Tài liệu Luận văn Ngân hàng tại các vùng duyên hải chuyên về tín dụng phát triển kinh tế biển và du lịch: TRƯỜNG……………………… 
KHOA…………………… 
Luận văn: Ngân hàng tại các vùng duyên 
hải chuyên về tín dụng phát triển kinh tế 
biển và du lịch 
LỜI MỞ ĐẦU 
 Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị 
trường có sự quản lý cua Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một chiến 
lược phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. 
 Thực hiện chủ trương trên, từ Đại hội Đảng lần thứ VI (tháng 12 - 1990) đến 
nay, Đảng và Nhà nước đã ban hàng một số chủ trương, chính sách nhằm khuyến 
khích tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển. Từ đó, các loại hình 
doanh nghiệp như doanh nghiêp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần đã phát 
triển nhanh chóng, đang trở thành lực lượng đáng kể trong sự nghiệp phát triển kinh 
tế - xã hội ở nước ta. 
 Song nhìn chung quy mô hoạt động của các doanh nghiệp đến nay ở nước ta 
có tới 70% doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và hầu hết các doanh nghiệp ngoài 
quốc doanh thuộc loại v...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
64 trang | 
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1255 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Ngân hàng tại các vùng duyên hải chuyên về tín dụng phát triển kinh tế biển và du lịch, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG……………………… 
KHOA…………………… 
Luận văn: Ngân hàng tại các vùng duyên 
hải chuyên về tín dụng phát triển kinh tế 
biển và du lịch 
LỜI MỞ ĐẦU 
 Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị 
trường có sự quản lý cua Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một chiến 
lược phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. 
 Thực hiện chủ trương trên, từ Đại hội Đảng lần thứ VI (tháng 12 - 1990) đến 
nay, Đảng và Nhà nước đã ban hàng một số chủ trương, chính sách nhằm khuyến 
khích tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển. Từ đó, các loại hình 
doanh nghiệp như doanh nghiêp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần đã phát 
triển nhanh chóng, đang trở thành lực lượng đáng kể trong sự nghiệp phát triển kinh 
tế - xã hội ở nước ta. 
 Song nhìn chung quy mô hoạt động của các doanh nghiệp đến nay ở nước ta 
có tới 70% doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và hầu hết các doanh nghiệp ngoài 
quốc doanh thuộc loại vừa và nhỏ. Hiện nay, DNNN ở nước ta tuy có tốc độ phát 
triển tương đối khá nhưng đang gặp khó khăn: thiết bị, công nghệ lác hậu, trình độ 
tổ chức và quản lý yếu kém, giá thành sản phẩm cao, thị trường không ổn định, bị 
hàng hoá nhập lậu và hàng hoá của các doanh nghiệp lớn cạnh tranh gay gắt. 
 Nhưng khó khăn lớn nhất hiện nay là vốn hiện có của các DNNN rất ít trong 
khi đó nhu cầu vốn để các doanh nghiệp này mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị, 
công nghệ lại đòi hỏi rất lớn. Do đó, việc nghiên cứu thực trạng tín dụng ngân hàng 
nhằm tìm ra các biện pháp chủ yếu mở rộng một vấn đề đặt ra hết sức cấp thiết. 
 Xuất phát từ nhận thức được tầm quan trọng nói trên, em xin chọn đề tài: 
"Phân tích tình hình cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân 
hàng Đầu tư và phát triển Đà Nẵng trong hai năm 
CHƯƠNG I:MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÂN HÀNG VÀ 
HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA 
VÀ NHỎ. 
I. NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI. 
1. Khái niệm: 
Điều 20 Luật Tổ chức Tín dụng Việt Nam có nêu rõ: Ngân hàng thương mại là tổ 
chức tín dụng được phép thực hiện toàn bộ hoạt đông ngân hàng và các hoạt động 
kinh doanh khác có liên quan.Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ 
và dịch vụ ngân hàng với nội dung chủ yếu và thường xuyên lànhận tiền gửi, sử 
dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán. 
Tuỳ theo tính chất và mục tiêu hoạt động,các loại hình ngân hàng gồm Ngân hàng 
Thương mại, Ngân hàng Đầu tư, Ngân hàng Chính sách, Ngân hàng hợp tác và các 
loại hình ngân hàng khác. 
2. Đặc điểm: 
- Vốn bằng tiền vừa là phương tiện vừa là đối tượng của quá trình kinh doanh. 
- Ngân hàng kinh doanh chủ yếu bằng vốn của người khác chứ không phải 
bằng vốn chủ sở hửu 
- Một trong những sản phẩm chủ yếu của ngân hàng là tín dụng. 
- Hoạt động kinh doanh của ngân hàng liên quan đến nhiều đối tượng khách 
hàng mà những khách hàng này hoạt động trên những lĩnh vực khác nhau. Do đo 
ngân hàng có thể phân tán rủi ro trong đầu tư và chịu nhiều rủi ro về sự đa dạng 
cũng như mức độ. 
- Hoạt động ngân hàng chịu nhiều sự kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ của nhà 
nước và pháp luật. 
- Hoạt động ngân hàng diễn ra một cách liên tục, các hoạt động có liên hệ bổ 
sung lẫn nhau. Vì vậy, việc xác định kết quả của một hoạt động nào đó thì khó 
chính xác. 
3. Các nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu của ngân hàng thương mại: 
3.1 Nghiệp vụ tài sản nợ: 
Huy động các nguồn vốn trong xã hội để hoạt động là lẽ sống quan trọng nhất của 
các ngânhàng thương mại. Bằng những công cụ cần thiết mà pháp luật cho phép 
NHTM đã huy động vốn từ các nguồn tiền trong xã hội làm nguồn vốn để cho vay 
đối với các thành phần kinh tế. Kết quả của nghiệp vụ này là tạo ra nguồn vốn để 
đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế. 
Thành phần nguồn vốn của NHTM gồm: 
- Vốn điều lệ: là số vốn ban đầu khi thành lập ngân hàng được ghi vào điều lệ 
của ngân hàng. Vốn điều lệ it nhất phải bằng vốn pháp định do Chính phu íqui 
định. 
- Các quỹ dự trữ: đây là quỹ bắt buộc phải trích lập trong quá trình tồn tại và 
phát triển của ngan hàng. Gồm có các quỹ sau: 
+ Quỹ dự trữ 
+ Quỹ dự phòng rủi ro 
+ Quỹ khen thưởng phúc lợi 
+ Quỹ phát triển kỹ thuật nghiệp vụ 
- Vốn huy động: đây là nguồn vốn chủ yếu của NHTM, gồm có: 
+ Tiền gửi không kỳ hạn của đơn vị, cá nhân 
+ Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn 
+ Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn 
+ Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu 
+ Các khoản tiền gửi khác 
+ Vốn đi vay: vay từ thị trường tiền tệ, vay từ Ngân hàng Trung ương 
- Vốn tiếp nhận: vốn do Nhà nước cấp hay các tổ chức tài chính uỷ thác cho 
ngân hàng cho vay theo mục đích chỉ định. 
- Vốn khác: đó là nguồn vốn phát sinh trong quá trình hoạt động của ngân 
hàng( đại lý, chuyển tiền, các dịch vụ...) 
3.2 Nghiệp vụ tài sản có: 
Nghiệp vụ tài sản có: là nghiệp vụ phản ảnh khả năng sử dụng nguồn vốn đó với 
mục đích sinh lời của NHTM. Bao gồm: Nghiệp vụ ngân quỹ (Dự trữ), cho vay, đầu 
tư, tài sản Có khác... Trong nghiệp vụ tài sản Có thì nghiệp vụ tín dụng và đầu tư là 
nghiệp vụ sử dụng vốn quan trọng nhất. Đây là các nghiệp vụ cấu thành bộ phận 
chủ yếu và quan trọng của tài sản Có của NHTM. 
- Tài sản ngân quỹ (dự trữ): Hoạt động của NHTM nhằm mục đích sinh lời. 
Song, cần phải đảm bảo an toàn trong thanh toán để giữ vững được lòng tin của 
khách hàng. Muốn vậy, các NHTM luôn dành một phần nguồn vốn, không sử dụng 
nó để đáp ứng, đảm bảo nhu cầu thanh toán, chi trả... Phần vốn để dành này gọi là 
dự trữ, và tỷ lệ phần dự trữ này trên tổng số dư tiền gửi gọi là tỷ lệ dự trữ bắt buộc, 
do NHNN quy định trong từng thời kỳ. Có hai cấp dự trữ là: sơ cấp và thứ cấp. 
- Tài sản tín dụng: Là các khoản ngân hàng cấp tín dụng cho các đơn vị tổ 
chức kinh tế dưới mọi hình thức. Đây được xem là hoạt động tạo ra nguồn thu nhập 
lớn nhất cho mọi NHTM. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng là một trong những hoạt 
động hàm chứa trong nó xác suất rủi ro rất cao. Do đó, bất kỳ một NHTM nào cũng 
đều xây dựng một chính sách Tín dụng cho riêng mình nhằm đem lại sự an toàn và 
sinh lợi tốt nhất cho hoạt động kinh doanh. Tài sản tín dụng thông thường được 
phân bổ theo nguyên tắc phân tán (rủi ro) và nguyên tắc lựa chọn (khách hàng). 
- Tài sản đầu tư: Nghiệp vụ Đầu tư có vị trí quan trọng thứ hai sau khoản mục 
cho vay; nghiệp vụ này mang lại khoản thu nhập đáng kể cho NHTM. Nhờ hoạt 
động đầu tư mà các rủi ro trong hoạt động ngân hàng sẽ được phân tán, đồng thời 
ngân hàng có thể đa dạng hóa hoạt động kinh doanh của mình... Trong nghiệp vụ 
này NHTM sẽ dùng nguồn vốn của mình và nguồn vốn ổn định khác để đầu tư dưới 
các hình thức như: Góp vốn, mua cổ phần, cổ phiếu của các công ty; Mua trái phiếu 
Chính phủ, chính quyền địa phương; mua trái phiếu công ty... 
- Tài sản có khác: Là khoản mục còn lại của tài sản Có, trong đó chủ yếu là tài 
sản lưu động và cơ sở vật chất để tiến hành các hoạt động ngân hàng, Bao gồm: 
+ Xây dựng hoặc mua thêm nhà cửa làm trụ sở, văn phòng, hệ thống kho quỹ. 
+ Mua sắm trang thiết bị, máy móc dụng cụ làm việc. 
+ Mua sắm các phương tiện vận chuyển. 
+ Các khoản phải thu, các khoản khác... 
3.3 Nghiệp vụ trung gian: NHTM thực hiện các nghiệp vụ trung gian nhằm đem 
lại sự tiện ích cho khách hàng để thu phí dịch vụ và hoa hồng dịch vụ. Có những 
loại dịch vụ sau: 
- Các dịch vụ thanh toán, thu chi hộ cho khách hàng. 
- Bảo quản các tài sản quý giá, giấy tờ, chứng thư quan trọng của công chúng. 
- Bảo quản, mua bán hộ chứng khoán theo ủy nhiệm của khách hàng. 
- Kinh doanh mua bán ngoại tệ, vàng bạc, đá quý ... 
- Tư vấn tài chính, giúp đỡ các Công ty phát hành cổ phiếu, trái phiếu ... 
II. TÍN DỤNG VÀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG 
1. Khái niệm tín dụng: 
 Tín dụng được hiểu là sự chuyển nhượng việc sử dụng một lượng giá trị dưới 
dạng tiền tệ hoặc tài sản phi tiền tệ từ người cho vay sang người đi vay với những 
điều kiện nhất định để sau một khoảng thời gian nhất định theo thỏa thuận vốn sẽ 
được hoàn trả với một lượng giá trị danh nghĩa lớn hơn ban đầu.(Theo quan điểm 
Mác). 
2. Khái niệm Tín dụng Ngân hàng: 
TDNH là một giao dịch về tài sản(tiền) giữa bên cho vay( ngân hàng ) và bên đi vay 
(cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài 
sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên đi vay 
có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện với gốc và lãi cho bên đi vay khi đến hạn 
thanh toán. 
Từ khái niệm trên, bản chất của tín dụng ngân hàng là một giao dịch về tài sản trên 
cơ sở hoàn trả và có những đặc trưng sau: 
- Tài sản giao dịch trong quan hệ TDNH là hình thức cho vay bằng tiền. 
- Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy người cho vay khi chuyển giao tài 
sản cho người đi vay sử dụng phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ trả đúng hạn. 
Đây là yếu tố hết sức cơ bản trong quan hệ tín dụng. 
- Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói cách 
khác người đi vay phải trả them phần lãi ngoài vốn gốc. 
- Trong quan hệ tin dụng ngân hàng tiền vay được cấp trên cơ sở cam kết hoàn 
trả vô điều kiên 
3. Các nguyên tắc cơ bản của tín dụng ngân hàng 
Khách hàng vay vốn cần đảm bảo các nguyên tắc sau: 
- Vay phải hoàn trả nợ gốc và lãi đầy đủ, đúng hạn 
- Vay phải có mục đích và đảm bảo sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thỏa 
thuận. 
- Vay phải có bảo đảm theo qui định 
4. Phân loại tín dụng: 
4.1 Căn cứ vào thời hạn cho vay: 
- Tín dụng ngắn hạn: thời hạn cho vay đến 12 tháng, sử dụng để bù đắp thiếu 
hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp, các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân... 
- Tín dụng trung hạn: thời hạn vay từ trên 12 tháng đến 5 năm, vốn vay thường 
được dùng để đầu tư vào TSCĐ; cải tiến, đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản 
xuất, xây dựng các dự án mới quy mô nhỏ và thời hạn thu hồi vốn nhanh. 
- Tín dụng dài hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm, đây là loại tín dụng 
được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như xây dựng cơ bản, các công trình 
cơ sở hạ tầng, các thiết bị, phương tiện vận tải, mở rộng sản xuất với quy mô lớn... 
4.2 Phân loại theo hình thức đảm bảo: 
- Tín dụng có đảm bảo bằng : là việc thiết lập cơ sở pháp lý để các NHTM có 
được một nguồn thu hợp pháp thứ hai từ một tài sản cụ thể ngoài nguồn thu nợ 
chính thức. Loại này thực hiện dưới các hình thức: cầm cố, thế chấp, đảm bảo bằng 
tài sản hình thành từ vốn vay hoặc sự bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba. 
- Tín dụng không có đảm bảo : là hình thức cho vay mà cơ sở để hình thành 
tín dụng chủ yếu dựa vào uy tín của của bản thân khách hàng... Từng ngân hàng có 
cách xác định và lựa chọn, tuy nhiên các ngân hàng thường dựa vào: uy tín, năng 
lực tài chính, tính khả thi và hiệu quả mục đích sử dụng vốn... 
 4.3 Phân loại theo mục đích sử dụng vốn: 
- Tín dụng tiêu dùng: cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng, sinh hoạt của 
các cá nhân, gia đình trong xã hội: cán bộ công chức, viên chức, công nhân, hưu trí.. 
- Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá : cho vay đối với các doanh nghiệp 
và cá thể khác để tiến hành đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh... 
4.4 Phân loại theo hình thái giá trị tín dụng; 
- Tín dụng bằng tiền: là loại cho vay mà hình thái giá trị tín dụng được cung 
cấp bằng tiền. 
- Tín dụng bằng tài sản: là loại cho vay mà hình thái giá trị tín dụng được cung 
cấp bằng một loại tài sản nhất dịnh nào đó. 
4.5 Phân loại theo thành phần kinh tế: 
- Tín dụng thành phàn kinh tê úquốc doanh: là loại tín dụng được cấp cho các 
thành phần kinh tế thuộc sở hửu nhà nước để bổ sung vốn lưu động và vốn cố định 
đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh, cải tạo đổi mới cơ sở vật chất kỹ thuật của đất 
nước nhằm phục vụ cho nhu cầu của xã hội. 
- Tín dụng thành phần kinh tế ngoài quốc doanh:là loại tín dụngđược cấp 
phátcho các thành phần kinh te úkhông thuộc sở hửu nhà nước để bổ sung vốn lưu 
động và cố định phục vụ cho nhu càu sản xuất kinh doanh của họ. 
5. Vai trò của tín dụng ngân hàng: 
- Tín dụng Ngân hàng là một hoạt động không thể thiếu đối với bất kỳ quốc 
gia nào, nó có vai tro ìrất quan trọng trong nền kinh tế thị trường, là đòn bẩy được 
sử dụng một cách linh hoạt đối với mọi thành phần kinh tế .Điều này thể hiện rõ qua 
vai trò của Tín dụng Ngân hàng. 
- Tín dụng ngân hàng giúp thúc đẩy sản xuất phát triển : Tín dụng Ngân hàng 
là công cụ tích tụ tập trung vốn tạm thời nhàn rỗi trong dân cư, nó cung ứng kịp thời 
và đầy đủ nhu cầu vốn của Doanh nghiệp để tăng quy mô sản xuất, tăng năng suất 
lao động, đổi mới thiết bị ...từ đó góp phần thúc đẩy quá trình sản xuất liên tục và 
phát triển 
- Tín dụng Ngân hàng góp phần đầu tư phát triển kinh tế: Tín dụng Ngân hàng 
giúp cho các Doanh nghiệp đầu tư vao những ngành có tỉ suất lợi nhuận cao, kích 
thích cạnh tranh lành mạnh giữa các Doanh nghiệp, tạo điều kiện để các Doanh 
nghiệp chuyển hướng phát triển kinh doanh cho phù hợp với tình hình .Qua đó các 
Doanh nghiệp có được chính sách sản xuất kinh doanh mềm dẻo và linh hoạt hơn. 
- Tín dụng ngân hàng góp phần ổn định đời sống, ổn định xã hội ,tạo thêm 
công ăn việc làm cho người lao động. 
III. HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ. 
1. Khái niệm về DNVVN 
 Hiện nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, Các doanh 
nghiệp vừa và nhỏ là loại hình doanh nghiệp ngày càng phổ biến ở hầu hết các 
nước. Tuy nhiên, không có một tiêu chuẩn chung cho việc phân định ranh giới quy 
mô doanh nghiệp giữa các nước. Ở nhiều nước trên thế giới, người ta dựa vào hai 
tiêu thức chủ yếu là quy mô về vốn và lao động để phân loại doanh nghiệp thành 
doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy nhiên, việc lượng hóa quy mô 
vừa và nhỏ theo tiêu thức vốn và lao động chỉ mang tính tương đối, bởi hai tiêu thức 
này phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: trình độ phát triển của mỗi nước, tính chất 
từng ngành nghề, tính chất vùng, lãnh thổ, tính chất lịch sử... 
Ở Việt Nam, sự ra đời và phát triển của lực lượng DNVVN trong những năm gần 
đây được coi như là một sản phẩm mang đậm dấu ấn đường lối đổi mới của Đảng 
và Nhà nước ta và cũng theo đó mà những phân định về DNVVN cũng có sự thay 
đổi phù hợp. Ngày 20/06/1998, Chính phủ đã có văn bản số 681/CP-KTN về việc 
định hướng chiến lược và chính sách phát triển các DNVVN, theo đó, tiêu chí xác 
định DNVVN là những doanh nghiệp có số vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và có số lao 
động trung bình hàng năm dưới 200 người... 
Tuy nhiên, cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế thì quy mô hoạt động của các 
doanh nghiệp cũng có những bước phát triển vượt bậc. Để hoàn thiện các văn bản 
pháp luật về DNVVN, Nghị định số 90/2001/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 
23/11/2001 quy định về việc trợ giúp phát triển DNVVN đã có định nghĩa: 
“DNVVN là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp 
luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình 
hàng năm không quá 300 người”. Với tiêu chí xác định như trên thì tỷ trọng 
DNVVN hiện nay đã tăng lên đáng kể với số lượng trên 100.000 doanh nghiệp, 
chiếm khoảng 90% tổng số doanh nghiệp trong cả nước. Đa phần các DNVVN hoạt 
động trong các lĩnh vực Thương mại dịch vụ, công nghiệp chế biến, xây dựng và 
vận tải...với mức đóng góp đáng kể trong cơ cấu GDP hằng năm. 
2. Ưu thế của DNVVN 
2.1. DNVVN năng động, nhạy bén và dể thích ứng với sự thay đổi của thị trường. 
Đây là một ưu thế nổi trội của DNVVN. Với quy mô nhỏ và vừa, bộ máy quản lý 
gọn nhẹ, DNVVN dể dàng tìm kiếm và đáp ứng những yêu cầu có hạn trong những 
thị trường chuyên môn hóa. Mặt khác, DNVVN thường có mối liện hệ trực tiếp với 
thị trường và người tiêu thụ nên có phản ứng nhanh nhạy với sự biến động của thị 
trường. Với cơ sở vật chất kỷ thuật không lớn, DNVVN đổi mới linh hoạt hơn, dể 
dàng chuyển đổi sản xuất hoặc thu hẹp quy mô mà không gây ra những hậu quả 
nặng nề cho xã hội. 
2.2. DNVVN tạo lập dể dàng, hoạt động hiệu quả với chi phí cố định thấp. 
Để thành lập một DNVVN chỉ cần một số vốn đầu tư ban đầu tương đối ít, mặt 
bằng sản suất nhỏ, quy mô nhà xưởng không lớn. Với ưu thế nhỏ gọn, năng động, 
dể quản lý, không cần nhiều vốn như vậy, các DNVVN vừa rất linh hoạt trong việc 
học hỏi, phát triển và tránh những thiệt hại to lớn do môi trường khách quan tác 
động lên. Mặt khác, do một số Doanh nghiệp vừa và nhỏ được thành lập mang tính 
gia đình, bè bạn nên mối khi gặp khó khăn, công nhân và chủ DN dể dàng tự hạ 
thấp tiền lương, có tinh thần nỗ lực vượt bậc để vượt qua khó khăn. Điều đó làm 
cho DNVVN giảm được chi phí cố định, tận dụng lao động để thay thế vốn bằng 
tiền 
2.3. DNVVN tạo điều kiện duy trì tự do cạnh tranh, hạn chế độc quyền. 
Khác với các DN lớn, cần thị trường lớn, đòi hỏi phải có sự bảo hộ của Chính phủ, 
sự độc quyền,... các DNVVN nhỏ với số lượng đông đảo, thường không có tình 
trạng độc quyền. Các DNVVN dể dàng và sẵn sàng chấp nhận tự do cạnh tranh. So 
với các doanh nghiệp lớn, các DNVVN có tình tự chủ cao hơn. Các DNVVN không 
ỷ lại vào sự giúp đỡ của Nhà nước và vì mưu lợi, DNVVN sẵn sàng khai thác các 
cơ hội để phát triển mà không ngại rủi ro. Chính điều đó làm cho nền kinh tế thật sự 
sống động và thúc đẩy việc sử dụng tối đa các tiềm năng của đất nước. Đây là một 
ưu thế quan trọng đối với các DNVVN hiện nay. 
2.4. DNVVN có thể phát huy được tiềm lực của từng địa phương. 
Thành công của DNVVN là nắm bắt được những điều kiện cụ thể của đất nước về 
tài nguyên, lao động. Trong các DN lớn, việc sử dụng nguyên liệu sẵn có tại đia 
phương thường gặp khó khăn do trữ lượng thấp, không đảm bảo cho sản xuất lớn. 
Ngược lại, các DNVVN rất có lợi thế trong việc tuyển dụng lao động tại địa phương 
và tận dụng các tài nguyên, tư liệu sản xuất sẵn có tại địa phương, phát huy hết tiềm 
lực trong nước cho sản xuất kinh doanh. 
2.5. DNVVN góp phần tạo lập sự phát triển cân bằng giữa các vùng lãnh thổ trên 
một quốc gia. 
Với sự tạo lập dể dàng, các DNVVN có thể phát triển rộng rãi ở mọi vùng lãnh thổ 
và tạo ra những sản phẩm phong phú và đa dạng, đồng thời tạo ra sự phát triển cân 
bằng giữa các vùng trong nước. Đặc biệt các DNVVN có thể hiện diện ở khắp mọi 
miền đất nước, kể cả vùng nông thôn và miền núi, những nơi thưa dân, có cơ cấu 
kinh tế chưa phát triển và nhờ đó, chúng cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho dân cư 
địa phương và những vùng phụ cận. 
Thông thường, DNVVN cung ứng sản phẩm tại chỗ với 95% sản phẩm tiêu thụ nội 
địa mà chủ yếu là tiêu thụ trong vùng, khoảng 5% sản phẩm dành cho xuất khẩu. 
Như vậy, các DNVVN vừa thực sự góp phần đắc lực cho sự tăng trưởng kinh tế và 
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước. 
3. Hạn chế của DNVVN 
Bên cạnh những ưu thế kể trên, các DNVVN hiện nay cũng còn tồn tại những hạn 
chế vốn có của nó. Những hạn chế chủ yếu của DNVVN bao gồm: 
3.1. Khả năng tài chính của DNVVN hạn chế. 
Với ưu thế tạo lập dể dàng do chỉ cần một lượng vốn ít, các Doanh nghiệp vừa và 
nhỏ gặp phải hạn chế là năng lực tài chính thấp, từ đó dẫn đến một loạt bất lợi cho 
DNVVN trong sản xuất kinh doanh. 
Trước hết, vốn chủ sở hữu ít nên khả năng vay vốn vủa DNVVN rất hạn chế. Các 
DNVVN thường thiếu tài sản thế chấp cho khoản tiền dự định vay. Tiếp đến, do khả 
năng tài chính hạn chế, quy mô kinh doanh không lớn, cũng rất khó khăn và ít có 
khả năng huy động được vốn trên thị trường. Chính vì thế, các DNVVN luôn ở 
trong tình trạng thiếu vốn. Điều đó khiến cho khả năng thu lợi nhuận của DNVVN 
bị giới hạn ngay cả khi có cơ hội kinh doanh và có yêu cầu mở rộng sản xuất. Với 
tình trạng đó, khả năng tự tích lũy của các DNVVN cũng bị hạn chế. 
3.2. DNVVN thiếu thông tin, trình độ quản lý, điều hành thường bị hạn chế. 
Trong thời đại ngày nay, thông tin cũng là yếu tố một đầu vào vô cùng quan trọng 
trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, đối với các 
doanh nghiệp vừa và nhỏ do khả năng tài chính hạn chế mà DNVVN thường khó 
khăn trong việc tiếp cận thông tin thị trường, tiếp cận công nghệ sản xuất cũng như 
công nghệ quản lý tiên tiến... Do đó, trình độ quản lý của đội ngũ điều hành trong 
các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng bị hạn chế. 
3.3. DNVVN bị bất lợi trong việc mua nguyên vật liệu, trang bị máy móc thiết bị và 
tiêu thụ sản phẩm. 
Với quy mô kinh doanh không lớn, khả năng tài chính hạn hẹp, DNVVN cũng 
thường không được hưởng các khoản chiết khấu hay giảm giá do mua với số lượng 
ít. Trong trường hợp cần phải nhập máy móc, thiết bị của nước ngoài, DNVVN 
thường thiếu ngoại tệ và không mua được trực tiếp mà thường qua đại lý trong nước 
nên giá cả bị đắt hơn. Bên cạnh đó, cũng do khả năng tài chính hạn hẹp nên 
DNVVN khó có thể dành ra một khoản tiền đủ lớn để thực hiện chiến lược 
marketing, và do đó khïo có khả năng vươn ra thị trường thế giới. 
3.4. DNVVN ít có khả năng thu hút được các nhà quản lý và lao động giỏi. 
 Với quy mô sản xuất kinh doanh không lớn, sản phẩm tiêu thụ không nhiều, Doanh 
nghiệp vừa và nhỏ khó có thể trả lương cao cho người lao động. Và cùng với sự 
thiếu vững chắc trong hoạt động sản xuất kinh doanh, DNVVN vừa khó có khả 
năng thu hút được những lao động có trình độ cao trong sản xuất kinh doanh và 
trong quản lý, điều hành. 
3.5. Hoạt động của DNVVN thiếu vững chắc. 
Mặc dù có ưu thế linh hoạt nhưng do khả năng tài chính hạn chế nên khi có biến 
động lớn trên thị trường, các DNVVN dể rơi vào tình trạng phá sản. Hơn nữa, trong 
quá trình phát triển của mình, không ít các DNVVN còn nảy sinh một số tiêu cực 
ảnh hưởng không tốt đến đời sống kinh tế xã hội như hiện tượng trốn thuế, hiện 
tượng chạy theo lợi nhuận quá mức mà không chú ý đến hậu quả xã hội phải gánh 
chịu, kể cả một các hành vi phạm pháp như làm dối, làm ẩu không đảm bảo chất 
lượng, làm hàng giả, gây ô nhiễm môi trường... 
4. Vai trò và sự cần thiết tăng cường hoạt động cho vay đối với DNVVN ở 
nước ta trong giai đoạn hiện nay 
Hiện nay, tuy mỗi nước khác nhau có những đặc điểm, mức độ phát triển khác 
nhau; các DNVVN ở các nước cũng có những hạn chế nhất định,... song một điều 
không thể phủ nhận là các DNVVN trong giai đoạn hiện nay luôn có một vai trò 
quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội, tạo ra nhiều việc làm, tăng thu nhập, 
góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp, mở rộng ngành nghề, tăng kim ngạch xuất khẩu, 
góp phần đáng kể vào tăng thu ngân sách hằng năm... Chính vì vậy, sự tồn tại và 
phát triển của các DNVVN trong nền kinh tế các nước nói chung hay Việt Nam nói 
riêng là một tất yếu khách quan và thật sự cần thiết trong quá trình phát triển của 
quốc gia. 
Ở nước ta, các DNVVN trong quá trình hoạt động, phát triển đã và đang chiếm giữ 
vị trí đặc biệt trong một số ngành. Theo thống kê, tỷ trọng DNVVN trong lĩnh vực 
khoa học cộng nghệ chiếm 94,1 %; sửa chửa ô tô, xe máy: 93%; giáo dục đào tạo: 
87,5%; công nghiệp chế biến: 86%; xây dựng: 85,7%... và nhiều ngành khác chiếm 
tỷ trọng cao. Hàng năm, DNVVN đóng góp khoảng 30% GDP, 30% giá trị sản 
lượng (GTSL) công nghiệp, 78% tổng mức bán lẻ, 64% tổng lượng vận chuyển 
hàng hóa, 100% tổng GTSL hàng hóa ở một số ngành như: giày dép, hàng thủ công 
mỹ nghệ... Về xã hội, với số lượng trên 100.000 DNVVN (trong tổng số 120.000 
của cả nước); đặc biệt với trên 40.000 DNVVN ra đời sau khi có Luật Doanh 
nghiệp thì trung bình mỗi DNVVN tạo việc làm cho khoảng 20 lao động, chiếm 
49% lực lượng lao động cả nước. Từ đó giảm tỷ lệ thất nghiệp còn 5,8% năm 2002 
so với tỷ lệ 7,4% năm 1999. (Theo Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ, ngày 
1/3/2004) 
Như vậy, vai trò trong công cuộc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế xã hội quốc gia của 
các DNVVN là không thể phủ nhận. Song, hiện nay các doanh nghiệp này đang gặp 
phải không ít trở ngại, khó khăn làm hạn chế sự phát triển của mình. 
Đầu tiên và cũng là lớn nhất là khó khăn về vốn. Mặc dù số lượng DNVVN chiếm 
tỷ lệ rất lớn trong tổng số doanh nghiệp của cả nước, song tổng số vốn cho sản xuất, 
kinh doanh mới chỉ bằng 30% so với tổng số vốn của các doanh nghiệp. Số vốn 
bình quân của một DNVVN không quá 1 tỷ đồng (Tạp chí Tài Chính Doanh nghiệp, 
số 8/2003). Điều này một mặt phản ánh mức độ thu hút, tập trung vốn vào sản xuất, 
kinh doanh của các DNVVN còn thấp; mặt khác phản ánh các DNVVN nhìn chung 
đều gặp khó khăn, thiếu vốn để mở rộng quy mô hoạt động của mình. 
Khó khăn về công nghệ, kỷ thuật. Bên cạnh thiếu vốn để sản xuất và mở rộng sản 
xuất, các DNVVN còn ở trong tình trạng lạc hậu về công nghệ, trang thiết bị... do 
đó sản phẩm sản xuất ra thường là chất lượng thấp, rất khó cạnh tranh trong điều 
kiện hội nhập khu vực và thế giới. 
Trình độ quản lý doanh nghiệp và tay nghề người lao động. Hiện nay các DNVVN 
đa phần thiếu vắng những nhà quản lý có trình độ cao, hội đủ năng lực để chỉ đạo 
sản xuất, kinh doanh theo chiến lược mong muốn, do vậy không đủ sức chèo lái để 
doanh nghiệp hoạt động khi gặp khó khăn trong sản xuất như: biến động thị trường, 
giá cả, tỷ giá, lãi suất, nợ, xuất nhập khẩu và các mối quan hệ khác. 
Trình độ tay nghề của người lao động trong các DNVVN hiện rất thấp. Số lao động 
có tay nghề giản đơn, chưa qua đào tạo bình quân chiếm khoảng 60-70%. Đây thực 
sự là một khó khăn lớn đối với việc phát triển của các DNVVN. Ngoài ra, các 
DNVVN hiện nay còn gặp phải một số khó khăn khác như: thiếu mặt bằng sản xuất, 
kinh doanh ổn định, lâu dài; thiếu thông tin, các phương tiện xử lý thông tin,... Đó 
là chưa kể đến một số khó khăn về cơ chế như: sự thiếu bình đẳng trong kinh doanh, 
sự phân biệt đối xử... 
Thực trạng thiếu vốn kinh doanh trên buộc các DNVVN phải có được nguồn tài trợ 
để vượt qua những khó khăn và phát triển. Tuy nhiên, đối với các DNVVN, đặc biệt 
là các DNNQD, việc giải quyết nhu cầu vốn chủ yếu dựa vào thị trường phi tài 
chính hay dựa vào họ hàng, bạn bè... ít tiếp cận được các nguốn tín dụng chính thức 
thông qua các TCTD. Tuy nhiên, việc huy động từ bạn bè mặc dù lãi suất thấp, có 
thể bằng không nhưng lượng huy động lại ít, không thường xuyên, liên tục; qua các 
tổ chức phi tài chính thì lãi suất rất cao (có thể 3%-6%/tháng), phải có tài sản cầm 
cố, thế chấp đảm bảo nhưng cũng chỉ được vay một tỷ lệ nhỏ trên giá trị tài sản đó. 
Việc huy động từ kênh Ngân hàng và các TCTD là hình thức tối ưu hơn cả với 
chính sách lãi suất thỏa thuận, hợp lý, ổn định cao, khối lượng vay lớn... 
Như vậy, với tất cả những thực trạng, khó khăn trên đòi hỏi cần có nhiều hơn những 
chính sách, cơ chế tài chính phù hợp của Nhà nước để hỗ trợ phát triển các Doanh 
nghiệp vừa và nhỏ; đặc biệt là những chính sách thật sự thông thoáng về tài chính - 
tín dụng của Ngân hàng Nhà nước, các Tổ chức tín dụng nói riêng trong việc cấp tín 
dụng cho các DNVVN... để một mặt các Tổ chức tín dụng có thể đa dạng hóa lĩnh 
vực, dịch vụ kinh doanh, tăng doanh số cho vay, phân tán rủi ro trong kinh doanh, 
nâng cao kết quả, hiệu quả kinh doanh... Mặt khác các DNVVN có cơ hội vượt lên 
những hạn chế, khó khăn, có điều kiện phát huy tốt nhất những ưu thế vốn có, từ đó 
khẳng định được vai trò to lớn của mình trong sự tăng trưởng phát triển chung của 
nền kinh tế, góp phần vào sự thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất 
nước. 
CHƯƠNG II:PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH CHO VAY NGẮN HẠN ĐỐI VỚI 
DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT 
TRIỂN ĐÀ NẴNG. 
A. TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN ĐÀ NẴNG. 
I. VÀI NÉT GIỚI THIỆU VỀ NGÂN HÀNG ĐT & PT ĐÀ NẴNG. 
 Chi nhánh NH ĐT&PT ĐN trực thuộc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) tỉnh 
Quảng Nam Đà Nẵng cũ. 
Hoạt động chủ yếu trong thời gian này là huy động vốn, cho vay trên địa bàn dân 
cư, cho các tổ chức kinh tế theo kế hoạch tín dụng của NHNN Thành phố Đà Nẵng 
giao cho việc hạch toán báp sổ. 
 Dần dần, cùng với sự phát triển và ổn định kinh tế của đất nước và do tình 
hình thực tế là khu vực trọng điểm lớn của Nhà nước và thành phố đang xây dựng, 
hình thành và phát triển. 
Trước tình hình kinh tế chung của đất nước khi đó hoạt động tài chính tiền tệ gặp 
nhiều khó khăn, đặc biệt từ năm 1985 - 1988 do những ảnh hưởng xấu của việc bội 
chi ngân sách, với số lượng tiền mặt lưu thông lớn, lạm phát tăng nhanh. Để thích 
ứng với tình hình trên, ngày 06/03/1988 Hội đồng Bộ trưởng nay là Chính phủ ban 
hành Nghị định số 53/HĐBT về tổ chức NHNN Việt Nam và hệ thống NH Việt 
Nam chuyển sang hệ thống ngân hàng hai cấp. 
NH ĐT&PT ĐN dưới sự điều tiết của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam 
(NH ĐT&PT VN), mọi kế hoạch cân đối tín dụng của Ngân hàng đều được NH 
ĐT&PT VN phê duyệt, thông báo cụ thể, NH ĐT&PT ĐN có nhiệm vụ điện báo 
hàng ngày và định kỳ hoạt động kinh doanh về NH ĐT&PT VN. 
Là một tổ chức kinh doanh tiền tệ hoạt động thường xuyên, chủ yếu là nhận tiền gửi 
của khách hàng và có trách nhiệm hoàn trả và sử dụng nguồn vốn đó để cho vay với 
mục đích kinh doanh có lãi và giúp đỡ về vốn với các tổ chức kinh tế trên địa bàn 
quận góp phần mở rộng đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh trên địa bàn quận nói 
riêng vàThành phố Đà Nẵng nói chung. Với tổng số trên 100 cán bộ công nhân 
viên, ngân hàng tổ chức các phòng ban như:phòng kế toán, phồng nguồn vốn,phòng 
tín dụng, phồng thanh toán quốc tế, phòng giao dịch...các bộ phận này được chuyên 
môn hoá theo nghiệp vụ ngân hàng nhưng nó luôn có quan hệ với nhau tạo điếu 
kiện nâng cao hiệu quả hoạt động ngân hàng. 
Nhìn chung với sự cố gắng của mình, Ngân hàng luôn khơi tăng nguồn vốn tín 
dụng, phát triển cơ câu nguồn tiền gửi lãi suất thấp tạo điều kiện phát triển kinh tế 
và kinh doanh ngân hàng. Tăng cường nguồn thu tiền mặt đáp ứng kịp thời và thoả 
mãn nhu cầu cho tiền của doanh nghiệp, tư nhân cá thể. Tổ chức thanh toán không 
dùng tiền mặt kịp thời, chính xác góp phần tăng tốc độ chu chuyển vốn cho nền 
kinh tế. Đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng, tạo môi trường phát triển kinh tế và đời 
sống xã hội. 
II. MỘT SỐ QUI ĐỊNH CHO VAY NGẮN HẠN ĐỐI VỚI DNVVN. 
1. Khái niệm: Cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp là loại cho vay có thời 
hạn dưới 1 năm nhằm bổ sung nhu câù vốn lưu động phát sinh trong quá trình sản 
xuất kinh doanh . 
2. Đối tượng cho vay: là những vật tư, hàng hoá, các chi phí cấu thành nên giá 
thành sản phẩm hoặc giá mua 
3. Mức cho vay: 
 Do hai bên thoả thuận căn cứ vào nhu cầu của khách hàng, khả năng đáp ứng vốn 
của ngân hàng. 
4. Cách thu nợ gốc và lãi: thường thu nợ 1 lần nếu thời hạn vay vốn là ngắn và 
thu theo định kỳ tháng nếu thời hạn vay tương đối dài. Thu lãi theo định kỳ có lợi 
hơn so với thu lãi một lần và thu lãi kiểu này tạo ra những dòng luân chuyển có tính 
chất thường xuyên giúp cho công tác cố định vốn của ngân hàng dễ dàng hơn và 
ngân hàng không thể theo dõi thường xuyên tất cả các khảon vay nên điều này giúp 
ngân hàng sớm phát hiện được những khoản cho vay không bình thường 
III. QUI TRÌNH THỰC HIỆN NGHIỆP VỤ CHO VAY NGẮN HẠN ĐỐI VỚI 
DNVVN TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN ĐÀ NẴNG. 
 B. PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH CHO VAY NGẮN HẠN ĐỐI VỚI DOANH 
NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN ĐÀ 
NẴNG. 
I KHÁI QUÁT VỀ TÌNH HÌNH KINH DOANH CỦA NH ĐT&PT ĐÀ 
NẴNG. 
1. Tình hình huy động vốn qua hai năm 2003, 2004. 
Vốn là yếu tố quan trọng hàng đầu của bất cứ một tổ chức kinh tế nào muốn tồn tại 
và phát triển. Nguồn vốn là nhân tố vững chắc góp phần quyết định quy mô hoạt 
động kinh doanh từ đó quyết định đến hiệu quả kinh doanh của các tổ chức. Đối với 
Ngân hàng, nguồn vốn của NHTM chính là nguồn hình thành nên tài sản Có để đầu 
tư vào hoạt động kinh doanh của từng ngân hàng. 
Qua bảng số liệu cho thấy, năm 2004 tổng nguồn vốn của chi nhánh đạt 2.724 tỷ 
đồng. Trong đó, nguồn vốn huy động tăng 319 tỷ đồng. Sở dĩ nguồn vốn huy động 
tăng trưởng mạnh là do trong bối cảnh cạnh tranh Ngân hàng đã bám sát tình hình 
thực tế trên địa bàn, linh hoạt trong chính sách lãi suất, được khách hàng tín nhiệm. 
- Trong cơ cấu nguồn vốn huy động của chi nhánh cho thấy, nguồn huy động 
từ các tổ chức kinh tế năm 2004 tăng 27,47% so với cùng kỳ năm 2003. Sự tăng lên 
của nguồn vốn này phần lớn là từ nguồn tiền gửi không kỳ hạn còn nguồn tiên gửi 
có kỳ là không đáng kể. Có được điều này là do những năm vừa qua NH ĐT&PT 
Đà Nẵng đã thiết lập mối quan hệ đáng tin cậy với các doanh nghiệp trên địa bàn 
nên ngày càng có nhièu doanh nghiệp tham gia giao dịch với Ngân hàng và luôn có 
số dư lớn. Đây là một lợi thế trong hoạt động kinh doanh hiện nay của chi nhánh do 
nguồn tiền gửi không kỳ hạn được xem là nguồn vốn có chi phí thấp nhất . Tuy 
nhiên, tính chất nguồn vốn này mức độ ổn định không cao, thường tuỳ vào nhu cầu 
sử dụng vốn của các tổ chức trong nền kinh tế và chi phí cho việc sử lý các giao 
dịch tiền gửi không kỳ hạn ngay càng cao. 
- Tiền gửi tiết dân cư năm 2004 làü tăng 25,57% so với năm 2003 .Vì Ngân 
hàng đã có những biện pháp thích đáng để khơi dậy nguồn vốn tai chỗ nhằm đảm 
bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh của NH. 
- Nguồn huy động ngắn hạn và dài hạn có tăng nhưng chủ yếu là nguồn dài 
hạn còn nguồn ngắn hạn tăng không đấng kể :nguồn ngắn hạn năm 2004 đạt 1.1274 
tỷ đồng với tốc độ tăng trưởng 16,55%. 
 Nguồn vốn huy động qua 2 năm có tăng không đáp ứng nhu cầu vay vốn 
ngày càng tăng của khách hàng nên bên cạnh nguồn vốn huy động được NH 
ĐT&PT Đà Nẵng phải vay vốn điều từ NHTƯ vào năm 2003 là 545 tỷ đồng, năm 
2004 là 845 tỷ đồng. 
 Nhìn chung, năm 2004 đánh dấu một năm khá thành công của NH ĐT&PT 
Đà Nẵng trong công tác huy động vốn, tuy nhiên so với quy mô hoạt động ngày 
càng mở rộng, nguồn vốn huy động tại chỗù vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu vốn 
vay của các đơn vị, tổ chức trên đại bàn. Trong năm tới, Ban lãnh đạo chi nhánh sẽ 
có những biện pháp tăng cường nguồn huy động, điều chỉnh cơ cấu huy động để 
đảm bảo sự chủ động trong hoạt động kinh doanh của chi nhánh trong những năm 
tới. 
2. Tình hình cho vay chung tại NH ĐT&PT Đà Nẵng . 
 Cùng với sự tăng trưởng về kinh tế của Thành phố, nhu cầu vốn của các tổ 
chức, cá nhân ngày càng tăng. Hoà nhịp với sự tăng trưởng đó, NH ĐT&PT Đà 
Nẵng đã chủ trương mở rộng quy mô cho vay, đầu tư cho các dự án phương án sản 
xuất kinh doanh có hiệu quả nhằm mở rộng hoạt động tín dụng. Chính vì vậy năm 
2004, doanh số cho vay, thu nợ, dư nợ bình quân tại chi nhánh đã có bước tăng 
trưởng lớn. 
 Cùng với sự tăng trưởng về kinh tế của Thành phố, nhu cầu vốn của các tổ chức, cá 
nhân ngày càng tăng. Hoà nhịp với sự tăng trưởng đó, NH ĐT&PT Đà Nẵng đã chủ 
trương mở rộng quy mô cho vay, đầu tư cho các dự án phương án sản xuất kinh 
doanh có hiệu quả nhằm mở rộng hoạt động tín dụng. Chính vì vậy năm 2004, 
doanh số cho vay, thu nợ, dư nợ bình quân tại chi nhánh đã có bước tăng trưởng . 
 Nhờ vào những biện pháp tích cực trong chính sách lãi suất, mở rộng tín dụng nên 
DSCV năm 2004 tại chi nhánh tăng 26,71% so với năm 2003. Cùng với sự gia 
tăng DSCV , DSTN năm 2004 tăng 26,71% so với năm 2003 cho thấy công tác thu 
hồi nợ của CN đang diễn ra thuận . 
 Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế, tốc độ của các ngành nghề, các thành 
phần kinh tế trên địa bàn cũng đều có bước tăng trưởng tốt, từ đó công tác tín dụng 
tại chi nhánh cũng có bước phát triển đáng kể. Trong năm 2004, DNBQ đạt mức 
2006 tỷ đồng, tăng 21,36% với năm 2003. 
 Nợ quá hạn năm 2004 tăng mạnh 34,89% so với năm 2003 nguyên nhân là 
do hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp không hiệu quả, Ngân hàng chưa 
nắm sát tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nên không phát hiện kịp 
thời để có biện pháp giải quyết kịp thời NQH có tỉ lệ 1,54% là không tốt vì vậy cán 
bộ tín dụng cùng ban lãnh đạo nhanh chóng thu hồi nợ, hạn chế NQH phát sinh 
thêm. 
3. Kết quả kinh doanh. 
Với sự nỗ lực, cố gắng không ngừng của toàn bộ đội ngũ Cán bộ Công nhân viên 
trong những năm qua, NH ĐT&PT Đà Nẵng đã đạt được nhiều kết quả tốt trong 
hoạt động kinh doanh. 
 Qua bảng trên cho thấy lợi nhuận kinh doanh năm 2004 đã tăng trưởng khá 
mạnh, do hoạt động kinh doanh hiệu quả tổng thu nhập tăng11,50% làm lợi nhuận 
giảm tăng 15,43% tương ứng 2.382 tỷ đồng, từ đó phần nào ảnh hưởng tốt đến hoạt 
động của chi nhánh trong năm vừa qua. Mặc dù chỉ tiêu lợi nhuận vẫn chưa đánh 
giá được thực chất tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng nhưng nó cũng 
nói lên đựoc đến chất lượng dịch vụ của Ngân hàng. 
 Qua tìm hiểu khái quát về tình hình chung của NH ĐT&PT Đà Nẵng trong 
năm 2003-2004, với những thuận lợi như vậy trong năm hy vọng trong năm tới chi 
nhánh sẽ tiếp tục duy trì, đạt được những thành tích lớn và phát huy những thế 
mạnh vốn có để NH ĐT&PT Đà Nẵng ngày càng là chỗ dựa vững chắc và đáng tin 
cậy của các doanh nghiệp, cá nhân trên địa bàn. 
II. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC DNVVN TẠI TP ĐÀ NẴNG. 
Thành phố Đà Nẵng - một trong 4 đô thị lớn nhất cả nước, là trung tâm kinh tế, 
chính trị, thương mại, văn hoá, xã hội và là cửa ngõ giao thương quốc tế của cả khu 
vực Miền Trung-Tây Nguyên. Trong những năm qua, bộ mặt thành phố đã có nhiều 
thay đổi với nhiều thành tựu to lớn trong tất cả các lĩnh vực. 
Trong năm 2003 vừa qua, tốc độ tăng trưởng GDP toàn thành phố đạt đến 48.325 tỷ 
đồng, tăng 12,62% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, GTSX ngành công nghiệp 
đạt 5.858 tỷ đồng, tăng 21,67%; GTSX ngành Nông-Lâm Thuỷ sản tăng 5,86%; 
tổng mức bán lẻ hàng hoá dịch vụ đạt 5.881 tỷ đồng, tăng 8,59%; kim ngạch XNK 
đạt 328,7 triệu USD, tăng 16,56%; vốn đầu tư phát triển tăng 14,65%; thu nhập bình 
quân đầu người đạt 980 USD/người/năm... (Báo cáo tình hình KT-XH TP Đà Nẵng 
Năm 2003, Cục Thống Kê TP Đà Nẵng). Hàng trăm dự án, công trình trọng điểm 
phục vụ công cuộc phát triển chỉnh trang đô thị từ Hầm đường bộ qua Đèo Hải Vân 
(quy mô nhất khu vực Đông Nam Á), các tuyến đường Nguyễn Tất Thành, Phạm 
Văn Đồng, Bạch Đằng,... dự án đường cao tốc Đà Nẵng-Dung Quốc, đến mở rộng 
sân bay Quốc tế, nâng cấp Cảng Tiên Sa, công trình cầu Tuyên Sơn, Cầu Thuận 
Phước... đã đang và sẽ tiếp tục hoàn thành. 
Năm 2004 , Thành phố Đà Nẵng đã chứng kiến nhiều sự kiện chính trị quan trọng 
trong quá trình đổi mới, phát triển của mình: Được Chính phủ chính thức công nhận 
Thành phố Đà Nẵng là đô thị loại 1 cấp quốc gia, tổ chức thành công cuộc họp Nội 
Các giữa Chính phủ và các Bộ ngành hai nước Việt Nam-Thái Lan, là Thành phố 
duy nhất nước ta được chọn tham gia chương trình liên kết 9 Thành phố Châu Á trở 
thành thành phố kiểu mẫu do Trung tâm Thông tin Đô thị (AUICK) Nhật Bản khởi 
xướng... Với tất cả những thành tựu to lớn trên không thể không kể đến vai trò đóng 
góp của các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố nói chung cũng như vai trò của 
các Doanh nghiệp Vừa và nhỏ nói riêng. 
Kể từ khi chia tách tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng thành hai đơn vị hành chính, Thành 
phố Đà Nẵng trở thành đơn vị hành chính trực thuộc Trung Ương năm 1997 đã tạo 
điều kiện cho các DNVVN hoạt động và phát triển. Hoạt động của các DNVVN 
thành phố chủ yếu trong ngành Thương mại, hoạt động trên tất cả các lĩnh vực bán 
buôn, bán lẻ, đại lý, dịch vụ, tiêu thụ sản phẩm các mặt hàng đa dạng phong phú, 
đáp ứng được nhu cầu ngày càng lớn của người dân trong thành phố. Ngoài ra, một 
số các DNVVN có thị trường tiêu thụ vươn tới các địa phương khác hay tham gia 
xuất khẩu... 
Có thể nói, với sự thông thoáng của Luật Doanh nghiệp ra đời năm 2000, nguồn 
vốn đầu tư vào các DNVVN ngày càng tăng mạnh, các DNVVN ngày càng có điều 
kiện khẳng định được vai trò to lớn của mình trong quá trình phát triển kinh tế xã 
hội ở địa phương. 
III. PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA 
VÀ NHỎ TẠI NH ĐT&PT ĐÀ NẴNG TRONG THỜI GIAN QUA 
1. Phân tích tình hình cho vay ngắn hạn đối với DNVVN nói chung . 
 Hiện nay, nhu cầu vay vốn của các DNVVN để phục vụ cho hoạt động sản 
xuất kinh doanh là rất lớn, tuy nhiên xuất phát từ thực trạng chung của ác DNVVN 
hiện nay như: hầu hết các DNVVN mới thành lập, vốn kinh doanh thấp,... (Số liệu 
gần đây của Sở Kế hoạch-Đầu tư cho biết: quy mô vốn bình quân của một DNVVV 
là rất thấp: DNTN là 388,2 triệu đồng, Công ty TNHH là 1.261,9 triệu đồng, CTCP 
là 3.233,3 triệu đồng.). Ngoài ra, việc sử dụng vốn kém hiệu quả, kinh nghiệm chưa 
có, tính khả thi của phương án sản xuất kinh doanh không cao, hầu hết các DNVVN 
không đủ tài sản đảm bảo khi vay vốn... dẫn đến không ít các DNVVN làm ăn thua 
lỗ, phá sản hay giải thể... Tất cả các nguyên nhân trên có thể giải thích tại sao doanh 
số cho vay ngắn hạn đối với loại hình DNVVN chiếm tỷ trọng thấp và tốc độ tăng 
trưởng không cao. DSCV năm 2004 đạt mức 37.528 triệu đồng với tốc độ tăng 
trưởng là 4,33%. 
 Về phía các ngân hàng, hầu như đa số các ngân hàng đều đặt mục tiêu an 
toàn trong cho vay cao hơn là mục tiêu tăng trưởng hoạt động tín dụng. Do đó yêu 
cầu thu hồi vốn nhanh, đúng tiến độ kéo theo yêu cầu chặc chẽ, khắc khe trong điều 
kiện vay vốn, bảo đảm tiền vay... cũng làm cho hoạt động tín dụng đối với loại hình 
doanh nghiệp này có phần hạn chế. Hơn nữa, cơ cấu cho vay truyền thống của hầu 
hết các NHTM chủ yếu tập trung vào các doanh nghiệp lớn, đặc biệt là các Doanh 
nghiệp Nhà nước. Ví như các NHTM quốc doanh, do bản thân là của Nhà nước, lại 
ra đời từ rất sớm ngay khi đất nước còn chưa tiến hành đổi mới nên khách hàng 
truyền thống của các ngân hàng này các DNNN là điều tất yếu. NH ĐT&PT Đà 
Nẵng là một NHTM quốc doanh nên số dư nợ của DNNN chiếm hơn 70% tổng dư 
nợ cho vay. Điều này chứng tỏ định hướng đầu tư cúa NH tập trung chủ yếu vào 
DNNN Tuy nhiên, hướng theo chủ trương của Đảng và Nhà nước ta hiện nay thực 
hiện bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp, các thành phần kinh tế với nhiều 
chính sách hỗ trợ các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh... nên đa phần các NHTM 
mà điển hình là NH ĐT&PT Đà Nẵng đã có nhiều nỗ lực vượt qua những khó khăn 
để chuyển hướng hoạt động sang phục vụ các DNVVN. Mặc dù cho vay với loại 
hình DNVVN có xuất hiện tình trạng NQH nhưng bằng khả năng và sự nhiệt tình 
trong công tác của cán bộ, nhân viên NH đả duy trì tỉ lệ NQH ở mức có thể chấp 
nhận được. 
2. Phân tích tình hình cho vay ngắn hạn đối với DNVVN theo loại hình doanh 
nghiệp 
 Qua bảng phân tích có thể nhận thấy cùng với sự tăng trưởng về số lượng 
lẫn về quy mô của loại hình DNVVN trên địa bàn Thành phố thì quy mô tín dụng 
đối với các DNVVN tại chi nhánh cũng có bước tăng trưởng lớn, trong đó đáng chú 
ý là tốc độ tăng trưởng đối với các CTy TNHH. Về tỷ trọng, trong khi cho vay đối 
với các CTy TNHH luôn chiếm tỷ trọng lớn (đến trên 50% tổng doanh số cho 
vay...) và có xu hướng ngày càng tăng lên trong tương lai; các Cty CP, DN Tư nhân 
với mức vay cũng chiếm tỷ trọng khoảng từ 15% đến 20% doanh số và các loai hình 
DNVVN khác như : Cty Hợp danh, các văn phòng chi nhánh đại diên cũng chiếm tỷ 
trông nhỏ trông doanh số cho vay, mặt khác tốc độ tăng trưởng trong vay vốn cũng 
đang có xu hướng giảm xuống trong năm 2004. Cụ thể: 
 Đối với các Cty CP, tuy có bước tăng trưởng cả về doanh số cho vay, dư nợ 
cho vay... nhưng thực tế cho thấy tỷ trọng cho vay đối với loại hình doanh nghiệp 
này ngày càng giảm. Nguyên nhân là hoạt động cổ phần hoá diễn ra ngãy càng sôi 
nổi nên một số các Cty CP đã được tiếp nhận vốn nhiều hơn từ cổ đông làm cho 
doanh số hoạt động cho vay đối với loại hình kinh doanh này có phần giảm xuống. 
 Các CTy TNHH, với số lượng đông đảo nhất hiện nay trên địa bàn, trong 
những năm qua đã có những đóng góp to lớn đối với sự phát triển chung của thành 
phố, do đó đây là đối tượng doanh nghiệp có số dư tín dụng tại chi nhánh nhiều 
nhất. Hơn nữa, do trước sự cạnh tranh căng thẳng đối với khối DNNN, chi nhánh đã 
chủ động sắp xếp lại cơ cấu nợ vay. Ngoài việc giữ quan hệ tốt với khách hàng 
truyền thống là các DNNN, các doanh nghiệp lớn, chi nhánh đã mở rộng đầu tư cho 
vay đối với các DNVVN... vì thế, doanh số cũng như dư nợ cho vay đối với các 
doanh nghiệp này không ngừng tăng trưởng trong các năm qua (DSCV tăng 
13,82%, DNBQ tăng 9,49%).Mức tăng trưởng nhanh cộng với tỷ trọng trong cơ cấu 
cho vay cũng có xu hướng tăng lên hứa hẹn đây là khách hàng tiềm năng của chi 
nhánh trong những năm sắp tới. 
 Cùng với các Cty CP, dư nợ cho vay đối với các DNTN cũng đã có phần 
giảm xuống trong cơ cấu cho vay tại chi nhánh trong 2 năm qua. Điều này cũng dể 
giải thích bởi lẽ hiện nay các DNTN đang là đối tượng còn mắc nhiều hạn chế nhất 
trong hoạt động kinh doanh, đó là 
 + Năng lực tài chính rất thấp, quy mô sản xuất nhỏ, thủ công, tỷ lệ vốn tự có 
tham gia vào những dự án lớn thấp kéo theo hiệu quả hoạt động sản xuất kinh 
doanh thấp, vấn đề tài sản đảm bảo nợ vay phần lớn các DNTN không đủ tài sản thế 
chấp, các tài sản không đủ giấy tờ pháp lý... vì vậy, mức độ rủi ro là rất lớn, hạn chế 
nhiều đến quá trình mở rộng và tăng trưởng tín dụng đối với thành phần này. 
 + Ngoài ra, năng lực kinh doanh, trình độ quản lý của các chủ DNTN hiện nay 
là rất thấp, quan hệ cũng như khả năng nắm bắt thông tin kém, khả năng cạnh tranh 
không cao... một số doanh nghiệp còn có biểu hiện kinh doanh không lành mạnh, 
“lách luật”, lừa đảo, thành lập các công ty “ma”... trong những năm qua, do đó rất 
khó để tiếp cận được với nguồn vốn của ngân hàng. 
 Với những nội dung phân tích trên cho thấy, việc đầu tư cho vay các 
DNVVN tại NH ĐT&PT Đà Nẵng trong những năm qua ngày càng được mở rộng 
theo hướng không phân biệt đối xử đối với thành phần kinh tế dân doanh, khuyến 
khích phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, nhằm huy động mọi nguồn 
lực vào quá trình phát triển chung của toàn thành phố... Tuy nhiên, nhìn vào tỷ 
trọng cho vay thì loại hình Cty TNHH vẩn đang còn chiếm tỷ trọng cao nhất vì vậy 
Ngân hàng cần có sự điều chỉnh cơ cấu như tăng DSCV đối với các doanh nghiệp 
tư nhân, để các DNTN có cơ sở cũng như những điều kiện cần thiết nhất nhằm 
khẳng định vai trò và vị thế của mình trên thị trường. 
3. Phân tích tình hình cho vay ngắn hạn đối với DNVVN theo ngành kinh tế. 
 Qua bảng số liệu ta thấy, ngành Thương nghiệp là ngành có doanh số cho 
vay cũng như dư nợ chiếm tỷ trọng lớn nhất (DNBQ: 49,97% du nợ toàn ngành) 
trong cơ cấu cho vay tại chi nhánh. Cùng với DSCV, DSTN và DNBQ cũng của 
nhóm ngành này cũng có bước tăng trưởng rất nhanh. Điều này cũng dể hiểu bởi lẽ 
hiện nay phần lớn các DNVVN Thành phố đang hoạt động sản xuất kinh doanh 
trong ngành này (DNVVN ngành thương mại chiếm75-80% tổng mức bán lẻ toàn 
Thành phố), nhu cầu vốn cho hoạt động kinh doanh là rất lớn. Tuy nhiên, một hạn 
chế là các doanh nghiệp trong ngành hoạt động với mức vốn đầu tư thấp quy mô 
còn nhỏ, thời gian quay vòng vốn nhanh, nhu cầu vay vốn chủ yếu để bổ sung vốn 
lưu động... do đó các doanh nghiệp có khuynh hướng vay mượn nhiều. Xét về trách 
nhiệm hoàn trả nợ vay ở gốc độ ràng buộc về tài sản và uy tín kinh doanh cũng 
không cao. Đây là điều đấng ngại khi Ngân hàng có xu hướng nâng cao dư nợ cho 
vay đối với ngành này 
 Chiếm tỷ trọng sau ngành thương nghiệp là ngành CN-XD có sự gia tăng về 
dư nợ theo tốc độ tăng của nhóm ngành này( GTSX Công nghiệp dân doanhThành 
phố tăng 8,5% so với cùng kỳ năm 2003) .Ngành Xây dựng là một trong những 
ngành rất phát triển hiện nay ở nước ta cũng như ở địa bàn Thành phố nói riêng. 
Năm qua, tốc độ Đô thị hoá, xây dựng cơ sở hạ tầng ở Thành phố diễn ra tấp nập, 
khẩn trương cùng với đó là việc giải toả đền bù và bố trí tái định cư cho người dân... 
làm cho nhu cầu vốn đầu tư trong xây dựng rất lớn. Chính thực trạng phát triển hết 
sức khả quan trên của ngành CN-XD Thành phố như trên trong những năm qua đã 
có tác động không nhỏ đến việc mở rộng hoạt động cho vay đối với lĩnh vực này 
của chi nhánh. 
 Cho vay ngắn hạn đối với DNVVN ngành vận tải chưa chiếm tỷ trọng lớn 
trong DSCV nhưng năm 2004 DSCV, DNBQ đối với ngành này đật tốc độ tăng 
trướng là do năm 2004 Thành phố có chủ trương tiếp tục hoàn thiện, mở rộng và 
xây dựng những tuyến đường mới. Để hoàn thành tuyến đường này các đơn vị thi 
công phải vay vốn ngắn hạn của NH để trả lương cho công nhân và mua vật liệu 
phục vụ cho quá trình thi công. 
 Cùng với việc đẩy mạnh đầu tư tín dụng vào các ngành trên Ngân hàng còn 
đầu tư vào các ngành như :ngành Nông-Lâm-Thủy sản, dịch vụ...tuy cũng có bước 
tăng trưởng nhưng luôn là nhóm ngành chiếm tỷ trọng thấp. Nguyên nhân trực tiếp 
khiến hoạt động cho vay đối với nhóm ngành này giảm xuống là do trong thời gian 
gần đây, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong ngành gặp rất nhiều khó khăn, 
từ điều kiện thời tiết phức tạp, sâu hại, dịch bệnh, tình hình giá cả thị trường biến 
động phức tạp, sự thiếu thông tin, kinh nghiệm trong kinh doanh... Ví như các vụ 
kiện bán phá giá cá tra, cá basa, rồi đến con tôm ở thị trường Mỹ đã làm không ít 
các doanh nghiệp trong ngành phải điêu đứng. Với những khó khăn và thực trạng 
kinh doanh trên thì việc tiếp cận được nguồn vốn vay của ngân hàng là điều vô cùng 
khó khăn đối với các doanh nghiệp thuộc nhóm ngành này. 
 Khó khăn là như vậy, tuy nhiên với sự nỗ lực cố gắng của cả hai phía, ngân 
hàng và các doanh nghiệp, đặc biệt một số doanh nghiệp vay vốn để đầu tư đổi mới 
trang thiết bị, dây chuyền sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm nên doanh số cho 
vay của chi nhánh đối với các doanh nghiệp này cũng đã có bước tăng trưởng nhất 
định với doanh số cho vay năm 2004 cũng đạt tới hơn 37.528 triệu đồng. 
4. PT tình hình cho vay ngắn hạn đối với DNVVN theo hình thức đảm bảo tiền 
vay. 
 Đảm bảo tiền vay luôn là vấn đề được các NH hiện nay quan tâm và coi đó 
như là một trong những nguyên tắc quan trọng của một HĐTD. Nếu công tác thẩm 
định, xử lý, định giá tài sản đảm bảo tiền vay không tốt, NH nhiều khả năng sẽ là 
người bị thiệt hại trong hoạt động kinh doanh của mình 
 Nhìn vào cơ cấu cho vay trên dể nhận thấy hình thức cho vay không đảm bảo 
bằng tài sản đối với các DNVVN trong những năm qua là không được áp dụng ở 
NH mặc dù hình thức cho vay này vẫn chiếm một phần đáng kể trong cơ cấu cho 
vay chung. Điều này có thể giải thích dựa trên thực trạng phát triển không ổn định 
hiện nay của các DNVVN làm cho NH chưa dám thực hiện cho vay tín chấp đối với 
DNVVN. Hơn nữa, về phía ngân hàng, do mục tiêu hoạt động an toàn vẫn đặt lên 
trên mục tiêu tăng trưởng hoạt động tín dụng do đó ngân hàng đã không quá mạo 
hiểm cho vay dựa trên uy tín của DNVVN (thường làm ăn không hiệu quả) do đó có 
thể nói, hiện nay toàn bộ doanh số cho vay đối với DNVVN tại chi nhánh đều phải 
được thực hiện dưới hình thức có đảm bảo bằng tài sản. 
 Trong các hình thức đảm bảo đang áp dụng cho các DNVVN tại NH thì 
chiếm tỷ trọng nhiều nhất (trên 70% DSCV cũng như DNBQ) là hình thức đảm bảo 
bằng chính tài sản của khách hàng: cầm cố, thế chấp; kế đến là đảm bảo bằng tài sản 
hình thành từ vốn vay; chiếm tỷ trọng thấp nhất là hình thức bảo lãnh bằng tài sản 
của bên thứ ba. DSCV theo hình thức báo lãnh của bên thứ ba năm 2004 cũng chỉ là 
1.599 triệu đồng (4,26%). Như vậy là DSCV theo hình thức này giảm cả về tỷ trọng 
lẫn độ tăng trưởng. Nguyên nhân là do hầu như chưa có một tổ chức chính thức nào 
chấp nhận đứng ra bảo lãnh cho các DNVVN để họ có thể có thể vay vốn ngân 
hàng. Các bên thứ ba bảo lãnh cho DNVVN hiện nay chủ yếu là các tổ chức do các 
doanh nghiệp tự giới thiệu mà ngân hàng thì có quá ít thông tin về họ, quá trình 
thẩm định lại gặp phải nhiều khó khăn... Ngoài ra, các doanh nghiệp được bảo lãnh 
thường có tâm lý ỷ lại vào sự bảo lãnh do đó sẽ không nỗ lực, cố gắng trong hoạt 
động kinh doanh để trả nợ... Thực tế trên làm cho việc giải ngân cũng từ đó gặp 
nhiều trở ngại. 
 Cho vay đảm bảo bằng tài sản hình thành từ vốn vay trong những năm qua, 
chính nhờ sự linh hoạt tăng quy mô hoạt động cho vay theo hướng này nên DSCV 
tại NH có bước tăng trưởng khá lớn, giúp cho chi nhánh đa dạng hóa được hoạt 
động đầu tư, hạn chế rủi ro kinh doanh. 
 Như đã nói, hình thức đảm bảo tiền vay bằng chính tài sản của khách hàng 
đang chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng hoạt động cho vay DNVVN và cả hai đều 
gắn liền với hoạt động cho vay ngắn hạn tại NH . Như vậy, cơ cấu cho vay giữa hai 
hình thức này qua hai năm đã cho thấy một sự thay đổi lớn. Tuy về lượng giá trị, 
DSCV bằng hình thức cầm cố vẫn có phần nhiều hơn tuy nhiên về tốc độ, cho vay 
bằng hình thức thế chấp đã có bước tăng trưởng nhanh chóng; đặc biệt, tỷ trọng cho 
vay hình thức này trong cơ cấu cho vay chung đối với DNVVN đã dần dần tăng lên. 
 Sở dĩ DSCV thế chấp trong những năm qua thường thấp hơn cho vay dưới 
hình thức cầm cố là do tài sản thế chấp chủ yếu là bất động sản như đất đai, nhà 
xưởng... Tuy nhiên thực trạng các DNVVN vốn dĩ gặp nhiều khó khăn trong vần đề 
đất đai, mặt bằng kinh doanh, do phần lớn là đi thuê, diện tích nhỏ hẹp, giá trị 
không cao... vì thế đã gây khó khăn cho các DNVVN trong việc đáp ứng các thủ 
tục, giấy tờ cũng như giá trị tài sản đảm bảo cần thiết để được vay vốn; trong khi 
đó, với hình thức cầm cố mà đa số là các thiết bị máy móc, phương tiện vận tải, dây 
chuyên sản xuất, hàng hóa... với số lượng nhiều sẽ là nguồn đảm bảo dể dàng cho 
các DNVVN để được giải ngân từ các ngân hàng. 
 Hiện nay tỷ trọng cho vay theo hình thức cầm cố giảm đi trong khi cho vay 
thế chấp lại tăng lên là do: Trong hoạt động cho vay cầm cố; các tài sản chủ yếu là 
các máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, hàng hóa... khi cầm cố quyền sử dụng tài 
sản nhiều khả năng thuộc về người đi vay, mặt khác tài sản này là động sản nên dể 
dàng bị mất, hư hỏng, hao mòn, giá cả biến động lớn... đó là chưa kể nhiều bên đi 
vay có thể làm thay đổi một số chi tiết trên tài sản nhằm thu lợi khi phát mãi tài sản, 
NH không thể kiểm soát được. Ngược với hình thức cầm cố, thế chấp hiện nay là 
biện pháp an toàn hơn đối với hoạt động của ngân hàng khi ngân hàng được nắm 
giữ các giấy tờ liên quan về tài sản của khách hàng, hơn nữa các tài sản thế chấp 
thường là bất động sản nên có thể khắc phục được hầu hết những nhược điểm của 
hình thức cầm cố, mặt khác các khoản chi phí bỏ ra để bảo quản tài sản thế chấp vì 
thế cũng thấp hơn. 
 Vẫn biết rằng cho vay có đảm bảo bằng tài sản của khách hàng sẽ đem lại sự 
an toàn và hiệu quả kinh doanh tốt nhất cho ngân hàng, tuy nhiên trước thực trạng 
các DNVVN hiện nay, việc dùng tài sản của bản thân các DNVVN để thế chấp là 
vấn đề khó khăn. Đây là mâu thuẩn lớn nhất và cũng là khó giải quyết nhất trong 
hoạt động cho vay đối với DNVVN ở NH. Hơn nữa, do công tác định giá tài sản 
đảm bảo hiện nay còn quá nhiều bất cập, khung định giá tài sản đã quá cũ do đó giá 
trị tài sản thế chấp của doanh nghiệp chỉ còn khoảng 60% đến 70% giá trị thực tế, 
ngoài ra tỷ lệ vay lại chỉ khoảng 70% giá trị tài sản thế chấp do đó số tiền thực tế 
vay được của các DNVVN chỉ là từ 40% đến 50% giá trị tài sản thế chấp. Thực 
trạng này đã gây khó khăn cho các DNVVN khi tìm đến nguồn vốn của ngân hàng, 
làm hạn chế quy mô hoạt động của NH trong lĩnh vực đầy tiềm năng này. 
IV. NHẬN XÉT VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY NGẮN HẠN ĐỐI VỚI 
DNVVN TẠI NH ĐT&PT ĐÀ NẴNG. 
 Trong những năm gần đây, tình hình kinh tế của đất nước tương đối ổn định 
và ngày càng tăng trưởng, phát triển. Hoà nhịp với tình hình chung của đất nước, 
các doanh nghiệp-đặc biệt là DNVVN làm ăn ngày càng có hiệu quả, nhu cầu mở 
rộng sản xuất kinh doanh ngày càng tăng...Để làm được điều đó, họ cần phải có 
được nguồn vốn, có thể là tự có hoặc là đi vay của các ngân hàng. Bên cạnh sự gia 
tăng nhu cầu về vốn, thì đồng thời sự cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại 
quốc doanh, ngân hàng thương mại cổ phần...cũng diễn ra không kém phần gay gắt 
trong hoạt động kinh doanh tiền tệ. Trong bối cảnh đó, NH ĐT&PT Đà Nẵng không 
ngừng đổi mới phương pháp cách thức làm việc, để kịp thời đáp ứng nhu cầu phát 
triển của nền kinh tế nói chung và của thành phố Đà Nẵng nói riêng. 
 Hiện nay, cho vay ngắn hạn là hoạt động sôi nổi nhất đang diễn ra tại NH. 
Tuy nhiên hoạt động cho vay ngắn hạn đối với DNVVN vẫn chưa tực sự sôi động 
như các lĩnh vực khác. Bởi vì Ngân hàng vẫn còn e ngại đối với những khó khăn và 
tồn tại của thành phần DN này trong việc cho vay. Trong năm tới, với kết quả hoạt 
động kinh doanh tốt, lợi nhuận cao, hoàn trả nợ và lãi vay đúng hạn...của các DN 
dân doanh,chi nhánh sẽ cò những hoạt động cho vay hỗ trợ đối với các DN này. 
 Như vậy, để tồn tại và đứng vững trong cơ chế thị trường và cạnh tranh được 
với các Ngân hàng khác như hiện nay thì NH ĐT&PT Đà Nẵng cũng đã xác định 
cho mình phương châm hoạt động là “đi vay để cho vay” bảo đảm hoạt động kinh 
doanh có lãi. Song bất cừ hình thức hoạt động nào thì cũng tồn tại song hai mặt đó 
là mặt tốt và mặt xấu, mặt làm được và mặt chưa làm được. Do đó, trong hai năm 
qua bên cạnh những thành quả đạt được thì Ngân hàng cũng còn những tồn tại nhất 
định. 
CHƯƠNG III:NHỮNG BIỆN PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG 
CHO VAY NGẮN HẠN ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI NGÂN 
HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN ĐÀ NẴNG 
I. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY NGẮN HẠN ĐỐI VỚI 
DNVVN TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN ĐÀ NẴNG 
1. Những thuận lợi và cơ hội: 
Trước hết đối với cán bộ tín dụng quy trình cho vay ngắn hạn được xem như là cẩm 
nang trong công việc kinh doanh của mình, giúp cán bộ tín dụng vận dụng những 
điều kiện và quy chế cho vay của ngân hàng phù hợp với thực tế, nắm sâu nghiệp vụ 
cho vay, ứng với từng loại khách hàng , từng loại cho vay để có hướng đúng đắn 
nhất, nhanh nhất trong mọi tình huống góp phần tạo an toàn cho ngân hàng và tạo 
thuận lợi cho khách hàng. 
Nguồn vốn huy động phần lớn là tiền gửi thanh toán và tiền gửi không kỳ hạn, do 
vậy lãi suất thấp, chi phí bỏ ra ít... qua đó tạo điều kiện nâng cao sức cạnh tranh của 
ngân hàng về lãi suất cho vay chung cũng như đối với các DNVVN nói riêng. 
Đội ngũ cán bộ nhân viên lành nghề, đầy năng lực, có nhiều kinh nghiệm trong 
công việc, có phong cách giao tiếp và thường xuyên được đào tạo với công nghệ 
tiên tiến, phù hợp với sự phát triển của công nghệ ngân hàng hiện đại... tạo lợi thế 
và tăng thêm niềm tin cho khách hàng đối với NH ĐT&PT Đà Nẵng. 
Việc thực hiện trình tự quy trình cho vay ngắn hạn giúp mỗi cán bộ tín dụng cũng 
như lãnh đạo ngân hàng nắm được tình hình khách hàng xin vay, thông qua các báo 
cáo, đánh giá được thực chất vấn đề xin vay của khách hàng đối với ngân hàng từ 
đó dẫn đến quyết định trong hoạt động cho vay. 
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển chung của thành phố. Quy mô và chất 
lượng các DNVVN cũng có bước tăng trưởng đáng kể, các DNVVN ngày càng 
tham gia vào nhiều lĩnh vực hoạt động do đó nhu cầu vốn kinh doanh là rất lớn. Đây 
là thị trường đầy tiềm năng mà chi nhánh đã và đang khai thác rất có hiệu quả. 
Đà Nẵng là một thành phố sôi động nhất và là trung tâm kinh tế dịch vụ của khu 
vực miền Trung. Trong những năm qua, tình hình kinh tế xã hội của Thành phố có 
nhiều chuyển biến tích cực: Hoạt động văn hóa xã hội nhiều tiến bộ, đời sống vật 
chất tinh thần của người dân được nâng cao, cơ sơ hạ tầng không ngừng được hoàn 
thiện... từ đó tạo điều kiện cho các DNVVN kinh doanh hiệu quả, mở rộng sản xuất, 
làm cho nhu cầu vay vồn của DNVVN cũng không ngừng tăng lên. Đồng thời, các 
cơ chế, quy chế tín dụng được tiếp tục hoàn thiện và đơn giản hóa tạo điều kiện cho 
các DNVVN dể dàng tiếp cận nguồn vốn hơn. 
Về phía Nhà nước, nếu như trước đây việc phân định là DNVVN còn chưa rõ ràng 
thì hiện nay trước sự phát triển cũng như tầm quan trọng của DNVVN trong nền 
kinh tế,... đã cho ra đời hàng loạt các văn bản hướng dẫn, hỗ trợ, khuyến khích phát 
triển các DNVVN như: Nghị định số 90/2001/NĐ-CP của Chính phủ về trợ giúp 
phát triển DNVVN, Quyết định số 248/2002/NĐ-NHNN của Thống đốc NHNN về 
việc hình thành Ban quản lý dự án tài trợ DNVVN, Quyết định số 
1177/TC/QĐ/CĐKT của Bộ trưởng Bộ Tài chính về ban hành chế độ kế toán áp 
dụng cho các DNVVN, Quyết định số 193/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ 
về việc ban hành quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng 
cho các DNVVN... Gần đây, Dự án tài chính cho các DNVVN của Ngân hàng Hợp 
tác quốc tế Nhật Bản (JBIC) hợp tác với NHNN Việt Nam đã chính thức được thực 
hiện. Các nỗ lực trên đã tạo cơ hội, điều kiện thuận lợi trong hoạt động kinh doanh 
cho các DNVVN, từ đó tác động tích cực đến chính sách mở rộng hoạt động tín 
dụng đối với loại hình doanh nghiệp này của chi nhánh. 
2. Những khó khăn, thách thức 
Bên cạnh những thuận lợi nêu trên cũng như những cơ hội ngân hàng có thể nắm 
bắt được để tăng cường hoạt động tín dụng đối với các DNVVN thì hiện nay bản 
thân chi nhánh cũng còn gặp phải không ít khó khăn, thách thức sau: 
Nguồn vốn huy động trong những năm qua mặc dù đã có sự tăng trưởng mạnh 
nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của hoạt động cho vay tại chi nhánh, vẫn 
còn phải vay vốn từ NHTƯ. Chính điều này nhiều lúc đã làm chi nhánh bỏ lỡ đi 
một số các dự án đầu tư lớn, có hiệu quả. 
Với chỉ có một trụ sở tại Quận Hải Châu, chưa có một chi nhánh cấp hai nào đã gây 
khó khăn và làm hạn chế quy mô mở rộng hoạt động tín dụng cũng như khả năng 
huy động vốn của ngân hàng, đặc biệt đối tượng cần thu hút là các DNVVN với tính 
chất phân bố trên phậm vi rộng khắp. Bởi lẽ xu thế hướng tới sự thuận tiện của 
khách hàng nói chung cũng như các DNVVN nói riêng sẽ làm cho họ thường tìm 
đến với những ngân hàng mà theo họ là thuận lợi nhất và thường đó là những ngân 
hàng gần trụ sở hoạt động của họ, mặc dù mức phí có thể “nhỉnh” hơn. 
Hiện nay trên địa bàn thành phố với khoảng gần 20 chi nhánh NHTM, lại chủ yếu 
có cùng trụ sở trong Quận Hải Châu do đó áp lực cạnh tranh là rất khốc liệt. Đặc 
biệt, hầu như các ngân hàng đều nhận thấy được tầm quan trọng của khối DNVVN 
trong việc mở rộng hoạt động tín dụng, đều xem DNVVN là khách hàng tiềm 
năng... Do đó mỗi ngân hàng đều có một chiến lược, chính sách khác nhau để giành 
giật thị trường, thị phần. 
Đối với các DNVVN, dù đã có sự phát triển đáng kể, đóng góp không nhỏ cho sự 
phát triển chung của địa phương. Tuy nhiên, một thực trạng “cố hữu” là đa phần các 
DNVVN vốn tự có thấp, hiệu quả hoạt động còn thấp, thông tin tài chính thiếu rõ 
ràng, minh bạch... Một mâu thuẫn lớn hiện nay là các doanh nghiệp nói chung đặc 
biệt là các DNVVN xuất hiện nhiều hiện tượng ghi giảm lợi nhuận kinh doanh 
nhằm giảm mức nộp thuế Thu nhập Doanh nghiệp cho Nhà nước nhưng bên cạnh 
đó lại muốn chứng tỏ năng lực tài chính tốt, lợi nhuận cao đối với Ngân hàng để 
được cho vay... Chính sự không rõ ràng trên đã gây không ít khó khăn trong công 
tác thẩm định cho vay đối với các doanh nghiệp này gây mất uy tín cũng như sự an 
tâm cần thiết cho ngân hàng khi cho vay, đó là chưa kể tình trạng một số DNVVN 
còn hoạt động trái pháp luật, buôn lậu, lách luật, lừa đảo các cơ quan chức năng để 
thành lập doanh nghiệp, để xin hoàn thuế giá trị gia tăng, để góp vốn liên doanh liên 
kết, lừa đảo vay vốn ngân hàng... vẫn xãy ra ở nơi này nơi khác. Về phía ngân hàng 
lại quá chắc chắn trong công tác đảm bảo tiền vay, việc đánh giá tài sản đảm bảo lại 
chưa có một cơ quan, tổ chức chính thức nào đứng ra đảm nhận... Chính những yếu 
tố trên làm cho việc triển khai mở rộng hoạt động tín dụng đối với khu vực khách 
hàng này gặp rất nhiều khó khăn. 
 Tình hình kinh tế, thị trường cũng như những hoạt động kinh doanh trên địa 
bàn thành phố có thể có nhiều biến động đòi hỏi một ngân hàng muốn tồn tại và 
phát triển phải chủ động vươn lên, nắm bắt cơ hội, phát huy những thuận lợi có 
được, đồng thời biết cách vượt qua những khó khăn,... Trước những khó khăn thách 
thức nêu trên, tập thể Cán bộ Công nhân viên chi nhánh NH ĐT&PT Đà Nẵng đã 
không ngừng bám sát chỉ đạo của Trung ương, đồng thời cần nghiên cứu tìm ra 
những giải pháp tích cực giúp cho hoạt động cho vay đối với các DNVVN trong 
thời gian tới đạt hiệu quả tốt hơn. 
II. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỤC TIÊU CỦA NH ĐT&PT ĐÀ NẴNG TRONG 
THỜI GIAN ĐẾN 
1. Phương hướng hoạt động chung của Ngân hàng trong thời gian đến. 
- Đẩy mạnh công tác huy động vốn, đa dạng hoá các hình thức huy động vốn 
từ dân cư, tích cực tiếp thị để khai thác nguồn tiền gởi, tiền vay của các tổ chức kinh 
tế xã hội, thông qua việc mở rộng quan hệ thanh toán và các tiện ích ngân hàng , sử 
dụng hợp lý nguồn vốn trong thanh toán, khai thác nguồn vốn đầu vào có lãi suất 
thấp để tạo thế cạnh tranh trong sử dụng vốn. 
- Phấn đấu tăng trưởng thị phần tín dụng, tiếp tục đổi mới công tác tiếp thị 
khách hàng, tăng cường mở rộng đầu tư vào các khu công nghiệp, khu chế xuất,các 
doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Chấp hành nghiêm túc quy chế tín dụng mới ban 
hành và chỉ đạo của ban lãnh đạo trong từng thời kỳ nhằm tăng trưởng tín dụng quả, 
cho vay phải thu hồi được vốn gốc và lãi.Tiếp tục cơ cấu lại nợ theo hướng mở rộng 
thêm các đối tượng cho vay:cho cho vay tiêu dùng cho vay doanh nghiệp vừa và 
nhỏ.Quan tâm đúng mức đến các biện pháp nhằm đảm bảo tiền vay nhằm tăng 
cường trách nhiệm, nghĩa vụ của người vay, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi 
nợ. 
- Đẩy mạnh công tác kinh doanh đối ngoại, tiếp tục triển khai các biện pháp 
khai thác nguồn ngoại tệ mua vào nhằm chủ động tạo nguồn ngoại tệ cho thanh toán 
hàng nhập khẩu, hoạt động thu đổi ngoại tệ tại các bàn đổi ngoại tệ Hỗ trợ tích cực 
cho các ngân hàng trực thuộc về û phát triển nghiệp vụ thanh toán quốc tế với 
khách hàng mới. Củng cố và phát triển các dịch vụ ngoại hối, dịch vụ nhận và 
chuyển trả ngoại hối nhằm đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ ngân hàng đối ngoại. 
- Ứng dụng công nghệ thông tin để dành lợi thế kinh doanh qua việc phát triển 
hệ thống thương mại điện tử. Bổ sung trang thiết bị chuyên dùng và các sản phẩm 
mở rộng hệ thống kênh phân phối dịch vụ như: hệ thống ATM được mở rộng về số 
lượng, dịch vụ mới. 
- Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát. Việc kiểm tra chấp hành nghiêm 
chỉnh, các quy chế, cơ chế và quy trình nghiệp vụ, đảm bảo an toàn mọi mặt trong 
hoạt động kinh doanh. 
- Tận thu lãi treo và các khoản lãi đến hạn, giảm chi phí, phấn đấu đạt lợi 
nhuận kế hoạch TW giao. 
- Giữ vững công tác an toàn kho quỹ, chú trọng công tác vận chuyển tiền, 
kiểm đếm giao nhận đúng chế độ. 
- Công tác điều hành: nghiên cứu, khảo sát, xem xét địa bàn thực tế để mở 
rộng mạng lưới, thành lập phòng giao dịch. Bố trí, sắp xếp cán bộ đối với tổ cho 
vay, tổ chuyển tiền,các phòng ban phù hợp với điều kiện hoạt động kinh doanh 
mang lại hiệu quả. 
- Công tác thi đua, khen thưởng: luôn hoàn thiện và không ngừng được đổi 
mới, giám sát vào mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm của chi nhánh để tổ chức các phong 
trào thi đua phù hợp. 
- Phối hợp chặt chẽ với các tổ chức Đảng, công đoàn và đoàn thể, quán triệt 
nghị quyết của Đảng và chính phủ về ngăn chặn đẩy lùi tệ tham nhũng, để thực 
hành tiết kiệm chống lãng phí, về thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở. Phát động 
phong trào thi đua,động viên toàn thể cán bộ công nhân viên hoàn thành tốt chỉ tiêu 
hoạt động kinh doanh năm 2004 đã đề ra. 
2. Phương hướng hoạt động đối với mảng cho vay ngắn hạn đối với DNVVN 
tại hội sở. 
 Tăng cường cho vay lành mạnh, đẩy mạnh tín dụng theo chiều hướng cho 
vay đới với các DNVVN, qua đó làm tăng mức dư nợ chung lên 10%. Bên cạnh đó 
cần phải cố gắng tìm cách làm giảm chi phí cho vay đến mức thấp nhất có thể được. 
Phấn đấu giảm tỉ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ và không để phát sinh nợ quá hạn 
mới. 
Thường xuyên kiểm tra, giám sát chặt chẽ trước và sau khi cấp Tín dụng. Nghiêm 
khắc xử lý và có biện pháp thu hồi vốn sử dụng sai mục đích. 
Tăng cường công tác quảng cáo nhằm thu hút các đối tượng DN, đặc biệt là các 
DNVVN. 
III. MỘT SỐ DỰ BÁO VỀ TÌNH HÌNH CHO VAY NGẮN HẠN DN DÂN 
DOANH THỜI GIAN ĐẾN. 
 1. Tình hình cạnh tranh 
 Ngày nay, với tốc độ phát triển ngày càng cao của nền kinh tế kéo theo sự 
tăng trưởng mạnh của thị trường tài chính, thị trường tiền tệ, thị trường Ngân hàng. 
Bên cạnh đó tốc độ tăng nhanh cả về số lượng lẫn chất lượng của các Ngân hàng Cổ 
phần Thương mại, Ngân hàng liên doanh, Ngân hàng hợp tác quốc tế và Ngân hàng 
quốc tế...đã khiến cho các thị trường, đặc biệt là thị trường vốn hoạt động ngày càng 
sôi động hơn. Thành phố Đà Nẵng hiện nay có 20 tổ chức tín dụng đang hoạt động 
,tới hơn 25 chi nhánh cấp một của các Ngân hàng TMQD và TMCP, còn chi nhánh 
cấp hai, cấp ba đã và đang mở rộng với tốc độ chóng mặt.Vì vậy, vấn đế cạnh tranh 
giữa các Ngân hàng là điều không thể tránh khỏi, NH ĐT&PT Đà Nẵng cũng không 
thể loại khỏi vòng cạnh tranh này. 
 Đà Nẵng là một thành phố trực thuộc Trung ương. Do đó thành phố đang có 
những bước đổi thay để xứng tầm với danh hiệu Thành phố loại một. Cùng với sự 
phát triển của thành phố, số lượng các DN cũng đang ngày càng gia tang nhanh 
chóng, đặc biệt là các DNVVN. Các DNVVN đã có những đóng góp quan trọng 
vào sưü phát triển của thành phố và đang được thành phố quan tâm tạo điều kiện 
phát triển. Ngoài ra, sự cạnh tranh ngày càng gay gắt đã khiến các Ngân hàng mở 
rộng hoạt động sang cho vay đối với các DNVVN ngày càng nhiều. Xu hướng 
chung của các Ngân hàng sắp tới sẽ tạo những điều kiện thích hợp để việc cho vay 
đối với các thành phần này được dễ dàng và thuận tiện hơn. Đây là thuận lợi to lớn 
để các DNVVN mở rộng hoạt động kinh doanh, nâng cao uy tín và chất lượng kinh 
doanh của mình với NH và phát triển ngày càng bền vững hơn. 
2. Triển vọng mới của mảng tín dụng ngắn hạn đối với DNVVN hiện nay. 
 Hiện nay, DN đã phát triển nhanh chóng trong tất cả các ngành và ở khắp các 
địa phương, đặc biệt là thành phần kinh tế dân doanh. Đây là xu hướng tất yếu của 
của nền kinh tế đang trên đà phát triển của Việt Nam. Việc các Ngân hàng tài trợ 
vốn cho các DNVVN càng nhiều đã chứng tỏ triển vọng phát triển trong tương lai 
của thành phần kinh tế này rất cao. Theo số liệu thống kê của Ngân hàng Nhà nước, 
trong 4 năm từ năm 2000 đến năm 2003, khối lượng vốn Tín dụng cho vay đối với 
khu vực dân doanh đã đạt mức tăng trưởng lên tới 21-24%/năm. Riêng dư nợ cuối 
năm 2003 đã vượt gấp 2,2 lần so với cuối năm 2000. các TCTD cũng có sự điều 
chỉnh cơ cấu cho vay theo hướng giảm dần tỉ trọng cho vay đối với các DN Nhà 
nước và mở rộng cho vay đối với DNVVN. 
 Lĩnh vực đăng ký kinh doanh cũng đã đạt được tiến bộ rõ rệt. Thời gian đăng 
ký đã từ 15 xuống còn 7 ngày hoặc thậm chí là 3 ngày. Phần lớn các tỉnh đã thực 
hiện chính sách một cửa, một dấu nhằm đơn giản hoá các thủ tục hành chính. Các 
kênh truyền thông cũng tăng cường đối thoại nhằm mục đích phát triển kinh tế tư 
nhân. Các tỉnh tổ chức Hội nghị thường niên để lắng nghe và tìm hiểu nhu cầu, giải 
đáp và thắc mắc của doanh nghiệp. 
 Nhận thức được những ưu thế của DNVVN, các Ngân hàng đang rất chú 
trọng đến mảng cho vay này, đặc biệt là cho vay ngắn hạn. Bởi vì các DNVVN hoạt 
động với qui mô nhỏ lẻ và tốc độ quay vòng vốn nhanh nên họ đang cần một lượng 
vốn Tín dụng ngắn hạn để hỗ trợ cho hoạt đọng kinh doanh của mình. Đối với các 
Ngân hàng Thương mại, Tín dụng ngắn hạn sẽ giúp giảm thiểu bớt rủi ro Tín dụng 
đồng thời mang lại lợi nhuận cao hơn. 
 Sự gặp nhau giữa cung và cầu Tín dụng ngắn hạn trên thị trường sẽ giúp tháo 
gỡ những vướng mắc, hạn chế của các DN nói chung và các DNVVN nói riêng. Sự 
hợp tác hai bên cùng có lợi sẽ giúp cho hoạt động kinh doanh của các DNVVN phát 
triển ngày càng bền vững hơn và qua đó thúc đẩy quá trình tăng trưởng của nền 
kinh tế. 
IV. NHỮNG BIỆN PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG CHO 
VAY NGẮN HẠN ĐỐI VỚI DNVVN TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT 
TRIỂN ĐÀ NẴNG 
 A. ĐỐI VỚI NGÂN HÀNG: 
 TẠO VỐN ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC DNVVN: 
1. Tăng cường huy động vốn ngắn hạn, dài hạn trong các tổ chức kinh tế và dân 
cư. 
1.1. Hoàn thiện các hình thức tiền gửi tiết kiệm của dân cư: 
 Trong tổng số nguồn vốn của các NHTM, nguồn gửi tiết kiệm của dân cư 
chiếm tỷ trọng lớn, ngày càng tăng và ổn định. Các hình thức tiền gửi tiết kiệm này 
tuy đã sửa đổi và cải tiến nhưng vẫn còn nghèo nàn. 
 Vấn đề đặt ra cho các nhà nghiên cứu và quản lý trong lĩnh vực ngân hàng 
cần đưa ra các hình thức huy động phong phú hơn. 
 Theo em các hình thức huy động tiền gửi tiết kiệm nên đổi mới theo hướng: 
 Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, hàng quý nên có quay số thưởng. Lãi suất 
huy động vốn không chênh lệch nhiều so với hình thức tiền gửi có kỳ hạn ngắn vì 
đây là loại khách hàng dễ chấp nhận hơn. 
Thể thức tiền gửi ngắn hạn từ trên một tháng đến dưới một năm không cần phân ra 
thời hạn gửi 3 tháng, 6 tháng , 9 tháng như thể thức hiện nay mục đích là để đơn 
giản thủ tục giấy tờ. 
Phát hành thể thức gửi tiết kiệm 1 năm, 2 năm, 3 năm với mức lãi suất hợp lý để 
khuyến khích người gửi. Loại tiết kiệm này được tự do chuyển nhượng quyền sở 
hữu và có khả năng thanh toán ở các ngân hàng trong cùng hệ thống và khác hệ 
thống trên phạm vi cả nước. Đây là một hình thức để mở rộng giao dịch tiền trên thị 
trường tiền tệ 
1.2. Đa dạng hoá các công cụ huy động vốn của ngân hàng: 
 Ngoài các hình thức huy động tiền gửi truyền thống cần phải đa dạng hoá các 
hình thức huy động vốn như phát hành kỳ phiếu, trái phiếu nội tệ và ngoại tệ. Đây là 
công cụ huy động vốn và mục đích sử dụng vốn từng thưòi kỳ mà các ngân hàng 
quyết định thời hạn phát hành, tổng lượng vốn cần huy động qua công cụ phát hành 
kỳ phiếu và trái phiếu có mục đích cao hơn lãi suất huy động thông thường và do đó 
các NHTM cũng được cho phép vay với lãi suất thoả thuận cao hơn lãi suất đầu ra 
để phục vụ tốt hơn cho các DNNN 
1.3. Thực hiện chính sách ưu đãi đối với khách hàng. 
 Trong cơ chế thị trường các nhà kinh doanh luôn có nhu cầu sử dụng đồng 
vốn có hiệu quả. Nhiều nhà doanh nghiệp có số dư tiền gửi lớn tại ngân hàng (đây 
chỉ là nguồn vốn tạm thời và không ổn định) các ngân hàng muốn sử dụng nguồn 
vốn này cần phải có chính sách ưu đãi đối với những khách hàng nào có số tiền gửi 
vào ngân hàng như ưu đãi về lãi suất, ưu đãi khi vay vốn và thanh toán. Mục đích là 
để khuyến khích khách hàng gửi tiền và vay tiền nhiều hơn. 
1.4. Đẩy mạnh việc mở tài khoản tiền gửi thanh toán của các doanh nghiệp, các 
tổ chức kinh tế nhằm thu hút lượng tiền của các hộ kinh doanh cá thể, của cán bộ 
công nhân viên chức và của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội chưa sử 
dụng đến gửi tại tài khoản ngân hàng. Một mặt để tăng cường nguồn vốn tín dụng. 
mặt khác tạo điều kiện mở rộng công tác thanh toán không dùng tiền mặt. Hai mặt 
này có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau và tăng hiệu quả vận động vốn trong nền kinh tế 
hàng hoá. Chỉ có thể thực hiện được biện pháp huy động vốn này khi hoạt động 
ngân hàng linh hoạt, gọn nhẹ, sát cụm dân cư, tránh giấy tờ thủ tục phiền hà. Ngân 
hàng hoạt động vì lợi ích của người có tiền thì mới có lợi ích cho chính mình. 
 Phải đổi mới cơ chế tài khoản tại ngân hàng để tăng nguồn vốn tín dụng. xoa 
bỏ sự phân biệt đối xử với việc mở và sử dụng tài khoản chính phụ, tài khoản tiền 
gửi quốc doanh, ngoài quốc doanh và tư nhân. Thủ tục mở tài khoản phải đơn giản 
nhưng đảm bảo tính pháp lý. Khách hàng mở tài khoản giao dịch phải được đảm 
bảo tính bí mật tài khoản tiền gửi của mình. Ngân hàng thực hiện chi theo lệnh của 
khách hàng bằng các phương tiện thanh toán như tiền mặt, chuyển khoản tuỳ 
ý...,đặc biệt đối với khách hàng DNVVN 
1.5. Mở rộng các dịch vụ ngân hàng đặc biệt là dịch vụ thanh toán sao cho nhanh, 
thuận tiện, an toàn với mức phí thấp, lãi suất thoả đáng tạo được lòng tin để huy 
động vốn. Cải tiến việc chuyển tiền như chuyển tiền nhanh, chuyển tiền qua mạng 
vi tính, thanh toán điện tử. Ngân hàng cần đẩy mạnh phát triển séc cá nhân, sử dụng 
các loại thẻ thanh toán, thẻ tín dụng và máy rút tiền tự động ATM, áp dụng các hình 
thức thanh toán không chứng từ...Ngân hàng phải tìm thấy sự hoạt động của bưu 
điện để xem xét chính mình 
2. Phát triển thị trường vốn để thu hút vốn: 
 Phát triển thị trường tiền tệ bao gồm thị trường tín dụng truyền thống, thị 
trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng, thị trường tín phiếu kho bạc. Đây là thị 
trường có tính chất nội bộ giữa các ngân hàng nhằm mua bán, chuyển nhượng nội 
tệ, ngoại tệ nhằm vận dụng nguồn vốn ngắn hạn của ngân hàng. Các loại thị trường 
vốn đã được hình thành ở nước ta bước đầu có kết quả. 
Những năm đầu việc mua bán ngoại tệ và vay mượn trên thị trường này đã đạt được 
doanh số khá. 
3. Khuyến khích các hộ tư nhân bỏ vốn đầu tư phát triển: 
 Để giúp cho các DN tự huy động vốn trong dân, Nhà nước cần có luật cho 
phép các DN trực tiếp huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu, huy động các cổ 
phần để dân đầu tư trực tiếp vào các DN, có chính sách khuyến khích những DN có 
vốn tự có lớn đầu tư vào các dự án. Đổi mới thiết bị công nghệ, sản xuất mặt hàng 
mới, mặt hàng xuất khẩu,khuyến khích các nhà kinh doanh tư nhân góp vốn liên 
doanh với nhà nước hoặc trực tiếp đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Để huy động 
được nguồn vốn này, Nhà nước là người bảo vệ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp, 
tạo điều kiện thuận lợi đi đôi với tăng cường quản lý, hướng dẫn họ làm ăn đúng 
pháp luật, có lợi ích cho quốc kế dân sinh. 
 Ngoài các biện pháp tạo vốn cho nền kinh tế nói chung và cho việc phát triển 
các DNVVN nói riêng, một vấn đề quan trọng nữa là ngân sách nhà nước phải tăng 
cường tích luỹ từ GDP cho đầu tư phát triển. Đây là nguồn vốn quan trọng để đầu tư 
vào các công trình then chốt, các ngành kinh tế mũ nhọn của đất nước. 
MỞ RỘNG VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DNVVN 
1. Mở rộng cho vay vốn trung và dài hạn để giúp các DNVVN đổi mới công 
nghệ thiết bị. 
 Đầu tư vốn trung dài hạn là đầu tư cho tương lai của các DN, là để các DN xây 
dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới để phát triển. Ngày nay, cuộc 
cách mạng khoa học và công nghệ mà nội dung cơ bản là những tiến bộ vượt bậc 
của công nghệ thông tin, công nghệ sinh học... đang phát triển ở trình độ cao. Các 
nước đang đứng trước cơ hội phát triển, nhưng ưu thế về vốn, và về thị trường nước 
ta vốn huy động trong nước dành đầu tư dài hạn còn ít, nên việc đầu tư của các các 
NHTM đối với DN phải biết lựa chọn ưu tiên cho các dự án quy mô vừa và nhỏ, 
ứng dụng kỹ thuật tiên tiến tránh tình trạng đầu tư, mua lại những thiết bị cũ kỹ, lạc 
hậu của các nước. Thời giam qua một số DNVVN thuộc các ngành giày da, may 
mặc, chế biến lâm sản...đã sử dụng vốn đầu tư của tín dụng ngân hàng mua phải 
một số thiết bị cũ lạc hậu về kỹ thuật của Hàn Quốc, Đài Loan nên hiệu quả kinh tế 
thấp, chậm thu hồi vốn. 
 Cần dành cho một tỷ lệ vốn để đầu tư cho các dự án mở rộng sản xuất, cải tiến 
kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất và áp dụng công nghệ mới, đầu tư tạo lập một số DN 
mới có quy mô vừa và nhỏ. Ưu tiên các dự án tạo việc làm, thu hut nhiều lao động, 
dự án khôi phục các ngành nghề làng nghề truyền thống, dự án sản xuất hàng xuất 
khẩu, sản xuất hàng tiêu dùng, dự án phát triển của các ngành công nghiệp phục vụ 
dân sinh. Với số vốn đầu tư ít ỏi, thời gian thi công nhanh, hiệu quả kinh tế cao 
thích hợp với trình độ năng lực quản lý và quản trị điều hành của các DNVVN. 
 Để có thể đẩy mạnh đầu tư thu hút vốn trung, dài hạn cho các DNVVN cần 
phải giải quyết một số vấn đề: 
- Cần có một cơ quan tư vấn đầu tư để giúp các DNVVN xây dựng các dự án khả 
thi, lựa chọn công nghệ phù hợp, áp dụng vào sản xuất là hết sức quan trọng. Bởi vì, 
các DNVVN thường không đủ điều kiện để giải quyết các vấn đề về công nghệ, họ 
thường thiếu thông tin về các nguồn công nghệ trong cả nước. Trong thời gian qua, 
việc đầu tư cho các DNVVN chủ yếu là đầu tư nhập các thiết bị lẻ hoặc một dây 
chuyền hiện đại với mức đầu tư vốn mà các DNVVN có khả năng trả được. Còn 
nhà xưởng thì đã có sẵn, thiết bị nhập về được lắp ráp nhanh và đưa vào sản xuất, 
phát huy hiệu quả ngay. 
- Quy định rõ cơ quan nào có thẩm quyền xét duyệt và thủ tục xét duyệt các dự án 
đầu tư để cấp phép cho các DNVVN nhanh chóng, thuận lợi. 
- Ngân hàng nhà nước cần quy định lại tỷ lệ vốn tự có của các DN tham gia vào dự 
án 
- Đề nghị Ngân hàng nhà nước cho phép các NHTM được sử dụng một tỷ lệ vốn 
ngắn hạn ổn định để đầu tư trung, dài hạn đối với DNVVN. 
- Cho phép các DN được thế chấp tài sản hình thành từ vốn vay của NHTM để khắc 
phục tình trạng đối với một số DN có dự án khả thi, có đủ vốn tự có nhưng không 
đủ tài sản thế chấp để vay vốn ngân hàng. 
- Chính quyền các cấp cần tạo điều kiện giúp đỡ các DN về đất đai, thủ tục xây 
dựng cơ bản để các dự án được thực hiện một cách thuận lợi. 
2. Mở rộng cho vay đối với các thành phần kinh tế, điều chỉnh cơ cấu đầu tư 
phục vụ mục tiêu chiến phát triển kinh tế - xã hội của đất nước 
 Thích ứng với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, nội dung và phương 
thức hoạt động của ngân hàng đã có sự đổi mới căn bản: từ ngân hàng đơn nhất của 
các DNNN chuyển sang hệ thống ngân hàng của các thành phần kinh tế trong 
những năm qua, NHĐTVPTĐN đã mở rộng đầu tư vốn cho các DNVVN ngoài 
quốc doanh, song nhìn chung việc đầu tư cho lĩnh vực này còn theo yêu cầu, có tính 
chất dàn đều, chưa tập trung cho vay trọng điểm, chưa khai thác được thế mạnh và 
điều kiện thuận lợi về nguồn nguyên liệu, về lao động tại chỗ, thế mạnh của từng 
vùng kinh tế và ngành kinh tế. Để khắc phục những tồn tại nói trên trong những 
năm tới tín dụng ngân hàng cần tập trung đầu tư vào các ngành kinh tế sau: 
- Ngành sản xuất vật liệu như gạch, ngói, vối, các loại cửa gỗ, cửa sắt...để phục vụ 
xây dựng các công trình Nhà nước và tư nhân 
- Ngành sản xuất thủ công mỹ nghệ truyền thống như mây tre, chiếu cói, đá mỹ 
nghệ để xuất khẩu và phục vụ tiêu dùng của nhân dân. 
 - Ngành dệt may xuất khẩu là ngành phát triển với nhiều triển vọng. 
 - Ngành sản xuất da giày, đồ nhựa và ngành chế biến nông - lâm - hải sản và 
thực phẩm. Đó là những ngành rất phù hợp với cơ cấu đầu tư một cách cân đối và 
hợp lý giữa các ngành thương mại - dịch vụ khuyến khích đầu tư cho xuất khẩu. 
Hiện nay, chúng ta chưa có cơ chế khuyến khích cho các ngành sản xuất. Hơn nữa, 
do tình hình sản xuất nhất là sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp gặp nhiều 
khó khăn nên việc đầu tư vốn của ngân hàng vào khu vực sản xuất còn chiếm tỷ 
trọng thấp hơn so với khu vực lưu thông. Để thực hiện mục tiêu đẩy mạnh phát triển 
sản xuất nhất là sản xuất hàng xuất khẩu, tín dụng ngân hàng cần phải có cơ chế ưu 
tiên về cung ứng vốn và ưu đãi lãi suất. Vì vây, cần đảm bảo kịp thời nhu cầu vốn 
hợp pháp, hợp lý cho các doanh nghiệp sản xuất. Tập trung vốn cho các doanh 
nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu và sử dụng nhiều lao động và làm ăn có hiệu quả. 
Cần có chính sách lãi suất tín dụng ưu đãi đối với các DN sản xuất, đặc biệt là hàng 
xuất khẩu. Mức độ ưu đãi tuỳ theo mức chênh lệch bình quân giữa lãi suất đầu vào 
và lãi suất đầu ra của từng ngân hàng mà quy định nhưng ít ra phải thấp hơn so với 
cho vay để kinh doanh thương mại và dịch vụ. 
Tóm lại, các chính sách tín dụng nói trên phải được cụ thể hoá trong cơ chế, biện 
pháp cho vay, kiểm tra, kiểm soát sử dụng tiền vay nhất là phải thể hiện trong chính 
sách lãi suất ngân hàng. 
3. Nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng bảo đảm an toàn vốn và hạn chế rủi 
ro. 
 Chất lượng tín dụng luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của hoạt động ngân 
hàng. 
 Song hiện nay chất lượng tín dụng ngân hàng ở nước ta đang là vấn đề đặc biệt 
quan tâm của nhiều người. Đó là tình trạng nợ quá hạn và rủi ro tín dụng phát sinh 
ngày càng tăng. Mặc dù thời gian qua một số NHTM dã thực hiện những biện pháp 
đảm bảo an toàn vốn vay và hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro tín dụng như: 
+ Ban hành một số cơ chế tín dụng với điều kiện cho vay chặt chẽ hơn 
+ Thành lập hội đồng tín dụng, xem xét lại việc phân cấp uỷ quyền xét duyệt cho 
vay 
+ Ban hành chính sách khách hàng, phân loại khách hàng khi cho vay, quy định 
khách hàng chỉ được vay ở một ngân hàng 
+ Thực hiện biện pháp đồng taì trợ 
+ Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát, thông tin rủi ro, nâng cao trình độ quản 
lý, chuyên môn nghiệp vụ cho CBCNV ngân hàng 
 Nhìn chung, chất lượng tín dụng chưa được nâng lên, nhất là từ đầu năm 2003 
tới nay tình trạng nợ quá hạn phát sinh ngày một tăng. Do đó, cần có các biện pháp 
để nâng chất lượng tín dụng ở NHĐTVPTĐN: 
Tăng cường các biện pháp quản lý tín dụng, trước hết cần nâng chất lượng 
thẩm định khi cho vay, chú trọng thẩm định các điều kiện vay vốn, tư cách người 
vay, thẩm định các tính khả thi cảu dự án nhất là thẩm định kỹ về phương diện thị 
trường, hợp đồng mua bán, khả năng thanh toán của người mua hàng. 
 Khi giải quyết một món vay không nên coi tài sản thế chấp là điều kiện tiên 
quyết xét duyệt cho vay, vấn đề cơ bản là khả năng tài chính của người vay, tính 
khả thi cảu dự án. Nếu tài sản thế chấp đầy đủ, bảo đảm tính pháp lý, gấp nhiều lần 
số tiền cho vay nhưng dự án cho vay không chắc chắn, khả năng hoàn trả từ hiệu 
quả của món vay không đảm bảo thì cần phải xem xét kỹ. 
Khi cho vay phải chấp hành đúng cơ chế, quy chế, chấp hành đúng quy trình cho 
vay, đặc biệt chú ý tính pháp lý của tài sản thế chấp. Tài sản thế chấp nhất thiết phải 
qua công chứng, qua UBND Quận, huyện, phường, xã xác nhận. 
Tăng cường công tác kiểm tra sử dụng vốn vay để ngăn ngừatình trạng người vay 
sử dụng vốn sai mục đích như lấy vốn lưu động ra sử dụng cho xây dựng cơ bản. 
Quy định thời hạn cho vay phải sát, phân ra từng thưopì hạn ngắn để thu nợ. 
Từng bước tiêu chuẩn hoá cán bộ tín dụng (CBTD) và cán bộ lãnh đạo trực 
tiếp đội ngũ CBTD ngày nay chủ yếu được đào tạo trong thời kỳ bao cấp và năng 
lực nhất là sự hiểu biết về kinh tế thị trường về các nghiệp vụ ngân hàng còn nhiều 
hạn chế. Do đó, việc đào tạo và đào tạo lại đội ngũ CBTD là ván đề cần thiết hiện 
nay. Cần ban hành ngay quy chế CBTD. Quy định rõ tiêu chuẩn của từng chức danh 
CBTD, chức năng nhiệm vụ quền hạn phải được xác định một cách rõ ràng. 
Nâng cao chất lượng công tác thông tin phòng ngừa rủi ro: hiện nay, NHNN 
có hệ thống các trung tâm phòng ngừa rủi ro, các NHTM đều có phòng chuyên 
trách thông tin về khách hàng, về hoạt động của thị trường tín dụng, có tác dụng tốt 
ho việc nâng cao chất lượng tín dụng, bảo đảm an toàn vốn. Song việc thông tin còn 
chậm, chưa đầy đủ, hình thức còn đơn điệu. Thời gian tới cần có những hình thức 
thông tin nhanh, đầy đủ và kịp thời hơn. Thông tin khách hàng vay vốn các ngân 
hàng trên địa bàn là cần thiết để đảm bảo khách hàng không được vay vốn ở nhiều 
ngân hàng. 
Tăng cường kiểm tra, giám sát khách hàng vay vốn, theo dõi rủi ro có thể xảy 
Ra đối với các khoản vay: kiểm tra thường xuyên, đột xuất tại cơ sở sản xuất kinh 
doanh của khách hàng. Kiểm tra việc đánh giá tài sản thế chấp, bảo quản tài sản thế 
chấp, cầm cố. Kiểm tra các thông tin thu thập được từ các nguồn khác nhau về 
khách hàng. Kiểm tra tình hình sử dụng tiền vay, đôn đốc các khách hàng trả nợ các 
khoản gốc và lãi đến hạn. 
4. Đổi mới cơ chế tín dụng ngân hàng phù hợp các đặc điểm các DNVVN: 
4.1. Sửa đổi, bổ sung thể lệ cho vay: 
4.1.1. Về nguyên tắc tín dụng: tín dụng là quan hệ vay trả, nguồn vốn huy động có 
thời hạn, do đó việc cho vay vốn phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả lãi và gốc đúng 
thời hạn. Trong thời kỳ bao cấp tín dụng có ba nguyên tắc đó là cho vay có mục 
đích có kế hoạch, có vật tư hàng hoá tương đương làm đảm bảo, hoàn trả gốc và lãi 
đúng thời hạn. Trong ba nguyên tắc trên suy cho cùng đều thực hiện theo nguyên 
tắc duy nhất đó là nguyên tắc hoàn trả. Hiện nay, các ngân hàng đã chuyển sang 
hạch toán kinh doanh, tín dụng ngân hàng không còn tình trạng bao cấp, nguyên tắc 
tín dụng ngân hàng trong cơ chế thị trường phải có một nội dung mới. Đó là phải 
đáp ứng yêu cầu hạch toán kinh doanh của ngân hàng và phải tôn trọng quyền tự 
chủ tài chính của khách hàng trong việc sử dụng vốn vay đúng mục đích, linh hoạt 
chủ động với cơ chế thị trường. 
4.1.2. Mở rộng đối tượng tín dụng: nghiên cứu cho vay DNVVN ở một số nước 
trong khu vực, đối tượng cho vay của ngân hàng rất đa dạng và thích hợp với cơ chế 
thị trường. Vì đứng trên phương diện kinh doanh của ngân hàng nơi nào có cầu về 
tín dụng thì ngân hàng cho vay. Do mục đích của tín dụng ngân hàng không chỉ đầu 
tư vào sản xuất kinh doanh mà còn đầu tư vào lĩnh vực tiêu dùng cá nhân. Cơ chế 
tín dụng của các nước không phân biệt đối tượng cho vay ngắn hạn là đầu tư vào 
khâu dự trữ vật tư hàng hoá, cho vay trung hạn là đầu tư vào tài sản cố định như 
Việt Nam. 
Để mở rộng đối tượng đầu tư đáp ứng yêu cầu về tín dụng, nhưng các điều kiện quy 
định còn hạn hẹp, nhất là cho vay tiêu dùng. Để thích hợp với các nhu cầu vay vốn 
của các DNVVN và để đảm bảo mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng, thúc đẩy 
nền kinh tế phát triển, cơ chế tín dụng ngân hàng cần phải sửa đổi và mở rộng đối 
tượng cho vay. 
- Cho vay ngắn hạn không nhất thiết chỉ đầu tư vào lĩnh vực mua sắm công cụ sản 
xuất, máy móc thiết bị,...(thuộc tài sản cố định), nếu phương án vay vốn của khách 
hàng đảm bảo trả nợ trong vòng 12 tháng hoặc khách hàng không có nguồn vốn 
khác cam kết trả nợ trong vòng 4 tháng thì ngân hàng có thể xét cho vay ngắn hạn 
để đầu tư vào các đối tượng làm tài sản cố định. Biện pháp này nhằm làm tháo gỡ 
cho các DN không phải làm các thủ tục xin vay vốn trung, dài hạn, không bị lệ 
thuộc vào nguồn vốn và mức phán quyết của ngân hàng cơ sở 
- Đối tượng cho vay tiêu dùng cá nhân cần được mở rộng và cho vay vào các mục 
đích như sau: cho vay mua, xây dựng và sửa chữa nhà ở; cho vay mua sắm các 
phương tiện đi lại, nghe nhìn; cho vay đi du lịch; cho vay đóng học phí, đi học 
nghề, du học nước ngoài, cho vay chữa bệnh...Tất nhiên, việc cho vay này phải 
được xem xét khả năng thực hiện của người vay trong việc đảm bảo hoàn trả đúng 
kỳ hạn 
4.1.3.Đổi mới phương thức cho vay: 
Phương thức cho vay tuy là biện pháp kỹ thuật nghiệp vụ của ngân hàng để đảm bảo 
cho vay đúng nguyên tắc, đúng đối tượng, quản lý được khoản vay. Nhưng nó là 
những vấn đề quy định về thủ tục có liên quan đến khách hàng vay vốn. Nếu một 
phương thức cho vay đề ra có quá nhiều thủ tục rườm rà thĩe gây khó khăn, phiền 
phức cho người vay. Trái lại, nếu phương hướngcho vay, quy trìnhcho vay không 
chặt chẽ sẽ dẫn tới không an toàn. Việc đổi mới phương thức cho vay phải chặt chẽ 
về pháp lý, an toàn về tài sản, đơn giản về thủ tục, linh hoạt chủ động về sử dụng 
vốn. 
Ở các NHTM thường sử dụng phương thức cho vay phổ biến là cho vay từng lần, 
song về thủ tục cho vay quy định quá phức tạp, không phù hợp với trình độ của các 
DN Việt Nam. Theo em cần phải đơn giản một số biểu mẫu, bỏ bớt một số thủ tục 
không cần thiết. Ví dụ: phương án kinh doanh không nhất thiết mỗi món vay phải 
xây dựng một phương án. Tờ trình xin vay vốn chỉ cần làm lần đầu thay thế đơn xin 
vay, giấy nhận nợ, cam kết thế chấp hoặc hợp đồng thế chấp bằng một hợp đồng tín 
dụng. 
Để phù hợp với cơ chế tín dụng trong nền kinh tế thị trường có thể nghiên cứu xem 
có thể áp dụng một số phương thức tín dụng mà các nước đang áp dụng phổ biến 
như: 
- Cho vay theo số dư (thấu chi): khách hàng có số dư tiền gửi và số dư tiết kiệm tại 
ngân hàng trên một năm thì được ngân hàng cho vay thấu chi, tức là khách hàng 
được rút tiền để chi tiêu hoặc thanh toán vượt quá mức dư tiền gửi của khách hàng. 
Chênh lệch giữa số tiền gửi và số tiền rút là số tiền ngân hàng cho vay thấu chi, 
nhưng mức rút tiền phải có giới hạn do ngân hàng xác định 
- Chiết khấu chứng từ: khi mà thị trường chứng khoán ở nước ta đang dần phát 
triển, các luật về lưu thông hối phiếu và kỳ phiếu được ban hành thì nghiệp vụ chiết 
khấu chứng từ là nghiệp vụ được áp dụng phổ biến. Hiện nay, một số NHTM có cơ 
chế hướng dẫn nghiệp vụ này nhưng thực tế các ngân hàng cơ sở chỉ cho vay thế 
chấp bộ chứng từ xuất 
4.2. Đa dạng hoá các hình thức tín dụng 
Những năm tới các NHTM và các tổ chức tín dụng nước ta sẽ áp ụng một số hình 
thức tín dụng mới thích ứng với sự hoạt động ngày càng đa dạng của các DN cũng 
như những tiến bộ về công nghệ ngân hàng. Những hình thức tín dụng đã và sẽ 
được thực hiện ở Việt Nam là: tín dụng bảo lãnh; tín dụng thuê mua; tín dụng đồng 
tài trợ; nghiệp vụ cầm đồ, môi giới, chứng khoán. 
Các hình thức tín dụng này ở Việt Nam hiện nay đã có các văn bản hướng dẫn 
nhưng thời gian qua hoạt động còn kém phát triển. Do quan điểm chỉ đạo chưa nhất 
quán, do cơ chế pháp luật chưa được ban hành để tạo điề kiện cho các hình thức tín 
dụng mới phát triển. 
Về nghiệp vụ bảo lãnh: Nhà nước đã ban hành quyết định về "Quy chế nghiệp vụ 
bảo lãnh của ngân hàng". Đây là một hình thức tín dụng tạo điều kiện cho các DN 
tranh thủ được nguồn vôn nước ngoài dưới hình thức nhập vật tư, thiết bị trả chậm 
có sự bảo lãnh của ngân hàng. Hình thức này khá phát triển trong những năm gần 
đây, giải quyết được nhu cầu vốn, nhất là vốn ngoại tệ để thiết bị đồng bộ với công 
nghệ và bảo lãnh đã phát huy hiệu quả. Về chủ trương nên mở rộng hình thức bảo 
lãnh để nhập thiết bị đồng bộ hiện, để thực hiện các dự án đã được cấp có thẩm 
quyền thẩm định và phê duyệt. Cấm nhập vật tư, hàng hoá mà trong nước có khả 
năng cung ứng để bảo vệ hàng nội địa 
Về tín dụng thuê mua: Tín dụng thuê mua là hoạt động cho thuê máy móc, thiết bị 
và các động sản khác phục vụ cho sản xuất kinh doanh được các tổ chức tín dụng 
mua theo yêu cầu của bên thuê. Bên thuê thanh toán tiền cho tổ chức tín dụng trong 
suốt thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận và không được huỷ bỏ khi kết thúc 
thời hạn thuê. Bên thuê được quyền quản lý, sử dụng tài sản, thuê hoặc mua lại tài 
sản theo hay tiếp tục thuê các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng thuê mua. Do 
đặc điểm của DNVVN là vốn ít, các điều kiện để được vay vốn ngân hàng không 
đảm bảo, đặc biệt là không có tài sản thế chấp để vay vốn ngân hàng, tín dụng thuê 
mua nhất là thuê mua thiết bị phát triển sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các DNVVN. 
Về tín dụng hợp vốn: là hình thức tín dụng đồng tài trợ vào một dự án đòi hỏi quy 
mô vốn đaùa tư sẽ khó khăn về nguồn vốn, về nguy cơ rủi ro. Hình thức tín dụng 
hợp vốn hay nói cách khác là nhiều ngân hàng cùng tham gia đầu tư vào một dự án 
sẽ giải quyết được những khó khăn trên. Ở hình thức tín dụng này đã và đang áp 
dụng có hiệu quả. Song để có thể mở rộng hình thức tín dụng này NHNN cần ban 
hành một thể lệ cho vay vốn đồng tài trợ 
4.3. Thực hiện chính sách lãi suất hỗ trợ cho các DNVVN để lãi suất trở thành 
công cụ điều hành chính sách tiền tệ, NHNN đã thực hiện một bước quan trọng là 
chuyển từ lãi suất âm sang lãi suất dương, việc chuyển này có ý nghĩa quan trọng 
trong việc sử dụng lãi suất làm công cụ điều hành vĩ mô 
Từ chỗ Nhà nước quy định rất cụ thể mức lãi suất đối với các ngành, các thành phần 
kinh tế, các đối tượng đầu tư và được áp dụng thống nhất đối với các NHTM. Hiện 
nay, NHNN chỉ quy định một trần lãi suất, trên cơ sở đó có các ngân hàng, tổ chức 
tín dụng tự xác định mức lãi suất cụ thể của mình đã thu hẹp dần khoảng cách giữa 
lãi suất ngoại tệ và nội tệ, ngắn hạn và dài hạn. Những đổi mới về cơ chế lãi suất ở 
tầm vĩ mô của NHNN là rất phù hợp với cơ chế thị trường. Song về cơ chế lãi suất 
cụ thể cũng cần được nghiên cứu có những chế độ ưu đãi, kích thích một số ngành 
sản xuất phát triển theo đường lối chinh sách của Đảng. 
Ngân hàng nên áp dụng lãi suất tối đa, tối thiểu để phân biệt chính sach stín dụng 
đối với từng ngành kinh tế, từng mục đích sử dụng vốn. Những ngành cần khuyến 
khích đầu tư, những loại hình doanh nghiệp cần khuyến khích phát triển thì được 
hưởng lãi suất ưu đãi với mức lãi suất tối thiểu và ngược alị áp dụng lãi suất tối đa. 
Lãi suất tối thiểu còn được ưu đãi với khách hàng vay nhiều vốn, vay trả ngân hàng 
sòng phẳng, không vi phạm quy chế tín dụng để thực hiện chính sách khách hàng 
4.4. Xác lập và hoàn thiện điều kiện và môi trường cho tín dụng ngân hàng hỗ trợ 
DNVVN phát triển: 
 Tại cuộc hội thảo về phát triển DNVVN ở Việt Nam nhiều tham luận sau khi 
phân tích vai trò, đặc điểm, những khó khăn và thuận lợi của DNVVNVN đều đi 
đến thống nhất: để đẩy mạnh phát triển các DNVVNVN cần xem xét giải quyết các 
vấn đề như tạo vốn để phát triển DNVVN; nâng cao trình độ công nghệ, áp dụng 
tiến bộ khoa học kỹ thuật tạo điều kiện để các DNVVN thâm nhập vào thị trường 
trong nước và ngoài nước; hỗ trợ và xử lý các thông tin cần thiết cho các DNVVN, 
tạo hành lang pháp lý bảo đảm cho các DNVVN được tự do hoạt động sản xuất kinh 
doanh trong khuôn khổ pháp luật của Nhà nước 
B. ĐỐI VỚI CHÍNH PHỦ VÀ NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC. 
 Nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung các quy định hiện hành về tài chính nhằm tạo 
môi trường kinh doanh bình đẳng cả về nghĩa vụ và các ưu đãi của Nhà nước đối 
với các loại hình doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Thông qua các chính 
sách phát triển kinh tế xã hội, phát triển cơ sở hạ tầng, chính sách đầu tư khai thác 
và huy động mọi tiềm năng sẵn có của doanh nghiệp, phát huy thế mạnh và tính 
năng động của các DNVVN trong nền kinh tế. 
Nhà nước cũng nên khẩn trương quan tâm nghiên cứu và sớm ban hành các quy 
định riêng cho DNVVN (luật hoặc Nghị định), thành lập Hiệp hội các DNVVN ... 
Qua đó các DNVVN có điều kiện giao lưu trao đổi kinh nghiệm hợp tác; Hiệp hội 
sẽ xác định được đối tượng các doanh nghiệp cần hỗ trợ, tiêu chi phân loại, xác định 
lĩnh vực ngành nghề ưu tiên, ưu đãi, đơn giản hóa các thủ tục hành chính... Khi 
khung pháp lý cho các DNVVN ra đời sẽ khẳng định rõ ràng hơn về chủ trương 
khuyến khích phát triển DNVVN của Nhà nước. 
Tạo điều kiện thuận lợi cho các DNVVN hoạt động trong các lĩnh vực lưu thông 
hàng hóa ở nông thôn, góp phần thúc đẩy nông nghiệp nông thôn phát triển, thu hút 
lực lượng lao động nông thôn, góp phần thay đổi cơ cấu lao động. Có chính sách 
khuyến khích phát triển các DNVVN hoạt động trong các lĩnh vực, các ngành mà 
các doanh nghiệp lớn không có lợi thế, chính sách liên kết DNVVN với các doanh 
nghiệp lớn trong sản xuất kinh doanh nhằm thúc đẩy chuyển giao công nghệ, đào 
đạo tay nghề, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh 
cho các DNVVN. 
NHNN sớm tham mưu cho Chính phủ ban hành các chính sách chương trình trợ 
giúp các DNVVN. Trước mắt, cần khẩn trương nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung quy 
chế thành lập tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho các DNVVN vốn 
còn nhiều bất cập và tranh cãi nên cho đến nay hầu như chưa có tỉnh thành nào 
trong nước thực hiện được theo quy định. Đây là bước đi quan trọng để có thể tháo 
gỡ khó khăn về vốn đầu tư phát triển sản xuất của các DNVVN trong cả nước. 
Bên cạnh Quỹ bảo lãnh tín dụng, cần nghiên cứu thành lập các Quỹ bảo hiểm tiền 
vay và Quỹ đầu tư mạo hiểm để khuyến khích các DNVVN đầu tư vào các hoạt 
động công nghệ cao để hướng tới hình thành nên những doanh nghiệp công nghệ 
cao. Mặt khác, tăng cường hỗ trợ cho các DNVVN thông qua hạ bớt thuế suất thuế 
thu nhập doanh nghiệp để doanh nghiệp có điều kiện tự tạo vốn, đẩy mạnh cho vay 
ưu đãi qua quỹ hỗ trợ xuất khẩu, quỹ hỗ trợ phát triển, quỹ xúc tiến thương mại. 
Triển khai xây dựng hệ thống khai thác dữ liệu thông tin và tư vấn tài chính giúp 
cho các DNVVN phát triển mạnh mẽ theo định hướng của Nhà nước. Về phía 
NHNN nên có giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng ngân hàng đặc biệt 
là Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) của Ngân hàng Nhà nước. 
Chính phủ cần sớm ban hành cơ chế quản lý tài chính đối với các DNVVN, bổ sung 
chế độ kế toán cho phù hợp với trình độ DNVVN. Quy định chế độ kiểm toán chặc 
chẽ, bắt buộc hằng năm đối với các doanh nghiệp nhằm cung cấp những báo cáo tài 
chính chính xác hơn cho ngân hàng trong việc quyết định cho vay nhằm hạn chế rủi 
ro, nâng cao hiệu quả cho vay. 
Trong thời gian qua, các chương trình trợ giúp cho các DNVVN của các tổ chức 
nước ngoài như: ADB, EU, UNDP, WB... đã tỏ ra khá hiệu quả. Do đó trong những 
năm tới Nhà nước cần tiếp tục mở rộng các quan hệ đối ngoại để tăng cường và 
tranh thủ các chương trình và dự á
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
Luận văn- Ngân hàng tại các vùng duyên hải chuyên về tín dụng phát triển kinh tế biển và du lịch.pdf