Luận văn Nghệ thuật tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới

Tài liệu Luận văn Nghệ thuật tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ---------    --------- DƢƠNG THỊ HỒNG LIÊN NGHỆ THUẬT TIỂU THUYẾT CỦA MA VĂN KHÁNG THỜI KỲ ĐỔI MỚI LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN THÁI NGUYÊN - 2008 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ---------    --------- DƢƠNG THỊ HỒNG LIÊN NGHỆ THUẬT TIỂU THUYẾT CỦA MA VĂN KHÁNG THỜI KỲ ĐỔI MỚI CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ: 60.22.34 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: T.S. MAI THỊ NHUNG THÁI NGUYÊN - 2008 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên LỜI CẢM ƠN Tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới TS. Mai Thị Nhung - người đã tận tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu khoa học và hoàn thành luận văn. Nhân dịp này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo khoa Ngữ văn, khoa Sau đại học - Trường Đại học Sư phạm Thái ...

pdf119 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1145 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Nghệ thuật tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ---------    --------- DƢƠNG THỊ HỒNG LIÊN NGHỆ THUẬT TIỂU THUYẾT CỦA MA VĂN KHÁNG THỜI KỲ ĐỔI MỚI LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN THÁI NGUYÊN - 2008 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ---------    --------- DƢƠNG THỊ HỒNG LIÊN NGHỆ THUẬT TIỂU THUYẾT CỦA MA VĂN KHÁNG THỜI KỲ ĐỔI MỚI CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ: 60.22.34 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: T.S. MAI THỊ NHUNG THÁI NGUYÊN - 2008 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên LỜI CẢM ƠN Tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới TS. Mai Thị Nhung - người đã tận tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu khoa học và hoàn thành luận văn. Nhân dịp này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo khoa Ngữ văn, khoa Sau đại học - Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, Viện Văn học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã giảng dạy và giúp đỡ tôi hoàn thành khoá học. Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã quan tâm động viên, khích lệ, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu. Mặc dù đã nỗ lực cố gắng, song do thời gian thực hiện không nhiều, năng lực bản thân có hạn nên luận văn chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Kính mong nhận được sự lượng thứ và góp ý chân thành của các thầy, cô giáo cùng bạn bè đồng nghiệp để được học hỏi, rút kinh nghiệm cho các công trình sau. Thái Nguyên, tháng 10 năm 2008 Dương Thị Hồng Liên Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................. 1 2. Lịch sử vấn đề ...................................................................................................... 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 7 4. Mục đích nghiên cứu........................................................................................... 7 5. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 7 6. Đóng góp của luận văn ....................................................................................... 8 7. Cấu trúc luận văn ................................................................................................. 8 NỘI DUNG Chƣơng 1. Cái nhìn nghệ thuật của Ma Văn Kháng trong tiểu thuyết thời kỳ Đổi mới ................................................................................................ 9 1.1. Khái niệm cái nhìn nghệ thuật ............................................................................... 9 1.2. Những yếu tố tạo nên cái nhìn nghệ thuật của Ma Văn Kháng ....................... 10 1.2.1. Tố chất thông minh sắc sảo và cá tính sáng tạo của nhà văn ................ 10 1.2.2. Sự chuyển mình mạnh mẽ của một cơ chế xã hội mới ............................. 13 1.3. Cái nhìn nghệ thuật của Ma Văn Kháng trong tiểu thuyết thời kỳ Đổi mới ............................................................................................15 1.3.1. Cái nhìn hiện thực sắc sảo hướng thẳng vào những vấn đề nhức nhối trong cuộc sống .................................................................................. 15 1.3.2. Cái nhìn con người tinh tường nghiêng về những giá trị văn hoá truyền thống .................................................................................................. 28 Chƣơng 2. Giọng điệu nghệ thuật của Ma Văn Kháng trong tiểu thuyết thời kỳ Đổi mới ................................................................................................. 46 2.1. Khái niệm giọng điệu nghệ thuật .......................................................................... 46 2.2. Các sắc thái giọng điệu nghệ thuật trong tiểu thuyết thời kỳ Đổi mới của Ma Văn Kháng ........................................................................................................ 48 2.2.1. Giọng điệu trữ tình thiết tha, sâu lắng ...................................................... 50 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2.2.2. Giọng điệu triết lý, triết luận ...................................................................... 59 2.2.3. Giọng điệu mỉa mai, châm biếm ................................................................ 67 2.2.4. Giọng điệu thương cảm, xót xa .................................................................. 74 Chƣơng 3. Ngôn ngữ nghệ thuật của Ma Văn Kháng trong tiểu thuyết thời kỳ Đổi mới ....................................................................................... 80 3.1. Khái niệm ngôn ngữ nghệ thuật ............................................................................ 80 3.2. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ của Ma Văn Kháng............................................. 82 3.2.1. Ngôn ngữ dung dị đời thường tươi rói sự sống........................................ 83 3.2.2. Ngôn ngữ giàu tính biểu cảm giản dị mà trong sáng .............................. 98 KẾT LUẬN ..................................................................................................................... 107 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................. 110 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Ma Văn Kháng là một trong những nhà văn có công đầu tiên mở đường cho sự nghiệp đổi mới văn học. Vào những năm đầu 80 của thế kỷ XX, nhiều sáng tác của Ma Văn Kháng đã "nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật", từ đó tạo nên những cuộc tranh luận sôi nổi trên các diễn đàn văn học. Ông cũng là một trong số các nhà văn Việt Nam hiện đại sáng tác thành công ở cả hai thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết. Qua từng tiểu thuyết, truyện ngắn, Ma Văn Kháng không ngừng tìm kiếm những cách thể hiện mới. Thời gian và kinh nghiệm nghệ thuật đã tôi luyện ngòi bút Ma Văn Kháng khiến ông luôn gặt hái được những thành tựu đáng kể. 1.2. Toàn bộ tiểu thuyết của Ma Văn Kháng nhìn chung được sáng tác theo hai mảng đề tài lớn với hai cảm hứng chủ đạo: Đề tài về dân tộc miền núi với cảm hứng sử thi và đề tài về thành thị với cảm hứng thế sự đời tư. Trong đó có những tác phẩm được giải thưởng trong nước, quốc tế và được dịch ra tiếng nước ngoài như: Truyện ngắn Xa phủ đoạt giải nhì (không có giải nhất) trong cuộc thi truyện ngắn của Tuần báo Văn nghệ 1967 - 1968, tập truyện ngắn Trăng soi sân nhỏ giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1995, giải cây bút vàng cho truyện SanChaChải trong cuộc thi truyện ngắn và ký 1996 - 1998 do Bộ Công an và Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức. Ngoài Mùa lá rụng trong vườn được giải thưởng Hội Nhà văn năm 1984, Ma Văn Kháng còn vinh dự nhận được giải thưởng văn học Đông Nam Á (1998) và giải thưởng Nhà Nước về văn học nghệ thuật (2001). Với những thành tựu kể trên, Ma Văn Kháng đã tự khẳng định vị thế của mình trong nền văn học Việt Nam đương đại. 1.3. Lâu nay, đã có khá nhiều bài viết, các công trình nghiên cứu về Ma Văn Kháng và các tác phẩm của ông. Nhưng hầu hết là những đánh giá, nhận định chung về từng tác phẩm cụ thể, về hình tượng nghệ thuật, thậm chí là khen chê một tác phẩm hoặc một khía cạnh nào đó của tác phẩm ngay khi nó ra mới ra đời. Với các công trình nghiên cứu công phu như các luận văn Thạc sĩ, luận án Tiến sĩ tuy đã hướng vào những khía cạnh chuyên biệt như: kiểu nhân vật, đặc trưng cuả thể loại, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2 cảm hứng nghệ thuật hoặc những dấu hiệu đổi mới văn học qua sáng tác của ông và một số nhà văn tiêu biểu cùng thời, nhưng việc đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu, khám phá nghệ thuật tiểu thuyết của Ma Văn Kháng từ góc độ cái nhìn, giọng điệu và ngôn ngữ nghệ thuật để thấy sâu sắc hơn quan niệm của nhà văn về hiện thực cuộc sống và con người trong một giai đoạn phát triển đầy phức tạp của xã hội thì vẫn còn bỏ ngỏ. Với những lý do trên, chúng tôi mạnh dạn lựa chọn vấn đề Nghệ thuật tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới làm đề tài nghiên cứu của mình. Việc nghiên cứu một cách hệ thống vấn đề này sẽ giúp chúng ta thấy rõ vị thế của các yếu tố nghệ thuật (cái nhìn, giọng điệu và ngôn ngữ) trong việc thể hiện tư tưởng nghệ thuật của nhà văn. Từ đó khẳng định đóng góp to lớn của Ma Văn Kháng về phương diện sáng tạo nghệ thuật tiểu thuyết thời kỳ Đổi mới, đồng thời đề tài cũng góp phần làm tư liệu tham khảo cho các sinh viên, học viên và những người yêu thích văn học Việt Nam hiện đại. 2. Lịch sử vấn đề Ma Văn Kháng là một trong số những nhà văn có đóng góp đáng kể vào công cuộc đổi mới văn xuôi giai đoạn sau 1975. Một trong những đóng góp ấy là sự đổi mới về cái nhìn, giọng điệu và ngôn ngữ nghệ thuật. Ông "đã cố gắng đổi mới tư duy nghệ thuật tiểu thuyết, tìm hướng đi mới trong lao động sáng tạo nghệ thuật". Ngay từ khi truyện ngắn Phố cụt ra đời (1959) và đặc biệt là những tác phẩm xuất hiện trong giai đoạn đầu những năm 80 của thế kỷ XX, Ma Văn Kháng đã được đông đảo dư luận, độc giả và các nhà phê bình quan tâm. Nhiều công trình nghiên cứu, phê bình của các nhà văn, nhà thơ và các nhà nghiên cứu như: Giáo sư Phong Lê, Lã Nguyên, Tô Hoài, Trần Đăng Xuyền, Nguyễn Bích Thu đã được đăng tải trên nhiều sách báo và tạp chí… Để phục vụ cho những vấn đề mà đề tài nghiên cứu, chúng tôi tập trung tìm hiểu ý kiến của những người đi trước về cái nhìn, giọng điệu và ngôn ngữ nghệ thuật. 2.1. Về cái nhìn nghệ thuật Tiểu thuyết Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới đã thật sự gây được sự chú ý, quan tâm đặc biệt của đông đảo độc giả cũng như giới nghiên cứu, phê bình văn học Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3 và đã trở thành hiện tượng văn học một thời. Các tiểu thuyết Mưa mùa hạ, Mùa lá rụng trong vườn, Đám cưới không có giấy giá thú, Côi cút giữa cảnh đời... đã tạo ra cuộc tranh luận sôi nổi làm cho đời sống văn học đương đại trở nên phong phú và đa dạng hơn. Tác giả Trần Đăng Xuyền, trong bài viết Một cách nhìn cuộc sống hôm nay đăng trên báo Văn nghệ số 15 - 19 - 1983 đã đưa ra nhận định xác đáng về tiểu thuyết Mưa mùa hạ: "Giá trị của Mưa mùa hạ không chỉ là chỗ mạnh dạn lên án cái tiêu cực mà chủ yếu là xây dựng được cách nhìn, thái độ đúng đắn trước những cái xấu, trước những bước cản đi lên Chủ nghĩa xã hội". Sau Mưa mùa hạ, tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn xuất hiện. Trong cuộc hội thảo về tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn do Câu lạc bộ Báo Người Hà Nội và Nhà xuất bản Phụ nữ phối hợp tổ chức, các nhà văn, nhà lý luận phê bình đã có nhiều ý kiến đánh giá về những thành công cũng như những hạn chế của tác phẩm. Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân khẳng định: "Mùa lá rụng trong vườn biểu hiện cho xu thế văn học đang vươn tới những vấn đề cốt yếu"; Hoàng Kim Quý lại nhấn mạnh: "Tác giả Mùa lá rụng trong vườn đã nhìn thẳng vào cuộc sống của những gia đình với mỗi người". Nói về cái nhìn của Ma Văn Kháng trong tiểu thuyết Đám cưới không có giấy giá thú, trong bài viết: "Đọc Đám cưới không có giấy giá thú" của Lê Ngọc Y, tác giả đã nhận thấy "Bằng cách nhìn tinh tế vào hiện thực đời sống tác giả đã mô tả những người giáo viên sống và làm việc gặp quá nhiều khó khăn. Những vui buồn của thời thế đã phản ánh vào những trang tiểu thuyết trở nên sống động". Từ đó, tác giả nhấn mạnh Ma Văn Kháng "đã có cái nhìn hiện thực, tỉnh táo nên không bị thói xấu, cái bất bình thường vốn nảy sinh trong xã hội đang vận động lấn át, hoặc chỉ thấy một chiều này u ám mà không thấy chiều khác đầy nắng rực rỡ". Cùng với ý kiến đó, tác giả Lê Thanh Hùng cũng đưa ra nhận xét: "Có lẽ Ma Văn Kháng muốn bộc lộ một cái nhìn tiến bộ và khá mới mẻ, một nhận định khá chính xác về hiện thực đời sống đương thời - cái xấu, cái ác vẫn tồn tại, hoành hành Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4 và sinh sôi trong đời sống, còn cái thiện, cái tốt mặc dù có nhưng có lẽ chưa đủ mạnh để có thể chiến thắng" [12,77]. Đến với tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời (1998) - tác phẩm mà nhà văn tâm đắc nhất, đã có không ít ý kiến xung quanh tác phẩm. Giáo sư Phong Lê trong cuốn Vẫn chuyện Văn và Người - Nhà xuất bản Văn hoá thông tin năm 1989 cho rằng: "Cuốn sách của Ma Văn Kháng đã vục vào cái sự thật tối tăm oan khổ đó như nhiều cuốn sách khác. Nó thật lạ, anh lại đưa con người vào quỹ đạo những tình cảm nhân hậu tốt lành. Có thể nói, đó là hiệu quả thanh lọc, tẩy rửa. Cái hiệu quả thanh lọc này vốn dành cho nghệ thuật và dường như cũng chỉ có nghệ thuật đích thực, nghệ thuật cao hơn cuộc đời mới có thể làm nổi"… Nhận xét về cái nhìn trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới, nhìn chung các tác giả đã thấy rõ cái nhìn tiến bộ, mới mẻ của nhà văn. Tuy nhiên, đây chỉ là những nhận xét lẻ tẻ trên các công trình của các nhà nghiên cứu. Chúng tôi thấy vấn đề này cần phải nghiên cứu sâu hơn và có hệ thống hơn. 2.2. Về giọng điệu nghệ thuật Trong quá trình sưu tầm tài liệu tham khảo chúng tôi nhận thấy, có những công trình nghiên cứu, những ý kiến đánh giá liên quan đến khía cạnh này như trong bài viết Mùa lá rụng trong vườn và những vấn đề của đời sống gia đình hôm nay (Báo phụ nữ Việt Nam số 17 - 1986) tác giả Trần Bảo Hưng nhận xét: "Về mặt bút pháp, qua tác phẩm này, Ma Văn Kháng bộc lộ thêm một số sở trường mới; khả năng biện giải, triết lý, phân tích một cách khúc chiết thông minh" Nghiên cứu về tiểu thuyết Đám cưới không có giấy giá thú (1989), tác giả Mai Thục cho rằng: Đám cưới không có giấy giá thú có tính luận đề về mối quan hệ giữa những giá trị văn hóa với đời sống của con người; Vũ Dương Quý với bài viết Phải chăng đời là một vại dưa muối hỏng?...đặc biệt là cuộc hội thảo về tiểu thuyết Đám cưới không có giấy giá thú do báo Văn nghệ tổ chức ngày 11- 1- 1990 với sự tham gia đông đảo của các nhà văn, nhà lý luận phê bình nổi tiếng đã đánh giá khái quát và bổ ích, lý thú về giá trị đích thực cũng như những hạn chế của tác phẩm trên mọi phương diện. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5 Khi bàn về Ma Văn Kháng với Côi cút giữa cảnh đời trong Vẫn chuyện Văn và Người, Giáo sư Phong Lê tiếp tục nhận xét: "Truyện ngắn Ma Văn Kháng quả là một hiện tượng nổi bật trong văn học những năm 90, tuy vẫn chỉ một giọng điệu nhưng không gây nhàm tẻ. Biết thế trước rồi mà vẫn ham đọc. Một giọng điệu vẫn là nằm trong trong mạnh ngầm tuôn chảy từ một nguồn chung của nền truyện ngắn hiện đại. Rõ ràng Ma Văn Kháng vẫn chưa tách ra được thật rõ một lối riêng, nhưng vẫn không bị nhoè mờ trong diện mạo chung đó… Côi cút giữa cảnh đời đối với tôi, đó là một cuốn sách đọc không thôi cảm động và đầy ấn tượng. Trên hai trăm trang sách, đọc một thôi, không có gì khúc mắc, tất cả đều dễ hiểu, tưởng như không có nghệ thuật… Cuốn sách của Ma Văn Kháng ai đọc cũng hiểu, đọc một lần là hiểu, và xem ra cũng chỉ một tầng nghĩa thôi. Ấy vậy mà, tôi lại nghĩ, đó mới là hoặc vẫn là nghệ thuật đích thực". Về các luận văn, luận án tiến sĩ chúng tôi thấy luận văn cuả Phạm Mai Anh (1997) - Đặc điểm truyện ngắn Ma Văn Kháng; Lê Thanh Ngọc (2004) - Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng sau 1975; Đỗ Phương Thảo (2006) - Nghệ thuật tự sự trong sáng tác của Ma Văn Kháng… Đây là những công trình đã nghiên cứu và có những nhận xét, đánh giá khá sâu sắc, khách quan một số khía cạnh về phương diện nghệ thuật trong các tiểu thuyết của Ma Văn Kháng và là những gợi ý vô cùng quan trọng cho quá trình nghiên cứu của chúng tôi. 2.3. Về ngôn ngữ nghệ thuật Với sự đóng góp của mình về thể loại tiểu thuyết, Ma Văn Kháng được coi là một trong những người có thành tựu đáng kể trong quá trình đổi mới tư duy tiểu thuyết, tìm hướng đi mới trong sự sáng tạo nghệ thuật, đặc biệt là sự sáng tạo về ngôn ngữ. Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi thấy có một vài công trình nghiên cứu về vấn đề này. Trong bài viết Một vài suy nghĩ khi đọc Côi cút giữa cảnh đời của Ma Văn Kháng, tác giả Vũ Thị Oanh đã cho rằng: "Côi cút giữa cảnh đời - cuốn sách viết theo đề nghị cho lứa tuổi sắp vào đời, không đề cương, không hợp đồng, được xuất bản bởi sự hợp tác của Nhà xuất bản Kim Đồng và Nhà xuất bản Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6 Văn học là một cuốn sách như thế… Đặc biệt, viết cho lứa tuổi sắp vào đời nhưng tác giả không hề né tránh cái xấu, cái ác; những yếu tố tồn tại khách quan làm rõ thêm bức tranh cuộc sống với những cuộc đấu tranh thể hiện ở nhiều bình diện, sắc thái khác nhau. Đó là cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác... Tất cả được thể hiện bằng ngòi bút mềm mại, uyển chuyển, ngôn ngữ hóm hỉnh, phong phú sắc màu: kết cấu có hậu kiểu truyện cổ dân gian của tác giả Ma Văn Kháng". Khi bàn về tác phẩm Ngược dòng nước lũ theo tác giả Hồ Anh Thái, "Ngược dòng nước lũ chứa đựng những điển tích được gài cắm cẩn thận, khi được huy động đã chuyển tải được những gửi gắm của tác giả từ trong chiều sâu suy tư ra bên ngoài, trong một khoảng không gian mở rộng nhiều chiều kích. Nếu không có công dụng tài hoa ấy, cuốn sách ấy chắc khó đọc với những tranh giành đấu đá đầy công thức". Nghiên cứu tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn tác giả Trần Cương đã đưa ra nhận định: "Nghệ thuật viết tiểu thuyết của Ma Văn Kháng đã có bề dày, kết quả của một quá trình phấn đấu liên tục, bền bỉ và ở tác giả đã có định hình rõ nét phong cách nghệ thuật của mình". Gần đây còn có những công trình nghiên cứu ít nhiều đề cập đến ngôn ngữ nghệ thuật trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng như luận văn Thạc sĩ của Lê Thanh Hùng (2006) - Tiểu thuyết Ma Văn Kháng thời kỳ đầu Đổi mới (Giai đoạn sáng tác 1980 - 1989); Lê Minh Chung (2007) - Tiểu thuyết Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới; Đỗ Thị Thanh Quỳnh (2006) - Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết cuả Ma Văn Kháng; và luận án Tiến sĩ của Nguyễn Thi Huệ (2000) - Những dấu hiệu đổi mới trong văn xuôi của Việt Nam từ 1980 đến 1986 - Qua bốn tác giả: Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Nguyễn Mạnh Tuấn... Từ việc tìm hiểu các bài viết, công trình nghiên cứu sáng tác của Ma Văn Kháng ở từng khía cạnh cụ thể có liên quan đến những vấn đề mà luận văn nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy: Nghệ thuật tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới ít nhiều đã được tìm hiểu, đề cập đến. Tuy nhiên, những công trình đó mới chỉ dừng lại ở những ý kiến, nhận định có tính khái quát, tổng hợp. Mặc dù vậy, trong Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7 mức độ nhất định, các tài liệu kể trên sẽ là những gợi ý, định hướng, là nguồn tư liệu quý báu và cần thiết cho chúng tôi trong quá trình nghiên cứu của mình. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Vì thời gian có hạn, luận văn không đi sâu nghiên cứu tất cả các vấn đề nghệ thuật tiểu thuyết của Ma Văn Kháng mà chỉ tập trung vào 3 vấn đề đặc sắc: Cái nhìn nghệ thuật, giọng điệu nghệ thuật và ngôn ngữ nghệ thuật trong tiểu thuyết thời kỳ Đổi mới của Ma Văn Kháng. Trong quá trình nghiên cứu những vấn đề đặt ra, chúng tôi tập trung vào một số tiểu thuyết tiêu biểu của nhà văn như Mùa lá rụng trong vườn, Côi cút giữa cảnh đời, Đám cưới không giấy giá thú, Chó Bi- đời lưu lạc và Ngược dòng nước lũ. Tuy nhiên, để thấy rõ sự chuyển hướng trong nghệ thuật của nhà văn, chúng tôi có đề cập đến sáng tác của nhà văn trước đổi mới và có so sánh với những nhà văn khác. 4. Mục đích nghiên cứu Xuất phát từ những vấn đề nghiên cứu đã được đặt ra chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: "Nghệ thuật tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới" nhằm hướng tới mục đích cụ thể như sau: 4.1. Cảm thụ tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới một cách sâu sắc hơn, đồng thời chỉ ra được những nét đặc sắc riêng trong thế giới nghệ thuật của nhà văn, từ đó góp phần khẳng định phong cách nghệ thuật Ma Văn Kháng. 4.2. Nâng cao khả năng cắt nghĩa, lý giải, truyền thụ cho giáo viên trong quá trình giảng dạy tác phẩm của Ma Văn Kháng ở trường THPT. 4.3. Chỉ ra yếu tố chi phối thế giới nghệ thuật của Ma Văn Kháng, qua đó khẳng định mối quan hệ thống nhất hữu cơ giữa các yếu tố nổi trội: cái nhìn, giọng điệu và ngôn ngữ nghệ thuật Ma Văn Kháng. Khẳng định sự đóng góp to lớn của Ma Văn Kháng trên thi đàn văn học Việt Nam thời kỳ Đổi mới. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Để hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình nghiên cứu chúng tôi sử dụng các phương pháp: - Phương pháp thống kê, khảo sát Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8 - Phương pháp phân tích - Phương pháp so sánh - Phương pháp khái quát, tổng hợp 6. Đóng góp của luận văn - Góp thêm tiếng nói mới về phương diện nghệ thuật trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kỳ đương đại, cũng như có cái nhìn toàn vẹn về quá trình vận động tư tưởng nghệ thuật của nhà văn. - Khẳng định những thành tựu và đóng góp to lớn của Ma Văn Kháng trong nền văn học Việt Nam thời kỳ Đổi mới. - Ở một mức độ nào đó, luận văn sẽ làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy văn học ở trường PTTH và Đại học cũng như người yêu thích văn học Việt Nam. 7. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn được triển khai 3 chương: Chương 1. Cái nhìn nghệ thuật của Ma Văn Kháng trong tiểu thuyết thời kỳ Đổi mới Chương 2. Giọng điệu nghệ thuật của Ma Văn Kháng trong tiểu thuyết thời kỳ Đổi mới Chương 3. Ngôn ngữ nghệ thuật của Ma Văn Kháng trong tiểu thuyết thời kỳ Đổi mới Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9 NỘI DUNG CHƢƠNG 1 CÁI NHÌN NGHỆ THUẬT CỦA MA VĂN KHÁNG TRONG TIỂU THUYẾT THỜI KỲ ĐỔI MỚI 1.1. Khái niệm cái nhìn nghệ thuật Chúng ta đã biết, cái nhìn là một năng lực tinh thần đặc biệt của con người, qua cái nhìn người ta "có thể thâm nhập vào sự vật, phát hiện ra đặc điểm của nó mà vẫn ở ngoài sự vật, bảo lưu sự toàn vẹn thẩm mỹ của sự vật". Do đó, cái nhìn được vận dụng muôn vẻ trong nghệ thuật và là một vấn đề dặc biệt quan trọng, đối với một nhà văn có tư tưởng và sự sáng tạo không thể không có cái nhìn nghệ thuật . Khrápchencô trong cuốn Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn học đã nhận xét: "Chân lý cuộc sống trong sáng tác nghệ thuật không tồn tại bên ngoài cái nhìn nghệ thuật có tính cá nhân đối với thế giới, vốn có ở từng nghệ sĩ thực thụ" [106]. Bởi qua cái nhìn mỗi nhà văn mới tìm ra chất liệu để sáng tác và sáng tạo nghệ thuật. Những nhà văn có tài là những nhà văn nhìn thấy cái mà người khác không thấy hoặc khó thấy. Nhận thấy tầm quan trọng của cái nhìn nghệ thuật, nhà văn Pháp M.Proust có nói: "Đối với nhà văn cũng như đối với hoạ sĩ, phong cách không phải là vấn đề kỹ thuật mà là vấn đề cái nhìn". Như vậy là, các nhà nghiên cứu lý luận và sáng tác nghệ thuật đều khẳng định vai trò đặc biệt của cái nhìn trong sáng tạo nghệ thuật dù ở bất cứ lĩnh vực nghệ thuật nào. Khi nghiên cứu về cái nhìn, Giáo sư Trần Đình Sử cho biết "Cái nhìn được thể hiện trong tri giác, cảm giác, quan sát, do đó nó có thể phát hiện ra cái đẹp, cái xấu, cái hài, cái bi... Đó là một cái nhìn bao quát của người nghệ sĩ" [59,130]. Vậy cái nhìn đó được hình thành từ đâu? và nó được thể hiện trong sáng tác của nhà văn như thế nào? Cái nhìn nghệ thuật được hình thành từ trong quá trình tập trung năng lực tinh thần đặc biệt của nhà văn trước thực tiễn của cuộc sống. Khi nhà văn có cái nhìn sâu sắc, bao quát thì nó sẽ mở ra khả năng nhìn thấy rõ tính cách, quan hệ của con người và còn thấu hiểu được các mối liên hệ giữa những hiện tượng phức tạp của hiện thực. Sự nhận thức, vốn sống của nhà văn về Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10 thế giới được thể hiện chủ yếu trong cái nhìn nghệ thuật. Trong sáng tác của nhà văn, cái nhìn nghệ thuật được thể hiện qua hình tượng nghệ thuật, qua các chi tiết, sự kiện và chi phối thế giới nghệ thuật của tác phẩm. Cũng trong cuốn Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn học, Khrápchencô đã phát biểu rằng: "Một nhà văn tài năng có thể tích luỹ những kiến thức lớn có liên quan tới phạm vi này hay phạm vi nọ của cuộc sống, có thể là một con người hiểu biết trong lĩnh vực này hay một lĩnh vực khác, song nếu thiếu một nhãn quan rộng rãi về cuộc sống thì anh ta sẽ đâm ra bất lực trong việc khám phá ra cái chủ yếu trong hiện thực" [15]. Qua đó có thể thấy, cái nhìn nghệ thuật có ý nghĩa quan trọng như thế nào trong việc phản ánh và khám phá hiện thực. Như vậy, trong nghệ thuật, chân lý cuộc sống không thể tồn tại bên ngoài cái nhìn nghệ thuật của người nghệ sỹ. Thực tế sáng tác, mỗi nhà văn đều có cái nhìn riêng, độc đáo biểu hiện trong thế giới nghệ thuật của mình. Chính cái nhìn ấy đã góp phần tạo nên phong cách nghệ thuật cuả nhà văn. 1.2. Những yếu tố tạo nên cái nhìn nghệ thuật của Ma Văn Kháng 1.2.1. Tố chất thông minh sắc sảo và cá tính sáng tạo của nhà văn Ma Văn Kháng sinh ngày 01 tháng 12 năm 1936, tên thật là Đinh Trọng Đoàn, người dân tộc Kinh, quê gốc ở Phường Kim Liên, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội, nay ở Quận Ba Đình - Hà Nội. Ông là Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Sinh ra trong một gia đình hiếu học, Ma Văn Kháng được bố mẹ rất quan tâm đến chuyện học hành. Vốn có tố chất thông minh cùng với năng khiếu và sự ham tìm tòi trong sáng tạo nghệ thuật ông đã thành công trên con đường sự nghiệp. Ông được đánh giá là một trong những "cây bút văn xuôi lực lưỡng" của văn học Việt Nam hiện đại nửa cuối thế kỷ XX. Là một chàng trai Hà thành chính hiệu nhưng Ma Văn Kháng có một thời gian khá dài sống ở miền núi Tây Bắc. Ma Văn Kháng đã từng tham gia quân đội từ tuổi thiếu nhi và được cử đi học ở Khu học xá Nam Ninh, Trung Quốc. Năm 1960, ông vào học tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Sau khi tốt nghiệp Đại học, Ma Văn Kháng lên dạy học ở Lào Cai và đã lần lượt trải qua nhiều cương vị công tác. Ông Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11 đã từng làm giáo viên dạy Văn, hiệu trưởng trường cấp 2, cấp 3 phổ thông Lào Cai, về sau ông được Tỉnh uỷ Lào Cai điều về làm thư ký cho Bí thư Tỉnh uỷ, rồi làm phóng viên, Phó tổng biên tập báo Đảng bộ Tỉnh. Suốt 20 năm gắn bó với mảnh đất Tây Bắc, Ma Văn Kháng am hiểu lối sống, phong tục tập quán của đồng bào các dân tộc thiểu số. Cái tên Ma Văn Kháng phần nào đã nói lên tình yêu thương mà ông dành cho mảnh đất giàu tình nghĩa ấy. Từ trong tâm khảm, nhà văn đã coi Tây Bắc là quê hương thứ hai của mình. Sau ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng, từ năm 1976 đến nay, Ma Văn Kháng về sống và công tác tại Hà Nội. Ông từng làm Tổng biên tập, Phó Giám đốc Nhà xuất bản Lao động. Đến tháng 3 năm 1995, ông là Uỷ viên Ban chấp hành Đảng - Đoàn Hội Nhà văn Việt Nam khoá IV, trưởng ban sáng tác của Hội và là Tổng biên tập Tạp chí Văn học nước ngoài. Ở cương vị công tác nào, ông cũng là người dễ mến, sống chan hoà với mọi người. Trải qua gần năm mươi năm cầm bút, Ma Văn Kháng đã chứng tỏ khả năng tung hoành ngòi bút của mình trên nhiều lĩnh vực và đề tài khác nhau. Đức tính kiên trì, tố chất thông minh của nhà văn đã giúp ông trong việc tìm tòi nghệ thuật biểu hiện và mạnh dạn phanh phui trực diện những vấn đề phức tạp, gai góc của đời sống hiện tại. Sau nhiều năm miệt mài tâm huyết với sáng tạo nghệ thuật cho đến nay, Ma Văn Kháng đã đóng góp cho nền văn học Việt Nam hiện đại gần 20 truyện ngắn, 10 tiểu thuyết và 8 tập truyện viết cho thiếu nhi. Với khối lượng tác phẩm đồ sộ và bề thế, cùng với chất lượng nghệ thuật trong từng trang viết của mình, Ma Văn Kháng đã khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn xuôi Việt Nam đương đại. Ở những sáng tác thời kỳ đầu người ta có thể thấy ngay chỗ mạnh và cũng là đặc điểm trong các sáng tác của Ma Văn Kháng là tính chất tập trung đề tài và nội dung phản ánh cuộc sống của con người miền núi. Đây chính là "đặc khu" mà Ma Văn Kháng đã dồn tâm, dồn sức trong suốt cuộc đời trai trẻ của mình. Có thể nói cùng với nhà văn Tô Hoài - người đặt nền móng xây dựng nền văn học viết về đề tài miền núi, Ma Văn Kháng đã góp sức mình khẳng định tầm cao mới trong những sáng tác viết về đề tài miền núi của nền văn học hiện đại Việt Nam. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 12 Ma Văn Kháng đã từng tâm sự "Có sự tương hợp giữa thành nhân và đắc đạo văn chương". Chặng đường dài mấy chục năm qua của Ma Văn Kháng đã chứng minh cho sự tương hợp ấy. "Tự rèn luyện mình để viết văn. Viết văn để tự rèn luyện mình" chu kỳ chuyển đổi đó không ngừng vận hành trong cuộc sống hàng ngày của Ma Văn Kháng. Từ một Đinh Trọng Đoàn ngơ ngác giờ đây đã trở thành nhà văn Ma Văn Kháng được bạn đọc mến mộ. Hàng ngàn trang sách của ông quện đặc tình yêu con người, tình yêu thiên nhiên và tình yêu cuộc sống. Trải qua nhiều môi trường công tác, giữ nhiều chức vụ khác nhau, Ma Văn Kháng đã phát huy mọi khả năng của mình để quan sát cuộc sống ở nhiều góc cạnh. Làm việc không mệt mỏi sau mỗi chuyến đi, Ma Văn Kháng lại chắt lọc lại từng mẩu nhỏ của cuộc đời để tái hiện vào trong tác phẩm của mình. Bởi vậy, nhiều người đọc tác phẩm của Ma Văn Kháng cứ ngỡ rằng tác giả viết cho mình - Ma Văn Kháng là "nhà văn của mình". Đến với văn học bắt đầu bằng thể loại truyện ngắn, được người đọc yêu mến qua những tập truyện ngắn đặc sắc, nhưng Ma Văn Kháng chưa hài lòng với phạm vi phản ánh của thể loại này. Ông nhận ra rằng: "Chỉ có tiểu thuyết viết theo quy luật sáng tạo nghệ thuật mới cho phép tôi chuyển hoá khối lượng vốn sống khá dày dặn sau nhiều năm tích luỹ, cho phép tôi phản ánh hiện thực một cách sâu sắc, cho phép tôi gửi gắm vào đó những suy nghĩ, những tình cảm, những kinh nghiệm của cá nhân tôi" [30]. Như vậy, có thể thấy Ma Văn Kháng đã biến tất cả những cái mà mình đã thu lượm được, thành năng lượng tâm hồn và trào chảy ra đầu ngọn bút để tạo dựng cho mình một cái nhìn riêng đầy phong cách của một cây bút hiện thực, cảm thương, từng trải, tinh tế, gan ruột mà đằm thắm. Nằm trong dòng chảy của văn học thời kỳ Đổi mới, các sáng tác của Ma Văn Kháng cũng có những thay đổi đáng kể với những bước đột phá về tư duy nghệ thuật. Nếu như những trang viết của Ma Văn Kháng trước thập kỷ 80 thể hiện cái nhìn mang tính sử thi, thì ở giai đoạn sau nhà văn đã chuyển sang cái nhìn thế sự đời tư. Cuộc sống hiện lên trong tác phẩm của ông giờ đây không còn đơn tuyến mà đa tuyến, nhiều chiều, cái xấu xen lẫn cái tốt, ma quỷ chen lẫn với thánh thần. Ông Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 13 quan tâm, phản ánh đến số phận con người trong nhiều quan hệ, nhiều hoàn cảnh khác nhau và cố gắng nắm bắt mọi khía cạnh của cuộc sống để lột tả nó một cách đầy đủ nhất trong tính đa dạng, toàn vẹn của nó… Đó là một thách thức lớn đối với tất cả các nhà văn, kể cả những nhà văn luôn gắn mình với đô thị. Thách thức đó còn lớn hơn đối với một nhà văn có thời gian lâu dài sống xa nơi phố phường, đô hội như Ma Văn Kháng. Nhưng bằng tài năng, bằng sức sáng tạo và cả tấm lòng của mình, Ma Văn Kháng đã thổi vào văn học Việt Nam thời kỳ Đổi mới một luồng sinh khí mới với cái nhìn tinh tế, sắc sảo, hướng thẳng vào những vấn đề nhức nhối trong cuộc sống hôm nay. 1.2.2. Sự chuyển mình mạnh mẽ của một cơ chế xã hội mới Cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc thắng lợi năm 1975 đã đưa đất nước và nhân dân ta bước sang một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội. Khi tiếng súng đã thật sự chấm dứt, thì hậu quả nặng nề của ba mươi năm chiến tranh chống Pháp và Mỹ vẫn để lại những ảnh hưởng của nó, vì thế thời kỳ hậu chiến vốn đã khó khăn lại càng khó khăn. Công cuộc cải tạo và xây dựng xã hội chủ nghĩa đã bắt đầu bộc lộ những khiếm khuyết cả trong nhận thức lẫn và thực tiễn, bên cạnh đấy là tình trạng suy thoái về kinh tế, tệ nạn xã hội phát triển… Để đưa đất nước thoát ra khỏi cơn khủng hoảng và tình trạng bế tắc đó, Đảng ta đã lựa chọn con đường đổi mới, có thể nói đây là con đường phát triển tất yếu, có ý nghĩa sống còn của đất nước. Trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đã kêu gọi "Đổi mới tư duy" trên tất cả mọi phương diện và "Nhìn thẳng vào sự thật". Sự đổi mới ấy đã đem đến cho văn học một không khí mới - không khí dân chủ hoá, nói như PGS Nguyễn Văn Long "Dân chủ hoá đã thấm sâu và được thể hiện ở nhiều cấp độ bình diện của đời sống văn học" [42]. Các nhà văn được viết những gì họ nhìn thấy, cảm thấy kể cả những mặt trái của đấu tranh, mặt trái của cuộc sống. Có thể nói, dân chủ hoá đã tạo điều kiện cho văn học đề cập đến hiện thực trong và sau chiến tranh một cách toàn diện và sâu sắc hơn ở nhiều khía cạnh. Các nhà văn đã nhấn mạnh tư tưởng tôn trọng sự thật, nhìn thẳng vào sự thật vì "Sự thật luôn luôn là linh hồn của nghệ thuật chân chính" [43]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 14 Thực tế công cuộc đổi mới của văn học diễn ra không hoàn toàn đơn giản một chiều mà hết sức phức tạp, có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau, thậm chí trái ngược nhau nhưng cũng chính điều này lại làm cho đời sống văn học sau Đại hội Đảng VI trở nên náo động hơn. Xét cho cùng, yếu tố quan trọng nhất để quá trình đổi mới văn học thành công là cái tâm trong sáng và trách nhiệm của người cầm bút. Nói như Hà Xuân Trường: "Đổi mới văn học, điều quan trọng nhất, quyết định là cái nhìn và cái tâm của lòng trong sáng nhân ái, cộng với ý thức đầy đủ và chức trách cao cả của văn học đối với con người, đối với cuộc đời, với nhân dân mình. Không có những cái đó thì không có đổi mới" [dẫn theo72,27]. Xuất phát từ một cảm hứng mới, tiểu thuyết thời kỳ này cũng có những thay đổi cơ bản về phương diện nghệ thuật. Từ chỗ lấy sự kiện làm đối tượng hàng đầu để miêu tả hiện thực xã hội, tiểu thuyết đã hướng vào tâm hồn, tính cách số phận con người để soi chiếu trở lại lịch sử và xã hội. Cái nhìn nghệ thuật trong tiểu thuyết có những bước chuyển biến rõ rệt, tiểu thuyết đã trở thành thể loại đóng vai trò chủ đạo trong đời sống văn học. Đây chính là thể loại thích hợp, uyển chuyển và giàu khả năng nhất trong việc bám sát hiện thực cuộc sống và khám phá số phận, tính cánh con người. "Con mắt" tiểu thuyết trở thành công cụ soi chiếu cả bề rộng những vấn đề xã hội và bề sâu với từng số phận con người. Nếu điểm những gương mặt tiêu biểu cho văn học Việt Nam thời kỳ Đổi mới, Ma Văn Kháng phải là một trong những người được ghi công hàng đầu. Cùng với Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Lê Lựu, Nguyễn Mạnh Tuấn... Ông đã dũng cảm tiên phong mở đường cho sự đổi mới của văn học Việt Nam. Đúng như đánh giá của PGS - TS Lã Nguyên "Trước làn sóng đổi mới dâng lên mạnh mẽ trong đời sống tinh thần của dân tộc, trong những điều kiện cực kỳ khó khăn của đất nước, sáng tác của Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Nguyễn Mạnh Tuấn…đã đốt lên nhiệt tình tìm kiếm chân lý. Hứa hẹn khả năng đổi mới văn học Việt Nam khi nó dám sòng phẳng với quá khứ, bất chấp mọi thế lực ngăn cản" [49,158]. Sự đổi mới trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng nói riêng và trong sáng tác của ông nói chung đều bắt đầu bằng cái nhìn nghệ thuật. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 15 1.3. Cái nhì n nghệ thuật của Ma Văn Kháng trong tiểu thuyết thời kỳ Đổi mới 1.3.1. Cái nhìn hiện thực sắc sảo hướng thẳng vào những vấn đề nhức nhối trong cuộc sống Khi chuyển hướng ngòi bút sáng tác của mình, Ma Văn Kháng đã nhanh chóng tiếp cận một hiện thực phong phú, ngổn ngang, bộn bề, phải trái trắng đen lẫn lộn, xen cài trong đó biết bao biến động. Quả thực, nhiều chục năm nay, khi nói đến hiện thực trong văn học bên cạnh những mặt tích cực, phấn chấn hào hùng luôn được các nhà văn miêu tả một cách hào phóng, thì những mảng tối, những bóng đen nhiều khi còn quá gượng nhẹ, hoặc né tránh. Trong khi cái xấu, cái ác không biết từ lúc nào từ bóng tối đã lấn dần ra ánh sáng và biết bao con người lao động lương thiện đã lâm vào đau khổ, thậm chí tuyệt vọng. Cũng như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Nguyễn Mạnh Tuấn… Ma Văn Kháng đã "vục" vào cái sự thật tối tăm, oan khổ trong hầu hết các sáng tác của mình. Đất nước ta vừa trải qua hai cuộc chiến tranh tàn khốc, nay trở về cuộc sống đúng với quy luật bình thường của nó, nhưng thực tế đó không hề diễn ra bình yên. Vốn đã quen với đời sống trong chiến tranh, nơi chỉ có mục tiêu duy nhất là đấu tranh giành độc lập tự do, giờ đây trước cuộc sống mới con người trở nên bỡ ngỡ, khó bề hoà nhập ngay được với cơ chế mới, hoàn cảnh sống mới. Đời sống của nền kinh tế thị trường lúc này là một thứ thuốc thử về năng lực và phẩm hạnh con người. Con người phải đứng trước những thử thách nghiệt ngã của cuộc sống mà cuộc đấu tranh với chính bản thân là cuộc đấu tranh nhiều cam go nhất. Thử thách này không chỉ diễn ra với đại bộ phận người dân mà còn diễn ra ngay trong bộ máy chính quyền, quản lý Nhà nước. Trước thực tế không ít những kẻ được Đảng và Nhà nước giao trách nhiệm quản lý, giúp đỡ nhân dân đã thừa cơ hội "đục nước béo cò", đục khoét của Nhà nước, chèn ép, hành hạ những người dân lương thiện, Ma Văn Kháng đã nhanh chóng đưa hiện tượng đó lên từng trang sách của mình. Với cái nhìn sắc sảo và mới mẻ nhà văn đã nhìn hiện thực cuộc sống ở tầm vĩ mô để phát hiện nguyên nhân của sự thật đau lòng đấy chính là sự bất cập trong việc lựa Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 16 chọn cán bộ chủ chốt ở từng cơ quan, công sở, trường học. Ma Văn Kháng đã đưa ra ánh sáng sự ấu trĩ của xã hội ta một thời, đó là lý lịch hoá trong việc lựa chọn cán bộ lãnh đạo. Hơn thế, nhà văn còn nhìn thấu để leo lên được vị trí, để có được chức quyền, không ít người đã dùng thủ đoạn, kể cả những thủ đoạn trắng trợn, bỉ ổi nhất. Trước những thói hư tật xấu đang hoành hành ngang nhiên tồn tại và ngày càng nảy nở, sinh sôi trong đời sống xã hội, làm tha hoá biến chất biết bao con người, đặc biệt là những hiện tượng tiêu cực của Cán bộ, Đảng viên trong một số cơ quan Nhà nước có thể trở nên nguy hiểm như "những tổ mối tiềm tàng trong lòng những con đê mà không trừ được tận gốc". Ma Văn Kháng cảm thấy lo âu, trăn trở và muốn cất lên lời kêu cứu khẩn thiết cần phải chấn chỉnh lại cơ chế cũ của một nhà văn có cái tài, cái tâm trong sáng, có trách nhiệm với cuộc đời trên những trang văn của mình. Trong Mưa mùa hạ bằng mọi thủ đoạn hèn hạ và bất nhân, Hưng leo lên được quyền trưởng phòng. Có quyền Hưng hiện nguyên hình là một kể tha hoá. Toàn bộ động cơ sống của con người này toát lên mục đích thực dụng vị kỷ. Trước mặt đồng nghiệp ở cơ quan, Hưng đã trơ trẽn tuyên bố rằng: "Con người ta, anh quái nào chẳng vụ lợi… và nói chung ai cũng chính vì mình mà thôi" [25]. Biết Trọng là một kỹ sư giỏi, giầu nhiệt huyết, đầy hứa hẹn trong công tác chuyên môn, nghiên cứu khoa học và biết chắc một điều những thành công của Trọng là một điều vô cùng bất lợi đối với mình. Hưng đã lợi dụng quyền trưởng phòng để trù dập, để cản bước tiến của Trọng. Kết cục Trọng phải ở lại cơ quan chờ án kỷ luật. Hành vi thấp hèn của Hưng đã đẩy một con người tự tin, yêu đời đầy lý tưởng sống, một tâm hồn trong sáng nhiệt thành, một ý chí vươn lên mạnh mẽ rơi vào bi kịch xót xa khiến anh có lúc thầm chua chát "Nam đã chết còn anh đang chết mòn…". Ông Lại, vốn là đồ tể ở cái ba toa cuối phố, vì "có công" "chạy ra đón bộ đội vào giải phóng thị xã" [21,102] thế là đương nhiên ông trở thành một người đã tham gia cách mạng. Đó là xuất thân và cũng là "thành tích" của Bí thư Thị uỷ của một thị xã miền cao trong Đám cưới không có giấy giá thú. Chỉ là một gã đồ tể, đi theo cách mạng có hai năm, tức hơn bảy trăm ngày cũng đã đủ vốn liếng để trở thành Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 17 một Bí thư Thị uỷ - kẻ có quyền hành tuyệt đối bao trùm lãnh địa, thực hiện quyền lực vào tất cả ngõ ngách của đời sống. Chính vì thế, ông càng tỏ uy quyền bao nhiêu thì lại càng thể hiện sự ấu trĩ, vô văn hoá bấy nhiêu. Hãy nghe ông phát biểu trong buổi khai giảng năm học đầu tiên của một trường Trung học: "Hôm nay, thị xã ta khai giảng trường cấp 3, rồi đây chúng ta sẽ mở trường cấp 4, cấp 5, cấp 6. Cũng giống như Tỉnh ta có giống lợn lai kinh tế nhiều nạc, tăng trọng nhanh " [21,101- 102]. Công việc mở mang dân trí, khai sáng văn minh lại được Bí thư Thị uỷ ví như việc phát triển những giống lợn, khiến cho học sinh và những người thầy đứng ra gánh vác cái trọng trách to lớn ấy phải tủi hổ. Chưa hết, cực điểm của màn bi hài là ông đã hùng hồn tuyên bố trước toàn thể giáo viên và học sinh "Trí thức không bằng cục cứt chó khô đâu các người hãy nhớ lấy" [21,103] và tầng lớp trí thức tiểu tư sản chỉ là "cái sinh thực khí tức là cái của thằng đàn ông. Nghĩa là xung trận thì nó được kích thích thì nó cương cứng lên. Rồi sau đó lại ỉu xìu như thằng đã chết trôi" [21,103]. Làm sao có thể tưởng tưởng được những lời mạt sát vừa vô học, vừa bỉ ổi đó lại được phát ngôn từ một người đại diện cho Đảng. Đó quả thật là một thảm kịch cho một nền văn hoá mới. Dưới cái nhìn sắc sảo và mới mẻ của Ma Văn Kháng, chân dung của ông "quan Lại" được hiện lên một cách sống động, chân thực và sắc nét. Chân dung đó một lần nữa lại đươc tái hiện một cách rõ ràng hơn qua cuộc đối thoại giữa ông với thầy giáo dạy giỏi văn Đặng Trần Tự tại trường trung học số 5: "- Anh có được người ta dạy chủ nghĩa Mác không? Có hiểu linh hồn chủ nghĩa Mác là gì không? - Chủ nghĩa cộng sản là chủ nghĩa nhân đạo hoàn thiện, là chủ nghĩa tự nhiên hoàn bị. Lịch sử là một dòng chảy tự nhiên, ở ngoài ý chí cá nhân. Là dòng chảy vô thức xã hội. - Ngu! linh hồn chủ nghĩa Mác là chuyên chính! - Người xưa nói: Ngựa vì buộc nó bằng giàm, ách nên nó mới lồng lên hung hăng. Trị người như trị ngựa, làm trái nhân tính sẽ gây rối loạn. - Im đi! vừa phong kiến mà sặc mùi tư bản là anh! Cút! " [21,107-108]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 18 Có thể nói đây rõ ràng là một cuộc quyết đấu giữa quyền lực và tri thức, nhưng đây là một cuộc chiến không cân sức khi tri thức và nhân cách chỉ là số ít mà quyền lực vừa đông, vừa mạnh lại có cả cái gan làm liều, do tự thị và vô học, để rồi đi đến một kết cục đau thương, khi cái đẹp, cái tốt, cái cao cả bị chà đạp. Cái nhìn sắc sảo của Ma Văn Kháng còn nhận thấy hậu quả khôn lường của sự ấu trĩ và bất cập ấy. Nhà văn nhìn rõ khi cái dốt, cái ác nắm quyền lực thì hậu quả của nó thật khôn lường. Thầy giáo Tự (Đám cưới không có giấy giá thú) còn khốn đốn vì Bí thư Dương và Hiệu trưởng Cẩm. Từ một bí thư Đoàn xã trình độ văn hoá lớp 7, nhờ sức vóc, đạt giải chạy 1000 mét ở Huyện, Cẩm được đề bạt làm cán bộ Đoàn, và được mời vào dạy thể dục ở một trường cấp II. Do có một vài năm thâm niên trong nghề, Cẩm được cử đi học Đại học theo ý đồ vạch sẵn. Lợi dụng kẽ hở trong quản lý cùng với năng lực "chạy", Cẩm nghiễm nhiên trở thành một hiệu trưởng trường cấp III. "Cẩm là loại trí thức giả danh dốt nát và bần tiện". Hiệu trưởng Cẩm của cái trường cấp III bất hạnh ấy, "chính là sản phẩm của một thời lấy lý lịch ba đời nghèo khổ, lấy tấn phân xanh phân chuồng làm thước đo giá trị của mỗi con người". Với lối đề bạt như vậy, lại thêm cái thói tham lam vô độ, bần tiện, liều lĩnh và luôn thèm khát địa vị, Cẩm đã làm điêu đứng, tổn thương biết bao nhiêu người chân chính như ông Thống, như Tự… Cũng như Cẩm, Dương đã đạt lên tới đỉnh cao của danh vọng, tuy nhiên con đường tiến thân của Dương nhanh gọn hơn. Trình độ văn hoá mới chỉ là lớp nhì năm thứ nhất nhưng Dương tốt nghiệp lớp lý luận cấp cao nên ông ta được Bộ Giáo dục đưa sang làm giáo viên dạy chính trị - Bí thư chi bộ nhà trường. Là giáo viên dạy chính trị nhưng ông Bí thư chi bộ của nhà trường này đã trở nên bất hủ với lời giải thích: Mác xít là tên gộp của hai vị lãnh tụ cộng sản C.Mác và Xíttalin ghép lại. Ông còn đồng hoá với chức vụ và càng thâm niên đảm nhiệm chức vụ ông càng xa cách con người bình thường tự nhiên, càng bộc lộ rõ trình độ văn hoá cấp I của mình. Ông cho rằng: "Văn chương tự cổ vô bằng cứ. Văn chương là tư tưởng. Mà tư tưởng thì nó như con lươn rúc bùn, như anh chàng Tôn Ngộ Không bảy mươi hai phép biến hoá thần thông, sai đấy, đúng cũng đấy, lập lờ phản trắc cũng là ở đấy…" Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 19 [21,176]. Dương còn một thói xấu nữa là nhân danh cán bộ Đảng, tự cho mình có quyền bóc thư người khác để xem trộm. Thật là một hiện tượng kỳ quặc, một sự thiếu văn hoá lạ lùng. Đặc điểm của người ít học, kém trí tuệ được ông "phát huy" một cách triệt để. Ông hay quan trọng hoá và lên mặt cường điệu về vai trò của mình…Tiếc thay công tác Đảng, các động lực vĩ đại của cộng sản, cái linh hồn sống động của sự phát triển, thông qua ông Dương đã biến thành một chuỗi công việc đối phó vặt vãnh, ngờ nghệch. Có những khi ông Dương được miêu tả là một ông lão cổ hủ, dốt nát, lúc lại hiện nguyên hình là một gã cảnh sát chỉ nhằm phạt vi cảnh người bộ hành, lại có lúc hành tung của một tên mật thám quỷ quyệt. Đó là những kẻ "bất tri" nhưng lầm tưởng là "tri" và tự giao cho mình cái quyền dạy cách làm người cho giáo viên và học sinh. Ấy thế mới nảy sinh ra những nghịch lý, cái xấu ngồi trên cái tốt, cái vô văn hoá dẫm đạp lên cái có văn hoá, cái ngu dốt ngự trị tài năng. Sự đảo ngược các giá trị đó đã làm cho những người tâm huyết như Ma Văn Kháng dằn vặt đến đau đớn. Viết về nhà trường đấy nhưng thực ra Ma Văn Kháng muốn đề cập đến một vấn đề xã hội rộng lớn hơn. Câu chuyện tiêu cực ở trường Trung học số 5 này, mang dấu ấn và là sản phẩm của một giai đoạn xã hội mang nặng tính chất giáo điều, máy móc áp đặt, lối làm việc chạy theo thành tích giả dối trong công việc, trong quan hệ đối xử giữa con người với con người. Những kẻ nắm quyền lực đã tỏ ra không xứng đáng với trách nhiệm của mình và là những kẻ tồi tệ, không thể chấp nhận được. Hướng thẳng cái nhìn sắc sảo, tinh vi của mình vào những vấn đề nhức nhối trong cuộc sống, Ma Văn Kháng còn chỉ ra cái ác, cái xấu không chỉ tồn tại ở một cá nhân mà là một liên minh những kẻ cầm quyền tha hoá, lợi dụng chức quyền hãm hại người dân lương thiện. Trong Chó Bi - đời lưu lạc, liên minh đó bao gồm; Viễn cụt, mụ Lên, Xuân Chương và gã y sỹ nửa mùa… Viễn là chủ tịch phường, Lên là chủ nhiệm cửa hàng kinh doanh tổng hợp, Xuân Chương được phân công chuyên trách tư tưởng của cả phường. Cả ba đều thuộc diện ưu đãi của chính sách. Viễn khai là thương binh què chân, Xuân Chương khai là thương binh loại nhẹ, lý lịch ghi có thời đi thanh niên xung phong tuyến lửa, còn mụ Lên khai là vợ liệt sĩ. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 20 Nhưng thực chất Viễn chính là một tên lưu manh đảo ngũ, đã tự chặt ngón tay để khỏi phải ra chiến trường. Vốn là một anh lính bị kỷ luật trong chiến tranh do giết bạn, rồi do ăn cắp lý lịch của bạn mà Viễn được thăng tiến… Còn mụ Lên "tính khí hoa nguyệt đến mức gây rối loạn chức sắc địa phương" phải tha hương lên thành phố. Xuân Chương thì là một tướng khỉ, không nghề nghiệp, bỏ quê ở miền Trung đi làm phu hồ ở công trường xây dựng nhà ở của phường. Được ví là "gã trai đàng điếm" nên chẳng bao lâu hắn đã nhanh chóng quen hơi bén tiếng với mụ đàn bà "hừng hực bản năng giống cái" để trở thành "cô cháu" rồi ở cùng một nhà. Cả ba người, nắm ba mặt quan trọng nhất của đời sống: chính quyền, kinh tế, văn hoá… và cả ba đều cùng một duộc, kết bè kết đảng với nhau để đục khoét, vơ vét, của cải của người dân lương thiện về tay mình, về nhà mình. Những kẻ lãnh đạo như thế, bộ mặt của phường và đời sống nhân dân được chăm lo như thế nào là điều ai cũng có thể tưởng tượng ra. Trước một cái nhìn sâu sắc, đa diện, Ma Văn Kháng nhận thấy nạn nhân của liên minh ma quỷ này không ai khác là gia đình ông Thuần, một gia đình vốn rất hạnh phúc, vui vẻ , đầm ấm. Vợ ông Thuần là giáo viên ở một trường Trung học, là người đôn hậu, hiền lành hết lòng vì chồng vì con. Họ có hai cậu con trai thông minh, học giỏi, ngoan ngoãn. Một gia đình tuyệt vời như thế lại trở thành cái gai trong mắt những kẻ độc ác, bất nhân như Viễn, Lên, Xuân Chương... Hơn nữa ông Thuần lại có một "trọng tội" là thủ trưởng cũ của ông Chủ tịch phường, người đã kỷ luật và nắm rõ sự tích ngón tay cụt của lão, điều mà xưa nay ông Chủ tịch Phường không muốn ai biết. Vì lẽ đó, lão ta đã báo cáo ngầm lên trên để vu oan ông, khiến cho gia đình ông Thuần - một trí thức tiếng tăm và được trọng vọng bỗng chốc đã tan nát, lâm vào cảnh khốn đốn: Chồng con bị tù tội; vợ bị xúc phạm kỳ thị của hàng xóm và sự bức hiếp của những kẻ cầm quyền đến nỗi đau ốm suy sụp. Đa dạng trong cái nhìn, nếp cảm, lối nghĩ, Ma Văn Kháng đã nhìn rõ chân dung của những nhà cầm quyền một thời. Họ không hề có ý thức vì dân, phục vụ dân. Trái lại, họ lợi dụng chức quyền để bóc lột và chèn ép người dân. Mục đích duy nhất của những nhà cầm quyền trong Côi cút giữa cảnh đời là làm sao vơ vét Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 21 được càng nhiều tiền của cho bản thân mình càng tốt cho dù phải dùng thủ đoạn gì chăng nữa. Ông Luông - Chủ tịch phường Ngọc Sinh, vốn sống trong một ngôi nhà "kín cổng cao tường, qua ba lớp cửa sắt mới vào được tới sân. Mảnh chai tua tủa sắc rợn trên vòng tường vi, trên nữa là giây thép gai đan lưới mắt cao. Ông có một chùm chìa khoá hai mươi mốt chiếc… vào đến buồng ngủ phải qua bẩy lần cửa khoá nổi khoá chìm" [23,35] là những người như thế. Ma Văn Kháng đã để cậu bé Duy, mười năm tuổi nhìn lại cái thời thơ ấu của mình mà ghê sợ nhận ra rằng: "Thì ra con người ta là vậy, nó, chính nó nhiều khi lại là thủ phạm gây bao nỗi oan khổ đau đớn cho đồng loại. Con người mang tiếng là con người mà sao nó lại có thể nhẫn tâm, đểu cáng thế" [23,134]. Không chỉ ông Luông mà tên Hứng cũng không từ thủ một đoạn nào để cướp đoạt tài sản của ba bà cháu đang sống trong cảnh đau buồn, tuyệt vọng. Khi một bà lão già nua gần 70 tuổi do hoàn cảnh đưa đẩy phải chăm lo nuôi dạy hai đứa trẻ côi cút. Cuộc sống của ba bà cháu đã phải trải qua những ngày nguy khốn, tuyệt vọng, phải đem bán cả đồ đạc, ăn bữa rau bữa cháo, bữa đói bữa no… Quả thật, nếu ai đã từng đọc và chứng kiến tình cảnh đau thương này không khỏi không xót xa, đau đớn. Thế mà hắn hàng ngày sống và chứng kiến tình cảnh đó lại không sẻ chia, giúp đỡ mà ngược lại còn lợi dụng chức quyền, lợi dụng gia cảnh của ba bà cháu để chèn ép, để vơ vét cho mình. Chúng đã liên minh lại với nhau để thực hiện dã tâm chiếm đoạt ngôi nhà của ba bà cháu, chỉ để lại cho một bà già và hai đứa trẻ côi cút một căn buồng vẻn vẹn 6m vuông. Càng không ai có thể ngờ, một người giàu có như Chủ tịch phường Luông, đã từng công tác trong ngành ngoại giao 30 năm, lại có thói quen "ăn bẩn" khi ăn chặn, ăn quỵt của trẻ con từng đồng từng hào mà mẹ chúng gửi về. Ông ta đã trắng trợn cướp đi từng miếng cơm manh áo của con trẻ, thậm chí cả sinh mệnh chúng. Không những tham lam, độc ác, ăn bẩn một cách vô độ, ông Chủ tịch phường Ngọc Sinh còn là một kẻ cửa quyền độc ác và ngu dốt. Ông ta cho rằng mình là người nắm "công tắc điện", cho ai sáng người ấy được sáng. Ngu dốt đến mức cho rằng Tây du ký là cuốn sách viết về chuyện Đặng Tiểu Bình đi Mỹ, cấm mọi người đọc, rồi ông ta căn cứ vào hai cái họ: họ Lã (nhà Duy) và họ Đổng (mẹ Duy) để ngang nhiên buộc tội dân lành, ông còn cố tình cho Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 22 rằng cái món tiền hàng tháng được bí mật gửi cho bà cháu Duy là tiền của bọn gián điệp nó trá hình cấp cho cụ (mà sau này xác minh được đó là tiền mẹ Duy gửi). Và tất nhiên là ông ta giữ luôn số tiền hàng tháng đó vào trong túi mình, biến thành tài sản của mình… Đặc biệt là Tổng cục trưởng Nguyễn Văn Phô trong Ngược dòng nước lũ - vốn là một học sinh nổi tiếng dốt nát và bỉ tiện, quá kém cỏi nên bị thầy Khiêm (lúc ấy là hiệu trưởng) đuổi học, đi làm công nhân bốc vác ở nhà ga xe lửa, rồi "nhảy tót lên ghế cục trưởng". Cũng leo lên bằng cơ chế lý lịch hoá, Tổng cục trưởng Phô không cần học hành, không mất xương máu, chỉ cần có một lai lịch nghèo khó, một vẻ ranh mãnh trên đường đời, đã khiến cho con đường thăng tiến của Phô trở nên dễ dàng. Nhưng càng đứng ở vị trí cao thì sự kém cỏi về năng lực càng được bộc lộ. Từ diện mạo "lạnh lẽo cô hồn, vừa nham hiểm" [26,158]. Khi có quyền lực tối cao hắn "ỷ vào quyền hành... hay trả thù cá nhân". Để giữ được cái địa vị tối cao, Phô luôn tìm cách loại bỏ những đồng nghiệp không tuân phục cách quản lý của mình. Đặc biệt là khi phát hiện ra Khiêm là thầy giáo cũ - người biết quá rõ lai lịch mình lại xuất sắc và cao đẹp trong nhân cách đạo đức, vì lẽ đó hắn luôn tìm mọi cách để loại bỏ Khiêm. Phô thực hiện triệt để chủ trương "tôi không cần người có tài, tôi chỉ cần đoàn kết" [26,159], không cần người có tài và biết làm việc, mà chỉ cần những kẻ biết tuân phục nên hắn đã đạo diễn hết màn kịch này đến màn kịch khác hòng dồn đẩy những con người như Khiêm đến tận cùng bi kịch đau xót. Trong Ngược dòng nước lũ không chỉ có Phô mà Ma Văn Kháng còn nhìn thấu đến tâm can sự đen tối của những kẻ hám danh, hám lợi đến cạn tình ráo máng như Đức, Hiển, Quanh lé... Khi biết Khiêm bị Phô đánh bật ra khỏi vị trí công tác của mình, Quanh xum xoe nịnh nọt Phô để hòng được cân nhắc lên ghế chủ nhiệm thay Khiêm. Kẻ a dua này theo lệch chủ phản bội lại Khiêm không từ thủ đoạn nào. Cái đám đông bất tài vô nghĩa lý ấy, được Phô dựng lên bằng quyền lực, động cơ cá nhân của mình để giữ bằng được cái chỗ ngồi của mình, Phô đã dựng quanh mình một liên minh ma quỷ, những kẻ dốt nát, vô đạo đức, nhằm chống lại Khiêm và củng cố địa vị của mình. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 23 Ma Văn Kháng vốn là một cây bút đầy nhiệt thành, tâm huyết và trách nhiệm. Vì vậy, những chuyện tiêu cực trong các sáng tác của ông không toát ra sự thoả thuê, cay cú mà nổi bật lên là thiên hướng nhạy cảm với mặt trái của cuộc sống, là khả năng đồng cảm của tác giả với nỗi đau của đồng loại. Nhân loại vượt qua không ít đắng cay và tồn tại đến ngày nay, trước hết là nhờ ở đó có những con người chưa bao giờ đánh mất đi khả năng đồng cảm với nỗi đau của đồng loại. Trong tiểu thuyết thời kỳ Đổi mới, Ma Văn Kháng đã không hề cường điệu khi nhìn thấy không ít kẻ tha hoá mục ruỗng trong bộ máy quản lý nhà nước, không ít những kẻ lợi dụng chức quyền "tích cực" tham ô, bóc lột vơ vét của nhân dân. Chính cái nhìn ấy đã thức tỉnh những người có lương tri để cải tạo xã hội. Lênin đã từng khẳng định: "Chỉ khi nào chúng ta không thừa nhận những thiệt hại, và những thiếu sót của mình, chỉ khi nào chúng ta nhìn thẳng vào sự thật, dù là sự thật đáng buồn nhất đi nữa - chỉ khi đó ta mới học được cách chiến thắng". Có thể khẳng định Ma Văn Kháng đã học được cách chiến thắng để nhìn thẳng vào hiện thực của đời sống lúc bấy giờ. Trong giới phê bình, nghiên cứu văn học có nhiều ý kiến khác nhau xung quanh cái nhìn hiện thực của nhà văn Ma Văn Kháng. Có ý kiến cho rằng, Ma Văn Kháng có một cái nhìn quá bi đát về hiện thực. Ý kiến ấy không phải không có cơ sở, bởi nhà văn có cái nhìn ở nhiều góc khuất cuộc sống và chuyển tải lên trang văn của mình. Có điều như đã trình bày, nhà văn đưa cái xấu, cái ác không ngoài mục đích để mỗi chúng ta nhìn thẳng vào sự thật của cuộc sống dũng cảm đối diện với nó, cải tạo nó để cuộc sống này có ý nghĩa hơn. Bằng cái nhìn sâu sắc, bằng lương tri và trách nhiệm của người cầm bút, Ma Văn Kháng không chỉ nhìn thấu sự ấu trĩ và những điều bất cập bất ổn trong cơ quan quản lý, mà ông còn thấy rõ những tôn ti trật tự trong các mối quan hệ xã hội và gia đình đang chao đảo trước nền kinh tế thị trường hôm nay. Xuất phát từ một trái tim nặng trĩu ưu tư, Ma Văn Kháng luôn lo lắng cho những giá trị văn hoá và đạo đức truyền thống đang bị đảo lộn và dần bị mai một. Ma Văn Kháng đã có cái nhìn khá mới mẻ, đa diện trong việc khám phá và đào sâu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 24 các vấn đề của đời sống gia đình trước cơ chế mới đang có nguy cơ lung lay, bật rễ, chao đảo. Khác với cái nhìn của Nguyễn Khắc Trường trong Mảnh đất lắm người nhiều ma, Ma Văn Kháng không đi sâu tìm hiểu các vấn đề bộn bề của gia đình, dòng họ ở mảnh đất nông thôn vốn bình yên nay cũng đang chao đảo, mà ông hướng cái nhìn của mình về khu đô thị, nơi lâu nay vẫn được coi là tiến bộ, là văn minh. Ngay từ những năm đầu của nghiệp cầm bút, Ma Văn Kháng đã tái hiện đời sống trong gia đình Việt Nam hiện nay, bởi gia đình vốn là một mắt lưới cơ bản của xã hội, là nền tảng vững chắc cho xã hội phát triển. Gia đình cái vùng tưởng như yên ổn, cái mà có lúc tác giả gọi đó là "vùng an lạc" trong vòng xoáy của cơ chế thị trường và đời sống xã hội thời hiện đại có ai ngờ lại là vùng chứa nhiều sóng gió nhất. Lối sống ích kỷ buông thả theo những dục vọng thấp hèn, coi đồng tiền là trên hết, bất chấp những nguyên tắc, luật lệ của truyền thống lan toả vào từng gia đình làm đảo lộn cả những giá trị truyền thống thiêng liêng cao cả. Về vấn đề này, Lê Lựu trong Thời xa vắng cũng đã đề cập. Nhưng dường như cái nhìn của nhà văn vẫn chưa soi tỏ được hết hiện thực cuộc sống trên tất cả các bình diện. Với Ma Văn Kháng, thành thị đã thực sự trở thành một môi trường mà mở ra cho ông một tầm quan sát và khả năng bao quát rộng lớn trên nhiều bình diện. Qua cái nhìn của nhà văn, cuộc sống nơi thành thị lẽ ra là cái nôi của nền văn minh, nhưng nó cũng chính là cái tổ của những thói hư tật xấu, thói hám tiền, hám danh, tham quyền lực... Nơi đây, đồng tiền có sức mạnh vạn năng. Có thể làm thay đổi nhân cách, lối sống của không ít gia đình, con người ở nhiều giai tầng khác nhau. Ma Văn Kháng nhìn rõ sự chao đảo trong gia đình ông Bằng trong tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn. Vốn là gia đình xưa nay nổi tiếng mẫu mực gia giáo, đạo đức, với năm anh con trai, năm hòn ngọc quý, các cô con dâu đều là những con người đảm đang, hết lòng vì chồng con và gia đình. Vậy mà, những quan niệm về lối sống mới lại đang từng ngày, từng giờ xâm nhập vào cái gia đình giầu truyền thống đó. Với ông Bằng, mỗi gia đình là một tế bào nhỏ nhoi của xã hội "nhỏ nhoi là vậy mà là nền móng, mà kết hợp nó trong bao quan hệ: Tình cha con, tình vợ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 25 chồng, anh em, những quy tắc luân lý bất thành văn, bám rễ sâu vào huyết mạnh, tâm cảm, giằng níu mọi người trong những giao kết, liên hệ vừa nghiêm chỉnh vừa thân mật" [22,87]. Tự hào về gia đình mình, ông Bằng cũng rất hy vọng những ngày cuối đời mình sẽ trôi qua trong hạnh phúc đầm ấm của gia đình. Thế nhưng sở nguyện của ông giờ đây trở nên bấp bênh hơn bao giờ hết, bởi gia đình ông không còn là một vùng yên ổn nữa, nó đã phản chiếu tất cả cuộc sống ở ngoài đời "cái vùng tưởng là tĩnh lặng, cái vùng hay bị lãng quên trong mối quan tâm hàng ngày, có ai ngờ lại là nơi khơi thuỷ, chung cục của lắm điều bất hạnh" [22,345]. Những điều bất hạnh đó là do sự tác động của đời sống xã hội đang ngày một đổi thay, là do sức mạnh của đồng tiền chi phối mà con người không làm chủ được. Trước hết là Cừ con trai ông Bằng, vì không chịu hấp thu nền giáo dục truyền thống gia đình, nên đã bị những cám dỗ xấu xa của xã hội lôi kéo ra khỏi nề nếp gia phong. Cừ coi thường tất cả những giá trị tinh thần cao quý, coi đạo đức và các mối quan hệ tình cảm thiêng liêng với tổ quốc, gia đình, bố mẹ, anh chị… là con số không vô nghĩa. Với Cừ cuộc đời là một sự lừa lọc "đạo đức giả cả thôi". Quay lưng lại với những lời dạy của bố mẹ, lại bị bạn bè xấu lôi kéo, Cừ đã bỏ mặc gia đình, từ bỏ quê hương xứ sở ra nước ngoài sinh sống, để rồi phải chấp nhận một kết cục bi thảm nơi đất khách quê người. Khi đã nhận thức ra thì đã quá muộn "Xa rời những tiêu chuẩn đạo đức con người thành thú dữ tàn bạo ngay. Đó là điều giờ đây con mới hiểu" [22,224]. Trong sự tuyệt vọng, Cừ đã kết thúc cuộc đời mình bằng một liều thuốc ngủ. Đặc biệt là Lý con dâu ông Bằng. Là một người phụ nữ xinh đẹp, giỏi giang, đảm đang tháo vát khi không thắng nổi sự cám dỗ, vì muốn theo đuổi những ham muốn vật chất nhất thời, chị đã trở thành người hoàn toàn khác. Để chạy theo những ham muốn và khát vọng làm giàu, Lý đã khước từ trách nhiệm làm dâu, thiên chức làm vợ, làm mẹ để sống một cuộc sống buông thả với gã trưởng phòng xấu trai giầu có, làm gia đình tan nát, công việc dang dở… Lý đã trở thành nạn nhân của chính mình và phải đón nhận một kết cục bất hạnh. Cùng với nó là cuộc sống khó khăn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 26 của vợ con Cừ, tất cả những biến động dồn dập đến với gia đình ông Bằng, khiến ông không thể trụ vững được và đã ra đi. Gia đình vốn là tổ ấm, là chỗ dựa tinh thần vững chắc để mỗi người trong tổ ấm đó được trú ngụ, được che chở, được nâng niu, an ủi mỗi khi gặp bất trắc tai ương trong cuộc sống. Vậy mà, nhiều lúc gia đình lại đẩy chính mình vào những bi kịch đau thương, tan tác. Tự (Đám cưới không có giấy giá thú) và Khiêm (Ngược dòng nước lũ) chính gia đình để lại trong họ biết bao vết thương lòng. Trước kia căn nhà này của họ cũng đã là nơi yên ấm, vậy mà giờ đây nó luôn phơi bày mọi mâu thuẫn vợ chồng. Đau xót hơn là nơi ấy lại diễn ra những cuộc tình bất chính của những người vợ mà họ đã từng yêu thương. Không biết bao nhiêu lần Tự phải nằm trên gác xép, giả câm, giả điếc để tránh phải nghe những lời chì chiết của vợ vì cái tội không làm ra tiền và để tránh cho mình khỏi phải chứng kiến cảnh dâm ô bỉ ổi của vợ với Quỳnh ma cô (Quỳnh đĩ đực). Cũng như Tự, gia đình trở thành một nỗi đau đời lớn với Khiêm. Thoa, vợ anh, "người đàn bà có cấu trúc sinh học vô cùng hám chuyện mây mưa" chỉ cần một người chồng là một thằng đàn ông dồi dào sức lực và kiếm được nhiều tiền nên với Khiêm, chị ta không thoả mãn. Đó là nguyên nhân để chị không ngần ngại cùng với lão thầy thuốc Lang băm làm những chuyện bỉ ổi ngay bên cạnh giường bệnh của chồng mình. Thoa đã quên đi cái tình nghĩa vợ chồng gắn bó bấy lâu nay chỉ vì lạc thú của bản thân. Trong lúc ốm dài nằm trên giường bất động như thế không ai hết, Khiêm cần được nương tựa vào gia đình, cần được những người yêu thương chăm sóc biết bao, nhưng oái oăm thay đó lại là những ngày khổ hình, cực nhục nhất đời của mình. Ma Văn Kháng đã nhìn vào thẳng cuộc sống của từng gia đình, của mỗi nhà để suy nghĩ về những vấn đề khẩn thiết đang đặt ra trước mỗi con người. Theo ông "Rác rưởi không chờn vờn ngoài cửa mà đã vào tận buồng, làm bụi bặm bầu không khí trong lành, yên ấm của mọi gia đình". Sự chao đảo của từng gia đình trong cái nhìn của Ma Văn Kháng có nhiều nguyên nhân, hoặc là do chính thành viên trong Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 27 gia đình do không làm chủ được bản thân mà tan nát, hoặc phần lớn là do khách quan đem lại. Gia đình bà cụ Lãng (Côi cút giữa cảnh đời), gia đình ông Thuần (Chó Bi - đời lưu lạc) vốn là hai gia đình hạnh phúc ấm êm theo đúng nghĩa. Nhưng rồi cuộc sống với đầy rẫy những bất công, những thâm hiểm đã lấy đi tất cả hạnh phúc họ đáng được hưởng. Trong gia đình ông Thuần những giờ phút vui vẻ, tràn ngập tiếng cười giờ đây đã thiếu vắng, thay vào đó là sự chờ đợi nhớ mong. Mọi biến cố xảy đến với gia đình đã làm thay đổi số phận của mỗi thành viên, dẫn đến sự phân tán chia ly. Do sự hèn hạ của những kẻ chức quyền ông Thuần phải vào tù và bặt vô âm tín, sự nghiệp, ước mơ đành dang dở; người con cả giỏi giang cũng phải chịu cảnh tù tội, nỗi đau đó đã khiến cho người mẹ tê liệt, rơi vào những cơn giao động khủng hoảng tinh thần. Gia đình bà cụ Lãng vốn tràn ngập niềm vui ấm áp trong tình mẹ con, bà cháu, giờ đây là sự ly tán với bao nỗi khó khăn, vất vả cực nhọc, thậm chí có cả những phút giây mà sinh mệnh con người cũng mong manh như sợi tóc bởi những mưu sâu kế hiểm của bao kẻ gian ác, tham lam như lão Luông, tên Hứng… Khám phá mối quan hệ gần gũi, thân thiết với tất cả mọi người, mọi quan hệ cá nhân - gia đình - xã hội, nhà văn đã đặt ra được những vấn đề bức thiết "mỗi con người, mỗi gia đình phải sống như thế nào và xã hội phải quan tâm như thế nào? Đọc xong những trang văn của ông, mỗi con người phải tự nhìn lại mình, nhìn lại gia đình mình, nhìn ra xã hội với ý thức trách nhiệm và sự lo lắng nghiêm túc." [44] Có thể khẳng định vấn đề gia đình là vấn đề xuyên suốt trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới. Ông thể hiện lên trang văn của mình niềm mong ước cao cả, sao cho "Gia đình, cái hình thái kết hợp lạ nhất của loài người, nơi thu nhỏ của đời sống của xã hội, rồi đây có nhiều sắc thái mới mà trong các mối quan hệ, những ước mong yên vui cho mọi gia đình sẽ là mong muốn muôn thủa, mong cho con người mỗi ngày một phong phú về cá tính, được phát triển trong môi trường lành mạnh, thuận lợi, ngày càng giỏi giang, một tốt đẹp lên, dẫu còn gian nan nhọc nhằn, dẫu kẻ thù còn độc ác, còn kế hiểm mưu sâu" [44]. Như vậy, Ma Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 28 Văn Kháng đã nhìn rất rõ sự chao đảo của mỗi gia đình trong xã hội hôm nay và nhà văn cũng nhận thấy vai trò của gia đình trong sự phát triển chung của xã hội. 1.3.2. Cái nhìn con người tinh tường nghiêng về những giá trị văn hoá truyền thống Cũng như các nhà văn thời kỳ đổi mới, tự nhận thấy dòng văn học chỉ hướng tới quần chúng để phát hiện ra con người mới với những phẩm chất công dân, phẩm chất cách mạng vì cái "ta" chung lúc này không còn phù hợp nữa nên Ma Văn Kháng đã có sự đổi mới tư duy nghệ thuật để bắt kịp với xu thế chung của thời đại. Trong thời kỳ Đổi mới, nếu Nguyễn Mạnh Tuấn tạo dựng hình mẫu người cán bộ tương lai trong bối cảnh cực kỳ sôi động; Nguyễn Khải có ý thức đi tìm vẻ đẹp của con người trong mỗi cuộc lựa chọn…thì Ma Văn Kháng lại săn tìm vẻ đẹp của con người trong các giá trị đạo đức truyền thống. Để rồi trong thập kỷ chuyển mình của văn học Việt Nam đương đại, tiểu thuyết Ma Văn Kháng đã ẩn chứa dấu hiệu đổi mới, mở ra những bình diện mới trong phương thức chiếm lĩnh hiện thực, trong sự lý giải và thể hiện con người. Kể từ Mưa mùa hạ (1982) "tác phẩm là kết quả của những cơn ngẫu hứng dài chứa chan thi vị và hạnh phúc làm người". Ma Văn Kháng đã chuyển từ cái nhìn sử thi từ các tiểu thuyết viết về đề tài miền núi sang cái nhìn thế sự, đời tư, miêu tả con người ở chiều sâu tâm hồn với những ước vọng tốt lành và cả những toan tính tầm thường, nhỏ nhen ích kỷ. Với Ma Văn Kháng cuộc sống hôm nay không hề đơn giản, nó chứa đựng bao nhiêu bất cập, phức tạp và bất trắc ngay từ những việc nhỏ nhặt xảy ra trong cuộc sống hàng ngày. Cái nhìn sắc sảo đã hướng Ma Văn Kháng vào từng ngõ ngách của đời sống hiện thực để soi rọi, phân tích lẽ đời, thói đời với tất cả các cung bậc của tình cảm và các mối quan hệ ở mọi góc cạnh, mọi phương diện, nhất là thế giới nội tâm trong mỗi con người. Khác với cái nhìn sử thi về con người, con người lúc này không chỉ đơn thuần có nghĩa vụ công dân đối với đất nước mà còn có nghĩa vụ đối với gia đình, với mọi người và với chính bản thân mình. Ma Văn Kháng nhìn thấu con người trong cuộc sống hôm nay nhiều khi cái xấu, cái tốt, cái thiện, cái ác đan xen vào nhau khó tách bạch, thậm chí cái xấu, cái ác còn ẩn náu sau cái thiện, cái tốt để phá hoại cái tốt, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 29 cái thiện. Trong thực tế có cái ác thuộc về bản chất, có cái ác, cái xấu lại được sinh ra từ sự tác động của môi trường, hoàn cảnh… hoàn cảnh nhiều khi chi phối và tạo ra bi kịch cho con người. Thế giới con người trong cái nhìn của Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới đông đủ các giai tầng trong xã hội và vì thế kiểu nhân vật cũng vô cùng phong phú, đa dạng và phức tạp. Với cái nhìn đầy trách nhiệm của mình, trước hết Ma Văn Kháng đã thấy rõ con người trước mọi bão táp vẫn giữ được giá trị đạo đức, văn hoá truyền thống, đó là những con người trí thức chân chính, những con người thị dân chân chính. Cái nhìn tinh vi sắc sảo, nhà văn cũng đã phát hiện không ít những con người bị tác động của cơ chế thị trường đánh mất đi nhân cách làm người của mình… Xuất phát từ cái nhìn nhân đạo, mong tìm kiếm những điều tốt đẹp cho sự phát triển nhân cách con người, Ma Văn Kháng đã đặt con người trong mối quan hệ nhiều chiều, nhiều bình diện đó là con người của đời sống riêng tư, của xã hội, của tự nhiên. Cái nhìn đó thể hiện một tư duy rất mềm dẻo, linh hoạt của Ma Văn Kháng. Ông đã thể hiện một tư duy nghệ thuật về con người của riêng mình. Đọc các tác phẩm của Ma Văn Kháng có một điều dễ nhận thấy là, ông nghiêng hẳn về những giá trị tinh thần cội nguồn của truyền thống dân tộc mà phân loại đánh giá con người. Có thể nói, ngay từ đầu sự nghiệp văn chương, Ma Văn Kháng đã ý thức được sứ mệnh ngòi bút của mình viết là để khẳng định, bảo vệ giá trị chân chính của con người. Không ngừng tìm tòi, đổi mới ngòi bút của mình nhưng tất cả sự đổi mới ấy đều được dựa trên những giá trị nhân văn chân chính. Bởi vậy, trong sáng tác của Ma Văn Kháng người đọc nhận thấy có không ít nhân vật biết vượt qua mọi bão táp cuộc đời để gìn giữ những giá trị ấy. Ngay trong những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, Ma Văn Kháng đã dành nhiều tâm huyết, tình cảm để xây dựng những con người trí thức chân chính. Nhân vật Trọng trong Mưa mùa hạ - vốn là một trí thức trẻ, tài năng, tâm hồn trong sáng được kế thừa những đức tính tốt đẹp của người cha. Tốt nghiệp Đại học "loại xuất sắc", giỏi chuyên môn, rất thông thái và năng động, say mê đến cuồng nhiệt với khoa học nhưng lại bị "va vấp liên tục" bởi lẽ lúc bấy giờ cuộc sống có một luồng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 30 gió độc từ bên ngoài thổi vào, len lỏi từng góc cạnh của gia đình, thậm chí của từng con người. Trước những thói tệ tầm thường, đang ghen ghét, vây bủa và vùi dập nhưng anh vẫn vững vàng để thực hiện khát vọng và hoài bão của mình. Là người con của sông nước, Trọng đến với ngành thuỷ lợi bằng tất cả niềm say mê, nhiệt tình và tâm huyết. Yêu những con đê xanh có hàng ngàn năm tuổi, Trọng gắn bó với nó như máu thịt của đời mình. Ma Văn Kháng thực sự rung động khi miêu tả nhân vật Trọng, miêu tả cuộc chiến đấu của anh và đồng đội để bảo vệ con đê, hay nói đúng hơn là để bảo vệ đạo lý, nền văn minh dân tộc. Trước những bủa vây của tệ nạn tiêu cực và sự bức bách của vấn đề cơm áo hàng ngày, Ma Văn Kháng đã nhìn thấy sự hoài nghi, phân vân ở mỗi người, nếu chỉ một thoáng do dự, hoặc không tỉnh táo, quyết đoán là con người có thể sa ngã. Ý thức sâu sắc được điều này, Trọng đã lấy niềm say mê của mình, lấy công việc làm vui, vật lộn với mưa gió bão lụt, chiến đấu với quỷ thần không một chút đắn đo do dự. Gặp biết bao khó khăn, trở ngại trong quá trình nghiên cứu và tham gia trực tiếp vào cuộc đấu tranh giữa cái xấu, cái tốt người kỹ sư trẻ tuổi này nhận ra rằng: "Cuộc đấu tranh trên những con đê có cái gì để gần gũi lắm với đời sống hiện nay". Bởi vậy, anh đã trực tiếp xuống hiện trường, tìm hiểu nguyên nhân, nghiên cứu gốc rễ của vấn đề để từ đó tìm ra hướng giải quyết, khắc phục hòng tiêu diệt lũ mối đục khoét trong lòng đê. Biết Hưng đố kỵ và lợi dụng quyền hành để loại anh ra khỏi công việc mà anh hằng say mê, gián tiếp phủ nhận công trình khoa học của mình, Trọng đã không đầu hàng. Không chỉ vậy, lá đơn xin vào Đảng bị kẻ xấu cố tình xuyên tạc, đặt điều nhưng Trọng không nản chí, anh đã trả lời thẳng với ông Chánh: "Tôi sẽ tiếp tục công việc của tôi, cũng như tôi sẽ vào Đảng" [25,280]. Ở Trọng luôn thể hiện một lý tưởng sống đứng đắn, một tâm hồn trong sáng nhiệt thành, một ý chí vươn lên mạnh mẽ đối lập hoàn toàn với những con người tiêu cực, những thấp hèn đang hoành hành trong xã hội. Cũng như Trọng, ông giáo Cần - cha Trọng trong Mưa mùa hạ, một trí thức tài năng và tâm huyết, vì bị thói đời chèn ép, vì cảnh ngộ riêng phải xin nghỉ hưu sớm. Trước những hiện tượng tiêu cực ngoài xã hội, ông đã sống những ngày đêm tâm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 31 trạng rối bời, u ám, ngọn lửa niềm tin hắt hiu muốn tắt, nhìn cuộc đời như một bức tranh xám xịt. Lương tâm trong sạch và ý thức dân tộc vẫn còn chưa nguội lạnh đã trào lên trong ông những trăn trở triền miên để phản ứng lại những cái xấu xa ngoài đời. Những mẫu hình nhân vật này còn được Ma Văn Kháng tiếp tục khám phá ở các cấp độ cao hơn, với cái nhìn đa diện hơn, trong sáng tác của mình sau này. Đó là những mẫu người như ông Bằng, Luận (Mùa lá rụng trong vườn); thầy giáo Đặng Trần Tự (Đám cưới không có giấy giá thú); Khiêm (Ngược dòng nước lũ); và kiểu người lý tưởng như ông Thuần (Chó Bi - đời lưu lạc)…Họ là những trí thức chân chính suốt đời theo đuổi lý tưởng cao đẹp nhưng lại bị ném chìm vào một xã hội thực dụng, trong sự băng hoại về đạo đức và nhân cách nhưng vẫn cố gắng dùng sức lực nhỏ bé của mình để giữ gìn những giá trị đạo đức tốt đẹp của truyền thống dân tộc Việt. Là một trí thức cũ sống hết mình với đạo đức truyền thống, ông Bằng (Mùa lá rụng trong vườn) luôn ung dung tự tại, ý chí nghị lực một cách thâm trầm, lấy sự bình ổn cân bằng làm căn bản, dùng thiện tâm để đối xử, bằng sự giúp ích cho đời để hiện diện. Ông sống theo phương châm "Coi trọng đạo lý, rời xa phù phiếm, kết hợp với đạo đức cuộc sống và tinh hoa của cha ông" [22,51]. Với cốt cách và chí hướng ấy, cả đời ông là một quá trình phấn đấu không mệt mỏi. Ông đã từng sống những ngày tháng hào hùng của Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở thành Nam, đã từng gương cao lá cờ đỏ sao vàng vác ba lô đi kháng chiến ở Yên Bái, Tuyên Quang, rồi cũng đã có lúc hai vợ chồng phải xay lúa giã gạo thuê kiếm thêm tiền lưng gạo nuôi con… Hành trình của ông trên cõi đời lắm chông gai là thế nhưng cốt cách tinh thần riêng của ông không vì gặp khó khăn trở ngại mà nao núng, lu mờ. Không phải là người có tài năng xuất chúng nhưng ông Bằng luôn chỉnh chu, đức độ và luôn có tinh thần cầu thị, được đồng nghiệp và mọi người nể trọng và tin cậy. Đối với gia đình, ông luôn lấy đạo đức, nhân cách, tình yêu và niềm tin của bản thân đối với văn hoá, đạo đức truyền thống của dân tộc để giáo dục con cái: "Phải giữ gìn các con ạ. Giữ gìn từ những cái nho nhỏ, vì từ cái nho nhỏ cộng lại thành văn hoá, nền tảng đạo lý đấy…" [22,60]. Suốt cuộc đời, ông vẫn luôn giữ được Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 32 phẩm giá cao ngạo, cứng cỏi cho mình mà không một thế lực hay thói hư tật xấu nào có thể làm ông lung lay chao đảo, ngược lại, như ngày càng được củng cố một cách vững chắc hơn. Ông dường như chính là hiện thân của ý thức hướng về cội nguồn dân tộc và giữ gìn truyền thống. Nếu như ông Bằng là hình mẫu của lớp trí thức cũ thì Luận là hình mẫu của lớp trí thức hôm nay. Là một nhà báo, Luận luôn tỏ ra năng nổ, thông minh, trí tuệ sắc sảo, có lý tưởng, có trách nhiệm, có tình yêu thương tận tuỵ và biết xây dựng hạnh phúc gia đình trong điều kiện đời sống còn nhiều khó khăn. Vốn coi nhẹ giá trị vật chất, Luận chỉ chăm lo đến việc bồi bổ giá trị tinh thần, bồi dưỡng kiến thức để hoàn thiện kho tàng học vấn của anh và phục vụ cho nghề nghiệp. Luận "mê say đuổi theo sự làm giàu về một phương diện khác: Trí tuệ, tình cảm, đạo đức (…) hướng hoàn toàn về vẻ đẹp tinh thần, vẻ đẹp bên trong" [22,158]. Ta thấy, dường như không lúc nào Luận được nghỉ ngơi thực sự, anh làm việc cả khi đang ngủ, cả khi đang ăn. Trằn mình vào cuộc sống, ý thức được mối quan hệ cá nhân - gia đình- xã hội, ở nhà báo Luận luôn toả sáng một vẻ đẹp truyền thống với lòng nhân hậu, đằm thắm bao dung. Trước sự xói mòn khá nghiêm trọng về đạo đức trong nền kinh tế thị trường, những con người như Luận là một phần nhỏ để ngăn chặn những cơn sóng dữ không cho nó len lỏi vào từng cá nhân trong gia đình. Với một nhãn quan tinh tường, Ma Văn Kháng đã hướng cái nhìn của mình vào số phận con người ở những cảnh đời khác nhau, để bầy tỏ sự xúc động chân thành trên mỗi trang văn của mình. Là một thầy giáo tài năng và tâm huyết, đã có hai mươi năm thâm niên trong nghề dạy học, Tự (Đám cưới không có giấy giá thú) chính là hình ảnh của một nhà giáo lý tưởng "Mô phạm mà vẫn không mờ nhạt lòng nhiệt thành nhiệt thành, tinh thần triệt để, cùng chiều sâu tri thức, sự phong phú của tình cảm và sức lan toả của tư duy đã tạo nên một anh giáo Tự mực thước mà vẫn sâu sắc, đôn hậu mà vẫn uyển chuyển, đa cảm mà vẫn rắn rỏi, không dễ uốn mình, cảm thông với mỗi sa sảy, yếu đuối của học trò" [70]. Thế nhưng Tự lại bị thói đời ngu dốt, vụ lợi và thói tham quyền cố vị của những kẻ đội lốt trí thức như Bí thư Dương, Hiệu trưởng Cẩm… chèn ép, trù dập không một lối thoát. Hơn nữa Tự còn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 33 phải sống với một thực trạng cay đắng về sự phản trắc của vợ - một người đàn bà chỉ biết chạy theo đồng tiền và quên đi thiên chức làm vợ, làm mẹ, thậm chí cả những đạo lý trên đời. Tìm hiểu kỹ về vấn đề này chúng tôi thấy, Nam Cao cũng đã hướng cái nhìn của mình vào tầng lớp trí thức như Hộ trong Đời thừa, suốt đời ôm mộng văn chương những mong "chỉ viết một quyển thôi, nhưng quyển ấy sẽ ăn giải Nobel và dịch ra mọi thứ tiếng trên toàn cầu" nhưng mộng không thành vì miếng cơm manh áo ghì sát đất. Cũng như Hộ, Thứ trong Sống mòn khát khao hoài bão và khát vọng về lý tưởng nghề nghiệp. Bao nhiêu mơ ước, mộng tưởng đẹp đẽ là thế, vậy mà rốt cuộc, Thứ cũng chỉ là một ông giáo sống lay lắt mà đến không khí để thở cũng phải dè xỉn. Như vậy, Thứ và Hộ đều là những trí thức giàu nghị lực, lắm khát vọng nhưng rốt cuộc cũng chỉ là những kẻ sống mòn, sống trong đời thừa, ngay cả khi chết vẫn chưa làm được gì. Khác với Nam Cao, bằng cái nhìn tinh tế sâu sắc và mới mẻ về người trí thức, Ma Văn Kháng không những thấy Tự nghèo, mà còn phải đối mặt với biết bao bỉ ổi, thô bạo và độc ác tinh quái cả trong gia đình và nơi công sở. Mặc dù phải sống trong những môi trường nhố nhăng đồi bại ấy, Tự vẫn có ý thức giữ gìn nhân cách người thầy để trở thành một tấm gương sáng về đạo đức trước biết bao thế hệ học sinh. Hết lòng truyền tải kiến thức và chăm lo vun xới những mầm xanh tương lai của tổ quốc, Tự đã dũng cảm lên tiếng để bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các em để rồi bị quy chiếu là phần tử về tư tưởng có vấn đề. Đó là điều mà không phải bất kỳ người thầy nào cũng làm nổi. Thuật giáo viên dạy toán cùng trường với Tự đã nói: "Thầy phải ra thầy, khẩu hiệu hay tuyệt, nếu vậy, ở đây, anh Tự ở lại trường. Còn thì: tôi cút, ông cút, ông Dương cút, bà Thảnh cút". Chưa hết Thuật cũng từng nói trước hội đồng nhà trường rằng: "Thầy Tự đây được 10 điểm, tôi chỉ đáng 5, bà Thảnh 2. Còn ông, ông Cẩm điểm1 hay là dêzô". Như vậy, ở cái trường Trung học số 5 này, chỉ có một mình Tự mới xứng đáng được gọi là thầy mà thôi. Không chỉ ở người thầy chân chính, Ma Văn Kháng còn nhận thấy phẩm chất của tầng lớp trí thức chân chính trong nhiều lĩnh vực. Là người lãnh đạo giỏi, ông Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 34 Thuần (Chó Bi - đời lưu lạc) đã mạnh dạn cải cách trong sản xuất kinh doanh, đưa xí nghiệp vào con đường lớn. Chính vì thế những kẻ bảo thủ, bất lương đã ghen ghét tìm cách hãm hại ông, dẫn đến quãng đời bảy năm tù tội chất chứa bao oan khốc cay đắng. Nhưng ông vẫn tỏ thái độ tự tin bình tĩnh, bởi ông tin vào lẽ sống của mình cũng như đã tin vào chân lý vĩnh cửu. Trước sự nghi vấn của cơ quan chức trách, ông còn là con người thấu tình đạt lý, hiểu được đến tận cùng lẽ đời khi thường khi biến, thế nên cái thất bại của ông cũng chỉ là nhất thời thất thế của người quân tử trước kẻ tiểu nhân mà thôi. Vì xác định cho mình có một cách sống, ông luôn giữ được một phong thái đàng hoàng tự tin. Cùng với Tự, Trọng, ông Thuần, nhà văn Khiêm trong "Ngược dòng nước lũ" cũng chất chứa trong mình bao phẩm chất tốt đẹp. Sống giữa đám đông tầm thường giả dối Khiêm đã biết tự vượt lên để bảo toàn khí tiết. Anh đã trải đời mình trên những trang viết để cho ra đời cuốn tiểu thuyết "Bến bờ". Nghiệt ngã thay khi "Bến bờ" hoàn thành thì cũng là lúc Khiêm bị cách chức, bị tước đoạt, do sự trả thù cá nhân hèn hạ của những kẻ vô học nắm quyền lực. Nhưng với cách sống thanh cao, trong sáng, luôn coi nhẹ địa vị quyền lực, anh đã tỉnh táo đề nhìn thấu đáo sự đốn mạt, bán rẻ nhân cách, tham lam quyền hành của một đám đông hỗn loạn trong cơ quan văn hoá. Bằng cái nhìn tinh tế và mới mẻ, nhân vật trí thức lý tưởng của Ma Văn Kháng đều có những nhân cách đáng trân trọng. Họ không bị tiền bạc danh lợi cám dỗ, không bị cuốn vào xu thế thực dụng của số đông, luôn đấu tranh vượt lên hoàn cảnh số phận, để bảo toàn nhân phẩm. Họ không bị tha hoá, không chịu nhuộm đen, dù phải một mình "ngược dòng nước lũ". Họ dường như vượt lên trên mọi toan tính tầm thường. Với một nhãn quan tinh tường Ma Văn Kháng không chỉ thấy ở tầng lớp trí thức chân chính hôm nay có những cái tốt, cái cao cả, mà nhà văn còn nhìn thấy mặt hạn chế, nhược điểm ở họ, điều đó cho thấy cái nhìn của Ma Văn Kháng rất đa diện, đa chiều. Nhìn chung những trí thức của Ma Văn Kháng đều là những người có lý tưởng, có nhân cách cao thượng, nhưng đôi khi họ lại nhu nhược, dễ đầu hàng và Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 35 chấp nhận hoàn cảnh. Tự, Khiêm, ông Thuần đều là những người như thế. Bi kịch của cuộc đời họ một phần cũng là do sự nhu nhược của chính họ tạo nên. Qua những nhân vật trí thức này, Ma Văn Kháng muốn gửi tới một thông điệp, người trí thức lý tưởng không chỉ cần có cái tài, cái tâm mà còn phải biết hành động, dám hành động để tự khẳng định mình trong mọi hoàn cảnh. Không chỉ tập chung khám phá tìm hiểu, con người và cuộc sống của tầng lớp trí thức chân chính, cái nhìn đa chiều của Ma Văn Kháng thấy cả những tri thức tha hoá, tri thức lưu manh. Thuật giáo viên dạy Toán của trường Trung học số 5 đại diện tiêu biểu cho giới trí thức tha hoá. Được xếp vào bậc tài trí trong giáo giới trong thành phố. Thuật vốn là một tài năng đích thực nhưng cuộc đời Thuật lại rơi vào vết trượt dài trên con đường tha hóa và bị lôi cuốn vào vòng xoáy đời thường với lối sống thực dụng, coi trọng lợi ích vật chất. Thuật đã ngang nhiên tuyên bố rằng: "Tôi không có động cơ khác nào là… tiền! Tiện đây, tôi xin công khai tô i dạy thêm một cua năm mươi giờ, bất kể giá cả trượt lên, hay trượt xuống, chỉ biết thu về đúng một chỉ" [21,152]. Học trò đã đặt biệt hiệu cho anh "Thuật… chó" không chỉ bởi Thuật nuôi và kinh doanh chó giống mà còn có một nguyên nhân khác xuất phát từ tư cách của anh. Cái biệt danh này vô tình đã khái quát sự tha hoá của Thuật. Thuật đã đánh mất nhân cách, từ bỏ tư cách của một người thầy, anh ta thông thuộc chuyện buôn bán chó hơn là nghiệp vụ giảng dạy. Kể cả cô giáo Thảnh, là một trí thức nhưng đã để những khát vọng vật chất, những khát vọng tầm thường lôi cuốn, trở thành trơ tráo, không còn nhân cách. Cũng như tầng lớp trí thức , tầng lớp thị dân trong cái nhìn của Ma Văn Kháng gồm đủ loại người tốt có, xấu có và những kẻ tha hoá cũng có. Tiếp cận hiện thực, nghiên cứu khám phá hiện thực và con người nhiều tầng, ngòi bút của Ma Văn Kháng đã phát hiện ra vẻ đẹp của những giá trị đạo đức truyền thống. Trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới ta còn thấy xuất hiện rất nhiều những người tốt, những công dân lương thiện luôn quan tâm đến mọi người, sẵn sàng sẻ chia và cứu giúp nhau trong những lúc khó khăn như bà Lãng, cô Quyên, cô Đại Bàng…(Côi cút giữa cảnh đời). Cuộc đời của hai đứa trẻ côi cút Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 36 tưởng chừng sẽ chìm vào vực sâu của sự thất vọng nếu không có bàn tay, không có tấm lòng che chở của người bà cũng như sự cưu mang giúp đỡ của cô giáo Quyên, của cô Đại Bàng và những người dân chân chính của phường Ngọc Sinh. Họ đã dang tay ra cứu giúp số phận bi thảm, côi cút của Duy và Thảm, trong khi chính cuộc sống của họ cũng có lúc khốn khó tưởng chừng không qua nổi. Ma Văn Kháng đã xây dựng thành công một câu chuyện cổ tích giữa đời thường, mà phép mầu nhiệm lại được xuất phát từ tấm lòng nhân hậu của những con người chân chính ấy. Họ như là những vị tiên giáng trần dang cánh tay của mình cứu giúp linh hồn ngây thơ của những đứa trẻ như bé Duy, bé Thảm. Đồng thời đây cũng chính là nơi tác giả muốn ấp ủ tiếp nối truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã thấu tỏ nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nổi bật lên giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật bà lang Chí, chị Hoài, Phượng, Vân… trong Mùa lá rụng trong vườn hay chị Trang trong Chó Bi - đời lưu lạc. Bà lang Chí, một đời thiệt thòi mà vẫn nhân hậu. "Coi việc nâng đỡ người khác như một nhu cầu tự thân"; chị Hoài nết na thuỳ mị sống có trách nhiệm với mọi người; Phượng hiền từ, chân thật, hài hoà đầy lòng thương yêu, sẵn sàng chia sẻ mọi niềm vui với người khác, làm tất cả những gì có thể để mọi người vui vẻ sung sướng, ở Phượng dường như có một "cơ chế" chịu đựng. Bao nhiêu điều không may, thiệt thòi dồn xuống vai chị: công tác không như ý, mất cắp xe dạp, rồi phải chịu đựng tính đồng bóng của bà trưởng phòng, cưu mang vợ con Cừ… Vậy mà, Phượng chịu đựng được hết, chịu đựng với sự tự nguyện gần như là bản năng. Không một khó khăn nào, một biểu hiện xấu nào của cuộc sống có thể khiến Phượng đánh mất lòng tin yêu, lòng thương người ở chị. Phượng đã từng nói "tôi yêu tất cả mọi người", điều đó khiến nhiều người băn khoăn về việc Phượng có phải là nhân vật hiện thực không? Nhà văn đã khẳng định Phượng chính là nhân vật hiện thực. Trong Phượng có bóng dáng những người thân yêu nhất của nhà văn. Phượng chính là sự nối tiếp những truyền thống trung hậu, đảm đang của người phụ nữ Việt Nam. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 37 Ở gần cuối tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn xuất hiện đôi bạn trẻ Cần - Vân. Tác giả đã dành những dòng tâm sự yêu thương, niềm tin tưởng vào đôi bạn trẻ này, bởi họ mang tính cách truyền thống của một dân tộc. Nếu như Đông ù ì, bất lực trước những biểu hiện tiêu cực của đời sống, thì Cần nhìn mọi việc một cách thanh thoát, không thờ ơ nhưng cũng không bi quan. Anh cho rằng: "Công nghiệp hoá xong thì sẽ thanh toán hàng loạt cái xấu" [22,354]. Còn Vân là người biết trân trọng những tập tục của dân tộc, nhưng cũng kiên quyết chối bỏ việc sắp xếp hôn nhân vì đồng tiền của cha, mẹ để bảo vệ tình yêu đến cùng. Đó là những hình tượng nhân vật mà nhà văn Ma Văn Kháng đã thể hiện mong ước và tình cảm nồng hậu của mình vào thế hệ trẻ hôm nay. Với cách nhìn nhận sáng suốt và công bằng, cùng với tâm huyết của mình, Ma Văn Kháng đã dồn vào, đã xây đắp cho mỗi nhân vật, mỗi con người, mỗi cảnh đời trên trang viết đầy ắp sự chân thành xúc động của mình Không chỉ nhìn rõ những con người trước mọi bão táp của cuộc đời vẫn giữ được những giá trị đạo đức văn hoá truyền thống. Ma Văn Kháng còn nhìn thấy cả những con người tha hoá về đạo đức và nhân phẩm trước sự tác động của cơ chế thị trường. Tiêu biểu là những kẻ vụ lợi cơ hội như Hướng, Liệu, Tý Hợi, Hiển… những kẻ "luôn theo đóm ăn tàn", chúng ton hót, nịnh nọt lấy lòng để mong được chú ý cân nhắc che chở. Hiển (Ngược dòng nước lũ) nguyên là một lái xe do ngủ gật làm xe đổ, bị hỏng mắt, được điều về làm cán bộ Đoàn thanh niên, mắc tội nhìn trộm nữ công nhân thay quần áo, bị mọi người khinh bỉ, nhưng vì giỏi nịnh nọt, giỏi cơ hội nên Hiển được Phô quét cho một lớp sơn mới bằng trang lý lịch viết lại rồi đưa lên làm Trưởng ban điều hành. Lợi dụng chức quyền, hắn luôn trù dập, hạ bệ người tài giỏi mặc cho đó là những người đã từng dìu dắt nâng đỡ mình. Cái Tý Hợi (Ngược dòng nước lũ) một kẻ xấu xí về ngoại hình, luôn là đối tượng soi mói của bất cứ ai trong cơ quan. Cảm thương với kẻ tật nguyền, hơn ai hết Khiêm rất thương nó, anh thường che chở cho nó trước mọi người. Ấy vậy mà, khi chỉ mới nghe tin Khiêm thôi giữ chức chủ nhiệm, nó liền trở mặt ngay với chính Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 38 người đã từng dang tay cứu vớt, yêu thương, chở che cho nó. Nó luồn cúi, nịnh nọt, ô hợp với lũ người sâu mọt chống lại Khiêm. Chưa hết, nó đã tọc mạch về chuyện Hoan với Khiêm, hậu quả là Hoan bị sỉ nhục, bị rạch mặt, bị mất việc làm và rơi vào bi kịnh, trong khi Hoan luôn quan tâm, bao dung nó, coi nó như là em mình. Cũng như Tý Hợi, trước đây Hiển đã từng coi Khiêm là người anh tin cậy nhất của mình. Vậy mà giờ đây cái đám đông này được sống trong "vương quốc quyền hành" đã quên đi tất cả. Họ trở nên tự tung tự tác, tỏ ra lạnh lùng vô cảm với Khiêm. Càng ngày cái đám đông này càng toả ra một sức mạnh áp đảo, nó hình thành như một cơn lũ nhấn chìm Khiêm - kẻ ngược dòng. Ta thấy, ở đây mỗi con người đều mang một vẻ, nhưng đều là những kẻ dị hình, dị tướng, vì quyền lợi của bản thân, họ có thể bán rẻ cả lương tâm và tình nghĩa thiêng liêng của con người. Ma Văn Kháng đã có một cái nhìn trực diện, thẳng thắn vào những con người này, họ đã đánh mất chính mình cũng như đang dần làm mất đi những truyền thống quý báu của dân tộc chỉ vì quyền lợi và danh vọng. Không chỉ dừng lại ở khía cạnh ấy, Ma Văn Kháng còn cho chúng ta thấy trong hiện nay còn có một loại người cậy quyền, cậy thế hoành hành ngang dọc, đại diện cho những kẻ này không ai khác là Tuẫn - con trai Bí thư Thị uỷ Lại trong Đám cưới không có giấy giá thú. Khi còn ngồi trên ghế nhà trường, Tuẫn đã ngang nhiên đóng vai trò là một thằng phá đám "là tên Juđa phản nghịch", và là nhân tố trực tiếp làm hỏng đời thầy giáo Tự. Vì Tuẫn cậy mình là con "quan lớn" nên tác oai tác quái không coi ai ra gì. Hãy nghe hắn ngang nhiên bộc lộ thái độ trong giờ dạy văn với một nhà giáo tâm huyết với nghề như Tự "Ôi, chó chết hết chuyện. Chứ có đếch gì mà cao cả với vĩnh hằng! Lằng nhằng!" [21,208]. Với một thầy giáo tâm huyết, điều đó không thể chấp nhận và Tự đã nổi giận. Nhưng có ngờ đâu lời nói của một học trò vô giáo dục kia, lại mở đầu cho bi thảm cuộc đời anh chỉ vì anh dám tát con "quan Lại": "Ông Tự! Còn ông thì hết đời chó chết cũng không được làm Đảng viên dự bị đâu!" [21,209]. Và quả thật lời nói của một học trò hư đốn đã trở thành hiện thực. Dựa vào quyền lực của cha mình Tuẫn đã đánh mất tư cách của một học sinh, và làm cho cuộc đời của thầy giáo Tự trượt dài, trên con đường đời đầy đau khổ. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 39 Xuất phát từ một tấm lòng nặng trĩu ưu tư trước những nỗi bất công, tha hoá trong cuộc đời thực tại cái nhìn của Ma Văn Kháng chưa dừng lại, nhà văn còn rất nhức nhối khi tầng lớp thị dân còn không ít người đang tự đánh mất mình, đang trượt dài trên con đường tha hoá. Tiêu biểu là Lý, Xuyến, Thoa, Trình… Lý (Mùa lá rụng trong vườn) là sản phẩm điển hình của lối sống kinh tế thị trường, vị kỷ, hám lợi…, là một người phụ nữ đẹp trẻ trung, rực rỡ đầy sức sống "khuôn mặt tròn, hồng nõn… cặp gò má cao được san đều về phía dưới, má ửng lên một sắc hồng đẫm… Hai con mắt lá răm sắc, nhóng nhánh sáng, đong đưa một cái nhìn vừa vui tươi vừa lẳng" [22,69]. Vốn là một phụ nữ thông minh đảm đang tháo vát và đầy ý chí tự lập. Suốt những năm tháng chiến tranh, Lý đã là một người vợ tốt, người mẹ hiền, một cô con dâu đảm đang theo đúng nghĩa "lấy chồng gánh cả giang sơn nhà chồng". Chị đã một mình nuôi dạy con ngay từ khi nó còn trứng nước và không hề nhờ cậy bố mẹ chồng. Chị làm dâu, làm mẹ dù vất vả vì thiếu vắng chồng nhưng với tài tháo vát của chị, mọi việc đều rất suôn sẻ. Hiếu thuận với cha mẹ chồng, nuôi dạy con cái, chăm lo, lo lắng cho em chồng rất chu đáo, chị thực sự là trụ cột trong gia đình và là hậu phương vững chắc cho chồng nơi tiền tuyến. Nhưng ở chị, cái tốt cái xấu pha trộn vào nhau. Chị lo toan chăm sóc mọi người trong gia đình nhưng lại cũng có thể ích kỷ, tham lam nhỏ nhen với mọi người. Có những lúc chị như bỗng hoá thân, biến thành một kẻ khác hết sức giữ tợn, kiêu ngạo và thách thức, chị đã thay đổi "vì thiếu nền tảng, dễ bị kích động tức hứng nhất thời bởi các ý tưởng cuồng nhiệt hoang đường" [22,314]. Là "nạn nhân của lửa đèn thành phố", Lý đã chênh vênh bên ngưỡng cửa giữa cái xấu và cái tốt. Trong cái thời buổi mà cuộc sống đang ở vào thời kỳ xây dựng với muôn vàn những thiếu thốn và khó khăn này, có thể làm ngời lên những phẩm chất anh hùng của những con người anh hùng, dũng cảm chiến dấu với chính nó, nhưng cũng rất dễ là tác nhân kích thích mạnh mẽ tâm lý hưởng thụ vật chất, thói ích kỷ vô luân. Lý lao xuống bờ vực của lầm lẫn. Chị nhìn thấy "đời bây giờ tệ lắm", "Có tiền là xong hết". Chị quan niệm "Đời chỉ là một chữ T thôi" từ đó Lý bất chấp tất cả, buông thả mình theo những dục vọng thấp hèn. Tính tháo vát, sự táo bạo, sắc sảo, ở Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 40 chị giờ đây đã biến thành thói lừa bịp dối trá, điêu toa, mặc sức cho dục tình thiêu đốt. Mang trong mình những đặc tính cần thiết của con người ở thời kỳ lắm sự biến động, thiếu sự bảo trợ của những giá trị tinh thần, Lý đã dần khước từ bản chất tốt đẹp vốn có của mình để trở thành kẻ xa lạ. Đất nước đang trên đà phát triển, nền kinh tế thị trường đang mở ra môi trường lớn lao và tạo cơ hội, động lực thúc đẩy để mỗi cá nhân trong xã hội có thể thực hiện khát vọng làm giàu, được thực hiện ước muốn ăn ngon mặc đẹp rất chính đáng của mình. Bản chất của con người vốn đã phong phú, phức tạp, cuộc sống lại nhiều biến động và bất ngờ, bởi thế, ngòi bút của Ma Văn Kháng đã hướng tới việc nghiên cứu, phát hiện con người phức tạp, đa chiều "con người không trùng khít với chính mình". Ma Văn Kháng đã không nhìn con người một cách đơn giản cứng nhắc như giai đoạn trước, mà ở thời kỳ này ông đã đi sâu phân tích mổ xẻ con người trong từng nỗi niềm, từng bước ngoặt cuộc đời họ. Điều đó thể hiện một cách nhìn khá linh hoạt, uyển chuyển về con người của nhà văn Ma Văn Kháng. Lý không phải là sản phẩm tiêu cực duy nhất, cá biệt của đời sống kinh tế thị trường, mà sản phẩm của nó là cả một lớp người chạy theo đời sống vật chất và hưởng thụ. Cũng như Lý, Xuyến (Đám cưới không có giấy giá thú) đã nhảy cóc sang một bước phát triển nguy hiểm về phương diện đạo đức. Là một phụ nữ bản năng kém thích ứng trước đời sống, sống thực dụng, nhanh chóng bị loá mắt trước sự cám dỗ của vật chất, Xuyến đã trở nên tàn nhẫn, chà đạp nên hạnh phúc gia đình, coi thường chồng, khinh rẻ đời sống gia đình và từ chỗ phản bội chồng Xuyến đã trơ tráo tố cáo chồng là người phản bội và tự huỷ đi nhân cách làm người của mình. Với cái nhìn tinh tường của mình, Ma Văn Kháng còn nhận thấy rằng con người ta trong hoàn cảnh ngặt nghèo, ít tình người thì sẽ trở nên lưu manh hoá hoặc chí ít khái niệm đạo đức cũng trở nên xa xỉ đối với họ. Cho nên cô nữ sinh Trình (Đám cưới không có giấy giá thú) vốn ngoan ngoãn, vì bệnh tật, vì bị bỏ rơi, vì bị nghèo đói… bỗng trở nên đáo để, cong cớn, chụp giật để trả thù đời… Nghiên cứu tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới, chúng ta còn có thể kể ra hàng loạt những nhân vật tương tự như gã tình nhân của Lý (Mùa lá rụng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 41 trong vườn); Hứng và chị em Vàng Anh, Vành Khuyên…(Côi cút giữa cảnh đời); Thoa và lão tình nhân Lang băm trong Ngược dòng nước lũ…" tiền" là câu nói cửa miệng của những con người này. Vì tiền chị em sẵn sàng đánh chửi nhau, vì tiền con sẵn sàng chửi rủa, thậm chí còn đuổi mẹ ruột của mình, vì tiền vợ chồng coi thường khinh rẻ nhau… Họ không có ý thức bảo vệ, giữ gìn đạo đức, gia đình. Trong quan niệm của họ đạo đức chính là "cái gì hợp với mình" và cuộc đời "chỉ là chữ T thôi". Đồng tiền quả thật làm cho cuộc sống con người đầy đủ hơn, sung túc hơn nhưng nó còn có sức mạnh làm tha hoá con người một cách ghê gớm. Xa rời những tiêu chuẩn đạo đức, họ đã biến thành những con thú dữ. Đồng tiền và nhục dục đã khiến Thoa cùng gã tình nhân Lang băm trong Ngược dòng nước lũ trở thành những con thú đích thực "Bữa tiệc của những con quỷ dâm đãng" diễn ra hết lần này đến lần khác, bất chấp Khiêm đang nằm trên giường bệnh - đau đớn đến tê liệt cả thể xác và tâm hồn. Nhãn quan của nhà văn không chỉ phát hiện thấu đáo nhiều loại người trong xã hội - người tốt, kẻ xấu, người bằng mọi giá bảo vệ cho được nhân phẩm, kẻ vì nhu cầu vật chất tầm thường làm băng hoại đạo đức xã hội, mà ông còn quan tâm khẳng định bản năng và nhu cầu tự nhiên với khát vọng chân chính của con người đó là nhu cầu tình dục. Trong văn học, vấn đề dục vọng cá nhân đã ít nhiều được đề cập, nhưng phải thực sự đến giai đoạn văn học sau 1975, nhất là sau thời kỳ đổi mới (1986), khi con người là đối tượng phản ánh của văn học nên không có gì thuộc về con người lại xa lạ với văn học, nhu cầu về dục vọng của con người tự nhiên mới thực sự được quan tâm thể hiện một cách chân thực, đầy đủ. Tiếp thu, kế thừa những tư tưởng tiến bộ của văn hoá, văn học nhân loại và văn học dân tộc, vấn đề bản năng tính dục đã được thể hiện nổi bật trong một cái nhìn mang đầy tính nhân bản sâu sắc của Ma Văn Kháng về con người. Ma Văn Kháng là nhà văn đầu tiên viết được những cảm xúc hả hê, sung sướng, khoái hoạt nhất về lòng ái dục của con người. Theo ông, con người là sản phẩm của tự nhiên luôn biết hướng đến và theo đuổi những trạng thái sung sướng, vui vẻ và cố gắng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 42 tránh xa, vượt lên mọi đau khổ, nhọc nhằn của cuộc sống bằng đời sống tình dục, mà tình dục lại là một niềm đam mê, một mạch sống thầm kín của con người. Tuy là lĩnh vực vẫn bị coi là "vùng cấm kỵ" nhưng Ma Văn Kháng đã mạnh dạn và thành công khi đưa vấn đề này vào trong sáng tác của mình với một tần số lớn. Ông thể hiện chúng một các tự nhiên không lộ liễu, sống sượng mà phản ánh một cách chân thực những trạng thái, cảnh huống khác nhau của tâm lý thực, xuất phát từ đáy sâu bản thể, từ nhu cầu tự nhiên, chính đáng của con người. Ma Văn Kháng là một trong số không nhiều các nhà văn hiểu và ý thức sâu sắc, triệt để, toàn diện vấn đề này. Ở Ma Văn Kháng, ông đã phát hiện trong bản năng đời sống tình dục của con người thể hiện rõ hai mặt của cuộc sống. Đối với những con người chân chính dục vọng khiến cho họ người hơn, tình dục như một vẻ đẹp thể hiện mặt văn hoá, đạo đức xã hội. Nhưng bên cạnh đó, Ma Văn Kháng còn khám phá, phát hiện mặt bi hài của cuộc sống, sự thô tục tham lam, nhếch nhác, dâm ô của những kẻ vô đạo đức, thiếu văn hoá xoay quanh vấn đề dục vọng cá nhân của con người. Bản chất cuộc sống vốn đa chiều phức tạp, nên ngay từ những tác phẩm viết về đề tài mền núi trong cảm hứng sử thi, Ma Văn Kháng đã đề cập vấn đề này. Có thể nói đây là cái nhìn nhất quán của tác giả về con người. Ma Văn Kháng đã viết khá nhiều về hiện tượng này trong hầu hết các sáng tác của mình. Nếu như đứng ở góc độ luân lý đạo đức thì những chuyện tình kiểu "ngoài luồng" không thể chấp nhận được, nhưng khi đặt chúng vào từng hoàn cảnh, từng con người cụ thể thì những trường hợp này rất đáng được cảm thông. Bởi chính cuộc tình "n

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuận văn- NGHỆ THUẬT TIỂU THUYẾT CỦA MA VĂN KHÁNG THỜI KỲ ĐỔI MỚI.pdf
Tài liệu liên quan