng lượng mưa năm. 
- Độ ẩm không khí trung bình 85%, các tháng 7,8,9 ẩm độ không khí 
tương đối cao (90- 92%). Mùa khô độ ẩm không khí giảm xuống dưới 80%, độ 
ẩm tương đối thấp nhất vào tháng 2, 3 ( 75-78%). 
Hồng trồng ở Đà Lạt chủ yếu là các giống thuộc loài Diospyros kaki L. 
Đây cũng là loài được trồng phổ biến ở Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên và 
các tỉnh phía Bắc nước ta. Các giống hồng được trồng phổ biến gồm: 
 + Hồng trứng lốc. Quả hình trứng, khi chín có màu hồng, bóng láng. Cây 
có tán lớn, năng suất cao có thể đạt 5-6 tạ/cây/năm, có khả năng chống chịu tốt với 
sâu bệnh, dễ trồng. Đây là một trong những giống hồng được ưa chuộng nhất hiện 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
14 
nay. Quả khi chín ăn rất ngọt, giòn, thích h ợp cho việc vận chuyển đi xa, thời gian thu 
hoạch sớm từ tháng 6 - 8. 
+ Hồng trứng muộn. Quả hình trứng, khi chín có màu hồng, bóng. Cây có 
tán trung bình, năng suất cao có thể đạt 3 -4 tạ/cây/năm, chống chịu tốt, quả khó 
rụng khi gió lớn, chất lượng quả không bằng hồng trứng lốc, nhưng vì chín muộn 
(thu hoạch hàng năm vào tháng 10-11) nên giá bán cao. 
+ Hồng Pome tròn . Quả tròn to, mã đẹp, năng suất tương đối cao, trung 
bình đạt 1 tạ/cây/năm. Q uả chín có mầu đỏ son, phẩm chất tốt, rất được ưa 
chuộng. Thu hoạch muộn vào tháng 9 - 10 hàng năm. 
+ Hồng chén. Cây có tán lá trung bình, cành yếu nên thư ờng phải có biện 
pháp chống đỡ khi quả lớn. Lá nhiều, thường che khuất quả, năng suất trung 
bình, quả lớn, hơi dẹt về phía cuống, phẩm chất tốt, được người tiêu dùng ưa 
chuộng. Thu hoạch muộn vào tháng 9-10 hàng năm. 
+ Hồng ăn liền. Cây có tán lá thấp bé, có thể trồng với mật độ dày. Quả 
tròn dẹt không có hạt, khi chín mầu vàng đỏ, có thể ăn ngay khi quả ở trạng thái 
cứng, thịt quả giòn, ngọt, trọng lượng trung bình 200-250g/quả. 
+ Hồng Nhật : Cây có tán lá trung bình, nhanh ra quả . Chất lượng quả 
trung bình, có nhiều nước, khó vận chuyển. Nhưng năng suất cao nên được đánh 
giá là một trong số các giống có giá trị kinh tế cao. Có thể khắc phục nhược điểm 
này bằng cách chế biến sấy khô để vận chuyển và tiêu thụ. Thu hoạch muộn vào 
tháng 10-11 hàng năm. 
Ngoài các giống kể trên, Đà Lạt còn có nhiều giống hồng khác nhưng diện 
tích không đáng kể như: hồng quế hương, hồng gạch, hồng son, hồng hoả tiễn, 
hồng giòn, hồng Lạng Sơn, hồng xà, hồng nước... 
 * Vùng Thạch Hà tỉnh Hà Tĩnh 
Huyện Thạch Hà nằm về phía tây của thị xã Hà Tĩnh, có lượng mưa bình 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
15 
quân năm là 2544mm, nhiệt độ trung bìn h năm 23,80C, nhiệt độ cao nhất tuyệt 
đối 360C, nhiệt độ thấp nhất tuyệt đối 8 0C, độ ẩm không khí trung bình năm 
83,8%. Ở đây, hồng được trồng chủ yếu tại hai xã Thạch Đài và Thạch Lĩnh, 
diện tích hồng chiếm tới 35,3% tổng diện tích cây ăn quả của hai xã. Giống được 
trồng phổ biến là hồng vuông không hạt và hồng tròn. 
+ Hồng vuông không hạt. Cây cao trung bình 9,5m, đường kính tán cây 
9,2m, thân không to lắm (đư ờng kính gốc khoảng 27cm), tán hình dù. Lá to hơi 
bầu dài 15cm, rộng 11cm, mặt trên xanh đậm và bóng, mặt dưới có màu xanh 
nhạt và có lông màu vàng mọc dày theo gân lá. Quả hình vuông có khía sâu dọc 
quả, chiều cao và đường kính quả khoảng 6,3cm, trọng lượng quả 160g, tỷ lệ 
phần ăn được 93%, tỷ lệ chất khô 15%, tỷ lệ đường 9,5%, tỷ lệ axit 0,3%. Vỏ 
quả hơi dày, bóng, dễ bóc, vỏ khi chín có màu đỏ vàng, ít xơ, thịt quả có mầu đỏ 
hồng, được nhiều người ưa thích. Năng suất trung bình có thể đạt 400 -
500kg/cây. 
+ Hồng tròn. Cây cao trung bình 10,5m, tán rộng 8,3m, hình cầu, đường 
kính gốc thân 27cm. Lá hình bầu dục, dài 14cm, rộng 10,5cm, mặt trên xanh 
bóng, mặt dưới có lông tơ màu vàng nhưng thưa hơn so với lá hồng vuông không 
hạt. Quả hình tròn, đỉnh quả tròn, vỏ dày và bóng khi chín có màu vàng, thịt quả 
có màu vàng nhạt, không có xơ, ăn ngọt. Trọng lượng trung bình quả 120g, chiều 
cao và đường kính quả khoảng 6,0cm. Tỷ lệ chất khô 18,7%, đư ờng 11%, axit 
0,2%, có 0,5 hạt/1quả. Năng suất 1 cây khoảng 250-300kg. 
* Vùng Nam Đàn- tỉnh Nghệ An 
 Huyện Nam Đàn nằm sát thành phố Vinh có lượng mưa bình quân năm là 
1.928mm. Hồng được trồng tập trung ở 2 xã Nam Xuân và Nam Anh, diện tích 
hồng chiếm tới 33,7% tổng số diện tích cây ăn quả các loại của hai xã. Có rất 
nhiều giống hồng được trồng ở vùng này như: 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
16 
+ Hồng cậy vuông . Cây cao trung bình 6,4m, tán rộng 7,5m, hình bán 
nguyệt. Lá to hơi tròn, mặt trên bóng nhẵn, mặt dưới xanh nhạt có lông tơ màu 
nâu tập trung ở gân lá. Quả hình vuông, đỉnh quả bằng hoặc hơi lõm. Khi chín vỏ 
quả màu đỏ, vỏ mỏng giòn, có ít phấn ở gần cuống quả. Tai quả nhỏ, vểnh lên, 
gốc quả lõm ít, thịt quả có màu đỏ. Chiều cao quả 3,3cm, đường kính quả 4,1cm. 
Trọng lượng quả 50g, số hạt bình quân 0,4 hạt/quả. Tỷ lệ thịt quả 71,5%. Năng 
suất trung bình một cây khoảng 80kg quả. 
+ Hồng nứa. Cây cao trung bình 8,2m tán rộn g khoảng 9m, hình cầu. Lá 
to màu xanh nhạt, đầu lá tròn. Mặt dưới lá có lông tơ màu vàng mọc theo gân lá. 
Quả hình trụ dài, đỉnh quả bằng, khi chín có màu đỏ, vỏ quả không bóng. Phần gốc 
quả có rãnh dọc. Thịt quả mầu vàng, ít xơ. Trọng lượng quả bình quân 90g. Chiều 
cao quả 5,2cm, đường kính quả 4,8cm, số hạt bình quân 1,5 hạt/quả, tỉ lệ thịt quả 
88,1%. Năng su ất trung bình một cây khoảng 100kg quả. 
+ Hồng tiên. Cây cao trung bình 6m, tán rộng 6m, hình tháp. Lá to nhẵn, 
mặt trên lá bóng hơi vàng, mặt dưới lá màu xanh trắng có lông tơ mầu vàng xung 
quanh gân lá. Quả to, đỉnh quả lõm, khi chín có màu đỏ. Vỏ quả dày, trơn, không 
có vân, có ít phấn ở đỉnh quả. Gốc và tai quả lõm sâu. Trọng l ượng quả bình 
quân 85g, quả có hình hơi tròn, chiều cao 5,0cm, đường kính 4,7cm. Bình quân 
có 0,5 hạt/quả, tỷ lệ thịt quả 89%. Năng suất trung bình một cây khoảng 65kg. 
+ Hồng tròn dài. Cây cao khoảng 7m, tán rộng 6,7m hình đống rơm. Lá 
to, đầu nhọn, mặt trên lá xanh bóng, mặt dưới có lông tơ màu vàng, mọc thưa. 
Quả mọc thành chùm từ 1-3 quả, khi chín có màu đỏ, không hạt. Quả hình tròn 
dài, chóp quả bằng, vỏ quả dày, trơn, hơi có khía, gốc quả lõm, tai quả cong lên, 
thịt quả màu đỏ. Trọng lượng quả trung bình 80g. Quả có hình hơi tròn chiều cao 
4,9 cm, đường kính 4,7 cm. Tỷ lệ thịt quả 90%, tỷ lệ đường 10,5%, tỷ lệ axit 
0,2%. Năng suất trung bình một cây khoảng 142kg. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
17 
+ Hồng gáo . Cây cao trung bình 6,2m, tán rộng 5,8 - 6,4m, lá to dài, có 
màu xanh nâu không nhẵn. Quả dạng tim, vai quả to, d ưới thắt lại, trôn quả 
nhọn, tai ôm vào quả, vỏ quả màu vàng bóng. Trọng lượng quả trung bình 63,6g, 
có khoảng 2,5 hạt/quả. 
+ Hồng chuột. Cây cao trung bình 6,0m, tán rộng 6,2-6,5m, phiến lá nhỏ 
hình bầu dục. Quả tròn dài, đáy quả thắt lại, rốn quả tròn, tai quả cong lên, vỏ 
quả màu vàng bóng. Trọng lượng quả trung bình 70,6g, có khoảng 5,1 hạt/quả. 
 * Vùng Lý Nhân tỉnh Hà Nam 
 Nằm ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, có lượng mưa trung bình năm 1751 mm, 
nhiệt độ trung bình 23,7oC, ẩm độ trung bình 85%, tổng số giờ nắng trong năm 
đạt 1437 giờ. Vùng này có hai giống hồng quý là: 
+ Hồng Nhân Hậu. Được trồng chủ yếu ở xã Hoà hậu, thân cây màu xám, 
cành bánh tẻ màu nâu, tán cây hình bán nguyệt, độ cao phân cành trên 1m. Lá 
lớn, hình bầu dục, mầu xanh đậm, mặt trên bóng láng, mặt dưới có lông tơ màu 
nâu vàng, chiều dài lá 15,8cm, chiều rộng lá 10,4 cm. Quả hình trái tim, khi chín 
có màu đỏ thắm, thu hoạch vào trung tuần tháng 8 âm lịch. Vỏ quả mỏng, thịt 
quả dẻo, ít hạt. Trọng lượng quả trung bình 150- 250g. 
+ Hồng Văn Lý: Được trồng chủ yếu ở xã Văn Lý, thân cây màu xám, 
cành bánh tẻ màu xám sáng. Tán cây thường có hình dù, độ cao phân cành 60-70 
cm. Lá lớn trung bình, hình bầu dục, mặt trên hơi ráp. Lá có chiều dài 14,4 cm, 
chiều rộng 7,5 cm. Quả hình trụ, trôn quả tròn, khi chín có màu đỏ vàng, không 
hạt. Trọng lượng quả trung bình 70-90 g. Chín vào giáp tết âm lịch. 
 * Vùng Thạch Thất tỉnh Hà Tây 
Huyện Thạch Thất nằm ở phía đông bắc tỉnh Hà Tây có nhiệt độ trung 
bình năm 23,30C, Lượng mưa trung bình năm1.554 - 1.780 mm. Vùng này chỉ 
trồng một giống hồng duy nhất có nguồn gốc từ Yên Thôn nên người ta gọi là 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
18 
hồng Yên Thôn hay hồng Thạch Thất, do đặc tính sinh trưởng khoẻ, thích nghi 
rộng, năng suất cao nên được nhiều người ưa chuộng. 
Đặc điểm: Thân cây màu xám, cành bánh tẻ màu nâu, tán cây hình tròn 
hoặc ô van, độ cao phân cành khoảng 65 cm. Lá lớn hình bầu dục, màu xanh 
đậm. Mặt trên lá bóng, phản quang, mặt dưới có lông tơ màu nâu vàng. Chiều 
dài lá 16 cm, chiều rộng lá 9,3 cm. Quả hình trụ, trôn quả hơi lồi, khi chín có 
màu đỏ vàn g, thường chín vào tháng 11 - 12, thịt quả nát, nhiều nước. Trọng 
lượng trung bình quả 150- 250g, có 2-3 hạt/quả. 
* Vùng Vĩnh Phú 
Là vùng trung du, có địa hình và khí hậu tương đối phức tạp. Vùng này có 
nhiều giống hồng quý như: 
+ Hồng Hạc Trì . Cây cao trên 9m, tán rộng trên 7m, sinh trưởng khoẻ. Lá 
hình elíp rộng, mặt trên có màu xanh hơi vàng, không bóng, mặt dưới màu xanh 
trắng, có lông màu vàng. Quả hình trụ, trôn quả hơi tù, có 4 cạnh rõ rệt. Trọng 
lượng quả bình quân 100- 150g, không hạt, khi chín vỏ quả có màu vàng đỏ, thịt 
quả màu vàng, ăn giòn, có cát, thu hoạch vào tháng 9, thuộc giống hồng ngâm. 
+ Hồng Tiến. Cây cao trên 10m, tán rộng trên 8m. Lá to hình bầu dục, mặt 
trên màu xanh đậm, không bóng, mặt dưới màu trắng xanh có nhiều lông tơ. Quả 
hình trụ vuông. Trọng lượng quả trung bình 120- 160g, không hạt hoặc có 1-2 
hạt bé dẹt. Chín vào tháng 10, khi chín quả có mầu đỏ hồng, thịt quả màu đỏ. Vỏ 
quả nhẵn, thuộc nhóm hồng dấm, nhưng quả chín trên cây ăn cũng không chát. 
+ Hồng Thạch. Cây cao trên 10 m, tán rộng trên 8m. Lá to hình bầu dục, 
mặt trên màu xanh thẫm, không bóng, mặt dưới màu trắng xanh có lông màu 
vàng. Quả hình trụ tròn, rốn quả lồi. Trọng lượng quả trung bình 150- 200g, có 
1-3 hạt. Chín vào đầu tháng 9, khi chín vỏ quả màu đỏ vàng, thịt màu đỏ hồng, 
thuộc nhóm hồng dấm. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
19 
+ Hồng ngâm quả hình trứng. Cây cao trên 9m, tán rộng trên 6m (tán 
hẹp). Lá thuôn dài, mặt trên màu xanh đậm, bóng, mặt dưới xanh trắng có lông 
thưa. Quả hình trứng, trọng lượng quả trung bình 100-150g có 1-3 hạt, hạt dài và 
dày. Chín vào tháng 9. Khi chín vỏ màu vàng nhạt, thịt quả màu vàng, thuộc 
nhóm hồng ngâm. 
+ Hồng ngâm hình quả trụ dài. Cây cao khoảng 7m, tán rộng 4m (tán hẹp). 
Lá thuôn dài, mặt trên xanh bóng, mặt dưới màu trắng, xanh có lông tơ thưa màu 
vàng. Quả hình trụ dài, trọng lượng quả trung bình 100-150g, chín vào tháng 9. 
Khi chín quả có màu vàng không đều, phía tai quả xanh, phía trôn quả màu vàng, 
quả có thể không hạt hoặc có 1-2 hạt. 
* Vùng Cao Lộc tỉnh Lạng Sơn 
Huyện Cao Lộc nằm ở phía Bắc tỉnh Lạng Sơn. Nhiệt độ trung bình 
năm 21,2 0C. Biên độ nhiệt bình quân ngày đêm là: 7,8 0 C. Mùa đông nhiệt độ 
trung bình xuống thấp 12-15 0C, có năm xuống dưới 00C nhưng chỉ trong thời 
gian ngắn. Tổng tích ôn năm 7738 0 C. 
Lượng mưa trung bình hàng năm 1.392mm, nhưng phân bố không đều, 
mùa mưa thường bắt đầu từ tháng 5, kết thúc vào tháng 9 và chiếm khoảng 75% 
tổng lượng mưa cả năm. 
Ẩm độ không khí bình quân năm là 82%, nhưng các tháng mùa khô (từ 
tháng 10 năm trước đến tháng 1 năm sau) có lúc ẩm độ không khí xuống đến 
50%. Lượng bốc hơi bình quân năm 1070,8mm. 
Ở vùng này có giống hồng ngâm không hạt Bảo Lâm nổi tiếng đã được 
trồng từ rất lâu. Cây cao, to. Lá bé hơn các giống khác. Quả hình tròn dài trọng 
lượng trung bình có thể đạt 60 -70g. Khi chín vỏ quả màu vàng đất, thường chín 
vào rằm tháng 8 âm lịch, thuộc giống hồng ngâm, ăn giòn, ngọt, thơm. 
1.2.3. Những nghiên cứu về đặc điểm sinh vật học của cây hồng 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
20 
1.2.3.1. Rễ và hệ rễ 
Rễ hồng thuộc dạng rễ cọc. Rễ hồng yếu, thường khó phục hồi nếu bị sát 
thương cơ giới . Phạm Văn Côn [7]. Nhiệt độ thích hợp cho bộ rễ hoạt động là 
12- 250C. Trong mùa lá rụng, rễ hồng hầu như không hoạt động, hấp thu dinh 
dưỡng rất chậm, từ vụ xuân rễ hồng mới bắt đầu hoạt động. Hoạt động mạnh 
nhất vào 2 thời kỳ cuối tháng 6-7 và giữa tháng 9 đầu tháng 10. Rễ hồng chứa 
nhiều tanin, cường độ hô hấp yếu, nhu cầu về hàm lượng ôxy trong đất thấp, vì 
vậy cây hồng có thể chịu úng tốt. Phạm Văn Côn [6], [7]; Vũ Công Hậu [14], 
[15]; Trần Thế Tục [37], [49]; Trần Như Ý và cộng sự [51]. 
Sự phân bố của rễ hồng theo chiều sâu, thay đổi phụ thuộc vào loại đất và 
giống. Kết quả nghiên cứu của Phạm Văn Côn tại trường Đại học Nông nghiệp I 
cho thấy giống hồng Thạch Thất có rễ tập trung ở tầng 20 - 30cm, giống hồng 
Hạc Trì có rễ tập trung ở tầng 30 - 40 cm. Việc xác định được tầng rễ tập trung 
là yếu tố quan trọng để quyết định biện pháp bón phân hợp lý thúc đẩy sinh 
trưởng, phát triển của cây. Phạm Văn Côn [6], [7]; Vũ Công Hậu [14], [15]; Trần 
Thế Tục [37], [39]. 
1.2.3.2. Thân, cành 
Hồng là cây thân gỗ, sinh trưởng nhiều năm, tán cây có dạng hình tròn 
mâm xôi hoặc hình tháp, tốc độ sinh trưởng chậm, thông thường cây hồng 30 
tuổi đường kính thân chỉ đạt 25- 30cm, chiều cao cây chỉ đạt 5 - 6m. Trần Như Ý 
và cộng sự [50], [51]. 
 Hồng là cây thay lá hàng năm về mùa đông, có thời gian ngủ nghỉ rõ rệt. 
Trong các loại cây thay lá, hồng ưa nhiệt độ tương đối cao, vì vậy rụng lá sớm và 
nảy mầm muộn. Ở miền Bắc hồng thường rụng lá vào cuối tháng 10, đến giữa 
hoặc cuối tháng 2 mới ra lộc, thời gian ngủ nghỉ khoảng 2-3 tháng. Vũ Công Hậu 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
21 
[13], [14], [15]. 
 Thời gian ra lộc của hồng phụ thuộc vào nhiệt độ. Nơi nào, năm nào có 
nhiệt độ cao hồng sẽ ra lộc sớm hơn, tập trung hơn và ngược lại. Trong một năm 
hồng ra 3 - 4 đợt lộc tuỳ thuộc vào tuổi và khả năng sinh trưởng của cây. Cây già 
chỉ ra một đợt lộc chủ yếu là lộc xuân, cây non một năm có thể ra 3 - 4 đợt lộc. 
Nhưng các đợt lộc thứ 3, thứ 4 thường yếu biểu hiện ở cành ngắn, số lượng ít. 
Phạm Văn Côn [7]; Vũ Công Hậu [14], [15]; Trần Như Ý và cộng sự (2000) 
[51]. Cây hồng có các đợt cành chính sau: 
- Cành xuân. Nảy đồng loạt vào trung tuần tháng 2 đến tháng 3, trên cành 
lúc này có cả mầm hoa và mầm dinh dưỡng. 
- Cành hè. Nảy vào tháng 6, tháng 7. 
- Cành thu. Nảy vào tháng 8, tháng 9. Đây là đợt cành mẹ của cành mang 
quả năm sau vì vậy trong sản xuất cần chú ý chăm sóc và bồi dưỡng. 
Đối với những cây đã ra hoa kết quả thì trong đợt cành xuân thường có 3 
loại cành: cành sinh trưởng, cành mang hoa đực và cành mang hoa cái. Phạm 
Văn Côn [5], [6], [7]. 
+ Cành sinh trưởng. Là những cành không mang hoa, không có quả, chỉ có 
lá làm nhiệm vụ quang hợp và tích luỹ dinh dưỡng nuôi quả. 
+ Cành mang hoa đực. Loại cành này thường nhỏ, mọc từ gốc cành năm 
trước, sinh trưởng yếu nên cành ngắn, cành mang hoa đực chủ yếu làm nhiệm vụ 
cung cấp phấn cho hoa cái nhờ côn trùng. 
+ Cành mang hoa cái hoặc hoa lưỡng tính. Là những cành mang quả, phần 
lớn là những cành ở phần trên gần ngọn của cành sinh trưởng năm trước chưa ra 
quả hoặc mọc từ chồi nách thứ 1-2 của cành mẹ. 
1.2.3.3. Lá 
Lá hồng thuộc loại lá nguyên, to bản, có hình bầu dục hoặc ô van. Lá xuất 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
22 
hiện vào mùa xuân, sau khoảng một tháng thì phát triển đầy đủ và bước vào thời 
kỳ hoạt động mạnh, màu chuyển dần từ xanh lục sang lục đậm hoặc xanh nhạt 
tuỳ giống, một số giống mặt dưới có nhiều lông tơ màu vàng xanh. Cuối tháng 
10 lá bắt đầu chuyển sang màu vàng sau chuyển sang màu đỏ và rụng, từ tháng 
12 năm trước đến tháng 1 năm sau trên cây hoàn toàn không có lá. Trần Như Ý 
và các cộng sự [50], [51]. 
1.2.3.4. Hoa 
Khoảng 30-40 ngày sau khi ra lộc thì hoa bắt đầu nhú, thông thường hoa 
ở nách lá thứ 3-8 tính từ chân cành quả. Vì lộc nảy vào giữa tháng 2 nên hoa sẽ 
xuất hiện vào khoảng cuối tháng 3, thời kỳ ra hoa kéo dài 20- 25 ngày. Hoa của 
cây hồng được chia làm 3 loại: 
- Hoa cái. Nhị đực thoái hoá hoặc không có hạt phấn, nhụy cái rất phát 
triển, hoa cái thường mọc ở nách lá thứ 3 - 8 tính từ chân cành quả lên ngọn. 
Phạm Văn Côn [7]; Vũ Công Hậu [15]. 
- Hoa lưỡng tính. Tồn tại cả nhị đực và nhuỵ cái trên cùng một hoa, loại 
hoa này có thể tự thụ phấn cùng hoa. 
- Hoa đực. Thường nhỏ chỉ bằng 1/3 hoa cái và mọc thành chùm ở nách lá, 
nhuỵ cái thoái hoá. Hoa đực và hoa cái có thể tồn tại trên cùng một cây, nhưng tỷ 
lệ không ổn định. Nếu cây còn khoẻ dinh dưỡng đầy đủ thì hoa cái thường có 
nhiều hơn, ngược lại khi cây già dinh dưỡng kém hoa đực sẽ ra nhiều hơn. Phạm 
Văn Côn [5], [6], [7]; Vũ Công Hậu [13], [14], [15]; Trần Như Ý và các cộng sự 
[50], [51]. 
Có tác giả khi nghiên cứu về hoa của cây hồng cho rằng: Có những giống 
không cần thụ phấn vẫn có thể đậu quả được (parthenocarpy), quả hoàn toàn 
không hạt và kích thước khá đồng đều như: Hồng Bảo Lâm (Lạng Sơn), hồng 
Hạc Trì (Phú Thọ). Nhưng cũng có những giống để đạt được năng suất cao nhất 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
23 
thiết phải được thụ phấn, nếu không được thụ phấn hoặc thụ phấn không tốt thì 
quả nhỏ, không có hạt hoặc có 1-2 hạt như hồng Thạch Thất. Phạm Văn Côn [5], 
[6], [7]; Vũ Công Hậu [13], [14], [15]; Trần Như Ý và cộng sự [50], [51]. 
1.2.3.5. Quả 
Sau trồng được khoảng 3 - 5 năm (đối với cây trồng từ giâm rễ) và 2-3 
năm (đối với cây trồng từ cây ghép) hồng bắt đầu bói quả và thời gian cho quả 
rất dài. Tỷ lệ đậu quả của hồng tương đối cao vì hoa ra đều và tương đối tập 
trung nên ít bị phụ thuộc vào thời gian rét dài hay ngắn. Hoa to nên dễ dàng được 
thụ phấn nhờ ong, bướm, ruồi. Hoa nở vào thời gian tương đối muộn, lúc thời 
tiết đã ấm áp (ở miền Bắc vào tháng 3-4) nên dễ đậu quả. Phạm Văn Côn [5], 
[6]; Vũ Công Hậu [13], [14], [15]; Trần Như Ý và cộng sự [50], [51]. 
Hồng thường có hiện tượng rụng quả sinh lý khá nhiều trong năm, nhưng 
tập trung chủ yếu vào hai đợt chính: Đợt 1 vào tháng 4 - 5 khi quả to bằng đầu 
ngón tay, đợt 2 vào tháng 7 -8, lần này tuy quả rụng ít hơn đợt 1 nhưng vẫn ảnh 
hưởng đáng kể tới năng suất vì quả đã lớn. Ngoài ra quả hồng còn rụng rải rác 
cho đến trước thu hoạch do các nguyên nhân khác như sâu bệnh, gió bão, thiếu 
dinh dưỡng...Trong các nguyên nhân gây rụng quả thì rụng quả sinh lý là nguyên 
nhân chủ yếu. Phạm Văn Côn [5], [6]; Vũ Công Hậu [13], [14], [15]; Lưu vinh 
Quang [24]. 
Hồng là cây phân tính nhưng hoa cái có thể tạo quả không hạt khi không 
có cây thụ phấn. Tuy nhiên, quả được hình thành không qua quá trình thụ phấn, 
thụ tinh có xu hướng nhỏ bé hơn. Huxley (1992) [60 ]. Sự tích luỹ dinh dưỡng 
vào quả của các giống hồng phụ thuộc vào thời vụ chín và điều kiện trồng trọt 
Harima và cộng sự (2001) [58]. 
Khả năng mang quả không hạt là một nhân tố quan trọng để đánh giá chất 
lượng quả và ổn định sản lượng quả. Yenemori K.A., Sugiura A., Yamada M 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
24 
(2000) [78]. Rụng quả sớm có liên quan đến hai nhân tố, khả năng mang quả 
không hạt và khả năng sinh hạt. Kajiura M (1914) [61]. Giống có khả năng mang 
quả không hạt cao hơn thì rụng quả ít hơn. Một số giống được thụ phấn đầy đủ, 
số hạt được hình thành nhiều cũng rụng quả sinh lý ít. Yenemori K.A., Sugiura 
A.,Yamada M.(2000) [76]. 
Kết quả điều tra của một số chuyên gia Nhật Bản cho thấy, các giống hồng 
chính ở Nhật Bản đều có khả năng mang quả không hạt, tuy nhiên khả năng này 
thấp hay cao tuỳ thuộc vào giống. Những giống có khả năng mang quả không hạt 
cao có tỷ lệ rụng qủa sinh lý ít ở thời kỳ sớm ( Bảng 1.4). 
 Bảng 1.4. Đặc điểm của các giống hồng chính ở Nhật Bản 
Giống Khả năng mang quả không hạt 
Khả năng sinh 
hạt 
Rụng quả sinh lý 
ở thời kỳ sớm 
Nishimurawase Trung bình Cao ít 
Izu Thấp Thấp nhiều 
Saijou Trung bình Trung bình ít 
Hiratanenashi Cao Hiếm ít 
Jirox Trung bình Trung bình ít 
Fuyuu Thấp Cao ít 
Atago Cao Trung bình ít 
 (Nguồn: Konishi và cộng sự (1994) [62]) 
1.2.4. Những nghiên cứu về điều kiện ngoại cảnh của cây hồng 
 Điều kiện ngoại cảnh có ảnh hưởng quan trọng đến thời gian ra lộc, sinh 
trưởng lộc cũng như các quá trình sinh trưởng, phát triển của cây (ra hoa, thụ phấn, 
thụ tinh,…). 
Theo Harima S. và các cộng sự (2001) [58]: Sự tích luỹ dinh dưỡng vào 
quả của các giống hồng phụ thuộc vào thời vụ chín và điều kiện trồng trọt. Như 
giống hồng “ton wase” là một giống hồng chát, chín sớm của Nhật Bản, khi được 
trồng trong nhà kính (green house) sẽ chín sớm hơn so với trồng ngoài đồng 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
25 
khoảng một tháng rưỡi. 
1.2.4.1. Nhiệt độ 
Nhiệt độ là một trong những nhân tố khí hậu chính ảnh hưởng đến cây 
trồng và là nhân tố không điều khiển được vì vậy nhiệt độ có tính quyết định đến 
vùng phân bố và ảnh hưởng đến năng suất của cây hồng. Phạm Văn Côn [8]. 
Cây hồng ưa khí hậu ôn đới, á nhiệt đới. Nhiệt độ là yếu tố ảnh hưởng 
quyết định đến quá trình sinh trưởng, phát triển của cây. Trong thời kỳ sinh 
trưởng cây hồng cần nhiệt độ cao từ 20 - 30oC, nhiệt độ tối th ích là 22 -26oC. 
Trong thời kỳ phân hoá m ầm hoa cây hồng cần nhiệt độ thấp, khoảng 10oC. 
Phạm Văn Côn [7], [8]; Vũ Công Hậu [14], [15]; Trần Thế Tục (1999) [39]. 
Theo Voronxov và cộng sự (1982) [48] thì cây hồng sinh trưởng, phát 
triển và nảy lộc ổn định trong điều kiện nhiệt độ lớn hơn 100C, nhiệt độ ra nụ tốt 
nhất là trên 160C, nhiệt độ cho cành sinh trưởng tôt nhất là 17-190C, nhiệt độ nở 
hoa tốt nhất là 20-220C. 
Theo nghiên cứu của Yosimura, trong thời kỳ chuẩn bị phân hoá mầm hoa 
cây hồng cần tổng thời gian có nhiệt độ 8 - 11oC là 886 giờ. Vì hồng là cây rụng 
lá định kỳ nên nó cần có một thời gian ngủ nghỉ đi đôi với nhiệt độ thấp nhất 
định. Nếu nhiệt độ thấp tuyệt đối trong mùa đông không đạt mức nhất định thì 
cây hồng không có thời gian nghỉ đông và không thể ra hoa được. Theo kinh 
nghiệm, năm nào mùa đông lạnh nhiều thì hồng ra n hiều hoa. Phạm Văn Côn 
(2002) [7]; Vũ Công Hậu [13], [14], [15], Trần Thế Tục (1999) [39]. 
Nhiệt độ là yếu tố ảnh hưởng nhiều đến sinh trưởng và phát triển của cây 
hồng. Các thời kỳ sinh trưởng khác nhau của cây hồng cũng có những yêu cầu về 
nhiệt độ khác nhau. 
Theo các tác giả H ong S. K., và cộng sự (1980) [59 ]; Leng P. và cộng sự 
(1993) [68] Cây hồng có thể chịu được nhiệt độ thấp vào mùa đông, nhưng chồi 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
26 
non và mầm hoa thì rất mẫn cảm với nhiệt độ, nhiệt độ thấp vào thời kỳ nảy lộc 
và phân hoá mầm hoa sẽ ảnh hưởng nhiều đến năng suất quả thu hoạch. Chồi 
hoa ngừng phân hoá khi lá rụng vào mùa đông và phát triển trở lại vào mùa 
xuân khi nhiệt độ tăng và ấm dần lên. Harima và cộng sự [58]. 
1.2.4.2. Mưa và ẩm độ 
Nước là thành phần quan trọng của cây, nó vừa tham gia vào cấu trúc tế 
bào vừa là môi trường cho các biến đổi sinh hoá cũng như các hoạt động sinh lý 
trong cây vì vậy nước có tính quyết định đến quá trình sinh trưởng, phát triển của 
cây. Chính vì vậy mà nước được xem là yếu tố sinh thái quan trọng nhất quyết 
định đến năng suất cây trồng. 
Cây hồng có khả năng chịu hạn tốt hơn nhiều loại cây ăn quả khác như 
vải, nhãn, cam, quýt,… Người Trung Quốc và Nhật Bản đánh giá rất cao về khả 
năng chịu hạn của cây hồng, trong thực tế cây hồng có thể trồng và cho năng 
suất ở những vùng khô hạn có lượng mưa bình quân năm xấp xỉ 500mm, mạch 
nước ngầm ở sâu dưới 10m, năng suất có thể không cao, nhưng chất lượng quả 
tốt. Phạm Văn Côn (2002) [7]; Vũ Công Hậu [13], [14], [15]; Trần Thế Tục 
(1999) [39], Konishi K. và các cộng sự (1994) [62]. 
Ở vùng Trung Á: Azecbaizan, Gruzia, Uzơbekistan (thuộc Liên Xô cũ) 
cây hồng cũng được trồng nhiều ở vùng đất xấu, khô hạn với lượng mưa bình 
quân năm 300 - 400mm. Ở huyện Lập Thạch (Vĩnh Phúc), Phú Hộ (Phú Thọ) 
qua quan sát cho thấy trên đất đồi dốc vào lúc trời n ắng hạn cây hồng vẫn 
không bị héo lá như cây vải. Phạm Văn Côn (2004) [8]. 
Các nghiên cứu cũng cho thấy khả năng chịu ẩm, chịu úng của cây hồng 
tương đối tốt, lượng mưa hàng năm thích hợp là 1200 - 2100mm, với lượng mưa 
cao như vậy nhưng cây hồng cũng ít bị các bệnh nấm phá hoại nặng nên có thể 
coi cây hồng như một loại cây á nhiệt đới ẩm. Phạm Văn Côn [7]; Vũ Công Hậu 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
27 
[15]; Yung Kyung Choi và Jung Hokim (1972) [52]. 
Đặc tính chịu hạn tốt và chịu úng khá của cây hồng là một trong những 
đặc tính quan trọng lý giải vì sao hồng có thể thích ứng với nhiều loại vùng sinh 
thái khác nhau. 
1.2.4.3. Ánh sáng 
Nhờ quá trình quang hợp của cây trồng mà năng lượng ánh sáng mặt trời 
được biến đổi thành năng lượng hoá học dưới dạng các hợp chất hữu cơ. Nhưng 
các loài cây khác nhau thì yêu cầu về cường độ chiếu sáng và độ dài chiếu sáng 
trong ngày cũng khác nhau. Phạm Văn Côn [7], [8]. 
Hồng là cây ưa ánh sáng, lá dày to, mặt trên xanh thẫm ( nhiều diệp lục 
tố), mặt dưới nhạt, bộ lá phủ kín tán cây. Konishi và cộng sự (1994) [62]. Vì vậy, 
cần chú ý các biện pháp canh tác để làm tăng khả năng quang hợp của cây như: 
bố trí mật độ hợp lý, tạo tán và đốn tỉa cành thường xuyên để tạo độ thông 
thoáng cho tán cây. Phạm Văn Côn [6], [7], [8]; Vũ Công Hậu [13], [14], [15]. 
1.2.4.4. Đất 
Đất có chức năng quan trong là làm giá đỡ và cung cấp nước, dinh dưỡng 
cho cây trồng. Hiện nay việc cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng có thể được 
thực hiện thông qua việc bón phân. Nhưng nước thì chủ yếu phụ thuộc vào khả 
năng giữ nước của đất vì vậy đất có khả năng giữ nước tốt sẽ thích hợp với việc 
trồng cây ăn quả. Phạm Văn Côn [6], [7], [8]. 
Hồng có tính thích ứng rộng, có thể trồng trên nhiều loại đất. Bộ rễ hồng 
có khả năng đâm sâu, nên muốn đạt năng suất cao cần trồng hồng trên đất có 
mực nước ngầm sâu dưới 1m. Cây hồng không ưa đất quá chua, ẩm và thoát 
nước kém, vị trí đất trồng đòi hỏi phải kín gió. Phạm Văn Côn [7], [8]; Đào Thế 
Tuấn [36]; Đào Thanh Vân, Ngô Xuân Bình [44]; Trần Như Ý và cộng sự [51]. 
Hai tác giả Yung và Jung (1972) [52] tiến hành đo độ đường của quả 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
28 
hồng trên các loại đất khác nhau cho thấy đất dốc, đất bằng thoát nước, đất 
bằng có mực nước ngầm cao cho tỷ lệ đường tương ứng: 14,54%; 13,77% ; 
12,5%. Vùng đất có tầng đất nông hoặc nơi có mực nước ngầm cao thì một hai 
năm đầu hồng có thể sinh trưởng phát triển bình thường, nhưng đến năm thứ 3, 
thứ 4 sinh trưởng, phát triển của cây bị ảnh hưởng: Cây thấp bé, rễ bị thối, bệnh 
phá hại mạnh và số cây chết tăng dần. Cây hồng có ưu điểm nổi bật là khả năng 
huy động dinh dưỡng trong đ ất rất cao, vì vậy trong điều kiện đất nghèo kiệt 
dinh dưỡng hồng vẫn có khả năng sinh trưởng mạnh hơn các cây trồng khác. 
Phạm Văn Côn [6], [7]; Vũ Công Hậu[14], [15]; Trần Thế tục ( 1999) [39]. 
Theo Vũ Công Hậu [15] thì tính chất đất có ảnh hưởng rất lớn đến sinh 
trưởng phát triển của cây hồng: 
- Đất phù sa có cát. Tỷ lệ đường trong quả cao, cất giữ được lâu, nhưng 
thân cành mọc yếu, dễ bị rụng quả. 
- Đất phù sa mầu mỡ. Cây mọc khoẻ cho năng suất cao, dù bón ít phân. 
- Đất sét. Ảnh hưởng tồn dư của phân bón lớn và nếu thoát nước kém thì 
bộ rễ kém phát triển. 
 - Độ pH thích hợp cho cây hồng là 5 - 5,5. 
Từ các đặc điểm sinh học, sinh thái của cây hồng so sánh với điều kiện 
thực tế về đất đai, địa hình và khí hậu thời tiết vùng Cao Lộc cho thấy vùng Cao 
Lộc Lạng Sơn tương đối thuận lợi cho cây hồng sinh trưởng phát triển. 
1.2.5. Những nghiên cứu về nhu cầu dinh dưỡng và bón phân cho hồng 
Theo Phạm Văn Côn (2004) [8]; Nguyễn Ngọc Nông (1997) [22] cây ăn 
quả nói riêng, cây trồng nói chung trong quá trình sinh trưởng phát triển cần hút 
một lượng chất dinh dưỡng nhất định để nuôi cây. Thiếu dinh dưỡng hoặc các 
chất dinh dưỡng không cân đối sẽ làm cho cây sinh trưởng kém làm giảm năng 
suất và phẩm chất nông sản. Nhưng thừa dinh dưỡng sẽ làm cho cây sinh trưởng 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
29 
quá mạnh cũng làm giảm năng suất, phẩm chất nông sản và gây ô nhiễm môi 
trường đất, nước, không khí. 
Theo tài liệu nghiên cứu của một số tác giả thì cây hồng cần tới 14 nguyên 
tố dinh dưỡng, bao gồm các nguyên tố khoáng và dinh dưỡng đa lượng N, P, K; 
các nguyên tố khoáng trung lượng Mg, S, Ca; các nguyên tố khoáng vi lượng 
Zn, Bo... Thiếu một trong những nguyên tố đó, cây hồng sẽ có các biểu hiện như: 
- Thiếu đạm (N): Lá vàng, có nhiều chấm đỏ, cành ngắn, quả bị chín ép. 
- Thiếu phốt pho (P): Lá có màu lá xanh tối, cuốn lại, hàm lượng đường 
trong quả giảm. 
- Thiếu kali (K) lá cuốn lại, nhăn nheo, mép khô, quả dễ bị rụng. 
- Thiếu magie (Mg) lá có các đám màu nâu nhạt, rìa lá bị khô. 
- Thiếu lưu huỳnh (S) sẽ kích thích sự rụng quả, rụng lá. 
- Thiếu canxi (Ca) quả dễ bị rụng. 
- Thiếu kẽm (Zn) lá có màu nâu nhạt, gợn sóng và nhăn nheo, đầu các gân 
nhỏ có hình hoa hồng, lá bé. Kẽm rất cần cho sự tổng hợp Triptophan (tiền thân 
của auxin) vì vậy thiếu kẽm sẽ dẫn tới thiếu auxin và làm tăng sự rụng quả. 
- Thiếu Bo. Bo có vai trò quan trọng trong việc hình thành màng sinh học, 
đặc biệt khi kết hợp với Ca sẽ làm ổn định thành tế bào vì vậy thiếu Bo quả sẽ bị 
xốp, ảnh hưởng tới sự nảy mầm của hạt phấn và làm tăng sự rụng quả. 
Theo Trần Thế Tục [37], [39] cây hồng lá rộng, tiềm năng năng suất cao, 
hàng năm có rụng lá sinh lý nên để đạt năng suất cao phải cần một lượng dinh 
dưỡng lớn để tái tạo lại bộ lá mới, vì vậy việc bón phân cho cây là cần thiết 
lượng bón phải cân đối N,P,K, bón đúng lúc, đúng cách theo nhu cầu của cây. 
Theo Vũ Công Hậu [15]; Trần Như Ý và cộng sự [50], [51] lượng phân 
cần bón cho 1 ha hồng/năm theo các cấp tuổi như sau: 
- Dưới 5 tuổi bón với lượng: 35 kg N + 20 kg P2O5 + 30 kg K2O. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
30 
- Từ 6 - 10 tuổi, năng suất đạt 6 - 10 tấn quả/ha/năm cần bón với lượng: 
100 kgN + 60kg P2O5 + 80 K2O. 
- Từ 10 - 20 tuổi, năng suất đạt 10-20 tấn quả /ha/năm cần bón với lượng: 
200 kg N + 120 kg P 2 O 5 + 160 kg K 2 O 
- Trên 20 tuổi, năng suất đạt khoảng trên 20 tấn quả/ha/năm cần bón với 
lượng: 265 kg N + 160 kg P2O5 + 210 kg K2O. 
Bón vào giai đoạn cây ngủ nghỉ (tháng 12, tháng 01) là chủ yếu, bón khoảng 
3/4 lượng phân bón các loại, còn lại 1/3 lượng phân bón các loại được sử dụng để 
bón vào giữa mùa hè ( tháng 7) để chống rụng quả trước thu hoạch và phát triển 
cành thu. Theo kinh nghiệm của Nhật Bản, lượng phân bón cho hồng ở các cấp 
tuổi như sau (bảng 1.5). 
Bảng 1.5. Lượng phân bón cho hồng ở các cấp tuổi ( kg/cây) 
Loại phân 1 tuổi 3 tuổi 5 tuổi 10 tuổi 15 tuổi 20 tuổi 
Phân chuồng 10,00 15,00 20,00 25,00 30,00 40,00 
Đạm sunfat 0,50 0,60 0,75 2,00 2,50 3,00 
Lân super 0,25 0,25 0,25 1,00 1,50 1,00 
Kali clorua 0,10 0,10 0,20 0,50 0,80 1,00 
(Nguồn: Phạm Văn Côn (2002) [7]) 
Theo các tác giả trường Đại học Nông nghiệp I Hà Nội hàng năm nên bón 
phân lót cho hồng vào tháng 1 trước khi nảy lộc. Đối với những cây đã ra quả ổn 
định từ năm thứ 8 trở đi cần bón cho mỗi cây là 30- 50 kg phân chuồng hoai trộn 
với 0,3 - 0,5 kgN + 0,3kg P2O5 + 0,5kg K2O. 
Bón chiếu theo mép tán cây, đào 3 hố đều nhau với kích thước sâu và rộng 
50 cm, sau đó bón phân lấp đất hơi cao hơn mặt đất. Năm sau đào hố bón phân 
xen kẽ với hố năm trước. Làm như vậy vừa có tác dụng cung cấp chất dinh 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
31 
dưỡng cho cây, vừa có tác dụng cải tạo đất trong vườn cây. Phạm Văn Côn [7]. 
1.2.6. Những nghiên cứu về sâu bệnh hại hồng 
 Cây hồng cũng như nhiều cây ăn quả khác có rất nhiều loại sâu bệnh hại, 
các loài sâu bệnh hại ảnh hưởng rất lớn đến sinh trưởng phát triển của cây, đến 
năng suất và chất lượng quả. Các kết quả nghiên cứu cho thấy trên thế giới có 39 
loài sâu bệnh hại hồng, trong đó có 36 loài hại trên hồng trồng, 3 loài hại trên 
hồng dại. Thành phần sâu bệnh hại hồng ở mỗi nước cũng khác nhau như: Nhật 
Bản 32 loài, Trung Quốc 19 loài, Italia 27 loài, Brazin 21 loài, Hàn Quốc 15 loài, 
Israen 11 loài, Mỹ 9 loài, Newzeland 6 loài... Chu Vĩnh Đông, Lộ Hoa Trung 
(2000) [12]; Crop protection [55]; Website [78]. 
 - Theo Phạm Văn Côn [6], [7] thì trên hồng trồng cần ch ú ý các loài sâu 
bệnh hại như rệp sáp, sâu đo, sâu đục quả, bệnh đốm đa giác, bệnh đốm tròn và 
bệnh lở cổ rễ ở giai đoạn vườn ươm. 
 - Vũ Công Hậu [13], [14], [15] thì trên hồng cần ch ú ý các loại s âu bệnh 
hại như bệnh giác ban, bệnh vết tròn và sâu đục quả. 
 - Trần Thế Tục [37], [39] thì trên hồng cần ch ú ý các loại sâu bệnh hại 
như bệnh giác ban, bệnh đốm tròn, sâu đục quả và rệp sáp. 
- Theo Nguyễn Văn Tuất và cộng sự (2006) [40 ] thì trên hồng cần chú ý 
các loại sâu bệnh hại như sâu ăn lá, bọ cánh cứng ăn lá, rệp sáp bột, ruồi đục quả, 
bệnh giác ban và bệnh đốm tròn. 
 - Theo Lê Văn Thuyết và cộng sự (2002) [41], thì trên hồng cần chú ý các 
loại sâu bệnh như bệnh giác ban, bệnh đốm tròn, sâu đục quả, và sâu ăn lá. 
- Theo Nguyễn Công Thuật và cộng sự (1999) [47] thì trên cây hồng ở 
Việt nam có 9 loài côn trùng gây hại là bọ ăn lá (Adoretus tenuimaculatus 
waterhouse); bọ ăn lá (Colasposoma dauricum auripenne Motschulsky); Ve sầu 
bướm ( Lawana imitata melichar ); ve sầu bướm (Salurnis marginellus Guerin) 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
32 
bọ xít xanh, bọ cánh cứng, câu cấu xanh nhỏ, ve sầu đen chấm trắng và sâu đục 
cành. 
 - Theo Đặng Vũ Thị Thanh, Hà Minh Trung (1999) [47] thì trên hồng ở Việt 
Nam có 7 loài bệnh gây hại là đốm lá, thán thư, chảy gôm, đốm nâu, giác ban, 
đốm tảo và thối cuống quả. 
 - Theo Lee. Q.H.,(2000) [67] thì bệnh thán thư do nấm Colletotrichum 
gloeosporioides Penz gây ra, ở tất cả các nước trồng hồng và hầu hết các giống 
hồng trên thế giới, bệnh hại trên các bộ phận của cây như l á, quả, chồi và cành 
non, tại Triều Tiên bệnh gây hại từ tháng 4 -10 nhưng hại nặng vào tháng 6-7. 
 - Theo Kwon J.H., Kang S.W., Park C.S., Kim H.K (1998) [64], [65] thì 
bệnh đốm lá do nấm Mycosphaerella nawae gây ra, tai Hàn Quốc bệnh gây hại 
từ tháng 6-9, lá bị bệnh xuất hiện các vết đốm màu nâu, khi bị nặng các vết bệnh 
sẽ liên kết lại làm mất khả năng quang hợp và cung cấp dinh dưỡng nuôi quả, 
gây rụng lá, rụng quả. 
 - Theo Kwon J.H., Kang S.W., Park C.S., Kim H.K (1999) [66] thì bệnh 
thối tai quả do nấm botrytis cinerea gây ra, vết bệnh đầu tiên xuất hiện trên tai 
quả là các đốm màu nâu sau phát triển dần lên cuống quả và phần thịt quả phía 
trên rồi gây rụng quả. 
 - Bệnh cháy lá do nấm Pestalotiopsis theae gây ra, bệnh tạo ra các đốm có 
kích thước1-3cm không định hình trên lá, các vết bệnh la n rộng và liên kết với 
nhau làm cho lá khô và rụng, bệnh gây hại trên cây từ tháng 6 -10, vườn cây già 
bị nặng hơn các vườn còn non. Chang và cộng sự [53], [54]. 
1.2.7. Những nghiên cứu về các chất điều hoà sinh trưởng sử dụng trong 
nghiên cứu của đề tài 
1.2.7.1. Vai trò sinh lý của chất điều hoà sinh trưởng 
Chất điều hoà sinh trưởng còn được gọi là phytohocmon, có tác dụng tham 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
33 
gia điều chỉnh các quá trình sinh trưởng phát triển của cây trồng. Các 
phytohocmon là các chất hữu cơ được tổng hợp với lượng nhỏ trong các bộ phận 
nhất định của cây và vận chuyển đến các bộ phận khác để điều hoà các hoạt động 
sinh lý, các quá trình sinh trưởng phát triển và duy trì mối quan hệ hài hoà giữa 
các cơ quan, bộ phận của cây thành một thể thống nhất. 
Do chức năng điều chỉnh sự hình thành các cơ quan sinh sản và cơ quan 
dự trữ nên phytohocmon có vai trò quyết định đến quá trình hình thành năng suất 
thu hoạch của cây trồng. Bằng việc xử lý bổ xung các chất điều hoà sinh trưởng 
ngoại sinh cho từng đối tượng cây trồng cụ thể mà con người có thể điều chỉnh 
năng suất, chất lượng nông sản phẩm theo hướng có lợi nhất cho mục đích sử 
dụng của con người. Phạm Văn Côn (2004) [8]; Hoàng Minh Tấn, NguyÔn 
Quang Thạch ( 1993) [26]; Lê Văn Tri [34], [35], [36]. 
1.2.7.2. Phân loại các chất điều hoà sinh trưởng 
Việc phân loại và tìm hiểu tính năng tác dụng của các chất điều hoà sinh 
trưởng đối với cây trồng nhằm ứng dụng các chất này trong sản xuất hiệu quả 
hơn. Việc phân loại có thể dựa trên các tiêu chí khác nhau như nguồn gốc, hoạt 
tính sinh lý. 
- Căn cứ nguồn gốc các chất điều hoà sinh trưởng được chia làm 2 nhóm 
là các phytohocmon và các chất điều hoà sinh trưởng tổng hợp. 
- Căn cứ vào hoạt tính sinh lý các chất điều hoà sinh trưởng được chia ra 
làm 2 nhóm đối kháng nhau về mặt sinh lý là: 
+ Các chất kích thích sinh trưởng. Gồm các nhóm chất Auxin, Giberellin và 
Xytokynin được sản sinh ra từ các cơ quan non như lá non, chồi non, quả non…. 
Ở nồng độ thấp chúng kích thích quá trình sinh trưởng của cây và chi phối sự 
sinh trưởng hình thành các cơ quan dinh dưỡng. 
+ Các chất ức chế sinh trưởng gồm Axit abxixic, Erthylen, các phenol,… 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
34 
Được hình thành và tích luỹ chủ yếu trong các cơ quan trưởng thành, cơ quan 
sinh sản, cơ quan dự trữ. Chúng ức chế quá trình sinh trưởng, thúc đẩy cây 
chuyển hoá nhanh vào giai đoạn hình thành cơ quan sinh sản, cơ quan dự trữ, 
gây già hoá và chết. 
1.2.7.3. Sử dụng chất điều hoà sinh trưởng trong sản xuất cây ăn quả 
 * Các nguyên tắc sử dụng . Việc sử dụng các chất điều hoà sinh trưởng 
phải đảm bảo tuân thủ một số nguyên tắc nhất định, nếu không hiệu quả mang lại 
sẽ không được như mong muốn, thậm chí có tác dụng ngược. 
- Quan tâm đến nồng độ: Thông thường nếu sử dụng với nồng độ ở mức 
quá thấp thì hiệu quả sinh lý kém, ở mức thấp sẽ gây hiệu quả kích thích sinh 
trưởng, ở mức nồng độ cao lại có tác động ức chế và ở mức nồng độ quá cao sẽ 
phá huỷ và dẫn đến huỷ diệt mô cây. Vì vậy tuỳ theo mục đích tác động mà chọn 
nồng độ sử dụng khác nhau. 
- Chú ý sự phối hợp. Các chất điều hoà sinh trưởng không phải là chất 
dinh dưỡng, chúng chỉ có tác dụng hoạt hoá các quá trình trao đổi chất. Vì vậy 
để nâng cao hiệu quả kinh tế (năng suất, chất lượng sản phẩm) thì cần phải phối 
hợp giữa việc xử lý các chất điều hoà sinh trưởng với việc thoả mãn nhu cầu về 
nước và dinh dưỡng cho cây trồng. 
- Chú ý sự đối kháng sinh lý giữa các chất điều hoà sinh trưởng ngoại sinh 
và các chất điều hoà sinh trưởng nội sinh trong cây. Sự đối kháng sinh lý này sẽ 
triệt tiêu tác dụng của nhau như: 
 + Sự đối kháng sinh lý giữa Auxin ngoại sinh và Ethylen nội sinh trong 
phòng ngừa rụng hoa, quả của cây. 
+ Sự đối kháng giữa GA 3 (gibberellin) ngoại sinh và Absizin nội sinh 
trong việc phá ngủ nghỉ. 
+ Sự đối kháng giữa Auxin và Xytokinin trong phân hoá rễ và chồi. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
35 
- Chú ý tính chọn lọc. Mỗi loại chất điều hoà sinh trưởng chỉ có hiệu quả 
đối với một số giống hoặc một số loài cây nhất định hoặc với một số vùng nhất 
định với các nồng độ khác nhau. Do vậy muốn sử dụng chất điều hoà sinh trưởng 
có hiệu quả cần phải nghiên cứu cụ thể, khi có kết quả chắn chắn mới mở rộng ra 
sản xuất đại trà. 
1.2.7.4. Các kết quả nghiên cứu sử dụng chất điều hoà sinh trưởng cho cây 
trồng, cây ăn quả 
 * Theo Phạm Văn Côn (2004) [8] : 
- Cooper (1942) đã sử dụng NAA ( Naptilaxetic axit) nồng độ 5 - 10ppm 
phun cho dứa làm cho dứa ra hoa sớm hơn đối chứng không phun. 
- Ở Ấn Độ khi xử lý chất Paclobutrazol (PBZ) có tên thương mại là Cultar 
10g/cây cho xoài đã có tác dụng làm xoài ra hoa sớm hơn đối chứng không xử lý 
là 20- 25 ngày, với tỷ lệ cây ra hoa 76 - 85% và năng suất trung bình đạt 68,3 - 
76,9 kg/cây so với đối chứng 13,3 kg/cây (gấp 5 - 6 lần). 
- Vanoverback, (1946) đã sử dụng 2,4D và NAA nồng độ 5 - 10ppm phun 
liên tục cho cây dứa giống Cabenzonna các tháng trong năm kết quả đều cho ra 
hoa 100% ( thí nghiệm với cây dứa 14 tháng tuổi). 
 - Khi phun NAA nồng độ 10ppm, GA 3 nồng độ 30ppm vào thời kỳ sau 
hoa nở rộ có tác dụng làm giảm tỷ lệ rụng hoa, rụng quả rõ rệt đặc biệt là GA 3 . 
* Theo Yung Kyung Choi, Jung Hokim ( 1972) [52] thì ngoài thụ phấn bổ 
khuyết còn có thể phun NAA 10 ppm từ 2 đến 3 lần và kết hợp bón phân vào lúc 
thích hợp có tác dụng chống rụng quả hồng rất tốt. 
* Theo Trần Thế Tục [38] biện pháp tăng tỷ lệ đậu quả tốt nhất là phun 
GA 3 , NAA, các chất này có thể dùng riêng rẽ hoặc dùng kết hợp với các nguyên 
tố vi lượng. 
* Theo Đào Thanh Vân (2005) [45] sử dụng các chế phẩm Kích phát tố 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
36 
hoa trái thiên nông, Atonik, NAA, IAA phun cho nhãn hương chi vào các thời 
kỳ: Trước khi hoa nở rộ 10 ngày; khi hoa nở rộ; sau khi hoa nở rộ 10 ngày; đều 
có tác dụng nâng cao tỷ lệ đậu quả, tăng năng suất vườn nhãn. Trong đó tốt nhất 
là Kích phát tố hoa trái thiên nông và kém nhất là Atonik. 
 * Theo Bùi Quang Đãng, Vũ Mạn h Hải, Hoàng Minh Tấn (2006) [11 ] 
phun GA 3 lên tán xoài (giống GL6) ở nồng độ 100 ppm có tác dụng nâng cao tỷ 
lệ cành mang hoa và cành mang quả tương ứng 95,38%; 85,34%, nâng cao năng 
suất và không ảnh hưởng đến chất lượng quả. 
 * Theo Nguyễn Thế Huấn (2006) [16] sử dụng các chế phẩm Kích phát tố 
hoa trái thiên nông, Atonik, GA3, chế phẩm đậu quả trường Đại học Nông 
nghiệp I phun cho cây hồng Thạch Thất, hồng Bắc Cạn đều cho kết quả tốt. 
1.2.7.5. Đặc điểm của các chất điều hoà sinh trưởn g được sử dụng trong 
nghiên cứu 
- Atonik: Là chất điều hoà sinh trưởng cây trồng do hãng hoá chất ASAHI 
Nhật Bản sản xuất và đã được đăng ký chính thức tại Việt Nam tháng 01 năm 
1993, theo quyết định số 17/NN -TT-BVTV/QĐ do Bộ Nông nghiệp và Công 
nghiệp thực phẩm ban hành, số đăng ký 26-FR và được phân phối bởi công ty cổ 
phần thuốc sát trùng Cần Thơ. Atonik có hiệu lực đối với hầu hết các loại cây 
trồng và rất dễ áp dụng vào mọi giai đoạn sinh trưởng của cây, đặc biệt an toàn 
cho cây trồng, không gây độc cho hại cho người và môi trường sống. Atonik có 
tác dụng kích thích sự sinh trưởng và phát triển, tạo điều kiên tốt cho quá trình 
trao đổi chất trong cây. 
Cách dùng đối với cây ăn quả. Phun vào 3 thời kỳ khi nhú nụ hoa, khi hoa 
nở và khi quả đã hình thành. Nồng độ phun 0,03% (1/3000). Liều lượng phun 
800-1000 lít nước thuốc/ha, phun ướt đều tán cây vào lúc sáng sớm hoặc cuối 
buổi chiều khi trời dâm mát. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
37 
- Kích phát tố hoa trái Thiên Nông . Là chất điều hoà sinh trưởng do công 
ty hoá phẩm Thiên Nông (217 Tô Hiệu- quận Cầu Giấy - Hà Nội) sản xuất có tác 
dụng hạn chế rụng hoa, rụng quả, làm cho quả to, mã đẹp nâng cao năng suất. 
Thành phần chính gồm: Alpha-Naptil axetic axit (α - NAA) 2%; Beta-Naptoxyl 
axetic axit (β - NAA) 0,5%; Gibberellin (GA3 ) 0,1%. 
Cách dùng đối với cây ăn quả. Phun vào 3 thời kỳ khi nhú nụ hoa, khi hoa 
nở và khi quả đã hình thành. Nồng độ phun 0,05% (1/2000). Liều lượng phun 
800 - 1000 lít nước thuốc/ha, phun ướt đều tán cây vào lúc sáng sớm hoặc cuối 
buổi chiều khi trời dâm mát. 
- Gibberellin (GA 3 ): Là chất điều hoà sinh tr ưởng có tác dụng hạn chế 
rụng hoa, rụng quả, nâng cao năng suất. Cách dùng đối với cây ăn quả. Phun vào 
3 thời kỳ khi nhú nụ hoa, khi hoa nở và khi quả đã hình thành. Nồng độ phun 40 
ppm, liều lượng phun 800- 1000 lít nước thuốc đã pha/ha, phun ướt đều tán cây 
vào lúc sáng sớm hoặc cuối buổi chiều khi trời dâm mát. 
1.2.8. Một số đặc điểm của giống hồng nghiên cứu 
 Hồng Bảo Lâm đã được trồng tại xã Bảo Lâm từ rất lâu, hiện nay những 
người dân địa phương cũng không biết giống hồng này được trồng tại Bảo Lâm 
từ bao giờ. Hồng Bảo Lâm là cây ăn quả thân gỗ sinh trưởng, phát triển tốt trong 
điều kiện tự nhiên của xã Bảo Lâm, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn. Cây hồng 
Bảo Lâm 30 năm tuổi có thể cao 8-9m. 
 Đặc điểm thân cây màu xám, tán hình tháp. Lá hình bầu dục, mỏng bóng, 
màu xanh nhạt , rụng lá vào cuối tháng 10 dương lịch hàng năm . Quả hình tim 
hơi tròn không có hạt, thời gian chín khoảng trung tuần tháng tám âm lịch, vỏ 
quả màu vàng có ánh xanh lục, trọng lượng quả có thể đạt 60-70g. Khi chín thịt 
quả cứng, gọt vỏ có nổi cát đường, chất lượng quả tốt. Thuộc giống hồng ngâm, 
quả ăn giòn, ngọt, thơm rất được thị trường ưa chuộng. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
38 
1.3. NHỮNG NHẬN XÉT CHUNG PHẦN TỔNG QUAN 
 - Hồng là cây ăn quả lâu năm có nguồn gốc, xuất xứ ở Trung Quốc 
(nguyên sản ở lưu vực sông Trường Giang). Hồng được trồng đầu tiên ở Trung 
Quốc, sau đó du nhập đến Hàn Quốc, Nhật Bản và các nước khác trên thế giới. 
Hiện nay hồng được trồng phổ biến ở vùng ôn đới, á nhiệt đới. 
 - Cây hồng (Diospyros) thuộc bộ thị (Ebenales), họ thị (Ebenaceae), phân 
lớp sổ (Dilleniaceae), lớp hai lá mầm (Dicotyledoneae), ngành thực vật hạt kín 
(Agiospermae). Chi Diospyros gồm 400 loài, trong đó có 4 loài được trồng nhiều 
là: Diospyros kaki Thumb, Diospyros oleifera Cheng, Diospyros virginiana 
Linn, Diospyros lotus Linn. 
 - Hồng là loại cây ăn quả quan trọng đã được trồng từ rất lâu ở Việt Nam. 
Cây hồng dễ trồng, khả năng chống chịu tốt, thích ứng rộng và có giá trị nhiều 
mặt đối với đời sống con người. Hiện nay ở Việt nam có rất nhiều giồng hồng, 
các vùng trồng hồng đều tập trung chủ yếu ở miền Bắc Việt Nam và vùng Đà Lạt 
(Lâm Đồng). 
- Hồng không hạt Bảo Lâm là một giống hồng quý của tỉnh Lạng Sơn 
đang được tỉnh quan tâm mở rộng diện tích. Tuy nhiên các đặc điểm sinh trưởng, 
phát triển của cây, các biện pháp kỹ thuật cần áp dụng đối với cây hồng Bảo Lâm 
chưa được nghiên cứu đầy đủ. 
- Lạng Sơn là tỉnh có điều kiện thuận lợi để phát triển cây hồng trong đó 
có giống hồng Bảo Lâm. Tuy nhiên năng suất thu h oạch còn thấp, không ổn 
định. Vì vậy việc nghiên cứu các đặc điểm sinh trưởng, phát triển, sâu bệnh hại... 
để tìm ra các giải pháp kỹ thuật cần áp dụng nhằm nâng cao năng suất, chất 
lượng hồng Bảo Lâm là thực sự cần thiết. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
39 
Phần II 
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 
Các nghiên cứu được tiến hành tr ên giống hồng không hạt Bảo Lâm , 
đang được trồng phổ biến ở xã Bảo Lâm - huyện Cao Lộc - tỉnh Lạng Sơn. 
2.2. ĐỊA ĐIỂM vµ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU 
2.2.1. Địa điểm nghiên cứu 
Điều tra tình hình sản xuất hồng, sâu bệnh hại và các thí nghiệm được thực 
hiện tại xã Bảo Lâm, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn. 
2.2.2. Vật liệu nghiên cứu 
 - Giống hồng Bảo Lâm. 
 - Các chế phẩm điều hoà sinh trưởng, thuốc trừ nấm bệnh thán thư. 
- Dụng cụ để điều tra thu thập mẫu côn trùng, bệnh hại, thước, cân các loại 
theo quy định. 
2.2.3. Thời gian nghiên cứu 
Tháng 10 năm 2006 đến tháng 12 năm 2007 
2.3. NỘI DUNG nghiªn cøu 
- Điều tra hiện trạng sản xuất hồng Bảo Lâm tại xã Bảo Lâm, huyện Cao 
Lộc, tỉnh Lạng Sơn. 
- Nghiên cứu một số đặc điểm sinh trưởng, phát triển của giống hồng 
không hạt Bảo Lâm tại xã Bảo Lâm, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn. 
- Điều tra thành phần sâu bệnh hại, đánh gía mức độ phổ biến của các loại 
sâu bệnh hại đối với hồng Bảo Lâm. 
- Nghiên cứu thử nghiệm phòng trừ bệnh thán thư hại hồng và sử dụng 
chất điều hoà sinh trưởng nhằm nâng cao năng suất, chất lượng hồng Bảo Lâm. 
2.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
40 
2.4.1. Điều tra hiện trạng sản xuất hồng tại xã Bảo Lâm, huyện Cao Lộc, 
tỉnh Lạng Sơn 
 * Nghiên cứu điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, tình hình sản xuất cây ăn 
quả. Tiến hành thu thập thông tin thứ cấp từ các nguồn: Cục thống kê Lạng Sơn 
(2007) [3]; Phòng thống kê huyện Cao Lộc [23]; Đài khí tượng thuỷ văn Lạng 
Sơn [10]; Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Lạng Sơn [25]. 
 * Điều tra khảo sát hiện trạng sản xuất các giống hồng trên địa bàn xã Bảo 
Lâm theo phương pháp điều tra nhanh nông thôn RRA ( rapid rural appraisal) và 
đánh giá nhanh nông thôn có sự tham gia PRA ( participartory r ural appraisal). 
Sử dụng phương pháp RRA, PRA trên cơ sở trả lời bộ câu hỏi điều tra mẫu của 
Viện nghiên cứu cây ăn quả, dung lượng mẫu điều tra 100 hộ (10 hộ/thôn bản) 
và phỏng vấn người dân địa phương. 
 * Phân tích và đánh giá một số chỉ tiêu lý hoá tính các loại đất hiện đang 
trồng hồng, tổng số mẫu đất phân tích là 10 mẫu tầng đất mặt ở độ sâu 0-30 cm. 
Các mẫu đất được phân tích tại phòng phân tích đất của Viện quy hoạch và thiết 
kế nông nghiệp. Các chỉ tiêu và phương pháp phân tích đất. 
 - pHkcl: KCL 1N, do pH mét 
 - Mùn tổng số (OM %): Walkley Black 
 - Đạm tổng số (N %): Kjeldahl 
 - Lân tổng số ( P205 %): Hỗn hợp axit, so màu (spectro photometer) 
 - Kali tổng số (K20): Hỗn hợp axit, quang kế ngọn lửa (flam photometer) 
 - Dung tích hấp thu (CEC): Amoni axetat 
 - Cation Ca++(meq/100g đất): Amoni axetat 
 - Cation Mg++ (meq/100g đất) : Amoni axetat 
 - Thành phần cơ giới (3 cấp) : Pipet 
2.4.2. Nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng, phát triển của giống hồng Bảo Lâm 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
41 
2.4.2.1. Ph¬ng ph¸p bè trÝ thÝ nghiÖm 
 Chọn vườn hồng 20 tuổi trồng bằng phương pháp giâm rễ, trong vườn 
chọn 9 cây đồng đều về sinh trưởng, chia làm 3 lần nhắc lại ( mỗi lần nhắc lại 3 
cây). Trên mỗi cây chọn 4 cành có đường kính 3 cm ở 4 hướng, đánh dấu vào 
gốc cành theo dõi. Đánh giá sức sinh trưởng trên cơ sở đo đếm các chỉ tiêu trên 
toàn bộ số cây thí nghiệm. 
2.4.2.2. Các chỉ tiêu và phương pháp nghiên cứu 
 * Các chỉ tiêu về sinh trưởng, phát triển 
 - Chiều cao cây: Đo từ mặt đất đến đỉnh ngọn, đơn vị tính (m), đo 1 lần 
tháng 11 năm 2007, đo toàn bộ mẫu thí nghiệm tính trung bình. 
 - Đường kính tán: Đo theo hướng Đông - Tây, Nam - Bắc, đơn vị tính (m), 
đo 1 lần tháng 11 năm 2007, tính trung bình. 
 - Chu vi gốc: Đo cách mặt đất 20 cm, đơn vị tính (cm), đo 1 lần tháng 11 
năm 2007, đo toàn bộ mẫu thí nghiệm tính trung bình. 
 - Kích thước lá: Đo chiều dài, chiều rộng 30 lá thành thục /lần nhắc lại lấy 
ở lưng tán theo 4 hướng, đơn vị tính (cm), đo 1 lần tháng 4 năm 2007. 
 - Thời gian bắt đầu bật lộc được tính khi 10% số cành trên cây bật lộc. 
- Thời gian kết thúc đợt lộc được tính khi 80% số lộc trên cây thành thục. 
 - Số lộc trên cành theo dõi. Đếm số lộc ra mỗi đợt rồi tính trung bình. 
 - Chiều dài cành lộc. Đo khi cành đã thành thục(cm). Dung lượng 30 cành 
trên lần nhắc lại. 
 - Đường kính cành lộc. Đo cách gốc cành 1 cm, khi cành đã thành thục. 
Dung lượng 30 cành/ lần nhắc lại. 
 - Thời gian sinh trưởng lộc. Tính từ khi lộc mới nhú đến khi thành thục 
 - Số mắt lá/cành lộc: Đếm 30 cành thuần thục/lần nhắc lại, tính trung bình. 
 - Thời gian xuất hiện mầm hoa: Thời điểm mầm hoa bắt đầu xuất hiện. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
42 
 - Thời gian hoa bắt đầu nở: Được xác định khi có 5% hoa nở. 
- Thời kỳ tàn hoa. Được tính khi có trên 80% số hoa rụng. 
 - Tổng số hoa trên cành, hoa đực, hoa cái, hoa lưỡng tính, số quả đậu. 
- Tỷ lệ quả đậu ban đầu. Đếm số quả đậu sau khi tàn hoa. 
- Động thái rụng quả. Đếm số quả đậu vào ngày 15 hàng tháng (từ tháng 4 
đến tháng 9). 
- Tính tỷ lệ quả đậu được thu hoạch. 
 - Kích thước quả (cm): Dùng thước kẹp đo chiều cao, đường kính quả. 
Dung lượng mẫu đo đếm 30 quả/ lần nhắc lại. 
 - Khối lượng quả (g): Lấy ngẫu nhiên 30 quả/ lần nhắc lại cân rồi tính 
trung bình. 
- Năng suất (kg/cây). Khối lượng quả thực thu của cây. 
 * Các chỉ tiêu về chất lượng 
Sau khi thu hoạch trộn đều số quả ở các lần nhắc lại, lấy ngẫu nhiên 30 
quả mang đi ngâm nước, từ 2- 3 ngày (mỗi ngày thay nước một lần) khi quả đã 
ngọt và ăn được mang đi phân tích sinh hoá và đánh giá cảm quan . Các mẫu quả 
được phân tích tại Bộ môn kiểm nghiệm chất lượng rau quả, Viện nghiên cứu rau 
quả, Trâu Quỳ, Gia Lâm, Hà Nội. Các chỉ tiêu được phân tích gồm: 
- Chất khô (%): Sấy khô đến khối lượng không đổi. 
 - Đường tổng số (%): Theo phương pháp Bertrand. 
 - Độ Brix (%): Đo bằng Brix kế. 
- Caroten (mg/100g quả tươi): Theo phương pháp so màu. 
- Vitamin C (mg/100g quả tươi). Xác định theo phương pháp Tilman. 
- Axit tổng số (%): Xác định bằng phương pháp chuẩn độ NaOH 0,1N. 
 - Tanin (%): Xác định bằng phương pháp chuẩn độ KMnO4. 
 Các chỉ tiêu đánh giá cảm quan gồm màu sắc, độ giòn, hương vị, độ chát 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
43 
của quả. Hội đồng đánh giá cảm quan gồm 10 thành viên. Mỗi thành viên hội 
đồng thử nếm và cho điểm riêng biệt theo thang điểm Hedonic (thang điểm 10). 
Điểm đánh giá là điểm trung bình của 10 thành viên hội đồng. 
- Điểm 1. Rất rất không thích. 
- Điểm 5. Trung bình. 
- Điểm 9. Rất rất thích. 
2.4.3. Điều tra thành phần loài và mức độ phổ biến của các loài sâu bệnh hại 
hồng Bảo Lâm 
 - Điều tra thu thập mẫu sâu bệnh hại theo Phương pháp điều tra cơ bản 
dịch hại nông nghiệp và thiên địch của chúng - tập 1 Viện bảo vệ thực vật 
(1997) [46]. 
 - Khu vực điều tra tại các vùng trồng hồng của xã Bảo Lâm, huyện Cao 
Lộc, tỉnh Lạng Sơn, xác định và chọn vườn hồng điều tra cố định đảm bảo phong 
phú và đa dạng cho vùng. 
 - Điều tra 10 ngày một lần. Trên vườn ươm điều tra 5 điểm theo đường 
chéo góc, mỗi điểm điều tra ngẫu nhiên 100 cây. Trên vườn sản xuất chọn các 
vườn có độ tuổi dưới 20 tuổi và từ 20 tuổi trở lên có vị trí canh tác ở các độ dốc 
và chân đất khác nhau, có điều kiện canh tác và chăm sóc k hác nhau. Mỗi loại 
địa hình chọn 3 vườn, mỗi vườn lấy 5 cây để điều tra theo đường chéo góc, trên 
vườn có it nhất 30 cây, trên mỗi cây chọn 5 điểm điều tra ( 1 điểm tầng ngọn và 
4 điểm ở 4 hướng) quan sát, ghi chép và thu thập mẫu vật. 
 - Điều tra bổ sung tại các vườn hồng lân cận. 
 - Mẫu sâu bệnh được phân tích, giám định tại Viện bảo vệ thực vật. 
 - Theo dõi mức độ phổ biến, tần xuất bắt gặp. 
2.4.4. Nghiên cứu thử nghiệm phòng trừ bệnh thán thư hại hồng và sử dụng 
chất điều hoà sinh trưởng đối với hồng Bảo Lâm 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
44 
2.4.4.1. Hiệu lực phòng trừ của thuốc trừ nấm đối với bệnh thán thư hại hồng 
* Phương pháp bố trí thí nghiệm 
 - Các thí nghiệm nghiên cứu đánh giá hiệu lực phòng trừ của một số thuốc 
trừ nấm đối với bệnh thán thư hại hồng được tiến hành với 4 công thức khác 
nhau ở trên vườn ươm và vườn kinh doanh. Nồng độ phun theo khuyến cáo của 
nhà sản xuất. 
 - Đối với vườn ươm: Mỗi công thức gồm 3 ô (mỗi ô là một lần nhắc lại), 
mỗi ô 30 cây. Thí nghiệm được bố trí theo ô vuông la tinh. 
 - Đối với vườn kinh doanh. Mỗi công thức gồm 9 cây ( gồm 3 lần nhắc lại, 
mỗi lần nhắc lại 3 cây, chọn các cây thí nghiệm có độ tuổi là 20 năm tuổi.) Thí 
nghiệm được bố trí theo phương pháp bố trí thí nghiệm cây ăn quả Phạm Chí 
Thành (1988) [31]. 
* Các công thức thí nghiệm 
CT1. Đối chứng phun nước lã. 
CT2. Phun Viben C50 BTN nồng độ 0,2%. 
CT3. Phun Ridomil MZ 72 WP nồng độ 0,2%. 
CT4. Phun Topsin M 70 WP nồng độ 0,2%. 
 Phun một lần vào 8 - 9 giờ sáng hoặc 4 - 5 giờ chiều. Nồng độ phun theo 
khuyến cáo của nhà sản xuất. Phun ướt đều toàn bộ tán lá. 
* Các chỉ tiêu theo dõi 
 - Tỷ lệ bệnh (TLB%) và chỉ số bệnh (CSB %) trước phun 24 giờ, sau phun 
5 , 10 và 15 ngày trên vườn ươm và vườn kinh doanh. 
 - Đánh giá hiệu lực của thuốc sau phun 5, 10 và 15 ngày. 
2.4.4.2. Ảnh hưởng của chất điều hoà sinh trưởng đến sự rụng quả, năng suất 
và chất lượng quả 
* Ph¬ng ph¸p bè trÝ thÝ nghiÖm 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
45 
 Thí nghiệm được bố trí theo phương pháp bố trí thí nghiệm cây ăn quả của 
Phạm Chí Thành (1988), mỗi công thức 9 cây, mỗi lần nhắc lại 3 cây, trên vườn 
cây 15 năm tuổi được trồng bằng giâm rễ và đồng đều về tình hình sinh trưởng. 
* Các công thức thí nghiệm 
 Công thức 1: Không phun ( §èi chøng). 
 Công thức 2: Phun nước lã. 
 Công thức 3: Phun Kích phát tố hoa trái Thiên nông nồng độ 0,05%. 
 Công thức 4: Phun Atonik nồng độ 0,03%. 
 Công thức 5: Phun GA 3 nồng độ 40 ppm. 
 Nồng độ phun theo khuyến cáo của nhà sản xuất. Phun 3 lần: Lần 1 khi 
nhú nụ hoa, lần 2 khi hoa nở và lần 3 khi hình thành quả. Phun ướt đều toàn bộ 
tán lá vào 8-9 giờ sáng hoặc 4-5 giờ chiều. 
* Các chỉ tiêu theo dõi 
 - Ảnh hưởng của chất điều hoà sinh trưởng đến tỷ lệ quả đậu. 
 - Ảnh hưởng của chất điều hoà sinh trưởng đến năng suất và các yếu tố 
cấu thành năng suất. 
 - Ảnh hưởng của chất điều hoà sinh trưởng tới động thái rung quả. 
 - Ảnh hưởng của chất điều hoà sinh trưởng đến chất lượng quả. 
2.5. CÔNG THỨC TÍNH TOÁN VÀ PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ SỐ LIỆU 
2.5.1. Công thức tính toán 
- Tính tỷ lệ quả thu hoạch (%) theo công thức: 
 Số quả được thu hoạch 
 Tỷ lệ quả thu hoạch ( % ) = ------------------------------- X 100 
 Tổng số quả đậu ban đầu 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
46 
- Tính tỷ lệ phần ăn được (%) theo công thức: 
 Khối lượng thịt quả 
 Tỷ lệ ăn được (%) = ----------------------------- X 100 
 Khối lượng quả 
- Tính tần xuất bắt gặp (%) theo công thức: 
 Tổng số lần bắt gặp 
 Tần xuất bắt gặp (%) = ----------------------------- X 100 
 Tổng số lần điều tra 
 - Tính tỷ lệ sâu hại (TLH %) theo công thức. 
 Số cây (cành, quả) bị hại 
 TLH (%) = --------------------------------------- X 100 
 Tổng số cây (cành, quả) điều tra 
 - Tính tỷ lệ bệnh hại (%) theo công thức: 
 A 
 TLB (%) = ------------ X 100 
 B 
 Trong đó : A . Tổng số cây ( cành, lá, quả...) bị bệnh. 
 B. Tổng số cây ( cành, lá, quả...) điều tra. 
 - Tính chỉ số bệnh hại (%) theo công thức: 
 ∑ ( a n . n) 
 CSB (%) = ----------------- X 100 
 A.T 
 Trong đó: a n . Số lượng cá thể (cành, lá, quả) bị bệnh ở cấp thứ n. 
 ∑ ( a n . n). Tổng các tích số của các cá thể bị bệnh ở mỗi cấp. 
 A. Tổng số cá thể điều tra. 
 T. Cấp bệnh cao nhất. 
 Phân cấp bệnh theo thang 5 cấp: 
 Cấp 0: Không có bệnh. 
 Cấp 1: Có từ 1-5% diện tích lá, quả bị bệnh. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
47 
 Cấp 2: Có từ 6-10% diện tích lá, quả bị bệnh. 
 Cấp 3: Có từ 11-15% diện tích lá, quả bị bệnh. 
 Cấp 4: Có từ 16-20% diện tích lá, quả bị bệnh. 
 Cấp 5: Có từ trên 20% diện tích lá, quả bị bệnh. 
 - Tính hiệu lực của thuốc theo công thức Henderson- Tilton. 
 T a x C b 
 H (%) = { 1- ------------- } X 100 
 C a x T b 
 Trong đó: H (%). Hiệu lực của thuốc. 
 C a : Mức độ bệnh ở công thức đối chứng sau xử lý. 
 C b : Mức độ bệnh ở công thức đối chứng trước xử lý. 
 T a : Mức độ bệnh ở công thức thí nghiệm sau xử lý. 
 T b : Mức độ bệnh ở công thức thí nghiệm trước xử lý. 
2.5.2. Phương pháp xử lý số liệu 
 Các kết quả thí nghiệm được tổng hợp xử lý bằng phần mềm Excel. Số 
liệu được xử lý theo chương trình xử lý thống kê sinh học trên phần mềm 
IRRISTAT để xác định sự sai khác giữa các công thức. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
48 
Phần III 
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
3.1. KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THỰC TRẠNG SẢN XUẤT HỒNG TẠI BẢO 
LÂM NĂM 2006 
3.1.1. Điều kiện tự nhiên, xã hội của xã Bảo Lâm 
3.1.1.1. Vị trí địa lý 
 Bảo Lâm là một xã thuộc vùng đặc biệt khó khăn của huyện Cao Lộc, 
tỉnh Lạng Sơn nằm ở biên giới Việt Trung cách thành phố Lạng Sơn 30 km về 
phía đông bắc. Phía Bắc giáp Trung Quốc, phía Đông giáp xã Thanh Loà, phía 
Tây giáp thị trấn Đồng Đăng, phía Nam giáp xã Thuỵ Hùng và Thạch Đạn. 
3.1.1.2. Điều kiện kinh tế- xã hội 
 Theo số liệu thông kê năm 2006 thì xã Bảo Lâm có 657 hộ với 3095 nhân 
khẩu, trong đó nam 1.546 người (chiếm 49,95%), nữ 1549 người (chiếm 
50,05%). Mật độ dân số bình quân 79 người/km 2 , tỷ lệ tăng dân số tự nhiên đạt 
8,74%. Trình độ dân trí nói chung thấ p, việc tiếp cận kiến thức về khoa học kỹ 
thuật nông nghiệp càng khó khăn, các loại cây ăn quả được trồng hầu hết theo 
kiểu quảng canh. Hạ tầng cơ sở yếu kém, kinh tế chậm phát triển, nguồn thu 
nhập chính của người dân chủ yếu là từ sản xuất lúa và cây ăn quả. Bình quân 
lương thực đầu người đạt 344,3 kg/năm. Lĩnh vực ngành nghề và dịch vụ chưa 
phát triển. 
3.1.1.3. Đặc điểm về khí hậu 
 Đặc điểm khí hậu vùng hồng không hạt Bảo Lâm được lấy theo số liệu khí 
hậu của trạm khí tượng thành phố Lạng Sơn có toạ độ địa lý 106 0 46 ' độ kinh 
Đông, 21 0 50 ' độ vĩ Bắc , độ cao so với mặt biển 258 m ( phụ lục 1, phụ lục 2) 
 - Tổng tích ôn năm đạt 7500 - 7800 0 C. Nhiệt độ trung bình năm đạt 
21,2 0 C. Từ tháng 12 năm trước đến tháng 2 năm sau có nhiệt độ đạt thấp từ 12-
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
49 
15 0 C là điều kiện rất tốt để cây hồng ngủ đông và phân hoá mầm hoa cho vụ 
quả sau. Thời gian từ cuối tháng 9 đến đầu tháng 10 có biên độ nhiệt ngày đêm 
đạt 8-9 0 C. Đây là điều kiện rất tốt cho quá trình tích luỹ các sản phẩm quang hợp 
làm cho chất lượng quả được nâng cao, mã đẹp 
- Tổng lượng mưa bình quân hàng năm phổ biến đạt 1350- 1450 mm. Tất 
cả các tháng trong năm đều có mưa, nhưng lượng mưa phân bố không đều giữa 
các tháng. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 9 (5 tháng) thường chiếm khoảng 2/3 
tổng lượng mưa năm. Sự phân bố mưa không đồng đều về thời gian cũng là một 
yếu tố hạn chế đến sinh trưởng, phát triển và năng suất của cây hồng. Vào thời 
kỳ quả non (cuối tháng 3, tháng 4) lượng mưa đạt thấp, gây hạn làm cho quả bị 
rụng vì thiếu nước. Vì vậy ở thời kỳ này việc tưới nước cho cây hoặc áp dụng 
các biện pháp giữ ẩm cho đất là rất cần thiết. Vào thời kỳ quả lớn (tháng 6,7,8) 
lượng mưa nhiều, ngày có lượng mưa cao nhất có thể đạt đến 190-200mm làm 
cho cây thừa nước cục bộ gây nên hiện tượng rụng quả. Ngoài ra mưa còn gây 
nên tình trạng sói mòn rửa trôi đất, vì vậy cần chú ý đến biện pháp kỹ thuật hợp 
lý khi thiết kế mô hình vườn hồng như trồng theo đường đồng mức, trồng theo 
băng, trồng băng cây phân xanh, trồng xen. 
- Ẩm độ không khí trung bình năm đạt 82 %. Từ tháng 3 đến tháng 9 có 
ẩm độ không khí tương đối cao. Đây là điều kiện thuận lợi cho sâu bệnh phát 
triển và gây hại, nhất là các bệnh thán thư, giác ban... 
So sánh với yêu cầu sinh thái của cây hồng cho thấy điều kiện khí hậu ở 
vùng Bảo Lâm- Lạng Sơn tương đối phù hợp với sinh trưởng và phát triển của 
cây hồng. 
3.1.2. Hiện trạng sử dụng đất và đặc điểm đất trồng hồng ở Bảo Lâm 
3.1.2.1. Hiện trạng sử dụng đất 
Xã Bảo Lâm nằm ở vùng núi có độ cao trung bình so với mặt nước biển từ 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
50 
230 - 269 m, địa hình bị chia cắt mạnh, có độ dốc trung bình 15 - 25 0 . Tổng diện 
tích tự nhiên là 3.900 ha, trong đó: Đất nông nghiệp là 430,57 ha (chiếm11,04%) 
chủ yếu là đất trồng lúa, đất trồng cây ăn quả, chè và một số cây hàng năm như: 
Ngô, khoai, sắn, rau, đậu đỗ và các cây công nghiệp ngắn ngày khác. Đất trồng 
cây lâm nghiệp là 1.544,9 ha (chiếm 39,61%). Đất chưa sử dụng còn khá cao 
1.848,57 ha (chiếm 47,4%), (bảng 3.1). 
Bảng 3.1. Hiện trạng sử dụng đất tại Bảo Lâm 
Loại đất Diện tích (ha) Cơ cấu (%) 
Tổng diện tích đất tự nhiên. 3900 100,00 
I. Đất nông nghiệp. 430,57 11,04 
 1.1. Đất trồng cây hàng năm. 217,69 
 1.1.1. Đất lúa nước, lúa màu. 116,89 
 1.1.2. Đất trồng cây hàng năm khác. 100,8 
 1.2. Đất trồng cây lâu năm. 198,18 
 1.3. Đất vườn tạp. 13,20 
 1.4. Mặt nước nuôi trồng thuỷ sản. 1,50 
II. Đất trồng cây lâm nghiệp. 1.544,90 39,61 
III. Đất chuyên dùng. 30,06 0,77 
IV. Đất ở. 45,90 1,18 
V. Đất chưa sử dụng. 1.848,57 47,40 
 Nguồn Phòng thống kê huyện Cao Lộc 
3.1.2.2. Đặc điểm đất trồng hồng ở Bảo Lâm 
Hồng ở Bảo Lâm chủ yếu được trồng trên loại đất đỏ vàng trên đá sét và 
biến chất (loại đất phổ biến nhất ở trên địa bàn xã), trên sườn đồi có độ dốc trung 
bình từ 15-25 0 (phụ lục 3). Nền đất chua và nghèo dinh dưỡng, thành phần cơ 
giới từ thịt nhẹ đến thịt trung bình. Vì vậy để cây hồng Bảo Lâm sinh trưởng, 
phát triển tốt hàng năm cần chú ý bón vôi bổ sung cho cây song song với việc 
bón phân đầy đủ. 
3.1.3. Thực trạng sản xuất cây ăn quả 
3.1.3.1. Tình hình sản xuất một số cây ăn quả chính 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
51 
Tổng diện tích cây ăn quả của xã năm 2006 đạt 197,68 ha. Có 5 loại cây 
ăn quả được trồng nhiều là mận, hồng, quýt, mơ, lê (chiếm 93,07% diện tích, 
83,15% sản lượng), các loại cây ăn quả khác như cam, dứa, chuối, xoài, nhãn, 
vải, mít, na, đào... được trồng rất ít ( chỉ chiếm 6,93% diện tích, 16,85% sản 
lượng). Trong 5 loài cây ăn quả được trồng nhiều thì chỉ có 2 cây có diện tích 
và sản lượng tương đối lớn là cây mận và cây hồng (bảng 3.2). 
Bảng 3.2. Tình hình sản xuất cây ăn quả tại Bảo Lâm 2006 
Số 
T T Giống 
Diện tích Sản lượng 
ha % so tổng số Tấn 
% so 
tổng số 
1 Tổng số 197,68 100,00 532,88 100,00 
2 Hồng 58,72 29,71 89,30 16,76 
3 Quýt 11,75 5,95 38,00 7,13 
4 Mận 97,50 49,30 274,80 51,57 
5 Mơ 10,02 5,07 14,40 2,70 
6 Lê 6,00 3,04 26,60 4,99 
7 Cây khác 13,69 6,93 89,78 16,85 
 (Nguồn phòng thống kê huyện Cao Lộc, 2006) 
3.1.3.2. Tình hình sản xuất hồng 
Những năm gần đây cây hồng Bảo Lâm đã được người dân chú ý, diện 
tích trồng hồng Bảo Lâm ngày càng được mở rộng. Tuy nhiên, số liệu bảng 3.3 
cũng cho thấy việc phát triển cây hồng ở Bảo Lâm mới chỉ quan tâm đến việc 
mở rộng diện tích đơn thuần, chưa chú ý các biện pháp thâm canh, chăm sóc, 
quản lý sâu bệnh... do đó năng suất hồng thu được không ổn định. Khi thời tiết 
thuận lợi, sâu bệnh ít thì đạt được năng suất, sản lượng cao và ngược lại thì năng 
suất, sản lượng thu hoạch đạt thấp. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
52 
 Bảng 3.3. Diện tích, năng suất hồng Bảo Lâm những năm gần đây 
Năm 
Tổng DT 
(ha) 
DT thu 
hoạch (ha) 
NS TB 
(kg/cây) 
NS TB 
(tạ/ha) 
Sản lượng 
(tấn) 
2002 32,50 13,25 9,07 36,30 48,10 
2003 36,75 16,50 7,88 31,50 52,00 
2004 42,89 16,50 6,95 27,80 45,90 
2005 53,02 17,49 17,75 71,00 124,20 
2006 58,72 28,80 7,75 31,01 89,30 
 - Về diện tích 
 Kết quả điều tra cho thấy diện tích hồng năm 2006 tại xã Bảo Lâm là 
58,72 ha (bảng 3.4). Trong đó diện tích cho thu hoạch là 28,8 ha chiếm 49,05%, 
diện tích cho thu hoạch ổn định, năng suất cao chỉ chiếm khoảng 14,22 ha, diện 
tích trồng mới hoặc đang trong thời kỳ kiến thiết cơ bản 31,28 ha chiếm 53,27% 
diện tích. Các thôn có diện tích trồng mới cao như Nà Pàn (6,68 ha), Pò Nhùng 
(6,55 ha), Còn Háng (5,45 ha). 
Bảng 3.4. Diện tích hồng ở các thôn trong xã Bảo Lâm năm 2006 
Thôn Bản Tổng DT (ha) 
% 20 tuổi 
ha % ha % ha % 
Nà Pàn 9,75 100 6,68 68,51 0,14 1,44 2,93 30,05 
Nà Ân 2,22 100 0,60 27,03 1,10 49,55 0,52 23,42 
Cốc Tòng 5,34 100 3,90 73,03 0,37 6,93 1,07 20,04 
Kéo Có 2,82 100 0,76 26,95 0,72 25,53 1,34 47,52 
Nà Làng 6,07 100 2,53 41,61 1,68 27,68 1,86 30,64 
Còn Háng 10,75 100 5,45 50,07 4,43 41,21 0,87 8,09 
Pò Nhùng 8,88 100 6,55 73,76 1,24 13,96 1,09 12,28 
Co Luồng 5,43 100 2,02 37,42 1,57 28,91 1,84 33,89 
Còn Kéo 4,09 100 1,40 34,23 1,10 26,89 1,59 38,88 
Cốc Tào 3,37 100 1,39 41,25 0,87 25,82 1,11 32,93 
Cộng 58,72 100 31.28 53,27 13,22 22,51 14,22 24,22 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
53 
Có thể nói rằng hồng không hạt Bảo Lâm đang ngày càng khẳng định 
được gía trị và thương hiệu trên thị trường, được thị trường chấp nhận vì vậy 
những năm gần đây diện tích cây hồng không hạt Bảo Lâm được trồng trên địa 
bàn xã không ngừng được tăng lên với mục tiêu phấn đấu đạt diện tích 500 ha 
vào năm 2015, sản lượng quả hồng hàng hoá đến năm 2020 đạt 4.000- 6.000 tấn. 
- Về giống 
 Kết quả điều tra cho thấy hiện nay ở Bảo Lâm có trồng 2 giống hồng 
không hạt đó là giống hồng Bảo Lâm và giống hồng Vành Khuyên. Kết quả 
được trình bày ở bảng 3.5. 
- Giống hồng Bảo Lâm là giống được trồng từ lâu đời tại địa bàn xã. Các 
bậc cao niên trong xã cũng không biết giống hồng này được trồng ở đây từ bao 
giờ, vì vậy có thể coi như đây là giống hồng bản địa. 
- Giống hồng Vành Khuyên được du nhập từ Trung Quốc. 
Trong hai giống thì giống hồng Bảo Lâm được trồng phổ biến hơn chiếm 
95,84% diện tích, còn giống hồng Vành Khuyên chỉ chiếm 4,16% diện tích hồng 
của xã. Theo nhận xét của người dân địa phương thì giống hồng Vành Khuyên 
sinh trưởng khoẻ, có thời gian kiến thiết cơ bản ngắn, quả to nhưng chất lượng 
quả không bằng hồng Bảo Lâm nên có giá bán thấp chỉ bằng khoảng 50-60% so 
với giá bán hồng Bảo Lâm. Hiện nay người dân ở xã chỉ có nhu cầu trồng giống 
hồng Bảo Lâm, đây cũng chính là chủ trương của tỉnh về phát triển giống cây ăn 
quả đặc sản này. 
 Bảng 3.5. Cơ cấu các giống hồng hiện có tại Bảo Lâm năm 2006 
Giống Tổng số cây 
Diện tích 
(ha) 
Tỷ lệ 
(%) 
Năng suất 
(kg/cây) 
Giá bán 
1.000đ/kg 
Bảo Lâm. 22.510 56,27 95,84 15,33 13,00 
Vành Khuyên. 978 2,45 4,16 18,67 7,00 
Tổng số. 23.488 58,72 100,00 
 Ghi chú : Mật độ tính: 400 cây/ha 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
54 
 - Về phương pháp nhân giống 
 Hiện nay giống hồng Bảo Lâm được nhân giống theo hai phương pháp là 
giâm rễ và ghép. Kết quả điều tra cho thấy các cây hồng Bảo Lâm có độ tuổi trên 
7 năm đều được nhân giống theo phương pháp giâm rễ (73.15%). Các cây hồng 
Bảo Lâm được trồng trong những năm gần đây thuộc các dự án là cây giống 
được nhân bằng phương pháp ghép (24,85%). 
 Cây được nhân giống bằng phương pháp ghép có nhiều ưu điểm hơn so 
với cây nhân bằng phương pháp giâm rễ. Nhưng phương pháp ghép chưa được 
phổ biến rộng rãi trong nông dân. 
 Phương pháp nhân giống bằng rễ tuy cũng có nhiều ưu điểm như các 
phương pháp nhân giống vô tính khác, nông dân trong xã Bảo Lâm đã có kinh 
nghiệm lâu năm. Hạn chế của phương pháp này là hệ số nhân thấp, khi lấy rễ để 
nhân giống sẽ ảnh hưởng đến sinh trưởng, phát triển của cây mẹ, làm cho cây mẹ 
sinh trưởng kém, năng suất bị giảm. Nếu lạm dụng phương pháp này có thể làm 
cho cây mẹ bị chết. Cây được nhân giống bằng phương pháp này khi trồng ra 
vườn sản xuất có bộ rễ ăn nông nên khả năng hút nước và dinh dưỡng kém, cây 
chậm lớn, còi cọc, kém chịu hạn, dễ đổ khi có gió bão. 
 - Về kỹ thuật trồng và chăm sóc 
 Hồng Bảo Lâm là cây ăn quả lâu năm rụng lá mùa đông. Nếu được chăm 
sóc tốt thì những cây có độ tuổi từ 20 năm trở lên mới cho năng suất cao và ổn 
định. Kết quả điều tra cho thấy việc trồng và chăm sóc cây hồng Bảo Lâm còn 
chưa được chú ý. 
 Đa số các hộ nông dân trồng chưa đúng kỹ thuật, hố trồng có kích thước 
quá nhỏ (20 x 20 x 20 cm), thường trồng ngay sau khi đào hố. 
Hầu hết các vườn hồng Bảo Lâm có độ tuổi trên 10 tuổi ở địa phương đều 
được trồng với mật độ thưa với khoảng cách cây từ 7 - 9 m tương đương 150 - 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
55 
200 cây/ha, chỉ bằng khoảng 50% mật độ so với quy trình kỹ thuật. Các vườn 
hồng được trồng không có quy hoạch trước, không theo đường đồng mức, không 
theo băng, không trồng băng cây phân xanh hoặc trồng xen... Việc trồng thư a 
không những gây lãng phí đất mà còn làm cho đất nhanh bị thoái hoá do xói 
mòn, rửa trôi và đá ong hoá. Các vườn hồng được trồng trong những năm gần 
đây theo các chương trình dự án đã chú ý trồng đúng mật độ hơn. 
 Kết quả điều tra cho thấy hàng năm không có hộ nông dân nào áp dụng 
đầy đủ các biện pháp kỹ thuật trồng và chăm sóc cho cây hồng. Chỉ có 16% số 
hộ bón phân tổng hợp N.P.K, hoặc bón đạm, lân, kali. 21% số hộ tiến hành 
phòng trừ mọt đục gốc thân. Nông dân trồng hồng Bảo Lâm chưa chú ý và 
không biết cách phòng trừ các loại sâu bệnh hại khác như bệnh giác ban, thán 
thư, dòi đục cuống quả, sâu đục cành, rệp... 64% số hộ tiến hành phát cỏ 1 -2 
lần/năm. Có 3 % số hộ quét vôi gốc và không có hộ nào tiến hành cắt tỉa sau thu 
hoạch. Đặc biệt có tới 36% số hộ không hề tác động bất kỳ một biện pháp kỹ 
thuật nào mà chỉ thu hái khi có quả (phụ lục 4). 
3.1.6. Nhận xét chung phần điều tra 
 Bảo Lâm (Lạng Sơn) có điều kiện về sinh thái tương đối phù hợp với yêu 
cầu sinh thái của cây hồng. Cây hồng được trồng ở đây gần như là quảng canh, 
các biện pháp kỹ thuật thâm canh chưa được chú ý nhưng vẫn sinh trưởng, phát 
triển tốt cho năng suất và chất lượng quả khá. 
 Tại Bảo Lâm hiện có trồng 2 giống hồng không hạt là hồng Bảo Lâm và 
hồng Vành Khuyên. Trong đó, hồng Bảo Lâm có chất lượng khá hơn, được thị 
trường ưa chuộng và có giá bán cao hơn giống hồng Vành Khuyên nên diện tích 
giống hồng Bảo Lâm chiếm tỷ lệ cao ( 95,84%). 
Hồng ở Bảo Lâm chủ yếu được trồng trên loại đất đỏ vàng trên đá sét và 
biến chất, có độ dốc trung bình từ 15-25 0 . Nền đất chua và nghèo dinh dưỡng, 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
56 
thành phần cơ giới từ thịt nhẹ đến thịt trung bình. Diện tích đất chưa sử dụng còn 
lớn nên còn có nhiều khả năng mở rộng diện tích trồng hồng trên địa bàn xã. 
 Các biện pháp kỹ thuật trong trồng trọt, phòng trừ sâu bệnh, tuyển chọn, 
nhân giống và cải tạo đất chưa được áp dụng trong sản xuất hồng nên năng suất, 
chất lượng hồng tại Bảo Lâm còn đạt thấp và không ổn định. 
3.2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH TRƯỞNG, 
PHÁT TRIỂN CỦA GIỐNG HỒNG BẢO LÂM TẠI XÃ BẢO LÂM - 
HUYỆN CAO LỘC- TỈNH LẠNG SƠN 
 Mỗi giống cây trồng khác nhau đều có những đặc điểm sinh trưởng phát 
triển khác nhau. Nghiên cứu những đặc điểm sinh trưởng, phát triển của một 
giống cây trồng nào đó sẽ cung cấp dẫn liệu về khả năng thích nghi của giống 
cây trồng đó tại vùng sinh thái nghiên cứu. Đây cũng chính là cơ sở khoa học 
của việc tác động các biện pháp kỹ thuật nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cao trong 
sản suất. 
3.2.1. Đặc điểm hình thái 
3.2.1.1. Đặc điểm hình thái cây 
Khung cành của cây ăn quả là bộ phận rất quan trọng. Kết quả điều tra 
nghiên cứu đặc điểm hình thái cây hồng Bảo Lâm 20 tuổi cho thấy giống hồng 
không hạt Bảo Lâm có dạng tán hình tháp, phân cành ít. Chiều cao cây trung 
bình 6,28 m, chiều cao phân cành trung bình 1,16 m, chu vi gốc thân trung bình 
59,83 cm, đường kính tán trung bình 5,73m (bảng 3.6) . 
 Bảng 3.6. Đặc điểm hình thái cây hồng Bảo Lâm 20 tuổi 
Nhắc lại Cao cây (m) 
Cao phân 
cành (m) 
Chu vi gốc 
(cm) 
Đường kính 
tán (m) 
1 6,20 1,18 59,96 5,44 
2 5,85 1,08 59,74 5,81 
3 6,80 1,22 59,78 5,95 
TB 6,28 1,16 59,83 5,73 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
57 
3.2.1.2. Đặc điểm hình thái lá 
 Lá là cơ quan quang hợp tạo ra vật chất hữu cơ, nhưng mỗi giống khác 
nhau cũng có hình thái lá khác nhau. Kết quả bảng 3.7 cho thấy hồng Bảo Lâm 
có lá nhỏ hình bầu dục. Chiều dài trung bình 12,58 cm, chiều rộng trung bình 
7,71 cm, tỷ lệ giữa chiều dài và chiều rộng là 1,63. 
 Bảng 3.7. Đặc điểm hình thái lá hồng Bảo Lâm 
Nhắc 
lại 
Chiều dài 
(cm) 
Chiều rộng 
(cm) 
Tỷ lệ 
dài/rộng 
1 12,58 8,00 1,57 
2 13,00 7,73 1,68 
3 12,16 7,93 1,65 
TB 12,58 7,71 1,63 
3.2.1.3. Đặc điểm hình thái quả 
Kết quả nghiên cứu cho thấy quả hồng Bảo lâm có dạng hình tim hơi tròn, 
nổi múi nhẹ ở gần cuống, không có hạt. Khi ch ín vỏ quả màu vàng có ánh xanh 
lục, dầy, nhẵn nhưng kém bóng. Mặt cắt ngang có hình hoa thị 10 cánh đều nhau 
màu hơi đỏ tương phản với màu thịt quả. Mặt cắt dọc thịt quả không có thớ, thịt 
quả mịn, gọt vỏ có nổi cát đường. Quả nhỏ, đường kính trung bình 1 quả 3,60 
cm, chiều cao quả trung bình 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
1LV08_NLHoangVanDDay.pdf