Tài liệu Luận văn Một số giải pháp quản lý nhà nước nhằm phát triển giao thông đường bộ ở tỉnh Xa Văn Na Khệt, Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào:  Luận văn 
Giải pháp quản lý nhà nước 
nhằm phát triển giao thông 
đường bộ ở tỉnh Xa Văn Na 
Khệt, Cộng hoà dân chủ 
nhân dân Lào
MỞ ĐẦU 
1. Tính cấp thiết của đề tài 
Cộng hoà dân chủ nhân dân (CHDCND) Lào là một nước thành viên 
ASEAN nhưng trình độ kinh tế còn kém phát triển. Tuy nhiên, Lào là một 
nước có truyền thống lịch sử dựng nước và giữ nước lâu đời, vốn trước kia là 
thuộc địa nửa phong kiến, nông nghiệp sản xuất nhỏ, tự cung tự cấp là chủ 
yếu, phụ thuộc nhiều vào điều kiện thiên nhiên, phong tục tập quán rất lạc 
hậu. Lào là một nước nằm khá sâu trong lục địa bán đảo Đông Dương với diện 
tích 236.800 km2 và dân số hơn 5 triệu người. Về địa hình, đồi núi và cao 
nguyên chiếm 2/3 diện tích tự nhiên, trải dài ở phía Đông và phía Bắc của đất 
nước. 
Xa Văn Na Khệt là một tỉnh nằm ở miền Trung Lào, có diện tích 
21.774 km2, trong đó 1/3 là núi (núi non trung du), 2/3 là đồng bằng. Đời 
sống vật chất của nhân dân hiện nay cũng đã được cải thiện nhiều hơn so v...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
123 trang | 
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1272 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Một số giải pháp quản lý nhà nước nhằm phát triển giao thông đường bộ ở tỉnh Xa Văn Na Khệt, Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 Luận văn 
Giải pháp quản lý nhà nước 
nhằm phát triển giao thông 
đường bộ ở tỉnh Xa Văn Na 
Khệt, Cộng hoà dân chủ 
nhân dân Lào
MỞ ĐẦU 
1. Tính cấp thiết của đề tài 
Cộng hoà dân chủ nhân dân (CHDCND) Lào là một nước thành viên 
ASEAN nhưng trình độ kinh tế còn kém phát triển. Tuy nhiên, Lào là một 
nước có truyền thống lịch sử dựng nước và giữ nước lâu đời, vốn trước kia là 
thuộc địa nửa phong kiến, nông nghiệp sản xuất nhỏ, tự cung tự cấp là chủ 
yếu, phụ thuộc nhiều vào điều kiện thiên nhiên, phong tục tập quán rất lạc 
hậu. Lào là một nước nằm khá sâu trong lục địa bán đảo Đông Dương với diện 
tích 236.800 km2 và dân số hơn 5 triệu người. Về địa hình, đồi núi và cao 
nguyên chiếm 2/3 diện tích tự nhiên, trải dài ở phía Đông và phía Bắc của đất 
nước. 
Xa Văn Na Khệt là một tỉnh nằm ở miền Trung Lào, có diện tích 
21.774 km2, trong đó 1/3 là núi (núi non trung du), 2/3 là đồng bằng. Đời 
sống vật chất của nhân dân hiện nay cũng đã được cải thiện nhiều hơn so với 
trước đây. Chủ trương của Đảng và Nhà nước Lào chuyển kinh tế tự nhiên 
sang kinh tế hàng hoá, lấy hộ gia đình nông dân làm trọng điểm, đã đem lại 
những kết quả tích cực bước đầu. Xa Van Na Khệt là vùng tập trung đông dân 
cư, địa hình tương đối bằng phẳng giúp giao thông vận tải phát triển thuận lợi. 
Trình độ sản xuất hàng hoá ở vùng này cao hơn các vùng khác. Đây là nơi tập 
trung các loại cây công nghiệp, đặc biệt cây công nghiệp ngắn ngày, tập trung 
ở vùng đồng bằng. Trên cơ sở phát triển sản xuất nông nghiệp, đã hình thành 
mạng lưới khá phát triển các nhà máy, xí nghiệp chế biến quy mô nhỏ và vừa 
với nhiều trình độ công nghệ khác nhau, trong đó có cả công nghệ cao. Tỉnh 
đã tập trung đầu tư vào xây dựng mạng lưới đường bộ nối liền huyện với 
huyện, huyện với làng gắn với tuyến đường dọc biên giới với Thái Lan. 
Hiện nay, mạng lưới giao thông đường bộ của Lào đã có sự phát triển 
nhất định nhưng còn chậm cả về cơ sở vật chất kỹ thuật và trình độ quản lý. Ở 
CHDCND Lào giao thông chủ yếu là đường bộ; không có đường sắt, không 
có đường biển; còn đường sông chỉ hoạt động theo mùa, đường hàng không 
chưa phát triển. Vì vậy, để đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hoá và hành 
khách các tỉnh trong cả nước vẫn dựa vào đường bộ là chủ yếu, trong khi đó, 
hệ thống đường bộ phát triển còn chậm, chưa đáp ứng nhu cầu của dân cư và 
sự phát triển kinh tế. Để đáp ứng được sự phát triển của nền kinh tế, ngoài 
việc tích cực đầu tư phát triển mạng lưới đường bộ, việc đảm bảo QLNN có 
hiệu quả nhằm thúc đẩy phát triển hệ thống giao thông đường bộ là một việc 
làm cần thiết hiện nay ở CHDCND Lào nói chung và tỉnh Xa Văn Na Khệt 
nói riêng. Vì vậy, việc nghiên cứu thực trạng và đưa ra những giải pháp về 
QLNN nhằm phát triển hệ thống giao thông đường bộ ở tỉnh Xa Văn Na Khệt 
trong giai đoạn hiện nay là một nhu cầu mang tính cấp thiết rõ rệt. Trên tinh 
thần đó, đề tài đã được lựa chọn làm đề tài luận văn thạc sĩ mang tên: " Giải 
phỏp quản lý nhà nước nhằm phát triển giao thông đường bộ ở tỉnh Xa 
Văn Na Khệt, Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào ". 
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài 
Ở Việt Nam, đã có một số công trình nghiên cứu khoa học về vấn đề 
phát triển giao thông nói chung được nghiên cứu như: 
- Bộ Giao thông Vận tải - Viện Chiến lược và phát triển giao thông 
vận tải (1993), "Phát triển giao thông vận tải hướng tới thế kỷ XXI", Hà Nội. 
- Bộ Giao thông Vận tải - Viện Khoa học kinh tế giao thông vận tải (1995), 
Đề tài KX-10-04: "Cơ chế chính sách phát triển giao thông vận tải", Hà Nội. 
- Bộ Giao thông Vận tải (1995), "Giao thông vận tải Việt Nam năm 
2000", Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội. 
- PGS.TS Nghiêm Văn Dĩnh (1997), "Quản lý nhà nước đối với giao 
thông vận tải", Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội. 
Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề liên quan đến chủ đề của đề tài, các 
nhà khoa học đã rút ra một số kết luận khoa học về các quan hệ mang tính quy 
luật trong phát triển giao thông vận tải ở phạm vi khác nhau. 
Ở CHDCND Lào, các nhà quản lý và nghiên cứu mới chỉ đề cập đến 
một số khía cạnh mang tính chất chung nhất được thể hiện trong các văn kiện, 
nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng NDCM Lào và trong một số 
bài diễn văn của các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Có một vài công trình 
đã nghiên cứu về giao thông đường bộ của CHDCND Lào như "Phát triển 
giao thông đường bộ ở CHDCND Lào", luận án Phó tiến sĩ của nghiên cứu 
sinh Bun Nương, một vài công trình khác nghiên cứu mang tính chất tác 
nghiệp đối với quản lý vận tải đường bộ. 
Cho đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu có tính cơ bản và hệ 
thống về "Giải pháp QLNN nhằm phát triển giao thông đường bộ ở tỉnh Xa 
Văn Na Khệt, Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào". Đây là một vấn đề còn rất 
mới mẻ về khoa học và cấp bách và thực tiễn. 
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn 
* Mục đích của luận văn: 
Xuất phát từ đường lối, chính sách và phương hướng chiến lược về phát 
triển kinh tế - xã hội của Đảng NDCM và Nhà nước Lào trong giai đoạn mới, 
trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng giao thông đường bộ của tỉnh Xa Văn 
Na Khệt, từ đó đưa ra các giải pháp về QLNN nhằm phát triển hệ thống giao 
thông đường bộ cho tỉnh Xa Văn Na Khệt trong giai đoạn từ 2006 - 2015. 
* Nhiệm vụ: 
Căn cứ vào mục đích của luận văn, tác giả xác định có ba nhiệm vụ sau: 
- Làm rõ vai trò QLNN đối với sự phát triển giao thông đường bộ 
trong nền kinh tế thị trường, áp dụng cho tỉnh Xa Văn Na Khệt. 
- Phân tích, đánh giá thực trạng hệ thống giao thông đường bộ và hoạt 
động QLNN về lĩnh vực này của tỉnh Xa Văn Na Khệt. 
- Luận chứng các định hướng cơ bản và những giải pháp chính nhằm 
phát triển hệ thống giao thông đường bộ và đổi mới tổ chức quản lý lĩnh vực 
này ở tỉnh Xa Văn Na Khệt. 
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 
* Đối tượng nghiên cứu: 
Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là công tác QLNN về phát 
triển hệ thống giao thông đường bộ của tỉnh Xa Văn Na Khệt. Tuy nhiên, để 
đạt các mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, luận văn sẽ nghiên cứu một số nét 
cơ bản của sự phát triển hệ thống đường bộ ở tỉnh Xa Văn Na Khệt. 
* Phạm vi nghiên cứu: 
- Phạm vi không gian: giới hạn trong phạm vi tỉnh Xa Văn Na Khệt. 
- Phạm vi thời gian: khảo sát, đánh giá và xây dựng chương trình phát 
triển hệ thống giao thông đường bộ cho tỉnh Xa Văn Na Khệt đến năm 2015. 
Các phân tích về quá khứ sẽ được giới hạn chủ yếu từ năm 2001. Một số phân 
tích có mở rộng đến năm 1985. 
- Phạm vi lĩnh vực: chủ yếu khảo sát ngành giao thông đường bộ trong 
hệ thống giao thông quốc gia. 
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 
Luận văn sử dụng cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin: đó là chủ 
nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử Mác - Lênin, và các quan điểm, 
đường lối chính sách của Đảng NDCM và Nhà nước Lào và của tỉnh Xa Văn 
Na Khệt về việc phát triển hệ thống giao thông đường bộ. 
Trong quá trình thực hiện luận văn, sử dụng các phương pháp điều tra, thống 
kê, nghe báo cáo, nghiên cứu tài liệu, phân tích, tổng kết thực tiễn, quy nạp... 
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 
Đề tài có ý nghĩa giúp cho Sở Giao thông của tỉnh Xa Văn Na Khệt có 
thêm tư liệu bổ ích để tổng kết, đánh giá tình hình chung về phát triển 
kinh tế - xã hội, giao thông vận tải của tỉnh trong thời gian qua và vận dụng vào 
việc hoạch định các biện pháp phát triển hệ thống giao thông đường bộ cũng như 
các biện pháp đổi mới quản lý giao thông, vận tải của tỉnh đến năm 2015. 
7. Kết cấu của luận văn 
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, 
luận văn được kết cấu làm 3 chương, 9 tiết. 
Chương 1 
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC NHẰM 
PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ 
1.1. VAI TRÒ CỦA HỆ THỐNG GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ ĐỐI VỚI SỰ 
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 
1.1.1. Quan niệm về hệ thống giao thông và giao thông đường bộ 
- Quan niệm về hệ thống giao thông: 
Trong Từ điển tiếng Việt "giao thông" là "việc đi lại từ nơi này sang 
nơi khác của người và phương tiện chuyên chở" [7, tr.733]. 
Giao thông là nhu cầu tất yếu của xã hội loài người. Sự phát triển giao 
thông mang tính lịch sử và phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, khoa 
học, công nghệ. Giao thông phát triển gắn liền với sự phát triển của những 
con đường các loại khác nhau bao gồm: đường thuỷ, đường bộ, đường sắt, 
đường sông và đường hàng không. 
Giao thông đường thuỷ bao gồm đường sông và đường biển là phương 
thức vận tải xuất hiện sớm nhất, từ khi con người sử dụng những công cụ lao 
động thô sơ để đẽo cây làm thành những chiếc thuyền đơn giản và ngày nay 
giao thông, vận tải thuỷ đóng góp một vai trò quan trọng trong buôn bán quốc 
tế. Nhưng những quốc gia có hệ thống sông ngòi ít và không có đường bờ 
biển thì giao thông đường bộ lại đóng một vai trò rất quan trọng trong sự phát 
triển kinh tế - xã hội của đất nước. Ngoài ra giao thông đường sắt và đường 
hàng không là những phương thức vận tải tương đối mới, có nhiều ưu điểm, 
và chúng đã góp phần quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội và giao 
lưu văn hoá, khoa học, kỹ thuật... các nước trên thế giới. Đối với mỗi quốc 
gia, hệ thống giao thông được hình thành trên cơ sở phát triển các mạng lưới 
giao thông đường bộ, đường thủy, đường sắt, đường hàng không cùng với 
việc phát triển các phương tiện giao thông vận tải sử dụng mạng lưới phục vụ 
cho nhu cầu xã hội. 
Như vậy, có thể nói, hệ thống giao thông là một chỉnh thể các loại 
đường giao thông phù hợp với nhu cầu và trình độ phát triển kinh tế - xã hội, 
khoa học - công nghệ của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ phát triển nhất định. 
Hệ thống giao thông của mỗi quốc gia phụ thuộc vào trình độ phát triển 
kinh tế, kỹ thuật, công nghệ nhất định. Điều đó dễ dàng nhận thấy từ thực tiễn 
kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia, mỗi nhóm nước khác nhau trên thế giới. 
Nhóm các nước nghèo thường có hệ thống giao thông phát triển thiếu 
quy hoạch hoặc quy hoạch kém, chất lượng các tuyến đường không đảm bảo 
các tiêu chuẩn tiên tiến, chẳng hạn,, đường sắt vẫn sử dụng khổ đường 
1000mm là chủ yếu, các sân bay quốc tế ít hoặc không đáp ứng tiêu chuẩn, 
đường bộ chủ yếu chỉ có hai làn xe, giao cắt đồng mức nhiều, không bảo đảm 
tốc độ cho phương tiện và bảo đảm an toàn giao thông. 
Nhóm các nước phát triển có hệ thống các tuyến đường phát triển có 
quy hoạch, chất lượng đường tốt. Đường bộ của các nước này có thể được đến 
6-8 làn xe; đường sắt sử dụng chủ yếu loại khổ đường 1m435 và đường sắt 
đệm từ; hệ thống cảng hàng không của các nước này có thể cho các máy bay 
hiện đại nhất hiện nay hạ, cất cánh trong mọi điều kiện thời tiết; cảng biển của 
họ có lưu lượng lớn, bốc dỡ tự động hoá, chi phí thấp. 
Nói chung, ở các nước phát triển hệ thống các tuyến đường, các bến 
cảng, nhà ga của các phương thức vận tải đều phát triển và đáp ứng được nhu 
cầu phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia đó. Trong khi đó các nước 
nghèo thì hệ thống giao thông phát triển chậm, thiếu quy hoạch tổng thể chưa 
thể hiện được là ngành kết cấu hạ tầng và có vai trò mũi nhọn của nền kinh tế. 
- Hệ thống giao thông đường bộ: 
Trong Từ điển tiếng Việt giải thích từ "đường bộ" như sau: "Đường 
bộ: đường đi trên đất liền (cho người và xe cộ)". Từ đó, có thể suy ra, hệ 
thống giao thông đường bộ (GTĐB) là tập hợp các con đường trên đất liền có 
chức năng đảm bảo cho người và các phương tiện giao thông - vận tải thực 
hiện việc di chuyển người, hàng hoá, đồ vật từ nơi này đến nơi khác. Hệ 
thống GTĐB của một địa phương, của một nước luôn là một hệ thống mở 
(nối liền với các hệ thống khác) và được hoàn thiện, phát triển không ngừng. 
Như vậy, thực chất phát triển hệ thống GTĐB là phát triển hệ thống đường đi 
trên đất liền của mỗi quốc gia. Cũng như nhiều lĩnh vực khác, GTĐB là một 
bộ phận cấu thành hữu cơ, một phận hệ của hệ thống giao thông nói chung - 
tức là nó mang tính hệ thống rõ rệt. 
Hệ thống GTĐB bao gồm nhiều loại đường, tạo thành cơ cấu của hệ 
thống. Cơ cấu đường bộ phân theo cấp quản lý gồm có hai bộ phận. Bộ phận 
thứ nhất là đường bộ thuộc Trung ương quản lý (quốc lộ). Đó là bộ phận 
đường bộ quan trọng nhất của mỗi quốc gia. Nó giữ vị trí giống như hệ 
thống mạch máu của cơ thể sống. Do đó, đường bộ quốc gia phải được xây 
dựng theo quy hoạch, đảm bảo tính hiệu quả trên nhiều mặt cả về kinh tế, 
xã hội, an ninh, quốc phòng..., được xây dựng theo tiêu chuẩn kỹ thuật khắt 
khe của Nhà nước. 
Đường bộ do địa phương (tỉnh, thành) quản lý là bộ phận thứ hai gồm 
tỉnh lộ và đường thuộc tỉnh quản lý. Đường bộ do địa phương quản lý được 
xây dựng theo tiêu chuẩn kỹ thuật tương ứng do cơ quan QLNN về giao thông 
có chức năng, thẩm quyền ban hành. Tuỳ theo vùng thuộc đồng bằng, trung 
du hay miền núi mà mật độ mạng lưới đường có sự khác nhau (km/km2) và 
tiêu chuẩn cấp đường cũng khác nhau. Theo cấp quản lý, về cơ cấu, càng 
xuống thấp số lượng km đường bộ của mỗi quốc gia càng lớn, song yêu cầu 
cấp kỹ thuật của đường bộ lại thấp dần. 
Về tiêu chuẩn cấp kỹ thuật của đường bộ: Đường bộ quốc gia có 
tiêu chuẩn cấp kỹ thuật cao nhất và thấp nhất là đường bộ ở cơ sở (xã, bản, 
làng). Từ yêu cầu về tiêu chuẩn cấp kỹ thuật của hệ thống đường bộ mà 
QLNN về GTĐB và phát triển hệ thống GTĐB được quy định và được 
phân cấp tương ứng. 
1.1.2. Vai trò của hệ thống giao thông đường bộ nhằm phát triển 
nền kinh tế quốc dân 
- Vai trò của giao thông đường bộ đối với phát triển kinh tế: 
Để phát triển nền kinh tế quốc dân thì GTVT nói chung và GTĐB nói 
riêng đóng một vai trò đặc biệt quan trọng. Nó là yếu tố kết cấu hạ tầng hàng 
đầu có vai trò đẩy nhanh nhịp độ tăng trưởng và nâng cao hiệu quả của nền 
kinh tế quốc dân. Điều này lại càng đặc biệt quan trọng đối với các nước 
chậm phát triển và có đặc điểm về địa hình như Lào. GTVT cũng giống như 
nhiều ngành kết cấu hạ tầng khác được hình thành và phát triển trên cơ sở 
phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động - xã hội. 
Phát triển giao thông, nhất là GTĐB và phát triển kinh tế - xã hội là 
hai yếu tố có liên quan chặt chẽ với nhau, là điều kiện và tiền đề của nhau. 
Nền kinh tế còn nặng tính tự cấp, tự túc, khép kín, sản xuất nhỏ lạc hậu thì 
GTVT không thể phát triển được. Khi sản xuất xã hội có tính chuyên môn hoá 
cao, hàng hoá sản xuất ra nhiều thì nó sẽ thúc đẩy GTVT phát triển, có như 
vậy mới đáp ứng được nhu cầu vận chuyển hàng hoá với khối lượng lớn cho 
xã hội. Một nền kinh tế trong giai đoạn đầu của phát triển không thể thiếu vận 
tải. Chính vì vậy mà vào thời kỳ đầu phát triển các nước đã đặt trình độ phát 
triển cao rất chú trọng đến việc xây dựng các tuyến đường sắt, đường sắt là 
con đẻ của thời kỳ công nghiệp hoá, đồng thời với việc xây dựng đường sắt là 
xây dựng các cảng biển, và đóng những con tàu hiện đại hơn, trọng tải lớn 
hơn. Khi nền kinh tế phát triển cao hơn, nhu cầu GTVT nội vùng và liên vùng 
tăng cao, thành tựu về sản xuất đã làm ra những phương tiện vận tải, đặc biệt 
là xe hơi ngày càng hiện đại, những yếu tố đó thúc đẩy sự phát triển của GTĐB. 
Đến lượt mình, GTĐB trở thành yếu tố điều kiện của sự phát triển, đảm bảo cho 
các ngành sản xuất, lưu thông hàng hóa và nhân lực có sự phát triển bền vững. 
Khác với việc xây dựng các công trình như nhà cửa, hầm mỏ..., khi 
xây dựng hệ thống đường giao thông ngay từ đầu đã chiếm được sự quan tâm 
của nhà nước. Nhà nước giữ vai trò quyết định trong việc sử dụng vốn đối với 
hoạt động xây lắp. Ngày nay GTVT và GTĐB vẫn giữ vai trò to lớn trong sự 
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Xây dựng mạng lưới 
GTVT là tiền đề, là điều kiện cho sự phân bố hợp lý lực lượng sản xuất trên 
lãnh thổ, cho sự phát triển tổng hợp các vùng kinh tế. 
Với bất cứ quốc gia nào có nền kinh tế kém phát triển thì GTVT cũng 
có vai trò nối liền sản xuất với tiêu thụ, giữa vùng này với vùng khác, giữa quốc 
gia này với quốc gia khác, và đáp ứng nhu cầu đi lại của con người, đảm bảo được 
mối liên hệ kinh tế, phục vụ sản xuất, góp phần nâng cao năng suất lao động, đẩy 
nhanh phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, của vùng, địa phương. 
Hồ Chí Minh, lãnh tụ của nhân dân Việt Nam nói riêng và phong trào 
cách mạng Đông Dương nói chung đã từng có những nhận định quan trọng về 
vai trò của GTVT. Trong thời gian tìm đường cứu nước, tại Đại hội lần thứ 
nhất Quốc tế nông dân ở Mátxcơva (13/10/1923), Người đã nói: "Đời sống 
của xã hội hiện nay phụ thuộc trước hết vào những trung tâm công nghiệp lớn 
và những đường giao thông" [31, tr.157]. 
Như vậy, Bác Hồ đã chỉ rõ tầm quan trọng của sản xuất công nghiệp 
và giao thông vận tải. 
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Chủ tịch Hồ 
Chí Minh đã nhấn mạnh: "Cầu đường là mạch máu của một nước"... "Cầu 
đường tốt thì lợi cho kinh tế; hàng hoá dễ lưu thông, sinh hoạt đỡ đắt đỏ, nhân 
dân khỏi thiếu thốn" [31, tr.65]. 
Với tư tưởng đó, Hồ Chí Minh đã coi toàn bộ cơ cấu xã hội giống như 
cơ thể con người, trong đó giao thông như những mạch máu. Những mạch 
máu trong cơ thể con người có lưu thông thì con người mới tồn tại, mới thực 
hiện được quá trình trao đổi chất. Đối với nền kinh tế, giao thông tốt sẽ thuận 
lợi cho phát triển, giao thông xấu tức là đường sá gập ghềnh, quanh co, nhỏ 
hẹp thì không thể vận chuyển được các nguyên, vật liệu... đến các trung tâm 
công nghiệp, trung tâm sản xuất. Kết quả là giao thông kém phát triển thì sản 
xuất, giáo dục, y tế... đều kém phát triển. Ngược lại giao thông tốt sẽ tạo điều 
kiện giao lưu kinh tế, phát triển đồng đều giữa các vùng lãnh thổ, làm giảm sự 
chênh lệch về mức sống và dân trí giữa các vùng. 
Trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước CHDCND Lào hiện nay thì 
việc xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật, trong đó xây dựng và phát triển 
GTĐB cùng các công trình cầu, đường, cảng đều phải đi trước một bước. Các 
chuyên gia quản lý đã xác định rằng: phát triển hệ thống giao thông nói chung 
và GTĐB nói riêng sẽ tạo điều kiện cho hoạt động giao lưu kinh tế hàng hoá 
ngày càng mở rộng, phá vỡ thế độc canh, tự cung, tự cấp, khép kín nâng cao 
hiệu quả sản xuất hàng hoá. Hệ thống GTĐB tốt cho phép tăng tốc độ luân 
chuyển của vốn. Nói cách khác, giao thông nói chung và GTĐB nói riêng góp 
phần tăng hiệu quả kinh tế trong các hoạt động kinh tế nói chung. 
GTĐB sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nền kinh tế quốc 
dân, và ngược lại khi nền kinh tế càng phát triển càng tạo khả năng hoàn thiện 
và phát triển GTĐB. Các nhà kinh tế đã tính toán cho thấy, nếu hệ số ICOR 
của nền kinh tế là 4 thì để tăng 1% GDP cần tăng đầu tư tới 4%. Trong số vốn 
đầu tư của toàn xã hội, phần đầu tư từ NSNN trước hết cần tập trung vào các 
công trình kết cấu hạ tầng, trong đó các công trình GTĐB có vị trí ưu tiên. 
Khi GTĐB và các ngành kết cấu hạ tầng được phát triển sẽ có tác động kích 
thích phát triển các ngành sản xuất - kinh doanh khác. 
Vai trò của giao thông nói chung và GTĐB nói riêng không chỉ dừng 
ở sự đóng góp vào phát triển kinh tế mà còn ở chỗ thúc đẩy phát triển văn 
hoá, xã hội, thể hiện ở chỗ, giao thông phát triển sẽ tạo điều kiện cho các hoạt 
động văn hoá, giáo dục, y tế... sôi động hơn, hiệu quả hơn. 
Tóm lại, sản xuất xã hội càng phát triển phục vụ đòi hỏi phải vận 
chuyển một khối lượng lớn nguyên, nhiên, vật liệu và nhân lực phục vụ cho 
sản xuất và thương mại, phục vụ nhu cầu của con người. Vai trò của GTVT 
và GTĐB trong sự nghiệp phát triển kinh tế, cũng như phát triển các mặt khác 
của các vùng còn to lớn hơn nhiều. Vì vậy, trong quá trình CNH, HĐH, 
chuyển sang nền kinh tế thị trường và mở rộng hợp tác với bên ngoài, Đại hội 
Đảng NDCM Lào lần thứ IV đã nêu rõ: "Lấy giao thông vận tải làm mũi nhọn 
cho sự phát triển của nền kinh tế quốc dân" [15, tr.165]. Đại hội còn chỉ rõ, 
cần coi trọng việc khôi phục và phát triển GTVT, đó là một trong các biện 
pháp cơ bản nhằm nối liền sản xuất và tiêu thụ, tạo điều kiện cho sản xuất 
hàng hoá phát triển, mở rộng thị trường trong và ngoài nước giữa CHDCND 
Lào với các nước trong khu vực và trên thế giới trong đó có sự phát triển của 
GTĐB [15]. 
- Quan hệ giữa sự phát triển của giao thông đường bộ với sự phát 
triển của các ngành khác: 
Đối với mỗi quốc gia để phát triển kinh tế thì phải phát triển công 
nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi 
nước mà cơ cấu có thể khác nhau, nhưng để phát triển bất cứ ngành nào thì 
GTĐB cũng có một vai trò hết sức quan trọng. Sau đây sẽ phân tích mối 
quan hệ giữa sự phát triển của GTĐB với sự phát triển của ba ngành chính 
của nền kinh tế. 
+ Đối với sản xuất công nghiệp: 
Ngành công nghiệp là một ngành đòi hỏi một khối lượng nguyên, 
nhiên, vật liệu rất lớn và có những loại ở xa các nhà máy, các khu công 
nghiệp. Vì vậy đòi hỏi khối lượng vận chuyển rất lớn và thực tế cho thấy việc 
vận chuyển các loại nguyên nhiên vật liệu cho khu công nghiệp chủ yếu là 
GTĐB. Sản xuất công nghiệp có mức độ chuyên môn hoá cao, hàng hoá sản 
xuất ra với khối lượng lớn, vì vậy sản phẩm hàng hoá muốn đến được tay 
người tiêu dùng thì phải có sự đóng góp rất lớn của GTVT, đặc biệt là GTĐB 
vì GTĐB là phương thức vận tải có thể vận chuyển hàng hoá từ cửa đến cửa 
"door to door". 
+ Đối với sản xuất nông nghiệp: 
GTĐB có vai trò cung cấp tư liệu sản xuất đúng thời vụ cho sản xuất 
nông nghiệp, đảm bảo hàng hoá tiêu dùng cho nông dân. Đồng thời GTĐB 
giúp vận chuyển sản phẩm của nông nghiệp đến nơi tiêu dùng một cách nhanh 
nhất và đảm bảo chất lượng, hạ giá thành. Như vậy, GTĐB tạo điều kiện cho 
nông nghiệp phát triển và cải thiện đời sống nông dân. 
+ Đối với ngành dịch vụ: 
GTĐB là yếu tố quan trọng để tổ chức tour du lịch. Đối với người 
Nhật Bản khi xem xét lựa chọn tour du lịch thì họ sẽ xem giá cả của dịch vụ 
vận chuyển nếu rẻ thì đi và đắt thì thôi. Như vậy, GTĐB tạo điều kiện phát 
triển ngành du lịch là ngành rất có tiềm năng ở các nước Đông Nam Á, trong 
đó có Lào. Các ngành dịch vụ khác như vận tải, tài chính, thương mại cũng 
cần có sự phát triển GTĐB như một yếu tố điều kiện cần thiết nhất. 
Như vậy, có thể nói, GTVT nói chung và GTĐB nói riêng có mối 
quan hệ ràng buộc và giữ vị trí quan trọng đối với sự phát triển của các ngành 
kinh tế. Ở CHDCND Lào, sự yếu kém của kết cấu hạ tầng kỹ thuật nói chung 
và của GTĐB nói riêng hiện nay là nguyên nhân quan trọng kìm hãm sự phát 
triển của các ngành kinh tế, từ đó kìm hãm phát triển kinh tế - xã hội. 
GTĐB còn có vai trò quyết định mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau giữa 
sự phát triển của các ngành và các vùng lãnh thổ. Nếu không phát triển 
GTĐB, không thể phát triển được các vùng nông thôn và vùng núi cách xa 
các trung tâm kinh tế. GTĐB phát triển đến đâu, những hàng rào đóng kín của 
nền kinh tế tự cung, tự cấp bị chọc thủng đến đó. Nó buộc những người sản 
xuất phải quan hệ phụ thuộc vào nhau để tạo ra sản phẩm hàng hoá cho xã 
hội. 
Sự phát triển của lực lượng sản xuất, sự mở rộng các mối liên hệ lẫn 
nhau giữa các ngành, các vùng của nền kinh tế quốc dân sẽ dẫn đến việc phát 
triển kết cấu hạ tầng sản xuất, trong đó GTĐB là nhân tố quan trọng. GTĐB 
phải luôn đi trước một bước, nâng cao năng lực vận tải, đổi mới tổ chức sản 
xuất và quản lý, đảm bảo nhu cầu đi lại, vận chuyển hàng hoá cho các hoạt 
động của nền kinh tế và các nhu cầu khác của đời sống xã hội. 
Do GTĐB có mối quan hệ sâu rộng, thường xuyên với các ngành kinh 
tế trên khắp lãnh thổ, cho nên sự biến động tích cực hay tiêu cực trong sản 
xuất của ngành hay địa phương đều có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến 
hoạt động của ngành GTĐB. 
- GTĐB tác động tới tiến trình đô thị hoá và nâng cao đời sống dân cư: 
Hệ thống GTĐB phát triển kéo theo sự phát triển nhanh chóng của các 
thành phố, đô thị mới, làm biến đổi, hình thành tổ chức dân cư và lối sống 
mới thay thế lối sống tự nhiên từ xa xưa để lại. Sự phát triển và tác động của 
hệ thống GTĐB làm cho một số vùng, một số địa bàn trở thành nơi sản xuất, 
buôn bán, trở thành nơi tập trung dân cư, trở thành trung tâm kinh tế - văn 
hoá, phát triển các hoạt động dịch vụ, thương mại, làm nảy sinh nhiều ngành 
công nghiệp để đáp ứng nhu cầu nhiều mặt của nhân dân. Ngược lại hoạt 
động của các trung tâm này lại thu hút dân cư chung quanh tham gia vào các 
hoạt động sản xuất hàng hoá cung cấp cho thị trường, nhờ đó có thêm thu 
nhập. 
Qua đó có thể nói rằng: GTĐB phát triển đến đâu sẽ đẩy lùi sự lạc hậu 
của lối sống kiểu cổ xưa và thay vào đó là lối sống mới văn minh và dân cư 
có cuộc sống dần dần ấm no hạnh phúc hơn. 
- Giao thông đường bộ đối với an ninh - quốc phòng: 
Các quốc gia nói chung, dù lớn hay nhỏ cũng cần phải có nền quốc 
phòng và an ninh vững mạnh. Để có quốc phòng và an ninh vững mạnh cần có 
nhiều yếu tố như kinh tế, khoa học kỹ thuật... nhưng còn một yếu tố không kém 
phần quan trọng đảm bảo cho quốc phòng và an ninh vững mạnh, đó là GTĐB. 
Tại Đại hội thi đua đảm bảo giao thông vận tải đánh thắng giặc Mỹ 
xâm lược ngày 24/3/1966. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Giao thông 
vận tải rất quan trọng đối với chiến đấu, đối với sản xuất, đối với đời sống 
nhân dân... nếu giao thông có chỗ nào đó nghẽn lại thì nó sẽ ảnh hưởng trực 
tiếp đến chiến đấu, đến sản xuất, đến đời sống của nhân dân" [1, tr.58]. "Giao 
thông vận tải là một mặt trận, mỗi cán bộ, công nhân, thanh niên xung phong, 
xã viên vận tải là một chiến sĩ. Quyết tâm làm cho GTVT thắng lợi, GTVT 
thắng lợi là chiến tranh đã thắng lợi phần lớn rồi" [1, tr.58]. 
Trong cuộc Kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam, đường mòn Hồ Chí 
Minh là một minh chứng lịch sử về vai trò của GTĐB đối với an ninh, quốc 
phòng, tuyến đường này đã góp phần to lớn bảo vệ đất nước Việt Nam. 
Trong thời kỳ xây dựng và phát triển kinh tế, GTĐB rất quan trọng 
đối với việc bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội. Giao thông nối liền 
các miền, các vùng, các địa phương, giảm sự chênh lệch về mọi mặt của 
các vùng, tăng cường sự hiểu biết, đoàn kết giữa các cộng đồng dân cư, 
góp phần làm ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội. Hệ thống GTĐB 
đảm bảo cung cấp hậu cần, tăng tính cơ động nhanh cho các lực lượng an 
ninh, quốc phòng làm nhiệm vụ giữ gìn, bảo vệ chủ quyền quốc gia, 
phòng chống tội phạm. 
Đối với CHDCND Lào, nhiều thế lực thù địch luôn tìm cách đánh phá 
trên mọi lĩnh vực kinh tế, văn hoá, chính trị, tôn giáo, quân sự. Về quân sự, 
chúng đã trắng trợn cho quân xâm nhập lãnh thổ CHDCND Lào (qua một số 
vụ xâm nhập năm 1984, năm 1987) và các vụ khiêu khích khác. Chúng còn 
nuôi bọn phản động quấy rối, đánh phá. Nơi trú ẩn của bọn phản động chủ 
yếu là những vùng rừng núi nhưng chưa có đường giao thông. Vì vậy cần 
phải phát triển GTĐB đến tận các vùng sâu, vùng xa để tích cực phòng ngừa 
và kịp thời đánh trả các cuộc xâm nhập và bạo loạn. Đồng thời khi GTĐB 
phát triển thì sẽ hình thành khu dân cư và kinh tế cũng phát triển theo. Khi đời 
sống kinh tế được nâng cao thì người dân có ý thức và phân biệt được ai là 
bạn, ai là thù, từ đó có ý thức cao trong bảo vệ an ninh quốc gia và độc lập 
chủ quyền của dân tộc. 
Với ý nghĩa đó, GTĐB cần phải được coi là ngành có quan hệ chặt 
chẽ với an ninh quốc phòng, GTĐB không chỉ là kết cấu hạ tầng của sản xuất 
mà còn là cơ sở vật chất quan trọng của an ninh quốc phòng. Chính vì vậy, 
trong Đại hội Đảng NDCM Lào lần thứ IV đã nêu: "Coi sự phát triển GTĐB 
là quan trọng nhất đối với an ninh quốc phòng" [15, tr.265]. 
1.2. CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG TỚI SỰ PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG GIAO 
THÔNG ĐƯỜNG BỘ 
Có nhiều yếu tố quyết định đến sự phát triển GTĐB, trong đó quan 
trọng nhất là ba yếu tố được phân tích dưới đây: 
1.2.1. Nhu cầu phát triển giao thông đường bộ 
Mỗi quốc gia có điều kiện tự nhiên khác nhau, mức độ phát triển kinh tế 
khác nhau. Vì vậy, nhu cầu phát triển hệ thống GTĐB cũng có sự khác nhau. 
Với những nước có điều kiện địa hình thuận lợi, kinh tế phát triển cao 
có thể phát triển được tất cả các phương thức vận tải, thì khối lượng hàng hoá 
và hành khách vận chuyển của quốc gia đó sẽ chia sẻ cho các phương thức 
vận tải nhưng GTĐB vẫn là phương thức vận tải không thể thiếu được bởi vì: 
khi nền kinh tế đã phát triển... thì sản xuất không còn là sản xuất nhỏ lẻ, tự 
cung, tự cấp, khép kín mà sản xuất có tính chuyên môn hoá cao, hàng hoá sản 
xuất nhiều, hình thành các khu công nghiệp với các mối liên kết với nhau để 
tạo ra một hoặc nhiều sản phẩm nào đó. Vì vậy, khối lượng hàng hoá vận 
chuyển giữa nhà máy này với nhà máy khác, khu công nghiệp này với khu 
công nghiệp khác, giữa vùng này với vùng khác, giữa nơi sản xuất với nơi 
tiêu thụ có khối lượng lớn. Trong khi đó, GTĐB có ưu điểm mà các phương 
thức vận tải khác không có được, đó là tính cơ động cao, có khả năng vận 
chuyển từ cửa đến cửa và phù hợp với việc vận chuyển hàng hoá và hành 
khách trong cự ly ngắn. 
Đối với những nước đang phát triển, địa hình chủ yếu là đồi núi như 
CHDCND Lào thì GTĐB có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nó là phương thức 
vận tải chủ yếu. 
Khi kinh tế đã phát triển đến trình độ và quy mô như hiện nay, nhu 
cầu vận chuyển hàng hoá và hành khách tăng rất nhanh. Điều đó đòi hỏi hệ 
thống GTĐB phải phát triển để đáp ứng được nhu cầu vận tải và giao thông. 
Hơn nữa, GTVT nói chung, GTĐB nói riêng là yếu tố có tính tiền đề 
phát triển văn hoá - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, đời sống tinh thần của 
con người, đảm bảo công bằng xã hội, đưa con người tiếp cận với văn minh. 
Văn minh sẽ không đến được với dân cư ở những vùng mà mạng lưới GTĐB 
chưa phát triển. Nhiệm vụ nhu cầu phát triển văn hoá, xã hội cũng đòi hỏi, 
thúc đẩy sự phát triển của GTĐB, nhất là ở một nước thưa dân với địa hình 
phức tạp như CHDCND Lào. 
GTĐB phát triển làm cho nền kinh tế quốc dân và kinh tế của các địa 
phương phát triển, từ đó, xoá bỏ dần sự cách biệt giữa miền núi và miền xuôi, 
giữa thành thị và nông thôn, công nhân và nông dân nhờ đó đảm bảo được sự 
công bằng về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội xét trên phạm vi cả nước. 
Như vậy nhu cầu đi lại của hoạt động sản xuất hàng hoá, nhu cầu 
chính trị, văn hoá, quốc phòng - an ninh... là những yếu tố thúc đẩy sự phát 
triển hệ thống GTĐB và khi hệ thống GTĐB phát triển thì có tác động tích 
cực đến các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hoá, an ninh quốc phòng... 
1.2.2. Khả năng đầu tư 
Xây dựng hệ thống GTĐB đòi hỏi nguồn vốn khổng lồ. Vì vậy, việc 
huy động vốn và sử dụng nguồn vốn hợp lý có hiệu quả là vấn đề cần được 
quan tâm. 
Nguồn vốn để đầu tư hệ thống GTĐB gồm có: Nguồn vốn đầu tư 
nước ngoài và nguồn vốn trong nước. Để xây dựng cơ sở hạ tầng GTĐB ở 
một nước như CHDCND Lào thì nguồn vốn nước ngoài đóng một vai trò 
quan trọng và chiếm tỷ trọng cao trong tổng vốn đầu tư cho lĩnh vực này. 
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài có thể thu hút từ: 
+ Nguồn vốn viện trợ của các nước và các tổ chức quốc tế (ODA) 
gồm: vốn vay viện trợ phát triển chính thức và viện trợ không hoàn lại. Đây là 
nguồn vốn vô cùng quan trọng đối với Lào. Nếu không có nguồn vốn này, 
Lào không thể xây dựng được những tuyến đường quốc lộ chính đảm bảo 
giao thông hiện đại giữa các vùng của đất nước. 
+ Nguồn vốn đầu tư trực tiếp của các công ty nước ngoài (FDI). Đây 
là hình thức đầu tư mang lại hiệu quả cho các doanh nghiệp. Các nhà đầu tư 
nước ngoài đưa vốn bằng tiền, máy móc thiết bị, công nghệ để xây dựng hệ 
thống GTĐB, sau khi hoàn thành sẽ khai thác kinh doanh thu lợi và sau khi đã 
hoàn vốn bàn giao cho Nhà nước quản lý (hình thức đầu tư BOT). Nguồn vốn 
này thích hợp cho việc đầu tư các công trình trọng điểm quy mô vừa và lớn 
như cầu, cảng... 
+ Vốn vay thương mại của nước ngoài. Đây là nguồn vốn mà Nhà 
nước trực tiếp vay của các ngân hàng, của các công ty nước ngoài hoặc các tổ 
chức quốc tế và được sử dụng cho lĩnh vực phát triển GTVT. Đây là nguồn 
vốn quan trọng phục vụ cho phát triển GTĐB trong thời kỳ hiện nay ở Lào 
khi mà các nguồn vốn khác còn thiếu. Tuy nhiên, việc đi vay của các ngân 
hàng nước ngoài cần phải cân nhắc kỹ. Việc vay vốn nước ngoài, nhất là vay 
thương mại thường gặp khó khăn do điều kiện vay chặt chẽ, trả nợ vay phức 
tạp, lãi suất cho vay cao và bên cho vay thường yêu cầu có bảo lãnh của Nhà 
nước. Nếu việc sử dụng vốn vay kém hiệu quả thì khả năng trả nợ sẽ rất khó 
khăn và có thể dẫn tới khủng hoảng tài chính tiền tệ trong nước. 
Đối với việc phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia không thể chỉ 
cậy nhờ vào bên ngoài mà phải phát huy nội lực. Đây là vấn đề có ý nghĩa 
chính trị để khẳng định được ý thức tự lập, tự cường của mỗi quốc gia. 
Trong xây dựng các hệ thống GTVT nói chung và xây dựng hệ thống 
GTĐB nói riêng, đòi hỏi số vốn vô cùng lớn, vì vậy ngoài nguồn vốn nước 
ngoài thì nguồn vốn trong nước cũng cần được huy động ở mức cao nhất có 
thể làm được. 
Huy động tiền tiết kiệm của dân và tiền gửi của các doanh nghiệp qua 
các ngân hàng thương mại. Chính các ngân hàng thương mại sẽ tài trợ vốn 
cho các doanh nghiệp đầu tư các công trình GTĐB do Nhà nước đặt hàng 
hoặc kêu gọi đầu tư. 
Khi kinh tế phát triển, thu nhập của người dân được nâng cao, đời 
sống của nhân dân được cải thiện, tích luỹ trong dân ngày càng tăng, tiền 
nhàn rỗi trong dân ngày càng nhiều. Nhà nước cần tạo môi trường và có chính 
sách khai thác, huy động vốn hợp lý như chính sách về lãi suất tiền gửi tiết 
kiệm. Ngoài ra, Nhà nước có thể phát hành công trái, trái phiếu kho bạc... 
nhằm huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân và của các doanh nghiệp, các tổ 
chức kinh tế để tạo vốn xây dựng các công trình GTĐB. Điều quan trọng để 
thu hút được nguồn vốn này là tạo được niềm tin vào chính sách của Nhà 
nước trong việc huy động vốn. 
Cuối cùng là nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ NSNN. Trong cơ cấu chi 
NSNN, phần chi cho đầu tư phát triển luôn được ưu tiên và có tỷ trọng đáng 
kể. Nhà nước phải ưu tiên nguồn vốn này cho các công trình GTĐB, nhất là 
các công trình giao thông nông thôn, giao thông nội vùng. 
Khi sử dụng vốn phải đảm bảo bốn nguyên tắc sau: 
 Xây dựng và củng cố các công trình GTĐB quan trọng thì dùng vốn 
ODA và các nguồn viện trợ không hoàn lại là chính. 
 Mua thiết bị, phương tiện vận tải và kinh doanh khác thì dùng vốn 
vay thương mại là chính. 
 Thực hiện phương châm "lấy đường nuôi đường". Ở các công trình 
BOT, tổ chức thu phí đường bộ, bến cảng, sân bay, tạo nguồn vốn xây dựng 
và sửa chữa các công trình khác thuộc lĩnh vực GTVT, đặc biệt là GTĐB. 
 Vốn NSNN ưu tiên cho giao thông nông thôn và các vùng khó khăn, 
vùng nghèo của đất nước. 
1.2.3. Quản lý nhà nước về giao thông đường bộ 
Quản lý nhà nước là một yếu tố có tác động lớn đến sự phát triển hệ 
thống GTĐB. 
Quản lý nhà nước đúng đắn, có chính sách rõ ràng, hợp lý, có chiến 
lược ngắn hạn, dài hạn, phù hợp với đường lối phát triển kinh tế - xã hội của 
đất nước trong từng giai đoạn sẽ là yếu tố tích cực cho sự phát triển hệ thống 
GTĐB. Ngược lại QLNN yếu kém, thiếu năng lực sẽ là yếu tố tiêu cực, kìm 
hãm sự phát triển hệ thống GTĐB. 
Khi đã có nhu cầu, đã có nguồn vốn thì việc sử dụng nguồn vốn đó 
như thế nào cho có hiệu quả là một vấn đề không đơn giản. Vì vậy, các cơ 
quan lập ra chính sách và người sử dụng nguồn vốn phải là những tổ chức và 
cá nhân có khả năng và có đạo đức, nếu không có hai yếu tố này thì các công 
trình GTVT nói chung và các công trình GTĐB nói riêng sẽ xây dựng không 
đảm bảo chất lượng do việc sử dụng vốn không hợp lý và vốn bị thất thoát. 
Quản lý nhà nước đối với ngành GTVT là thống nhất, có mục tiêu 
chung của toàn ngành nhưng có sự phân công, phân cấp, uỷ quyền. Bởi 
lẽ nếu thiếu phân công, phân cấp, uỷ quyền thì ngành GTVT sẽ khó và 
không thể quản lý một cách hiệu quả vì không gian tác động rộng lớn và 
đối tượng tác động rất phức tạp cả về kinh tế, văn hoá, xã hội, tâm lý. Vì 
vậy, QLNN đối với GTVT thuỷ, bộ, hàng không, đường sắt hoặc QLNN 
đối với hệ thống quốc lộ phải trên cơ sở thống nhất nhưng có phân công, 
phân cấp và phối hợp với QLNN của các địa phương, tỉnh, thành trên 
phạm vi cả nước. 
1.3. VAI TRÒ VÀ NỘI DUNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC NHẰM PHÁT 
TRIỂN HỆ THỐNG GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ 
1.3.1. Vai trò quản lý nhà nước đối với sự phát triển của hệ thống 
giao thông đường bộ 
Hệ thống GTVT nói chung, GTĐB nói riêng là một bộ phận kết cấu 
hạ tầng quan trọng. Muốn có một nền kinh tế quốc dân phát triển thì trước hết 
phải có một hệ thống GTVT phát triển. Song điều đó còn phụ thuộc rất nhiều 
vào QLNN đối với sự phát triển GTVT cũng như phát triển hệ thống GTĐB. 
Như chúng ta đã biết, ngay từ khi mới ra đời, Nhà nước đã thực hiện vai trò, 
chức năng quản lý của mình. Ban đầu là quản lý xã hội, quản lý hành chính, 
bảo đảm trật tự trị an, dần dần nhà nước đảm nhận cả các chức năng quản lý 
kinh tế. Cùng với sự phát triển về quy mô và trình độ của nền kinh tế, vai trò 
QLNN ngày càng tăng lên và chiếm một vị trí quan trọng trong hoạt động của 
nhà nước. Vai trò QLNN về kinh tế luôn biến đổi tuỳ theo chế độ chính trị, 
yêu cầu và xu hướng phát triển của từng quốc gia trong từng giai đoạn lịch sử 
khác nhau, cho dù QLNN có lúc thăng, lúc trầm, song trong suốt chiều dài 
lịch sử của nhân loại ở các quốc gia (phát triển, kém phát triển hay đang phát 
triển) thì xu hướng tăng cường vai trò QLNN nói chung, trong quản lý GTĐB 
nói riêng là xu hướng phổ biến. Điều đó được quyết định bởi các nhân tố, tác 
động chủ yếu sau đây: 
Thứ nhất, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ đòi hỏi 
phải xây dựng hệ thống GTĐB ngày càng hiện đại, tiêu chuẩn cao, phù hợp 
với tiêu chuẩn quốc tế; các phương tiện vận tải đường bộ cũng ngày càng 
hoàn thiện về tính năng và mang tính quốc tế. Điều đó đòi hỏi QLNN về 
GTĐB phải được tăng cường, quy chuẩn hoá. 
Thứ hai, tính đa dạng về sở hữu trong nhiều ngành của nền kinh tế, trở 
thành phổ biến. Ngay trong đầu tư vào GTĐB cũng như sở hữu phương tiện 
vận tải cũng ngày càng đa dạng. Điều đó đòi hỏi Nhà nước phải đổi mới quản 
lý của mình cho phù hợp. Đó là nhà nước phải tạo lập môi trường, khuôn khổ 
pháp luật đảm bảo quyền và nghĩa vụ cho các chủ thể sở hữu khác nhau. Mặt 
khác, nhà nước định hướng sự hoạt động của các chủ sở hữu sao cho vừa có 
lợi cho từng chủ thể đó, vừa có lợi cho nền kinh tế quốc dân. 
Thứ ba, xu hướng toàn cầu hoá, quốc tế hoá ngày càng đòi hỏi tăng 
cường vai trò QLNN trong lĩnh vực GTVT. Những vấn đề có tính toàn cầu 
như giao lưu kinh tế, môi trường, khoa học - công nghệ... mà mỗi quốc gia dù 
muốn hay không đều phải tham gia giải quyết. Đại diện cho quốc gia phải 
mang tính nhà nước. Nhiều tổ chức chuyên ngành, đa ngành của mỗi nước 
tham gia vào tổ chức quốc tế với tư cách đại diện nhà nước, đại diện hoặc trực 
thuộc Chính phủ của mỗi nước đó. Chẳng hạn ở châu Á, việc thực hiện dự án 
GTĐB - Đường xuyên Á (hành lang Đông - Tây) đòi hỏi sự tham gia của các 
quốc gia liên quan và các tổ chức quốc tế. 
Thứ tư, những khuyết tật, những thất bại của kinh tế thị trường 
đòi hỏi nhà nước phải tăng cường sự can thiệp của mình và lĩnh vực 
GTVT không phải là ngoại lệ. Xét về bản chất, đường giao thông là một 
loại hàng hóa công cộng. Bản thân nền kinh tế thị trường nếu không có 
sự can thiệp của Nhà nước khó có thể đáp ứng nhu cầu phát triển loại 
hàng hóa này do tính chất công cộng của nó. Do vậy, vai trò của Nhà 
nước là rất lớn trong việc đặt hàng phát triển hàng hóa công cộng nói 
chung, trong đó có GTĐB. 
Nhà nước còn có vai trò rất lớn trong công tác quy hoạch, xác định 
tiêu chuẩn, định mức và quản lý giao thông trên hệ thống GTĐB. Trong lĩnh 
vực GTĐB, nếu thiếu sự quản lý của nhà nước thì chắc chắn phải trả giá đắt 
khi mạng lưới giao thông không được quy hoạch một cách có cơ sở khoa học 
hoặc đầu tư thiếu tập trung. 
Những điểm nêu trên thể hiện rõ thêm kết luận có tính khái quát 
của các chuyên gia WB về vai trò QLNN với nền kinh tế nói chung và 
phát triển hệ thống GTĐB nói riêng. Đó là vai trò QLNN có khuynh 
hướng ngày càng tăng. 
Nếu tính quy mô NSNN theo phần trăm GDP nói chung thì năm 1996, 
tính chung cho các nước phát triển, đang phát triển và kém phát triển thì quy 
mô này khoảng trên 30% GDP. Ở những nước có nền kinh tế phát triển theo 
mô hình kinh tế thị trường thì quy mô NSNN lên tới 50%-60% GDP, còn các 
nước nghèo thì quy mô NSNN chỉ chiếm dưới 30% GDP. 
Trong tổng chi NSNN thì chi phí đầu tư phát triển, đặc biệt là đầu tư 
cho lĩnh vực GTĐB chiếm một tỷ trọng đáng kể. 
Nhiều học giả đã biểu diễn mối quan hệ giữa xu hướng tăng cường vai 
trò quản lý của nhà nước với quy mô NSNN theo tỷ lệ phần trăm (%) GDP 
bằng đồ thị 1.1. 
Sơ đồ 1.1: Đồ thị về xu hướng tăng cường vai trò quản lý của nhà nước 
T: Thời gian (theo thập kỷ, thế kỷ). 
CG: Quy mô NSNN tính theo % GDP 
y: đường cong thể hiện quan hệ giữa T và CG. 
Nhìn vào đồ thị ta thấy, đây là mối quan hệ thuận chiều: càng tiến về 
tương lai, với nhiều thành quả khoa học ngày càng hiện đại thì vai trò QLNN 
nói chung, với mỗi ngành, lĩnh vực nói riêng cũng như chi phí cho mọi hoạt 
động cần thiết của nhà nước ngày càng tăng. 
Do đó có thể khẳng định: Nâng cao vai trò QLNN phải là tư duy có 
tính thường trực của các nhà quản lý các cấp, nhất là ở cấp cao đối với mọi 
lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực GTVT và lĩnh vực phát triển hệ thống GTĐB. 
0 T1 T2 T 
CG1 
CG2 
CG y 
1.3.2. Nội dung cơ bản của quản lý nhà nước đối với sự phát triển 
hệ thống giao thông đường bộ 
- Quan niệm về QLNN đối với ngành GTĐB: 
Vai trò QLNN trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia 
có xu hướng ngày càng tăng là một nhân tố quan trọng, thậm chí có tính quyết 
định đối với sự giàu nghèo, hưng thịnh, trì trệ, suy giảm của mỗi nước. 
Đối với mỗi cấp, mỗi ngành khác nhau, QLNN có những nét chung và 
có tính chất đặc thù của ngành, cấp đó, tuỳ theo đặc điểm, nhiệm vụ, phạm vi 
tác động đã được luật định. 
Như vậy, có thể nói, QLNN đối với quá trình phát triển kinh tế - xã 
hội, ngành, lĩnh vực... là sự tác động của các cơ quan nhà nước có chức năng, 
nhiệm vụ, thẩm quyền, bằng hệ thống quan điểm, chủ trương, chính sách, giải 
pháp, công cụ, phương tiện và thực lực kinh tế mang tính nhà nước để đạt 
mục tiêu đã được đề ra. 
Quan niệm đó cho phép phân định rõ ràng hơn giữa QLNN với quản 
lý của các tổ chức chính trị, xã hội, kinh tế, đồng thời phân định với quản lý 
sản xuất kinh doanh trên các mặt: chủ thể quản lý, đối tượng quản lý, hệ 
thống công cụ quản lý, phạm vi hay giới hạn tác động quản lý, mục tiêu cần 
đạt. 
Như vậy, có thể quan niệm về QLNN đối với GTĐB là tổng thể các 
tác động của các cơ quan nhà nước có chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền được 
pháp luật quy định hoặc được phân cấp, uỷ quyền, thông qua hệ thống quan 
điểm, chiến lược, kế hoạch, chính sách, biện pháp, các công cụ, phương tiện 
và thực lực kinh tế tới lĩnh vực GTĐB nhằm đạt được mục tiêu của Nhà nước 
đã đề ra đối với ngành. 
Quản lý nhà nước về GTĐB chính là việc thực hiện đúng các chức 
năng của Nhà nước, gắn với quá trình nâng cao chất lượng và hiệu quả của 
việc quản lý, nhằm đảm bảo cho các hoạt động GTĐB có môi trường ổn định, 
có thể chế khuyến khích, có chiến lược và mục tiêu rõ ràng, cuối cùng đảm 
bảo cho nền kinh tế có hiệu quả. 
GTĐB là một phân ngành của ngành GTVT, song vận tải đường bộ và 
hệ thống GTĐB là hai mặt, hai loại hoạt động vừa có quan hệ ràng buộc lẫn 
nhau, vừa có tính độc tương đối với nhau. Sự ràng buộc lẫn nhau có một mục 
tiêu chung là hàng hoá được lưu thông nhanh nhất, an toàn, hiệu quả nhất 
nhằm phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Hệ thống GTĐB 
tốt, chất lượng cao sẽ tạo tiền đề cho vận tải hàng hoá bằng đường bộ một 
cách hiệu quả và vận tải hiệu quả sẽ góp phần phát triển kinh tế - xã hội và tạo 
tiền đề hoàn thiện hơn nữa hệ thống GTĐB. Nhưng giữa vận tải đường bộ và 
GTĐB có tính độc lập tương đối. 
Trong bối cảnh thực trạng kinh tế, xã hội, khoa học, công nghệ... của 
đất nước đang chuyển sang giai đoạn CNH, HĐH, tính tới xu hướng phát 
triển khoa học - công nghệ của thời đại mới, xu hướng toàn cầu hoá, quốc tế 
hoá, thì nội dung QLNN về lĩnh vực này phải được xác định đúng đắn, khoa 
học, thiết thực. 
- Những nội dung cơ bản QLNN nhằm phát triển hệ thống GTĐB: 
Trên cơ sở các nguyên tắc QLNN trong nền kinh tế thị trường, thể chế 
pháp luật xác định chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ, trách nhiệm và các nội 
dung cơ bản của QLNN về GTĐB. Những nội dung cơ bản về QLNN đối với 
GTĐB được lồng thép trong các nội dung cơ bản về QLNN đối với GTVT nói 
chung. Tuy nhiên, lĩnh vực GTĐB có tính độc lập rõ rệt cả về mạng lưới 
đường giao thông lẫn phương tiện và phương thức vận tải nên có thể bóc tách 
các nội dung cơ bản QLNN đối với GTĐB. Chủ thể QLNN đối với GTĐB là 
các cơ quan QLNN nói chung, trong đó tập trung ở các cơ quan chuyên về 
giao thông như Bộ Giao thông vận tải, Sở Giao thông vận tải ở các tỉnh... 
Theo mục tiêu nghiên cứu của luận văn, ở đây chỉ xem xét các nội 
dung QLNN gắn với mục tiêu phát triển hệ thống GTĐB. Về cơ bản, các nội 
dung này cũng chính là các nội dung QLNN nói chung đối với GTĐB. Tuy 
nhiên, xét trong mối quan hệ với sự phát triển của hệ thống GTĐB, chúng tôi 
tập trung phân tích những nội dung cơ bản QLNN trong chừng mực chúng có 
quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp thúc đẩy sự phát triển của hệ thống GTĐB (cả 
khía cạnh tĩnh của hệ thống - tức công năng và quy mô của hệ thống đường 
bộ, lẫn khía cạnh động của hệ thống - tức khả năng khai thác hệ thống GTĐB 
phục vụ phát triển vận tải đường bộ, phát triển kinh tế nói chung. Dưới góc độ 
đó, có 9 nội dung cơ bản sau đây: 
Thứ nhất, xác định đúng đắn mục tiêu phát triển hệ thống GTĐB của 
đất nước. 
Khoa học quản lý đã cung cấp cho các nhà quản lý những kiến thức cơ 
bản về hoạt động quản lý, đảm bảo quản lý sao cho có tầm nhìn, có chiến lược 
và hiệu quả cao nhất. Quản lý là một hoạt động có mục tiêu định trước. Vì 
vậy, QLNN nói chung, QLNN đối với sự phát triển hệ thống GTĐB nói riêng 
cần xác định chính xác và có hệ thống các mục tiêu cần đạt tới. Mục tiêu này 
là tiền đề, là tính phấn đấu, là cơ sở cho hàng loạt các hoạt động tiếp theo của 
QLNN đối với sự phát triển hệ thống GTĐB của quốc gia như chức năng quản 
lý, tổ chức bộ máy, cơ chế, chính sách, phương pháp, quyền hạn, nhiệm vụ... Hệ 
mục tiêu phát triển hệ thống GTĐB còn giúp Nhà nước định rõ hệ quan điểm, 
phương châm và bước đi phát triển các ngành khác của nền kinh tế quốc dân. 
Mục tiêu phát triển hệ thống GTĐB không thể thoát ly xa rời bối cảnh 
kinh tế, điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có của đất nước và phải nằm 
trong mục tiêu chung của ngành GTVT. Đồng thời hệ mục tiêu lựa chọn phải 
gắn với xu hướng phát triển kinh tế, khoa học - công nghệ của khu vực và thế 
giới, đặc biệt là sự phát triển của GTĐB thế giới và khu vực, cả về kỹ thuật 
làm đường lẫn kỹ thuật và tổ chức phương tiện vận tải. 
Ở đây cần quán triệt vai trò, tính chất đặc thù của GTĐB. Bởi vì bất 
kỳ một quốc gia nào, hệ thống giao thông bao gồm: giao thông hàng không, 
đường thuỷ, đường sắt, đường bộ. GTĐB chỉ là một phân ngành trong hệ 
thống đó. Đối với CHDCND Lào, vai trò của GTĐB hiện nay cũng như trong 
tương lai luôn là chủ đạo. Với địa hình khá thuận lợi, nhu cầu phát triển lớn, 
mục tiêu phát triển hệ thống GTĐB mang tính thách thức rõ rệt. 
Từ đó có thể nêu một cách khái quát nhất mục tiêu phát triển hệ thống 
GTĐB là: 
Xây dựng, phát triển một hệ thống GTĐB phù hợp với điều kiện kinh 
tế - xã hội đất nước, với xu hướng hiện đại hoá và có tác động tích cực, hiệu 
quả nhất đối với sự phát triển chung của ngành, của đất nước. 
Từ mục tiêu trên đây có thể nhận rõ, khi xác định mục tiêu phát triển, 
QLNN nhằm phát triển hệ thống GTĐB phải quán triệt các nội dung sau: 
Quản lý nhà nước nhằm phát triển hệ thống GTĐB là quá trình tác 
động của các cơ quan có chức năng, thẩm quyền nhất định bằng tổ chức, quan 
điểm, chiến lược, chính sách, công cụ, phương pháp, phương tiện... có tính 
chất nhà nước tới việc xây dựng, hình thành hệ thống GTĐB trong điều kiện 
kinh tế, xã hội, khoa học - công nghệ hiện tại và tương lai, đáp ứng nhu cầu 
phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, đối nội và đối ngoại của một 
quốc gia. Như vậy, mục tiêu đặt ra phải có căn cứ, khả thi, phù hợp với nền 
kinh tế và có tính thách thức, phục vụ tốt nhu cầu phát triển kinh tế. 
Mục tiêu phát triển hệ thống GTĐB phải được xem xét trên cơ sở 
chiến lược tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, trên cơ sở tiềm 
năng phát triển của nền kinh tế, của ngành và lĩnh vực có liên quan. Trên cơ 
sở trình độ khoa học - công nghệ hiện tại và tương lai. Đồng thời mục tiêu đó 
phải tính đến việc tổ chức và mở ra khả năng huy động mọi nguồn lực như vốn, 
công nghệ... trong và ngoài nước cho phát triển hệ thống GTĐB của đất nước. 
Mục tiêu đó còn phải kết hợp được các mục tiêu trong ngắn hạn và dài 
hạn, xác định bước đi, lộ trình, phương tiện, tổ chức quản lý để từng bước đạt 
mục tiêu cơ bản đã được đề ra. 
Mục tiêu phát triển hệ thống GTĐB còn phải được phân tích, đánh giá 
về mặt hiệu quả. Song QLNN được xem xét ở góc độ quản lý vĩ mô đối với 
ngành GTVT, do đó đánh giá hiệu quả về sự phát triển hệ thống GTĐB với tư 
cách là kết quả của QLNN, cần nhìn nhận theo quan điểm toàn diện, hệ thống, 
lịch sử cụ thể, định lượng và định tính. 
Thứ hai, xác định chức năng, thẩm quyền nhiệm vụ QLNN đối với GTĐB. 
Trên cơ sở mục tiêu phát triển hệ thống GTĐB đã được xác định trong 
mối quan hệ tổng thể với các phân ngành GTVT, cần xác định đúng đắn, có 
cơ sở khoa học các chức năng, thẩm quyền, nhiệm vụ và trách nhiệm của 
QLNN đối với GTĐB. Đây là tiền đề quan trọng đảm bảo cho hệ thống 
GTĐB phát triển tốt hay không tốt, bảo đảm cho việc sử dụng, khai thác có 
hiệu quả GTĐB cho sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội. 
Xác định đúng chức năng, thẩm quyền, nhiệm vụ, trách nhiệm QLNN 
đối với GTĐB là cơ sở để xây dựng bộ máy tổ chức quản lý hệ thống GTĐB. 
Đây là vấn đề quan trọng, có vai trò quyết định tính hiệu quả và hiệu lực của 
QLNN đối với GTĐB. 
Tuy vậy, theo kinh nghiệm tổ chức QLNN về lĩnh vực này ở các nước, 
không có mô hình mẫu chung cho mọi quốc gia khi xây dựng bộ máy QLNN 
đối với hệ thống GTĐB. Tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội, khoa 
học - công nghệ, tuỳ theo chế độ chính trị ở mỗi quốc gia, tuỳ thuộc đặc điểm 
tự nhiên, kinh tế, văn hoá của mỗi nước mà cơ cấu tổ chức bộ máy QLNN đối 
với hệ thống GTĐB được xây dựng một cách thích hợp. 
Dù khác nhau về mô hình tổ chức, song khi thực hiện chức năng 
QLNN về GTĐB, điểm giống nhau ở chỗ: thực hiện chức năng QLNN về lĩnh 
vực giao thông chuyên ngành là đường bộ, thẩm quyền, nhiệm vụ được xác định 
phù hợp với chức năng tương ứng và đòi hỏi phải có bộ máy chuyên môn về lĩnh 
vực này. Một cách khái quát có thể thấy rõ hai nội dung quan trọng sau: 
Trước hết, từ Trung ương đến địa phương, chính quyền cơ sở, phải 
đều thực hiện chức năng QLNN đối với chuyên ngành GTĐB, song khác 
nhau ở thẩm quyền. Ở cấp Trung ương thực hiện các nội dung quản lý vĩ mô, 
tạo dựng môi trường pháp luật, môi trường xã hội... cho phát triển GTĐB. 
Ngoài ra, Trung ương thường tổ chức đầu tư các công trình trọng điểm, công 
trình lớn về GTĐB. 
Mặt khác, ở địa phương, cơ sở thực hiện QLNN theo luật pháp, thể 
chế chính sách của nhà nước Trung ương, của cơ quan quản lý ngành GTĐB 
Trung ương, đồng thời đề ra chính sách, nội quy, quy chế quản lý phát triển 
GTĐB trên địa bàn lãnh thổ phù hợp với chủ trương, luật pháp Trung ương, 
phù hợp với điều kiện đặc thù của địa phương. Ở đây, xuất hiện nhu cầu phải 
kết hợp chặt chẽ quản lý ngành (chuyên về GTĐB) với sự quản lý phân cấp 
cho các địa phương. 
Thứ ba, xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển hệ thống GTĐB. 
Quản lý nhà nước phải làm rõ và giải quyết vấn đề đặt ra: phải làm gì 
để xây dựng được hệ thống GTĐB như mục tiêu đề ra? 
Để thực hiện nội dung này Nhà nước cần thực hiện hàng loạt công 
việc khác nhau có liên quan đến những vấn đề cơ bản cần giải quyết. Đó là 
xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển hệ thống GTĐB. Chiến 
lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình được đưa ra phải gắn với chiến lược 
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, gắn với xu thế vận động của ngành, lĩnh 
vực GTVT khu vực và thế giới. Giữa chiến lược và các công việc gắn liền với nó 
như quy hoạch, kế hoạch, chương trình thực hiện phải có mối quan hệ hệ thống. 
Thứ tư, xây dựng hệ thống pháp luật, chính sách, tạo dựng cơ sở pháp 
lý và môi trường thuận lợi cho phát triển hệ thống GTĐB. 
Hệ thống GTĐB không chỉ xem xét thuần tuý về mặt kỹ thuật, công 
nghệ, hay kinh tế mà còn được nhìn nhận dưới góc độ xã hội, môi trường, 
cảnh quan, kiến trúc, gắn với khai thác sử dụng, gắn với sự tham gia của các 
thành phần kinh tế khác nhau. Như vậy, phát triển GTĐB là một lĩnh vực có 
tính tổng hợp cao, do đó cần có hệ thống luật pháp chính sách được các cơ 
quan có chức năng, thẩm quyền của nhà nước ban hành, từ đó tạo cơ sở pháp 
lý và môi trường cho QLNN đối với ngành GTĐB cũng như các hoạt động 
nhằm phát triển hệ thống GTĐB của mỗi nước. 
Mặt khác, dưới tác động của sự phát triểnângỳ càng mạnh mẽ của 
khoa học - công nghệ hiện đại, GTĐB cũng biến đổi vừa mạnh, vừa nhanh 
nên việc xây dựng chính sách, luật pháp dễ rơi vào tình trạng vừa để trở nên 
lạc hậu, hoặc vừa thiếu lại vừa thừa. Tất cả những điều đó đòi hỏi môi trường 
pháp lý về GTĐB phải bảo đảm khuyến khích, hỗ trợ toàn dân, tất cả các loại 
hình doanh nghiệp tham gia phát triển và khai thác hệ thống GTĐB; đồng thời 
bảo đảm sự công bằng, minh bạch trong QLNN, đáp ứng các yêu cầu của hội 
nhập quốc tế về GTĐB... 
Thứ năm, thiết lập hệ thống tiêu chuẩn kinh tế - kỹ thuật, tiêu chuẩn 
chất lượng về xây dựng, quản lý, duy trì, bảo dưỡng hệ thống GTĐB sao cho 
phát triển bền vững, hậu quả. 
Việc thiết lập các tiêu chuẩn kinh tế - kỹ thuật phải xuất phát từ điều 
kiện kinh tế, kỹ thuật, công nghệ và năng lực quản lý của đất nước, vừa đảm 
bảo phù hợp với xu thế hiện đại hoá của thế giới. 
Các tiêu chuẩn được thiết lập và ban hành bởi cơ quan có chức năng, 
có thẩm quyền của nhà nước, là căn cứ để các doanh nghiệp, dân cư tuân thủ, 
đồng thời, là căn cứ để các cơ quan QLNN thực hiện kiểm tra, kiểm soát quá 
trình khai thác hệ thống GTĐB. 
Hệ thống tiêu chuẩn về GTĐB có ba nhóm chính. Nhóm thứ nhất liên 
quan đến tiêu chuẩn chất lượng các loại đường bộ và các yếu tố khác kèm 
theo (đường quốc lộ, tỉnh lộ, huyện lộ, giao thông nông thôn...). Nhóm thứ hai 
là các tiêu chuẩn, định mức trong xây dựng đường xá, cầu cống. Nhóm thứ ba 
là các tiêu chuẩn, định mức trong tổ chức quản lý, khai thác, sử dụng đường 
phục vụ vận tải hàng hoá và hành khách. 
Các tiêu chuẩn này phải được phổ biến cho các đối tác liên quan và phải 
được chấp hành thực hiện trong quá trình xây dựng, khai thác hệ thống GTĐB. 
Thứ sáu, thiết lập cơ chế quản lý ngành phù hợp với cơ chế quản lý 
của quốc gia và thông lệ quốc tế. 
Là một ngành vừa mang tính kinh tế - kỹ thuật, vừa mang tính văn 
hoá, xã hội... nên QLNN đối với GTVT nói chung, phát triển hệ thống GTĐB 
nói riêng phải đảm bảo vừa phù hợp với cơ chế quản lý kinh tế - xã hội của 
Nhà nước và phải phù hợp với tính đặc thù của ngành. Điều đó cho phép thực 
hiện đúng đắn, tốt nhất và hiệu quả nhất sự quản lý tập trung thống nhất trên 
cơ sở bảo đảm dân chủ, tự chủ cho cơ sở. Việc mở mang, xây dựng, phát triển 
một tuyến đường bộ, nhất là ở các khu vực đông dân, nhiều cảnh quan, hoặc ở 
vùng, vị trí liên quan tới an ninh quốc gia không thuần tuý là một con đường 
giao thông mà còn là vấn đề xã hội, môi trường, liên quan đến quần thể hệ 
thống kiến trúc và cảnh quan du lịch, là phòng tuyến quân sự bảo vệ đất nước, 
chủ quyền quốc gia. 
Hệ thống GTĐB của mỗi nước là một hệ thống liên hoàn do nhà nước 
thống nhất quản lý. Công trình GTĐB bao gồm nền đường, mặt đường, hè, 
hệ thống thoát nước, cầu cống, tường chắn, hầm ngầm, đường tràn, đường 
cứu nạn, bến phà, cầu phao, công trình chống va đập, hệ thống các biển báo, 
mốc giới, đường phân cách, cột cây số, cột tín hiệu giao thông, các công trình 
phụ trợ, bến xe, bãi đỗ, nhà chờ, hành lang bảo vệ công trình giao thông,... 
Trách nhiệm QLNN cần được quy định, phân công, phân cấp và pháp 
luật hoá bằng văn bản, đồng thời thể hiện rõ không chỉ trách nhiệm mà còn 
xác định rõ quan hệ, phối hợp giữa các cấp, cơ quan hữu quan trong QLNN 
nhằm phát triển hệ thống GTĐB. 
Khi triển khai quản lý các công trình nêu trên, Nhà nước phải có cơ 
chế rõ ràng, bảo đảm đủ mức chặt chẽ để tránh khai thác bừa bãi, phá hỏng các 
công trình GTĐB, đồng thời phải đủ mức khuyến khích để các cơ sở được giao 
nhiệm vụ quản lý tự giác chấp hành và có động lực quản lý, bảo vệ chúng. 
Cơ chế quản lý các công trình GTĐB phải là cơ chế phân cấp cho 
chính quyền địa phương và giao cho các tổ chức kinh tế (doanh nghiệp hoặc 
đơn vị sự nghiệp có thu) tổ chức quản lý cụ thể. Một số công trình và nội 
dung nhất định có thể giao cho cộng đồng dân cư địa phương tự quản lý. 
Thứ bảy, thực hiện thanh, kiểm tra, kiểm soát của nhà nước đối với sự 
phát triển và khai thác, sử dụng hệ thống GTĐB. 
Việc xác định chiến lược, quy hoạch, khung khổ pháp lý, cơ chế và 
xây dựng, phát triển hệ thống GTĐB là những công việc khó, song việc đảm 
bảo khai thác, duy trì, bảo dưỡng và phát triển một cách có hiệu quả hệ thống 
GTĐB còn khó hơn nhiều. 
Vì vậy, ngoài những nội dung QLNN như đã đề cập ở trên, còn phải 
xác định rõ nội dung, cơ chế, chính sách, phương thức thanh kiểm tra, kiểm 
soát của Nhà nước nhằm đảm bảo thực sự việc phát triển và khai thác hệ 
thống GTĐB có hiệu quả và đúng pháp luật. 
Tương ứng với mỗi cấp QLNN mà xác định chức năng, thẩm quyền, 
nhiệm vụ, nội dung thanh tra, kiểm tra, kiểm soát hoạt động GTĐB từ quy 
hoạch, kế hoạch, thi công xây dựng... nghiệm thu đến quản lý khai thác, duy 
tu, bảo dưỡng một cách phù hợp, thiết thực. 
Thứ tám, tổ chức bộ máy QLNN, các cơ quan nghiên cứu chuyên ngành 
và hệ thống đào tạo cán bộ, công nhân viên chức phục vụ phát triển GTĐB. 
Là một phân ngành có tính tổng hợp nhiều mặt, hệ thống GTĐB chỉ 
có thể phát triển có hiệu quả nếu được tổ chức quản lý và nghiên cứu một 
cách có cơ sở khoa học và điều đó phụ thuộc vào trình độ tổ chức, quản lý của 
các cơ quan QLNN, các cơ sở nghiên cứu khoa học chuyên ngành, và phải có 
đội ngũ cán bộ, công nhân viên chức có trình độ chuyên môn đủ sức đáp ứng 
được nhu cầu QLNN và tổ chức thi công, khai thác, duy trì, phát triển hệ 
thống GTĐB. 
Thứ chín, mở rộng hợp tác quốc tế về phát triển GTĐB. 
Ngày nay, bất kỳ một quốc gia nào, nhất là các nước kém và đang 
phát triển, muốn phát triển GTVT nói chung và GTĐB nói riêng thì phải mở 
rộng quan hệ hợp tác quốc tế về nhiều mặt như khoa học - công nghệ, kỹ năng 
QLNN và quản lý các dự án xây dựng, chiến lược phát triển GTĐB, hợp tác 
đào tạo, cung cấp trang thiết bị máy móc nghiên cứu khoa học, thiết bị thi 
công xây dựng, chuyên gia, cố vấn. Ngoài ra, xây dựng hệ thống GTĐB yêu 
cầu một lượng vốn lớn, vì vậy đối với những nước nghèo thì đó là một giải 
pháp tốt để phát triển hệ thống GTĐB. 
Toàn bộ chín nội dung cơ bản của QLNN nhằm phát triển hệ thống 
GTĐB trên đây hợp thành một chỉnh thể, có tính hệ thống, nhất quán. Chúng 
có thể tác động tích cực đến sự phát triển của GTĐB, có thể gây trở ngại cho 
nhau nếu chúng không được xác định, thực hiện một cách nghiêm túc, đúng đắn. 
Tuy vậy, cùng với sự phát triển chung của xã hội thì GTĐB cũng 
không ngừng được hoàn thiện và phát triển, do vậy nội dung QLNN về lĩnh 
vực GTĐB cũng cần và tất yếu được đổi mới, hoàn thiện tương ứng. 
1.4. KINH NGHIỆM QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI GIAO THÔNG 
ĐƯỜNG BỘ CỦA VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ NƯỚC KHÁC Ở ĐÔNG NAM Á 
1.4.1. Một số kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với sự phát triển 
giao thông đường bộ Việt Nam 
- Về môi trường pháp luật: 
Hệ thống pháp luật và thể chế được Nhà nước Việt Nam coi là điều 
kiện quan trọng và cần thiết không chỉ đối với việc điều tiết kinh tế nhà nước, 
mà còn cho chính bản thân sự phát triển GTVT nói chung, GTĐB nói riêng. 
Hệ thống kiểm tra, xử phạt các hoạt động vận tải vi phạm luật và quy chế ngành 
được tổ chức lại và nâng cao hiệu lực hoạt động. Giai đoạn từ 1990-1992 Việt 
Nam mới xây dựng được hai bộ luật cho GTVT, đó là Bộ luật Hàng hải và Luật 
Hàng không. Đây là thành tựu đáng kể từ khi thành lập Bộ GTVT để bước đầu 
đưa hoạt động GTVT đặt dưới sự giám sát và quản lý của luật pháp. 
Năm 1998 Việt Nam đã ban hành Luật Đường bộ, đến năm 2004 ban 
hành Luật Đường thuỷ nội địa. 
Cùng với hệ thống luật, Nhà nước Việt Nam tích cực ban hành các văn 
bản dưới luật như Nghị định, Thông tư, Quy chế, định mức, tiêu chuẩn... tạo 
khung khổ pháp lý cần thiết để phát triển, khai thác và điều tiết hệ thống GTĐB. 
Nhìn chung, nhà nước Việt Nam đã và đang hoàn chỉnh hệ thống pháp 
luật, tạo cơ sở pháp lý đủ mạnh cho quản lý GTVT nói chung và GTĐB nói riêng. 
Mặc dù hệ thống khung khổ pháp luật về GTĐB của Việt Nam còn chưa được 
hoàn thiện nhưng đã có tác động tốt, đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước. 
- Về chiến lược phát triển GTVT: 
Chiến lược phát triển GTVT nói chung, GTĐB nói riêng luôn được 
Việt Nam chú ý, nhất là trong việc xác định mục tiêu, hoạch định chiến lược 
phát triển kinh tế - xã hội, được thể hiện ở các chương trình, dự án, kế hoạch 
xây dựng hệ thống GTVT, trong đó có xây dựng hệ thống GTĐB. 
Quan điểm của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam là: phấn đấu 
sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển. Về chiến lược phát triển 
GTVT nói chung và GTĐB nói riêng ở Việt Nam thể hiện tính thống nhất 
toàn ngành, không có sự chia cắt giữa các chuyên ngành, chia cắt thị trường, 
nhờ đó tạo ra một mạng lưới kết cấu hạ tầng về GTĐB có khả năng đáp ứng 
được các yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội cho từng giai đoạn, cho từng địa 
bàn kinh tế, trong từng giai đoạn chiến lược phát triển GTĐB ở Việt Nam, 
nằm trong chiến lược phát triển GTVT. Quan điểm đúng đắn của Việt Nam là 
GTVT phải đi trước một bước, làm tiền đề để phát triển kinh tế - xã hội và 
phương hướng chiến lược chung của phát triển GTĐB là phải đạt mục tiêu tạo 
cho nền kinh tế phát triển nhanh và ổn định, đón đầu và đáp ứng được nhiệm 
vụ khi nền kinh tế tăng trưởng ở mức cao hơn. 
Nhà nước Việt Nam đã thực hiện chức năng quản lý của mình trong 
lĩnh vực phát triển hệ thống GTVT nói chung, trong đó có hệ thống GTĐB 
thông qua việc điều tiết và bố trí vốn phát triển GTĐB trong các kế hoạch 
trung hạn 3 năm, 5 năm và chương trình dài hạn 10 - 20 năm. Khi xây dựng 
kết cấu hạ tầng giao thông của Việt Nam cũng cần một lượng vốn rất lớn. Vì 
vậy, trong chiến lược phát triển GTVT, Nhà nước Việt Nam cũng đã lập kế 
hoạch tạo vốn, kể cả các công trình đầu tư theo phương thức BOT từ nguồn 
vốn tư nhân trong nước và nước ngoài. 
Kế hoạch về vốn phát triển GTĐB của Việt Nam cũng đã đảm bảo kết 
hợp giữa dài hạn và ngắn hạn, đáp ứng được kế hoạch phát triển GTVT của 
từng vùng, của lãnh thổ và đã được Nhà nước phê duyệt, điều phối và quản lý 
khá tốt. 
- Về chính sách huy động vốn và sử dụng vốn hợp lý theo hướng ưu 
tiên phát triển kết cấu hạ tầng GTVT, Việt Nam cũng đã làm khá tốt. Nhưng 
việc huy động vốn và sử dụng vốn hợp lý cho các công tình GTVT là một vấn 
đề lớn. Theo kinh nghiệm của Việt Nam thì giải pháp huy động vốn phải bằng 
nhiều nguồn, trong nước và ngoài nước, bằng nhiều hình thức, phải xác định 
rõ đặc điểm và khả năng từng nguồn vốn. 
Các giải pháp của Việt Nam trong việc khai thác vốn để đầu tư xây 
dựng kết cấu hạ tầng GTVT đã được áp dụng có kết quả gồm: 
- Huy động các nguồn vốn nước ngoài: 
Các nguồn vốn nước ngoài đã được Việt Nam huy động phát triển 
GTĐB gồm có: 
+ Nguồn vốn viện trợ của các nước và tổ chức quốc tế bao gồm vốn 
vay viện trợ phát triển chính thức ODA và viện trợ không hoàn lại. 
+ Nguồn vốn đầu tư trực tiếp của các công ty nước ngoài (FDI). Đây 
là hình thức đầu tư mang lại hiệu quả cao cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh 
tế nước ngoài bằng việc đưa vốn bằng tiền, máy móc thiết bị, công nghệ vào 
Việt Nam. Các doanh nghiệp, tổ chức này, sau khi được cấp giấy phép đầu tư sẽ 
xây dựng các dự án kết cấu hạ tầng GTĐB. Sau khi hoàn thành sẽ khai thác kinh 
doanh thu lợi nhuận và hai bên cùng có lợi. Ví dụ dự án Phú Mỹ Hưng đã phát 
triển một khu đô thị hiện đại với mạng đường giao thông phục vụ dân sinh. 
+ Vốn vay thương mại của nước ngoài. Là nguồn vốn mà phía Việt Nam 
trực tiếp vay của Chính phủ, của các ngân hàng, của các công ty nước ngoài hoặc 
của các tổ chức quốc tế và được sử dụng cho lĩnh vực phát triển GTVT. 
Vốn vay thương mại nước ngoài có điều kiện chặt chẽ, trả nợ vay 
phức tạp, lãi suất cho vay cao và bên cho vay thường yêu cầu có bảo lãnh của 
các ngân hàng phía Việt Nam. Nếu việc sử dụng vốn vay kém hiệu quả thì 
khả năng trả nợ sẽ rất khó khăn, phức tạp và có thể dẫn tới sự khủng hoảng tài 
chính tiền tệ trong nước. 
- Khai thác nguồn vốn trong nước: 
Để xây dựng kết cấu hạ tầng GTVT, ngoài nguồn vốn nước ngoài thì 
Chính phủ Việt Nam cũng coi trọng nguồn vốn trong nước, bao gồm: 
+ Vốn đầu tư ngân sách nhà nước. 
Mặc dù ngân sách nhà nước Việt Nam còn rất khó khăn, hàng năm 
ngân sách bội chi 2-5% GDP, song nhà nước Việt Nam vẫn ưu tiên từ 3-4% 
trong tổng số vốn chi của ngân sách cho đầu tư GTVT. Như vậy có thể thấy 
nhà nước Việt Nam rất chú trọng đến phát triển kinh tế trong đó có GTĐB. 
+ Huy động tiền tiết kiệm của dân và tiền gửi của các doanh nghiệp ở 
các ngân hàng. 
Trong những năm qua, các ngân hàng của Việt Nam đã sử dụng vốn 
huy động để cho vay xây dựng các công trình GTĐB với lượng vốn khá lớn. 
Trong đó các ngân hàng chú ý cho vay các công trình giao thông có hiệu quả 
kinh tế, có khả năng thu hồi vốn nhanh, theo hướng ưu tiên của nhà nước. 
Nhiều công trình GTĐB đầu tư theo các phương thức BOT, BT, đổi đất lấy hạ 
tầng đã được các doanh nghiệp thực hiện với nguồn vốn vay từ các ngân hàng 
thương mại, đáp ứng nhu cầu phát triển GTĐB của Việt Nam. 
- Kiểm tra việc thi hành pháp luật: 
Kiểm tra việc thi hành pháp luật về GTVT nói chung, trong đó có 
GTĐB được thực hiện thống nhất từ Trung ương xuống các địa phương. 
Nghiệp vụ kiểm tra và thanh tra được tiến hành theo quy định của Tổng 
Thanh tra nhà nước và các cơ quan thanh tra, kiểm tra chuyên ngành của Bộ, 
Cục, Sở. Mặt khác, Việt Nam đã triển khai tổ chức thanh tra liên ngành, thanh 
tra đặc nhiệm và các hoạt động kiểm tra mang tính kỹ thuật để kiểm tra an 
toàn phương tiện, kiểm tra thủ tục kinh doanh, kiểm tra tải trọng... 
Ngành giao thông Việt Nam còn giúp đỡ các cấp chính quyền địa 
phương trong việc kiểm tra thi hành luật lệ giao thông như việc bảo vệ hành 
lang giao thông, chống lấn chiếm lòng, lề đường, bảo đảm việc đi lại đúng 
luật, nhất là hiện nay khi một số công trình giao thông hiện đại được đầu tư 
xây dựng càng đòi hỏi tuân thủ nghiêm túc trong quản lý sử dụng. 
Mặc dù công tác kiểm tra, thanh tra của GTĐB của Việt Nam vẫn còn 
nhiều bất cập, cần tiếp tục hoàn thiện nhưng những năm qua, về cơ bản, đã có 
tác động tốt, góp phần bảo đảm phát triển giao thông và khai thác hiệu quả 
mạng lưới đường và phương tiện vận tải. Bất cập lớn nhất của công tác kiểm 
tra GTĐB là chưa bảo đảm sự tuân thủ nghiêm ngặt Luật Giao thông đường 
bộ và các quy định ngành trong giao thông, dẫn đến tỷ lệ tai nạn giao thông 
cao, lạm dụng hành lang, chạy quá tải... 
- Công tác đào tạo: 
Chính phủ Việt Nam đã cho rằng, để đưa đất nước thực hiệncông 
nghiệp hoá, hiện đại hoá, phải coi trọng cách mạng về khoa học - công nghệ. 
Trong công tác đào tạo kể cả đào tạo, mới và đào tạo lại, phục vụ phát triển 
GTĐB, Chính phủ Việt Nam chú trọng các nội dung sau: 
- Nâng cao kiến thức về khoa học - kỹ thuật và công nghệ mới, sử dụng 
phương tiện, thiết bị mới, quy trình quy phạm mới... trong GTVT và GTĐB. 
- Nâng cao kiến thức về quản lý từ QLNN đến quản lý doanh nghiệp 
trong lĩnh vực GTVT, GTĐB. Các nội dung đó được đưa vào từng chương 
trình cụ thể trong công tác đào tạo. 
- Phát triển các kỹ năng về quản lý nhà nước, quản lý hệ thống đường 
bộ và các công trình phụ trợ như thông tin tín hiệu, phân luồng giao thông, tổ 
chức giao thông lập thể, giao thông tỉnh… 
Về đào tạo mới, từ đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật, đào tạo cán bộ kỹ 
thuật trung cấp, đại học được xem xét lại và đổi mới về nội dung, chương trình, 
phương pháp dạy và học nội dung mới và yêu cầu mới của ngành GTVT và GTĐB. 
Về đào tạo lại, Việt Nam đã coi đào tạo lại là việc làm thường xuyên, 
không phải đặc thù riêng của ngành GTVT. Tại vì với sự phát triển nhanh 
chóng của khoa học - kỹ thuật, quá trình hội nhập kinh tế của khu vực và thế 
giới, đòi hỏi các cán bộ quản lý, các cán bộ khoa học kỹ thuật phải tiếp thu 
những thành tựu mới của khoa học tiên tiến và phải có khả năng giao tiếp trực 
tiếp với các cán bộ kỹ thuật và chuyên gia nước ngoài để nắm bắt được đầy 
đủ thông tin cho công việc của ngành GTVT và GTĐB. 
Những thành quả và kinh nghiệm của Việt Nam về QLNN nhằm phát 
triển hệ thống GTVT nói chung và GTĐB nói riêng cho thấy, việc nhận thức 
đúng vị trí ngành GTVT và GTĐB, phải coi ngành giao thông là ngành kết 
cấu hạ tầng đi trước một bước, đáp ứng được nhu cầu vận tải của nền kinh tế 
quốc dân. Hơn nữa, xác định rõ, có căn cứ vững chắc chiến lược phát triển 
giao thông, trong đó chú trọng phát triển GTĐB. Đồng thời, yếu tố bảo đảm 
thành công là phải mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế để nâng cao năng lực quản 
lý ngành. Cuối cùng, tập trung đào tạo tại chỗ thông qua các dự án GTVT một 
đội ngũ cán bộ, chuyên gia, công nhân kỹ thuật bậc cao chuyên ngành GTVT 
trong đó có GTĐB, kết hợp đào tạo tại chỗ với đào tạo mới, bổ sung từ nguồn 
cán bộ trẻ để phát triển đội ngũ cán bộ QLNN lâu dài có trình độ cao. 
Với những thành tựu đã đạt được về quản lý GTĐB thì Việt Nam cũng 
còn những thiếu sót, yếu kém. Đó là: 
 Tổ chức triển khai nhiều dự án phát triển GTVT, GTĐB còn chậm 
và thời gian của dự án còn kéo dài. 
 Trong QLNN đối với xây dựng, phát triển GTĐB còn để hệ thống 
hành chính gây ách tắc, cản trở sự phát triển, kể cả những dự án đầu tư nước 
ngoài cho GTĐB. 
 Công tác đền bù, giải toả mặt bằng cho xây dựng nói chung và xây 
dựng đường bộ nói riêng vừa lạc hậu, vừa chậm, vừa tốn kém quá lớn. 
 Còn để tình trạng tham nhũng, lãng phí quá lớn và đi liền với nó là 
chất lượng các công trình GTĐB chưa đảm bảo chất lượng. Việc tổ chức quản 
lý đầu tư GTĐB còn sơ hở dẫn đến những vụ tham nhũng điển hình như vụ 
PMU18 gần đây. 
 Hiệu lực pháp lý của QLNN trong giao thông nói chung và GTĐB 
nói riêng còn yếu. 
 Quản lý nhà nước về trật tự an toàn GTĐB còn yếu kém, tai nạn 
giao thông đường bộ vẫn xảy ra khá nghiêm trọng. Trong tổng số các vụ tai 
nạn giao thông thì tai nạn GTĐB chiếm đến 70%. 
Những kinh nghiệm của Việt Nam trong QLNN về phát triển GTVT 
nói chung và xây dựng hệ thống GTĐB nói riêng cả thành công và yếu kém, 
là những bài học đối với CHDCND Lào. Những kinh nghiệm đó cần được 
nghiên cứu để áp dụng vào điều kiện cụ thể của nước CHDCND Lào trong 
công cuộc xây dựng và hiện đại hoá hệ thống GTĐB còn rất yếu kém của 
Lào. 
1.4.2. Kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với phát triển giao thông 
đường bộ của một số nước khác ở Đông Nam Á 
Nhiều nước Đông Nam Á có kinh nghiệm phát triển GTĐB và đã triển 
khai rất tốt công tác QLNN về lĩnh vực này. Thành công điển hình là ở 
Singapore và Malaysia. Ở đây, luận văn chỉ tập trung phân tích bốn nội dung 
hữu ích cho việc vận dụng vào điều kiện CHDCND Lào, đó là: cơ chế về thu 
phí giao thông, triển khai luật, đào tạo và các biện pháp huy động vốn đầu tư. 
- Cơ chế thu hồi vốn phát triển hệ thống giao thông được thiết lập và 
thực hiện trong nền kinh tế thị trường ở một số nước: 
Nhiều nước coi kết cấu hạ tầng GTVT như sản phẩm hàng hoá. Người 
làm ra sản phẩm và quản lý nó là Nhà nước. Người sử dụng kết cấu hạ tầng 
GTVT là các đối tượng trong xã hội. Với ý nghĩa đó, Nhà nước thống nhất 
quản lý mạng lưới GTVT và Nhà nước thống nhất ban hành chế độ chính sách 
để tạo nguồn bù đắp chi phí bỏ ra từ các đối tượng xã hội sử dụng kết cấu hạ 
tầng GTVT nhằm tái tạo, duy trì mạng lưới GTVT. 
+ Ở Inđônêxia Chính phủ áp dụng thuế bán buôn nhiên liệu, phí đăng 
ký đầu xe ô tô vận tải theo các loại trọng tải khác nhau. 
+ Ở Philippin: Ngoài việc đánh thuế bán buôn nhiên liệu, còn thu thuế 
bán buôn cả các hàng vận chuyển và thu thuế xe chạy trên con đường cao tốc 
ở ngoại ô thành phố Manila. 
+ Ở Thái Lan: Thu từ thuế xăng, dầu Diezen chiếm khoảng 2/3 tổng lệ 
phí sửa chữa đường bộ. Ngoài ra, còn trực tiếp thu phí đường bộ ở các đường 
cao tốc. 
+ Ở Singapore: Trực tiếp thu phí đường bộ và thuế tiêu thụ đặc biệt đối với 
ô tô, vừa để đảm bảo chi phí duy trì, vừa hạn chế sử dụng ô tô trong thành phố. 
- Về môi trường pháp luật: 
Hệ thống pháp luật và thể chế được nhiều nhà nước coi là điều kiện rất 
quan trọng và cần thiết, không chỉ đối với việc điều tiết kinh tế nhà nước, mà 
còn tác động trực tiếp tới chính bản thân sự phát triển GTĐB. Hiện nay, nhà 
nước khối ASEAN đang hoàn chỉnh hệ thống pháp luật của mình về GTĐB 
với tốc độ khác nhau. 
Sau đây là một số luật của một số nước trong khối ASEAN liên quan 
đến GTĐB. 
+ Philippin có bộ luật về GTVT trên bộ năm 1964. 
+ Malaysia: có luật GTĐB năm 1987. 
+ Thái Lan có đạo luật GTĐB năm 1979; đạo luật về xe cơ giới năm 
1979; và đạo luật xe không có động cơ năm 1979. 
+ Myanmar: có luật về xe cơ giới năm 1964. 
Như vậy, ta thấy, luật về GTĐB phải được ban hành rất sớm, bảo đảm 
cho việc phát triển GTĐB tuân thủ pháp luật ngay từ giai đoạn đầu phát triển. 
- Xây dựng đội ngũ các nhà quản lý ngành: 
Rất nhiều nhà kinh tế và hoạt động chính sách, khi tổng kết các thành 
công của các nước và ASEAN, đều nhấn mạnh đến hai yếu tố cơ bản quyết 
định sự thành công trong quản lý: có quyết tâm cao thực hiện các mục tiêu 
kinh tế; có đội ngũ lãnh đạo mạnh và có năng lực. 
Trên thực tế, ở nhiều nước Đông Nam Á, quyết tâm phát triển GTĐB 
trong hệ thống GTVT được khởi đầu bằng quyết tâm của những nhà lãnh đạo 
đầy nhiệt tình, nhiều tham vọng (hiểu theo nghĩa tích cực), có sức mạnh và uy 
tín để tập trung xung quanh mình những nhân tài của đất nước, hình thành đội 
ngũ quan chức và quản lý thực sự tin vào sự phát triển của quốc gia. Bên cạnh 
đội ngũ quản lý, Chính phủ nhiều nước Đông Nam Á rất coi trọng việc tuyển 
lựa, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ QLNN, coi trọng sự đóng góp của đội ngũ trí 
thức của đất nước, khai thác tiềm năng chất xám của họ cho sự nghiệp phát 
triển kinh tế đất nước nói chung và GTĐB nói riêng. Tất cả các quan chức 
QLNN chủ chốt đều được đào tạo bài bản. Đối với ngành GTVT không phải 
một ngoại lệ. 
- Biện pháp huy động các nguồn vốn đầu tư vào GTVT: 
Theo kinh nghiệm của nhiều nước Đông Nam Á khi xây dựng kết cấu 
hạ tầng GTĐB, vốn có thể lấy ở nhiều nguồn khác nhau. Sau đây là sáu nguồn 
vốn chính: 
- Nguồn kinh phí được thu về từ các đối tượng trực tiếp hoặc gián tiếp 
sử dụng phương tiện giao thông vận tải trên các tuyến GTĐB: 
Loại đối tượng trực tiếp bao gồm các phương tiện vận tải có kích 
thước, trọng tải, động cơ, sức kéo khác nhau di chuyển trên đường làm hao 
mòn, huỷ hoại mặt đường. Loại này có thể thu trực tiếp ngay đối tượng sử 
dụng và các đơn vị quản lý kết cấu hạ tầng tổ chức thu. Loại đối tượng sử 
dụng gián tiếp là nhờ có mạng lưới GTĐB nối liền các vùng kinh tế, dân cư, 
đô thị, nhà máy, hầm mỏ... tạo thêm phần sinh lợi được chuyển đổi vào các 
sản phẩm, khi bán sản phẩm được thu về, và cũng nhờ có mạng lưới đường 
mà các cơ sở kinh tế mới tiếp nhận nguyên liệu, vật liệu và sức lao động 
chuyển đổi tạo thành giá trị sản phẩm. Vì vậy các cơ sở kinh tế cũng phải 
trích một phần thu nhập nộp lại để góp phần bảo dưỡng, duy trì kết cấu hạ 
tầng giao thông. Việc thu ở đối tượng sử dụng gián tiếp được thực hiện thông 
qua các loại thuế tiêu thụ sản phẩm. Người thu là nhà nước, sau đó trích phần 
tương ứng để phân phối lại cho việc duy trì, bảo dưỡng mạng lưới GTĐB. 
- Thu phí qua cầu lớn, đường cao tốc: 
Vì vốn xây dựng các cầu lớn vượt sông, và đường cao tốc ra vào thành 
phố, sân bay, bến cảng và khu công nghiệp là rất lớn... Nhà nước hoặc chủ dự 
án được tuyển chọn phải bỏ ra số vốn rất lớn, thời gian hoàn vốn lâu, có thể từ 
20 đến 30 năm mới thu hồi được. Các nước đều có chính sách thu phí của các 
đối tượng trực tiếp sử dụng. Nhà nước bảo đảm sự lựa chọn cho các đối tượng 
thấy rõ việc sử dụng công trình và nộp lệ phí có lợi hơn so với sử dụng các 
đường đi khác mà hứồc thể lựa chọn. Nhà nước và các đối tượng sử dụng đều 
có lợi: Nhà nước thu hồi được vốn để đầu tư vào công trình khác, các đối 
tượng sử dụng nâng cao hiệu quả vận tải trong sản xuất, kinh doanh và đi lại... 
- Vốn đầu tư bằng hình thức BOT: 
Các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp tư nhân trong và ngoài nước có 
thể liên doanh bỏ vốn, được phép của Chính phủ, xây dựng một số công trình 
kết cấu hạ tầng GTĐB. Sau khi xây dựng xong, được hưởng đặc quyền khai 
thác công trình trong một thời gian nhất định. Thời gian khai thác được tính 
từ khi bắt đầu khai thác công trình, có thể đến 30 năm, tuỳ theo cụ thể loại 
công trình. Trong thời gian khai thác, chủ đầu tư BOT có nghĩa vụ bảo dưỡng, 
duy trì công trình. Hết thời gian khai thác, công trình sẽ được chuyển giao 
quyền sở hữu cho Chính phủ. Hình thức đầu tư BOT được xem như một giải 
pháp tài trợ cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng mà Chính phủ có thể bảo lãnh 
trực tiếp về các khoản tiền vay đầu tư vào xây dựng. 
Thông qua hình thức đầu tư BOT, sẽ giúp Chính phủ giải quyết được 
những khó khăn về tài chính trong quá trình phát triển kết cấu hạ tầng GTĐB. 
Đối với các doanh nghiệp tư nhân, các cá nhân và các tập đoàn kinh tế, 
phương thức đầu tư BOT sẽ tạo điều kiện cho họ tham gia vào việc xây dựng 
kết cấu hạ tầng mà trước đây thường do Chính phủ thực hiện. Hình thức đầu 
tư BOT, ngày nay đã được nhiều nước chấp nhận là một trong những phương 
thức tổ chức kinh tế, các tổ chức đầu tư và khai thác các công trình GTĐB rất 
hiệu quả. Hình thức đầu tư "BOT" đã được áp dụng rộng rãi ở Thái Lan, 
Malaysia. 
- Nhà nước phát hành trái phiếu, tín phiếu công trình. Để xây dựng 
kết cấu hạ tầng GTĐB, hình thức tín phiếu có thể giúp thu hút nguồn vốn 
nhàn rỗi của nhiều đối tượng như: các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp 
tư nhân, các tổ chức kinh tế, các cá nhân trong nước và ngoài nước. Khi áp 
dụng hình thức này, các nước đều chú ý xây dựng cơ chế chính sách để huy 
động vốn, đó là thời hạn cam kết trả vốn và mức lãi vay. 
- Vốn viện trợ và vay dài hạn của các tổ chức quốc tế. Đó là các tổ 
chức ngân hàng thế giới (WB), ngân hàng phát triển châu Á (ADB), IMF 
hoặc Chính phủ các nước phát triển. Vốn vay dài hạn với lãi suất ưu đãi của 
các tổ chức trên đang được áp dụng để phát triển GTĐB và cho hiệu quả tốt. 
- Vốn tiết kiệm và tích luỹ trong nước của các doanh nghiệp, các tổ 
chức kinh tế và trong nội bộ nhân dân. Đây là nguồn vốn cần được khai thác 
và sử dụng có hiệu quả. Muốn thu hút được nguồn vốn này cần có những 
chính sách đúng đắn về lãi suất huy động. 
1.4.3. Những bài học kinh nghiệm đối với Cộng hoà dân chủ nhân 
dân Lào qua kinh nghiệm của Việt Nam và các nước khác ở Đông Nam Á 
CHDCND Lào và Việt Nam cũng như nhiều nước khác ở Đông Nam 
Á có nhiều đặc điểm tương đồng và có những mối quan hệ tốt trong xây dựng 
kết cấu hạ tầng GTVT. Vì vậy kinh nghiệm của Việt Nam và các nước khác ở 
Đông Nam Á về phát triển và quản lý GTĐB là những bài học kinh nghiệm 
quý báu đối với CHDCND Lào. Điều đó thể hiện qua các nội dung sau: 
- Phát triển GTĐB phải đi trước một bước: 
Muốn phát triển kinh tế phải có các điều kiện kết cấu hạ tầng, trong đó 
GTĐB đóng vai trò chủ lực. Đối với CHDCND Lào, điều này lại càng quan 
trọng vì ở Lào giao thông đường sắt khó phát triển, giao thông thủy rất khó 
khăn. Phát triển GTĐB sẽ tác động hỗ trợ phát triển các ngành sản xuất, giúp 
tăng trưởng kinh tế và xoá đói giảm nghèo. 
- Phát triển GTĐB phải chú ý khâu quy hoạch và đảm bảo hệ thống 
luật pháp: 
Mạng lưới GTĐB khi xây dựng và phát triển cần có quy hoạch và khai 
thác cùng với sự duy trì luật pháp. Thiếu quy hoạch tất yếu dẫn đến phát triển 
vô tổ chức, lãng phí đầu tư. Còn nếu phát triển mà không có hệ thống luật 
pháp triển khai sẽ dẫn đến các hậu quả xấu như tai nạn, tắc ghẽn giao thông, ô 
nhiễm môi trường... 
- Huy động và sử dụng hợp lý vốn nước ngoài: 
Nguồn vốn đầu tư cho xây dựng hạ tầng GTĐB rất lớn. Nếu chỉ trông 
chờ vào vốn trong nước sẽ rất khó khăn. CHDCND Lào cần tranh thủ các 
nguồn vốn nước ngoài như UNDP, SIDA, Ngân hàng phát triển châu Á 
(ADB), Ngân hàng thế giới (WB)... Các nguồn vốn này có thể là nguồn tài trợ 
không hoàn lại, nguồn vốn vay với lãi suất ưu đãi và thời hạn hoàn trả dài. 
Muốn thu hút được nguồn vốn nước ngoài, phải tuyên truyền, xúc tiến 
đầu tư, cung cấp thông tin về những cơ hội làm ăn của nhà nước với những 
nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực phát triển hệ thống giao thông. 
Phải công khai quy hoạch phát triển một số trục đường giao thông, 
nhất là những trục đường dẫn đến những khu kinh tế trọng điểm và có những 
quy định thích hợp đáp ứng yêu cầu thu hút vốn của các nhà đầu tư. 
Cần phải bỏ một số vốn ban đầu để chuẩn bị sẵn các dự án đầu tư xây 
dựng các công trình giao thông, các dự án đó phải được chuẩn bị kỹ càng, thật 
khoa học, có tính khả thi cao để khi có thời cơ thuận lợi là cung cấp được 
ngay cho các đối tác đầu tư nước ngoài. 
Khi đã có được nguồn vốn thì nhà nước phải sử dụng nguồn vốn có 
hiệu quả, hợp lý. 
- Nâng cao năng lực điều hành bộ máy quản lý GTĐB: 
Để thực hiện tốt công cuộc cải cách kinh tế, điều hành GTĐB từ khó 
khăn yếu kém đến phát triển, điều trước tiên và quan trọng nhất là phải xây 
dựng được bộ máy có năng lực, gọn nhẹ có sự kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế 
và chính trị, giữa GTĐB với các ngành, lĩnh vực kinh tế - xã hội khác. 
Qua thực tế của các nước Đông Nam Á và Việt Nam, sự phối hợp 
giữa các chính sách và những điều kiện có sẵn của đất nước có ý nghĩa rất 
lớn. Bài học này giúp cho Lào khi đề ra những chiến lược tổng hợp phải làm sao 
để chiến lược phù hợp với năng lực, thể chế và những điều kiện khác của đất 
nước. 
Phải xây dựng bộ máy quản lý nói chung và quản lý ngành GTĐB nói 
riêng có hiệu lực, hiệu quả, đồng thời phải ra sức chống tệ nạn quan liêu cửa 
quyền của bộ máy quản lý, làm cho bộ máy năng động gọn nhẹ. Đây là những 
vấn đề lớn đối với CHDCND Lào hiện nay. 
Tóm lại, những thành công mà một số nước Đông Nam Á và Việt 
Nam đã trải qua là bài học quý báu để CHDCND Lào rút kinh nghiệm. Chất 
lượng các chính sách, và khả năng biến chính sách thành hành động, đã đưa 
các nước Đông Nam Á từng bước phát triển là bài học quý giá cho CHDCND 
Lào trong phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và phát triển GTVT nói chung 
và GTĐB nói riêng. 
Chương 2 
THỰC TRẠNG HỆ THỐNG GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ 
VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ 
Ở TỈNH XA VĂN NA KHỆT 
2.1. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI TÁC ĐỘNG TỚI SỰ 
PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ CỦA TỈNH XA VĂN NA 
KHỆT 
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Xa Văn Na Khệt 
* Đặc điểm tự nhiên: 
Xa Văn Na Khệt là một tỉnh miền Trung Nam của CHDCND Lào, diện 
tích 21.774 km2 với hai loại địa hình chính, đó là vùng đồng bằng với diện 
tích 9.819 km2 (45,1% diện tích) và vùng núi cao nguyên với diện tích là 
11.954 km2 (chiếm 54,9% diện tích toàn tỉnh). 
Tỉnh Xa Văn Na Khệt giáp với tỉnh Khăm Muộn về phía Bắc, giáp với 
tỉnh Sa Ra Văn về phía Nam và có biên giới với hai quốc gia có nền kinh tế 
phát triển hơn, đó là giáp với tỉnh Quảng Trị (Việt Nam) về phía Đông và 
giáp với Thái Lan về phía Tây với ranh giới tự nhiên là sông Mê-Kông. 
Về khí hậu, tỉnh Xa Văn Na Khệt thuộc vùng khí hậu gió mùa, nắng và 
lượng mưa tương đối lớn, khí hậu ẩm gần suốt năm. 
Về dân số, toàn tỉnh Xa Văn Na Khệt có dân số là 824.662 người, trong 
đó nữ là 417.473 người; mật độ dân số trung bình 37 người/km2. 
Về hành chính, toàn tỉnh chia làm 15 huyện, 1.543 làng, có 131.118 hộ, 
Người đứng đầu tỉnh là tỉnh trưởng, theo quy chế quản lý hành chính của Lào. 
Về tài nguyên, tỉnh Xa Văn Na Khệt có diện tính đất nông nghiệp 
khoảng 700.000 ha, trong đó diện tích ruộng mùa là 198.000 ha, thâm canh 
lúa mùa cho năng suất trên3,69 tấn trên một ha. Tỉnh còn có diện tích rừng gỗ 
các loại có thể khai thác là 132.000 ha [54, tr.13]. Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh, 
còn có một số mỏ khoáng sản như: mỏ vàng, bạc, đồng, chì, sắt, lô, đá mày 
(mầu đen), thạch cao, muối (những mỏ có quy mô khá là mỏ vàng ở huyện Vi 
La Bu Ly, thạch cao ở huyện At Sa Phăng Thoong và mỏ muối ở huyện Cay 
Sỏn Phôm Vi Hản và huyện Chăm Phon)... Hiện nay, một số mỏ đã khai thác 
xuất khẩu và một số mỏ (vàng, bạc, đồng) đang bắt đầu khai thác. Những tiềm 
năng trên là cơ sở để phát triển khai thác xuất khẩu, làm nền tảng thúc đẩy 
kinh tế phát triển, cùng với việc phát triển GTĐB ở tỉnh rất thuận lợi. Dù sao 
hiện nay, sự phong phú của tài nguyên thiên nhiên của tỉnh Xa Văn Na Khệt 
vẫn chủ yếu là tiềm năng, từ đó có nhu cầu lớn trong khai thác, chế biến hàng 
xuất khẩu, tăng nguồn tích luỹ trong nước, thúc đẩy sự phát triển sản xuất 
hàng hoá, cũng là nguồn thu NSNN của tỉnh Xa Văn Na Khệt. 
* Đặc điểm về kinh tế: 
Với vị trí địa hình thuận lợi cùng với tiềm năng khoáng sản vốn có của 
tỉnh, cộng với tính cần cù, siêng năng lao động của nhân dân, dưới sự lãnh 
đạo tài tình của Đảng NDCM Lào nói chung và Tỉnh uỷ Xa Văn Na Khệt nói 
riêng đã kề vai sát cánh tiếp cận với nhân dân trong mỗi thời kỳ, kinh tế tỉnh 
đã phát triển khá với cơ cấu nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ 
chế thị trường định hướng XHCN ở tỉnh. Những thành tựu đạt được trong 
những năm vừa qua thể hiện ở một vài số liệu của từng mặt như: 
- Về nông nghiệp: Trong toàn tỉnh, diện tích lúa mùa là 198.000 ha mà 
độ mầu mỡ cho năng suất thâm canh từ 3,69 tấn/ha, diện tích lúa xuân 20.800 
ha. Hệ thống thủy lợi đã phát triển nhất định với với hơn 900 chiếc bơm nước 
và 252 hệ thống thuỷ lợi vừa và nhỏ, 24 bể chứa nước để phục vụ gieo trồng 
và chăn nuôi. Vì vậy đã tạo điều kiện cho nhân dân tỉnh có khả năng sản xuất 
gạo, chăn nuôi và phát triển các cây trồng khác, đáp ứng cho nhu cầu tiêu thụ 
trong phạm vi toàn tỉnh và xuất khẩu (riêng gạo thì thừa, tiêu thụ trong phạm 
vi toàn tỉnh mà còn bán ra cung cấp cho các tỉnh khác). 
- Về chăn nuôi: 
Chăn nuôi là một ngành có khả năng tạo thu nhập cao cho nhân dân, 
bởi vì ngành chăn nuôi tạo được thực phẩm cung cấp cho cán bộ và nhân dân 
trong tỉnh, tạo hàng hoá xuất khẩu quan trọng, góp phần tích cực trong sự tăng 
trưởng GDP và là ngành tạo nguồn tăng thu NSNN trong tỉnh. Do tầm quan 
trọng như vậy, tỉnh Xa Văn Na Khệt đã đề ra mục tiêu phấn đấu cho ngành 
này trong 5 năm tới (2006 - 2010) là sản xuất thịt phải đạt 10.385 tấn, cá phải 
đạt 8.420 tấn. Mục tiêu sản xuất cho các năm tới thể hiện trong bảng 2.1 và 
2.2 dưới đây: 
Bảng 2.1: Số vật nuôi trong kế hoạch 2006 - 2010 [53, tr.32] 
Nội dung Đơn vị 2006 2007 2008 2009 2010 
Trâu con 194.569 200.406 206.418 212.610 218.988 
Bò con 227.168 239.662 252.843 266.479 281.420 
Lợn con 150.704 158.239 166.150 174.458 183.181 
Dê con 24.739 27.212 29.934 32.927 36.220 
Ga cầm con 1.241.128 1.315.596 1.394.503 1.478.173 1.566.863 
Những vật nuôi theo kế hoạch đã nêu ở bảng 2.1. Dự báo vật nuôi 
thương phẩm sẽ bán từng năm (từ năm 2006-2010) thể hiện bảng 2.2 sau đây: 
Bảng 2.2: Dự báo vật nuôi bán từng năm (từ năm 2006-2010) [53, tr.32] 
Nội dung Đơn vị 2006 2007 2008 2009 2010 
Trâu con 12.218 12.585 12.963 13.351 13.752 
Bò con 19.036 20.083 21.188 22.330 23.582 
Lợn con 41.323 43.388 45.558 47.836 50.228 
Dê con 3.802 4.182 4.600 4.600 5.567 
Ga cầm con 372.338 394.678 418.350 443.451 470.058 
Nhu cầu phát triển GTĐB phục vụ thương mại và phát triển kinh tế - xã 
hội là rất lớn. 
- Về công nghiệp: Tỉnh Xa Văn Na Khệt có ngành công nghiệp khá phát 
triển. Dẫn đầu về công nghiệp là ngành khai thác khoáng sản (vàng, đồng, thạch 
cao, đá mày, muối...). Riêng mỏ thạch cao đã xuất khẩu hơn triệu tấn/năm trong 
nhiều năm qua. Sau ngành khai thác mỏ là ngành chế biến nông lâm sản với các 
nhà máy cỡ vừa và nhỏ tới 1963 nhà máy, đó là các nhà máy: chế biến dầu mỡ 
từ đậu và hạt cây, nhà máy xay gạo, nhà máy may mặc, nhà máy mì và phở... 
Hàng năm các nhà máy công nghiệp có doanh thu tốt, góp phần quan trọng tạo 
việc làm, kinh tế của tỉnh phát triển, không ngừng tạo điều kiện thuận lợi cho 
NSNN tỉnh tăng lên hàng năm. 
- Tiềm năng về nguồn nhân lực: Như đã trình bày ở mục 2.1.1. của luận 
văn, dân số trong tỉnh Xa Văn Na Khệt là 824.662 người, trong đó có 360.279 
người trong độ tuổi lao động (từ 18-60 tuổi), chiếm 43,69%. Họ sinh sống và 
lao động sản xuất ở các vùng trong mọi huyện trong phạm vi toàn tỉnh. Số 
lượng nguồn nhân lực ở các huyện, thể hiện ở bảng sau đây: 
Bảng 2.3: Số người đang ở trong tuổi lao động ở từng huyện [53] 
Đơn vị tính: người 
TT Tên huyện Số lượng (người) % dân số toàn tỉnh 
1 Cay Sỏn Phôm Vi Hản 51.345 6,23 
2 Út - Thum Phon 34.452 4,18 
3 Ạt Xa Phăng Thoong 15.799 1,92 
4 Phin 22.313 2,71 
5 Sê Pôn 19.764 2,40 
6 Noong 9.027 1,09 
7 Thà Pang Thoong 11.245 1,36 
8 Xỏng Khon 40.432 4,90 
9 Chăm Phon 42.914 5,20 
10 Xôn Bu Ly 19.650 2,38 
11 Xay Bu Ly 23.683 2,87 
12 Vi La Bu Ly 13.844 1,68 
13 Ạt Xa Phon 23.497 2,85 
14 Xay Phu Thông 20.793 2,52 
15 Pha Lan Xay 11.521 1,40 
 Tổng cộng 360.279 43,69 
- Về thương mại và du lịch: Trong phạm vi toàn tỉnh, hiện nay có tới 
6.773 cửa hàng các loại; có 55 công ty xuất nhập khẩu. Riêng trong năm tài 
khoá 2004-2005, tổng giá trị sản phẩm xuất khẩu là 270 triệu đô la Mỹ. 
Ngành du lịch của tỉnh cũng phát triển nhanh, đến năm 2005 có 5 khách sạn 
trang bị tương đối hiện đại và 58 nhà nghỉ, đáp ứng đầy đủ nhu cầu chỗ nghỉ 
cho khách từ các tỉnh trong nước và nước ngoài. 
- Về kế hoạch và tài chính: Cùng với phong trào toàn dân thực hiện 
đường lối chính sách "đổi mới" toàn diện của Đảng NDCM Lào, Đảng uỷ tỉnh 
Xa Văn Na Khệt đã tăng cường chỉ đạo việc quản lý tài chính và quản lý vật 
giá của nhà nước chặt chẽ hơn, chỉ đạo cán bộ, đảng viên trong phạm vi toàn 
tỉnh ra sức thúc đẩy việc xây dựng và phát triển nguồn thu NSNN tăng lên 
mỗi năm. Số liệu thực tế của một số năm gần đây đã chứng minh thành tích 
bước đầu đạt được sẽ làm nền tảng thuận lợi cho sự thành công thu NSNN 
trong những năm tới. Trong năm tài khoá 1995/1996, NSNN tỉnh chỉ thu 
được 16,489 tỷ kíp, sang năm tài khoá 1999/2000 thu được 252,509 tỷ kíp, 
tăng 16 lần so với 1995/1996. Từ năm 2000 số thu NSNN chỉ tăng trung bình 
1,5% và không đều. Tổng giá trị sản phẩm quốc nội năm 2000 đạt được 
1.305,611 tỷ kíp, bình quân (GDP/người/năm) là 216,23 đô la Mỹ. Về đầu tư 
phát triển kết cấu hạ tầng, tổng giá trị chi phí vật liệu là 23,282 tỷ kíp, phục 
vụ cho 251 công trình. Nếu so với trước "đổi mới toàn diện" là gấp 9,7lần [53, 
tr.32]. Như vậy, khả năng về thu NSNN và thực hiện chi đầu tư của tỉnh là 
tương đối thuận lợi, tăng trưởng khá. 
- Về dịch vụ tiền tệ: Trong tỉnh có 3 ngân hàng hoạt động đó là: Ngân 
hàng Lào Phắt Thạ Na, Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng Phát triển nông 
nghiệp. Trong năm 1999, Ngân hàng Lào Phắt Thạ Na chi nhánh tỉnh đã huy 
động tiền gửi 356 tỷ kíp, Ngân hàng Ngoại thương chi nhánh Xa Văn Na Khệt 
huy động tiền gửi được 165 tỷ kíp, tăng lên 9,09 lần so với năm thứ năm trở 
về trước (1996) và chi tiền ra cho nhân dân vay với lãi suất linh hoạt đạt với 
số lượng nhiều gấp 5,45 lần so với năm 1996. 
Ngân hàng Phát triển nông nghiệp cũng phát huy vai trò của mình để 
thực hiện tốt nhiệm vụ và đạt được thành tựu đáng tự hào là đã huy động tiền 
gửi đạt 1,265 tỷ trong năm 1999 và cho vay 8.942 triệu cho các đối tượng với 
mục tiêu phát triển nông nghiệp. Ngân hàng Lào Phắt Thạ Na và Ngân hàng 
Phát triển nông nghiệp đã thành lập Văn phòng chi nhánh của mình tại mọi 
huyện để tạo điều kiện thuận lợi trong việc phục vụ nhân dân nông thôn trên 
phạm vi toàn tỉnh. 
Từ những ưu thế của đặc điểm các nguồn lực kinh tế đã tạo cho kinh tế 
không ngừng phát triển (GDP tăng 16%/năm), tác động mạnh tới tăng thu 
NSNN ở tỉnh. Tỉnh Xa Văn Na Khệt là một trong ba tỉnh thành viên chính của 
vùng kinh tế trọng điểm của CHDCND Lào. 
* Đặc điểm văn hoá - xã hội: 
Từ năm 1893 đến đầu năm 1945, thực dân Pháp vào cai trị nước Lào, 
coi Lào là một phần của xứ Đông Dương thuộc Pháp. Thực dân Pháp đàn áp 
nhân dân Lào cũng như nhân dân tỉnh Xa Văn Na Khệt rất dã man, gây ra bao 
khổ đau cho nhân dân ở Lào. Đời sống nhân dân rơi vào cảnh lầm than cơ 
cực. Từ năm 1930, dưới ánh sáng con đường cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí 
Minh và Đảng Cộng sản Đông Dương, con đường cách mạng của Lào mới 
được mở ra, dần dần giành lại độc lập và từ năm 1975 bắt đầu xây dựng xã 
hội mới cho đến bây giờ. 
Về văn hoá xã hội: Tỉnh Xa Văn Na Khệt có nhiều địa danh đặc sắc và 
có ý nghĩa đối với cả nước như Lăm Khon Xa Vắn, Lăm Phu Thay, Lăm 
Tăng Vái, Lăm Bạn Sọk. Xa Văn Na Khệt còn là quê hương của các nhà lãnh 
tụ (Bác Cay Sỏn Phôm Vi Hản, Bác Nu Hắc Phum Xa Văn, Bác Phun Xỉ Pa 
Xợt...). Tỉnh Xa Văn Na Khệt là một trong những địa phương có truyền thống 
yêu nước và truyền thống cách mạng. Đây còn là nơi cư trú của cư dân nông 
nghiệp với nghề lúa nước. 
Về giáo dục: Tỉnh chăm lo tuyên truyền, khuyến khích nhân dân và đầu 
tư để đẩy mạnh giáo dục, phát triển trường học các cấp đến tận nông thôn 
vùng sâu, vùng xa... Hiện nay, toàn tỉnh có 206 trường mầm non và 1.280 
trường phổ thông, trong đó tiểu học - 1.135, cấp II - 115 và cấp III - 30 
trường. Tổng số giáo viên là 6.695 người, trong đó nữ 3.064 người. Nhìn 
chung, sự phát triển về giáo dục thể hiện khá rõ nét sau mỗi năm. Tuy nhiên, 
do đặc điểm về xã hội, địa hình, các trường thường nhỏ về quy mô, bố trí 
phân tán, chất lượng còn yếu. 
Về y tế: Tỉnh đã quan tâm củng cố và phát triển mạng lưới y tế xuống 
các địa phương. Toàn tỉnh có 16 bệnh viện và 92 trạm xá, các làng bản nông 
thôn vùng sâu, vùng xa đều có hiệu thuốc, tạo điều kiện cho nông dân các bộ 
tộc được khám, chữa bệnh và tiếp cận nguồn cung cấp thuốc chữa bệnh... Các 
công tác chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, người mang thai và trẻ em, hạn chế sự 
phát triển của các bệnh sốt xuất huyết, sốt rét, tả... được đặc biệt quan tâm. 
Nhờ đó, tỷ lệ chết của các bà mẹ và trẻ em ở tỉnh đã giảm xuống rõ rệt, 70% 
dân số toàn tỉnh được chăm sóc y tế ở những mức độ khác nhau. 
Về an ninh quốc phòng: tỉnh Xa Văn Na Khệt là một địa bàn chiến lược 
về an ninh biên giới. Bọn phản động quốc tế và phản động Lào lưu vong đã 
từng sử dụng Thái Lan làm địa bàn trực tiếp để thâm nhập và câu móc bọn 
phản động trong nước để phá hoại cách mạng Lào. Trong khi đó, tình hình 
trong nước tuy có bước phát triển, có lợi nhưng chưa vững chắc, còn có nhiều 
yếu tố có thể gây nên mất ổn định về chính trị. Một trong những mũi nhọn của 
chiến lược "diễn biến hoà bình" của kẻ địch là vấn đề biên giới, vấn đề tôn 
giáo. Tỉnh Xa Văn Na Khệt nói riêng và trung Lào nói chung là địa bàn về 
khách quan hội đủ những điều kiện để kẻ địch chống phá. Để giữ vững ổn 
định chính trị, việc giữ vững bản lĩnh chính trị, nâng cao cảnh giác đối với cán 
bộ, công nhân viên toàn tỉnh Xa Văn Na Khệt là điều kiện cần nhưng chưa đủ. 
Ở đây, đòi hỏi người cán bộ phải nắm vững quan điểm của Đảng về chính 
sách tôn giáo, về mối quan hệ độc lập dân tộc với an ninh - quốc phòng, có 
khả năng xử lý nhạy bén và đúng đắn những diễn biến phức tạp trong thực 
tiễn của những vấn đề đó. Để bảo đảm an ninh, đầu tư cho GTĐB rất cần 
thiết. 
Về mặt tâm lý và tín ngưỡng: Qua khảo sát thực tế cư dân của tỉnh Xa 
Văn Na Khệt, có thể chia quần thể dân cư làm hai bộ phận: cư dân tại chỗ và 
cư dân nhập cư (mới đến). 
Cư dân tại chỗ bao gồm các bộ tộc Lào, phần nhiều là các dân tộc ít 
người đã cư trú ở vùng sơn nguyên này chí ít đã hàng nghìn năm, thuộc 11 
thành phần bộ tộc với hàng chục nhóm địa phương. Đặc điểm cơ bản của 
nhóm dân cư này là sinh sống dựa trên nền tảng của công xã nông thôn mang 
nhiều tính chất lạc hậu cổ truyền, sản xuất tự cung tự cấp, công cụ thô sơ, kỹ 
thuật lạc hậu. Phân công lao động đối với cư dân tại chỗ chưa phát triển, nếu 
có thì mang tính tự nhiên, tự túc tự cấp, sản xuất hàng hoá chưa phát triển. 
Cư dân mới đến bao gồm cư dân từ các thành thị di dân đến làm ăn sinh 
sống sau ngày giải phóng và cán bộ Đảng và Nhà nước được điều động về với 
ý đồ làm một trong những lực lượng trụ cột để xây dựng vùng Trung Lào. 
Trong hơn 20 năm qua, sự đóng góp của nhóm cư dân này vào thành tựu về 
kinh tế, chính trị, an ninh - quốc phòng, văn hoá, xã hội là đáng kể và không 
phủ nhận được. Tuy nhiên, một bộ phận dân cư này chưa thật sự an tâm với 
điều kiện địa phương, chưa quen với ngành nghề mới, với quê hương mới. 
Như vậy, cư dân của tỉnh Xa Văn Na Khệt Lào có kết cấu khá phức tạp, 
có một quá trình lịch sử hình thành đặc thù, lại rất đa dạng về ngôn ngữ, tâm 
lý xã hội, có phong tục tập quán, tôn giáo tín ngưỡng, văn hoá, nghệ thuật. 
2.1.2. Quá trình phát triển và thực trạng hệ thống giao thông 
đường bộ của tỉnh Xa Văn Na Khệt 
* Sự phát triển của hệ thống giao thông đường bộ qua các thời kỳ: 
Khi đất nước được giải phóng (1975), hệ thống GTĐB của Lào rất non 
yếu và lạc hậu. Mạng lưới GTĐB của tỉnh Xa Văn Na Khệt có đặc điểm nổi 
bật là không thống nhất chưa có đường trục xuyên dọc sông Mê Kông, phân 
bố không đều, chỉ tập trung ở vùng đồng bằng của tỉnh. Từ sau giải phóng, 
ngành GVTV của tỉnh mặc dù đã có những nỗ lực, cố gắng nhưng cũng chưa 
đáp ứng được nhu cầu phát triển của các ngành, cũng như nhu cầu phát triển 
kinh tế - xã hội trong tỉnh. Ngành GTVT tỉnh sau nhiều năm giải phóng vẫn là 
một trong những ngành non yếu nhất. Tỉnh không có đường biển, đường hàng 
không, việc vận tải chủ yếu là bằng đường ô tô, còn đường sông cũng chỉ sử 
dụng được ở một số địa phương có điều kiện cho phép. Ngành GTĐB được 
coi là phát triển nhất, nhưng còn lạc hậu và non yếu, thể hiện ở chỗ: tỷ lệ 
đường giao thông còn thấp, 4 huyện trong số 15 huyện của tỉnh có đường ô tô 
không bảo đảm giao thông tới huyện lỵ được cả hai mùa (mùa mưa và mùa 
khô). 
Nhìn chung, cho đến năm 1985, là thời kỳ bao cấp tỉnh Xa Văn Na 
Khệt vẫn chưa có một hệ thống đường ô tô hoàn chỉnh thông suốt từ tỉnh lỵ 
đến huyện. Giao thông giữa các huyện và các làng lại càng khó khăn, nhiều 
đoạn đường chỉ có đi bộ theo đường rừng, không thể sử dụng phương tiện vận 
tải cơ giới. Những con đường tốt nhất trên địa bàn chỉ đạt cấp IV, cấp V, kể 
cả những con đường chiến lược như đường 9 cũng chỉ đạt được cấp IV vì mặt 
đường yếu, không chịu được trọng tải lớn. Xét về điều kiện kinh tế - xã hội 
Lào lúc đó, Lào mới chỉ xây dựng những con đường cấp IV, cấp V vì nó phù 
hợp với điều kiện vốn đầu tư và lưu lượng xe chạy chưa nhiều. Nếu xây dựng 
đường cấp II, III thì đòi hỏi phải đầu tư nhiều hơn trong điều kiện tỉnh đang 
thiếu vốn, thiếu kỹ thuật, trong khi đó nhu cầu vận tải trên địa bàn chưa cao, 
các phương tiện cơ giới còn ít về số lượng và không đa dạng về chủng loại. 
Mặc dù hệ thống đường còn lạc hậu, vận tải đường bộ của tỉnh trong 
thời bao cấp cũng đã có phát triển theo sự phát triển của hệ thống giao thông 
và phát triển kinh tế. Vận tải đường bộ được phát triển cả hai mặt, hàng hoá 
và hành khách. 
Bắt đầu từ năm 1986, nhất là từ sau 1989 là thời kỳ bắt đầu công cuộc 
đổi mới, CHDCND Lào cũng như tỉnh Xa Văn Na Khệt tiến hành công cuộc 
đổi mới toàn diện, thực hiện theo đường lối chính sách của Đại hội Đảng 
NDCM Lào lần t
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
Luận văn- Giải pháp quản lý nhà nước nhằm phát triển giao thông đường bộ ở tỉnh Xa Văn Na Khệt, Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào.pdf