Luận văn 
Nâng cao chất lượng lao 
động xuất khẩu tại trung 
tâm dịch vụ và xuất khẩu 
lao động SELAC 
 LỜI MỞ ĐẦU 
 
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của các ngành các nghề khác như: 
công nghệ thông tin, dịch vụ, vật liệu mới thì xuất khẩu lao động là một 
trong những sự phát triển đang được nhà nước chú trọng và quan tâm. Xuất 
khẩu lao động là thể hiện sự di chuyển nguồn lao động trong phạm vi quốc 
tế. Đây chính là một hình thức phân công lao động, là cơ sở để phát triển 
nhiều lĩnh vực quan trọng khác. Xuất khẩu lao động không chỉ nhằm giải 
quyết việc làm, tăng thu nhập cải thiện đời sống cho người lao động và gia 
đình họ mà còn là biện pháp nhằm đẩy mạnh công tác hợp tác quốc tế, tăng 
nguồn thu ngoại tệ, đào tạo và nâng cao trình độ cho người lao động về 
chuyên môn-khoa học kỹ thuật, ngoại ngữ, làm quen với lối sống, tác phong 
công nghiệp và đấu thầu quốc tế, nâng cao năng suất lao động xã hội, giải 
quyết việc làm và hạn chế thất nghiệp ở trong nước. 
Trung tâm dịch vụ và xuất khẩu lao động SELAC là một doanh nghiệp 
chuyên doanh trong lĩnh vực xuất khẩu lao động, tập thể cán bộ nhân viên 
trung tâm đã không ngừng cố gắng sáng tạo, phấn đấu góp sức vì sự phát 
triển trung tâm. Tuy vậy, hiện nay trung tâm vẫn còn gặp khó khăn rất lớn 
đó là làm sao phải nâng cao chất lượng lao động xuất khẩu, để tăng khả năng 
cạnh tranh và uy tín trên thị trường xuất khẩu lao động. Xuất phát từ thực tế 
đó, em đã chọn đề tài “Nâng cao chất lượng lao động xuất khẩu tại trung 
tâm dịch vụ và xuất khẩu lao động SELAC” làm chuyên đề thực tập. 
Kết cấu của chuyên đề gồm ba chương: 
 Chương I: Cơ sở lý luận về chất lượng nguồn lao động xuất khẩu. 
Chương II: Thực trạng chất lượng lao động xuất khẩu và các hoạt 
động nhằm nâng cao chất lượng lao động xuất khẩu tại trung tâm 
SELAC. 
Chương III: Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng lao động 
xuất khẩu tại SELAC 
 CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG NGUỒN LAO 
ĐỘNG XUẤT KHẨU 
I. Tổng quan về hoạt động xuất khẩu lao động và chất lượng nguồn lao 
động xuất khẩu. 
1. Xuất khẩu lao động và các tổ chức thực hiện xuất khẩu lao động. 
1.1. Xuất khẩu lao động và vai trò của xuất khẩu lao động. 
Xuất khẩu lao động là việc lao động của một nước có nhu cầu ra nước 
khác làm việc trong thời gian nhất định. Xuất khẩu lao động hiện nay coi là 
xu thể mang tính khách quan của các nước đang phát triển và kém phát triển. 
Xuất khẩu lao động có thời hạn ở nước ngoài thể hiện tính quy luật của sự di 
chuyển nguồn lao động trong phạm vi quốc tế. Đây chính là một hình thức 
phân công lao động, là cơ sở của việc phát triển đội ngũ lao động lành nghề 
và chuyên nghiệp hoá. Mặt khác xuất khẩu lao động cũng là cơ hội của 
người lao động trong việc học hỏi, nâng cao trình độ chuyên môn, tăng thêm 
sự hiểu biết về phong tục, tập quán về nước tới lao động. 
Ở các nước đang phát triển, tỷ lệ tăng dân số hàng năm vẫn còn cao, giải 
quyết việc làm cho người đến tuổi lao động là một gánh nặng cho quốc gia. 
Mặt khác, nền kinh tế còn thiếu và yếu chưa đủ đáp ứng được hết các việc 
làm mà người lao động tìm kiếm. Do đó, xuất khẩu lao động đang trở thành 
vấn đề bức bách và nó có tính chất quan trọng trong quá trình tham gia hội 
nhập với nền kinh tế thế giới.. Đối với các nước hoạt động trong lĩnh vực 
xuất khẩu lao động thì nó đóng góp một số vai trò quan trọng sau: 
- Xuất khẩu lao động làm tăng thu ngoại tệ dưới dạng tiền gửi về của 
những người lao động ở nước ngoài cho gia đình họ. Đây là một nguồn thu 
hàng năm rất quan trọng trong chính sách thu hút ngoại tệ của chính phủ thời 
kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. 
 - Tăng thu ngân sách nhà nước. Hàng năm lượng tiền thu được từ xuất 
khẩu lao động là rất lớn, từ việc nhà nước thu thuế từ các doanh nghiệp hoạt 
dộng trong lĩnh vực xuất khẩu lao động đến việc thu từ các hoạt động liên 
quan đến hoạt động xuất khẩu lao động như: hàng không, làm Visa, hay 
khám sức khoẻ. 
- Giải quyết việc làm cho người lao động. Hiện nay tình trạng thất nghiệp 
của không chỉ các nước đang phát triển mà còn của các nước phát triển là rất 
lớn. Lượng lao động đến tuổi ngày càng nhiều nhưng công việc không đủ để 
đáp ứng cho họ và xuất khẩu lao động là một biện pháp hữu hiệu để giải 
quyết vấn đề này. Xuất khẩu lao động giải quyết một số lượng lớn lao động 
hàng năm, nhưng chủ yếu là những lao động có trình độ học vấn và chuyên 
môn thấp. Tuy vậy xuất khẩu lao động cũng đang có những thay đổi tích cực 
để không chỉ là giải quyết lao động phổ thông mà phải là lao động có trình 
độ, chất lượng cao. Xuất khẩu lao động không chỉ góp phần giải quyết công 
ăn việc làm cho người lao động mà nó còn nâng cao đời sống về mọi mặt: 
vật chất, tinh thần cho người lao động. 
- Góp phần nâng cao trình độ người lao động về văn hoá, về tay nghề 
chuyên môn, tiếp thu được lối sống và tác phong làm việc công nghiệp, do 
đó từng bước đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại 
hoá đất nước khi họ trở về. Đây là một vai trò quan trọng của xuất khẩu lao 
động đối với các nước đang phát triển. Sau một khoảng thời gian làm việc 
tại nước ngoài người lao động cũng tích luỹ cho mình được những kinh 
nghiệm trong công việc, trong cuộc sống để về áp dụng vào trong nước 
mình. Họ có thể học hỏi được cách làm, công nghệ, cách quản lý…của nước 
nhập khẩu. Thời gian xuất khẩu lao động lao động thường là 2-3 năm, nhưng 
cũng đủ để người lao động nâng cao được trình độ và học hỏi được nhiều 
 điều. Tuy nhiên vai trò này chỉ rõ khi người lao động có trình độ học vấn 
hay ham học. 
- Đưa lao động đi làm việc tại nước ngoài giúp nhà nước giảm được khoản 
chi phí đầu tư đào tạo nghề và tạo chỗ làm việc mới cho người lao động. 
Hàng năm, nhà nước vẫn phải chi một khoản tiền khá lớn để đầu tư đào tạo 
nghề cho nhu cầu sử dụng lao động trong nước. Vì vậy, khi đưa người lao 
động nhà nước đã tiết kiệm được khoản tiền này và đầu tư vào được mục đích khác. 
- Thắt chặt mối quan hệ sẵn có và mở rộng mối quan hệ với nước ngoài. 
Xuất khẩu lao động giúp mối quan hệ giữa các nước được duy trì và phát 
triển đồng thời cũng tạo ra các mối quan hệ mới. Đây cũng là chủ trương của 
các nước khi xuất khẩu lao động để hội nhập và phát triển. Có ngày càng 
nhiều các quốc gia mà Việt Nam tham giam xuất khẩu lao động, ngày càng 
có nhiều vùng lãnh thổ được mở rộng. Vì vậy, đây không chỉ là thời cơ của 
Việt Nam giới thiệu về nước mình mà còn là thời cơ để nước ta tận dụng 
khai thác các mặt hay, mặt mạnh của nước bạn để áp dụng có chọn lọc vào Việt 
Nam. 
1.2. Các tổ chức thực hiện xuất khẩu lao động. 
Đó là các tổ chức thực hiện việc đưa lao động của nước mình sang nước 
khác làm việc, hay đây chính là cầu nối giữa lao động có nhu cầu xuất khẩu 
lao động với nước tiếp nhận lao động. Các doanh nghiệp hoạt động trong 
lĩnh vực này cũng phải có đủ giấy phép kinh doanh hay các thủ tục đăng ký 
hoạt động. Nhiệm vụ của các doanh nghiệp này là tuyển dụng, đào tạo lao 
động có đủ trình độ để tham gia lao động tại nước ngoài đồng thời phải giám 
sát, quản lý các lao động đang làm việc tại đó. Việc thu được nhiều doanh 
thu hay không tuỳ thuộc vào khả năng có đưa được nhiều lao động ra nước 
ngoài làm việc không. 
 2. Những yếu tố ảnh hưởng đến khả năng xuất khẩu lao động của tổ 
chức thực hiện xuất khẩu lao động. 
Tại một cuộc họp về thị trường lao động quốc tế, đại diện của 11 nước 
Châu Á tham dự hội thảo tổ chức tại Nhật Bản đầu năm 2004 cho rằng: hiện 
nay thị trường lao động quốc tế đang tiếp tục được mở rộng, nhưng lại có 
chiều hướng thay đổi. Một số nước vẫn tiếp tục là nước xuất khẩu lao động 
như: Philippin, Inđônêxia, Việt Nam…, một số nước vừa xuất vừa nhập 
khẩu lao động như: Malaysia, Thái Lan, Trung Quốc…, và một số nước 
như: Nhật Bản, Hàn Quốc vẫn cần nhập khẩu lao động. 
Hầu hết các nước đều thiếu lao động có trình độ và đang tìm cách cải 
thiện chính sách nhằm thu hút lao động có tay nghề cao. Việc tiếp nhận lao 
động phổ thông tiếp tục có nhu cầu lớn, tuy nhiên việc sử dụng lao động phổ 
thông trên thị trường lao động quốc tế có nhiều mặt hạn chế và kém hiệu quả 
do: thu nhập thấp, khả năng tiếp thu công nghệ mới rất có hạn, điều kiện làm 
việc kém, bị đối xử thiếu bình đẳng, giá nhân công thấp, khả năng cạnh 
tranh khó. Rõ ràng xuất khẩu lao động là một hoạt động kinh tế đối ngoại có 
nét đặc thù và chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau, bị tác động bởi 
các nền kinh tế và các chính sách phát triển của các nước, đồng thời nó cũng 
có tác động trở lại với nền kinh tế và xã hội của cả nước xuất và nhập lao 
động. Quá trình xuất khẩu lao động của mối quốc gia trong điều kiện kinh tế 
thị trường chịu ảnh hưởng của một số yếu tố cơ bản sau: 
2.1. Những yếu tố thuộc về doanh nghiệp. 
Khả năng xuất khẩu lao động của doanh nghiệp phụ thuộc vào rất nhiều 
yếu tố khác nhau như: chất lượng nguồn lao động xuất khẩu, tiềm lực kinh tế 
của doanh nghiệp hay thị trường lao động xuất khẩu mà doanh nghiệp có 
được, khả năng đào tạo lao động xuất khẩu. 
  Chất lượng nguồn lao động. 
Các nước nhập khẩu truyền thống đang đổi mới đầu tư và hiện đại hoá 
công nghệ sản xuất, chuyển dịch đầu tư tư bản sang nước có giá nhân công 
và dịch vụ thấp và có nhu cầu tiếp nhận lao động nước ngoài có trình độ 
chuyên môn, kỹ thuật cao, tăng dần tỷ trọng lao động chất xám cao trong 
tổng số lao động nhập cư. 
Với tính chất phức tạp, nhạy cảm và tính chất quốc tế cao của xuất khẩu 
lao động, sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động với tư cách hỗ trợ, quản 
lý, giám sát và định hướng cho công tác xuất khẩu lao động là cần thiết. ứng 
mỗi giai đoạn phát triển kinh tế của mỗi nước, phải có một phương thức tổ 
chức và quản lý xuất khẩu lao động riêng, trong đó quản lý tài chính xuất 
khẩu lao động là một khâu quan trọng để đạt được hiệu quả kinh tế-xã hội. 
Ở Việt Nam, từ năm 1998-2003 ta đã đưa được trên 200.000 lao động đi 
làm ở nước ngoài, chúng ta cũng đã có nhiều thoả thuận, ký kết hiệp định 
hợp tác lao động với một số nước như: Đài Loan, Lào, Malaysia.Tiếp tục ổn 
định thị trường sẵn có và phát triển thị trường mới sang các nước như: Anh, 
Pháp, Canada. Công khai, mở rộng thị trường khu vực Trung Đông, với mục 
tiêu đưa càng nhiều lao động ra nhiều nước càng tốt. 
Với nhu cầu tuyển lao động xuất khẩu hiện nay ở nhiều nước, chất lượng 
lao động cần được chú ý tới để tăng khả năng cạnh tranh và uy tín với các 
nước nhập khẩu. Vì vậy các nước xuất khẩu lao động nói chung và các 
doanh nghiệp xuất khẩu lao động nói riêng cần có những biện pháp để nâng 
cao chất lượng lao động của nước mình đáp ứng được nhu cầu của thị trường 
thế giới và khu vực. 
 Khả năng đào tạo và quản lý lao động của doanh nghiệp. 
 Đây là yếu tố rất quan trọng, ảnh hưởng không nhỏ đến tên tuổi của 
doanh nghịêp xuất khẩu lao động. Các doanh nghiệp đều đầu tư nhiều thời 
gian và tiền của vào công tác này để có được một kết quả như mong muốn 
 Thị trường lao động mà doanh nghiệp hiện có. 
 2.2. Những yếu tố thuộc về môi trường. 
2.2.1. Môi trường vĩ mô. 
Ngoài các yếu tố của doanh nghiệp thì các yếu tố môi trường cũng có ảnh 
hưởng không nhỏ đến khả năng xuất khẩu lao động của doanh nghiệp. Các 
yếu tố này cũng là các yếu tố quyết định rất lớn đến khả năng xuất khẩu lao 
động. Đây chính là các yếu tố như: yếu tố pháp luật, quan hệ cung cầu về lao 
động trên thị trường thế giới và khu vực, hay sự cạnh tranh về xuất khẩu lao 
động giữa các quốc gia. 
 Yếu tố pháp luật. 
 Xuất khẩu lao động chịu tác động mạnh mẽ của môi trường chính trị và 
pháp luật của các nước xuất, nhập khẩu lao động và luật pháp quốc tế. Đối 
tượng tham gia xuất khẩu lao động là người lao động và các tổ chức kinh 
doanh hoạt động này. Xuất khẩu lao động không còn là việc của một cá nhân 
mà liên quan đến nhiều người, nhiều tổ chức cung ứng lao động, đến các 
nước xuất khẩu lao động, nước nhập lao động. Vì vậy, quản lý xuất khẩu lao 
động ngoài việc phải tuân thủ những quy định, những chính sách, những 
hình thức, quy luật của quản lý kinh tế, còn phải tuân thủ những quy định về 
quản lý nhân sự của cả nước xuất cư và nhập cư. Hệ thống pháp luật và 
chính sách hỗ trợ cho xuất khẩu lao động liên tục đòi hỏi bổ sung và hoàn 
thiện. 
  Quan hệ cung- cầu về lao động trên thị trường thế giới và khu vực. 
 Các nước kinh tế phát triển có tốc độ tăng trưởng cao, nhưng tốc độ 
tăng dân số thấp, dẫn đến thiếu hụt về nguồn nhân lực, có nhu cầu về nhập 
khẩu lao động, trong khi các nước chậm phát triển hoặc đang phát triển cần 
đầu tư mở rộng sản xuất, tạo thêm việc làm, giải quyết nạn thất nghiệp, bổ 
sung nguồn thu ngân sách và thu nhập cho người lao động, rất cần đưa lao 
động ra nước ngoài làm việc. Cung-cầu lao động của thị trường phụ thuộc 
 nhiều vào sự phát triển và các chính sách kinh tế của các nước như: thu 
nhập, đầu tư, thuế, lãi suất...của nền kinh tế khu vực và trên thế giới. Khi 
cung-cầu lao động mất cân đối nghiêm trọng do nhu cầu tìm việc làm trong 
nước quá lớn nhưng khả năng xâm nhập, khai thác thị trường lao động quốc 
tế còn rất hạn chế, cạnh tranh gay gắt sẽ đẩy chi phí khai thác thị trường lên 
quá cao, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người lao động. 
 Sự cạnh tranh về xuất khẩu lao động giữa các quốc gia. 
Xuất khẩu lao động được thực hiện trong sự cạnh tranh gay gắt giữa các 
quốc gia xuất khẩu lao động. Ngày càng có nhiều quốc gia tham gia vào lĩnh 
vực này, trong hiện tại và trước mắt các nước nhập khẩu lao động chỉ muốn 
tiếp nhận lao động có kỹ thuật cao, thích ứng với công nghệ mới, đặc biệt là 
công nghệ thông tin, xiết chặt chính sách nhập cư và có xu hướng quản lý 
lao động nhập cư thông qua các hợp đồng lao động tạm thời và các chính 
sách quản lý lao động nhập cư; đồng thời các nước cũng thông qua Tổ chức 
Lao động Quốc tế và Tổ chức Di dân Quốc tế để giải quyết vấn đề di dân và 
nhập cư lao động một cách toàn diện, phục vụ lợi ích của quốc gia mình, 
người lao động và toàn xã hội. Do đó làm cho các nước xuất khẩu lao động 
ngày càng phải tự hoàn thiện để phục vụ nhu cầu các nước nhập khẩu. 
2.2.2. Môi trường ngành. 
 Yếu tố cạnh tranh. 
Ngày nay xuất khẩu lao động không còn xa lạ với Việt Nam, vì vậy có 
ngày càng nhiều các doanh nghiệp, trung tâm hình thành và phát triển trong 
lĩnh vực này với mục đích đưa người lao động sang nước ngoài làm việc để 
nhằm thu lợi nhuận. Do đó sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, các công ty 
này ngày càng gay gắt, điều này không chỉ xảy ra ở lĩnh vực xuất khẩu lao 
động. Các doanh nghiệp ngoài việc tìm mọi giải pháp cho việc tồn tại và 
phát triển thì cũng phải tìm cho được con đường đi riêng cho mình để có thể 
 cạnh tranh thành công với các doanh nghiệp đang phát triển mạnh hơn. Vì 
thế hoạt động xuất khẩu lao động đang gặp nhiều khó khăn trong giai đoạn 
này, nên để có thể xuất khẩu lao động thành công hay không còn tuỳ thuộc 
rất nhiều vào khả năng hay năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, các 
công ty đó. 
3. Nguồn lao động xuất khẩu. 
Nguồn lao động xuất khẩu là tất cả những người lao động có nhu cầu 
xuất khẩu lao động, đi làm việc tại nước ngoài. Tạo nguồn lao động xuất 
khẩu đang được chính phủ và các doanh nghiệp quan tâm do tính chất quan 
trọng của nó. Nguồn lao động xuất khẩu là yếu tố quan trọng đầu tiên ảnh 
hưởng đến chất lượng lao động xuất khẩu. Nó góp phần giải quyết cho công 
tác tuyển dụng khi mà các doanh nghiệp tìm kiếm lao động xuất khẩu. 
Nguồn lao động thường được các doanh nghiệp xuất khẩu lao động tuyển 
dụng qua các hình thức sau: 
 Thứ nhất, qua các trung tâm dịch vụ việc làm tại các địa phương. Trước 
khi tuyển dụng công ty đều ký thoả thuận với các trung tâm, trong đó quy 
định rõ quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi bên, yêu cầu về từng loại 
hình lao động như sức khỏe, độ tuổi, trình độ học vấn và tay nghề…đồng 
thời nêu rõ quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động, đặc biệt là vấn đề tài 
chính. Từ đó trung tâm sẽ phổ biến công khai cho mọi người tham gia dự 
tuyển, đồng thời hướng dẫn họ làm các thủ tục cần thiết. Sau đó trung tâm sẽ 
tập trung toàn bộ người tham gia dự tuyển để công ty hoặc đối tác nước 
ngoài tuyển chọn trực tiếp. 
Tuyển chọn qua hình thức này có ưu điểm là huy động được số lượng lớn 
nguồn lao động với đa dạng các ngành nghề từ trình độ cao đến lao động 
phổ thông. Các thủ tục lao động được làm nhanh chóng, thuận lợi và chính 
xác, tránh được các chi phí không cần thiết. Việc đào tạo cũng thuận lợi và 
 nhanh chóng hơn, doanh nghiệp có thể phối hợp với trung tâm để mở các 
lớp đào tạo ngoại ngữ và giáo dục định hướng cho người lao động trước khi 
đi, giảm bớt chi phí ăn ở, đi lại cho họ. 
 Thứ hai, tuyển trực tiếp thông qua chính quyền cấp xã, phường. Tiến 
hành đưa các thông tin về yêu cầu tuyển dụng, nghĩa vụ và quyền lợi của 
người lao động đi làm việc về các địa phương để thông báo đến toàn bộ cư 
dân trên địa bàn, sau đó cùng chính quyền tập trung những người có mong 
muốn đi làm việc ở nước ngoài để tiến hành tuyển chọn trực tiếp. 
 Hình thức này vừa đảm bảo chất lượng nguồn, nắm chắc được lý lịch 
của người lao động, tránh được các phát sinh phức tạp, người lao động cũng 
không phải qua khâu trung gian, được tạo mọi điều kiện thuận lợi trong khâu 
giải quyết các thủ tục hồ sơ tại địa phương. Nhưng lại chỉ tuyển được lao 
động phổ thông, số lượng của từng nơi cũng hạn chế. Một số địa phương 
không có cán bộ chuyên trách nên việc hướng dẫn các thủ tục không thành 
thạo, một số thông tin đưa đến người lao động không chính xác. 
 Ngoài ra, công ty còn tuyển trực tiếp qua thông báo trên các phương 
tiện thông tin đại chúng, qua giới thiệu của những người đi trước. 
Trong quá trình tuyển chọn rất cần được theo dõi và giám sát để hoạt 
động tuyển chọn được diễn ra có chất lượng, từ đó mới đảm bảo được chất 
lượng người lao động được tuyển chọn. Các phương pháp tuyển chọn trên 
tuy còn nhiều hạn chế, nhưng đó cũng là các biện pháp hạn chế được phần 
nào người lao động có trình độ thấp, còn hạn chế về nhận thức và kém văn 
hoá. 
Ngày càng có nhiều mô hình liên kết giữa các doanh nghiệp hoạt động 
trong lĩnh vực xuất khẩu lao động với các địa phương các tỉnh có người lao 
động muốn ra nước ngoài làm việc. Cũng qua mô hình liên kết này, vấn đề 
vốn cho lao động vay được giải quyết. Đây là tín hiệu đáng mừng khi vấn đề 
nguồn lao động đang trở nên gặp nhiều khó khăn trong thời điểm hiện tại. 
 Quan điểm chỉ đạo của Chính phủ về đẩy mạnh xuất khẩu lao động trên hai 
nguyên tắc. Một là tăng nhanh số lượng đưa đi nhưng phải quản lý chặt chẽ. 
Hai là nhanh chóng thay thế lao động giản đơn bằng lao động có trình độ kỹ 
thuật. Chính phủ cũng đang có các biện pháp nhằm tạo nguồn lao động đủ 
điều kiện tham gia làm việc ở nước ngoài, đồng thời cũng tiến hành xây 
dựng chiến lược phát triển lâu dài tạo nguồn lao động kỹ thuật cao, góp phần 
giải quyết tình trạng khan hiếm lao động có trình độ kỹ thuật và tạo nguồn 
lao động ổn định lâu dài. Tóm lại nguồn lao động như là đầu vào của quá 
trình sản xuất, do đó cần phải xây dựng một hệ thống nguồn lao động mang 
tính chiến lược và quy hoạch cụ thể, vượt khỏi tầm lao động đơn giản, vươn 
tới lao động có trình độ cao và đây phải là nguồn đầu vào đạt tiêu chuẩn. 
4. Chất lượng nguồn lao động xuất khẩu. 
Chất lượng lao động xuất khẩu được xét trên nhiều tiêu chí khác nhau như: 
Kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ, phẩm chất đạo đức, tác 
phong làm việc, sức khoẻ, ý thức chấp hành công việc và kỷ luật…Đây 
chính là các tiêu chí hay yêu cầu đối với lao động của phía đối tác nước tiếp 
nhận lao động thường quan tâm khi xét tuyển lao động nhập khẩu nói chung. 
Vì vậy cần xem xét cac tiêu chí này một cách rõ ràng hơn: 
4.1. Kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ. 
Đây là tiêu chí hàng đầu khi người lao động được xét tuyển. Để có thể ra 
nước ngoài làm việc, người lao động cần có một trình độ nghiệp vụ nhất 
định phù hợp với yêu cầu của phía đối tác. Do đó các doanh nghiệp hay các 
công ty xuất khẩu lao động cần đào tạo người lao động sau khi tuyển dụng 
để họ có một trình độ ngành nghề cụ thể. Các ngành nghề này thường là các 
nghề mà nước tiếp nhận lao động cần tuyển như: xây dựng, may măc, điện, 
thông tin, hay người giúp việc. Chất lượng lao động xuất khẩu phụ thuộc rất 
nhiều vào kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ. Người lao động có một kỹ năng 
chuyên môn nghiệp vụ tốt sẽ dễ dàng được nước bạn tiếp nhận hơn là người 
 lao động không đáp ứng được yêu cầu này. Tuy vậy đây không phải là tiêu 
chí duy nhất để đánh giá chất lượng lao động xuất khẩu. 
4.2. Trình độ ngoại ngữ. 
Khi ra nước ngoài làm việc, người lao động cần có một vốn ngoại ngữ 
nhất định để có thể giao tiếp xã giao và để làm việc với chủ lao động của 
mình. Đây là một yếu tố không thể thiếu đối với người lao động khi tham gia 
làm việc tại nước ngoài. Để có thể làm được việc và sống được bên đó thì 
ngoại ngữ là cầu nối duy nhất của người lao động. Đối với người lao động 
thì khi sang lao động tại nước nào thì họ được học và thực hành tiếng nước 
đó. Tuy nhiên học ngoại ngữ đối với họ không phải là dễ dàng vì gần như 
đây là lần đầu tiên tiếp xúc với tiếng nước ngoài, vì vậy đây là khó khăn của 
không chỉ người lao động mà nó còn là khó khăn của doanh nghiệp để nâng 
cao chất lượng lao động của mình. Chất lượng lao động phụ thuộc rất lớn 
vào tiêu chí này, nên ngoại ngữ là rất cần thiết và đó là yếu tố rất quan trọng 
để đánh giá chất lượng lao động của một doanh nghiệp xuất khẩu lao động. 
4.3. Phẩm chất đạo đức, tác phong làm việc của người lao động. 
Đây cũng là những yếu tố rất quan trọng để doanh nghiệp hay nước bạn 
đánh giá chất lượng lao động của mình khi tuyển chọn. Đây cũng là tiêu chí 
đầu tiên mà doanh nghiệp quan tâm để tuyển chọn lao động cho mình. Trình 
độ chuyên môn nghiệp vụ và trình độ ngoại ngữ có thể dạy khi người lao 
động đã được tuyển chọn nhưng phẩm chất đạo đưc và tác phong làm việc 
thì là yếu tố không thể dạy được trong thời gian ngắn mà lao động đang ở tại 
doanh nghiệp. Do đó cần tuyển chọn được những lao động đạt tiêu chuẩn về 
phẩm chất đạo đức, tác phong làm việc để có thể đảm bảo chất lượng lao 
động một cách toàn diện hơn khi tham gia lao động tại nước ngoài. 
4.4. Sức khoẻ người lao động. 
 Một yếu tố tuy rất nhỏ nhưng nó ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng lao 
động của một doanh nghiệp. Đây là yếu tố được nhà tuyển dụng quan tâm 
nhưng cũng rất khó cho họ có thể tuyển được những lao động có sức khoẻ 
như ý, bởi sức khoẻ người lao động cần được thể hiện trong cả thời gian làm 
việc tại nước ngoài. Điều này rất khó khăn do lao động làm việc tại nước 
ngoài thường có những thay đổi về sức khoẻ khi phải làm việc và có cuộc 
sống không như trong nước, vì vậy các doanh nghiệp khi tuyển lao động thì 
cần tuyển chọn thật kỹ càng vấn đề sức khoẻ để tránh khỏi những điều đáng 
tiếc xảy ra ví dụ như lao động bị trả về nước vì vấn đề sức khoẻ. 
Chất lượng nguồn lao động xuất khẩu là yếu tố được các nhà đối tác quan 
tâm hàng đầu khi tiếp nhận lao động xuất khẩu. Nó quyết định khả năng 
cạnh tranh của các doanh nghiệp và các công ty tham gia xuất khẩu lao 
động, đồng thời quyết định đến sự thành công hay thất bại của hoạt động 
xuất khẩu lao động. Khi mà chất lượng lao động không được chú ý đến thì 
hiệu quả công việc sẽ không đạt kết qủa như mong muốn. Không chỉ đối với 
lao động nói chung mà bất kỳ một lao động trong ngành nghề cụ thể nào 
cũng cần có tay nghề, có trình độ chuyên môn cao. Vì vậy khi lao động đủ 
điều kiện đi xuất khẩu lao động phải là lao động có trình độ chuyên môn, có 
tay nghề, có thể đáp ứng công việc kỹ thuật cao, là lao động có phẩm chất 
đạo đức, có tác phong làm việc tốt... Đây không chỉ là đòi hỏi của thị trường 
lao động, của nước tuyển lao động, mà nó là xu thế khách quan khi mà công 
nghệ kỹ thuật cao đang chiếm đại đa số công nghệ sản xuất của các nước 
trên thế giới. Kinh nghiệm thế giới đã chỉ ra rằng, ở đâu chuẩn bị được tốt 
lực lượng lao động, có chất lượng cao phù hợp sẽ nhanh chóng chiếm giữ 
được thị trường, dành thắng lợi trong cạnh tranh với các đối thủ khác. Vì vậy 
trước khi đi làm việc tại nước ngoài, người lao động cần được đào tạo toàn 
 diện cả về ngoại ngữ, trình độ chuyên môn kỹ thuật, kiến thức về pháp luật 
và sự hiểu biết khác. 
II. Tổng quan về tình hình xuất khẩu lao động của Việt Nam trong giai đoạn 
2000-2004. 
Có thể nói trong những năm qua, xuất khẩu lao động của Việt Nam đã 
được mùa lớn. Từ năm 1998-2003 chúng ta đã đưa được trên 223.000 lao 
động đi làm việc ở nước ngoài, nâng tổng số lao động làm việc tại nước 
ngoài lân gần 40 vạn người, làm việc trên 40 nước và vùng lãnh thổ và 
chúng ta cũng đã có nhiều thoả thuận, ký kết hiệp định hợp tác lao động với 
một số nước như: Liên Bang Nga, Cộng hoà Séc, CHDCND Lào… 
Hiện nay nước ta có khoảng 163 doanh nghiệp tham gia xuất khẩu lao 
động , trong đó có 18 doanh nghiệp chuyên doanh, 147 doanh nghiệp sản 
xuất, kinh doanh ngành nghề được bổ sung chức năng xuất khẩu lao động. 
Số lao động đưa đi ngày càng tăng mạnh trong những năm gần đây. Năm 
2000 cả nước đưa đi được 31.500 lao động, năm 2001 là 36.168 lao động, 
năm 2002 là 46.122 lao động và năm 2003 là 75.500 lao động. 
 Có thể thấy các năm sau hoạt động xuất khẩu lao động đã tăng dần so với 
các năm trước. Và năm 2003 là năm bội thu của xuất khẩu lao động khi số 
lượng lao động xuất khẩu đạt được là 75.500 người, tăng so với năm 2002 là 
64,13%, và vượt kế hoạch là 50%. Trong đó các thị trường trọng điểm ngày 
càng ổn định và phát triển: Malaysia (40.000 người), Đài Loan (23.000 
người), Hàn Quốc( 4.000 người), Nhật Bản ( 2.000 người). Tuy vậy năm 
2004 lại có biểu hiện của sự chững lại, nguyên nhân ở đây là sự ảnh hưởng 
của chất lượng lao động. Các lao động của Việt Nam đang dần làm xấu hình 
ảnh của mình bằng các vụ việc như: bỏ trốn hay bị đuổi về nước vì các 
nguyên nhân khác nhau. 
Xuất khẩu lao động thời gian qua cũng mang lại hiệu quả kinh tế đáng 
khích lệ, góp phần quan trọng trong việc cải thiện đời sống cho người lao 
động và tăng thu ngoại tệ cho nhà nước.( Số liệu trong bảng sau). 
Sè l î ng lao ®éng cña ViÖt Nam trong c¸ c n¨m.
31500
36168
46122
75500
62300
0
10000
20000
30000
40000
50000
60000
70000
80000
2000 2001 2002 2003 2004
N¨ m
N
g
êi Sè lao ®éng 
Năm 
Số lao động xuất khẩu 
( người). 
Số ngoại tệ thu về 
(1000. USD). 
1995 10.050 77.900 
1996 12.660 100.800 
1997 18.470 129.200 
1998 12.240 148.300 
1999 20.700 150.800 
2000 31.500 155.460 
2001 36.168 160.600 
2002 46.122 165.458 
2003 75.500 1.102.300 
(chỉ tính số thu ngoại tệ qua các tổ chức lao động đưa đi). 
( Trích số liệu: Tạp chí Kinh tế châu Á- Thái Bình Dương, Số 2(31), 4- 
2004. Phạm Thị Hồng Điệp) 
Thu nhập của lao động Việt Nam ở nước ngoài gửi về ước tính khoảng 1,5 
tỷ USD. 
Đối với nhà nước, mức đầu tư chi phí quản lý nhà nước bình quân cho 
một lao động mỗi năm khoảng 30 USD và thu về cho ngân sách khoảng 36,7 
USD, quả là rất có lời. Tính chung người lao động đi làm ở nước ngoài bình 
quân thu nhập bằng 10-15 lần so với thu nhập trong nước. Do vậy, xuất khẩu 
lao động là cơ hội tốt để người lao động tích luỹ vốn, cải thiện đời sống và 
điều kiện làm việc của bản thân và gia đình họ. 
Về công tác đào tạo, do nhu cầu thị trường tiếp nhận lao động, 5 năm trở 
lại đây công tác dạy nghề đã được đặt đúng vị trí của nó. Đến nay, nước ta 
đã xây dựng được một mạng lưới dạy nghề bao gồm 157 trường dạy nghề 
 công lập; 70 trường dạy nghề ngoài công lập, 170 trường trung học chuyên 
nghiệp, các trường cao đẳng và dạy nghề; 148 trung tâm dạy nghề; 150 trung 
tâm dịch vụ việc làm; 160 cơ sở đào tạo giáo dục lao động xuất khẩu thuộc 
các doanh nghiệp. Để đáp ứng được nhu cầu lao động trong nước và xuất 
khẩu đi đi nươc ngoài cần phải có một chiến lược đào tạo tương ứng, nhất là 
chiến lược đào tạo lao động kỹ thuật cao phục vụ cho công tác xuất khẩu lao 
động cho các năm tiêp theo. 
Trong 5 năm qua, chúng ta đã đưa lao động đi làm việc tại nước ngoài 
được khoảng 200 ngàn lao động. Trong đó lao động phổ thông chiếm tỷ lệ 
khá cao (65%), còn lại là lao động kỹ thuật. Có thể thấy trong cả nước chất 
lượng lao động xuất khẩu còn rất thấp, tỷ lệ lao động phổ thông còn nhiều. 
Mặc dù được phía bạn khen gợi, đánh giá khá tốt về chất lượng cũng như 
đức tính cần cù, chịu khó. Tuy nhiên cũng có không ít người lao động bị trả 
về, trong đó lý do đào tạo chiếm một phần đáng kể. Yếu kém về chất lượng 
lao động cũng đã được thể hiện từ lâu. Công tác đào tạo của nước ta còn rất 
yếu và lạc hậu. Ngoài ra, phải kể đến việc các doanh nghiệp hoạt động trong 
lĩnh vực còn chưa chú trọng vào nâng cao chất lượng lao động của mình. 
Nhìn ra các nước trong khu vực, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, thì 
xuất khẩu lao động của nước ta còn rất nhỏ bé. Số lượng lao động làm việc 
thường xuyên tại nước ngoài của Việt Nam chỉ bằng một vài phần trăm số 
lao động thường xuyên làm việc ở nước ngoài của các nước có dân số chỉ 
bằng nửa dân số nước ta. Các hình thức và các lĩnh vực nghề tham gia xuất 
khẩu cũng đơn điệu, phần lớn là các nghề đơn giản. 
Nhưng nhìn chung, chúng ta đã tháo gỡ được cơ chế cho người lao động 
vay vốn đi làm việc tại nước ngoài, giúp cho những người trước đây chưa có 
điều kiện được tham gia xuất khẩu lao động. Điều này cũng đặc biệt có ý 
 nghĩa đối với lao động ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa, đưa xuất khẩu lao 
động thành một hướng xoá đói giảm nghèo có hiệu quả cao. 
- Công tác thanh tra, kiểm tra đã được nâng cao chất lượng, góp phần quan 
trọng trong công tác quản lý Nhà nước về xuất khẩu lao động, hạn chế vi 
phạm của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động, góp phần tích cực ngăn 
ngừa các hành vi lừa đảo của các tổ chức, cá nhân ngoài xã hội. 
- Một mặt nữa cần nói đến là vấn đề năng lực của các doanh nghiệp đã 
được nâng cao một bước. Đa số các doanh nghiệp đã hoạt động theo đúng 
các quy định của pháp luật và sự điều hành của nhà nước. Bước đầu xây 
dựng được một số doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, tạo được uy tín với 
đối tác và với người lao động, đưa được số lượng lớn lao động đi làm việc 
tại nước ngoài. 
- Ngoài ra, công tác thông tin tuyên truyền đã được đổi mới, góp phần nâng 
cao nhận thức và khắc phục hiện tượng thông tin một chiều cũng như tình 
trạng người lao động thiếu thông tin dẫn đến bị lừa đảo. Cơ quan quản lý 
nhà nước đã nghiên cứu và ban hành kịp thời nhiều ấn phẩm thông tin về 
điều kiện thị trường, luật lao động và sử dụng lao động nước ngoài, xuất 
nhập cảnh, phong tục tập quán, đất nước con người của các nước nhận lao 
động để cung cấp cho các doanh nghiệp xuất khẩu lao động và các cơ quan 
thông tin đại chúng để phổ biến rộng rãi. Các phương tiện thông tin đại 
chúng đã góp phần tích cực trong việc phổ biến các chủ trương chính sách 
về xuất khẩu lao động, phát hiện, đấu tranh góp phần tích cực ngăn chặn cac 
hiện tượng tiêu cực. Nét mới của các thông tin trong các năm qua về xuất 
khẩu lao động là đã chú ý đưa thông tin về cơ sở bằng việc phát hành bộ tài 
liệu về xuất khẩu lao động và danh sách các doanh nghiệp xuất khẩu lao 
động đến 500 huyện, thị và phát hành 200.000 tờ rơi cung cấp các điều cần 
 biết cho người lao động muốn đi làm việc ở nước ngoài về tận các phường, 
xã trong cả nước. 
 Tuy nhiên nguồn lao động chất lượng còn thấp, tình hình đào tạo lao động 
xuất khẩu chưa được chú trọng đúng mức thể hiện: 
- Lao động của ta dồi dào về số lượng, có ưu điểm: thông minh, cần cù, có 
trình độ học vấn cao so với nhiều nước. Nhiều người trước khi xuất khẩu lao 
động đã chủ động đầu tư học ngoại ngữ, bồi dưỡng tay…để có thể vượt qua 
được các đợt kiểm tra, tuyển chọn. Công tác giáo dục định hướng trước khi 
đi ngày càng được chú trọng nhằm từng bước cải thiện chất lượng nguồn lao 
động xuất khẩu. Hệ thống các trường đào tạo, giáo dục định hướng đã được 
hình thành ở các Bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp. Tuy vậy phải nói 
rằng trong lúc các nước ở khu vực có tỷ lệ lao động qua đào tạo khoảng 40-
50% so với tổng lực lượng lao động, ở nước ta tỷ lệ này còn rất thấp, chỉ 
chiếm khoảng 20%. Hiện nay còn thiếu lao động có trình độ chuyên môn kỹ 
thuật, đặc biệt và trước hết là thiếu công nhân lành nghề cho nhu cầu trong 
nước và xuất khẩu lao động. 
- Ngoài ra tình trạng người lao động phá bỏ hợp đồng ra làm việc bất hợp 
pháp tại một số thị trường như: Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản tuy có chiều 
hướng giảm nhưng vẫn ở mức cao. Công tác quản lý lao động của một số 
doanh nghiệp chưa tốt. Thông tin về xuất khẩu lao động đến vùng sâu, vùng 
xa còn hạn chế. Công tác quản lý ngoài nước vẫn còn nhiều bất cập. Nguyên 
nhân ở đây chủ yếu do nhận thức của người lao động. Họ chỉ nghĩ đến lợi 
ích trước mắt mà không nghĩ đến lợi ích lâu dài, thiếu ý thức chấp hành kỷ 
luật, ý thức tôn trọng cam kết với doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp cũng 
chưa thực hiện tốt công tác tuyển chọn, giáo dục định hướng, quản lý lao 
động ở nước ngoài, chưa kịp thời giải quyết các phát sinh trong quá trình 
thực hiện hợp đồng, chế tài xử lý cũng chưa mạnh. 
 III. Nâng cao chất lượng lao động xuất khẩu tại các doanh nghiệp hoạt động 
trong lĩnh vực xuất khẩu lao động. 
1. Các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng lao động xuất khẩu. 
Chất lượng lao động xuất khẩu là một yếu tố quan trọng tác động trực 
tiếp tới xuất khẩu lao động. Hiện nay các doanh nghiệp đang cố gắng tìm 
cách tác động trực tiếp vào các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng lao động 
xuất khẩu để có thể phát huy tối đa lợi thế sẵn có của mình tăng sức cạnh 
tranh ngày càng gay gắt trên thị trường xuất khẩu lao động. Các yếu tố đó 
được chia thành các nhóm sau: 
1.1. Những yếu tố thuộc về người lao động. 
Khi xét đến các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng lao động xuất khẩu thì 
không thể không nói tới trình độ học vấn, phẩm chất đạo đức và sức khoẻ 
của người lao động… 
 Trình độ học vấn của người lao động ảnh hưởng rất lớn đến khả năng tiếp 
thu, rất khó cho họ có thể học và làm được những ngành kỹ thuật cao khi mà 
trình độ còn hạn chế. Người lao động nước ta chủ yếu xuất thân từ nông 
thôn, có trình độ thấp. Do đó còn khó khăn trong làm việc khi tiếp cận các 
ngành có kỹ thuật cao. Đây là một hạn chế khi cạnh tranh với lao động các 
nước trong khu vực và trên thế giới. Tuy vậy bù lại người lao động Việt 
Nam rất cần cù và chịu khó, “ cần cù bù thông minh” và có thể nói các nước 
tiếp nhận lao động của Việt Nam rất có cảm tình đối với lao động nước ta vì 
tính cần cù chịu khó này. Chúng ta phải chấp nhận một thực tế là những 
người lao động có trình độ, nhận thức cao đều có được việc làm tốt ổn định 
trong nước chứ không có ý định lập nghiệp tại nước ngoài nên những người 
lao động xuất khẩu nói chung đều yếu kém về trình độ, khả năng nhận thức 
còn hạn chế, vì vậy chất lượng lao động nước ta trong những năm qua còn 
yếu chưa đáp ứng được yêu cầu của nước tiếp nhận. Khi mà trình độ người 
 lao động thấp, thì chất lượng lao động cũng thấp và khả năng cạnh tranh là 
rất yếu, dẫn đến thua kém các nước khác. Do đó, công tác tuyển chọn lao 
động phải được chú ý và quan tâm nhiều hơn để chọn lọc được những lao 
động đủ trình độ, nhận thức đưa đi làm việc tại nước ngoài, để đáp ứng được 
yêu cầu, tạo thêm niềm tin cho phía đối tác nước ngoài khi tuyển chọn lao 
động Việt Nam. 
 Phẩm chất đạo đức và sức khoẻ ảnh hưởng đến khả năng xuất khẩu lao 
động của doanh nghiệp là do nó có ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng lao 
động xuất khẩu. Khi mà các yếu tố này không được đảm bảo thì chất lượng 
lao động sẽ không đáp ứng được yêu cầu của phía đối tác. Nên đây là các 
yếu tố có tác động đáng kể đến chất lượng lao động của doanh nghịêp. Do 
tính chất quan trọng trên thì các yếu tố này được coi là các tiền đề quan 
trọng trong công tác nâng cao chất lượng lao động xuất khẩu của doanh 
nghiệp. Vì vậy khi xây dựng các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng lao 
động xuất khẩu thì yếu tố đầu tiên cần được quan tâm của người lao động là 
phẩm chất đạo đức và sức khoẻ của người lao động, đó cũng là cơ sở để hoạt 
động xuất khẩu lao động có hiệu quả cao hơn. 
1.2. Những yếu tố thuộc về doanh nghiệp. 
1.2.1. Công tác tuyển dụng lao động xuất khẩu. 
Hiện nay công tác tuyển dụng lao động xuất khẩu đang được các doanh 
nghiệp xuất khẩu lao động quan tâm và ưu tiên phát triển. Nó đóng vai trò 
quyết định đến chất lượng lao động xuất khẩu. Các biện pháp tuyển dụng 
đang được chủ trọng và hoàn thiện. Với các biện pháp tuyển dụng hiện nay 
Việt Nam cũng chưa đáp ứng được nhu cầu tuyển dụng và cung tuyển dụng 
của phía đối tác và người lao động. Hiện nay nước ta đang áp dụng các biện 
pháp tuyển dụng như: tuyển qua các trung tâm dịch vụ việc làm, tuyển trực 
 tiếp qua các địa phương, hay qua giới thiệu của những người đã đi xuất khẩu 
lao động. 
Các phương pháp tuyển chọn được thực hiện hợp lý, đúng quy tắc cũng 
sẽ giúp cho công tác đào tạo chất lượng lao động xuất khẩu dễ dàng hơn. Đó 
chính là tiền đề để doanh nghiệp hoặc cơ quan xuất khẩu căn cứ vào để phân 
chia người lao động vào các ngành nghề hợp lý, phù hợp với trình độ chuyên 
môn của người lao động. Do đó có thể nói công tác tuyển chọn có ảnh 
hưởng rất lớn đến chất lượng người lao động xuất khẩu. Công tác tuyển 
chọn cần được chú ý và hoàn thiện để góp phần nâng cao chất lượng lao 
động. 
1.2.2. Công tác đào tạo lao động xuất khẩu. 
Đây là công tác không thể thiếu trong các doanh nghiệp hoạt động trong 
lĩnh vực xuất khẩu lao động. Đào tạo lao động là khâu quan trọng và mục 
đích của nó là giúp người lao động có thêm trình độ chuyên môn nghiệp vụ, 
ngoại ngữ hiểu thêm về văn hoá nước đến lao động. Ngoài mục tiêu trang bị 
cho người lao động một số kiến thức nhất định về ngoại ngữ, đào tạo còn 
quán triệt cho họ hiểu kỹ và nắm vững nội dung hợp đồng, nhất là các điều 
khoản về quyền lợi, nghĩa vụ, pháp luật, phong tục tập quán của nước tiếp 
nhận lao động. Cũng trong thời gian đào tạo, cần tiếp tục sàng lọc và loại bỏ 
dần những phần tử có thái độ, tác phong sinh hoạt và suy nghĩ không phù 
hợp với việc đi xuất khẩu lao động như lười biếng, vô kỷ luật, ý thức tổ chức 
kém…Bên cạnh chương trình đào tạo giáo dục định hướng theo yêu cầu của 
Bộ lao động, thì doanh nghiệp xuất khẩu lao động cần biên soạn giáo trình 
riêng phù hợp sát với thực tế với từng loại hình và trình độ lao động khác 
nhau để người học dễ tiếp thu. Việc đào tạo tốt sẽ nâng cao chất lượng lao 
động được tuyển dụng từ đó làm tăng khả năng cạnh tranh của doanh 
nghiệp. Do đó đây là yếu tố sống còn đối với doanh nghiệp, vì vậy các 
 doanh nghiệp xuất khẩu lao động cần chú ý và quan tâm hơn đến công tác 
đào tạo. Việc áp dụng các biện pháp nhằm nâng cao công tác đào tạo cũng là 
hướng nhằm giải quyết vấn đề chất lượng lao động xuất khẩu. 
 Bức tranh chung của công tác đào tạo ở nước ta là nhỏ, yếu và lạc hậu. 
Có quá ít cơ sở đáp ứng được công tác đào tạo phù hợp với yêu cầu chất 
lượng, không đủ khả năng đáp ứng nhu cầu về số lượng cũng như chất lượng 
lao động có hàm lượng chất xám cao cho các ngành sản xuất, đặc biệt là các 
ngành mũi nhọn của các nước. Hơn nữa lao động của Việt Nam xuất khẩu 
hiện nay có trình độ chuyên môn và ngoại ngữ còn hạn chế. Nguyên nhân là 
do ở nước ta chưa có một hệ thống chuẩn trường đào tạo chuyên nghiệp lao 
động xuất khẩu để tạo nguồn, đây là khó khăn đối với các doanh nghiệp xuất 
khẩu lao động. Hiện nay các doanh nghiệp này đang rất chú trọng vào đào 
tạo để giải quyết đầu ra cho lao động và tăng tính cạnh tranh cho doanh 
nghiệp. Tuy vậy tại các doanh nghiệp hiện nay công tác này vẫn còn nhiều 
hạn chế và khó khăn do nhiều yếu tố, nên trong tương lai cần khắc phục và 
quan tâm đúng mực để công tác này đạt hiệu quả cao nhất. 
1.2.3.Số lượng, trình độ, sự nhiệt tình và lòng yêu nghề của đội ngũ cán bộ 
giảng dạy. 
Chất lượng lao động cũng bị ảnh hưởng không nhỏ bới các yếu tố như: 
trình độ, sự nhiệt tình và lòng yêu nghề của cán bộ giảng dạy tại các doanh 
nghiệp, công ty xuất khẩu lao động, hay tại các trung tâm dạy nghề. Các yếu 
tố này cũng góp phần nâng cao chất lượng lao động một cách đáng kể. Khi 
mà lòng yêu nghề được quan tâm nó kéo theo cả sự nhiệt tình trong công 
việc, khi đó thì công việc sẽ được hoàn thành một cách xuất sắc. Tuy vậy 
hoàn thành công việc mà không chú ý đến hiệu quả của nó thì cũng không 
được, đây chính là vấn đề trình độ của người tham gia công việc này. Do đó 
khi kết hợp được tất cả các yếu tố trên thì người làm việc nói chung, cán bộ 
 giảng dạy nói riêng sẽ tạo ra được những sản phẩm đạt tiêu chuẩn và cạnh 
tranh tốt với các sản phẩm khác trên thị trường. Sản phẩm của người cán bộ 
giảng dạy ở đây chính là người học sinh của mình. Và trong các doanh 
nghiệp xuất khẩu lao động thì sản phẩm này chính là những người lao động. 
Do đó chất lượng lao động xuất khẩu chịu tác động rất lớn của các yếu tố 
này. Một khi các yếu tố này không được chu ý đến thì các sản phẩm chỉ đạt 
yêu cầu về số lượng mà không đạt yêu cầu về chất lượng. Và hiện nay, tại 
các doanh nghiệp hay các công ty xuất khẩu lao động không chỉ bồi dưỡng 
đào tạo cho người lao động xuất khẩu, mà họ còn chú trọng bồi dưỡng cho 
cán bộ giảng dạy để nâng cao trình độ, một biện pháp rất tốt để nâng cao 
chất lượng lao động xuất khẩu. Thiếu một số lượng cán bộ tối thiểu phục vụ 
cho hoạt động xuất khẩu lao động thì doanh nghiệp khó có thể tìm kiếm thị 
trường, ký kết hợp đồng và triển khai hoạt động xuất khẩu lao động sau khi 
được cấp giấy phép. Vì vậy các yếu tố trên có ảnh hưởng rất lớn đến chất 
lượng lao động của các doanh nghiệp hay các công ty xuất khẩu lao động 
hiện nay. 
1.2.4. Tiềm lực kinh tế của doanh nghiệp. 
Để có thể đào tạo, giáo dục người lao động tốt thì doanh nghiệp hay công 
ty hoạt động xuất khẩu lao động phải có được các cơ sở vật chất tốt, hiện 
đại, phải đầu tư mạnh vào công tác tuyển chọn, quản lý lao động…khi đó cái 
cần hơn cả là tiêm lực kinh tế của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp hay công 
ty mạnh về kinh tế thì dễ dàng hơn trong đầu tư vào xây dựng cơ sở vật chất 
kỹ thuật, vào đào tạo và quản lý lao động, khi đó chất lượng lao động sẽ 
được cải thiện hơn so với chất lượng lao động một doanh nghiệp hay công ty 
khác không được đầu tư. Bên cạnh đó, đầu tư cho đào tạo như cơ sở vật 
chất, bàn ghế, nơi ăn ở cho học viên cũng sẽ tạo được lòng tin và sự yên tâm 
cho người lao động, để họ quyết tâm học tập và làm việc hiệu quả hơn. Vì 
 vậy, có thể nói doanh nghiệp có tiềm lực kinh tế mạnh sẽ là một lợi thế để 
cạnh tranh với các doanh nghiệp khác do chất lượng lao động được nâng 
cao. 
1.2.5. Quản lý lao động tại nước tiếp nhận. 
Đây là một chức năng của quá trình quản lý. Sau khi tổ chức thực hiện 
đưa lao động ra nước ngoài làm việc thì doanh nghiệp cần có những biện 
pháp để quản lý họ bằng nhiều cách khác nhau như: quản lý từ xa, cử người 
sang tận nước bạn để quản lý…Tất cả nỗ lực này chỉ nhằm một mục đích tạo 
cho người lao động một khuôn khổ, quy tắc nhất định khi sống và làm việc 
tại nước ngoài để tạo được niềm tin vào người lao động của chủ sử dụng và 
nâng cao chất lượng của chính người lao động. 
1.3. Những yếu tố thuộc về môi trường hoạt động của người lao động và 
doanh nghiệp. 
Các yếu tố này bao gồm: phòng học và thực hành cho người lao động, 
các hoạt động vui chơi giải trí, các yếu tố về cạnh tranh để nâng cao chất 
lượng lao động xuất khẩu giữa các doanh nghiệp với nhau…Tất cả các yếu 
tố trên tuy nhỏ nhưng cũng rất cần thiết cho người lao động và doanh 
nghiệp, nó là yếu tố không thể bỏ qua trong chiến lược nâng cao chất lượng 
lao động xuất khẩu của mỗi doanh nghiệp. Đây là những yếu tố tác động 
khách quan đối với người lao động nhưng nó lại là vấn đề mang tính chủ 
quan đối với mỗi doanh nghiệp. Do vậy, chất lượng lao động sẽ được cải 
thiện khi mà các yếu tố này được quan tâm đúng mức. 
2. Các giải pháp của Nhà nước Việt Nam nhằm nâng cao chất lượng nguồn 
lao động xuất khẩu. 
Mặc dù đạt được nhiều thành tích và những kết quả đáng khích lệ, 
khoảng thời gian ngắn hội nhập các lao động của Việt Nam đều được phía 
bạn tín nhiệm, khen gợi, đánh giá khá tốt về chất lượng cùng đức tính cần 
 cù, chịu khó. Tuy nhiên cũng có không ít người lao động bị trả về nước, 
trong đó lý do chất lượng lao động chiếm phần đáng kể. Yếu kém về chất 
lượng lao động được thể hiện từ lâu. Do đó Nhà nước cũng đã có những giải 
pháp mang tính vĩ mô, tác động vào các doanh nghiệp hay trực tiếp đến xuất 
khẩu lao động để nhằm phần nào nâng cao chất lượng lao động xuất khẩu 
của Việt Nam. Và dưới đây là một số giải pháp tổng quan: 
- Coi đào tạo lao động xuất khẩu là một nhiệm vụ quan trọng của lĩnh vực 
dạy nghề, vì vậy phải có định hướng đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ 
thuật, phát triển giáo viên, bổ sung chương trình đào tạo cho một số cơ sở 
dạy nghề để nâng cao chất lượng đào tạo góp phần tạo nguồn lao động có 
chất lượng cho xuất khẩu. 
- Chỉ đạo các địa phương và doanh nghiệp mở rộng mô hình gắn trách 
nhiệm của gia đình, cộng đồng, doanh nghiệp và người lao động ngay từ khi 
tuyển chọn đến quá trình quản lý thực hiện hợp đồng. 
- Nghiên cứu ban hành các chính sách, cơ chế khuyến khích các cơ sở đào 
tạo, doanh nghiệp và người lao động cùng đầu tư, chuẩn bị nguồn lực phục 
vụ cho xuất khẩu lao động theo yêu cầu sử dụng lao động của thị trường 
ngoài nước. 
- Kiểm tra, giám sát đối với hoạt động tuyển chọn và giáo dục định hướng 
trước khi lao động sang làm việc ở nước ngoài đối với các doanh nghiệp 
cung ứng lao động. 
- Tăng cường đầu tư xây dựng một số trường trọng điểm ở các vùng lãnh 
thổ…để đào tạo lao động có trình độ cao các nghề có nhu cầu xuất khẩu lao 
động. 
- Nâng cao năng lực dạy nghề của các trường được giao nhiệm vụ đào tạo 
lao động xuất khẩu của Tổng cục dạy nghề. 
 - Phát triển mạng lưới trung tâm dạy nghề ở các huyện, chú trọng khu vực 
nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người tạo cơ hội cho lao động 
ở các vùng này có thể tham gia xuất khẩu lao động. 
- Tăng cường hợp tác quốc tế trong đào tạo lao động xuất khẩu, nhất là các 
nước thường xuyên tiếp nhận lao động Việt Nam đến làm việc. 
- Nhà nước đã có những thoả thuận và cơ chế phối hợp chặt chẽ với nước 
sở tại để quản lý lao động, giải quyết các bất đồng, tranh chấp nếu có, bảo vệ 
nhân phẩm và lợi ích chính đáng hợp pháp của người lao động Việt Nam tại 
nước ngoài. Đó là cơ sở để lao động nước ta yên tâm làm ăn, không lo lắng 
vì bị sa thải một cách vô lý, tuỳ tiện. 
Mục tiêu của Việt Nam trong mấy năm tới là đưa càng nhiều lao động ra 
nước ngoài làm việc càng tốt. Để đạt được mục tiêu này Nhà nước cần tích 
cực chuẩn bị nguồn lao động, không thể chỉ dựa vào nguồn lao động đào tạo 
có sẵn mà phải chuẩn bị nguồn thông qua một kế hoạch đào tạo chủ động, 
đồng thời kết hợp các biện pháp trên để có được kết quả như mong muốn. 
Tuy vậy không phải cứ áp dụng một cách máy móc chỉ quan tâm đến kết quả 
bề nổi mà không chú ý đến chất lượng lao động lâu dài, vì vậy Nhà nước 
phải tăng cường giám sát công việc xuất khẩu lao động hơn nữa, đi đôi với 
các biện pháp hợp lý để nâng cao chất lượng lao động trong thời gian tới, 
thời gian của hội nhập và phát triển. 
3. Các giải pháp của doanh nghiệp nhằm nâng cao chất lượng lao động xuất 
khẩu. 
Doanh nghiêp hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu lao động là một trong 
những yếu tố rất quan trọng giúp hoạt động này đạt được những thành tựu 
trong những năm qua. Đây là cầu nối quan trọng giữa nhà nước và người lao 
động xuất khẩu. Tuy vậy để có được những kết quả như mong muốn, cùng 
sự kết hợp chặt chẽ với nhà nước và các biện pháp của riêng mình thì các 
 doanh nghiệp này mới hy vọng có được những kết quả khả quan hơn. Đạt 
được càng nhiều hợp đồng lao động thì doanh thu càng cao, nhưng để có 
nhiều hợp đồng hơn thì chất lượng lao động xuất khẩu là vấn đề mà doanh 
nghiệp cần quan tâm khi tham gia ký kết hợp đồng. Đây cũng là yếu tố giúp 
doanh nghiệp tạo được uy tín với đối tác nước ngoài. Doanh nghiệp đã áp 
dụng nhiều biện pháp để nâng cao chất lượng lao động xuất khẩu và dưới 
đây là một số biện pháp đó: 
- Các doanh nghiệp xuất khẩu lao động căn cứ vào nhu cầu thị trường và 
khả năng của đơn vị, ký kết hợp đồng lập kế hoạch hàng năm và dài hạn, 
phối hợp với các địa phương để chuẩn bị nguồn lao động, đào tạo ngoại ngữ 
và chuyên môn phù hợp với thị trường. Đồng thời cần liên kết với các 
trường dạy nghề để tạo nguồn theo cơ chế các trường cung cấp nguồn, doanh 
nghiệp tạo đầu ra theo nhu cầu của thị trường. 
- Các doanh nghiệp đã lập kế hoạch tuyên truyền các thông tin về nhu cầu, 
điều kiện thị trường, tiêu chuẩn yêu cầu đối với người lao động, để định 
hướng cho người lao động tự học nghề và ngoại ngữ. 
- Kế hoạch đào tạo nghề gắn chặt chẽ hơn với chương trình đào tạo nghề 
của quốc gia tham gia đào tạo nghề cho xuất khẩu lao động, nên mới tận 
dụng được lợi thế về nguồn, cơ sở vật chất và đội ngũ giáo viên dạy nghề. 
- Doanh nghiệp đã đào tạo, bồi dưỡng đủ số lượng và phù hợp với cơ cấu 
ngành nghề để bảo đảm chất lượng số lao động có nghề đi xuất khẩu lao 
động. 
- Chủ động đào tạo, bồi dưỡng lao động có nghề trong các ngành hiện là 
chủ lực có tỷ trọng lớn thường xuyên làm việc ở nước ngoài như: xây dựng, 
cơ khí, điện, điện tử, dệt, may mặc… 
 - Các doanh nghiệp kết hợp chặt chẽ với các cơ sở đào tạo trong việc đào 
tạo lao động xuất khẩu cũng như tạo ra nguồn lực cho công tác đào tạo, 
tuyển dụng lao động. 
- Tuyển chọn và đào tạo tốt trước khi đi, phát hiện kịp thời các lao động 
thiếu ý thức kỷ luật và kiên quyết không tuyển chọn, tăng cường hơn công 
tác tuyển chọn lao động trực tiếp tại các địa phương có sự đảm bảo của 
chính quyền nơi tuyển chọn. 
- Đã có sự tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền về những mặt tích 
cực của việc xuất khẩu lao động, không đưa những thông tin thiếu xác thực, 
tiêu cực làm ảnh hưởng đến sự nghiệp xuất khẩu lao động cũng như tâm lý 
gia đình, xã hội và bản thân của người lao động. 
- Biểu dương, khen thưởng những lao động có thành tích làm việc, đạo đức 
tố để làm gương cho những lao động khác. 
- Các doanh nghiệp thực hiện xuất khẩu lao động công bố công khai trên 
các phương tiện thông tin đại chúng và tại nơi tuyển dụng về số lượng, tiêu 
chuẩn, mức đóng góp, các quyền lợi cũng như trách nhiệm của người lao 
động trước khi làm việc tại nước ngoài để người lao động sẵn sàng tham gia 
lao động, từ đó chất lượng lao động được nâng lên. 
- Chất lượng là nhân tố quyết định số lượng cung ứng lao động và duy trì, 
mở rộng thị trường lao động quốc tế của Việt Nam. Do vậy các doanh 
nghiệp đã xây dựng được hệ thống các tiêu chuẩn tuyển chọn lao động dựa 
trên các yêu cầu chung nhất về học vấn, sức khoẻ, trình độ, tay nghề, đạo 
đức và ý thức tổ chức kỷ luật. Đồng thời, tuỳ thuộc từng nghề, từng nước và 
từng chủ sử dụng khác nhau mà đặt ra những tiêu chuẩn riêng phù hợp. 
Hiện nay sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp xuất khẩu lao động đang 
ngày trở nên gay gắt. Sự cạnh tranh này chủ yếu là sự cạnh tranh về chất 
lượng lao động xuất khẩu. Do đó chỉ có nâng cao được chất lượng lao động 
 xuất khẩu mới có thể đảm bảo cho doanh nghiẹp tồn tại và phát triển. Vì vậy 
bên cạnh chiến lược phát triển lâu dài doanh nghiệp từng bước áp dụng 
mạnh hơn các biện pháp trên để nâng cao chất lượng lao động xuất khẩu và 
thay đổi các biện pháp cho phù hợp với sự thay đổi của thị trường và nhu 
cầu tuyển dụng lao động của đối tác nước ngoài. 
I. Một số kinh nghiệm của Thái Lan trong tuyển dụng và đào tạo nhằm 
nâng cao chất lượng lao động xuất khẩu. 
Xuất khẩu lao động của Thái Lan được bắt đầu vào những năm 70 của 
thế kỷ 20 và ngày càng trở nên sôi động hơn vào cuối thập kỷ 80, khi mà 
nhu cầu về lao động của các nước công nghiệp phát triển và đặc biệt là các 
nước công nghiệp mới phát triển nổi lên ở Đông Nam á ngày càng tăng do 
sự mất cân đối giữa phát triển nguồn nhân lực với phát triển các ngành sản 
xuất ở các nước này. 
1. Hoạt động tuyển dụng. 
Luật lao động và việc làm của Thái Lan ban hành năm 1968, được sửa 
đổi vào những năm 1985 hiện vẫn là cơ sở pháp lý cơ bản cho hoạt động 
tuyển dụng lao động đi nước ngoài của Thái Lan. Hình thức tuyển dụng mà 
Thái Lan hay áp dụng là tuyển dụng trực tiếp qua bộ Lao động và phúc lợi 
xã hội Thái Lan (MLSW). 
Đây là hình thức tuyển dụng có đảm bảo nhất đối với việc làm và quyền 
lợi của người lao động khi lao động ở nước ngoài. Các tổ chức của MLSW 
đóng vai trò là cầu nối giữa người cần sử dụng lao động và người lao động. 
Các thông tin về lao động và hợp đồng lao động tại các nước là có trước 
được MLSW thông báo rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng và 
với nhiều hình thức khác. Với phương thức tuyển dụng này, người lao động 
sẽ có cơ hội lựa chọn công việc có lợi cho mình nhiều hơn do nắm được chi 
tiết các thông tin có liên quan. Đây là loại hình tuyển dụng cho người lao 
 động sử dụng dịch vụ sẽ có cơ hội nhiều hơn để chọn lựa về công việc. Nếu 
người lao động không đáp ứng được một trong các điều kiện, ví dụ như sức 
khoẻ hay chuyên môn thì sẽ không đươc đi làm việc tại nước ngoài. Đây là 
hình thức hạn chế nhứng lao động có trình độ và sức khoẻ kém đảm bảo 
được chất lượng lao động khi đi xuất khẩu. 
2. Hoạt động đào tạo. 
Tại Thái Lan hoạt động đào tạo lao động xuất khẩu rất được quan tâm. 
Tuy lao động Thái Lan xuất phát chủ yếu từ nông thôn có trình độ vẫn còn 
thấp nhưng qua đào tạo lao động Thái vẫn có đủ trình độ và chuyên môn làm 
việc tại nước ngoài. Việc liên hệ với các trung tâm dạy nghề mở các lớp 
giảng chuyên môn và định hướng giáo dục cho người lao động đã tạo được 
cơ sở để dạy các ngành nghề kỹ thuật cao. Đây là một biện pháp mang tính 
lâu dài, xây dựng cho người lao động nền tảng tiếp thu những kỹ thuật cao 
và hiện đại. Bên cạnh đó, trong quá trình đào tạo người lao động được quản 
lý rất chặt chẽ trong khuôn khổ để đảm bảo chất lượng giảng dạy và giáo 
dục. Việc Thái Lan gia tăng dạy cac nghề kỹ thuật cao cũng là biện pháp tiếp 
cận đến thị trường khó tính của các nước tiếp nhận lao động. 
3. Công tác quản lý lao động và giải quyết tranh chấp phát sinh. 
Hiện nay, Thái Lan đang trở thành một trong những nước xuất khẩu lao 
động đạt hiệu quả cao trong khu vực. Không phải vì họ có nguồn lao động 
dồi dào, học vấn cao, mà Thái Lan có hệ thống quản lý lao động bên nước 
ngoài là rất tốt. Các chế tài xử phạt đối với các lao động vi phạm hợp đồng 
đều được xử lý một cách nghiêm khắc. Điều mà tại Việt Nam còn thiếu. Các 
lao động làm việc tại nước ngoài được hưởng nhiều ưu đãi của Chính phủ 
Thái. Thái Lan rất bênh lao động trong các trường hợp xảy ra tranh chấp, tạo 
được niềm tin cho người lao động khi làm việc tại nước ngoài. 
Chương II: Thực trạng chất lượng lao động xuất khẩu và các hoạt động 
nhằm nâng cao chất lượng lao động xuất khẩu tại SELAC. 
I. Phân tích chất lượng lao động xuất khẩu tại Trung tâm dịch vụ và xuất 
khẩu lao động SELAC. 
1. Tổng quan về trung tâm dịch vụ và xuất khẩu lao động SELAC. 
Tên đơn vị : Trung tâm dịch vụ và xuất khẩu lao động. 
Tên giao dịch : SERVICE AND LABOUR EXPORT CENTER. 
Địa chỉ : Tầng 3, Trung tâm dạy nghề Mỹ Đình, Xã Mỹ Đình, 
Huyện Từ Liêm, Hà Nội. 
Điện thoại : 04.7684145 
Fax : 04.7682544 
Email : 
[email protected] 
1.1. Chức năng và nhiệm vụ. 
Trung tâm dịch vụ và xuất khẩu lao động được thành lập với các nhiệm 
vụ chủ yếu sau: 
1. Xuất khẩu lao động. 
 2. Tổ chức đào tạo ngoại ngữ, dạy nghề và giáo dục định hướng cho người 
lao động trước khi đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. 
3. Dịch vụ vận tải đường sông. 
 Trong các nhiệm vụ trên thì nhiệm vụ xuất khẩu lao động được coi là 
nhiệm vụ quan trọng và chủ yếu nhất của trung tâm. Có thể nói đây là nhiệm 
vụ nuôi sống trung tâm. Bên cạnh đó thì tổ chức đào tạo ngoại ngữ và giáo 
dục định hướng cho người lao động cũng rất được chú trọng. Đây là nhiệm 
chỉ được phát sinh khi hoạt động xuất khẩu tiến triển tốt và đang gặp nhiều 
thuận lợi. Nhưng nó lại là khâu trực tiếp tạo nên kết quả cho xuất khẩu lao 
động. Nếu đào tạo ngoại ngữ, dạy nghề và giáo dục định hướng cho người 
lao động mà tốt thì xuất khẩu lao động mới có được hiệu quả cao. Ngoài hai 
nhiệm vụ đó thì trung tâm sẽ phải đảm nhiệm thêm nhiệm vụ là dịch vụ vận 
tải đường sông. Đây là nhiệm vụ mới được bổ xung để mở rộng thêm ngành 
nghề, dịch vụ cho trung tâm. Tuy vậy đây là nhiệm vụ cũng rất khó khăn vì 
địa điểm đang không thuận lợi cho trung tâm, nhưng với sự phát triển của 
các dịch vụ khác hiện nay thì trung tâm vẫn tin tưởng sẽ vượt qua được khó 
khăn này. Bên cạnh đó, hoạt động xuất khẩu lao động đạt được nhiều kết 
quả sẽ là cơ sở để dịch vụ vận tải đường sông phát triển và đạt được nhiều 
thành công. 
1.2. Quyền hạn và trách nhiệm. 
1.2.1. Quyền hạn: 
- Được thu các khoản tiền theo quy định của Bộ lao động – Thương binh 
và Xã hội sau khi đã thoả thuận, thống nhất với người lao động bằng văn bản 
cam kết và xác nhận. 
- Có quyền khấu trừ 1 phần hay toàn bộ tiền lương người lao động gửi tại 
nước lao động, khởi kiện người lao động và gia đình người lao động trước 
 Toà án dân sự trong trường hợp người lao động gây thiệt hại về kinh tế cho 
Trung tâm, thông báo về địa phương (cơ quan) nơi người lao động cư trú và 
làm việc trước khi đi về vi phạm và chấm dứt hợp đồng. 
1.2.2. Trách nhiệm: 
- Trực tiếp tổ chức tuyển chọn, hướng dẫn chương trình tập huấn bắt buộc 
cho người lao động, hoàn thành mọi thủ tục xuất cảnh cho người lao động, 
tổ chức cho lao động đi lao động nước ngoài và phối hợp với công ty môi 
giới nước ngoài quản lý người lao động trong suốt thời hạn hợp đồng. 
- Trả lại lao động giấy tờ về nơi trước khi đi đảm bảo chính sách Việt 
Nam. 
- Trong vòng một tháng kể từ khi về nước, lao động phải đến trung tâm để 
xuất trình hồ sơ hợp lệ đã hoàn thành hợp đồng gồm: 
 Giấy chứng nhận đã hoàn thành hợp đồng của công ty môi giới nước 
ngoài. 
 Hộ chiếu (hoặc giấy thu hồi hộ chiếu). 
 Hợp đồng lao động có thời hạn tại nước ngoài ký giữa trung tâm với 
người lao động. 
- Thu và đóng bảo hiểm xã hội cho lao động tại Việt Nam, lập sổ lao động 
cho người lao động. 
- Trực tiếp xử lý các vấn đề phát sinh từ khi lao động rời Việt Nam đến 
nước ngoài cho đến khi kết thúc hợp đồng và chuyển lao động về nơi trước 
khi đi. 
1.3. Cơ cấu tổ chức. 
Trung tâm được thành lập với mục đích đưa người lao động ngoài miền 
Bắc có nhu cầu đi lao động ở nước ngoài. Đây là đơn vị nhỏ và do tính chất 
công việc nên cơ cấu tổ chức của trung tâm cũng rất đơn giản. Dưới đây là 
sơ đồ cơ cấu: 
1.3.1. Ban giám đốc. 
Do trung tâm còn nhỏ và do tính chất công việc nên Ban giám đốc chỉ 
gồm một giám đốc duy nhất. Đây chính là người đứng đầu của trung tâm là 
đại diện của Tổng công ty Đường sông miền Nam ngoài miền Bắc. Giám 
đốc có quyền chỉ đạo, quyết định tất cả các vấn đề liên quan trực tiếp đến 
trung tâm mà thuộc phạm vi quản lý của mình. Ngoài ra giám đốc cũng là 
người đại diện cho trung tâm trong việc tìm kiếm các thị trường và ký kết 
các hợp đồng lao động. Là người đứng đầu nên giám đốc cũng phải chịu 
trách nhiệm đầu tiên trong việc trung tâm hoạt động không hiệu quả hay làm 
ăn thua lỗ. Vì là đơn vị trực thuộc của Tổng công ty nên trung tâm cũng 
thường xuyên phải báo cáo về cho Tổng công ty mà người phải làm việc này 
chính là giám đốc đại diện cho trung tâm và vì vậy cũng chịu một phần quản 
lý của Tổng công ty. Hiện nay tại trung tâm, do còn phải đi thuê văn phòng 
làm việc nên phòng giám đốc và các phòng ban khác tại trung tâm phải 
chung một không gian. Đây cũng là một thuận lợi nhưng nó cũng đem lại 
không ít bất tiện trong công việc. Dùng chung một không gian thì sẽ tiết 
kiệm được khoảng không và làm cho mọi người làm việc gần nhau hơn, thân 
mật hơn và giải quyết công việc tập thể hơn. Tuy vậy thì nó sẽ làm cho công 
Ban giám 
đốc 
Phòng 
kinh 
doanh 
ị ụ
Phòng kế 
toán tài 
chính 
Phòng tổ 
chức 
hành 
Phòng 
xuất khẩu 
lao động 
 việc sẽ nhiều khi không giữ được bí mật, không phân biệt được các cấp 
trong trung tâm đối với người đầu tiên vào trung tâm. Hiện nay trung tâm 
cũng đang dần khắc phục khó khăn và tìm hướng đi riêng cho mình. Với sự 
lãnh đạo đúng đắn của giám đốc, trong những năm qua trung tâm đã đạt 
được những thành tích rất đáng khích lệ và hứa hẹn một tương lai tươi sáng 
hơn. Đây là động lực cho mọi người trong trung tâm, tạo niềm tin cho đối 
tác. 
1.3.2. Phòng tổ chức hành chính. 
 Phòng tổ chức hành chính của trung tâm có tổng số là 2 người. Phòng 
này có nhiệm vụ quản ly mọi vấn đề liên quan đến nhân sự, tiền lương, tiền 
thưởng, tiền phạt… và các hoạt động vui chơi giải trí cho mọi người trong 
trung tâm. Với số lượng nhân sự không phải là lớn thì trên lý thuyết công 
việc của phòng là không quá vất vả. Nhưng trên thực tế, thì nhân sự của 
trung tâm phải đảm nhiệm nhiều mảng khác nhau như: bên người lao động 
đi Đài Loan khác với người lao động đi Malaysia và khi đó sẽ có hai bộ 
phận nhân viên làm việc ở hai bộ phận này. Đây là cái khó cho trung tâm vì 
phải tìm được nhân viên biết các loại tiếng Đài Loan, Malaysia hay cả Arập. 
Điều này phòng tổ chức phải đảm nhiệm, tuy vậy không thật sự dễ dàng. 
Cùng với sự ổn định của trung tâm, hiện nay phòng tổ chức cũng đang đi 
vào nề nếp. Phòng cũng đã đóng góp không nhỏ vào những thành công của 
trung tâm. Ngoài ra phòng cũng đã tổ chức cho nhân viên trong trung tâm 
các hoạt động thể thao giải trí như các giải bóng bàn, đi tham quan du 
lịch…Đây là hoạt động không thể thiếu tạo thêm sự thoải mái cho nhân viên 
sau những giờ lao động căng thẳng, nó góp phần không nhỏ tạo nên thành 
công. 
1.3.3. Phòng kế toán tài chính. 
 Phòng này có nhiệm vụ theo dõi, kiểm tra, giám sát và phản ánh các 
nghiệp vụ tài chính phát sinh đồng thời có chức năng tư vấn giúp Ban lãnh 
đạo Trung tâm có các quyết định đúng đắn liên quan đến vấn đề tài chính. 
1.3.4. Phòng xuất khẩu lao động. 
Phòng xuất khẩu lao động là phòng trung tâm nhất tại SELAC. Nhiệm vụ 
chính của phòng là hoạt động xuất khẩu lao động. Hoạt động này gồm các 
nội dung sau: 
 * Tìm kiếm thị trường xuất khẩu lao động ngoài nước. 
 * Ký kết và thực hiện hợp đồng. 
 * Hoạt động tuyển sinh, tạo nguồn phục vụ cho hợp đồng đã ký với đối 
tác nước ngoài. 
 * Hoạt động đào tạo ngoại ngữ, giáo dục định hướng. 
 * Thủ tục xuất nhập cảnh. 
 * Quản lý lao động đang làm việc tại nước ngoài và giải quyết các vấn 
đề phát sinh. 
 * Thanh lý hợp đồng, quyết toán tài chính và các chế độ khác với 
những người lao động về nước. 
2. Tình hình xuất khẩu lao động và chất lượng lao động xuất khẩu tại trung 
tâm dịch vụ và xuất khẩu lao động SELAC. 
Nhìn chung trong những năm qua SELAC luôn luôn hoàn thành tốt 
nhiệm vụ của Tổng công ty giao cho và tạo được uy tín rất lớn với phía đối 
tác. Hàng năm SELAC xuất khẩu được khoảng 500-600 lao động sang chủ 
yếu các thị trường quen thuộc như: Đài Loan, Malaysia, ArâpXêut. Tháng 
11 năm 2000, trung tâm mới được thành lập và khi đó chỉ mới xuất khẩu 
được số lao động rất ít. Nhưng các năm sau đó, số lao động đã tăng lên đáng 
kể. Năm 2001 số lao động được đưa đi xuất khẩu là 342 người, năm 2002 số 
lao động là 453 người và đến năm 2003 số lao động xuất khẩu đã lên đến 
 745 lao động, một năm không chỉ là của xuất khẩu lao động của riêng 
SELAC mà là của cả nước. Năm 2004 số lao động là 487 người, và các 
tháng đầu năm 2005 do nhiều yếu tố khách quan mà số lao động được đưa đi 
là không lớn. 
Trong các thị trường đã nói thì số lao động trong các năm là: Đài Loan 
1000 lao động, Malaysia là 1200 lao động và ArâpXêut là 50 người. Một số 
lượng lao động không lớn lắm so với các doanh nghiệp hay các công ty 
chuyên xuất khẩu lao động. Nhưng nếu biết rằng đây là số lao động này chủ 
yếu làm việc nhà, chăm sóc bệnh nhân hay những công việc nhẹ nhàng, thì 
là không nhỏ chút nào và thị trường Đài Loan là thị trường cần nhiều lao 
động như vậy. 
Cũng như xuất khẩu lao động của cả nước, tại SELAC biểu đồ sự thay 
đổi xuất khẩu lao động cũng có kiểu thay đổi như vậy. Năm 2003 cũng là 
năm thành công của SELAC, nhưng ngay sau đó năm 2004 thì số lao động 
lại giảm, đây cũng là năm chất lượng lao động của Việt Nam nói chung và 
của SELAC nói riêng không còn tạo được niềm tin đáng kể của phía nước 
bạn. Vì sao? Có lẽ vì số nhỏ các lao động của Việt Nam và của SELAC 
không còn đủ điều kiện làm việc khi công nghệ sản xuất thay đổi theo chiều 
Sè lao ®éng cña SELAC trong c¸ c n¨ m
342
453
745
487
0
100
200
300
400
500
600
700
800
2001 2002 2003 2004
N¨m
Ngêi
 hướng hiện đại, cũng như sự mong muốn của nhà sử dụng lao động cần 
nhiều lao động có trình độ kỹ thuật cao. Khi đó các lao động không đáp ứng 
được và số lượng lao động giảm là điều dễ thấy. Nói tóm lại, chất lượng 
đang cần nâng lên để làm cho nước bạn tiếp tục có niềm tin thu nhận lao 
động của SELAC. 
Khi đề cập đến chất lượng lao động của SELAC cần nói đến vấn đề đầu 
vào tức là công tác tuyển sinh. Lao động mà trung tâm SELAC thường tuyển 
sinh có trình độ là không cao, thường chỉ là tốt nghiệp hết cấp II. Nguyên 
nhân là do đây là nhu cầu tuyển của Đài Loan, nước này chỉ tiếp nhận lao 
động giúp việc hay các công việc gia đình. Mặt khác, lao động này thường 
dễ bảo, giá cả lại phù hợp nên trung tâm đã tuyển. Đây là nguyên nhân 
không nhỏ làm ảnh hưởng đến chất lượng lao động của SELAC, với chỉ tốt 
nghiệp hết cấp II, trình độ nhận thức còn rất hạn chế do đó không thể được 
tuyển vào những chỗ làm yêu cầu được đào tạo nghề có trình độ cao. Đây 
cũng là nguyên nhân làm cho số lượng lao động xuất khẩu của SELAC 
chiếm đa phần là người còn trẻ, chủ yếu là người lao động không đào tạo 
nghề và vì thế đã làm cho tổng số lao động tại SELAC còn rất khiêm tốn. 
Ngoài ra, số lao động này khi tuyển vào các vị trí làm công việc cần có trình 
độ, cần qua đào tạo nghề thường lại không đảm nhiệm được và hay bị đuổi 
về nước. Trung tâm SELAC có tổng số 15 người bị các thị trường đuổi về 
nước. Đây cũng là bài học không chỉ riêng của SELAC mà còn là của cả 
nước về vấn đề chất lượng lao động. Yêu cầu ngày càng cao của phía các thị 
trường, làm cho các trung tâm, các doanh nghiệp cũng cần tự thay đổi chất 
lượng lao động để đáp ứng được nhu cầu xuất khẩu lao động cái mà họ vẫn 
còn thiếu. 
 Trung tâm chỉ tuyển lao động có độ tuổi tối đa là 30 tuổi. Đây là độ tuổi 
lao động rất tốt để tuyển dụng, với độ tuổi này cũng sẽ đáp ứng được cho 
 Tû lÖ lao ®éng nam n÷ t¹ i SELAC
phía nước tiếp nhận. Nhưng có lẽ, đây cũng là yếu tố có thể xét để phân tích 
chất lượng lao động khi mới tuyển dụng. Với độ tuổi này khi có ý định xuất 
khẩu lao động thường là những người thất nghiệp trong nước, không được 
đào tạo nghề, không có học vấn. Vì vậy tìm đến trung tâm bằng nhiều con 
đường để được xuất khẩu lao động. Nên công tác đào tạo những đối tượng 
này gặp nhiều khó khăn, vì vậy chất lượng của các lao động này thường 
không cao. 
 Để nâng cao khả năng cạnh tranh và cạnh tranh thắng lợi của SELAC 
trên thị trường xuất khẩu lao động quốc tế, trung tâm cần nâng cao chất 
lượng nguồn lao động xuất khẩu. Tuy vậy, cũng cần phải thừa nhận rằng đây 
là điều còn nhiều khó khăn. Một yếu tố nữa cần kể đến là trung tâm chỉ 
tuyển lao động nữ là nhiều. Trong những năm qua số lượng lao động nữ 
được tuyển là khoảng 1.988 lao động, còn lại là lao động nam. Số lao động 
nữ chiếm khoảng 95%, một số lượng lớn là nữ. Một yếu tố nữa ảnh hưởng 
đến chất lượng lao động của SELAC. Khi mà số lượng lao động nữ lại 
chiếm đa số, thì công tác đào tạo lao động có nghề, lao động trình độ cao 
gặp khó khăn không nhỏ. Nguyên nhân là do, lao động nữ chỉ phù hợp với 
các công việc có tính đơn giản, tiếp thu công nghệ chậm hơn nam giới. Tuy 
tại trung tâm xuất khẩu lao động sang các nước còn khó khăn về kinh tế 
nhưng trung tâm cũng phải xác định rằng đào tạo lao động có trình độ cao để 
cạnh tranh, để mở rộng thị trường, đồng thời nâng cao lên một bước về chất 
lượng lao động tại trung tâm, vì vậy cần có nhiều lao động nam để đạt được 
điều đó. Số lượng lao động hiện nay còn quá ít nam nên trong thời gian tới 
trung tâm cần tuyển nhiều nam hơn và cần có định hướng lâu dài để cân 
bằng tỷ lệ nam nữ lao động. 
Trong các lao động mà trung tâm tuyển thì đa phần là lao động nông 
thôn, ngoại ngữ của đa số lao động này là rất kém. Vì vậy trung tâm lại mất 
thời gian đào tạo thêm ngoại ngữ và nó ảnh hưởng đến công tác đào tạo. Tuy 
vậy không có nhiều sự lựa chọn cho trung tâm trong thời điểm hiện tại do 
mặt bằng chung của lao động cả nước là như vậy. Vì vậy chất lượng lao 
động của SELAC vẫn còn chưa cao là điều có thể nhận thấy, nhưng hy vọng 
rằng với các biện pháp mang tính chiến lược và rất chặt chẽ hy vọng SELAC 
sẽ đưa chất lượng lao động của mình lên tầm quốc tế để sánh được với lao 
động của các doanh nghiệp khác trong cùng lĩnh vực xuất khẩu lao động. 
Có một yếu tố cần phân tích vì nó liên quan đến chất lượng lao động của 
trung tâm đó là trình độ, lòng yêu nghề của đội ngũ giáo viên giảng dạy. Đội 
ngũ giáo viên giảng dạy của trung tâm nói chung là rất nhiệt tình và có tuổi 
đời tương đối trẻ. Ngoài ra, hầu như họ đều có trình độ là đại học và trên đại 
học. Một tín hiệu đáng mừng cho SELAC trong tương lai, bởi một đội ngũ 
giáo viên rất triển vọng. Đầu tiên phải nói đến độ tuổi của họ, đa phần độ 
tuổi của giáo viên chỉ khoảng 25-30 tuổi, một độ tuổi còn rất trẻ, vì thế tinh 
thần làm việc rất hăng hái, nhiệt tình, có tinh thần cầu tiến cao. Thứ hai, phải 
nói đến trình độ đội ngũ giáo viên. Trong tổng số 9 giáo viên dạy thì có 1 
 giáo viên trên trình độ đại học và có đến 8 giáo viên có trình độ đại học. Phải 
nói trình độ đội ngũ giáo viên là rất tốt. Nhưng phải thừa nhận chất lượng 
lao động tại SELAC vẫn còn chưa cao, nguyên nhân là do: chương trình học 
chưa sát thực tế, khi mà tổng số lao động lên cao thì đội ngũ giáo viên là còn 
quá ít để đáp ứng, do yêu cầu tuyển dụng của phía đối tác. Đây là các 
nguyên nhân liên quan đến đội ngũ giáo viên giảng dạy tại SELAC làm cho 
chất lượng lao động bị ảnh hưởng một phần. Nếu trung tâm có những thay 
đổi về mặt nhân sự trong thời gian tới cùng với đội ngũ hiện tại, chắc chắn 
SELAC sẽ thành công về nâng cao chất lượng lao động của mình. 
Cơ sở vật chất, trang thiết bị trung tâm đang có cũng sẽ ảnh hưởng không 
nhỏ đến chất lượng đào tạo của SELAC. Hiện nay, trung tâm là đại diện của 
Tổng công ty Đường sông miền Nam ngoài miền Bắc, do đó cơ sở vẫn còn 
phải đi thuê, đây là một khó khăn không nhỏ cho SELAC trên thị trường 
xuất khẩu lao động. Ngoài ra các trang thiết bị cũng thật chưa đủ, chưa thật 
hiện đại như bên các nước tiếp nhận lao động để cho người lao động thực 
hành, vì vậy chất lượng lao động không thể một sớm một chiều thay đổi 
được. Một số lao động sang nước bạn còn bỡ ngỡ về các thao tác, cách sử 
dụng các loại máy móc để làm việc, vì tại SELAC không có loại máy móc 
như vậy. Ngoài ra, chỗ cho lao động ăn ở cũng phải đi thuê nên rất tốn kém. 
Vì vậy có thể nói, cơ sở hạ tầng, máy móc thiết bị phục vụ cho lao động thực 
hành là vô cùng quan trọng và SELAC còn cần nhiều của cải và sức người 
để làm được điều này, nhưng không phải là không làm được. 
Trong tổng số lao động đi sang nước ngoài làm việc của trung tâm thì có 
một số lao động đã đơn phương phá bỏ hợp đồng, hay bị các nước tiếp nhận 
cho về nước sớm. Nguyên nhân ở đây cũng gồm cả nguyên nhân chủ quan 
và cả nguyên nhân khách quan. Đối với những lao động đơn phương phá bỏ 
hợp đồng thì do công việc của chủ sử dụng không đáp ứng được mong muốn 
 về nhiều mặt cho họ, hay do họ không kham nổi công việc quá vất vả và 
công việc bên ngoài kiếm được nhiều tiền hơn. Rất nhiều vấn đề liên quan 
khi nói đến các lao động đơn phương phá bỏ hợp đồng như hiện nay. Nó 
đang là nỗi nhức nhối của xuất khẩu lao động Việt Nam nói chung và của 
SELAC nói riêng. Nhưng chất lượng lao động cũng có thể ảnh hưởng đến 
vấn đề này, khi mà chất lượng lao động đi làm việc không đáp ứng được yêu 
cầu của chủ sử dụng thì cũng là nguyên nhân khiến cho quan hệ chủ thợ 
không còn như khi mới làm việc, rồi nảy sinh các tranh chấp và người lao 
động thấy chán nản với công việc rồi từ đó có ý định ra ngoài làm việc, hay 
tự ý phá bỏ hợp đồng. Còn đối với các trường hợp bị nước bạn trả về thì 
nguyên nhân chủ yếu là không đáp ứng được yêu cầu của họ. Khi mà công 
việc ngày càng đòi hỏi cần trình độ cao, nhận thức nhanh nhạy thì lao động 
SELAC vẫn còn chưa đáp ứng được. Ngoài ra cũng phải kể đến sự yếu kém 
về kinh tế dẫn đến thiếu vốn của nước tiếp nhận đối với các ngành như xây 
dựng nên không thể tiếp tục tồn tại được và các lao động SELAC sang đó sẽ 
bị trả về. Một trường hợp cũng không thật ró để có thể nói rằng chất lượng 
lao động của SELAC còn thấp, song nếu như chất lượng lao động có thể đáp 
ứng được so với yêu cầu thì có thể lao động SELAC vẫn tồn tại được bên 
nước ngoài với nhiều công việc khác nhau. 
Nói tóm lại, trong những năm gần đây chất lượng lao động của SELAC 
là ổn định, đáp ứng được yêu cầu khá khắt khe của phía đối tác Đài Loan, 
Malaysia, ArâpXêut và các chủ thuê lao động trực tiếp. Trình độ ngoại ngữ 
là nắm được các quy tắc về giao tiếp, ứng xử, thu lượm được đầy đủ vốn từ 
khi chuẩn bị và đang làm việc tại nước ngoài. Nhưng thật sự trình độ của lao 
động SELAC vẫn còn trong chất lượng trung bình khá. Khi mà trình độ lao 
động quốc đang dần được nâng lên và các công nghệ kỹ thuật mới được ra 
đời thì lực lượng lao động này gặp nhiều khó khăn trong khi hội nhập. Với 
 nhiều biện pháp đang và sẽ được triển khai trong thời gian tới, hy vọng rằng 
chất lượng lao động SELAC sẽ vượt ra khỏi tầm trong nước đáp ứng được 
ngày càng nhiều theo yêu cầu của chủ sử dụng lao động. 
III. Thực trạng các hoạt động nhằm nâng cao chất lượng lao động xuất khẩu 
tại SELAC. 
1. Công tác tuyển dụng lao động. 
Tại trung tâm SELAC, công tác tuyển dụng được coi là rất ổn định và có 
định hướng lâu dài. Trung tâm đã được chỉ định tuyển dụng tại các tỉnh là: 
Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh…bằng các biện pháp tuyển khác nhau, với 
các nội dung tuyển dụng cụ thể sau: 
 Về nguồn tuyển, hiện nay trung tâm đang áp dụng phương pháp tuyển 
dụng là: Thứ nhất tuyển trực tiếp qua các trung tâm dịch vụ việc làm; thứ hai 
là tuyển thông qua chính quyền các cấp xã, phường; thứ ba trung tâm tuyển 
trực tiếp thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua giới thiệu của 
những người đã đi xuất khẩu lao động…Đây được coi là những nguồn tuyển 
dụng rất đáng tin cậy của trung tâm. Với biện pháp tuyển dụng qua các trung 
tâm dịch vụ việc làm thì SELAC đã tận dụng được nhiều ưu điểm như: có 
thể tuyển dụng được nhiều lao động một lúc, tuyển được lao động có trình 
độ cao…trong khi đó với biện pháp tuyển thông qua chính quyền các cấp thì 
trung tâm đã tuyển được những lao động có lý lịch rõ ràng, đảm bảo chất 
lượng nguồn lao động. Với các biện pháp tuyển sinh hiện nay, nói chung 
trung tâm cũng tạo được một nguồn lao động ổn định và rất đáng tin cậy. 
Tuy nhiên mỗi biện pháp lại có những nhược điểm của nó. Đối với phương 
pháp tuyển qua các trung tâm dịch vụ việc làm thì SELAC thường bị động 
và phụ thuộc vào nguồn của các trung tâm, nguồn gốc của lao động thì 
SELAC cũng không nắm rõ, có thể để lọt một số đối tượng không tốt, dẫn 
đến phát sinh phức tạp trong quá trình đào tạo, hoặc thời gian làm việc tại 
 nước ngoài. Với phương pháp làm việc với các địa phương thì SELAC lại 
gặp khó khăn là chỉ tuyển được đa số là lao động phổ thông, số lượng từng 
nơi cũng hạn chế. Một số địa phương không có cán bộ chuyên trách nên việc 
hướng dẫn các thủ tục không thành thạo, một số thông tin đưa đến người lao 
động không chính xác. Một số nơi còn phải thông qua cấp huyện mới lấy 
được nguồn, gặp khó khăn trong việc đào tạo và thủ tục vay vốn ngân hàng, 
chi phí đi lại và thông tin liên lạc của SELAC cũng lớn hơn các hình thức 
khác. 
 Về tiêu chuẩn tuyển dụng. 
Trung tâm hiện nay cũng đang cố gắng tạo ra những tiêu chuẩn tuyển 
dụng chặt chẽ, phù hợp với điều kiện và môi trường lao động của Việt Nam. 
Và hiện nay SELAC cũng đang áp dụng các tiêu chuẩn như: phải tốt nghiệp 
hết cấp II, chưa ra nước ngoài làm việc bằng bất cứ doanh nghiệp xuất khẩu 
lao động nào khác, hay phải là lao động nữ đối với công việc gia đình và 
chăm sóc bệnh nhân…Càng nhiều tiêu chuẩn tuyển dụng thì càng nâng cao 
được chất lượng lao động xuất khẩu nhưng mặt khác nó làm cho số lượng 
lao động đạt tiêu chuẩn rất ít do hiện nay mặt bằng chung của lao động Việt 
Nam vẫn còn rất thấp. Vì vậy ngoài các tiêu chuẩn bắt buộc thì trung tâm 
nên loại bỏ bớt các tiêu chuẩn không quan trọng để đạt được đủ số lượng lao 
động đi xuất khẩu. 
 Quy trình tuyển dụng. 
Đối với mỗi biện pháp tuyển dụng khác nhau thì lại có một quy trình 
tuyển dụng khác nhau. Nhưng nói chung nó có một số bước sau: 
- Đưa các thông tin về tuyển dụng cho người lao động biết qua các trung 
tâm dịch vụ việc làm hay qua các cấp chính quyền…như: các điều kiện, 
quyền lợi và nghĩa vụ người lao động , đặc biệt là tiền lương, các khoản tài 
chính phải nộp trước khi đi, các tiêu chuẩn tuyển dụng… 
 - Sau khi có được đủ số lượng lao động đạt tiêu chuẩn cần tuyển thì trung 
tâm tiến hành cho người lao động làm thủ tục tuyển dụng và ký kết hợp 
đồng lao động. 
- Sau đó người lao động được đưa nên trung tâm để đào tạo nghề và học 
ngoại ngữ trước khi đi. 
Đây là các bước thô của quá trình tuyển dụng lao động tại trung tâm. 
Trước đây các bước này không được tiến hành đúng tiến trình do đó ảnh 
hưởng không nhỏ tới chất lượng lao động tại SELAC, nhưng hiện nay trung 
tâm đã thấy được tác dụng của quá trình đến chất lượng lao động và ngày 
càng hoàn thiện nó để có được công tác tuyển dụng tốt nhất phục vụ cho 
hoạt động xuất khẩu lao động. 
Trong quá trình tuyển chọn, kinh nghiệm được trung tâm rút ra là phải 
tuyển trực tiếp, cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, công khai về các điều 
kiện, quyền lợi, nghĩa vụ của người lao động. Không được chung chung, đại 
khái, hoặc sai với nội dung hợp đồng, đặc biệt là tiền lương, các khoản tài 
chính nộp trước khi đi phải rất rõ ràng. Nên kết hợp nhiều hình thức tuyển 
chọn để đáp ứng được yêu cầu của thị trường. 
Mặt khác công tác tuyển sinh cần được thay đổi cho phù hợp với những 
thay đổi của thị trường xuất khẩu lao động. Ví như: việc thay đổi độ tuổi 
tuyển sinh, thay đổi tỷ lệ nam nữ tuyển sinh, hay nên đa dạng các ngành 
nghề tuyển sinh… để đáp ứng được yêu cầu của thị trường và nhu cầu của 
người lao động. 
2. Công tác đào tạo, giáo dục định hướng cho người lao động. 
Hiện nay tại trung tâm, đào tạo và giáo dục định hướng là một trong 
những công tác vô cùng quan trọng. Để có thể nâng cao được chất lượng lao 
động trong thời gian tới thì trung tâm đã coi đào tạo là công tác được ưu tiên 
hàng đầu. Những đối tượng sau khi được xét tuyển kỹ về sức khoẻ tay nghề 
 đều được SELAC đào tạo về ngoại ngữ, chuyên môn nghiệp vụ, phổ biến 
phong tục tập quán, giáo dục định hướng rất kỹ lưỡng. 
 Về chuyên môn nghiệp vụ. Trung tâm đào tạo người lao động trong 
khoảng 1 tháng cho mỗi nghề. Nhưng do hiện nay tại trung tâm thì giúp vịêc 
gia đình và chăm sóc bệnh nhân là những ngành nghề chủ yếu để xuất khẩu 
nên công tác đào tạo nghề không gặp nhiều khó khăn. Ngoài học lý thuyết, 
người lao động còn được thực hành thêm để có thể làm tốt công việc và khỏi 
bỡ ngỡ khi làm việc trực tiếp tại nước ngoài. 
 Dạy ngoại ngữ. Người lao động thường được dạy ngoại ngữ trước khi 
sang nước bạn làm việc. Tại trung tâm thời gian dạy là khoảng 2 tháng, mỗi 
lao động được dạy ngoại ngữ mà họ cần để có đủ kiến thức cần thiết trong 
giao tiếp và làm việc. Người lao động đi làm việc tại nước có sử dụng ngoại 
ngữ nào thì họ được trung tâm trang bị cho ngoại ngữ đó. Ngoài học trên 
lớp, người lao động còn được tham gia các cuộc thi ngoại ngữ có phần 
thưởng để tăng thêm phần tự tin và hưng phấn cho người lao động. 
 Phổ biến phong tục tập quán, giáo dục định hướng cho người lao động. 
Đây là các chương trình giáo dục không thể thiếu tại trung tâm. Ngoài 
các chương trình đào tạo trên thì trung tâm vẫn dành thời gian cho người lao 
động được học phong tục tập quán nước đến làm việc và giáo dục cho người 
lao động biết được hậu quả của việc phá bỏ hợp đồng, tự ý trốn về nước. Các 
chương trình này thường được phổ biến xen kẽ các tiết học ngoại ngữ và học 
nghề. Tuy có được chương trình và cũng đã đưa vào dạy và phổ biến nhưng 
trung tâm vẫn còn có nhiều lao động phá bỏ hợp đồng, bị đuổi về nước do 
các nguyên nhân mà có liên quan đến công tác giáo dục này. Vì vậy trung 
tâm cần có những thay đổi tích cực hơn để hạn chế và tiến tới xoá bỏ được 
vấn nạn này. 
 Tính đến nay trung tâm đã đầu tư nhiều tỷ đồng vào mua sắm các trang 
thiết bị hiện đại, phục vụ công tác đào tạo. Với khoảng thời gian đào tạo 3 
tháng đối với tất cả các lao động, với khoảng 450 tiết học, bao gồm ngoại 
ngữ 300 tiết, thực hành sử dụng các thiết bị gia đình và chăm sóc bệnh nhân 
là 135 tiết; giáo dục pháp luật, phong tục tập quán là 15 tiết. Tuy được dạy 
rất cơ bản với đủ các loại chương trình, song có lẽ thời gian là chưa thật đủ 
nhiều để đảm bảo chất lượng của lao động tại SELAC. Thời gian tới trung 
tâm đang có các biện pháp thay đổi như: biên soạn giáo trình sát với thực tế, 
tích cực sửa đổi lại nội dung của giáo trình và chương trình học đối với yêu 
cầu của đối tác và chủ sử dụng, nên có thể thời gian đào tạo sẽ được nâng 
lên để đảm bảo chất lượng lao động, đồng thời phân bổ thời gian giữa dạy lý 
thuyết và thực hành thật hợp lý để cho lao động thật tự tin khi tiếp xúc với 
công việc. Bên cạnh đó, trung tâm còn đưa giáo viên và cán bộ quản lý ra 
nước tiếp nhận để có thực tế, đồng thời cử giáo viên giảng dạy làm công tác 
quản lý lao động tại nước ngoài, đây là một biện pháp hay để có thể hiểu 
thêm về công việc mà lao động phải làm từ đó có những thay đổi hợp lý áp 
dụng vào điều kiện cụ thể tại trung tâm. 
Biết rằng những người lao động đi xuất khẩu đều có cảm giác buồn, cô 
đơn khi xa gia đình để đến trung tâm. Bằng nhiều biện pháp như: tổ chức 
cho mọi lao động được thi đua học tập tốt bằng các cuộc thi có phần thưởng; 
liên hệ với gia đình các lao động để họ động viên cho người lao động an 
tâm, tự tin trong chuyến xuất khẩu lao động sắp tới, trung tâm cũng đã phần 
nào giúp người lao động cảm thấy họ rất được quan tâm, rất thoải mái khi 
đang ở trung tâm nên đã tạo được động lực cho người lao động phấn đấu 
hoàn thành được công việc và sẵn sàng sang nước ngoài làm việc. Bên cạnh 
việc tổ chức cho người lao động thì trung tâm còn chú trọng vào đảm bảo về 
mặt tinh thần cho cán bộ nhân viên tại trung tâm. Ngoài các giờ làm việc 
 trung tâm có tổ chức cho các lao động tham gia các hoạt động ngoại khoá, 
tham gia các giải thể thao do trung tâm tổ chức như: đi du lịch các địa 
phương, hay tổ chức các giải bóng bàn…Một trong các hoạt động rất quan 
trọng này đã phần nào giúp cho chất lượng lao động được cải thiện dù không 
lớn nhưng vẫn rất cần thiết đối với các trung tâm xuất khẩu lao động như 
SELAC. 
II. Những thuận lợi và khó khăn của Trung tâm SELAC trong việc nâng cao 
chất lượng lao động xuất khẩu. 
1. Thuận lợi. 
Tuy còn gặp nhiều khó khăn nhưng cũng phải nói rằng trung tâm SELAC 
cũng có những thuận lợi của riêng mình. Đó là: 
- Do lao động của trung tâm xuất phát chủ yếu từ nông thôn nên đa số lao 
động này rất cần cù, khoé léo và cũng rất dễ bảo phù hợp với công việc gia 
đình mà phía Đài Loan hay tuyển. 
- Bên cạnh những lao động còn yếu về nhiều mặt thì cũng có các lao động 
khá thông minh, cần cù. Nhiều lao động còn chủ động đầu tư học ngoại ngữ, 
học nghề và tìm hiểu pháp luật những nước họ tới…Chuẩn bị đầy đủ các 
điều kiện cần và đủ, để đáp ứng các yêu cầu đi làm việc ở nước ngoài. 
- Ngoài ra, hiện nay công tác đào tạo đã được chú ý rất nhiều. Đây là thuân 
lợi rất lớn cho trung tâm nhằm từng bước nâng cao chất lượng lao động của 
mình. 
 - Đây là đại diện của Tổng công ty Đường sông miền Nam ngoài miền 
Bắc, do đó có nhiều thuận lợi của việc hưởng danh của Tổng công ty và khi 
gặp khó khăn còn được sự trợ giúp. Đây cũng là thuận lợi trong việc làm an 
tâm các cán bộ quản lý, các giáo viên giảng dạy và các nhân viên trong việc 
dốc sức vì công việc đồng thời đào tạo ra được nhiều lao động có chất lượng 
đủ tiêu chuẩn theo yêu cầu của phía đối tác. 
2. Khó khăn. 
Nâng cao chất lượng lao động là công việc rất quan trọng, nhưng để làm 
được điều đó thì trung tâm SELAC sẽ gặp những khó khăn nhất định. Đây 
không chỉ là khó khăn của riêng SELAC và các doanh nghiệp hay các công 
ty xuất khẩu lao động đều chưa có được biện pháp hữu hiệu nhất để phần 
nào giải quyết khó khăn. Những khó khăn này bao gồm: 
- Nhà nước chưa có chính sách tích cực đầu tư tạo nguồn lao động phục vụ 
xuất khẩu. Hệ thống các cơ sở đào tạo nghề mới chỉ giữ vai trò đào tạo nghề 
để người lao động có cơ hội tự tìm việc làm, chưa thực sự gắn dạy nghề với 
giải quyết việc làm, trong đó xuất khẩu lao động lao động là một hướng 
quan trọng. 
- Cái rõ nhất là hiện nay trung tâm đang thiếu lao động có trình độ chuyên 
môn kỹ thuật, thiếu công nhân lành nghề. 
- Cơ cấu ngành nghề đào tạo chủ yếu tập trung vào những nghề đã đào tạo 
từ trước, chưa kịp mở rộng ngành nghề mới, đào tạo trình độ bậc cao còn ít 
chưa phù hợp và đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động quốc tế. Giáo dục 
phổ thông chưa tạo dựng được nền tảng về ngoại ngữ cho người lao động để 
tham gia xuất khẩu. 
- Luôn luôn phụ thuộc vào đầu ra của lao động, ảnh hưởng không nhỏ đến 
chất lượng lao động. Ví dụ bên Đài Loan: chính sách về xuất khẩu lao động 
hay thay đổi không nhất quán, còn bên Malaysia thì còn khó khăn về kinh tế 
 nên các lao động của trung tâm còn gặp nhiều khó khăn về tiền lương và các 
khoản chi khác. 
- Việc tổ chức bồi dưỡng tay nghề cho lao động trước khi xuất khẩu lao 
động còn nhiều hạn chế, do thời gian tập trung đào tạo ngắn, lại hướng chủ 
yếu vào khâu ngoại ngữ, giáo dục định hướng và hiểu biết về phong tục tập 
quán…nên vấn đề tay nghề của người lao động chưa thực sự đáp ứng được 
mong đợi của các nước tiếp nhận. Điều này đã làm hạn chế đến khả năng 
cạnh tranh và mở rộng ngành nghề cho người lao động và người lao động 
Việt Nam ít được làm ở các vị trí trọng yếu trong dây chuyền sản xuất. 
- Hạn chế lớn nhất của người lao động là ngoại ngữ và ý thức lao động, sự 
tuân thủ các nguyên tắc cộng đồng yếu kém. Đây là nguyên nhân chính gây 
ra các tranh chấp lao động. Một bộ phận lao động không nhỏ đơn phương 
phá bỏ hợp đồng để ra ngoài làm việc, một số vi phạm pháp luật của nước sở 
tại, ảnh hưởng tới việc giữ vững và phát triển thị trường. 
- Đa phần lao động của trung tâm đi xuất khẩu lao động là lao động không 
nghề. Số lao động đi nhiều tại Malaysia, Đài Loan chiếm đa số là lao động 
phổ thông. 
- Lao động của trung tâm xuất thân chủ yếu từ nông thôn nên trình độ nhận 
thức, trình độ giao tiếp là rất thấp. Khả năng tiếp thu kém là điều mà cán bộ 
giảng dạy rất khó khăn trong việc nâng cao trình độ cho họ. Ngoài ra, số lao 
động này còn có tác phong làm việc rất nông dân nên không đáp ứng được 
yêu cầu của nước sở tại. 
- Hiện tại trung tâm dịch vụ và xuất khẩu lao động SELAC là đơn vị trực 
thuộc, là đại diện ngoài miền Bắc của Tổng công ty đường sông miền Nam 
do đó về cơ sở vật chất vẫn còn phải đi thuê nên gặp rất nhiều khó khăn. 
Ngoài ra chỗ ở cho lao động là không có và cũng phải đi thuê nên vấn đề 
 nâng cao chất lượng lao động của SELAC vẫn còn phải có thời gian và đầu 
tư nhiều tiền của. 
- Về phía Nhà nước, chính phủ không có chính sách xử lý các lao động bỏ 
trốn hay đơn phương phá bỏ hợp đồng, do đó số lượng lao động này ngày 
càng nhiều và rất khó giải quyết. Nó ảnh hưởng đến tâm lý của các lao động 
mới có ý định hay đang chuẩn bị xuất khẩu lao động, nên công tác đào tạo 
hay dạy nghề gặp nhiều khó khăn và nó ảnh hưởng đến chất lượng lao động 
SELAC. 
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn lao động 
xuất khẩu tại trung tâm dịch vụ và xuất khẩu lao động SELAC. 
I. Phương hướng hoạt động nhằm nâng cao chất lượng lao động tại trung 
tâm dịch vụ và xuất khẩu lao động SELAC. 
Chất lượng nguồn lao động là yếu tố quyết định thành công hay thất bại 
của doanh nghiệp xuất khẩu lao động. Sự cạnh tranh thị trường xuất khẩu lao 
động hiện nay chính là sự cạnh tranh về nguồn lao động tham gia xuất khẩu. 
Vì vậy các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu lao động đều xây dựng cho 
mình các biện pháp và chiến lược nhằm nâng cao chất lượng lao động lâu 
dài. Và tại trung tâm dịch vụ và xuất khẩu lao động SELAC cũng có 
phương hướng riêng để nâng cao chất lượng lao động của mình. 
1. Nâng cao công tác tuyển dụng lao động xuất khẩu. 
Trung tâm SELAC cũng giống như các doanh nghiệp, công ty xuất khẩu 
lao động khác đều rất chú trọng vào công tác tuyển dụng lao động cho riêng 
mình. Việc đòi hỏi ngày càng cao của phía đối tác đáp ứng công việc kỹ 
thuật cao, càng làm cho trung tâm phải có những biện pháp tuyển dụng lao 
động chặt chẽ, hiện đại và chất lượng. Và trung tâm đang dần dần hoàn thiện 
các biện pháp sau: 
 - Tuyển trực tiếp qua các trung tâm dịch vụ việc làm. Đây là một trong 
những biện pháp mang tính linh hoạt, khi mà lao động xuất khẩu không đủ 
đáp ứng với nhu cầu tuyển của phía đối tác. ở đây các trung tâm dịch vụ việc 
làm đều có cán bộ giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực xuất khẩu lao động, am 
hiểu chuyên môn do đó rất thuận lợi trong việc làm hồ sơ, thủ tục, tránh 
được các khoản chi phí không cần thiết. 
- Công tác tuyển chọn lao động được SELAC quan tâm nhiều hơn bằng 
việc gắn kết chặt chẽ với chính quyền địa phương ở cả cấp tỉnh, huyện, xã và 
các trường dạy nghề, nhằm giảm thiểu tối đa chi phí đóng góp của người lao 
động. Hình thức tuyển chọn này đảm bảo chất lượng nguồn, nắm được lý 
lịch của người lao động, tránh được các phát sinh phức tạp, người lao động 
cũng không phải qua khâu trung gian, được tạo mọi đièu kiện thuận lợi trong 
khâu giải quyết các thủ tục hồ sơ tại địa phương. 
- Trung tâm đã xây dựng một hệ thống các tiêu chuẩn chọn lao động dựa 
trên nhứng yêu cầu chung nhất về hoạ vấn, sức khoẻ, trình độ tay nghề, đạo 
đức và ý thức tổ chức kỷ luật. Đồng thời tuỳ thuộc từng ngành nghề, từng 
nước và từng chủ sử dụng khác nhau mà đặt ra những tiêu chuẩn riêng phù 
hợp. 
- Kiểm tra, giám sát đối với các hoạt động tuyển chọn. Khi xảy ra sai sót, 
hoặc cố tình làm sai thì phải bị xử lý theo quy định của trung tâm. 
2. Chú trọng nâng cao công tác đào tạo lao động xuất khẩu. 
Đào tạo lao động ở đây phải đảm bảo cả về chất và lượng. Vì vậy công 
tác đào tạo lao động xuất khẩu có ảnh hưởng lớn đến chất lượng lao động 
đưa đi xuất khẩu. Nâng cao công tác đào tạo không chỉ rất cần thiết để góp 
phần thay đổi theo những thay đổi của lao động quốc tế mà nó còn ảnh 
hưởng trực tiếp đến sự sống còn của cả trung tâm nên rất nhiều biện pháp 
được SELAC xây dựng và thực hiện trong thời gian tới: 
 - Trung tâm đã xây dựng cho mình chương trình đào tạo phù hợp với điều 
kiện và đủ tiêu chuẩn tạo ra những lao động có đủ trình độ đáp ứng được yêu 
cầu của phía đối tác. 
- Trung tâm đã chú trọng đến cơ sở đào tạo-giáo dục định hướng cho 
người lao động. Vì trước đây công tác đào tạo, giáo dục định hướng cho 
người lao động trước khi đi của trung tâm SELAC không được quan tâm 
đúng mức. Xuất hiện nhiều lao động thiếu hiểu biết về phong tục nơi làm 
việc, ý thức chấp hành kỷ luật kém, vi phạm hợp đồng, chưa có tác phong 
làm việc công nghiệp. Việc làm này sẽ nâng cao trách nhiệm của trung tâm 
trong việc tổ chức đào tạo, giáo dục định hướng người lao động trước khi đi, 
nâng cao chất lượng nguồn lao động xuất khẩu, hạn chế được các phát sinh 
do đó giảm thiệt hại khi xảy ra, đồng thời tăng uy tín của lao động trung tâm. 
- Hoàn chỉnh, sửa đổi, bổ sung các chương trình dạy, đào tạo để có thể áp 
dụng sát thực tế hơn phù hợp với điều kiện và khả năng của trung tâm. 
3. Nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên giảng dạy. 
Khi mà yêu cầu về chất lượng lao động đang được đòi hỏi rất cấp bách, 
thì trình độ đội ngũ giáo viên giảng dạy được SELAC rất quan tâm. Tuy còn 
gặp nhiều khó khăn trong công tác này, nhưng trung tâm cũng đã cố gắng để 
có thể phần nào nâng cao trình độ của đội ngũ này. Bằng các phương hướng 
hoạt động sau: 
- Liên tục mở lớp tập huấn và bồi dưỡng kiến thức cho giáo viên. 
- Cho đội ngũ giáo viên tham gia trực tiếp các lớp dạy của các phía nước 
có xuất khẩu lao động tiên tiến, hay đưa giáo viên ra các nước tiếp nhận để 
có thực tế. 
- Cử giáo viên giảng dạy làm công tác quản lý lao động tại nước ngoài để 
giáo viên có thể hiểu thêm về các lĩnh vực rồi từ đó áp dụng vào các bài 
giảng cho lao động của mình chuẩn bị xuất khẩu. 
 - Liên tục tuyển các giáo viên, cán bộ có trình độ cao hơn để thay các giáo 
viên không đủ trình độ và thiếu nhiệt tình. 
4. Dạy nghề thích ứng với xuất khẩu lao động. 
Thời gian qua lao động có nghề, đã qua đào tạo phần lớn được cung ứng 
từ trong các nhà máy, xí nghiệp. Sự gia tăng quy mô lao động xuất khẩu làm 
cho các doanh nghiệp cung ứng lao động gặp khó khăn trong việc tạo nguồn 
lao động có kỹ thuật. Do đó SELAC cũng cần có giải pháp để khắc phục khó 
khăn đó, khó khăn không chỉ của riêng SELAC. Vì vậy trung tâm đã xây 
dựng chiến lược “dạy nghề thích ứng với xuất khẩu lao động”. Trung tâm 
đã: 
- Xây dựng lâu dài một hệ thống các chương trình đào tạo mang tính chiều 
sâu để đưa vào chương trình dạy nghề đào tạo lao động xuất khẩu. 
- Chủ động đào tạo, bồi dưỡng lao động có nghề trong các ngành hiện là 
chủ lực có tỷ trọng lớn thường xuyên làm việc tại nước ngoài như: xây dựng, 
cơ khí, điện, điện tử, dệt, may mặc… 
- Hiện nay và các năm tới nghiên cứu kỹ thị trường lao động ngoài nước, 
đặc biệt là những nước mà trung tâm có lao động đến làm việc, đưa ra những 
dự báo để làm căn cứ xây dựng kế hoạch đào tạo phục vụ xuất khẩu lao 
động. 
5. Định hướng lâu dài tạo nguồn lao động kỹ thuật cao. 
Không là ngoại lệ, trung tâm dịch vụ và xuất khẩu lao động SELAC cũng 
đang gặp phải bài toán là làm sao tạo được nguồn lao động kỹ thuật cao, làm 
tăng tính cạnh tranh với các doanh nghiệp, công ty khác trong lĩnh vực hoạt 
động của mình, đảm bảo chất lượng lao động khi tham gia làm việc tại nước 
ngoài. Đây là vấn đề không đơn giản chút nào khi mà lao động của Việt 
Nam còn yếu kém về nhiều mặt. Vì vậy cần có một định hướng cụ thể và lâu 
dài cho bài toán này và SELAC cũng đã có lời giải cho bài toán: 
 - Từ thực trạng lao động của Việt Nam nói chung và của SELAC nói riêng, 
qua tham khảo kinh nghiệm các nước trong khu vực, chúng ta cần có những 
giải pháp hữu hiệu, nhằm chủ động hoàn toàn về nguồn và chất lượng trước 
khi đưa đi làm việc ở nước ngoài. 
- Trên cơ sở các thông tin thu nhận được từ các nước đối tác tiếp nhận lao 
động của SELAC về mức lương, điều kiện sống, điều kiện làm việc, số 
lượng cần tiếp nhận, cơ cấu ngành nghề, chất lượng lao động cũng như 
những yếu tố cạnh tranh giữa các nước, các doanh nghiệp tại từng thị 
trường, SELAC đã nghiên cứu xem xét kỹ làm căn cứ quan trọng trong việc 
xây dựng kế hoạch đào tạo. 
- Kế hoạch đào tạo nghề được SELAC gắn kết chặt chẽ với chương trình 
đào tạo nghề của quốc gia tham gia đào tạo nghề cho xuất khẩu lao động, có 
vậy mới tận dụng được lợi thế về nguồn, cơ sở vật chất và đội ngũ giáo viên 
dạy nghề. 
- Sớm điều chỉnh, bổ sung chương trình đào tạo. Xây dựng chương trình 
đào tạo, nâng cao tay nghề phù hợp với yêu cầu của thị trường lao động 
quốc tế và các hợp đồng lao động. 
II. Một số kiến nghị. 
1. Kiến nghị đối với trung tâm dịch vụ và xuất khẩu lao động SELAC. 
 Các kiến nghị lập kế hoạch. 
- Xây dựng và hoàn thiện các chương trình và giáo trình dạy nghề. Xây 
dựng quy mô đào tạo liên thông giữa trung tâm và các trường dạy nghề. 
- Đa dạng hoá các đối tượng và hình thức thực hiện để tăng tối đa số lượng 
lao động xuất khẩu. Đồng thời mở rộng phạm vi ngành nghề cho các đối 
tượng xuất khẩu lao động với phương châm sẵn sàng đáp ứng những nghề 
phía nước ngoài cần và phù hợp với điều kiện cũng như khả năng của trung 
tâm, trong đó tập trung vào các ngành nghề truyền thống có nhiều lợi thế 
 như: thợ cơ khí, sửa chữa máy móc, xây dựng, công nghiệp nhẹ, vận hành 
máy móc, dịch vụ… 
- Cần tích cực đào tạo nguồn lao động mang tính đón đầu và dự trữ để xuất 
khẩu. Phải trang bị cho người lao động vững vàng về kiến thức, về chuyên 
môn, ngoại ngữ, hiểu biết quan hệ chủ thợ trong nền kinh tế thị trường đồng 
thời có biện pháp để nâng cao trình độ văn hoá. 
- Có các chiến lược mở rộng thị trường xuất khẩu lâu dài để tăng thêm số 
lương lao động có thể xuất khẩu. 
 Kiến nghị về tổ chức và điều hành. 
- Tăng cường các công tác tuyên truyền thông tin về những mặt tích cực 
của việc xuất khẩu lao động, hạn chế đưa những thông tin thiếu xác thực, 
tiêu cực làm ảnh hưởng đến sự nghiệp xuất khẩu lao động cũng như tâm lý 
gia đình, xã hội và bản thân người lao động. 
- Cần gắn trách nhiệm giữa trung tâm với các chính quyền địa phương các 
cấp trong việc tạo nguồn, tuyển chọn, đào tạo, giáo dục định hướng, huy 
động vốn cho người lao động vay, để chất lượng lao động được nâng cao, 
hạn chế các tiêu cực, cò mồi, lừa đảo. 
- Huy động các nguồn vốn, nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy nghề 
và năng lực cũng như quy mô đào tạo. 
- Nâng cao trình độ nghiệp vụ giáo viên giảng dạy, cán bộ quản lý. Đa 
dạng hoá các hình thức dạy nghề để đáp ứng nhu cầu tuyển lao động của các 
thành phần kinh tế. 
- Chủ động chuẩn bị đủ nguồn lao động phù hợp với yêu cầu của thị 
trường. Đối với lao động giản đơn không nghề thì tập trung tuyển từ các 
vùng nông thôn, đối với lao động có nghề thì tập trung tuyển trong các xí 
nghiệp và các cơ sở đào tạo. 
 Công tác kiểm tra. 
 - Cần tăng cường công tác quản lý lao động tại nước ngoài để có các giải 
pháp kịp thời khi xảy ra tranh chấp phát sinh. 
- Giám sát chặt chẽ công tác đào tạo, giáo dục định hướng…để các chương 
trình đạt được kết quả tốt nhất. 
2. Kiến nghị đối với Nhà nước. 
- Nghiên cứu ban hành và hoàn thiện các chính sách, cơ chế phù hợp 
khuyến khích các cơ sở đào tạo, doanh nghiệp và người lao động cùng đầu 
tư, chuẩn bị nguồn lực phục vụ cho xuất khẩu lao động. 
- Hoàn chỉnh sớm về pháp chế để hạn chế tối đa các tiêu cực phát sinh làm 
ảnh hưởng đến Việt Nam. 
- Cần sớm hình thành Quỹ hỗ trợ xuất khẩu lao động và nhanh chóng 
thành lập Hiệp hội xuất khẩu lao động để tạo ra mặt bằng bình đẳng, hỗ trợ 
lẫn nhau giữa các doanh nghiệp. 
- Nhà nước cần nghiêm túc phối hợp ban hành các biện pháp đồng bộ để 
ngăn ngừa và xử lý nghiêm khắc những công dân Việt Nam đi xuất khẩu lao 
động coi thường kỷ cương phép nước, tuỳ tiện phá bỏ hợp đồng, bỏ trốn làm 
ăn phi pháp, phải có biện pháp chế tài về dân sự và kinh tế đối với số công 
dân này kể cả sau khi họ bị trục xuất về nước hoặc về nước sau khi đã kiếm 
đủ tiền. 
- Đẩy mạnh các mô hình đào tạo cho thanh niên dân tộc nội trú, cho lao 
động nông thôn, cho bộ đội xuất ngũ…để tăng thêm lao động có điều kiện 
phục vụ sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu lao động. 
- Cần chấn chỉnh các doanh nghiệp xuất khẩu lao động và làm nghiêm hơn 
đối với các doanh nghiệp vi phạm, cố gắng xây dựng một số doanh nghiệp 
tầm cỡ quốc tế về xuất khẩu lao động trong thời gian tới. 
 - Nhân rộng các mô hình trong thời gian tới như: mô hình liên kết doanh 
nghiệp-địa phương, mô hình các địa phương chỉ đạo xuất khẩu