Tài liệu Luận văn Một số giải pháp phòng ngừa rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế tại ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam – Chi Nhánh Đông Đô: 1 
Luận văn 
Một số giải pháp phòng ngừa 
rủi ro trong hoạt động thanh 
toán quốc tế tại NHĐT & 
PTVN – Chi Nhánh Đông Đô 
2LỜI MỞ ĐẦU 
1. Tính cấp thiết 
Trong xu thế hội nhập quốc tế về ngân hàng ngày nay, thách thức và thời cơ 
luôn đan xen lẫn nhau. Để có thể vượt qua các thách thức, khó khăn của quá 
trình hội nhập, các ngân hàng thương mại đang chủ động từng bước tái cơ cấu, 
mở rộng qui mô hoạt động, nâng cao năng lực quản lý điều hành, nâng cao hiệu 
quả kinh doanh của mình. Một trong những lĩnh vực kinh doanh mang lại nguồn 
thu nhập rất quan trọng cho các ngân hàng thương mại đó chính là hoạt động 
thanh toán quốc tế. 
Thanh toán quốc tế là một lĩnh vực gắn liền các hoạt động thương mại quốc 
tế song phương và đa phương. Với qui mô và phạm vi rộng lớn, phức tạp, liên 
quan đến nhiều chủ thể trong từng quốc gia khác nhau. 
Hoạt động thanh toán quốc tế ngày càng được khẳng định trong hoạt động 
kinh tế quốc dân nói chung và trong hoạt động kinh tế đối ngoại n...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
59 trang | 
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1548 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Một số giải pháp phòng ngừa rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế tại ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam – Chi Nhánh Đông Đô, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 
Luận văn 
Một số giải pháp phòng ngừa 
rủi ro trong hoạt động thanh 
toán quốc tế tại NHĐT & 
PTVN – Chi Nhánh Đông Đô 
2LỜI MỞ ĐẦU 
1. Tính cấp thiết 
Trong xu thế hội nhập quốc tế về ngân hàng ngày nay, thách thức và thời cơ 
luôn đan xen lẫn nhau. Để có thể vượt qua các thách thức, khó khăn của quá 
trình hội nhập, các ngân hàng thương mại đang chủ động từng bước tái cơ cấu, 
mở rộng qui mô hoạt động, nâng cao năng lực quản lý điều hành, nâng cao hiệu 
quả kinh doanh của mình. Một trong những lĩnh vực kinh doanh mang lại nguồn 
thu nhập rất quan trọng cho các ngân hàng thương mại đó chính là hoạt động 
thanh toán quốc tế. 
Thanh toán quốc tế là một lĩnh vực gắn liền các hoạt động thương mại quốc 
tế song phương và đa phương. Với qui mô và phạm vi rộng lớn, phức tạp, liên 
quan đến nhiều chủ thể trong từng quốc gia khác nhau. 
Hoạt động thanh toán quốc tế ngày càng được khẳng định trong hoạt động 
kinh tế quốc dân nói chung và trong hoạt động kinh tế đối ngoại nói riêng. Đặc 
biệt trong bối cảnh hiện nay khi mỗi quốc gia đều đặt hoạt động kinh tế đối 
ngoại lên hàng đầu, coi hoạt động kinh tế đối ngoại là con đường tất yếu trong 
chiến lược phát triển kinh tế của mình. 
Thanh toán quốc tế là khâu quan trọng trong quá trình mua bán hàng hoá, 
dịch vụ giữa các tổ chức, các cá nhân thuộc các quốc gia khác nhau. Nếu không 
có hoạt động thanh toán quốc tế thì hoạt động kinh tế đối ngoại khó tồn tại và 
phát triển được. 
Trong điều kiện tiền tệ thường xuyên biến động, khả năng thanh toán của con 
nợ rất bấp bênh, rủi ro trong việc thực hiện hợp đồng mua bán ngày càng nhiều, 
vị trí, vai trò của hoạt động thanh toán quốc tế cũng vì thế mà được khẳng định 
hơn. Vì vậy, việc nghiên cứu tìm ra giải pháp đồng bộ, hữu hiệu và khả thi nhằm 
góp phần nâng cao hiệu quả cho hoạt động thanh toán quốc tế đã và đang trở 
thành vấn đề bức xúc cả về lý luận và thực tiễn không chỉ đối với nhà quản trị 
mà còn cả doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. 
32. Mục đích của chuyên đề 
Chuyên đề nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ vấn đề về rủi ro trong các phương 
thức thanh toán quốc tế cả về cơ sở lý luận và thực tế, đi sâu phân tích thực trạng 
rủi ro trong các phương thức thanh toán quốc tế. Trên cơ sở đó tìm ra những tồn 
tại trong hoạt động thanh toán quốc tế từ đó đưa ra ý kiến đóng góp, đề xuất 
những giải pháp hạn chế rủi ro thanh toán quốc tế tại NHĐT & PTVN – Chi 
Nhánh Đông Đô. 
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu 
Chuyên đề chủ yếu đi sâu phân tích thực tế rủi ro trong thanh toán quốc tế tại 
NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô những năm gần đây. 
Đối tượng nghiên cứu của chuyên đề là các vấn đề liên quan tới rủi ro trong 
thanh toán quốc tế và đưa ra các giải pháp hạn chế rủi ro trong thanh toán quốc 
tế. 
4. Phương pháp nghiên cứu 
Chuyên đề sử dụng phương pháp tư duy khoa học duy vật biện chứng và duy 
vật lịch sử chứng minh cho các luận đề cần giải quyết. 
Chuyên đề cũng sử dụng phương pháp phân tích thống kê nhằm chỉ rõ những 
chỉ tiêu kinh tế đạt được của ngân hàng. 
5. Kết cấu của đề tài 
Tên đề tài: “Một số giải pháp phòng ngừa rủi ro trong hoạt động thanh toán 
quốc tế tại NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô”. 
Ngoài phần mở đầu, kết luận chuyên đề được kết cấu gồm ba chương: 
Chương I: Những vấn đề lý luận liên quan đến rủi ro thanh toán quốc tế ở 
ngân hàng thương mại. 
Chương II: Thực trạng về rủi ro trong thanh toán quốc tế tại NHĐT & 
PTVN – Chi Nhánh Đông Đô 
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị phòng ngừa rủi ro trong thanh 
toán quốc tế. 
4CHƯƠNG I 
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN RỦI RO TRONG THANH 
TOÁN QUỐC TẾ Ở NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 
I. HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ CỦA NGÂN HÀNG 
THƯƠNG MẠI ( NHTM ) 
Thanh toán quốc tế là chức năng ngân hàng quốc tế của ngân hàng thương 
mại. Nó được hình thành và phát triển trên cơ sở phát triển ngoại thương của 
một nước và ngân hàng thương mại được nhà nước giao cho độc quyền làm 
công tác thanh toán này. Đây là nghiệp vụ đòi hỏi trình độ chuyên môn, ứng 
dụng công nghệ ngân hàng, tạo sự hoà hợp hệ thống ngân hàng Việt Nam vào hệ 
thống ngân hàng thương mại thế giới, tạo sự an toàn và hiệu quả đối với ngân 
hàng thương mại và các doanh nghiệp nhập khẩu. 
Thanh toán quốc tế đòi hỏi chuyên môn cao: Luật pháp mỗi nước mỗi khác 
nhau nên trong thương mại đã có những qui định thống nhất, những thông lệ 
quốc tế mà các bên tham gia, kể cả ngân hàng đều phải tuân thủ: UCP 500, URC 
522, Incoterms 2000… do Phòng thương mại quốc tế phát hành đều là những 
qui định phát luật tuỳ chọn, nhưng khi đã chọn thì buộc phải tuân theo. Cán bộ 
ngân hàng làm công tác thanh toán quốc tế phải nắm rõ các phương tiện và các 
phương thức thanh toán quốc tế, bởi vì các phương tiện và phương thức này qui 
định rất chặt chẽ nội dung từng câu chữ và có hiệu lực quốc tế. Muốn thực hiện 
công việc trôi chảy, tránh gây hiểu lầm và thiệt hại đáng tiếc cho ngân hàng đòi 
hỏi cán bộ thanh toán quốc tế phải có chuyên môn cao. 
Thanh toán quốc tế tạo môi trường ứng dụng công nghệ ngân hàng: Hệ thống 
ngân hàng của mỗi nước dù đã hay đang phát triển đều hết sức quan tâm đến 
hoạt động thanh toán quốc tế. Tiêu chí hoạt động thanh toán là nhanh chóng, kịp 
thời và chính xác. Do đó, các công nghệ tiên tiến của ngành ngân hàng đều được 
ứng dụng nhằm thực hiện ngày càng tốt hơn các tiêu chí nêu trên. Ngân hàng ở 
5các nước đều có mức đầu tư đáng kể vào công nghệ thông tin, viễn thông và xử 
lý dữ liệu. 
Thanh toán quốc tế mang tính an toàn cao: Nếu điều kiện về con người và 
công nghệ được thoả mãn, thì thanh toán quốc tế là một nghiệp vụ thực sự an 
toàn. Các biện pháp an toàn trong thanh toán luôn được chú trọng: mã hoá thông 
tin truyền đi, thiết lập mã điện ( test key ), lọc những thông tin gây nhiễu, đối 
chiếu số liệu tài khoản thông qua mạng vi tính… đã tạo cho giao dịch thanh toán 
ngày càng an toàn cho các bên tham gia. 
Ngân hàng thu dịch vụ phí trong thanh toán: Khi thực hiện các yêu cầu của 
khách hàng có liên quan đến thanh toán quốc tế, ngân hàng được quyền thu một 
mức phí nhất định. Phí dịch vụ tuy nhỏ nhưng có rất nhiều loại phí, các loại phí 
này được thể hiện trong Biểu phí ngân hàng về các dịch vụ đối ngoại. Phí dịch 
vụ trong thanh toán quốc tế dựa vào qui luật số đông nên tổng mức phí thu trong 
một kỳ báo cáo là khá lớn. 
Làm tăng tính thanh khoản cho Ngân hàng: Trong quá trình thực hiện các 
phương thức thanh toán quốc tế cho khách hàng, ngân hàng yêu cầu khách hàng 
ký quỹ một khoản tiền tỷ lệ với giá trị mà ngân hàng bảo lãnh sẽ thanh toán. 
Nguồn tiền này tương đối ổn định và phát sinh thường xuyên trong việc thực 
hiện các Tín dụng thư nhập khẩu cho khách hàng. Ngoài ra, tiền khách hàng nộp 
để giải chấp hàng nhập khẩu do ngân hàng quản chấp, kỳ hạn thanh toán nước 
ngoài chưa đến cũng là một nguồn tạo thanh khoản cho ngân hàng dưới hình 
thức tiền tập trung chờ thanh toán. 
Thanh toán quốc tế làm tăng cường quan hệ đối ngoại: Thông qua việc bảo 
lãnh cho khách hàng trong nước, thanh toán cho Ngân hàng nước ngoài, ngân 
hàng thực hiện thanh toán quốc tế sẽ có được những quan hệ đại lý với Ngân 
hàng và đối tác nước ngoài. Mối quan hệ này dựa trên cơ sở hợp tác và tương 
trợ. Với thời gian hoạt động nghiệp vụ càng lâu, mối quan hệ ngày càng mở 
rộng. Đây cũng là hiệu quả do thanh toán quốc tế mang lại. 
6Thanh toán quốc tế liên quan đến quyền lợi của bên mua, bên bán nên được 
coi là điều khoản quan trọng trong khi đàm phán ký kết hợp đồng ngoại thương. 
Trong hợp đồng phải ghi rõ nội dung điều khoản thanh toán, lựa chọn phương 
thức thanh toán, loại tiền thanh toán… Nếu qui định điều khoản thanh toán hợp 
lý, có thể tránh được rủi ro trong hoạt động xuất nhập khẩu và mang lợi ích to 
lớn đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu: 
-Thanh toán quốc tế, ngân hàng đóng vai trò trung gian thanh toán giúp cho 
quá trình thanh toán theo yêu cầu khách hàng được tiến hành an toàn, nhanh 
chóng, tiện lợi và giảm bớt chi phí thay vì thanh toán bằng tiền mặt. Ngân hàng 
bảo vệ quyền lợi của khách hàng trong giao dịch thanh toán, đồng thời tư vấn 
cho khách hàng, hướng dẫn về kỹ thuật thanh toán quốc tế nhằm giảm rủi ro, tạo 
sự yên tâm tin tưởng cho khách hàng trong quan hệ giao dịch mua bán với nước 
ngoài. Mặt khác, trong quá trình thực hiện thanh toán quốc tế, khách hàng không 
đủ khả năng tài chính cần đến sự tài trợ của ngân hàng, ngân hàng cho vay để 
thanh toán nhập khẩu, bảo lãnh thanh toán mở L/C, chiết khấu chứng từ xuất 
khẩu… đáp ứng nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. 
-Thực hiện thanh toán quốc tế, ngân hàng có thể giám sát được tình hình kinh 
doanh của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, tạo điều kiện thực hiện quản lý có 
hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu trong nước theo đúng chính sách kinh tế đối 
ngoại đề ra. 
Trong nghiệp vụ thanh toán quốc tế có hai vấn đề cốt lõi được lưu tâm nhiều 
nhất: đó là “ Phương tiện thanh toán quốc tế " và “ Phương thức thanh toán quốc 
tế”. 
1.1 Khái niệm về thanh toán quốc tế 
Thanh toán quốc tế là việc thực hiện các nghĩa vụ chi trả về tiền tệ phát sinh 
từ các quan hệ kinh tế, thương mại, tín dụng và dịch vụ phi mậu dịch, các tổ 
chức kinh tế quốc tế, giữa các hãng các cá nhân của các nước khác nhau để kết 
thúc một chu trình hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại bằng các hình thức 
chuyển tiền hay bù trừ trên tài khoản tại các ngân hàng. 
71.2 Vai trò thanh toán quốc tế với hoạt động kinh doanh của ngân hàng 
Đối với hoạt động ngân hàng việc hoàn thiện và phát triển hoạt động thanh 
toán quốc tế có vị trí và vai trò hết sức quan trọng. Nó không chỉ là một dịch vụ 
thanh toán thuần tuý mà nó được coi là một mặt không thể thiếu trong hoạt động 
kinh doanh của ngân hàng. Nó bổ sung và hỗ trợ cho các mặt hoạt động kinh 
doanh khác của ngân hàng. 
Hoạt động thanh toán của ngân hàng phát triển đáp ứng được đòi hỏi của 
khách hàng sẽ là điều kiện tốt để thu hút thêm khách hàng về giao dịch, trên cơ 
sở đó mà ngân hàng có thể tăng qui mô hoạt động của mình. 
Nhờ đẩy mạnh hoạt động thanh toán quốc tế mà ngân hàng có thể mở rộng 
hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu cũng như tăng cường được nguồn vốn 
huy động. Đặc biệt là nguồn vốn ngoại tệ do tạm thời quản lý được nguồn vốn 
nhàn rỗi của doanh nghiệp có quan hệ thanh toán quốc tế qua ngân hàng. 
Hoạt động thanh toán quốc tế giúp cho ngân hàng phát triển được các nghiệp 
vụ kinh doanh ngoại tệ thu về lớn và đa dạng thông qua nghiệp vụ thanh toán 
quốc tế. 
Nghiệp vụ thanh toán quốc tế phát triển sẽ giúp cho ngân hàng nâng cao 
được uy tín của mình trên thị trường quốc tế, trên cơ sở đó mà có thể khai thác 
được nguồn vốn tài trợ của ngân hàng nước ngoài, nguồn vốn trên thị trường tài 
chính thế giới nhằm đáp ứng cao hơn nhu cầu vay vốn của ngân hàng. 
Hoạt động thanh toán quốc tế giúp ngân hàng tăng thu nhập và tăng cường 
khả năng cạnh tranh của ngân hàng trong cơ chế thị trường, đồng thời nó giúp 
cho hoạt động ngân hàng vượt ra khỏi phạm vi quốc gia và hoà nhập với hệ 
thống ngân hàng thế giới. 
Thanh toán quốc tế trong hoạt động ngân hàng nói riêng, trong hoạt động 
kinh tế quốc dân nói chung có một vị trí đặc biệt quan trọng. Nó là một mắt xích 
không thể thiếu trong dây truyền hoạt động kinh tế, kể từ khi chuẩn bị các bước 
cần thiết để sản xuất ra hàng hoá tới khi bán hàng thu tiền về cho nhà xuất khẩu 
hay chi tiền ra để nhập hàng và phục vụ sản xuất đời sống công nghiệp sao cho 
8đủ khối lượng, đúng chất lượng, nghiên cứu nội dung các nghiệp thanh toán 
quốc tế lựa chọn xử lý yếu tố trong nội dung của nó. Hoàn thiện các qui trình 
nghiệp vụ kỹ thuật sao cho phù hợp với những đặc điểm tính chất nền kinh tế 
của mỗi quốc gia là nhiệm vụ vô cùng quan trọng. 
1.3 Phương tiện thanh toán quốc tế 
Tiền mặt là phương tiện thanh toán nhưng trong thanh toán quốc tế nó lại giữ 
vai trò thứ yếu. Phương tiện thanh toán chủ yếu dùng trong thanh toán quốc tế là 
séc (cheque, check) và hối phiếu (Bill of exchange, Draft). 
1.3.1 Hối phiếu 
Hối phiếu là một lệnh đòi tiền vô điều kiện do người bán (người xuất khẩu, 
người cung ứng dịch vụ…) ký phát đòi tiền người mua (người nhập khẩu, người 
nhận cung ứng) và yêu cầu người này phải trả một lượng tiền nhất định tại một 
địa điểm nhất định trong một thời gian xác định được qui định trong hối phiếu 
cho người hưởng lợi. 
Hối phiếu có 3 đặc điểm: 
- Tính trừu tượng: đặc điểm này thể hiện là trên hối phiếu không cần phải 
ghi nội dung quan hệ kinh tế, mà chỉ cần phải ghi rõ số tiền phải trả là bao 
nhiêu, trả cho ai. Không cần phải nói lên nguyên nhân việc trả tiền trên hối 
phiếu. 
- Tính bắt buộc trả tiền: Người trả tiền hối phiếu phải trả tiền đầy đủ đúng 
theo yêu cầu của tờ hối phiếu. Người trả tiền không được viện lý do của bản 
thân đối với người ký phát hối phiếu, trừ trường hợp hối phiếu không phù hợp 
với đạo luật chi phối nó. 
- Tính lưu thông: Hối phiếu có thể chuyển nhượng từ người này sang người 
khác trong thời hạn của nó, người trả tiền sẽ thanh toán cho người cầm hối 
phiếu, cho dù hợp đồng mua bán có thể không thực hiện hoàn chỉnh. 
1.3.2 Séc 
9Séc là một lệnh vô điều kiện của người chủ tài khoản tiền gửi – ra lệnh cho 
ngân hàng trích từ tài khoản của mình một số tiền nhất định để trả cho người 
cầm séc, người có tên trong séc hoặc trả theo lệnh của chính người ấy. 
Hiện nay, séc là một phương tiện chi trả được dùng hầu như phổ biến trong 
giao lưu thanh toán nội địa nước ta, có séc chuyển khoản, séc bảo chi, séc định 
mức, séc chuyển tiền. Trong thanh toán quốc tế, séc cũng được sử dụng rộng rãi 
cho thanh toán tiền hàng, cung ứng lao vụ, du lịch và các khoản phí mậu dịch. 
Séc không bao giờ là công cụ tín dụng. 
Đặc điểm đáng chú ý của tờ séc là nó có tính chất thời hạn, tức là tờ séc chỉ 
có giá trị thanh toán nếu thời hạn hiệu lực xuất trình của nó chưa hết hạn. Thời 
hạn hiệu lực xuất trình của tờ séc được tính kể từ ngày phát hành sec và được 
ghi rõ trên tờ séc. Thời hạn của séc thông thường là phụ thuộc vào phạm vi 
không gian mà tờ séc lưu hành và pháp luật các nước quy định. Séc lưu hành 
trong nội địa có thời hạn ngắn hơn séc lưu hành trong quốc tế. 
1.4 Phương thức thanh toán quốc tế 
Phương thức thanh toán quốc tế là toàn bộ quá trình, cách thức nhận trả tiền 
hàng trong giao dịch mua bán ngoại thương giữa người nhập khẩu và người xuất 
khẩu. 
1.4.1 Phương thức chuyển tiền (Remittance transfers) 
a/ Định nghĩa 
Phương thức chuyển tiền là phương thức trong đó khách hàng (người trả tiền) 
yêu cầu ngân hàng của mình chuyển một số tiền nhất định cho người khác 
(người hưởng lợi) ở một địa điểm nhất định, bằng phương tiện chuyển tiền do 
khách hàng yêu cầu. 
Các bên tham gia: 
-Người trả tiền (người mua, người mắc nợ), hoặc người chuyển tiền (người 
đầu tư, kiều bào chuyển tiền về nước, người chuyển kinh phí ra nước ngoài): là 
người yêu cầu ngân hàng chuyển tiền ra nước ngoài. 
10 
- Người hưởng lợi (người bán, chủ nợ, ngừơi tiếp nhận vốn đầu tư) hoặc là 
người nào đó do người chuyển tiền chỉ định. 
- Ngân hàng chuyển tiền là ngân hàng ở nước người chuyển tiền. 
- Ngân hàng đại lý của ngân hàng chuyển tiền là ngân hàng ở nước người 
hưởng lợi. 
11 
b/ Qui trình thanh toán 
(1) Giao dịch thương mại 
(2) Viết đơn yêu cầu chuyển tiền (bằng thư hoặc bằng điện) cùng với uỷ 
nhiệm chi (nếu có tài khoản mở tại ngân hàng) 
(3) Chuyển tiền ra nước ngoài qua ngân hàng đại lý 
(4) Ngân hàng chuyển tiền cho người hưởng lợi. 
1.4.2 Phương thức ghi sổ (Open Account) 
a/ Định nghĩa 
Phương thức ghi sổ là một phương thức thanh toán trong đó, người bán mở 
một tài khoản (hoặc một quyển sổ) để ghi nợ người mua sau khi đã hoàn thành 
việc giao hàng, hay dịch vụ. Đến từng định kỳ nhất định người mua dùng 
phương thức chuyển tiền, hoặc phát hành séc… để trả cho người bán. 
Đặc điểm của phương thức thanh toán: 
- Đây là một phương thức thanh toán không có sự tham gia của ngân hàng 
trong từng lần giao hàng với chức năng là người mở tài khoản và thực thi 
thanh toán. 
- Chỉ mở tài khoản đơn biện không mở tài khoản song biên. Nếu người mua 
mở tài khoản để ghi thì tài khoản ấy chỉ là tài khoản theo dõi, không có giá trị 
thanh toán giữa hai bên, trong từng lần thanh toán. 
Ngân hàng 
chuyển tiền 
Người chuyển 
tiền 
Người hưởng 
lợi 
Ngân hàng đại 
lý 
(1) 
(3) 
(2) (4) 
12 
b/ Quy trình thanh toán 
(1) Giao hàng, hoặc dịch vụ cùng với gửi chứng từ hàng hoá. 
(2) Báo nợ trực tiếp. 
(3) Người mua dùng phương thức chuyển tiền hoặc phát hành séc… để trả 
tiền người bán khi đến kỳ hạn thanh toán. 
1.4.3 Phương thức nhờ thu ( Collection of payment) 
a/Định nghĩa: 
Phương thức nhờ thu là một phương thức thanh toán trong đó, người bán sau 
khi đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng, hoặc cung ứng một dịch vụ nào đó cho 
khách hàng thì uỷ thác cho ngân hàng của mình, thu hộ số tiền ở người mua trên 
cơ sở hối phiếu của người bán lập ra. 
Khi vận dụng phương thức này, các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu thường 
dựa vào “ Bản quy tắc thống nhất về nhờ thu chứng từ thương mại số 522”, sửa 
đổi năm 1995, có hiệu lực từ tháng 1/1996 do phòng thương mại quốc tế ấn 
hành- The Uniform Rules for collection. ( URC 522, 1995 Revision. In force as 
of Jan 1996). 
Các bên tham gia phương thức nhờ thu gồm có: 
- Người bán tức là người hưởng lợi. 
- Ngân hàng bên bán, là ngân hàng nhận sự uỷ thác của người bán. 
- Ngân hàng đại lý của ngân hàng bên bán, là ngân hàng ở nước người mua. 
- Người mua, tức là người trả tiền. 
b/ Các loại nhờ thu 
(2) 
(3) 
(3) 
(3) 
Ngân hàng bên bán Ngân hàng bên mua 
Bên bán Bên mua 
(1) 
13 
1. Nhờ thu phiếu trơn / Clean collection (còn gọi là uỷ thác thu không kèm 
chứng từ, hay nhờ thu hoàn hảo). 
2. Nhờ thu kèm chứng từ / Documentary collection (còn gọi là uỷ thác thu 
kèm chứng từ). 
* Nhờ thu phiếu trơn 
Nhờ thu phiếu trơn là phương thức nhờ thu trong đó người bán ủy thác cho 
ngân hàng thu hộ tiền ở người mua chỉ căn cứ vào hối phiếu do mình lập ra, còn 
chứng từ hàng hoá thì gửi thẳng cho người mua không qua ngân hàng. 
- Quy trình thanh toán 
(1) Người bán gửi hàng và chứng từ hàng hoá cho người mua. 
(2) Người bán kí hối phiếu đòi tiền người mua và uỷ thác cho ngân hàng 
nước mình đòi tiền hộ mình theo hối phiếu. 
(3) Ngân hàng phục vụ bên bán chuyển hối phiếu sang ngân hàng đại lý của 
mình ở nước người mua. 
(4) Ngân hàng đại lý yêu cầu người mua trả tiền hối phiếu (nếu là hối phiếu 
trả tiền ngay), Hoặc chấp nhận hối phiếu (nếu mua chịu). 
(5) Ngân hàng đại lý chuyển tiền thu được cho người bán. Nếu chỉ là chấp 
nhận hối phiếu thì ngân hàng giữ lại hối phiếu hoặc chuyển trả cho người bán. 
Khi đến kỳ hạn thanh toán, ngân hàng sẽ đòi tiền ở người mua và thực hiện việc 
chuyển tiền như trên. 
* Nhờ thu kèm chứng từ 
NH phục vụ bên bán Ngân hàng đại lý 
Bên mua Bên Bán 
(1) 
(5) 
(5) (2) (4) (5) 
(3) 
14 
Nhờ thu kèm chứng từ là phương thức nhờ thu trong đó người bán uỷ thác 
cho ngân hàng thu hộ tiền ở người mua không những căn cứ vào hối phiếu, mà 
còn căn cứ vào bộ chứng từ hàng hóa gửi kèm theo với điều kiện là nếu người 
mua trả tiền, hoặc chấp nhận hối phiếu thì ngân hàng mới trao bộ chứng từ hàng 
hoá cho người mua để nhận hàng. 
Nhờ thu kèm chứng từ có hai loại: 
+ Nhờ thu trả tiền trao (đổi) chứng từ – Documentary against payment (D/P). 
+ Nhờ thu chấp nhận trả tiền trao (đổi) chứng từ – Documentary against 
acceptance (D/A). 
- Quy trình thanh toán 
Quy trình thanh toán nhờ thu kèm chứng từ cũng giống nhờ thu phiếu trơn 
chỉ khác ở một số điểm sau: 
- ở bước (1) người bán chỉ gửi hàng hoá cho người mua. 
- ở bước (2),(3),(4) ngoài hối phiếu còn có bộ chứng từ hàng hoá đi cùng. 
1.4.4 Phương thức tín dụng chứng từ – Documentary credit 
Phương thưc tín dụng chứng từ là một phương thức thanh toán được áp dụng 
phổ biến nhất hiện nay. 
Khi vận dụng phương thức này các nước đều thống nhất áp dụng “Bản điều 
lệ và cách thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ” do phòng thương mại 
quốc tế paris ban hành. Bản hiện nay đang được áp dụng là bản số 500 có tên 
NH phục vụ bên bán Ngân hàng đại lý 
Bên mua Bên Bán 
(1) 
(5) 
(5) (2) (4) (5) 
(3) 
15 
gọi bằng tiếng Anh là: The Uniforn customs and practice for documentary credit 
No 500 (thường gọi tắt là UCP No500) 
a/ Định nghĩa 
Phương thức tín dụng chứng từ là một sự thoả thuận, trong đó một ngân hàng 
(ngân hàng mở thư tín dụng) theo yêu cầu của một khách hàng (người đề nghị 
mở thư tín dụng), sẽ trả một số tiền nhất định cho một người khác (người hưởng 
lợi số tiền của thư tín dụng), hoặc chấp nhận hối phiếu do người này ký phát 
trong phạm vi số tiền đó, khi người này xuất trình cho ngân hàng một bộ chứng 
từ thanh toán phù hợp với những quy định đề ra trong thư tín dụng. 
Các bên tham gia trong phương thức tín dụng chứng từ thông thường gồm 
có: 
- Người xin mở thư tín dụng (Applicant): là người mua, người nhập khẩu 
hàng hoá. 
- Ngân hàng mở thư tín dụng (Issuing bank, hoặc Opening bank): là ngân 
hàng đại diện cho người nhập khẩu, nó cung cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu. 
Thông thương, đây là ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu, nhưng trong trường 
hợp người bán không tin tưởng ngân hàng này thì có thể là bất kỳ một ngân 
hàng nào đó theo yêu cầu của người bán. 
- Người hưởng lợi (Benificiry) thư tín dụng: là người bán, người xuất khẩu 
hay bất cứ người nào khác chỉ định hưởng lợi. 
- Ngân hàng thông báo (Advising bank) thư tín dụng: là ngân hàng ở nước 
người hưởng lợi. 
b/ Quy trình thanh toán 
(2) 
Ngân hàng mở L/C 
N hàng thông báo L/C 
Người nhập khẩu 
(6) 
(8) (7) (5) (3) (6) 
Người xuất khẩu 
(1) 
(5) 
(4) 
16 
(1) Người nhập khẩu làm đơn xin mở thư tín dụng (Letter of credit- L/C) 
gửi tới ngân hàng mở L/C, yêu cầu ngân hàng này mở một L/C cho người Xuất 
khẩu hưởng. 
(2) Căn cứ vào giấy xin mở L/C, ngân hàng mở L/C sẽ lập một L/C và 
chuyển cho ngân hàng thông báo L/C. 
(3) Thông báo L/C 
Nếu L/C được mở bằng điện thì ngân hàng thông báo phải chuyển nguyên 
văn bức điện mở L/C và bản xác báo bằng điện của mình về L/C đó cho người 
xuất khẩu. Ngân hàng thông báo không được dịch, hay diễn giải, hay diễn giải 
nội dung bức điện L/C. Nếu ngân hàng diễn giải sai nội dung thì ngân hàng sẽ 
phải chịu trách nhiệm. 
Nếu L/C mở bằng thư thì ngân hàng thông báo phải chuyển bản chính (bản 
gốc) L/C cho người xuất khẩu. 
Ngân hàng thông báo được thu thủ tục phí thông báo (ai là người trả phí này 
cho ngân hàng thông báo đã được chỉ rõ trong L/C). 
(4) Giao hàng 
Sau khi nhận được L/C, người xuất khẩu sẽ phải kiểm tra những nội dung đã ghi 
trong L/C, đối chiếu với các thoả thuận trong hợp đồng ngoại thương. 
(5) Yêu cầu thanh toán của người xuất khẩu 
Sau khi đã giao hàng, người xuất khẩu phải hoàn trả tất bộ chứng từ thanh 
toán theo yêu cầu của L/C xuất trình cho ngân hàng mở L/C, thông qua ngân 
hàng thông báo xin thanh toán. 
(6) Ngân hàng mở L/C kiểm tra bộ chứng từ thanh toán, nếu thấy phù hợp 
với L/C thì tiến hành trả tiền cho người xuất khẩu, hoặc chấp nhận hối phiếu 
(đối với hối phiếu có kỳ hạn). Nếu thấy không phù hợp, ngân hàng từ chối thanh 
toán (hoặc từ chối chấp nhận) và gửi trả lại bộ chứng từ cho người xuất khẩu. 
17 
(7) Ngân hàng mở L/C đòi tiền người nhập khẩu và chuyển bộ chứng từ hàng 
hoá cho người nhập khẩu. 
(8) Người nhập khẩu kiểm tra bộ chứng từ, nếu thấy phù hợp với L/C thì 
hoàn trả tiền cho ngân hàng, nếu không phù hợp thì có quyền từ chối trả tiền 
ngân hàng. 
II. RỦI RO TRONG THANH TOÁN QUỐC TẾ 
1.1 Định nghĩa 
Có nhiều cách hiểu rủi ro khác nhau như: rủi ro trong hoạt động kinh tế là 
những tổn thất mà các doanh nghiệp phải gánh chịu trong hoạt động kinh doanh 
của mình. 
Rủi ro là những bất trắc gây ra mất mát thiệt hại hoặc rủi ro là những điều 
nằm ngoài ý muốn của con người và gây ra những tổn thất cho con người. 
Tóm lại, người ta thường xem xét rủi ro ở hai đặc tính sau: 
- Thứ nhất là biên độ rủi ro, đó là sự thiệt hại rủi ro gây ra ở mức độ nào. 
- Thứ hai là tần số xuất hiện của rủi ro nhiều hay ít. 
1.2 Rủi ro trong thanh toán quốc tế 
1.2.1 Rủi ro trong phương thức chuyển tiền 
Những rủi ro mà người nhận tiền theo hình thức thanh toán này có thể gặp: 
- Người mua hàng hoặc người được cung cấp dịch vụ không thanh toán, tức 
là không có khả năng thanh toán hay không muốn thanh toán nên không thực 
hiện việc chuyển tiền sau khi nhận được quyền sở hữu đối với hàng hoá. 
- Rủi ro từ phía nhà nước của người mua thể hiện ở chỗ tuy người mua có 
khả năng và mong muốn thanh toán nhưng quốc gia của người mua đưa ra 
những biện pháp điều chỉnh ngoại tệ (hạn chế việc mua ngoại tệ). Tuy nhiên rủi 
ro này có thể hạn chế được nếu thường xuyên có thông tin về khả năng thanh 
toán của người mua và tình hình pháp lý của nước của người mua buộc phải 
thanh toán trước khi giao hàng hay việc giao hàng được chia thành nhiều lần. 
Người mua cũng gánh chịu những rủi ro trong trường hợp thanh toán tiền 
hàng trước nhưng không nhận được hàng. Như vậy, hình thức chuyển tiền trong 
18 
thanh toán quốc tế thường được áp dụng khi người trả tiền và người nhận tiền 
biết rõ về nhau, tin tưởng nhau. 
1.2.2 Rủi ro trong phương thức ghi sổ 
Đối với nhà nhập khẩu 
- Nếu hoá đơn thanh toán ghi bằng ngoại tệ, nhà nhập khẩu có thể gặp rủi 
ro tỷ giá khi ngoại tệ tăng giá. Để tránh rủi ro này, nhà nhập khẩu có thể ký một 
hợp đồng mua ngoại tệ kỳ hạn với ngân hàng. 
Đối với nhà xuất khẩu 
- Sau khi nhận hàng hoá, nhà nhập khẩu có thể không thanh toán, hoặc 
không thể thanh toán (ví dụ, do biện pháp kiểm soát ngoại hối), hoặc chủ tâm trì 
hoãn kéo thời gian thanh toán. Về lý thuyết, cho dù quyền sở hữu hàng hoá có 
thể được bảo lưu, nhưng thực tế nhà xuất khẩu khó lòng mà kiểm soát hàng hoá 
một khi đã chuyển cho nhà nhập khẩu. Ngoài ra, nhà nhập khẩu có thể dàn dựng 
tranh chấp về chất lượng hoặc khiếu nại về sự khiếm khuyết hay thiếu hụt hàng 
hoá như là những nguyên cớ để yêu cầu giảm giá. Đứng trước tình hình này, nhà 
xuất khẩu chỉ có ba cách lựa chọn: (i) quyết định giảm giá; (ii) tìm đối tác mua 
khác; (iii) chở hàng hoá quay về nước. Để phòng ngừa rủi ro này, nhà xuất khẩu 
phải mua bảo hiểm tín dụng, hoặc yêu cầu nhà nhập khẩu cấp một thư tín dụng 
dự phòng. 
- Nếu hoá đơn thanh toán ghi bằng ngoại tệ, nhà xuất khẩu có thể gặp rủi ro 
tỷ giá khi ngoại tệ giảm giá. Để tránh rủi ro này, nhà xuất khẩu có thể ký một 
hợp đồng kỳ hạn với ngân hàng để bán ngoại tệ kỳ hạn. 
1.2.3 Rủi ro trong các loại nhờ thu 
+ Rủi ro trong phương thức nhờ thu phiếu trơn: 
Do việc trả tiền trong phương thức nhờ thu phiếu trơn không căn cứ vào bộ 
chứng từ hàng hoá, mà chỉ dựa vào hối phiếu do nhà xuất khẩu ký phát, do đó: 
Rủi ro chủ yếu thuộc về nhà xuất khẩu bao gồm: 
- Nếu năng lực tài chính của nhà nhập khẩu yếu kém, thì việc thanh toán sẽ 
dây dưa, chậm trễ và tốn kém. 
19 
- Nếu nhà nhập khẩu chủ tâm lừa đảo, vẫn nhận hàng nhưng từ chối thanh 
toán hay từ chối ký chấp nhận thanh toán hối phiếu kỳ hạn. 
- Đến hạn thanh toán hối phiếu kỳ hạn, nhưng nhà nhập khẩu không thể 
thanh toán hoặc không muốn thanh toán (do tình hình tài chính, tình hình kinh 
doanh của nhà nhập khẩu trở nên xấu đi, hay nhà nhập khẩu phát sinh chủ tâm 
lừa đảo) thì nhà xuất khẩu có thể kiện ra toà nhưng tốn kém và không phải lúc 
nào cũng nhận được tiền. 
Rủi ro đối với nhà nhập khẩu: 
- Rủi ro có thể phát sinh khi hối phiếu đòi tiền đến trước và phải thực hiện 
nghĩa vụ thanh toán, trong khi hàng hóa không được gửi đi, hoặc đã được gửi đi 
nhưng chưa tới, hoặc khi nhận hàng hoá có thể là không đảm bảo đúng chất 
lượng, chủng loại và số lượng như đã thỏa thuận trong hợp đồng thương mại. 
Như vậy, rủi ro đối với nhà xuất khẩu là rất lớn vì giữa việc nhận hàng và 
thanh toán của nhà nhập khẩu không có sự ràng buộc với nhau, cho nên nhờ thu 
phiếu trơn thường chỉ áp dụng trong những trường hợp nhà xuất khẩu và nhà 
nhập khẩu thực sự tin tưởng lẫn nhau, cụ thể là nhà xuất khẩu phải có thiện chí 
giao hàng, còn nhà nhập khẩu thì phải có thiện chí thanh toán. 
+ Rủi ro trong phương thức nhờ thu kèm chứng từ 
Rủi ro đối với nhà xuất khẩu: 
- Đối với trường hợp ngân hàng xuất trình, trao bộ chứng từ hàng hoá cho 
nhà nhập khẩu để đi nhận hàng hoá trước khi nhà nhập khẩu thanh toán hay chấp 
nhận thanh toán. Rủi ro sẽ xảy ra đối với nhà xuất khẩu là không thu được tiền 
hàng hay bị kéo dài thời gian thanh toán tiền hàng dễ dẫn đến tình trạng phá sản. 
 Còn rủi ro đối với ngân hàng nếu xảy ra tranh chấp thì ngân hàng sẽ mất uy tín 
trên trường quốc tế. Trường hợp này có thể xảy ra ở một số quốc gia, khi mà 
ngân hàng ưu tiên đặt mối quan hệ với doanh nghiệp trong nước lên trên trách 
nhiệm và nghĩa vụ của họ đối với doanh nghiệp bên ngoài lãnh thổ quốc gia. 
20 
- Ngân hàng chuyển chứng từ sẽ không chịu bất kỳ rủi ro nào nếu ngân 
hàng xuất trình có sai sót trong việc thực hiện lệnh nhờ thu, thì rủi ro này đều 
do nhà xuất khẩu phải tự chịu. 
- Toàn bộ hay một phần chứng từ bị thất lạc. 
- Số hàng hóa (mà bộ chứng từ là đại diện) chỉ có thể được chuyển cho (hay 
theo lệnh của) ngân hàng xuất trình với sự đồng ý của ngân hàng này từ trước. 
Ngoài ra, ngân hàng không chịu bất cứ trách nhiệm nào về việc lưu kho, mua 
bảo hiểm, giao hàng hay dỡ hàng hoá. 
Rủi ro đối với nhà nhập khẩu: 
- Cho dù nhà nhập khẩu có cơ hội kiểm tra chứng từ trước khi thanh toán 
hay chấp nhận thanh toán, nhưng hàng hoá thì có thể đã không được kiểm định, 
chưa được bảo hiểm đầy đủ, hay không tuân theo các tiêu chuẩn ghi trong hợp 
đồng thương mại. Nhà nhập khẩu có thể đứng trước rủi ro khi nhà xuất khẩu lập 
bộ chứng từ giả, có sai sót, hay cố tình gian lận thương mại để đi nhận hàng. Các 
ngân hàng không chịu trách nhiệm khi chứng từ là giả mạo hay có sai sót, hoặc 
hàng hóa hay phương tiện vận tải không khớp với chứng từ. 
- Sau khi ký chấp nhận thanh toán hối phiếu kỳ hạn (hay phát hành kỳ 
phiếu), nhà nhập khẩu có thể bị nhà xuất khẩu kiện ra toà nếu không thanh toán 
khi hối phiếu đến hạn. Thậm chí nhà nhập khẩu không thể dùng các lý do “chính 
đáng” để bào chữa cho việc thanh toán của mình như: nhà xuất khẩu đã không 
giao hàng, hay giao hàng có sai sót nghiêm trọng… Điều này hàm ý, một nhà 
nhập khẩu đã ký chấp nhận thanh toán hối phiếu kỳ hạn, thì buộc phải thanh 
toán khi hối phiếu đến hạn một cách vô điều kiện, nếu không có thể bị ra toà. Sự 
không thanh toán hối phiếu đúng hạn sẽ làm tổn hại nghiêm trọng đến danh 
tiếng thương mại của con nợ. 
- Nếu hoá đơn thanh toán bằng ngoại tệ, nhà nhập khẩu chịu rủi ro tỷ giá 
cho đến khi thanh toán. 
Rủi ro đối với ngân hàng chuyển chứng từ: 
21 
- Nhìn chung, ngân hàng chuyển chứng từ chỉ chịu rủi ro khi đã thanh toán 
hay cho nhà xuất khẩu vay trước khi nhận được tiền chuyển đến từ ngân hàng 
xuất trình. Nếu không nhận được tiền chuyển đến, ngân hàng chuyển chứng từ 
phải chịu rủi ro tín dụng từ phía nhà xuất khẩu trong việc hoàn trả tiền vay. 
Rủi ro đối với ngân hàng xuất trình: 
- Nếu ngân hàng xuất trình chuyển tiền cho ngân hàng chuyển chứng từ 
trước khi nhà nhập khẩu thanh toán, ngân hàng phải chịu rủi ro nếu như nhà 
nhập khẩu không nhận chứng từ và không thanh toán hoặc không chấp nhận 
thanh toán. 
- Nếu ngân hàng xuất trình cho nhà nhập khẩu vay để thanh toán, thì có thể 
chịu rủi ro tín dụng từ phía nhà nhập khẩu. 
- Chịu trách nhiệm kiểm tra chứng từ nhận được xem có đủ và phù hợp với 
danh mục liệt kê chứng từ gửi tới, nếu chứng từ không đủ hoặc không phù hợp 
thì phải thông báo cho ngân hàng chuyển chứng từ để xin chỉ thị hành động. 
- Ngân hàng chuyển chứng từ có thể yêu cầu rằng, nếu nhà nhập khẩu 
không thanh toán hoặc không chấp nhận thanh toán, thì ngân hàng xuất trình thu 
xếp để hàng hoá được lưu kho và được bảo hiểm cho đến khi bán được cho 
khách hàng mới hay chuyển quay về nước. Nếu điều này xảy ra thì ngân hàng 
xuất trình phải được bù đắp chi phí đầy đủ. 
1.2.4 Rủi ro đối với phương thức tín dụng chứng từ 
Rủi ro đối với nhà nhập khẩu: 
- Việc thanh toán của ngân hàng cho người hưởng thụ chỉ căn cứ vào bộ 
chứng từ xuất trình, mà không căn cứ vào việc kiểm tra hàng hoá. Ngân hàng chỉ 
kiểm tra tính chân thật “bề ngoài” của chứng từ. Một nhà xuất khẩu chủ tâm 
gian lận có thể xuất trình bộ chứng từ giả mạo (có bề ngoài phù hợp với L/C) 
cho ngân hàng được chỉ định để thanh toán. Như vậy, sẽ không có sự bảo đảm 
nào cho nhà nhập khẩu rằng hàng hóa sẽ đúng như đơn đặt hàng hay không bị 
hư hại gì. Trong trường hợp này, nhà nhập khẩu vẫn phải hoàn trả đầy đủ tiền đã 
thanh toán cho ngân hàng phát hành. 
22 
- Nhà nhập khẩu chưa nhận được bộ chứng từ khi hàng đã cập cảng. Vì bộ 
chứng từ bao gồm vận đơn, mà vận đơn lại là chứng từ sở hữu hàng hoá, nên 
thiếu vận đơn thì nhà nhập khẩu không thể nhận hàng hoá. Nếu nhà nhập khẩu 
cần gấp ngay hàng hoá, thì phải thu xếp để được ngân hàng phát hành phát hành 
một thư bảo lãnh gửi hãng tàu để nhận hàng. Để được bảo lãnh nhận hàng, nhà 
nhập khẩu phải trả một khoản phí cho ngân hàng. Hơn nữa, nếu không nhận 
hàng theo qui định thì tiền bồi thường giữ tàu quá hạn sẽ phát sinh. Tuy nhiên, 
thông thường theo các điều khoản của L/C thì nhà nhập khẩu sẽ nhận được bộ 
chứng từ trong khoảng thời gian hợp lý. 
- Nếu không qui định “bộ vận đơn đầy đủ” (full set of bills of lading), thì một 
người khác có thể lấy được hàng hoá khi chỉ cần xuất trình một phần của bộ vận 
đơn, trong khi đó người trả tiền hàng hoá lại là nhà nhập khẩu. 
Rủi ro đối với nhà xuất khẩu : 
- Đối với thư tín dụng có thể huỷ ngang thì ngân hàng phát hành sửa đổi, bổ 
sung hay huỷ bỏ bất cứ khi nào trước khi nhà xuất khẩu xuất trình bộ chứng từ, 
mà không cần có sự đồng ý của người này. Do đó, nếu nhà xuất khẩu xuất trình 
bộ chứng từ không phù hợp với L/C, thì mọi khoản thanh toán/chấp nhận có thể 
đều bị từ chối, và nhà xuất khẩu phải tự xử lý hàng hoá như dỡ hàng, lưu kho 
cho đến khi vấn đề được giải quyết hoặc phải tìm người mua mới, bán đấu giá 
hay chở hàng quay về nước. Nhà xuất khẩu phải chịu các chi phí như lưu tàu quá 
hạn, phí lưu kho và mua bảo hiểm cho hàng hoá… Trong khi đó không biết rõ 
lập trường của nhà nhập khẩu là sẽ đồng ý hay từ chối nhận hàng vì lý do bộ 
chứng từ có sai sót. 
- Nếu ngân hàng phát hành (hoặc và ngân hàng xác nhận) mất khả năng 
thanh toán, thì cho dù bộ chứng từ xuất trình là hoàn hảo thì cũng không được 
thanh toán. Tương tự, nếu ngân hàng chấp nhận hối phiếu kỳ hạn bị phá sản 
trước khi hối phiếu đến hạn, thì hối phiếu cũng không được trả tiền. Trừ khi L/C 
được xác nhận bởi một ngân hàng hạng nhất trong nước còn lại nhà xuất khẩu 
23 
luôn chịu rủi ro về hệ số tín nhiệm của ngân hàng phát hành, cũng như rủi ro 
chính trị hay rủi ro cơ chế chính sách của nước nhà nhập khẩu. 
- Nếu nhà xuất khẩu nhận được một L/C trực tiếp từ ngân hàng phát hành 
(không thông qua ngân hàng thông báo), thì đó có thể là một L/C giả. Nhà xuất 
khẩu phải yêu cầu có một ngân hàng trong nước xác nhận L/C hay phải được 
ngân hàng phục vụ mình xác minh L/C là thật. 
Rủi ro đối với ngân hàng phát hành: 
- Ngân hàng phát hành phải thực hiện thanh toán cho người thụ hưởng theo 
qui định của L/C ngay cả trong trường hợp nhà nhập khẩu chủ tâm không hoàn 
trả hoặc không có khả năng hoàn trả. Với lý do này, rủi ro tín dụng đối với ngân 
hàng phát hành là rất hiện hữu. Do đó, trước khi chấp nhận phát hành L/C, ngân 
hàng cần áp dụng một qui trình thẩm định chặt chẽ giống như việc cấp tín dụng 
cho khách hàng. 
- Trong số các nhân tố ngân hàng phát hành cần phải xem xét đó là liệu ngân 
hàng có thu lại được một phần hay toàn bộ số tiền đã thanh toán từ việc bán 
hàng nếu nhà nhập khẩu bị phá sản. Các câu hỏi cần trả lời đó là: 
 Nhà nhập khẩu sẽ là người chắc chắn sở hữu hàng hoá? 
 Hàng hoá đảm bảo chất lượng và có thể bán được? 
 Hàng hóa có dễ hỏng và giá cả có hay biến động? 
 Có sự thông đồng lừa đảo giữa nhà sản xuất và nhập khẩu, hậu quả có 
thể là hàng hoá sẽ không bao giờ được chuyển đi? 
 Có hạn chế nào liên quan đến loại hàng hoá nhập khẩu, ví dụ như hạn 
chế về giấy phép kinh doanh, đối tượng mua bán? 
- Nếu ngân hàng phát hành trả tiền hay chấp nhận thanh toán hối phiếu kì 
hạn, mà không có sự kiểm tra một cách kỹ lưỡng bộ chứng từ, nhà nhập khẩu 
không chấp nhận, thì không thể đòi tiền nhà nhập khẩu. 
Từ phân tích cho thấy, khi mở L/C ngân hàng đã thực hiện cam kết tài chính 
và chấp nhận rủi ro. Vì vậy, để hạn chế rủi ro, ngân hàng nên yêu cầu đối với 
khách hàng mới lần đầu mở L/C: 
24 
 ký quỹ cho ngân hàng 100% trị giá của L/C 
Nếu khách hàng phát hành L/C thường xuyên, ngân hàng có thể cấp một “ 
Hạn mức tín dụng nhập khẩu – Import Line” để cho người nhập khẩu mở L/C 
với tổng trị giá bằng hạn mức tín dụng nhập khẩu. Tỷ lệ % ký quỹ có thể giảm 
xuống nếu mức độ tin cậy của khách hàng tăng lên. 
Ngân hàng xét chứng từ chứ không xét hàng hoá. Nhưng vì hàng hoá có giá 
trị, như là vật bảo đảm, và mức độ rủi ro tuỳ thuộc vào ai là người kiểm soát 
hàng hoá. Việc kiểm soát hàng hoá được chuyển nhượng bằng cách chuyển giao 
chứng từ sở hữu hàng hoá (vận đơn). Nếu ngân hàng muốn duy trì kiểm soát 
hàng hoá, thì ngân hàng phải thu xếp để chứng từ vận tải chỉ ra “người nhận 
hàng” là bản thân ngân hàng hoặc được ghi “theo lệnh”. 
+ Rủi ro đối với ngân hàng thông báo: 
Ngân hàng thông báo chịu trách nhiệm, phải có “sự quan tâm hợp lý” để đảm 
bảo rằng thư tín dụng là trung thực, cả trong việc xác minh chữ kí, mã khoá, 
mẫu điện trước khi gửi thông báo cho nhà xuất khẩu. 
+ Rủi ro đối với ngân hàng được chỉ định 
- Trừ khi là ngân hàng xác nhận các ngân hàng được chỉ định không có một 
trách nhiệm nào phải thanh toán cho người xuất khẩu trước khi nhận được tiền 
từ ngân hàng phát hành. Tuy nhiên trong thực tế trên cơ sở bộ chứng từ xuất 
trình các ngân hàng được chỉ định thường ứng trước cho nhà xuất khẩu với điều 
kiện truy đòi (with recouse) để giúp nhà xuất khẩu. Do đó, ngân hàng này phải 
chịu rủi ro tín dụng đối với ngân hàng phát hành hoặc nhà xuất khẩu. 
+ Rủi ro đối với ngân hàng xác nhận: 
- Nếu bộ chứng từ là hoàn hảo, thì ngân hàng xác nhận phải trả tiền cho 
người xuất khẩu bất luận là có truy hoàn được tiền từ ngân hàng phát hành hay 
không. Như vậy, ngân hàng xác nhận chịu rủi ro tín dụng đối với ngân hàng phát 
hành, cùng rủi ro chính trị và rủi ro cơ chế (hạn chế ngoại hối) của nhà nước 
ngân hàng phát hành. 
- Nếu ngân hàng xác nhận trả tiền hay chấp nhận thanh toán hối phiếu kỳ 
25 
hạn, mà không có sự kiểm tra một cách thích đáng bộ chứng từ, để bộ chứng từ 
có lỗi, ngân hàng phát hành không chấp nhận, thì không thể đòi tiền ngân hàng 
phát hành. 
26 
CHƯƠNG II 
THỰC TRẠNG VỀ RỦI RO TRONG THANH TOÁN QUỐC TẾ 
TẠI NHĐT & PTVN – CHI NHÁNH ĐÔNG ĐÔ 
2.1 MỘT SỐ NÉT KHÁI QUÁT VỀ NHĐT & PTVN – CHI NHÁNH 
ĐÔNG ĐÔ 
 2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của ngân hàng đầu tư và phát 
triển Việt Nam – Chi nhánh Đông Đô (NHĐT & PTVN) 
Thành lập ngày 26-4-1957 theo quyết định số 177/TTg của thủ tướng chính 
phủ với tên ban đầu là ngân hàng kiến thiết Việt Nam, ngân hàng đầu tư và phát 
triển Việt Nam ( tên giao dịch là BIDV) là 1 trong 4 ngân hàng thương mại quốc 
doanh lớn nhất nước ta. Trải qua gần 50 năm tồn tại và phát triển với 2 lần đổi 
tên( 1981 đổi tên là ngân hàng đầu tư và xây dựng Việt Nam, năm 1991 đổi tên 
là ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam). Ngân hàng đầu tư và phát triển 
Việt Nam không những hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ ban đầu của mình là nhận 
vốn đầu tư phát triển của ngân sách để tài trợ cho những dự án phát triển kinh tế 
kĩ thuật của nhà nước mà còn không ngừng phấn đấu để trở thành một ngân 
hàng kinh doanh đa năng theo yêu cầu đổi mới. Cho tới nay ngân hàng đầu tư và 
phát triển Việt Nam đã hình thành hệ thống ngân hàng thương mại nhà nước với 
trên 69 chi nhánh (5 chi nhánh tại Hà Nội, 3 công ty độc lập, 2 trung tâm, 3 liên 
doanh). Tổng số cán bộ trong toàn hệ thống ngân hàng đầu tư và phát triển Việt 
Nam trên 10 nghìn cán bộ, trong đó 1.35% có trình độ sau đại học, 65.52% có 
trình độ đại học và 33.13% có trình độ cao đẳng. được chính thức thành lập ngày 
26-11-1990 theo thông báo số 572 TCCB-ĐT của vụ tổ chức cán bộ NHNN về 
tổ chức bộ máy của ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam và quyết định số 
76 QĐ- TCCB ngày 28-3-1991 của tổng giám đốc ngân hàng đầu tư và phát 
triển Việt Nam. Trong hệ thống NHĐT&PTVN, căn cứ vào quy định số 
27 
191/QĐ- HĐQT ngày 05-07-2004 của chủ tịch HĐQT & NHĐT& PTVN về 
việc thành lập chi nhánh NHĐT & PTĐông Đô. 
Và theo quy định 4233/CV- TCCB1 ngày 28/10/2003 của tổng giám đốc NHĐT 
& PTVN về xây dựng mô hình tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của chi nhánh 
khi triển khai dự án hiện đại hoá. 
Hiện nay, nhận thức được tầm quan trọng của khách hàng, trong thời gian qua 
chi nhánh Đông Đô đã chú trong phát triển kinh doanh theo hướng khách hàng, 
để thu hút thêm những khách hàng tiềm năng trong tương lai bên cạnh đó cũng 
cần duy trì các khách hàng cũ. 
2.1.2 Mô hình tổ chức và hoạt động của ngân hàng đầu tư và phát triển 
Việt Nam - chi nhánh Đông Đô 
Qua hơn mười năm hoạt động, cơ cấu tổ chức của sở giao dịch cũng đã có 
nhiều thay đổi cho phù hợp với yêu cầu, chức năng nhiệm vụ kinh doanh. 
Hiện tại, cơ cấu tổ chức của ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam - chi 
nhánh Đông Đô gồm có một giám đốc và 3 phó giám đốc, với đội ngũ nhân viên 
trên 270 người trong đó phần lớn là những người có trình độ đại học và trên đại 
học. Các phòng của NHĐT & PTVN được tổ chức sắp xếp theo quyết định số 
916/QĐ- TCHC của giám đốc NHĐT & PTVN ngày 8-9-2003, mô hình cơ cấu 
tổ chức của ngân hàng được trình bày theo sơ đồ sau: 
Chú thích: 
P. Tín dụng 1 
P. Tín dụng 2 
P. Nguồn vốn kinh doanh 
P. Kiểm tra- Kiểm toán nội bộ 
P. Thanh toán quốc tế 
P. Điện toán 
P. Tài chính kế toán 
P. Dịch vụ khách hàng cá nhân 
P. Dịch vụ khách hàng tổ chức 
28 
Mô hình tổ chức và hoạt động của NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô 
Ban giám đốc 
P. Tdụng 1 
P. Tdụng 2 
P. NVKD 
P. KT-KTNB 
P. TTQT 
P. ĐToán 
P. TC- KT 
P. DVKHCN 
P. DVKHTC 
CÁC 
PHÒNG 
BAN 
CN. Hà Thành 
PGD 2 
PGD 1 
CN. Láng Hạ 
Các 
đơn vị 
trực 
thuộc 
29 
30 
2.2 Khái quát kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng – Chi 
Nhánh Đông Đô trong thời gian qua 
2.2.1 Hoạt động thanh toán quốc tế 
Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng doanh số TTXNK (thanh toán xuất nhập khẩu) 
qua NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô năm 1999-2004 
 Đơn vị: Ngàn USD 
Năm 
Tổng DSTTXNK T.Toán hàng xuất T.Toán hàng nhập 
Số Tiền 
Tăng 
trưởng 
Số Tiền 
Tăng 
trưởng 
Số Tiền 
Tăng 
trưởng 
1999 3420 1570 1850 
2000 3564 4,21% 1632 3,95% 1932 4,43% 
2001 4017 12,71% 1782 9,19% 2235 15,68% 
2002 5073 26,23% 2348 31,76% 2725 21,92% 
2003 5040 -0,65% 2130 -9,28% 2910 6,79% 
2004 5462 8,37% 2252 5,72% 3210 10,31% 
 (Nguồn: Báo cáo tổng kết hàng năm – NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô ) 
Thông qua số liệu trên ta thấy: Năm 2004 tổng doanh số thanh toán hàng 
xuất nhập khẩu đạt 5462 ngàn USD, tăng 8,37% trong đó, doanh số thanh toán 
hàng xuất khẩu đạt 2252 ngàn USD tăng 5,72% còn doanh số thanh toán hàng 
nhập khẩu là 3210 ngàn USD tăng 10,31%. 
Nhìn qua các năm ta nhận thấy năm 2002 tổng doanh số thanh toán xuất nhập 
khẩu đạt 5073 ngàn USD, tăng 26,23% trong đó doanh số thanh toán hàng xuất 
đạt 2130 ngàn USD, tăng 31,76% còn thanh toán hàng nhập đạt 2725 ngàn 
USD, tăng 21,92%. Đây là năm có sự tăng trưởng cao hơn các năm cả về hàng 
xuất lẫn hàng nhập, có được điều này là do sự nỗ lực của các doanh nghiệp, điều 
kiện thuận lợi, giá cả hàng hoá tăng, rất thuận lợi cho các doanh nghiệp nước 
31 
ngoài nhập khẩu và là cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư máy móc 
thiết bị, công nghệ hiện đại tăng khả cạnh tranh trên trường quốc tế. 
Nhưng đến năm 2003 tổng doanh số thanh toán hàng xuất nhập khẩu đạt 
5040 ngàn USD, giảm 0,65%, trong đó doanh số thanh toán hàng xuất đạt 2130 
ngàn USD giảm 9,28% còn doanh số thanh toán hàng nhập đạt 2910 ngàn USD, 
chiếm 6,79%. Điều này xảy ra là do doanh nghiệp Việt Nam đã nhập khẩu nhiều 
hơn là xuất khẩu và cũng trong năm 2003 do có nhiều sự biến động về chính trị: 
như chiến tranh giữa các nước Mỹ, IRĂC, vụ kiện cá basa, vụ kiện tôm, bệnh 
dịch đã làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh xuất khẩu của các doanh nghiệp 
bị ngưng lại một thời gian để tìm kiếm thị trường mới bên cạnh thị trường truyền 
thống. 
Trong hoạt động thanh toán quốc tế tại NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông 
Đô đang áp dụng chủ yếu 3 phương thức thanh toán quốc tế phổ biến là phương 
thức thanh toán L/C, phương thức thanh toán nhờ thu, phương thức thanh toán 
chuyển tiền được thể hiện qua bảng sau: 
Bảng 2: Tình hình sử dụng các phương thức TTQT tại NHĐT & PTVN – 
Chi Nhánh Đông Đô 
 Đơn vị: Ngàn USD 
Chỉ tiêu 
2002 2003 2004 
Số tiền TT(%) Số tiền TT(%) Số tiền TT(%) 
1.DSTTHXK 2348 100% 2130 100% 2252 100% 
1.1 L/C 950 40,46% 610 28,64% 592 26,29% 
1.2 Nthu 350 14,90% 400 18,78% 435 19,32% 
1.3 T/T 1048 44,64% 1120 52,58% 1225 54,39% 
2.DSTTHNK 2725 100% 2910 100% 3210 100% 
2.1 L/C 1334 48,95% 1575 54,12% 1775 55,3% 
2.2 Nthu 350 12,84% 695 23,88% 850 26,48% 
2.3 T/T 1041 38,21 640 22% 585 18,22% 
Cộng(1+2) 5073 5040 5462 
32 
(Nguồn: Báo cáo thống kê 2002-2004 của NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô ) 
Qua bảng số liệu trên ta thấy: Trong phương thức thanh toán hàng nhập khẩu, 
phương thức thanh toán L/C chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh số thanh toán 
hàng nhập khẩu qua ngân hàng. Năm 2002 chiếm tỷ trọng à 48,95%, năm 2003 
chiếm 54,12%, năm 2004 chiếm 55,3%. Còn trong phương thức chuyển tiền 
bằng điện có xu hướng phát triển, năm 2002 chiếm tỷ trọng là 38,21%, năm 
2003 chiếm 22%, năm 2004 chiếm 18,22%. Phương thức thanh toán nhờ thu 
chiếm tỷ trọng nhỏ: năm 2002 chiếm 12,84%, năm 2003 chiếm 23,88%, năm 
2004 chiếm 26,48%. 
Ngược lại, trong phương thức thanh toán hàng xuất thì phương thức thanh 
toán bằng L/C ngày một giảm hơn, chiếm tỷ trọng không đáng kể trong tổng 
doanh số thanh toán hàng xuất qua NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô, năm 
2002 chiếm 40,46%, năm 2003 chiếm 29%, năm 2004 chiếm 26%. Còn phương 
thức thanh toán chuyển tiền chiếm tỷ trọng lớn nhất trong doanh số thanh toán 
hàng xuất, năm 2002 chiếm 44,64%, năm 2003 chiếm 53%, năm 2004 
chiếm55%. Phương thức nhờ thu cũng chiếm một tỷ trọng nhỏ năm 2002 chiếm 
14,90%, năm 2003 chiếm 19%, năm 2004 chiếm 20%. 
Thực trạng trên xảy ra do phía doanh nghiệp Việt Nam dễ chấp nhận yêu cầu 
của phía đối tác nước ngoài, khi doanh nghiệp Việt Nam nhập hàng phía nước 
ngoài thì họ yêu cầu doanh nghiệp Việt Nam phải mở L/C để ràng buộc trách 
nhiệm thanh toán của ngân hàng. Để tăng khả năng an toàn cho họ, do đó trong 
thanh toán hàng nhập phương thức L/C được sử dụng chủ yếu. Ngược lại, khi 
doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu, một số doanh nghiệp tin tưởng đối tác nước 
ngoài và sẵn sàng chấp nhận bán hàng theo phương thức nhờ thu DA hoặc T/T 
sau khi giao hàng. Có những doanh nghiệp không muốn áp dụng phương thức 
thanh toán L/C vì phí dịch vụ phát sinh nhiều hơn các phương thức thanh toán 
khác. Thực trạng này đang xảy ra phổ biến ở doanh nghiệp tư nhân, công ty 
TNHH vì các công ty này mới bước chân vào thương trường quốc tế, vì muốn 
bán được hàng nên sẵn sàng chấp nhận các yêu cầu do phía nước ngoài đưa ra. 
33 
Ngoài ra, còn có một số doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu lâu đời thì với 
những khách hàng nước ngoài có uy tín, đã quan hệ mua bán lâu năm, họ cũng 
chuyển từ phương thức thanh toán L/C sang phương thức thanh toán nhờ thu để 
tiết kiệm chi phí. Trong đó, phát sinh tồn tại trong phương thức thanh toán nhờ 
thu rất nhiều, đa số các bộ chứng từ nhờ thu hàng xuất theo phương thức DA 
thường bị nước ngoài chiếm dụng vốn trong thời gian dài gây tổn thất lớn cho 
các doanh nghiệp Việt Nam, thường xảy ra tranh chấp mà người thắng kiện 
thường là đối tác nước ngoài vì doanh nghiệp Việt Nam chưa nắm vững thông lệ 
quốc tế cũng như luật quốc tế và trong nước. Nếu có thắng kiện thì doanh 
nghiệp Việt Nam cũng bị chiếm dụng vốn trong thời gian dài và mất khoảng phí 
lớn cho việc kiện tụng. 
2.2.2 Rủi ro trong các phương thức thanh toán quốc tế 
Trong thanh toán quốc tế mỗi phương thức thanh toán đều có những ưu điểm 
và nhược điểm nhất định và từ các nhược điểm có thể phát sinh những tồn tại và 
rủi ro trong thanh toán quốc tế. Phương thức tín dụng chứng từ được xem là 
phươn thức thanh toán an toàn hơn các phương thức khác. Tuy nhiên, đây không 
phải là phương thức an toàn tuyệt đối cho các bên liên quan mà nó có thể phát 
sinh rủi ro, tồn tại trong thanh toán khi một trong các bên là kẻ lừa đảo. Sự vi 
phạm hợp đồng của người mua trong phương thức chuyển tiền hoặc vi phạm 
cam kết thanh toán của người mua trong phương thức nhờ thu qua ngân hàng 
cũng phát sinh khá nhiều tồn tại trong thanh toán quốc tế. 
2.2.2.1 Rủi ro tín dụng trong mở L/C 
Rủi ro tín dụng trong thanh toán hàng nhập khẩu: 
Rủi ro tín dụng luôn là rủi ro có khả năng xảy ra lớn nhất và để lại hậu quả 
nặng nề nhất cho ngân hàng. Nhất là đối với tình trạng hoạt động yếu kém và 
kinh nghiệm còn quá ít của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam. Khi 
phần lớn các hoạt động thương mại của họ còn phụ thuộc vào ngân hàng, chỉ cần 
một sự thua lỗ dù rất nhỏ của họ cũng dẫn đến rủi ro cho ngân hàng. 
Rủi ro tín dụng đối với ngân hàng khi người nhập khẩngân hàng thuộc nhóm 
34 
khách hàng có mức ký quỹ dưới 100%. Trong thủ tục mở L/C, khách hàng bao 
giờ cũng phải ký quỹ, nhưng thường họ chỉ ký quỹ một phần, phần còn lại được 
ngân hàng cho vay. Vì vậy, ngân hàng sẽ gặp rủi ro tín dụng khi khách hàng 
không còn khả năng thanh toán nợ với ngân hàng, bị phá sản, giải thể hay nằm 
trong vòng tố tụng… căn cứ vào việc thẩm định và phân loại khách hàng, 
NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô qui định tỷ lệ ký quỹ như sau: 
- NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô bắt buộc ký quỹ 100% đối với 
nhóm khách hàng không có uy tín với ngân hàng hoặc là khách hàng mới. 
- Bắt buộc quỹ 30-70% cho nhóm khách hàng làm ăn lâu dài với ngân 
hàng, tình hình tài chính tốt. 
- Bắt buộc ký quỹ dưới 30% cho nhóm khách hàng có quan hệ lâu năm, có 
uy tín, có tình hình tài chính tốt. 
Hiện nay, doanh nghiệp có tỷ lệ miễn ký quỹ nhiều nhất tại ngân hàng là 
Todimax, Unimex, bóng đèn phích Rạng Đông… 
Khi nhà nhập khẩu mất khả năng thanh toán, để bảo vệ uy tín của mình, 
NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô đã chấp nhận trả tiền cho một số L/C 
quá hạn. Tính đến nay, việc thu hồi nợ quá hạn là vô cùng khó khăn, NHĐT & 
PTVN – Chi Nhánh Đông Đô có số nợ quá hạn là 396 ngàn USD và cho vay bắt 
buộc là 5428 ngàn USD. 
Cho vay bắt buộc và nợ quá hạn là những chỉ tiêu vô cùng quan trọng đánh 
giá rủi ro trong thanh toán hàng nhập khẩu bằng phương thức tín dụng chứng từ. 
Trong những năm qua, tình hình cho vay bắt buộc của NHĐT & PTVN – Chi 
Nhánh Đông Đô có xu hướng giảm rõ rệt. 
Bảng 3: Tình hình cho vay bắt buộc thanh toán L/C tại NHĐT & PTVN – 
Chi Nhánh Đông Đô năm 2002,2003,2004 
 Đơn vị: ngàn USD 
Năm 
Doanh số thanh 
toán L/C 
Doanh số cho 
vay bắt buộc 
Tỷ lệ (%) 
2002 62.400 5.428 8,7% 
35 
2003 81.020 6.643 7,7% 
2004 98.127 7.261 7,4% 
(Nguồn: Báo cáo tình hình thanh toán xuất nhập khẩu NHĐT & PTVN – 
Chi Nhánh Đông Đô) 
Doanh số thanh toán L/C liên tục tăng nhưng cho vay bắt buộc lại giảm đáng 
kể qua từng năm, đây là dấu hiệu rất khả quan. Đến năm 2004, cho vay bắt buộc 
chỉ còn 7261 ngàn USD, chiếm 7,4%. 
Tình hình nợ quá hạn L/C tại NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô cũng 
có những thay đổi theo chiều hướng tốt. 
Bảng 4: Tình hình nợ quá hạn thanh toán L/C tại NHĐT & PTVN – Chi 
Nhánh Đông Đô năm 2002,2003,2004 
 Đơn vị: Ngàn USD 
Năm 
Doanh số cho 
vay bắt buộc 
Nợ quá hạn 
thanh toán L/C 
Tỷ lệ (%) 
2002 5.428 369 6,8% 
2003 6.643 411 6,2% 
2004 7.261 370 5,1% 
(Nguồn: Báo cáo tình hình thanh toán xuất nhập khẩu NHĐT & PTVN – Chi 
Nhánh Đông Đô 2002,2003,2004) 
Trong 3 năm từ 2002,2003,2004, tổng giá trị L/C chưa thanh toán không thay 
đổi nhiều trong khi tổng giá trị thanh toán tăng làm tỷ lệ nợ quá hạn giảm từ 
6.8% xuống còn 5.1%. 
- Từ số liệu trên ta thấy, rủi ro tín dụng trong thanh toán L/C nhập khẩu có 
những chuyển biến rất tốt. Tuy nhiên, vẫn còn có những rủi ro tiềm tàng, nợ quá 
hạn có xu hướng giảm nhưng một phần nợ quá hạn L/C lại được chuyển sang dư 
nợ tín dụng thực chất nợ quá hạn vẫn tồn tại trong một hình thức khác. 
Rủi ro tín dụng trong thanh toán xuất khẩu: 
36 
Rủi ro tín dụng đối với ngân hàng trong nghiệp vụ chiết khấu chứng từ cho 
nhà xuất khẩu và cho vay tài trợ xuất khẩu. NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông 
Đô thực hiện chiết khấu chứng từ cho lô hàng xuất khẩu. Thực chất đây là một 
khoản tín dụng cấp cho khách hàng được thế chấp bằng bộ chứng từ xuất theo 
L/C. Theo qui định, nếu quá 60 ngày chiết khấu mà ngân hàng không nhận được 
thông báo trả tiền từ ngân hàng phát hành thì ngân hàng sẽ tự động trích nợ tài 
khoản tiền gửi của khách hàng để thi nợ. Trong hoạt động chiết khấu chứng từ, 
để giảm thiểu rủi ro cho mình, NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô chỉ chiết 
khấu truy đòi, đảm bảo khả năng có quyền truy đòi khách hàng khi bên nước 
ngoài từ chối thanh toán. Để được chiết khấu, nhà xuất khẩu phải có vận đơn lập 
theo lệnh của ngân hàng phát hành và toàn bộ vận đơn gốc được xuất trình cho 
NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô, chứng từ hoàn toàn phù hợp với nội 
dung L/C, ngân hàng phát hành phải là ngân hàng có uy tín trong thanh toán 
quốc tế. Cán bộ ngân hàng phải kiểm tra các thông tin về mặt hàng, giá cả và thị 
trường của lô hàng xuất vào thời điểm chiết khấu chỉ được thực hiện khi ngân 
hàng nhận được điện chấp nhận thanh toán hoặc hối phiếu được ký hậu chấp 
nhận thanh toán vào ngày đáo hạn của ngân hàng phát hành. Tuỳ theo từng 
trường hợp cụ thể mà ngân hàng áp dụng tỷ lệ chiết khấu nhưng thường không 
quá 90% giá trị bộ chứng từ. Trong thời gian qua, số trường hợp ngân hàng đã 
chiết khấu nhưng không thu được tiền từ ngân hàng phát hành diễn ra rất hạn 
hữu, chỉ có khoảng một, hai trường hợp nhưng đã được ngân hàng giải quyết dứt 
điểm. Doanh số cho vay chiết khấu L/C của NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông 
Đô liên tục tăng, năm 2002 đạt 120 ngàn USD, năm 2003 đạt 156 ngàn USD 
tăng 3,5% và đến năm 2004 con số đó là 171 ngàn USD tăng 3,1% so với năm 
2003. 
Trong hoạt động tài trợ xuất khẩu, NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô 
cũng gặp phải rủi ro. Rủi ro này được thể hiện qua doanh số cho vay tài trợ xuất 
khẩu và tỷ lệ nợ quá hạn. 
37 
Bảng 5: Tình hình cho vay tài trợ xuất khẩu tại NHĐT & PTVN – Chi 
Nhánh Đông Đô năm 2002,2003,2004 
 Đơn vị: Ngàn USD 
(Nguồn: Báo cáo tình hình thanh toán xuất nhập khẩu NHĐT & PTVN – Chi 
Nhánh Đông Đô 2002,2003,2004) 
Doanh số cho vay tăng qua từng năm nhưng tỷ lệ nợ quá hạn lại giảm đi. Đây 
là kết quả rất tốt, có được kết quả đó là do NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông 
Đô thẩm định doanh nghiệp kỹ càng trước khi cho vay, ngân hàng còn phải theo 
dõi tình hình kinh doanh kỹ càng trước khi cho vay, ngân hàng còn phải theo dõi 
tình hình kinh doanh của doanh nghiệp sau này. Tuy nhiên, cũng có trường hợp 
NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô gặp phải rủi ro khi ngân hàng cho vay 
nhưng khách hàng sử dụng vốn vay đó kinh doanh một loại hàng khác với cam 
kết, hoặc khi doanh nghiệp xuất hàng nhưng lại bị phía nước ngoài từ chối vì 
hàng kém phẩm chất. Những trường hợp như vậy không thiếu nhưng làm doanh 
nghiệp không có khả năng trả nợ cho ngân hàng, phải kết chuyển nợ quá hạn, đã 
gây thiệt hại không nhỏ cho ngân hàng. 
2.2.2.2 Rủi ro đối với phương thức nhờ thu 
Đối với phương thức nhờ thu việc thanh toán dựa vào thiện chí của người 
mua hoặc người bán, người mua chấp nhận thanh toán nhưng đến ngày đáo hạn 
người mua chây lỳ không chịu thanh toán. Còn người bán thì giao hàng không 
đúng hợp đồng, đã phát sinh một số rủi ro trong phương thức thanh toán nhờ 
thu. Hiện nay, một số doanh nghiệp cũng đang có xu hướng sử dụng phương 
thức thanh toán uỷ thác trả chậm DA trong thu hồi tiền hàng xuất khẩu. Tuy 
nhiên, thực tế phát sinh tại ngân hàng NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô, 
hầu như các bộ chứng từ trả chậm theo phương thức DA không được trả tiền 
Năm Cho vay tài trợ xuất khẩu Nợ quá hạn Tỷ lệ (%) 
2002 120 5,04 4,2 
2003 156 5,46 3,5 
2004 171 5,3 3,1 
38 
đúng ngày đáo hạn. Người mua thường chiếm dụng vốn trong thời gian dài mới 
thanh toán, gây rủi ro cho ngân hàng thu hộ hoặc ngân hàng xuất trình. 
- Trường hợp rủi ro cho ngân hàng thu hộ do người bán vi phạm hợp đồng. 
Trong thực tiễn xảy ra nhiều trường hợp, người mua muốn có chứng từ đi nhận 
hàng đã gửi cam kết chấp nhận thanh toán cho ngân hàng thu hộ nhưng sau khi 
nhận hàng họ lại trì hoãn thanh toán vì nhiều nguyên nhân: Hàng giao không 
đúng hợp đồng, hàng bị giảm giá, đã gây tranh chấp kéo dài. Ngân hàng thu hộ 
đã cho khách hàng vay thanh toán nhờ thu hàng nhập khẩu hoặc có những 
trường hợp ngân hàng buộc phải cho khách hàng vay để thanh toán khi ngân 
hàng nước ngoài thúc giục đòi tiền và phong toả tài khoản của ngân hàng thu hộ 
ở nước ngoài. Trường hợp này đã xảy ra ở NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông 
Đô. Công ty Thiên long nhận 2.247.400 MT sắt lá và sắt cuộn của công ty 
Baisco bằng phương thức thanh toán nhờ thu D/A 7 ngày, trị giá 720.722 USD 
công ty Baisco vi phạm hợp đồng, giao hàng không đúng qui cách đã gây tổn 
thất cho nhà nhập khẩu. Nhà nhập khẩu sau khi gửi giấy cam kết thanh toán nhờ 
thu đã được NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô giao chứng từ đi nhận hàng, 
trong khi dỡ hàng đã nhận thấy Baisco vi phạm hợp đồng nên đã thông báo cho 
Baisco và ngứng dỡ hàng. Sau đó hai bên thoả thuận thuê Vinacontrol và sở giao 
dịch kiểm định hàng hoá, xác định được mức độ vi phạm của Baisco, hai bên 
thương lượng mức bồi thường nhưng không đi đến thống nhất. Phát sinh tranh 
chấp kéo dài, đến ngày đáo hạn thanh toán ngân hàng nước ngoài thúc ép ngân 
hàng Việt Nam trả tiền, buộc ngân hàng NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô 
phải cho công ty Thiên long vay để thanh toán. Gây thiệt hại công ty Thiên long 
và NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô, ảnh hưởng đến uy tín và chất lượng 
của ngân hàng trên thương trường quốc tế. 
- Rủi ro cho ngân hàng chuyển chứng từ do người mua vi phạm cam kết 
thanh toán: 
Người mua nhờ ngân hàng thu hộ đã chấp nhận trả tiền, ngân hàng chuyển 
chứng từ đã chiết khấu 80% giá trị bộ chứng từ. Nhưng đến ngày đáo hạn người 
39 
mua không thanh toán, trả lại hàng hoá và ngân hàng thu hộ gửi lại chứng từ cho 
người bán. Thực tế này đã và đang xảy ra phổ biến cho một số khách hàng xuất 
khẩu tại ngân hàng thương mại. Trường hợp công ty TNHH xuất khẩu Navico 
trong năm 2001, sau khi giao hàng xuất khẩu cá basa đi Mỹ cho người bán là 
Seafoods company. Công ty đã lập bộ chứng từ xuất khẩu và nhờ NHĐT & 
PTVN – Chi Nhánh Đông Đô gửi nhờ thu theo phương thức thanh toán nhờ thu 
trả chậm sau 50 ngày kể từ ngày phát hành vận đơn. NHĐT & PTVN – Chi 
Nhánh Đông Đô đã tiến hành các thủ tục cần thiết theo qui trình nhờ thu của 
ngân hàng, gửi bộ chứng từ đến ngân hàng Bank of American nhờ thu hộ số tiền 
trên hối phiếu và chứng từ 47.500 USD, ngân hàng Bank of American sau khi 
nhận chứng từ đã xử lý theo đúng thủ tục của nghiệp vụ nhờ thu đã điện báo 
chấp nhận trả lại số tiền cho Navico vào ngày đáo hạn. Nhưng đến ngày đáo 
hạn, người mua không thanh toán, NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô đã 
điện tra soát, đôn đốc ngân hàng nước ngoài trả tiền cho người bán, nhưng người 
mua không thanh toán và gửi trả hàng cho người bán vì ngân hàng Bank of 
American đã gửi trả chứng từ cho người bán. Trong tình huống này, NHĐT & 
PTVN – Chi Nhánh Đông Đô đã thu được nợ chiết khấu từ Navico từ nguồn tiền 
bán hàng khác. Tuy nhiên, công ty Navico cũng phải gánh chịu tổn thất giảm giá 
hàng và tìm đối tác khác bán lô hàng này và phải giảm đến 50% trị giá lô hàng. 
2.2.3 Những nguyên nhân 
Hoạt đông thanh toán nói chung và thanh toán quốc tế nói riêng luôn chứa 
đựng nhân tố gây rủi ro, làm giảm khả năng phát triển, ảnh hưởng tới kết quả 
kinh doanh của ngân hàng. Do vậy, các ngân hàng cần phải nhận thức rõ các 
nguyên nhân có thể gây rủi ro để đề ra các biện pháp phòng ngừa hiệu quả. 
 Nguyên nhân chủ quan từ ngân hàng 
- Thái độ cán bộ thanh toán ở một số nơi còn hạn chế, còn non yếu nghiệp 
vụ, thiếu kinh nghiệm, thiếu thận trọng trong xử lý nghiệp vụ. Cán bộ thanh toán 
quốc tế chưa được đào tạo bài bản, chưa có chuyên gia thực thụ về thanh toán 
40 
quốc tế và chuyên sâu về phát triển các sản phẩm tài trợ thương mại. Đây là 
nguyên nhân cốt lõi mang đến rủi ro và tồn tại trong thanh toán quốc tế 
- Chưa có sự phối kết hợp cao giữa các bộ phận có liên quan để tạo nên một 
dịch vụ khép kín trong thanh toán quốc tế, tín dụng và kinh doanh ngoại tệ. Việc 
phân chia mỗi nghiệp vụ là phòng độc lập như: phòng xuất, phòng nhập, phòng 
tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, phòng bảo lãnh, hối đoái… đã làm giảm đi sự 
liên kết phối kết hợp xử lý nghiệp vụ và nâng cao hiệu quả thanh toán quốc tế. 
- Sản phẩm chưa đa dạng, chưa đáp ứng hết nhu cầu dịch vụ ngày càng cao 
của khách hàng và thương mại quốc tế trong xu thế toàn cầu hoá ngày nay. Hiện 
nay, không chỉ riêng NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô mà hầu hết các 
ngân hàng thương mại được hoạt đông kinh doanh đối ngoại chỉ triển khai các 
dịch vụ truyền thống phục vụ các giao dịch thương mại đơn giản, chưa có sự bứt 
phá đầu tư nghiên cứu phát triển các sản phẩm tài trợ thương mại mới. 
- Sự thiếu thông tin về đối tác và ngân hàng nước ngoài, khả năng thu thập 
thông tin để đánh giá năng lực của khách hàng trong nước chưa được chú trọng. 
Việc phân loại khách hàng chưa tuân thủ theo các tiêu chuẩn nhất định còn qua 
loa đã tạo nên những cơ sở mà doanh nghiệp có thể lợi dụng và vi phạm cam kết 
với ngân hàng. 
- Công nghệ cho hoạt động thanh toán quốc tế chưa hoàn thiện còn lỗi hệ 
thống, việc nhận tin, truyền tin, hạch toán còn trục trặc, chương trình báo cáo 
thống kê thanh toán quốc tế còn lạc hậu, chưa thay đổi kịp theo hướng đổi mới 
các nội dung báo cáo của Ngân hàng Nhà nước cũng như của riêng NHĐT & 
PTVN – Chi Nhánh Đông Đô, hầu hết báo cáo thống kê về thanh toán quốc tế 
phải xử lý thủ công. 
 Nguyên nhân khách quan từ phía khách hàng trong nước 
- Ngân hàng thực hiện chức năng thanh toán quốc tế nhằm phục vụ cho nhu 
cầu hoạt động thanh toán thương mại quốc tế của đất nứơc, các doanh nghiệp 
kinh doanh xuất nhập khẩu là người trực tiếp thực hiện các hoạt động thương 
mại đó. Vì vậy, nguồn lực kinh doanh của doanh nghiệp có ảnh hưởng rất nhiều 
41 
đến hoạt động thanh toán quốc tế tại ngân hàng. Khách hàng trong nước là một 
trong những nguyên nhân góp phần tạo ra rủi ro, tồn tại trong thanh toán quốc tế 
làm ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế của 
NHTM. Một số nguyên nhân phát sinh từ phía khách hàng trong nước có thể kể: 
 Khách hàng chưa nắm vững luật kinh tế, tạo sơ hở về mặt pháp lý khi ký 
kết hợp đồng và khi xảy ra tranh chấp không có cơ sở để khiếu nại. 
 Khách hàng chưa thông thạo về kỹ thuật buôn bán ngoại thương và 
nghiệp vụ thanh toán quốc tế. Một số doanh nghiệp tham gia trực tiếp xuất nhập 
khẩu nhưng chưa am hiểu về kỹ thuật buôn bán ngoại thương không nắm vững 
các thông lệ quốc tế như: 
+ ký hợp đồng không phù hợp giữa phương thức thanh toán và đảm bảo 
thanh toán. 
+ Khi thương lượng ký kết hợp đồng thương mại thường dễ dàng chấp nhận 
các phương thức thanh toán và điều kiện thanh toán bất lợi cho mình. 
+ Chấp nhận các bất lợi trong nội dung L/C nên đã dẫn đến rủi ro thanh toán. 
+ Chọn nhầm đối tác. 
+ Việc lập chứng từ hàng xuất theo L/C còn nhiều sai sót, còn quan điểm sai 
sót chứng từ nhỏ không ảnh hưởng đến quá trình thanh toán, sẵn sàng cam kết 
chấp nhận rủi ro và yêu cầu ngân hàng thương lượng gửi chứng từ đi đổi tiền, 
tạo điều kiện cho nước ngoài từ chối thanh toán. 
+ Sự dễ dãi, cả tin, chạy theo lợi nhuận, một số doanh nghiệp không thực 
hiện đúng theo cam kết với ngân hàng trong và ngoài nước. 
+ Doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, phá sản. 
 Nguyên nhân khách quan từ nước ngoài 
Chúng ta nhận thấy các hành vi gian lận lừa đảo trong thanh toán quốc tế đã 
góp phần tạo nên những tổn thất to lớn cho các bên bị hại và đã ảnh hưởng lớn 
đến hoạt động thanh toán quốc tế tại NHTM. Điều này có thể đúc kết lại do các 
nguyên nhân sau: 
- Sự tinh vi của các thủ đoạn lừa đảo quốc tế. 
42 
- Sự thiếu đạo đức trong kinh doanh của khách hàng nước ngoài. 
- Trong thanh toán hàng xuất theo L/C, khách hàng và ngân hàng mở L/C 
thông đồng bắt bất hợp lệ chứng từ để từ chối thanh toán hoặc trì hoãn thanh 
toán. 
- Trong thanh toán nhờ thu trả chậm thường xuyên vi phạm cam kết thanh 
toán, kéo dài thời gian thanh toán. 
- Không thực hiện đúng điều khoản thanh toán theo phương thức chuyển 
tiền. 
2.3 Đánh giá về những biện pháp hạn chế và kiểm soát rủi ro trong 
thanh toán quốc tế tại NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô đạt được 
trong thời gian qua 
2.31 Kết quả đạt được: 
Là ngân hàng trẻ tuổi, ra đời sau nên NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô 
đã học hỏi được rất nhiều kinh nghiệm của các ngân hàng đi trước nhằm hạn chế 
rủi ro. Với hoạt động nhiệt tình, năng động của đội ngũ nhân viên, NHĐT & 
PTVN – Chi Nhánh Đông Đô đã có những bước đi ổn định và ngày càng vững 
mạnh. Đặc biệt, trong lĩnh vực thanh toán quốc tế ngân hàng đã phục vụ nhiệt 
tình, hướng dẫn cho khách hàng tìm hiểu rõ hơn về thị trường nước mà doanh 
nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. Ngân hàng tạo điều kiện cho những khách 
hàng đến mở L/C với chi phí thấp, độ đảm bảo cao, thu hút ngày càng nhiều 
khách hàng uy tín, có tình hình tài chính lành mạnh và ổn định. Cùng với sự 
quan tâm của Ban giám đốc và Hội đồng quản trị tới việc quản lý rủi ro nói 
chung và rủi ro trong thanh toán tín dụng chứng từ nói riêng, ngân hàng đã đạt 
được nhiều kết quả tốt trong việc hạn chế rủi ro: 
- Doanh số thanh toán xuất nhập khẩu bằng L/C qua NHĐT & PTVN Chi 
Nhánh Đông Đô tăng mạnh trong những năm gần đây, một tỷ lệ mà các ngân 
hàng đều mong muốn. Ngân hàng dần dần đã tạo được vị thế trong thanh toán 
quốc tế, thu hút được nhiều khách hàng hơn. 
43 
- Có những chính sách hỗ trợ xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp rất tốt, 
ngân hàng đã mở rộng cho vay tài trợ xuất khẩu, chiết khấu chứng từ. Với cho 
vay tài trợ nhập khẩu, ngân hàng đã đạt được bước tiến mới, chất lượng tài trợ 
nhập khẩu bằng L/C không ngừng được nâng cao, các trục trặc về mở L/C giảm 
thiểu, hoạt động tài trợ được kết hợp hài hoà với hoạt động thanh toán tạo ra một 
chu kỳ kinh doanh khép kín, mang lại hiệu quả cao cho hoạt động của ngân 
hàng, phương thức cho vay được đổi mới, chủ yếu sử dụng vay theo hạn mức tín 
dụng. Những kết quả trên làm khách hàng nhập khẩu rất tin tưởng và giao dịch 
ngày càng nhiều tại ngân hàng, cho đến thời điểm hiện nay, có đến 197 doanh 
nghiệp tham gia thanh toán L/C qua ngân hàng. 
- Tỷ lệ cho vay bắt buộc và nợ quá hạn L/C giảm đi nhanh chóng, hầu như 
xuất hiện rất ít nợ mới do ngân hàng đã tiến hành đòi nợ cũ tốt và thắt chặt hoạt 
động mở L/C trả chậm. Nợ quá hạn năm 2004 giảm 18% so với năm 2003, chỉ 
còn chiếm 5,1% tổng số dư chưa thanh toán, đạt 370 ngàn USD. 
- Chất lượng thẩm định được nâng cao do ngân hàng đã rất chú trọng công 
tác này. Do việc lựa chọn và sàng lọc khách hàng được thực hiện tốt hơn nên 
chất lượng khách hàng cũng ngày một tốt hơn. 
- Trong những năm gần đây, chưa có vụ tranh chấp nghiêm trọng nào xảy 
ra tại NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô, những tranh chấp xảy ra đều 
được ngân hàng giải quyết dứt điểm, không gây hậu quả và tổn hại kéo dài. 
- Ngân hàng đã giữ uy tín với ngân hàng nước ngoài trong thanh toán, đây 
là tiền đề rất tốt để hoạt động thanh toán quốc tế diễn ra hiệu quả và gặp ít rủi ro. 
Uy tín của ngân hàng ngày một nâng cao, không những đối với các doanh 
nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam mà còn với các ngân hàng trên thế giới. 
- Ngân hàng đã xây dựng được đội ngũ cán bộ thanh toán quốc tế năng 
động nhiệt tình, được đào tạo chuyên môn kỹ càng, có đạo đức nghề nghiệp. 
Điều này góp phần hạn chế rủi ro nhiều trong hoạt động thanh toán quốc tế của 
ngân hàng. 
2.3.2 Hạn chế 
44 
Bên cạnh những kết quả đạt được, ngân hàng cũng còn một số khó khăn, hạn 
chế cần khắc phục để nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế. 
Mặc dù đã thực hiện rất nhiều biện pháp để hạn chế rủi ro trong thanh toán 
quốc tế nhưng những rủi ro xảy ra là điều không tránh khỏi. Những rủi ro này 
không những gây tổn hại về mặt tài chính mà còn làm xâm hại và giảm sút uy 
tín của ngân hàng. Những tổn thất mà ngân hàng phải gánh chịu do rủi ro kỹ 
thuật như chứng từ còn nhiều sai sót, việc kiểm tra chứng từ và thanh toán diễn 
ra chậm, rủi ro tín dụng như bảo lãnh L/C trả chậm, cho vay tài trợ xuất khẩu, 
nhập khẩu… 
- Nghiệp vụ hỗ trợ hoạt động xuất khẩu còn hạn chế. Mặc dù nghiệp vụ này 
có tăng lên qua từng năm nhưng tỷ lệ xuất khẩu vẫn chiếm quá nhỏ trong thanh 
toán quốc tế. Hoạt động cho vay tài trợ xuất khẩu cũng chưa hoạt động thực sự 
hiệu quả, khách hàng là doanh nghiệp xuất khẩu còn quá ít, việc chiết khấu 
chứng từ cũng còn nhiều hạn chế so với nhu cầu của doanh nghiệp. 
- Cơ sở vật chất kỹ thuật ngân hàng còn nhiều hạn chế trong khi thanh toán 
quốc tế đòi hỏi có máy móc và công nghệ hiện đại. Mạng nội bộ Smart Bank của 
ngân hàng nhiều lúc còn gặp trục trặc, tình trạng máy bị treo không phải không 
xảy ra khiến các giao dịch nghiệp vụ diễn ra rất chậm, có khi phải 5 phút mới 
xong một giao dịch. Ngân hàng cũng đã cài đặt mạng SWIFT nhưng máy cũng 
còn bị trục trặc, đường truyền kém chất lượng làm cho chất lượng điện không 
được tốt, ảnh hưởng nhiều đến quá trình thanh toán. 
- Cán bộ thanh toán quốc tế tuy có trình độ nhưng còn trẻ nên kinh nghiệm 
rất ít, khó có thể xử lý công việc khi có rủi ro hay tranh chấp phát sinh. 
- Các loại L/C sử dụng chưa đa dạng, phần lớn L/C được sử dụng là L/C 
không huỷ ngang. Ngoài ra, ngân hàng cũng có L/C tuần hoàn, L/C chuyển 
nhượng nhưng số lượng còn hạn chế. L/C giáp lưng, chuyển nhượng, tuần hoàn 
có rất nhiều ưu việt nhưng chưa được sử dụng hiệu quả. 
45 
CHƯƠNG III 
 MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ PHÒNG NGỪA RỦI RO 
TRONG THANH TOÁN QUỐC TẾ 
46 
3.1 Định hướng thanh toán quốc tế của NHĐT & PTVN – Chi Nhánh 
Đông Đô 
Trong những năm vừa qua, NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô đã đạt 
được những thành tựu đáng kể trong thanh toán quốc tế. Trong những năm tới 
ngân hàng cố gắng phát huy những thành tựu trên và đưa ra những mục tiêu mới 
để phấn đấu: 
- Phát triển hoạt động thanh toán quốc tế để tăng nguồn thu từ phí dịch vụ 
và tranh thủ nguồn tiền gửi ký quỹ lãi suất thấp. 
- Nâng cao chất lượng và độ an toàn nghiệp vụ thanh toán quốc tế. 
- Đẩy mạnh các phương thức thanh toán quốc tế và mở rộng các phương 
thức thanh toán quốc tế khác mà ngân hàng chưa áp dụng rộng rãi. 
- Giữ vững khách hàng truyền thống, thu hút thêm khách hàng mới để nâng 
cao doanh số thanh toán xuất nhập khẩu. 
- Mở rộng các hình thức huy động vốn bao gồm cả nội, ngoại tệ để cung 
ứng cho khách hàng có nhu cầu vay vốn xuất nhập khẩu. 
- Tăng cường tiếp thị mở rộng mạng lưới khách hàng, nhất là khách hàng 
xuất khẩu. 
- Tăng cường kiểm tra kiểm soát nội bộ, xử lý kịp thời và kiên quyết những 
sai phạm của cán bộ viên chức làm tổn hại đến lợi ích kinh doanh của ngân hàng 
và doanh nghiệp. 
- Tiếp tục hoàn thiện và cải tiến công nghệ ngân hàng. 
47 
3.2 Giải pháp phòng ngừa rủi ro 
Trong các năm tới, sẽ có nhiều khó khăn và thách thức lớn trên thế giới do 
tình hình hết sức phức tập và những nguy cơ khủng bố, chiến tranh, có tác động 
xấu làm suy thoái nền kinh tế thế giới. Thực tế, thời gian qua nguy cơ chiến 
tranh xảy ra trên thế giới đã trở thành hiện thực, thêm vào đó, một số nước trên 
thế giới trong đó có Việt Nam đang đối mặt với các vụ kiện về kinh tế như vụ 
kiện về bán phá giá cá Basa, vụ kiện tôm và các loại dịch bệnh đã làm cho hoạt 
động thương mại giảm sút đáng kể. Những diễn biến này tiếp tục tác động với 
kinh tế nước ta, trong đó tác động không nhỏ đến hoạt động ngân hàng nói 
chung và thanh toán quốc tế nói riêng. Để góp phần hạn chế những rủi ro trong 
lĩnh vực thanh toán quốc tế, theo em cần giải quyết các vấn đề sau: 
3.2.1 Đa dạng hoá các hình thức thanh toán 
Để đáp ứng nhu cầu phát triển nhanh chóng của thương mại quốc tế, cần 
nghiên cứu để có thể đa dạng hoá các hình thức thanh toán đã được nhiều nước 
trên thế giới sử dụng như: thu đổi sec dịch vụ, chiết khấu chứng từ có giá, thư tín 
dụng điện tử, nhờ thu bù trừ tự động… cần tiến tới mở rộng và phát triển các 
nghiệp vụ hoán đổi (swap), kỳ hạn (forward) nghiệp vụ quyền chọn (option)… 
để có thể đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng. 
3.2.2 Hoàn thiện chương trình ứng dụng công nghệ ngân hàng trong 
thanh toán quốc tế 
Thế kỉ 21, thế kỉ của khoa học công nghệ hiện đại, thế kỉ của hội nhập khu 
vực và thế giới, hội nhập quốc tế về ngân hàng, xu thế phát triển thương mại 
điện tử ngày càng cao, đòi hỏi ngân hàng phải quan tâm tới đổi mới công nghệ, 
ứng dụng công nghệ hiện đại vào hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động 
thanh toán nới riêng. Mặt khác, trong cơ chế thị trường, nhu cầu của khách hàng 
ngày càng cao hơn và đa dạng hơn, muốn thu hút khách hàng ngày càng cao thì 
yêu cầu chất lượng dịch vụ ngân hàng cũng phải cao vậy chỉ có ứng dụng ngân 
hàng mới có thể áp dụng được. 
48 
- Một thực trạng mà NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô đang gặp phải 
đó là cơ sở vật chất kỹ thuật ngân hàng còn nhiều hạn chế trong khi thanh toán 
quốc tế đòi hỏi có máy móc và công nghệ hiện đại. Mạng nội bộ MART BANK 
của ngân hàng nhiều lúc còn trục trặc, máy còn bị treo. Việc ứng dụng công 
nghệ ngân hàng đã và đang trở thành 1 xu thế tất yếu trong hoạt động ngân hàng 
trong giao dịch quốc tế, các ngân hàng quốc doanh và 1 số ngân hàng cổ phần đã 
tham gia mạng Swift toàn cầu. Nhờ đó đã góp phần rút ngắn thời gian giao dịch, 
nâng cao hiệu quả trong thanh toán nói chung và trong thanh toán quốc tế nói 
riêng. Tuy nhiên, nếu chỉ tham gia mạng thanh toán Swift thì chưa đủ, ngân 
hàng cần phải ứng dụng nhiều chương trình ứng dụng công nghệ khác vào lĩnh 
vực thanh toán quốc tế như: tài trợ thương mại, vi tính hoá hệ thống hạch toán 
kế toán, hệ thống báo cáo thống kê về thanh toán quốc tế, mọi yêu cầu, thông tin 
về hoạt động thanh toán quốc tế đều có thể triển khai trên hệ thống máy vi tính. 
Áp dụng giải pháp này mang lại những lợi ích thiết thực: giảm được nhân lực 
ở 1 số bộ phận, tiết kiệm thời gian giao dịch, giảm chi phí dịch vụ, nắm bắt được 
kịp thời các thông tin, yêu cầu dữ liệu về thanh toán quốc tế đảm bảo an toàn 
trong thanh toán, nâng cao thanh toán quốc tế nói riêng và hoạt động kinh doanh 
ngân hàng nói chung. 
3.2.3 Quản trị rủi ro thanh toán quốc tế 
a) Đối với phương thức tín dụng chứng 
- Công tác tổ chức đào tạo cán bộ: 
Con người là yếu tố trung tâm, quyết định hiệu qủa trong mọi hoạt động kinh 
doanh nói chung và hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng nói riêng. Vì vậy, 
việc đào tạo một đội ngũ cán bộ tín dụng có trình độ nghiệp vụ cao, có đạo đức 
và tinh thần trách nhiệm tốt đối với công việc là một trong những biện pháp rất 
quan trọng để hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng. 
Cùng với việc tổ chức các hoạt động đào tạo cán bộ, ngân hàng còn cần phải 
đề ra những tiêu chuẩn về bằng cấp, kinh nghiệm, trình độ ngoại ngữ hay khả 
năng giao tiếp làm cơ sở cho việc tuyển chọn cán bộ, đồng thời khuyến khích 
49 
cán bộ cũ của ngân hàng không ngừng tự học, tự bồi dưỡng để trau dồi kiến thức 
năng lực. 
Bên cạnh việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, ban lãnh đạo ngân hàng phải cân 
nhắc thận trọng trong khi bố trí nhân sự để phát huy được thế mạnh và hạn chế 
được nhược điểm của mỗi cán bộ. Ngoài ra, việc đề ra một chế độ đãi ngộ xứng 
đáng như về lương thưởng đối với cán bộ tín dụng để động viên, khuyến khích 
kịp thời nhằm làm cho cán bộ, nhân viên không ngừng nâng cao tinh thần trách 
nhiệm, kích thích sự cố gắng phấn đấu trong công tác nghiệp vụ của mỗi người. 
- Tăng cường công tác thu thập và xử lý thông tin: 
Thu thập, phân tích và xử lý kịp thời, chính xác các thông tin liên quan đến 
hoạt động tín dụng là điều hết sức cần thiết, nó giúp nâng cao hiệu quả công tác 
tín dụng và hạn chế rủi ro. 
Trên cơ sở những thông tin thu thập được, cần phân tích cẩn thận để có quyết 
định chính xác, tránh để xảy ra rủi ro do khách hàng sử dụng các thủ đoạn lừa 
đảo, giả mạo hồ sơ vay vốn hay tận dụng các sơ hở của pháp luật để dùng một 
tài sản thế chấp vay vốn nhiều ngân hàng khác nhau. 
Sau khi vay vốn, vấn đề đặt ra là phải giám sát người vay, đảm bảo sử dụng 
vốn vay đúng mục đích và tiến độ. Việc giám sát có thể được thể hiện qua nhiều 
hình thức như kiểm tra định kỳ các báo cáo tài chính của doanh nghiệp, kiểm tra 
tình hình sản xuất kinh doanh thực tế, kiểm tra khả năng chi trả, thanh toán của 
doanh nghiệp ... kịp thời phát hiện những dấu hiệu rủi ro tín dụng để sớm có 
biện pháp xử lý thích hợp. 
- Linh hoạt sáng tạo trong xử lý nghiệp vụ: 
Trong quá trình cho vay, không phải lúc nào cũng suôn sẻ, tránh được rủi ro, 
kể cả khi công tác thẩm định đã được thực hiện tốt, kế hoạch vay vốn vẫn có thể 
gặp khó khăn nảy sinh trong thời gian sử dụng vốn vay. Vì vậy, sự linh hoạt, 
sáng tạo trong xử lý nghiệp vụ của cán bộ tín dụng là một biện pháp quan trọng 
nhằm hạn chế rủi ro tín dụng. 
50 
Khi khách hàng gặp khó khăn trong quá trình sản xuất kinh doanh, rủi ro tín 
dụng là điều rất dễ xảy ra. Trong những tình huống đó, cán bộ tín dụng kết hợp 
với doanh nghiệp cùng tháo gỡ khó khăn sẽ bảo vệ được lợi ích của cả doanh 
nghiệp và ngân hàng. Khi đó có thể áp dụng một số biện pháp sau: 
+ Gia tăng khối lượng tiền cho vay đối với những doanh nghiệp có phương 
án phục hồi sản xuất có tính khả thi cao. Giải pháp này chỉ thực sự có hiệu quả 
khi cả ngân hàng và doanh nghiệp đều phải nỗ lực cho doanh nghiệp đi lên. Nếu 
không có sự giúp đỡ này của ngân hàng thì món nợ của doanh nghiệp có nhiều 
khả năng không thể được thanh toán dẫn đến rủi ro tín dụng của ngân hàng. 
+ Ngân hàng có thể kêu gọi người bảo lãnh để cứu giúp cho doanh nghiệp 
đồng thời đảm bảo được sự san sẻ rủi ro. 
+ Cán bộ tín dụng có thể cố vấn đề như sáng kiến cải tiến, chuyển nhược hoạt 
động sản xuất kinh doanh, phát hiện bất hợp lý giúp doanh nghiệp tự tháo gỡ 
khó khăn. 
b) Đối với phương thức thanh toán nhờ thu 
Áp dụng 1 biện pháp đảm bảo kèm theo trong những trường hợp ứng trước 
tiền cho các bộ chứng từ nhờ thu. Trong quy trình thanh toán nhờ thu của ngân 
hàng, ngân hàng sẽ chiết khấu chứng từ nhờ thu DA trên cơ sở đã được ngân 
hàng nước ngoài điện báo ngày chấp nhận đáo hạn, ngân hàng thu hộ là ngân 
hàng có uy tín. Tuy nhiên, không có 1 điều luật quốc tế nào rằng buộc trách 
nhiệm của ngân hàng. Vì vậy, trong thực tiễn phát sinh nhiều bộ chứng từ nhờ 
thu hàng xuất khẩu của khách Việt Nam mặc dù đã được người mua chấp nhận 
thanh toán nhưng cho đến ngày đáo hạn, việc thanh toán không được thực hiện 
đúng cam kết. 
Thường thì sau ngày đáo hạn hàng tháng trời người bán mới nhận được tiền. 
Bộ chứng từ được thu hàng xuất không có cơ sở pháp lý đảm bảo an toàn trong 
thanh toán trong ngân hàng. Còn đối với bộ chứng từ nhờ thu DP, ngân hàng sẽ 
chiết khấu với thời gian tối đa 60 ngày, nhưng trong thực tế các bộ chứng từ nhờ 
thu DP cũng bị người thu trì hoãn, kéo dài thời gian thanh toán, có khi vượt quá 
51 
60 ngày. Do đó, trước khi quyết định chiết khấu ngân hàng cần xem xét kỹ khả 
năng tài chính của khách hàng mà quyết định hoặc áp dụng kèm theo biện pháp 
đảm bảo an toàn khác như cầm cố, thế chấp, bảo lãnh. Áp dụng biện pháp này sẽ 
mang lại hiệu quả cho ngân hàng trong đảm bảo khả năng thu hồi vốn, thu được 
nợ và lãi trên số tiền ứn trước, giảm thiểu được rủi ro. 
c) Đối với phương thức thanh toán chuyển tiền 
Cần xem xét và lựa chọn ngân hàng thanh toán phù hợp, thông thường 
chuyển tiền được thanh toán ghi nợ, có tại cùng ngân hàng mà cà NHĐT & 
PTVN – Chi nhánh Đông Đô và ngân hàng nhận điện cùng có quan hệ thanh 
khoản thì khách hàng không bị thu phí hoặc chỉ bị thu 1 khoản phí không đáng 
kể. Nếu ngân hàng không quan tâm đến điều này, lúc sử dụng thanh toán từ tài 
khoản Nostro tại ngân hàng này, lúc thực hiện tại ngân hàng kia thì trong thanh 
toán chuyển tiền sẽ phát sinh những khoản phí do thanh toán vòng vo qua ngân 
hàng trung gian gây lãng phí cho khách hàng. Ngân hàng phải thường xuyên 
quan tâm đối chiếu danh sách các ngân hàng đại lý của NHĐT & PTVN – Chi 
nhánh Đông Đô và ngân hàng đại lý của ngân hàng nước ngoài để tìm ra những 
ngân hàng thích hợp với từng thị trường mà lựa chọn ngân hàng thanh toán cho 
phù hợp. Với biện pháp này các doanh nghiệp sẽ thấy hiệu quả do NHĐT & 
PTVN – Chi nhánh Đông Đô mang lại cho họ. Chắc chắn rằng NHĐT & PTVN 
– Chi nhánh Đông Đô sẽ thu hút đựoc khách hàng ngày càng nhiều hơn sẽ khơi 
tăng hiệu quả kinh doanh cho ngân hàng. 
d) Đối với quá trình điều vốn ghi nợ: 
Để quá trình đòi tiền hàng xuất theo phương thức thanh toán L/C hoặc nhờ 
thu cho khách hàng được thu hồi an toàn, nhanh chóng và hạn chế tối đa mọi 
khoản phí dịch vụ hoặc điện phí do ngân hàng nước ngaòi thu của khách hàng 
xuất khẩu. Trong quá trình kiểm tra chứng từ, cần phải thận trọng kiểm tra bộ 
chứng từ đảm bảo phù hợp với điều khoản và điều kiện của L/C. NHĐT & 
PTVN – Chi nhánh Đông Đô cần tìm hiểu cac tài khoản mà ngân hàng trả tiền 
mở ở các ngân hàng dại lý ở nước ngaòi, các mức phí mà ngân hàng nước ngoài 
52 
sẽ thu trong quá trình thanh toán. Trên cơ sở đó, NHĐT & PTVN – Chi nhánh 
Đông Đô sẽ yêu cầu ngân hàng trả tiền thanh toán tiền hàng vào tàI khoản nostro 
mà NHĐT & PTVN – Chi nhánh Đông Đô và ngân hàng trả tiền cùng mở tại 
ngân hàng đó, hoặc điều kiện hàng xuất về cac ngân hàng có mức phí thấp nhất. 
Điều này không những giảm được các khoản điện phí của ngân hàng nước ngaòi 
thu của khách hàng trong nước mà còn hạn chế quá trình thanh toán lòng vòng, 
thời gian thanh toán từ tàI khoản Nostro của ngân hàng trả tiền đến tài khoản 
Nostro cua NHĐT & PTVN – Chi nhánh Đông Đô. Biện pháp nghiệp vụ này, 
tưởng chừng như đơn giản nhưng nếu cán bộ thanh toán quốc tế không quan tâm 
đến điều này sẽ gây tốn kém cho khách hàng những khoản điện phí. Ngược lại, 
nếu cán bộ NHĐT & PTVN – Chi nhánh Đông Đô quan tâm đến điều này thì sẽ 
mang lại hiệu quả cao cho khách hàng nhờ đó sẽ tạo được uy tín cho ngân hàng 
đối với khách hàng, thu hút được khách hàng ngày càng nhiều hơn và hiệu quả 
hoạt động thanh toán sẽ được nâng cao. 
3.2.4 Phát triển dịch vụ tư vấn 
Trong tình hình thực tế hiện nay, đa số các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu 
còn thiếu kinh nghiệm trong thương lượng, kí kết hợp đồng ngoại thương. Nhất 
là doanh nghiệp tư nhân, mới bước vào thương trường quốc tế thiếu trình độ 
chuyên môn về thanh toán quốc tế, non yếu về trình độ ngoại ngữ, không am 
hiểu các điều kiện thương mại quốc tế. Thường dẫn đến kết quả là phát sinh 
tranh chấp, kiện tụng, kinh doanh kém hiệu quả. Chính vì vậy công tác từ vấn 
của ngân hàng là rất quan trọng. 
Với vai trò tư vấn, ngân hàng có thể tư vấn cho khách hàng những điều 
khoản cần rằng buộc trong hợp đồng, lựa chọn cac điều kiện thanh toán phù hợp 
với từng phương thức thanh toán, nếu có thể ngân hàng còn tư vấn cho khách 
hàng ở góc độ rộng hơn về hoạt động thương mại xuất nhập khẩu, về các điều 
kiện thương mại quốc tế, về kiến thức pháp luật liên quan của Việt Nam. Dịch 
vụ tư vấn càng phát triển, ngân hàng sẽ tạo được niềm tin đối với khách hàng, sẽ 
53 
nâng cao hiệu quả kinh doanh cho ngân hàng đặc biệt có thể hạn chế rủi ro trong 
kinh doanh ngân hàng. 
Việc thực hiện dịch vụ tư vân khá phức tạp, nó đòi hỏi một kỹ năng giao tiếp, 
một trình độ chuyên môn sâu, nhiều kinh nghiệm được tích luỹ của mỗi nhân 
viên ngân hàng và nhà lãnh đạo. Muốn thực hiện được dịch vụ này bản thân 
từng nhân viên ngân hàng cũng như lãnh đạo cần được thường xuyên đào tạo và 
đào tạo lại để thích ứng với cơ chế thị trường đang thay đổi hàng ngày. 
Thời gian qua, ngân hàng đã tư vân cho khách hàng về thanh toán quốc tế rất 
nhiều, nhưng chưa coi đây là dịch vụ phải thu phí để tạo doanh thu cho ngân 
hàng nên chưa xây dựng biểu phí dịnh vụ hoạt động này. Vì vậy, trong tương lai 
nếu coi đây là một dịch vụ thì ngân hàng phải thu phí và khi nó đã được khách 
hàng quan tâm thì khoản phí dịch vụ thu về từ hoạt động này sẽ tăng. 
3.2.5 Mở rộng quan hệ ngân hàng đại lý 
Trong quá trình xử lý nghiệp vụ thanh toán quốc tế tại ngân hàng thương 
mại, hệ thống các ngân hàng đại lý có đóng góp tích cực trong việc phát triển và 
nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế rất nhiều. Thông qua mối quan 
hệ tài khoản, hợp tác trong việc cung cấp thông tin về tài chính và khách hàng 
nước ngoài, hỗ trợ các dịch vụ trong quá trình thực hiện thanh toán quốc tế, hỗ 
trợ đào tạo cán bộ thanh toán quốc tế để có thể phục vụ đắc lực cho quá trình hội 
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Bên cạnh việc duy trì mối quan hệ tốt với 
các ngân hàng truyền thống, lâu đời, NHĐT & PTVN – Chi nhánh Đông Đô cần 
tích cực, chủ động hơn nữa trong phát triển và mở rộng các quan hệ đại lý với 
các ngân hàng trên thế giới, tiếp cận với các ngân hàng ở các nước mà Việt Nam 
đã và đang có quan hệ thương mại, xây dựng một chiến lược về công tác quan 
hệ đại lý thực sự có hiệu quả khi: 
+ Có sự kết gắn công tác quan hệ đại lý với công tác khach hàng. 
+ Chủ động tìm kiếm ngân hàng đại lý ở những thị trường mới, thị trường 
Việt Nam mới có quan hệ thương mại và mời chào dịch vụ với họ. 
54 
+ Thường xuyên theo dõi, đánh giá mối quan hệ giữa NHĐT & PTVN – Chi 
nhánh Đông Đô và ngân hàng đại lý trên các mặt giao dịch, thanh toán để xếp 
hạng uy tín, lựa chọn ngân hàng thanh toán có hiệu quả nhất. 
Sau khi đã thiết lập được quan hệ đại lý, NHĐT & PTVN – Chi nhánh Đông 
Đô cần bổ sung cập nhập kịp thời trên mạng các ngân hàng này cả về tên, mã 
nhằm giúp quá trình tra cứu, chọn lựa ngân hàng trong thực hiện nghiệp vụ 
thanh toán quốc tế tại các chi nhánh được nhanh chóng và kịp thời. 
3.2.6 Thực hiện kiểm toán hoạt động thanh toán quốc tế 
Hoạt động thanh toán quốc tế ngày càng đa dạng và phức tạp hơn, rủi ro ngày 
càng nhiều hơn, yêu cầu kiểm toán cho hoạt động thanh toán quốc tế cần được 
đặt ra cho ngân hàng. Cán bộ kiểm tra, kiểm toán nội bộ cần được đào tạo toàn 
diện các mặt nghiệp vụ, cần đào tạo chuyên sâu trong lĩnh vực thanh toán quốc 
tế, được cọ sát thực tế thông qua luân chuyển cán bộ, cán bộ trước khi bố trí 
công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ phải được phân công làm công tác thanh 
toán quốc tế một thời gian để nắm bắt thực tế. Chỉ khi được trang bị một kiến 
thức cả về lý luận, cả về thực tiễn trong lĩnh vực này thì bộ phận kiểm tra nội bộ 
mới mạnh dạn xây dựng chương trình kiểm toán cho hoạt động này. khi hoạt 
động này được quan tâm thì mức độ sai sót giảm đi và rủi ro sẽ được hạn chế 
dẫn đến hiệu quả được nâng lên. 
Sự an toàn và hiệu quả trong kinh doanh ngân hàng là mục tiêu chủ yếu của 
hoạt động kiểm toán nội bộ. Trong đó, an toàn và hiệu quả trong lĩnh vực hoạt 
động thanh toán quốc tế là một trong những tiêu chí để đánh giá khả năng hội 
nhập quốc tế ngân hàng. Vì vậy, để tránh rủi ro trong thanh toán quốc tế có thể 
ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh ngân hàng, ảnh hưởng đến uy tín ngân hàng 
trên thương trường quốc tế. 
3.2.7 Thống nhất mô hình tổ chức hoạt động thanh toán quốc tế toàn hệ 
thống 
Hiện nay, mô hình tổ chức nghiệp vụ thanh toán quốc tế của các chi nhánh 
cùng cấp chưa nhất quán, mỗi nơi một khác, còn chồng chéo nghiệp vụ giữa các 
55 
phòng. Để có cái nhìn toàn diện hơn, logic hơn về sức mạnh tổng hợp của 
NHĐT & PTVN – Chi nhánh Đông Đô đối với khách hàng, việc thống nhất tên 
gọi và mô hình tổ chức về hoạt động thanh toán quốc tế giữa các chi nhánh cùng 
cấp cần được xem xét ngay. Tại mỗi chi nhánh cấp 1 nên có một phòng thực 
hiện tất cả các nghiệp vụ liên quan đến tài trợ thương mại quốc tế như: L/C, nhờ 
thu, chuyển tiền, bảo lãnh, tài trợ xuất nhập khẩu… nhằm phát huy thế mạnh về 
thanh toán quốc tế trong toàn hệ thống. Để làm được điều này, cần chuyên môn 
hoá cán bộ có trình độ chuyên sâu trên tất cả các mặt nghiệp vụ, đảm bảo các 
tiêu chuẩn về quản lý chất lượng quốc tế. 
3.2.8 Giải pháp phối hợp từ phía khách hàng 
Các hạn chế về năng lực kinh doanh xuất nhập khẩu của khách hàng cũng 
ảnh hưởng tới hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng. phải có biên pháp 
phối hợp từ phía khách hàng với ngân hàng. Ngân hàng càng cố gắng nâng cao 
năng lực và uy tín của mình trên thương trường quốc tế. Để làm được điều này, 
các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cần phải quan tâm giải quyết một sô vân đề: 
+ Trang bị kiến thức chuyên môn về ngoại ngữ, về buôn bán ngoại thương, 
thông lệ quốc tế cho cả chủ doanh nghiệp và cả nhân viên thừa hành trước khi 
bước vào thương trường quốc tế. Trang bị đầy đủ những tài liệu hướng dẫn vè 
thanh toán xuất nhập khẩu trong doanh nghiệp để làm cơ sở tham khảo, nâng 
cao trình độ cho cả chủ doanh nghiệp và nhân viên làm công tác thanh toán xuất 
nhập khẩu. 
+ Tuân thủ những quy đinh cơ bản của nghiệp vụ thanh toán quốc tế. Không 
nên làm tắt hoặc bỏ qua những chi tiết cho rằng nhỏ nhặt mà tạo sơ hở cho đối 
tác có cơ sở từ chối thanh toán tiền hàng, tranh chấp kéo dài, phát sinh chi phí 
làm giảm hiệu quả kinh doanh cũng như uy tín của mình trên thương trường 
quốc tế. 
+ Nắm bắt thị trường giá cả, tỉ giá và các quy định về pháp luật của nhà nước 
để có chiến lược kinh doanh phù hợp với tình hình trong và ngoài nước. Nắm 
56 
bắt các thị trường bị Mỹ cấm vận và thận trọng trong quan hệ kinh doanh với thị 
trường này. 
+ Điều tra kỹ đối tác khi đặt quan hệ thương mại nhằm tránh lừa đảo trong 
kinh doanh có thể điều tra qua ngân hàng. Qua phòng thương mại, công ty tư 
vấn… những đơn bị mới quan hệ lần đầu, cần rằng buộc trách nhiệm chặt chẽ 
giữa các bên trong hợp đồng. 
+ Không vì chạy theo lợi nhuận, muốn bán được hàng mà cố chấp nhận 
những điều kiện bất lợi cho mình, có thể dẫn đến các tranh chấp, kiện tụng kéo 
dài gây thua lỗ hoặc mất vốn trong kinh doanh. 
+cảnh giác với những thương vụ béo bở, lãi cao vì đây là thủ đoạn của bọn 
lừa đảo. 
+ Quan tâm nghiên cứu các tư vấn của ngân hàng để yêu cầu phía đối tác tu 
chỉnh ngay những điều khoản bất lợi cho mình về cả các điều khoản thanh toán, 
các chứng từ cần xuất trình, các khoản phí và hoa hồng mà mình phải gánh chịu 
cho phía đối tác. Điều này, không chỉ hạn chế rủi ro mà giảm được các khoản 
phí phát sinh bất hợp lý do chính bản thân doanh nghiệp mà còn giúp đỡ cho 
NHĐT & PTVN – Chi nhánh Đông Đô không bị vạ lây do sự dễ dãi của khách 
hàng. 
+ Tìm kiếm và phát triển thị trường mới nhằm nâng cao hiêu quả và phân tán 
rủi ro. Để tạo hiệu quả trong kinh doanh xuất nhập khẩu, nâng cao năng lực canh 
tranh, tạo ra một thương hiệu và danh tiếng trên thị trường trong và ngoài nước. 
Các doanh nghiệp cần tiến hành biện pháp để đưa các sản phẩm của mình tiếp 
cân với thị trường mới, khi đó ngân hàng càng có điều kiện để thực hiện vai trò 
trung gian thanh toán. Thông qua đó sẽ mang lại doanh thu cho hoạt động kinh 
doanh thanh toán quốc tế của ngân hàng. 
3.3 Kiến nghị với chính phủ 
- Có sự ổn định môI trường kinh tế vĩ mô, chỉ trên cơ sở môI trường kinh tế 
ổn định, hoạt động thanh toán quốc tế mới nâng cao hoạt động, hiệu quả của nó. 
Nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế. 
57 
- Chính Phủ sớm ban hành các văn bản pháp luật về hoạt động thanh toán quốc 
tế. Mọi hoạt động ngân hàng cần được pháp luật bảo vệ khi có tranh chấp xảy ra, 
nó chỉ phát triển với hiệu quả cao khi nó được tồn tại trong mội trường pháp lý 
hoàn thiện, đảm bảo hoạt đông thanh toán quốc tế, một hoạt động không chỉ liên 
quan đến các đối tác nước ngoài. Vì vậy, việc sớm ban hành các văn bản pháp 
luật riêng cho hoạt động thanh toán quốc tế sẽ hỗ trợ cho các doanh nghiệp cũng 
như ngân hàng có cơ sở để phát triển hoạt động kinh doanh của mình. 
- Chính phủ có cơ chế quản lý ngoại hối theo xu hướng khuyến khích và tạo điểu 
kiện thuận lợi để thị trường ngoại hối trong nước phát triển. với đầy đủ các 
nghiệp vụ phát sinh nhằm hỗ trợ cho hoạt động thanh toán quốc tế. 
Hiện nay, quá trình xúc tiến thương mại của các doanh nghiệp kinh doanh 
xuất nhập khẩu Việt Nam đã mở rộng đến các thị trường lớn. Nhu cầu xuất hàng 
trả chậm cũng được đặt ra giữa các đối tác. tuy nhiên, mức độ rủi ro trong thanh 
toán quốc tế ở những thị trường này cũng rất cao, các doanh nghiệp để làm được 
điều này cần có sự hỗ trợ của chính phủ trong việc kí kết các hiệp định thanh 
toán giữa hai nước. 
3.4 Kiến nghị với ngân hàng nhà nước 
Duy trì chính sách tỷ giá ổn định vì chỉ có một chính sách tỷ giá ổn định mới 
giúp các doanh nghiệp an tâm thực hiện chiến lược kinh doanh lâu dài về xuất 
nhập khẩu. Điều này, không chỉ mang lại hiệu quả cho chính doanh nghiệp mà 
còn mang lại hiệu quả cho đất nước và cho hoạt động thanh toán quốc tế tại 
NHĐT & PTVN – Chi nhánh Đông Đô. 
Duy trì chính sách quản lý ngoại hối thông thoáng, một chính sách quản lý 
ngoại hối thông thoáng sẽ giúp doanh nghiệp tích cực chủ động trong hoạt động 
kinh doanh, tái tạo ngoại tệ cho đất nước. Mọi thay đổi về chính sách quản lý 
ngoại hối đều ảnh hưởng đến hoạt động thanh toán quốc tế tạo điều kiện cho thị 
trường phát triển với đầy đủ nghiệp vụ phát sinh. 
Có quy chế cho hoạt động mua bán nợ về tiền hàng xuất khẩu. Hiện nay, 
NHNN đã có quyết định cho phép việc mua bán nợ trong nước đối với các tổ 
58 
chức tín dụng, đối tượng mua bán nợ trong quy định chưa bao gồm cả hối phiếu 
và lệnh phiếu, giấy báo thanh toán liên quan đến hàng hoá xuất nhập khẩu. Các 
NHTM rất cần sự quân tâm của NHNN trong việc sớm ban hành các quyết đinh 
hướng dẫn các NHTM thực hiện nghiệp vụ này, mở rộng hơn đối tượng mua bán 
nợ hiện hành giúp các NHTM mạnh dạn hơn trong tiến triển khai áp dụng và 
phát triển dịch vụ này ở thị trường Việt Nam. 
Ban hành thống nhất các quy định về quy trình thanh toán sec thương hiệu cả 
trong và ngoài nước nhằm giúp NHTM có cơ sở pháp lý trong thực hiện nghiệp 
vụ kinh doanh của nước mình. 
Ban hành các văn bản pháp quy liên quan các nghiệp vụ nhờ thu trực tiếp 
trong thanh toán quốc tế. Thực trạng về hoạt động nhờ thu trong thanh toán quốc 
tế cũng đang phát sinh những vấn đề ngoài URC522 và chưa có văn bản nào của 
Việt Nam hướng dẫn xử lý cụ thể. 
Có hướng dẫn xử lý nghiệp vụ CAD trong thanh toán quốc tế. Hiện nay 
nghiệp vụ chưa được ngân hàng hướng dẫn. Các ngân hàng thương mại rất cần 
sự quan tâm của ngân hàng nhà nước trong ban hành 1 văn bản pháp luật quy 
định hướng cho các ngân hàng xử lý được nghiệp vụ trên vừa phù hợp thông lệ 
quốc tế và phù hợp thanh toán tại ngân hàng. 
KẾT LUẬN 
Hoạt động thương mại và Ngân hàng đang ngày một sôi động và phát triển, 
nhất là kể từ khi có sự hiện diện của các nhà đầu tư nước ngoài. Chính vì thế, 
hoạt động thanh toán quốc tế không ngừng tăng trưởng cả về quy mô và chất 
lượng. 
59 
Hoạt động thanh toán quốc tế đã và đang khẳng định vai trò không thể thiếu 
trong hoạt động kinh tế quốc dân nói chung và trong hoạt động kinh tế đối ngoại 
nói riêng. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay khi mỗi quốc gia đều đặt hoạt động 
kinh tế đối ngoại lên hàng đầu, coi hoạt động kinh tế đối ngoại là con đường tất 
yếu trong chiến lược phát triển kinh tế của mình. 
Vì vậy, NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô cũng đã và đang từng bước 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
Luận văn- Một số giải pháp phòng ngừa rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế tại NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô.pdf