Luận văn Một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước tại thành phố Nha Trang

Tài liệu Luận văn Một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước tại thành phố Nha Trang: 36 MỤC LỤC Trang Mở đầu .................................................................................................................. 1 Chương 1. Tổng quan về cổ phần hóa ................................................................ 3 1.1. Lý luận về công ty cổ phần. ...................................................................... 3 1.1.1. Công ty cổ phần. ............................................................................. 3 1.1.1.1. Khái niệm ............................................................................. 3 1.1.1.2. Các nguồn tài trợ cho công ty cổ phần trên TTCK............... 3 1.1.2. Cổ phần. ......................................................................................... 7 1.1.3. Cổ đông. ......................................................................................... 7 1.1.4. Cổ phiếu. ......................................................................................... 7 1.1.5. Cổ tức. ............

pdf73 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 900 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước tại thành phố Nha Trang, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
36 MỤC LỤC Trang Mở đầu .................................................................................................................. 1 Chương 1. Tổng quan về cổ phần hóa ................................................................ 3 1.1. Lý luận về công ty cổ phần. ...................................................................... 3 1.1.1. Công ty cổ phần. ............................................................................. 3 1.1.1.1. Khái niệm ............................................................................. 3 1.1.1.2. Các nguồn tài trợ cho công ty cổ phần trên TTCK............... 3 1.1.2. Cổ phần. ......................................................................................... 7 1.1.3. Cổ đông. ......................................................................................... 7 1.1.4. Cổ phiếu. ......................................................................................... 7 1.1.5. Cổ tức. ............................................................................................. 7 1.2. Lý luận về cổ phần hóa. ............................................................................ 7 1.2.1. Khái niệm cổ phần hóa .................................................................... 7 1.2.2. Phân loại. ......................................................................................... 8 1.2.3. Đặc trưng cổ phần hóa ở Việt Nam. ............................................... 9 1.2.4. Lợi ích của cổ phần hóa đối với sự phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam. ........................................................................................... 10 1.2.4.1. Lợi ích của cổ phần hóa đem lại cho xã hội. ....................... 10 1.2.4.2. Lợi ích của cổ phần hóa đem lại cho doanh nghiệp. ............ 12 1.2.4.3. Lợi ích của cổ phần hóa đối với người lao động. ................ 13 1.3. Kinh nghiệm cổ phần hóa ở một số quốc gia trên thế giới. ...................... 14 1.3.1. Hungary ........................................................................................... 16 1.3.2. Nga .................................................................................................. 17 1.3.3. Trung Quốc ...................................................................................... 17 Kết luận chương 1. .................................................................................. 22 Chương 2. Thực trạng tình hình sản xuất kinh doanh và vấn đề cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước tại thành phố Nha Trang. ................................... 23 2.1. Tình hình cổ phần hóa ở nước ta trong thời gian qua. ............................. 23 37 2.1.1. Bối cảnh làm xuất hiện nhu cầu cổ phần hóa ở Việt Nam. ............. 23 2.1.2. Tình hình cổ phần hóa ở nước ta trong thời gian qua. ..................... 24 2.2. Thực trạng về công ty cổ phần và cổ phần hóa ở thành phố Nha Trang.…27 2.2.1. Sơ lược tình hình cổ phần hóa ở tp. Nha Trang. ............................ 27 2.2.2. Thực trạng cổ phần hóa ở tp. Nha Trang. ...................................... 29 2.2.2.1. Đối với các doanh nghiệp đã cổ phần hóa. .......................... 29 2.2.2.1.1. Trước cổ phần hóa. ......................................................... 29 a. Những kết quả đạt được. ................................................................. 29 b. Những khó khăn, vướng mắc mà các doanh nghiệp đã gặp phải….. 33 2.2.2.1.2. Sau cổ phần hóa. ............................................................. 34 a. Những kết quả đạt được................................................................... 34 b. Những mặt còn hạn chế ................................................................... 40 c. Những khó khăn, vướng mắc còn tồn tại ở các doanh nghiệp......... 41 2.2.2.2. Những vướng mắc đối với các doanh nghiệp đang trong tiến trình thực hiện cổ phần hóa. ....................................................... 44 Kết luận chương 2. ................................................................................... 47 Chương 3. Một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước tại thành phố Nha Trang. ................................... 49 3.1. Chủ trương cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước ở thành phố Nha Trang. .............................................................................................................. 49 3.2. Các căn cứ đề xuất giải pháp. .................................................................. 49 3.3. Đề xuất một số giải pháp. ........................................................................ 49 3.3.1. Nhóm giải pháp vi mô. .................................................................... 49 3.3.1.1. Về việc xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa. ............. 50 3.3.1.2. Công khai hóa thông tin tài chính doanh nghiệp. ................. 53 3.3.1.3. Tiếp tục bổ sung và hoàn thiện chiến lược kinh doanh của các công ty sau cổ phần hóa. ...................................................... 54 3.3.1.4. Phát triển trình độ đội ngũ lao động, tạo động lực cho tập thể và cá nhân người lao động. .................................................. 57 38 3.3.1.5. Đổi mới công tác quản trị và tổ chức sản xuất. .................... 59 3.3.1.6. Đối mới kỹ thuật- công nghệ. ............................................. 60 3.3.1.7. Tăng cường mở rộng quan hệ cầu nối giữa doanh nghiệp với xã hội. ....................................................................................... 61 3.3.2. Nhóm giải pháp vĩ mô. ................................................................... 62 3.3.2.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về CPH........ 62 3.3.2.2. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách về CPH DNNN....... 64 3.3.2.3. Cần đơn giản hóa thủ tục, cải cách hành chính trong tiến trình cổ phần hóa. .......................................................................... 67 3.3.2.4. Nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan chuyên trách về cổ phần hóa. ............................................................................... 67 3.3.2.5. Tạo “sân chơi” bình đẳng cho các loại hình doanh nghiệp .. 69 3.3.2.6. Đẩy mạnh việc bán cổ phần, niêm yết và phát triển TTCK . 70 Kết luận chương 3. ................................................................................... 71 Kết luận. ................................................................................................................ 73 Tài liệu tham khảo ............................................................................................... 75 Phụ lục .................................................................................................................. 77 39 MỞ ĐẦU Trong quá trình hội nhập quốc tế, mỗi quốc gia đều muốn tạo cho mình một tiềm lực mạnh về kinh tế, khoa học và công nghệ để làm đòn bẩy nâng mình lên một vị thế mới, một tầm cao mới so với khu vực và thế giới. Trước những sức ép như vậy, đổi mới thực sự là sự lựa chọn duy nhất giúp Việt Nam thoát khỏi cơ chế tập trung bao cấp và từng bước xây dựng nền kinh tế thị trường năng động, nhạy bén hơn. Bên cạnh những nỗ lực hoàn thiện ngày càng tốt hơn các chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa và tạo lập một môi trường đầu tư thông thoáng, cũng như ra sức phát triển mạnh TTCK trở thành kênh huy động vốn hiệu quả cho nền kinh tế... nhằm xây dựng cho mình một chỗ đứng trong khu vực và thế giới; với chính sách mở cửa thị trường, thúc đẩy cạnh tranh, hội nhập kinh tế quốc tế và cho phép nhiều doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế tham gia sản xuất sản phẩm và cung cấp dịch vụ thì việc tiến hành cổ phần hóa là thật sự cần thiết để nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, từ đó đưa kinh tế nhà nước thực sự giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Chính vì vậy, tại Hội nghị TW lần thứ 2 khoá VII (1991) đã đề ra chủ trương cổ phần hóa DNNN. Đây được coi là cột mốc quan trọng trong quá trình đổi mới tư duy về quản lý kinh tế và cơ cấu sở hữu trong hệ thống doanh nghiệp. Từ thời gian đó đến nay, nhiều quy định và chính sách đã ra đời có sửa đổi như NĐ 27/CP, NĐ 64/CP, NĐ 187/CP để nhằm thúc đẩy quá trình đổi mới DNNN. Thực tế, qua những năm thực hiện, cổ phần hóa đã thật sự tạo ra động lực giúp các doanh nghiệp phát triển có hiệu quả hơn, theo đó quan hệ sản xuất không ngừng được đổi mới, hoàn thiện, phù hợp với tính chất, trình độ của lực lượng sản xuất; thúc đẩy cạnh tranh và tăng cường hợp tác cùng phát triển giữa các doanh nghiệp. Không những vậy, cổ phần hóa còn góp phần phát triển TTCK - một yếu tố không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường. Chính vì nhận thức được những lợi ích của cổ phần hóa, từ năm 1998 Nha Trang cũng đã bắt đầu thực hiện CPH và đạt được những thành công bước đầu. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đáng khích lệ thì vẫn còn có quá nhiều rào cản, vướng mắc khiến cho các DNNN lo ngại CPH, 40 thậm chí một số DNNN nhận thức được tầm quan trọng của CPH và mong muốn được tiến hành CPH doanh nghiệp mình nhưng chính những khó khăn, vướng mắc này lại khiến họ nản lòng, và bối rối trong cách giải quyết, xử lý. Chính những điều này là tác nhân làm chậm tốc độ cổ phần hóa của thành phố Nha Trang, từ đó ảnh hưởng đến tiến trình CPH chung của cả nước. Đặc biệt, trong bối cảnh Việt Nam đang chuẩn bị gia nhập WTO thì vấn đề cổ phần hóa DNNN càng phải được thực hiện một cách mạnh mẽ, quyết liệt hơn, càng khó khăn càng phải cần có sự quyết tâm, đồng thuận cao từ trên xuống dưới. Để tháo gỡ những khúc mắc này thì việc nghiên cứu thực trạng cổ phần hóa và đề xuất “MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỔ PHẦN HÓA CÁC DNNN TẠI THÀNH PHỐ NHA TRANG” được quan tâm tìm hiểu, để từ đó có thể đẩy nhanh “cỗ xe” CPH DNNN tại thành phố này nói riêng và Việt Nam nói chung. Đó cũng chính là nội dung chính của đề tài này. Mục tiêu bao quát của luận văn là đánh giá thực trạng hiệu quả CPH các DNNN ở Việt Nam nói chung và trên địa bàn tp. Nha Trang nói riêng; xác định những hạn chế, vướng mắc trong quá trình CPH; từ đó đề xuất các giải pháp góp phần thực hiện thành công và có hiệu quả công cuộc CPH DNNN ở tp. Nha Trang. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, đề tài đề cập đến cơ sở lý luận và thực tiễn có liên quan đến tình hình CPH DNNN ở Việt Nam; tập trung phân tích và đánh giá tác động của CPH đến hiệu quả hoạt động của các DNNN trước và sau khi tiến hành CPH diễn ra trên địa bàn tp. Nha Trang; trên cơ sở đó tìm ra các giải pháp để CPH DNNN đạt hiệu quả cao hơn. Phương pháp nghiên cứu chủ yếu của đề tài là phương pháp phân tích định tính và định lượng, so sánh, phân nhóm dựa vào các biểu bảng thống kê kết hợp với phương pháp thống kê thông qua bảng câu hỏi. Nội dung của đề tài được trình bày trong 3 chương, chương 1 trình bày tổng quan về cổ phần hóa, chương 2 phân tích thực trạng tình hình sản xuất kinh doanh và vấn đề cổ phần hóa các DNNN ở thành phố Nha Trang, chương 3 đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả CPH các DNNN tại tp. Nha Trang. 41 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CỔ PHẦN HÓA 1.1. Lý luận về công ty cổ phần: 1.1.1. Công ty cổ phần: 1.1.1.1. Khái niệm: Theo giáo trình luật kinh tế của đại học luật Hà Nội thì công ty cổ phần là loại hình đặc trưng của công ty đối vốn, vốn của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần, người sở hữu cổ phần gọi là cổ đông, chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty cho đến hết giá trị cổ phần mà họ sở hữu. Theo luật doanh nghiệp thì công ty cổ phần được hiểu là doanh nghiệp, trong đó vốn điều lệ của công ty được chia làm nhiều phần bằng nhau được gọi là cổ phần; cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp. Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác. Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa. Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán như cổ phiếu, trái phiếu ra công chúng theo quy định của pháp luật về chứng khoán. Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. 1.1.1.2. Các nguồn tài trợ cho công ty cổ phần trên thị trường chứng khoán: Có hai nguồn tài trợ cho công ty cổ phần trên thị trường chứng khoán là: cổ phiếu và trái phiếu. Cổ phiếu: Cổ phiếu là giấy chứng nhận cổ phần trong một công ty, thể hiện sự sở hữu một phần công ty đó. Giá trị cổ phần của công ty được phản ánh thông qua giá cổ phiếu trên TTCK. Thông thường, giá cổ phiếu sẽ đi lên khi công ty làm ăn phát đạt và ngược lại. Cổ phiếu trên sàn là cổ phiếu đã được niêm yết và giao dịch trên TTCK. Cổ phiếu ngoài sàn (OTC) là cổ phiếu không đủ điều kiện để niêm yết hoặc 42 đủ điều kiện nhưng chưa niêm yết trên TTCK. Cổ phiếu trên sàn thường đã qua chọn lọc, các thông tin tương đối minh bạch và đầy đủ hơn so với cổ phiếu ngoài sàn. Ưu điểm: - Đối với công ty: + Giúp công ty cổ phần có quy mô hoạt động lớn và khả năng mở rộng kinh doanh dễ dàng từ việc huy động vốn cổ phần. + Công ty có thể huy động một lượng vốn lớn hơn rất nhiều vốn điều lệ của công ty và tài sản hiện có mà không cần phải cầm cố, thế chấp bất kỳ tài sản nào. + Giá trị của công ty sẽ tăng lên rất nhiều nếu nhà đầu tư đánh giá cao về triển vọng phát triển và kỳ vọng về tương lai của công ty nên họ sẵn sàng mua cổ phiếu dù có thể hiện giờ công ty chưa phát triển. + Nguồn vốn huy động bằng hình thức phát hành cổ phiếu không cấu thành một khoản nợ mà công ty phải có trách nhiệm hoàn trả cũng như áp lực về khả năng cân đối thanh khoản của công ty sẽ giảm rất nhiều, trong khi sử dụng các phương thức khác như phát hành trái phiếu công ty, vay nợ từ các tổ chức tín dụng ... thì hoàn toàn ngược lại. + Tùy vào chính sách cổ tức của công ty mà công ty có thể chi trả cổ tức cho cổ đông hoặc giữ lại cổ tức để tiếp tục đầu tư nhằm gia tăng giá trị của công ty trong tương lai. - Đối với nhà đầu tư: + Nhà đầu tư có khả năng điều chuyển vốn đầu tư từ nơi này sang nơi khác, từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác dễ dàng thông qua hình thức chuyển nhượng, mua bán cổ phần. + Nhà đầu tư chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn tương ứng với tỷ lệ góp vốn trong công ty. + Các cổ đông được quyền tham gia quản lý, kiểm soát, điều hành công ty thông qua việc bầu cử và ứng cử vào các vị trí trong Ban Quản Lý, Ban Kiểm Soát và Ban Điều Hành. 43 + Cổ đông được quyền hưởng các khoản lợi nhuận do công ty tạo ra dưới dạng cổ tức cũng như chịu lỗ tương ứng với mức độ góp vốn. - Đối với TTCK: việc phát hành cổ phiếu trở thành nguồn cung và làm đa dạng lượng hàng hoá cho TTCK, kích thích TTCK sôi động hơn. Chính điều này lại tác động hiệu quả giúp công ty dễ dàng hơn trong việc huy động vốn. Nhược điểm: - Nhược điểm lớn nhất là phải chia sẻ thu nhập và quyền kiểm soát công ty cho các cổ đông mới, pha loãng quyền kiểm soát công ty, dễ bị các thế lực bên ngoài thâu tóm. - Mức thuế tương đối cao vì ngoài thuế công ty phải thực hiện nghĩa vụ với ngân sách nhà nước, các cổ đông còn phải chịu thuế thu nhập bổ sung từ nguồn cổ tức và lãi cổ phần theo qui định của nhà nước. - Khả năng bảo mật kinh doanh và tài chánh của công ty bị hạn chế do phải công khai và báo cáo với các cổ đông của công ty. - Sức ép cho công ty phải kinh doanh có hiệu quả khi phát hành cổ phiếu để huy động vốn hơn các hình thức huy động vốn khác là một trở ngại khiến các công ty chưa mặn mà với việc huy động vốn trên TTCK. - Những vướng mắc từ cơ chế chính sách của Nhà nước đối với việc phát hành chứng khoán ra công chúng (điều kiện phát hành còn cao, thủ tục phát hành phức tạp, thiếu cơ sở pháp lý cho những vấn đề nảy sinh trong quá trình phát hành chứng khoán...) - Lợi tức kỳ vọng của các cổ đông hiện tại quá cao (khoảng 15%/năm) cao hơn lãi suất từ ngân hàng hiện nay (khoảng 10,8%/năm) nên huy động vốn trên TTCK là "khá đắt" và khó thực hiện. - Để huy động vốn trên TTCK các doanh nghiệp phải thực hiện những thủ tục phức tạp hơn nhiều so với thủ tục xin vay tại các tổ chức tín dụng. Trái phiếu: Trái phiếu là một khoản vay giữa nhà đầu tư (người cho vay) với nhà phát hành (người đi vay). Nhà phát hành là các công ty cần huy động vốn để đầu tư phát 44 triển kinh doanh. Trái phiếu thường có kỳ hạn cố định. Khi đến hạn, nhà phát hành sẽ hoàn trả tiền gốc. Tiền lãi sẽ được trả định kỳ 6 tháng hoặc 1 năm trong suốt kỳ hạn của trái phiếu. Trái phiếu niêm yết có thể được tự do mua bán trên TTCK. Ưu điểm: - Đối với công ty: + Công ty có thể huy động vốn thông qua việc phát hành trái phiếu để hoạt động kinh doanh. + So với vay ngân hàng, vay thông qua phát hành trái phiếu là cách thức vay trực tiếp, do đó chi phí sử dụng vốn rẻ hơn. + Đồng thời hình thức vay này giúp doanh nghiệp chủ động hơn và có thể vay với khối lượng lớn hơn vay ngân hàng. + Công ty phát hành xác định được số tiền phải trả cho trái chủ đến ngày đáo hạn để đầu tư vào những dự án có tỷ suất lợi nhuận cao hơn. + Không phải chia sẻ quyền quản lý cho các trái chủ. - Đối với nhà đầu tư: + Phù hợp với nhà đầu tư không thích rủi ro. Họ nhận được thu nhập định kỳ với mức lãi suất được ấn định ngay từ khi phát hành mà không phụ thuộc kết quả hoạt động kinh doanh của công ty phát hành. + Trái phiếu thường có mức độ rủi ro thấp hơn nên giá cũng ít biến động hơn. Trong môi trường lạm phát thấp và trong trường hợp thị trường chứng khoán biến động, đầu tư vào trái phiếu để có thể duy trì nguồn thu nhập ổn định mà vẫn đảm bảo được sự an toàn của vốn đầu tư. Nhược điểm: - Nguồn vốn huy động bằng hình thức phát hành trái phiếu cấu thành một khoản nợ mà công ty phải có trách nhiệm hoàn trả cũng như áp lực về khả năng cân đối thanh khoản của công ty sẽ tăng lên. - Các tiêu chí phát hành không được quy định rõ ràng - Thiếu thông tin vì một số doanh nghiệp không đưa trái phiếu lên niêm yết do ngại các thủ tục công bố thông tin. 45 - Chưa có tổ chức định mức tín nhiệm (CRA) - Các quy định điều chỉnh việc chào bán riêng lẻ không đầy đủ - Hệ thống giao dịch trái phiếu không đồng bộ. - Nhà đầu tư không có quyền được chia lợi nhuận và tham dự vào các quyết định của công ty. 1.1.2. Cổ phần: Cổ phần chính là số vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau. Như vậy, cổ phần là phần chia nhỏ nhất vốn điều lệ của công ty, được thể hiện dưới hình thức cổ phiếu. Giá trị mỗi cổ phần (mệnh giá cổ phần) do công ty quyềt định và ghi vào cổ phiếu. Cổ phần của CTCP có thể tồn tại dưới hai loại là: cổ phần phổ thông và cổ phần ưu đãi. Cổ phần ưu đãi bao gồm các loại sau: cổ phần ưu đãi biểu quyết, cổ phần ưu đãi cổ tức, cổ phần ưu đãi hoàn lại và cổ phần ưu đãi khác do điều lệ công ty quy định. 1.1.3. Cổ đông: Cổ đông có thể được hiểu là những cá nhân, pháp nhân sở hữu cổ phần của công ty. Bao gồm cổ đông phổ thông là người sở hữu cổ phần phổ thông và cổ đông ưu đãi là người sở hữu cổ phần ưu đãi. 1.1.4. Cổ phiếu: Cổ phiếu là chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác định quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty đó. Cổ phiếu có thể ghi tên hoặc không ghi tên. 1.1.5. Cổ tức: Là số tiền hàng năm được trích từ lợi nhuận của công ty để trả cho mỗi cổ phần. 1.2. Lý luận về cổ phần hóa: 1.2.1. Khái niệm cổ phần hóa: Hiện nay khi đề cập đến vấn đề cổ phần hóa, nhiều người nhầm tưởng rằng CPH chỉ là cổ phần hóa DNNN. Đó là một thiếu sót, vì thật ra CPH là một thuật 46 ngữ chung để nói về việc cổ phần hóa các DNNN và các loại doanh nghiệp khác như: công ty liên doanh, công ty 100% vốn nước ngoài, công ty trách nhiệm hữu hạn và các doanh nghiệp tư nhân. Từ nhận thức trên, chúng ta có khái niệm về cổ phần hóa như sau: ¾ Cổ phần hóa là quá trình chuyển một doanh nghiệp từ dạng chưa là công ty cổ phần thành công ty cổ phần. ¾ Cổ phần hóa còn là một thuật ngữ để biểu đạt quá trình chuyển DNNN thành công ty cổ phần thuộc sở hữu của các pháp nhân và thể nhân (gọi tắt là cổ đông) đã bỏ tiền ra mua cổ phiếu của DNNN đó. 1.2.2. Phân loại: Trên thế giới hiện nay có 2 loại hình cổ phần hóa: Một là, cổ phần hóa DNNN : Ban đầu, theo QĐ 143/HĐBT (l0-5-1990) và QĐ 202/CT (4-3-1993) thì cổ phần hoá DNNN được hiểu là quá trình chuyển một số DNNN đáp ứng các điều kiện như: có quy mô vừa và nhỏ; kinh doanh có lãi hoặc triển vọng có lãi; Nhà nước không cần giữ 100% vốn sang hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần bằng cách giữ nguyên giá trị sở hữu của Nhà nước, phát hành cổ phiếu mới thu hút vốn hoặc bán một phần tài sản thuộc sở hữu Nhà nước cho cá nhân và pháp nhân trong và ngoài doanh nghiệp. Đối tượng được ưu tiên mua cổ phiếu là người lao động trong doanh nghiệp, DNNN khác, hạn chế bán cổ phiếu cho tư nhân trong nước và người nước ngoài Theo khái niệm trên thì đối tượng được góp vốn, mua cổ phần đã bị giới hạn lại làm hạn chế khả năng huy động vốn của doanh nghiệp cũng như có sự phân biệt đối xử giữa những người lao động trong DNNN được cổ phần hoá và trong các DNNN khác với tư nhân trong nước và người nước ngoài. Vì vậy, khái niệm này đã được điều chỉnh. Theo đó, cổ phần hoá DNNN được coi là một thuật ngữ để biểu đạt một quá trình chuyển đổi DNNN thành công ty cổ phần, trong đó vốn của nó do nhiều thành viên góp vào được gọi là cổ đông. Các cổ đông này có thể là pháp nhân 47 hay thể nhân. Vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Mỗi cổ đông có thể mua một hoặc nhiều cổ phần. Hai là, cổ phần hóa các loại hình doanh nghiệp khác: Bên cạnh cổ phần hoá DNNN thì còn cần phải cổ phần hoá các loại doanh nghiệp khác như: công ty liên doanh, công ty 100% vốn nước ngoài, công ty trách nhiệm hữu hạn và các doanh nghiệp tư nhân. 1.2.3. Đặc trưng cổ phần hoá ở Việt Nam: Cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam là một yêu cầu bức xúc từ thực tế và được hình thành từ những thử nghiệm thực tiễn chứ không phải ứng dụng một một cách sao chép mô hình lý thuyết từ nước ngoài. Chính vì vậy, cổ phần hoá ở Việt Nam với những nét đặc trưng sau : Thứ nhất, mục đích của cổ phần hóa Việt Nam không phải là để tư nhân hóa càng nhanh càng tốt các cơ sở kinh tế thuộc sở hữu nhà nước để làm giảm gánh nặng tài chính cho ngân sách nhà nước, mà nhằm huy động vốn cho doanh nghiệp vì chính số tiền từ việc bán cổ phần lại được nhà nước tiếp tục đầu tư vào DNNN. Thứ hai, mục đích khác của cổ phần hóa nhằm cơ cấu lại hệ thống DNNN bằng cách du nhập hình thức công ty cổ phần hỗn hợp sở hữu nhà nước và tư nhân. Như vậy, một mặt sẽ giảm bớt vốn của nhà nước ở các lĩnh vực mà hình thức kinh tế tư bản nhà nước với sự kết hợp vai trò kiểm soát của nhà nước với các yếu tố quản lý và lao động tích cực của cá nhân tốt hơn hình thức doanh nghiệp 100% sở hữu nhà nước, mặt khác thành phần kinh tế nhà nước có thể mạnh hơn, kiểm soát được phạm vi rộng hơn mà không cần tăng vốn đầu tư của nhà nước. Với mục đích này, mặc dù có một phần tài sản chuyển từ sở hữu nhà nước sang sở hữu tư nhân, song mục đích lại không hoàn toàn giống tư nhân hóa ở các nước TBCN. Thứ ba, ngoài ra mục đích của cổ phần hóa còn nhằm tạo điều kiện cho người lao động làm chủ và giúp doanh nghiệp sau cổ phần hóa hoạt động hiệu quả bằng những phương châm, hình thức cổ phần hóa cũng như chính sách ưu đãi đối với nguời lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa hơn là mục đích chuyển 48 giao DNNN cho tư nhân. Chính vì vậy, Việt Nam không chủ trương giao bán DNNN càng nhanh càng tốt mà kiên trì con đường cổ phần hóa DNNN. Tính đặc thù của cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam một mặt cho thấy xu hướng giữ vững bản chất XHCN trong các cải cách kinh tế của nhà nước, nhưng mặt khác lại khó khăn trong việc học hỏi kinh nghiệm từ các nước đi trước cũng như không tự vạch ra được một chương trình hoàn thiện ngay từ đầu nhằm đạt tới sự thống nhất trong cả quá trình cổ phần hóa. 1.2.4. Lợi ích của cổ phần hóa đối với sự phát triển của doanh nghiệp Việt Nam: 1.2.4.1. Lợi ích của cổ phần hóa đem lại cho xã hội: - Thúc đẩy TTCK phát triển: Tăng cung cho TTCK: Thông qua CPH, một lượng chứng khoán lớn sẽ được cung cấp làm tăng lượng và đa dạng hàng hoá cho TTCK, đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư. Kích cầu cho TTCK: Bên cạnh việc cổ phần hoá DNNN, việc cổ phần hoá các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, một số NHTM quốc doanh và doanh nghiệp tư nhân ... sẽ cung cấp cho TTCK rất nhiều loại chứng khoán với mức độ rủi ro và lợi nhuận khác nhau, đáp ứng mọi sở thích của nhà đầu tư. Từ đó kích thích các nhà đầu tư quan tâm hơn đến chứng khoán, cả nhà đầu tư trong nước và ngoài nước, cả những nhà đầu tư sành sỏi lẫn những nhà đầu tư chưa từng tham gia. Vì vậy, cổ phần hóa sẽ góp phần thúc đẩy hình thành và mở rộng TTCK. Như ta biết thì TTCK có vai trò rất quan trọng đối với xã hội, kích thích xã hội phát triển như: 9 TTCK là công cụ khuyến khích dân chúng tiết kiệm và sử dụng nguồn vốn tiết kiệm có hiệu quả vào công cuộc đầu tư. 9 TTCK là công cụ huy động vốn hiệu quả, thu hút vốn đầu tư nước ngoài. 9 TTCK là công cụ làm giảm áp lực lạm phát. 9 TTCK có tổ chức sẽ cung cấp mọi thông tin cần thiết và đảm bảo tính thanh khoản cho các loại chứng khoán. 49 9 Thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. - Xoá bỏ tình trạng vô chủ của các doanh nghiệp: Thông qua cổ phần hóa, DNNN chuyển thành công ty cổ phần. Vì vậy, người chủ trước đây là Nhà nước nay đã trở thành những cổ đông, quyền lợi của họ gắn liền với các quyết định đầu tư, các kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, hay nói cách khác là phụ thuộc vào sự thành bại của doanh nghiệp. Những điều này khiến họ tích cực, hăng say làm việc với tinh thần trách nhiệm cao, tránh tình trạng thờ ơ, vô trách nhiệm, thay đổi lối suy nghĩ tài sản này là của Nhà nước chứ không phải là của mình. Bên cạnh đó, vì có sự tham gia kiểm tra, giám sát của các cổ đông vào hoạt động của công ty nên các tệ nạn tham ô, tham nhũng, lãng phí sẽ bị phát hiện và xoá bỏ, đồng thời thúc đẩy công ty làm ăn phát đạt. - Nộp thuế nhiều hơn cho ngân sách Nhà nước: Hầu hết các doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa đã làm ăn có hiệu quả hơn làm cho doanh thu và lợi nhuận tăng lên, vì vậy mức đóng góp cho ngân sách Nhà nước cũng tăng lên, cụ thể là các doanh nghiệp phải nộp thuế theo quy định, còn các cổ đông cũng phải nộp thuế thu nhập bổ sung từ nguồn cổ tức và lãi cổ phần theo qui định của Nhà nước. - Cơ cấu lại hệ thống DNNN: Bằng cách du nhập hình thức công ty cổ phần hoá hỗn hợp sở hữu nhà nước và tư nhân nhằm cơ cấu lại hệ thống DNNN, một mặt sẽ giảm bớt vốn của Nhà nước ở các lĩnh vực mà hình thức kinh tế tư bản Nhà nước với vai trò kiểm soát của Nhà nước kết hợp yếu tố quản lý, mặt khác lao động tích cực của cá nhân tốt hơn hình thức doanh nghiệp 100% sở hữu Nhà nước. Chính vì vậy, thành phần kinh tế Nhà nước có thể mạnh hơn, kiểm soát được phạm vi rộng hơn mà không cần tăng vốn đầu tư của Nhà nước. - Tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động, giải quyết thất nghiệp: Doanh nghiệp sau cổ phần hoá hoạt động có hiệu quả sẽ mở rộng phạm vi hoạt động, đầu tư thêm nhiều dự án mới. Do đó nhu cầu lao động sẽ tăng lên, cần thu hút thêm lao động. Từ đó, nhiều người sẽ có việc làm, giảm được những tệ nạn 50 xã hội, giúp Nhà nước tiết kiệm chi phí để giải quyết và xoá bỏ các tệ nạn đó, đồng thời đóng góp cho xã hội nhiều của cải hơn. 1.2.4.2. Lợi ích của cổ phần hoá đem lại cho doanh nghiệp: Cổ phần hóa là giải pháp cơ bản sắp xếp lại DNNN được thể hiện như: - Doanh nghiệp hoạt động hoàn toàn theo cơ chế thị trường, tự chủ tự chịu trách nhiệm toàn diện về hoạt động sản xuất kinh doanh theo pháp luật, hạch toán kinh doanh thực sự. - Giúp doanh nghiệp xây dựng một cơ chế quản lý năng động, hiệu quả, thích nghi với nền kinh tế thị trường. Cơ chế quản lý ở công ty cổ phần về cơ bản được đổi mới; đặc biệt, ban kiểm soát do đại hội cổ đông bầu có vai trò quan trọng trong việc kiểm tra, giám sát các hoạt động sản xuất, kinh doanh của công ty cổ phần. Tổ chức bộ máy của công ty cổ phần được sắp xếp lại gọn nhẹ, năng động, khu vực hành chính được giảm tối đa. ở nhiều công ty cổ phần, số cán bộ gián tiếp chỉ còn chiếm 7% - 8% tổng số lao động trong công ty. Vấn đề chi tiêu trong công ty cổ phần được giám sát chặt chẽ, giảm tối đa những khoản chi lãng phí. Mọi khoản chi và mức chi trong công ty đều phải công khai, do đại hội cổ đông và hội đồng quản trị quyết định. Nhờ công khai, dân chủ, nên giá cả nguyên vật liệu, thiết bị và dịch vụ đầu vào và bán thành phẩm đầu ra được kiểm soát chặt chẽ, tránh được các hiện tượng thỏa thuận tăng giá "đầu vào", giảm giá "đầu ra" để thu lợi bất chính... - Tài chính của doanh nghiệp được lành mạnh hơn một bước, doanh nghiệp sẽ cơ cấu lại các khoản nợ, xử lý tài sản, vật tư, hàng hoá tồn kho lâu ngày, kém phẩm chất, máy móc thiết bị không dùng, hạch toán vào chi phí kinh doanh, giảm vốn Nhà nước hoặc bán cho công ty mua bán nợ và tài sản của doanh nghiệp. - Góp phần rõ rệt vào việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. - Thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đối với chứng khoán của công ty. 51 - Sau khi CPH, các doanh nghiệp có thể huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu. Như vậy, doanh nghiệp có khả năng huy động vốn lớn dành cho các dự án đầu tư phát triển, mở rộng quy mô. - Tập hợp trí tuệ tập thể trong quản lý và sản xuất. - Xác định rõ người chủ đích thực của công ty chính là các cổ đông (Nhà nước, các cổ đông trong và ngoài doanh nghiệp và người lao động). - Các DNNN khi thực hiện cổ phần hóa đã sắp xếp lại lao động một cách cơ bản theo chính sách đối với lao động dôi dư do sắp xếp và cổ phần hóa DNNN. Doanh nghiệp có cơ hội tuyển dụng lao động có trình độ chuyên môn cao, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển sản xuất kinh doanh. Nhờ đó, các doanh nghiệp sau cổ phần hóa đều phát triển khá vững chắc, năng suất lao động, chất lượng sản phẩm được nâng lên rõ rệt. 1.2.4.3. Lợi ích của cổ phần hóa đối với người lao động (những người lao động sở hữu chứng khoán của công ty): - Tạo điều kiện cho người lao động làm chủ và thấy được vai trò làm chủ của mình. Trên cơ sở đó, người lao động làm việc tích cực hơn và có hiệu quả hơn. Nhờ vậy, năng suất lao động sẽ được tăng lên, tiết kiệm chi phí góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. - Tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động: Sau khi chuyển thành công ty cổ phần, nhờ phát hành thêm cổ phiếu, huy động được vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, nên công ty tạo ra nhiều việc làm mới, thu hút thêm nhiều lao động hơn cả số lao động đã nghỉ trước đó. - Tiền lương và thu nhập của người lao động được bảo đảm: Thu nhập của người lao động tại doanh nghiệp sau cổ phần hóa tăng đáng kể so với trước, bình quân 12%, chưa kể thu nhập có được từ cổ tức. Ngoài ra, người lao động là cổ đông trong các công ty cổ phần, hằng năm còn được nhận cổ tức từ phần vốn cổ phần mà họ có trong công ty. Mức cổ tức bình quân của các công ty cổ phần cao gấp 2 - 3 lần lãi suất ngân hàng. 52 - Quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ của người lao động là cổ đông được bảo đảm. Trong công ty cổ phần, người lao động là cổ đông không những có quyền lợi, nghĩa vụ của người lao động mà còn có quyền và nghĩa vụ của cổ đông, đó là quyền được bầu cử, ứng cử tại đại hội cổ đông, quyền biểu quyết, quyền được hưởng cổ tức khi công ty kinh doanh có lãi, quyền chất vấn, phê bình, kiến nghị về công việc của hội đồng quản trị, giám đốc và kiểm soát viên về hoạt động của công ty. Nhóm cổ đông đại diện cho 25% vốn điều lệ được yêu cầu triệu tập đại hội cổ đông bất thường khi có dấu hiệu không lành mạnh về hoạt động tài chính của giám đốc, thành viên hội đồng quản trị và ban kiểm soát. Đây chính là những yếu tố quan trọng làm tăng tiền lương và thu nhập của người lao động. - Chính sách đối với lao động dôi dư do sắp xếp và cổ phần hóa DNNN được người lao động hoan nghênh, đón nhận tích cực vì: Đối với những người lao động với nhiều lý do khác nhau không đáp ứng được yêu cầu mới trong sản xuất kinh doanh sẽ được giải quyết phù hợp như nghỉ chờ hưu, đào tạo lại ... Đối với những người lao động dôi dư khi rời khỏi doanh nghiệp được Nhà nước trợ cấp, hỗ trợ cảm thấy phấn khởi và yên tâm, vì được bảo lưu chế độ bảo hiểm xã hội, được tạo điều kiện để tiếp tục đóng bảo hiểm xã hội khi làm việc ở các doanh nghiệp khác thuộc khu vực ngoài quốc doanh. Đặc biệt, với nhóm đối tượng lao động dôi dư đã có thời gian tham gia bảo hiểm xã hội từ 15 năm đến dưới 20 năm, nhưng vì tuổi cao (nam trên 55, nữ trên 50) không có cơ hội tìm việc làm mới, được tự đóng bảo hiểm xã hội cho đến khi đủ tuổi hưu để hưởng chế độ hưu trí. 1.3. Kinh nghiệm cổ phần hóa ở một số quốc gia trên thế giới: Ngay từ đầu những thập niên 80, quá trình thực hiện chuyển đổi sở hữu các DNNN đã diễn ra mạnh mẽ và sôi động đầu tiên ở nước Anh sau đó lan rộng sang nhiều quốc gia khác trên thế giới. Trước hết, các quốc gia đều xác định cho mình mục tiêu chính của việc thực hiện CPH DNNN. Đó là: nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để từ đó thúc đẩy kinh tế phát triển. Hơn nữa, vừa giảm thiểu số DNNN làm ăn thua 53 lỗ, vừa tối đa hoá các đơn vị làm ăn có lãi và các khoản thu cho Ngân sách Nhà nước. Ngoài ra, chính phủ các nước có thể chuyển một số lĩnh vực ngành nghề mà các khu vực kinh tế khác có thể đảm nhận, giảm thâm hụt ngân sách, cân đối khả năng thanh toán nợ nước ngoài và phát triển thị trường vốn trong nước. Tiếp theo, các quốc gia đều quan tâm đến việc tổ chức bộ máy chỉ đạo. Bộ máy này có thể là Bộ Tài chính hay Bộ Ngân khố, hoặc thành lập riêng một bộ chuyên trách chỉ đạo việc thực hiện CPH những DNNN có đủ điều kiện và chịu trách nhiệm nắm giữ cổ phần của Nhà nước ở các DNNN chuyển đổi sở hữu thông qua một số cơ quan quản lý tài sản hoặc công ty tài chính của Nhà nước. Việc xác định tiêu chí lựa chọn doanh nghiệp chuyển đổi cũng là một trong các yếu tố được các quốc gia tiến hành cổ phần hoá quan tâm. Có hai tiêu chí đó là: Quy mô và lĩnh vực thị trường. Về quy mô: phải nói đến Mêxico vì họ đã thành công trong việc tiến hành chuyển đổi sở hữu các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động và cạnh tranh hiệu quả. Một trong những lý do thành công là họ đã học tập được những kinh nghiệm quý báu từ việc bán các doanh nghiệp nhỏ, từ đó giảm thiểu được rủi ro. Về lĩnh vực thị trường: các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực có thị trường đang và sẽ hoạt động tốt thường được ưu tiên cải cách trước, sau đó là đến những doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực có khó khăn hơn về thị trường, cuối cùng mới đến những lĩnh vực mà trước đây Nhà nước cần độc quyền hoặc tư nhân chưa có đủ điều kiện để tham gia. Thực tế có rất nhiều phương pháp đánh giá và định giá doanh nghiệp nhưng phương pháp tốt nhất là để thị trường quyết định giá bán thông qua đấu thầu, nhất là các doanh nghiệp nhỏ. Đối với những doanh nghiệp lớn, việc xác định giá bán doanh nghiệp thường được thực hiện bằng nhiều phương pháp như: phương pháp xác định theo giá thành tài sản, phương pháp giá trị tài sản thuần, phương pháp thu nhập, phương pháp so sánh trực tiếp, phương pháp thặng dư, phương pháp đấu giá, phương pháp dòng tiền chiết khấu. Theo đó sẽ tổ chức đấu thầu và đấu giá trên thị trường. 54 Về cơ bản, có 3 hình thức phát hành cổ phiếu tại các doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi sở hữu: a. Nhà nước giữ lại một phần để giữ vai trò chi phối hoặc tạo điều kiện thực hiện các mục tiêu chính đặt ra khi chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp. b. Bán một phần giá trị doanh nghiệp để thực hiện chính sách ưu đãi của Nhà nước cho người lao động trong doanh nghiệp. Đây là hướng ưu tiên giải quyết của các nước như: Ba lan. Croatia, Ucraina. Nhiều nước như Achentina, Chilê, Ba lan, Pakistan và Sri Lanka đã dành 5-20% cổ phần cho công nhân viên doanh nghiệp với giá giảm và được cấp tín dụng với điều kiện thuận lợi. c. Một phần được bán cho các đối tượng bên ngoài (gồm các nhà đầu tư nước ngoài) thông qua các công ty quản lý tài chính, quỹ tài sản nhà nước hay các công ty tài chính và công ty chứng khoán. Đây là hướng ưu tiên của các nước như Hungary, Albania. Cụ thể là kinh nghiệm của Hungary, Nga và Trung Quốc: 1.3.1. Hungary: Vấn đề cổ phần hoá và đa dạng hoá các hình thức sở hữu DNNN ở Hungary đã được chính phủ phát động mạnh ngay từ những năm đầu thập niên 90. Để thực hiện chủ trương cổ phần hoá, chính phủ đã thành lập cơ quan cổ phần hoá và sở hữu cổ phần hóa do một bộ trưởng chỉ đạo. Cơ quan này sẽ chỉ đạo, kiểm tra, giám sát cổ phần hóa, đồng thời thẩm tra giá trị doanh nghiệp để đưa ra đấu thầu và tổ chức đầu thầu các doanh nghiệp cổ phần hóa. Cuối cùng sẽ giải quyết những hậu quả sau khi thực hiện cổ phần hóa như vấn đề quyền lợi cho người lao động, giải quyết trợ cấp cho những người không có khả năng làm việc....Với cách tổ chức như vậy, chương trình CPH sẽ nhất quán, rõ ràng hơn với sự tham gia của đông đảo người dân, hạn chế tối đa khả năng tổn thất cho Nhà nước. Hơn nữa, chính phủ còn ban hành một luật riêng nhằm tạo hành lang pháp lý cao nhất cho quá trình chuyển đổi sở hữu DNNN. Với chủ trương như vậy, chỉ trong một thời gian ngắn (1990-1994) số lượng DNNN ở Hungary đã giảm xuống chỉ còn 10% (tức là khoảng 200 doanh nghiệp). 55 Hơn thế nữa quá trình này còn tạo mới 500 nghìn việc làm và thu hút gần 18 tỷ USD nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công này Hungary cũng phải đối mặt với những bất cập như: do chính phủ nước này không hạn chế sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài nên một số ngành truyền thống của nước này như ngành chăn nuôi bò không phát triển được. Vì so với nguyên liệu trong nước thì nguyên liệu của nước ngoài với giá rẻ hơn nhiều nên có khả năng cạnh tranh cao hơn. 1.3.2. Nga: Với chủ trương nhanh chóng chuyển sang nền kinh tế thị trường từ một nền kinh tế kế hoạch mà DNNN chiếm vị trí độc tôn, chính phủ đã thực hiện tư nhân hóa ồ ạt trong thời gian ngắn (3 – 4 năm). Chính phủ đã đề ra kế hoạch tư nhân hoá 30% tổng giá trị tài sản của nhà nước vào năm 1993 và 60% vào năm kế tiếp. Để kích thích thị trường vốn trong nước phát triển, chính phủ còn thực hiện các chính sách hỗ trợ vốn ban đầu cho người lao động trong doanh nghiệp và các công dân đã đến tuổi trưởng thành. Cũng như Cộng hoà Séc, Littuania, Nga đã cho không một phần giá trị doanh nghiệp, cấp sổ ngân phiếu, biên lai chứng chỉ mua cổ phần... để xác định lại quyền mua cổ phần cho các đối tượng. Hơn nữa, Chính phủ Nga đã phát không cho mỗi công dân (đủ 18 tuổi) một phiếu voucher với mệnh giá 10.000 Rúp để họ trở thành cổ đông của các xí nghiệp. Người cầm phiếu voucher có thể sử dụng hoặc trực tiếp mua các cổ phần của các doanh nghiệp thay đổi hình thức sở hữu; hoặc đổi lấy tín phiếu của các quỹ đầu tư. Với những cố gắng như vậy, từ năm 1991-1996, CHLB Nga đã chuyển đổi sở hữu 122.000 DNNN (chiếm 53,3% tổng số doanh nghiệp). Trong đó, DNNN có quy mô nhỏ chiếm 64,8%, còn lại là các doanh nghiệp có quy mô vừa và lớn. Nhưng bên cạnh đó, việc áp dụng phiếu voucher đã vô hình tạo ra sự trục lợi của một số ít quan chức có thế lực và những người có tiền. Cuối cùng dẫn đến sự giảm sút và thất thoát nghiêm trọng tài sản nhà nước, đẩy nhanh sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội. 56 1.3.3. Trung Quốc: Ngay từ đầu thập niên 80, Chính phủ Trung Quốc đã đề cập đến giải pháp CPH. Theo đó, cổ phần hóa DNNN là một bộ phận của chương trình đa dạng hóa sở hữu và trong thập niên 90, giải pháp này đã được thể chế hóa và được coi là biện pháp hữu hiệu trong cải cách DNNN. Trái với quan điểm phải nhanh chóng chuyển đổi hình thức sở hữu DNNN của các nước Đông Âu như Nga, Hungary, chính phủ Trung Quốc cho rằng phải tiến hành chuyển đổi sở hữu từ từ, không nhanh, không chậm và luôn tỉnh táo, thận trọng. Với quan điểm chỉ đạo trên, tiến trình cổ phần hoá của Trung Quốc diễn ra khá chậm, thận trọng từ thăm dò trải qua một giai đoạn thí điểm kéo dài và hình thức cổ phần hóa đơn nhất rồi mới triển khai mở rộng trên phạm vi lớn. Quá trình cổ phần hoá ở Trung Quốc bắt đầu năm 1984, đến cuối 1986 Quốc vụ viện đã cho phép các địa phương có thể chọn ra một vài doanh nghiệp lớn và vừa có điều kiện, thuộc chế độ sở hữu toàn dân để thực hiện thí điểm cổ phần hoá. Tháng 9/1997, Đại hội lần thứ XV của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã nhấn mạnh việc đẩy mạnh công tác cổ phần hóa và xây dựng doanh nghiệp hiện đại theo hướng "củng cố doanh nghiệp lớn và giải phóng doanh nghiệp nhỏ" với kế hoạch giảm dần theo 3 cấp: 1) Cấp cao nhất: Nhà nước nắm quyền sở hữu 100% vốn, khoảng 1.000 tập đoàn lớn trong các lĩnh vực chiến lược như an ninh quốc phòng, năng lượng, công nghệ cao... 2) Cấp trung gian: Nhà nước là cổ đông tham khảo (có thể là cổ đông chi phối hoặc là cổ đông thường) đối với các doanh nghiệp lớn và vừa không có tính chiến lược. 3) Cấp thứ ba: Nhà nước tiến hành cổ phần hóa, tư nhân hóa hàng loạt các doanh nghiệp nhỏ và vừa nhưng không nắm giữ bất kỳ cổ phần nào trong các doanh nghiệp này. Sau đại hội này, Chính phủ Trung Quốc đã phát động một cuộc cải cách DNNN qui mô lớn chưa từng có với mục tiêu khoảng 100.000 DNNN sẽ được cổ 57 phần hoá, bán các xí nghiệp nhỏ cho tư nhân, sáp nhập hoặc giải thể. Vì vậy, chỉ trong thời gian ngắn hàng loạt doanh nghiệp đã được "bán tống, bán tháo" nhằm giải quyết tình trạng thiếu hụt của ngân sách địa phương. Hậu quả là hàng loạt công nhân tại các doanh nghiệp đã bị sa thải trong khi chính phủ Trung Quốc chưa có chính sách hỗ trợ lao động dôi dư, thêm vào đó là các vấn đề phúc lợi xã hội của DNNN trước đây bị xoá bỏ đã làm cho sức ép về thất nghiệp ngày một tăng (khoảng từ 15 triệu đến 20 triệu người bị sa thải khỏi DNNN), sự ổn định chính trị bị đe doạ. Trước tình hình như vậy, chính phủ Trung Quốc đã phải kiềm chế tốc độ cổ phần hóa và bán các DNNN để điều chỉnh chính sách với người lao động và chính sách giá trong cổ phần hoá và bán DNNN. Trên thực tế, các DNNN đã tiến hành chuyển đổi sở hữu thành công ty cổ phần theo 3 cách: - Bán cổ phiếu cho CNVC trong nội bộ doanh nghiệp - Phát hành cổ phiếu công khai ra xã hội - Nắm giữ cổ phiếu giữa các doanh nghiệp Từ năm 1993 đến nay, Trung Quốc đã thực hiện cổ phần hóa DNNN một cách sâu rộng bằng cách xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, hệ thống các văn bản pháp quy liên quan đến sự vận hành của doanh nghiệp như: Luật phá sản doanh nghiệp, Điều lệ chuyển đổi cơ chế kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn dân, Điều lệ tạm thời về quản lý phát hành và giao dịch cổ phiếu, Luật Lao động, Điều lệ quản lý đăng ký công ty ... và hai văn bản có tầm quan trọng đặc biệt là Luật Doanh nghiệp công nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn dân và Luật Công ty. “Luật Doanh nghiệp công nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn dân” được thông qua ngày 13/4/1998, đã quy định cụ thể về các quyền lợi của DNNN như: cho phép DN tự sản xuất một số sản phẩm theo yêu cầu của thị trường; có quyền điều chỉnh vật tư được cung ứng theo kế hoạch; có quyền từ chối các nhiệm vụ sản xuất ngoài kế hoạch của các ban, ngành; có quyền tự tiêu thụ sản phẩm làm ra; có quyền lựa chọn đơn vị mua hàng... Thông qua luật này, các doanh 58 nghiệp sẽ có nhiều quyền tự chủ hơn trong sản xuất kinh doanh, từ đó tháo gỡ các ràng buộc về mặt hành chính, đưa doanh nghiệp về đúng với vòng quay thị trường. Đối với từng loại doanh nghiệp chính phủ Trung Quốc đã lựa chọn những biện pháp phù hợp. Ví như các doanh nghiệp bắt đầu tiến hành CPH đã được áp dụng những biện pháp hữu hiệu như: Khuyến khích sáp nhập tài sản, quy phạm hóa việc phá sản, thực hiện chuyển nợ thành cổ phần, trợ giúp các DN cải tạo kỹ thuật, mở rộng quy hoạch vốn, giải quyết vấn đề thất nghiệp cho người lao động. Đối với các DN đã CPH, Chính phủ đã tạo điều kiện cho hưởng một số ưu đãi như: Thuế suất, thuế thu nhập doanh nghiệp, đặc biệt được giảm thuế trong những năm đầu hoạt động. Đối với những doanh nghiệp sau khi CPH mà đạt thành tích cao trong sản xuất - kinh doanh thì sẽ được tạo điều kiện thuận lợi tham gia vào thị trường chứng khoán, được hưởng ưu đãi về tài chính như dành 10% cổ phần doanh nghiệp để thưởng bằng cổ phiếu cho các cán bộ lãnh đạo và CNVC của doanh nghiệp v.v... Bài học kinh nghiệm rút ra từ các nước: Nhìn chung, việc bắt đầu cải cách từ đâu phụ thuộc vào mối quan tâm của nhà đầu tư và khả năng của chính phủ mỗi nước. Nhưng đều phải có sự đầu tư mới và thay đổi phương thức quản lý để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp chuyển đổi. Thêm vào đó, cổ phần hoá chỉ được tiến hành thành công khi đã chuẩn bị chu đáo cả về cơ chế, chính sách và vật chất để giải quyết những hậu quả do cải cách DNNN gây nên. Theo kinh nghiệm các nước, cần xây dựng các xí nghiệp vừa và nhỏ, tăng cường sức cạnh tranh cho các xí nghiệp này. Theo đó, chính phủ phải có kế hoạch trung hạn trong việc đầu tư cả tiền vốn và kỹ thuật. Thêm vào đó, cần nhanh chóng bán các DNNN vừa và nhỏ có tính cạnh tranh thông qua đấu thầu cạnh tranh. Để tăng tính hấp dẫn của doanh nghiệp trước khi bán, các nước đều tiến hành giải quyết vướng mắc về tài chính đối với những doanh nghiệp hoạt động kinh doanh không hiệu quả hoặc hiệu quả thấp như: - giải quyết các khoản nợ dây dưa, khả năng thanh toán thấp 59 - loại bỏ những tài sản và dự án đầu tư không hiệu quả theo mệnh lệnh hành chính ở các nước DNNN trong các thời kỳ trước - giải quyết vấn đề lao động dôi dư như đào tạo lại, trả trợ cấp thôi việc và bảo hiểm thất nghiệp vì thực tế sự phản đối của lực lượng lao động trong các doanh nghiệp chuyển đổi đã gây khó khăn và ảnh hưởng đến tiến trình chuyển đổi sở hữu DNNN. Nhưng nếu có những biện pháp giải quyết thoả đáng thì nó lại đem lại hiệu quả rất cao, nổi bật là ở Tuynidi, nước này đã thực hiện chính sách trả trợ cấp trọn gói thôi việc tương đối cao nên làm cho nhiều lao động tự nguyện ủng hộ việc chuyển đổi sở hữu DNNN (90% số lao động dôi dư) đến mức chẳng cần phải thải hồi công khai. Đồng thời, Nhà nước không nên can thiệp sâu và trực tiếp vào hoạt động của các doanh nghiệp để không cản trở mục tiêu phân định trách nhiệm giữa Nhà nước và doanh nghiệp, đồng thời phát huy được tính năng động và tự chủ trong kinh doanh của doanh nghiệp Phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, hệ thống các văn bản pháp quy liên quan đến sự vận hành của doanh nghiệp, kịp thời ban hành các quy chế chính sách, mà đặc biệt là các chính sách đối với người lao động và giá bán doanh nghiệp cũng như giá bán cổ phần thuộc vốn nhà nước tuân thủ nguyên tắc của cơ chế thị trường. Đồng thời, cần có cơ chế đồng bộ, quan điểm và cách hiểu nhất quán từ trung ương đến cơ sở, vừa chỉ đạo thực hiện kiên quyết, vừa theo dõi sát để kịp thời điều chỉnh, bổ sung những cơ chế mới khi xuất hiện các lực cản làm chậm tiến trình thực hiện cổ phần hóa. Chính phủ cần có những chính sách lãi suất, chính sách tài chính đúng, mở rộng thị trường mua, chuyển nợ thành vốn đầu tư làm tăng thành phần tham gia vào doanh nghiệp, giải quyết khó khăn về vốn đối với doanh nghiệp để thúc đẩy việc bán từng phần hoặc toàn bộ DNNN. Đó là những bài học từ Achentina, Chilê, Philipin, các nước này đã lôi kéo được các nhà đầu tư nước ngoài và các ngân hàng thương mại tham gia vào doanh nghiệp và bằng cách đó đã giảm được tỷ lệ nợ vốn. 60 Đối với các doanh nghiệp bắt đầu tiến hành CPH, các DN đã CPH, những doanh nghiệp sau khi CPH hoạt động hiệu quả, chính phủ cần áp dụng những biện pháp phù hợp cho từng loại doanh nghiệp. Đặc biệt chính phủ và doanh nghiệp cần quan tâm giải quyết vấn đề thất nghiệp cho người lao động, chính phủ cũng cần tạo điều kiện cho các DN hưởng một số ưu đãi như: thuế suất, thuế thu nhập doanh nghiệp, đặc biệt được giảm thuế trong những năm đầu hoạt động. Đồng thời, cần tạo điều kiện thuận lợi cho các DN tham gia vào thị trường chứng khoán và được hưởng các ưu đãi về tài chính... Kết luận chương 1 Tác giả đã nêu một số vấn đề cơ bản về công ty cổ phần bao gồm khái niệm công ty cổ phần và những vấn đề liên quan như cổ đông, cổ phần, cổ phiếu, cổ tức, các nguồn tài trợ cho công ty cổ phần. Bên cạnh đó, chương này cũng đề cập đến lý luận về cổ phần hóa, các đặc trưng cổ phần hóa ở Việt Nam, lợi ích của cổ phần hóa đối với sự phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam bao gồm lợi ích đem lại cho xã hội, cho doanh nghiệp và người lao động... Chương 1 đã nêu được những bài học kinh nghiệm cổ phần hóa ở một số quốc gia trên thế giới, đặc biệt là kinh nghiệm của Hungary, Nga và Trung Quốc... Từ đó rút ra được một số bài học cho Việt Nam trong tiến trình thực hiện công cuộc cổ phần hóa của đất nước. 61 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH SẢN XUẤT KINH DOANH VÀ VẤN ĐỀ CỔ PHẦN HÓA CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở THÀNH PHỐ NHA TRANG. 2.1. Tình hình cổ phần hóa ở nước ta trong thời gian qua. 2.1.1. Bối cảnh làm xuất hiện nhu cầu cổ phần hóa ở Việt Nam. Quá trình CPH DNNN ở Việt Nam được bắt dầu từ năm 1992, nhưng để xuất hiện chủ trương này Việt Nam đã trải qua một quá trình nhận thức, tìm toi và thử nghiệm nhiều phương thức để giúp các DNNN thoát khỏi khó khăn về vốn. Trước năm 1979, Việt Nam định hướng xây dựng mô hình kinh tế XHCN dựa trên hai loại hình sở hữu chính là toàn dân và tập thể. Tuy nhiên, để thoát khỏi tình trạng trì trệ của nền kinh tế do mô hình này với công cụ điều tiết là kế hoạch pháp lệnh, thì từ 1979 vai trò của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và tập thể đã được coi trọng, cũng như quyền tự chủ của các doanh nghiệp và địa phương đã được mở rộng vượt ra ngoài khuôn khổ của chế độ kế hoạch pháp lệnh. Từ năm 1980, nước ta đã thử nghiệm cải cách cơ chế quản lý các DNNN (lúc đó gọi là các xí nghiệp, cửa hàng quốc doanh) như: doanh nghiệp sẽ được tự chủ ở kế hoạch sản xuất phụ theo giá cả thị trường, được huy động vốn trong cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp, tự chủ sử dụng lao động... Vào những năm thập kỷ 90, nhờ quá trình đổi mới thận trọng cơ chế quản lý nên các DNNN đã cơ bản chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường và góp phần to lớn ổn định nền kinh tế; mặt khác do trước đây DNNN được đầu tư tràn lan không chú trọng đúng mức đến hiệu quả kinh tế, nên vào năm 1990 đã có hơn 12.300 DNNN, trong đó đa số là doanh nghiệp có vốn nhỏ bé, kỹ thuật lạc hậu, thậm chí không đủ vốn hoạt động. Trước thực tế như vậy, chính phủ đã cho phép doanh nghiệp tự huy động vốn trong cán bộ công nhân viên và các đối tượng có vốn khác để tạm thời giải quyết khó khăn thiếu vốn. Tuy nhiên, cách thức huy động vốn như vậy có quy mô rất hạn chế và gây nhiều lộn xộn khiến người bỏ vốn không được bảo vệ, còn doanh nghiệp sử dụng vốn nhiều khi không đúng mục đích đề ra khi huy động. Thêm vào đó, theo NĐ388/HĐBT quá trình thành lập lại DNNN nhằm sáp nhập, thu gọn đầu mối DNNN đã được triển khai. Do 62 vậy, quy mô vốn của những doanh nghiệp chủ chốt đã được tăng lên và các doanh nghiệp này cũng được cấp vốn còn thiếu. Nhưng do gần 6000 DNNN sau thành lập vẫn còn là một con số lớn, trong khi ngân sách nhà nước lại quá hạn hẹp nên các DNNN vẫn ở trong tình trạng thiếu vốn. Lúc này, Đảng và Nhà nước lại phải đi tìm một phương cách mới khả thi để vừa có thể giúp cơ cấu lại hệ thống DNNN hiện có, vừa mở ra những khả năng mới cho việc duy trì ổn định năng lực sản xuất xã hội và nâng cao việc sử dụng năng lực sản xuất… Chính từ bối cảnh này, chủ trương về cổ phần hóa DNNN đã ra đời và cho đến nay vẫn được thực thi ở nước ta. 2.1.2. Tình hình cổ phần hóa ở nước ta trong thời gian qua. CPH các DNNN vừa là xu thế khách quan, vừa là nhu cầu trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, bởi vì công ty cổ phần có điểm mạnh là thu hút được nguồn vốn rộng rãi trong xã hội, tăng cường hàng hóa cho thị trường chứng khoán, tách bạch được quyền sở hữu với quyền sử dụng vốn trong sản xuất kinh doanh. Vì vậy, trong Nghị quyết 3 và Nghị quyết 9 của Ban Chấp hành Trung ương khóa IX đã chỉ rõ cổ phần hóa là một phương thức có hiệu quả để đổi mới các DNNN và cũng là một trong những hướng quan trọng của quá trình cải cách các doanh nghiệp này. Chỉ trong 14 năm qua, với sự chỉ đạo của Chính phủ và tinh thần chủ động trong thực hiện của các cấp, các ngành từ trung ương tới địa phương, tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở nước ta đã thu được những thành tựu bước đầu đáng khích lệ. Bảng 2.1: Số DNNN cổ phần hóa theo thời gian: Giai đoạn Số doanh nghiệp CPH 1992 – 1998 123 1999 – 2005 2.873 2006 (6 tháng đầu năm) 111 Tổng 3.107 Nguồn: Ban Chỉ đạo đổi mới và Phát triển doanh nghiệp Trung ương 63 Sau hơn 10 năm (1992-2005) thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, cả nước đã cổ phần hóa được 2.996 DNNN và bộ phận DNNN. Cụ thể, giai đoạn 1992 - 1998 là 123 doanh nghiệp và giai đoạn 1999 - 2005 là 2.873 doanh nghiệp. Đến tháng 9/2006, cả nước đã cổ phần hóa 3.107 DNNN và đơn vị phụ thuộc (bảng 2.1) trên tổng số 5.700 DNNN, hầu hết các doanh nghiệp này sau khi cổ phần hoá đều hoạt động có hiệu quả, vốn điều lệ và doanh thu đều tăng, vốn nhà nước được bảo toàn và tiếp tục tăng, thu nhập của người lao động cũng được cải thiện rõ rệt. Đến 90% doanh nghiệp khẳng định rằng kết quả sản xuất kinh doanh tốt hơn trước cổ phần hóa rất nhiều, chủ yếu là sự gia tăng doanh thu và thu nhập của người lao động, vì vậy đã làm tăng tỉ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của DNNN cổ phần hóa. Hơn nữa, nếu DNNN quan tâm đến mục tiêu lợi nhuận vì doanh nghiệp kinh doanh có lãi sẽ được đánh giá là hoạt động hiệu quả thì DNNN cổ phần hóa lại chú trọng hiệu quả sử dụng vốn và việc minh bạch trong kết quả sản xuất kinh doanh vì họ bị giám sát bởi nhiều cơ chế: cổ đông, ban kiểm soát, hội đồng quản trị và nhà đầu tư... Thêm vào đó là những ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp của chính phủ đối với DNNN cổ phần hóa trong những năm đầu sau khi cổ phần hóa. Ví như hơn 850 DNNN đã cổ phần khảo sát năm 2005 cho thấy: vốn điều lệ tăng bình quân 44%, doanh thu tăng gần 24%, lợi nhuận tăng 140%, nộp ngân sách tăng 25%, thu nhập người lao động tăng 12%. Những con số thực tế trên thật sự rất ý nghĩa đối với các doanh nghiệp vì chúng khẳng định CPH là một trong những biện pháp hữu ích nhất để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, đồng thời cũng sẽ tạo niềm tin và động lực cho các DNNN khác tiến hành đổi mới hoạt động kinh doanh của mình một cách tích cực hơn. Mặc dù số lượng DNNN tiến hành CPH tăng không nhiều nhưng phần đông trong số đó là các doanh nghiệp làm ăn khá, có quy mô vốn lớn, hấp dẫn công chúng đầu tư như: công ty Điện lực Khánh Hòa, công ty Nhiệt điện Phả Lại, tổng công ty Điện lực Việt Nam (EVN) tại nhà máy Thủy điện Vĩnh Sơn-Sông Hinh, Thủy điện Thác Bà, Vinamilk, Kinh Đô, Bảo Minh, công ty cổ phần vật liệu và cáp 64 viễn thông, công ty cổ phần giấy Hải Phòng, công ty cổ phần mía đường Lam Sơn, công ty cổ phần bánh kẹo Biên Hòa... Một số công ty cổ phần cũng đã phát hành thêm cổ phiếu như: Sacombank, Eximbank, Bảo hiểm dầu khí..., hai mạng điện thoại lớn Vina Phone và Mobi Fone... cũng đang rục rịch chuẩn bị phát hành cổ phiếu. Cùng với Vietcombank, các ngân hàng thương mại lớn khác như ngân hàng Đầu tư và Phát triển, ngân hàng Công thương, ngân hàng phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long... cũng đang ráo riết chuẩn bị để tiến hành cổ phần hóa trong một tương lai gần. Sự kiện này chắc chắn sẽ thu hút sự quan tâm lớn của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Việc sắp xếp lại và CPH các DNNN đã hoàn thành trên 61 trong tổng số 64 tỉnh thành. Hầu hết các doanh nghiệp nhỏ, yếu, hoạt động kém hiệu quả, khả năng cạnh tranh kém đã bị loại ra khỏi hệ thống các DNNN. Nhờ CPH mà nợ xấu, vật tư hàng hoá tồn kho kém phẩm chất, các trang thiết bị và tài sản cũ nát... đã được giải quyết. Bộ máy và phương pháp quản lý của các doanh nghiệp đã CPH năng động hơn. Cơ chế định giá doanh nghiệp mới qua các tổ chức tư vấn độc lập đã được áp dụng thay vì qua hội đồng định giá như trước đây. Về phía nhà nước, trong năm 2005, Chính phủ, Bộ Tài chính liên tiếp có những quyết định, công văn chỉ đạo đẩy nhanh tốc độ cổ phần hóa. Ngoài ra, hệ thống các văn bản về cổ phần hóa cũng dần được bổ sung, hoàn thiện. Trong đó, nổi bật là Nghị định 187 và Thông tư 126, hướng dẫn về xử lý tài chính, xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa. Hiện nay cổ phần hóa DNNN đã được mở rộng ra hầu hết các ngành, lĩnh vực, kể cả các ngành lĩnh vực cực kỳ quan trọng, kể cả một số tổng công ty và doanh nghiệp lớn trong các ngành điện lực, luyện kim, cơ khí, hoá chất, phân bón, xi măng, xây dựng, vận tải đường bộ, đường sông, hàng không, hàng hải, viễn thông, ngân hàng, bảo hiểm. 65 2.2. Thực trạng về công ty cổ phần và cổ phần hóa ở thành phố Nha Trang. 2.2.1. Sơ lược tình hình cổ phần hóa ở thành phố Nha Trang. Thành phố Nha Trang là trung tâm kinh tế - chính trị - văn hóa của tỉnh Khánh Hòa. Hiện nay, thành phố có diện tích tự nhiên là 251 km². Nha Trang nằm trên tọa độ 12°8'33" đến 12°25'18" Bắc và 109°7'16" đến 109°14'30" Đông. Phía Bắc giáp xã Ninh Ích, huyện Ninh Hòa, phía Nam giáp các xã Cam Hải, Cam Tân, thị xã Cam Ranh, phía Tây giáp các xã Diên An, Diên Phú, huyện Diên Khánh, phía Đông giáp Biển Đông. Hiện tại dân số Nha Trang vào khoảng 300.000 người và ước tính sẽ tăng lên khoảng 500.000 đến 600.000 người vào năm 2020. Thành phố có thêm nhiều khu đô thị mới ở phía Nam như Hòn Rớ, phía Bắc như Vĩnh Thái và kế hoạch xây khu đô thị phía Tây. Ngày nay, Nha Trang đã là một trung tâm du lịch khá nổi tiếng của Việt Nam và quốc tế. Kinh tế mũi nhọn của thành phố là dịch vụ du lịch và thủy sản. Từ năm 1999 đến nay (tháng 10/2006), trên địa bàn thành phố đã cổ phần hóa được 34 DNNN và bộ phận DNNN (sau đây gọi chung là DNNN) (xem bảng 2.2 và 2.3). Bảng 2.2. Tình hình cổ phần hóa DNNN ở thành phố Nha Trang Năm Số lượng DNNN đã CPH Số lượng DNNN bộ phận đã CPH 1999 1 1 2000 0 0 2001 7 0 2002 4 1 2003 7 1 2004 4 0 2005 4 1 9/2006 2 1 Tổng cộng 29 5 Nguồn: Ban đổi mới DNNN tỉnh Khánh Hòa Trong các doanh nghiệp CPH nói trên, các doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp là 4 (chiếm 11,76%), các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực thương mại, dịch vụ, du lịch là 7 doanh nghiệp (chiếm 20,59%), 6 doanh nghiệp (17,65%) thuộc lĩnh vực 66 nông, lâm, thủy sản, các doanh nghiệp giao thông, vận tải, xây dựng là 12 doanh nghiệp (chiếm 35,29%), còn lại là 5 doanh nghiệp (14,71%) thuộc lĩnh vực giáo dục, văn hóa, thông tin. Bảng 2.3. Cơ cấu DNNN đã CPH phân theo ngành Lĩnh vực kinh doanh Số công ty Tỷ lệ phần trăm (%) Công nghiệp 4 11,76 Thương mại, dịch vụ, du lịch 7 20,59 Nông, lâm, thủy sản 6 17,65 Xây dựng, giao thông, vận tải 12 35,29 Giáo dục, văn hóa, thông tin 5 14,71 Tổng cộng 34 100 Nguồn: Ban đổi mới DNNN tỉnh Khánh Hòa 14.71% 14.71% 70.58% Dưới 5 tỷ đồng Từ 5 tỷ đến 10 tỷ đồng Trên 10 tỷ đồng Nguồn: Ban đổi mới DNNN tỉnh Khánh Hòa Hình 2.1: Cơ cấu DNNN CPH phân theo vốn điều lệ Trong 34 DNNN đã CPH, các doanh nghiệp có vốn Nhà nước dưới 5 tỷ đồng là 24 doanh nghiệp (chiếm 70,58%), các doanh nghiệp có vốn Nhà nước từ 5 –10 tỷ đồng là 5 doanh nghiệp (chiếm 14,71%) và 5 doanh nghiệp (14,71%) có vốn Nhà nước trên 10 tỷ đồng. 2.2.2. Thực trạng cổ phần hóa ở tp. Nha Trang 2.2.2.1. Đối với các doanh nghiệp đã cổ phần hóa. 2.2.2.1.1. Trước cổ phần hóa. a. Những kết quả đạt được: Để thấy được hiệu quả hoạt động kinh doanh của các DNNN cổ phần hóa, chúng tôi dùng các chỉ tiêu sau: doanh thu thuần bình quân, vốn chủ sở hữu bình quân, tỷ suất lợi nhuận/vốn chủ sở hữu bình quân, lợi nhuận sau thuế/doanh thu 67 thuần bình quân, thu nhập bình quân của người lao động, tổng nộp ngân sách nhà nước và số lao động bình quân. Chúng tôi so sánh các chỉ tiêu này của các doanh nghiệp năm 2005 so với thời gian trước khi doanh nghiệp CPH (năm CPH). Trong số 34 DNNN đã CPH tính đến tháng 9 năm 2006 tại tp. Nha Trang thì có 8 DNNN mới CPH từ năm 2005 nên chúng tôi không đưa vào so sánh, tính toán số liệu. Với 26 DNNN được CPH từ năm 2004 trở về trước, chúng tôi nhóm các doanh nghiệp theo ngành và theo năm CPH để tính toán các chỉ tiêu của năm 2005 so với năm DNNN hoàn thành CPH. Bảng 2.4 và 2.5 cho thấy thực trạng tình hình sản xuất kinh doanh của các DNNN trước khi tiến hành CPH. Có thể nhận xét rằng các DNNN được chọn CPH hầu hết là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, kinh doanh có lãi, đều là những DNNN hoạt động khá tốt trong tỉnh. Tuy nhiên hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh chưa cao, thể hiện ở các tỷ suất lợi nhuận sau thuế/doanh thu bình quân, lợi nhuận sau thuế/vốn CSH bình quân, thu nhập bình quân người lao động, vốn chủ sở hữu bình quân và các khoản nộp NSNN còn thấp. Các doanh nghiệp chưa đảm bảo được nhu cầu vật chất cho người lao động, thu nhập bình quân người lao động quá thấp, không quá 300.000 đồng/tháng. Vốn chủ sở hữu bình quân của các DNNN trong các ngành nghề khá thấp, cao nhất là các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực nông, lâm, thủy sản với 10.668 triệu đồng và thấp nhất là lĩnh vực văn hóa, giáo dục, thông tin chỉ có 1.867 triệu đồng. Trong các ngành nghề hoạt động kinh doanh, thì các doanh nghiệp hoạt động ở lĩnh vực nông, lâm, thủy sản hoạt động có hiệu quả nhất còn lĩnh vực văn hóa, giáo dục, thông tin hoạt động dường như ít hiệu quả hơn, các chỉ số hầu như đều thấp hơn các chỉ số bình quân của những doanh nghiệp trong các lĩnh vực khác. b. Những khó khăn, vướng mắc mà các doanh nghiệp đã gặp phải. Bên cạnh những kết quả đạt được như đã trình bày ở trên thì quá trình CPH các doanh nghiệp đã gặp rất nhiều vướng mắc: Trước hết là nhận thức về cổ phần hóa DNNN còn chưa đầy đủ và thống nhất. Đặc biệt, những doanh nghiệp lâu nay làm ăn kém hiệu quả, khả năng cạnh tranh kém, cung cách quản lý không xoay kịp theo nền kinh tế thị trường, chủ yếu vẫn dựa vào cơ chế bao cấp, cơ chế “xin - cho” không nhận thấy được là đã đến lúc 68 thị trường khó chấp nhận những doanh nghiệp làm ăn theo kiểu như vậy, nếu không chuyển đổi nhanh, rất có thể sẽ có nhiều doanh nghiệp đổ vỡ hàng loạt, nếu tồn tại được thì cũng sẽ hết sức vất vả. Chúng tôi đã tiến hành phát phiếu điều tra cho 16 doanh nghiệp cổ phần hóa để tìm hiểu những lý do chính các DNNN này tiến hành CPH, thu được kết quả như sau: Bảng 2.6: Lý do chính dẫn đến CPH công ty: Lý do Số công ty Tỷ lệ % 1. Do đề nghị bắt buộc từ các cơ quan quản lý Nhà nước 12 75 2. Để nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty 6 37,5 3. Để huy động thêm vốn với chi phí thấp 0 0 4. Do được ưu đãi về thuế 0 0 Nguồn: kết quả điều tra Bên cạnh đó, trước khi CPH đa số doanh nghiệp có hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp và tốc độ phát triển chưa cao. Hầu hết các doanh nghiệp chưa quan tâm đến việc xây dựng thương hiệu sản phẩm và sở hữu công nghiệp. Mặt hàng xuất khẩu của doanh nghiệp chưa phong phú, đa dạng cũng như chưa được quan tâm thật sự về chất lượng do vẫn còn bị ảnh hưởng bởi tâm lí đây là DNNN, được sự hỗ trợ của nhà nước vì vậy lãi lỗ không quan trọng. Thêm vào đó, việc đầu tư đổi mới công nghệ còn chậm, trình độ công nghệ của đại bộ phận DNNN còn lạc hậu so với thế giới. Hậu quả là sản phẩm sản xuất ra có giá thành cao, chất lượng thấp, khả năng cạnh tranh kém trên thị trường. Hơn nữa, trình độ quản lý doanh nghiệp phần lớn còn yếu kém, chưa đạt yêu cầu mà cơ chế thị trường đòi hỏi. Nhiều cán bộ quản lý chậm được đào tạo, đào tạo lại và không thường xuyên được bồi dưỡng nâng cao trình độ, kỹ năng quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh, nên không thích ứng kịp với môi trường sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường. Việc bảo toàn và phát triển vốn ở một số DNNN thực hiện chưa tốt, tình hình ăn dần vào vốn, mất vốn vẫn còn. Không ít DNNN chưa thực hiện tốt quy chế dân chủ tại doanh nghiệp, nhất là công khai tài chính. Công tác quản lý tài chính tại doanh nghiệp còn nhiều thiếu sót. Định hướng hoạt động sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính doanh nghiệp chưa vững chắc. 69 Về việc quản lý nhà nước vẫn còn nhiều vướng mắc như có quá nhiều văn bản pháp quy chồng chéo, thiếu tính khả thi, trói buộc quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp, không phù hợp với cơ chế thị trường nhưng chậm được sửa đổi... Quan hệ giữa cơ quan quản lý nhà nước với DNNN còn chưa bình đẳng thể hiện là khi doanh nghiệp vi phạm thì bị xử lý, còn cơ quan quản lý nhà nước không chịu trách nhiệm gì về những quyết định sai trái gây tổn thất cho doanh nghiệp. Nhưng vướng mắc chủ yếu vẫn là chưa phân định rõ được quyền quản lý của Nhà nước với DNNN; quyền của cơ quan nhà nước với tư cách là chủ sở hữu trực tiếp tại doanh nghiệp; quyền sử dụng vốn và quyền chủ động kinh doanh của doanh nghiệp. Hơn nữa, cải cách hành chính còn tiến hành chậm, chưa theo kịp yêu cầu đổi mới của DNNN và nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp. Vẫn còn nhiều thủ tục gây khó khăn, phiền hà, tốn kém tiền bạc, thời gian và mất cơ hội kinh doanh của các doanh nghiệp cũng như chưa phát huy đầy đủ quyền tự chủ, tính năng động của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Không chỉ vậy, nhiều vướng mắc về cơ chế, chính sách cũng chưa được sửa đổi, bổ sung kịp thời như: +Về đầu tư: Nhà nước vừa buông lỏng, vừa can thiệp quá sâu vào quyền tự chủ đầu tư của doanh nghiệp và người quyết định đầu tư không chịu trách nhiệm khi phương án đầu tư không có hiệu quả. Vì vậy, việc phân cấp, giao quyền quyết định đầu tư cho doanh nghiệp chưa phù hợp, rõ ràng, không gắn với trách nhiệm và chưa có cơ chế kiểm soát để đầu tư có hiệu quả. +Về tổ chức, cán bộ quản lý: Trong các tổng công ty Nhà nước, cơ chế quyết định nhân sự chưa phát huy được trách nhiệm và hiệu lực điều hành quản lý của Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc. Đối với các DNNN, việc bổ nhiệm nhân sự chủ yếu do cấp trên quyết định nên không phát huy được đầy đủ dân chủ và trách nhiệm của doanh nghiệp, cũng như năng lực cán bộ. +Một số cơ chế, chính sách của Nhà nước về sắp xếp, đổi mới DNNN còn có những vướng mắc, nhưng chưa được bổ sung, sửa đổi kịp thời, gây nhiều lúng túng, chậm trễ trong tổ chức thực hiện. Chẳng hạn trong việc xác định giá trị doanh 70 nghiệp, vấn đề đấu giá cổ phần chậm được sửa đổi, bổ sung và hướng dẫn cụ thể, nên mỗi địa phương chỉ đạo thực hiện khác nhau, thiếu sự thống nhất trong cả nước. Hay vẫn có sự phân biệt đối xử giữa DNNN và doanh nghiệp CPH, thể hiện ở chính sách cho vay, cho thuê đất đai, gây ảnh hưởng không nhỏ tới tâm lý cho chính những doanh nghiệp đã cổ phần hóa cũng như các DNNN sẽ thực hiện sắp xếp, cổ phần hóa. Các doanh nghiệp cũng đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc xác định giá trị doanh nghiệp. Khi chuyển đổi từ hình thức sở hữu Nhà nước sang hình thức đa sở hữu (cổ phần hóa), việc xác định giá trị những tài sản vô hình (quyền sở hữu trí tuệ) của doanh nghiệp hết sức khó khăn. Cho đến nay, hầu hết các DNNN đã CPH đều không xác định được hoặc không đưa các đối tượng sở hữu trí tuệ (nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp...) vào việc định giá giá trị doanh nghiệp để CPH. Việc giải quyết một lượng lớn lao động thiếu việc làm và lao động dôi dư cũng là một trong những khó khăn lớn, ảnh hưởng đến quá trình đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước. 2.2.2.1.2. Sau cổ phần hóa. a. Những kết quả đạt được. Sau khi CPH các doanh nghiệp đã thực hiện được các mục tiêu CPH như: Từ chỗ chỉ có một chủ sở hữu Nhà nước, cổ phần hóa đã tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, bao gồm Nhà nước, người lao động trong doanh nghiệp, cổ đông ngoài doanh nghiệp, trong đó người lao động trong doanh nghiệp trở thành người chủ thực sự phần vốn góp của mình trong công ty cổ phần. Và theo bình quân kết quả cổ phần hóa trên địa bàn thành phố thì tỷ lệ nắm giữ vốn điều lệ của Nhà nước là 30,19% (tương ứng 56678 triệu đồng); của người lao động trong doanh nghiệp là 50,42% (tương ứng 94.643 triệu đồng) và của cổ đông ngoài doanh nghiệp là 19,39% (tương ứng 36.389 triệu đồng). 71 19.39% 50.42% 30.19% Nhà nước Cán bộ CNV trong công ty Các nhà đầu tư bên ngoài Nguồn: Ban đổi mới DNNN tỉnh Khánh Hòa Hình 2.2: Cơ cấu sở hữu của DNNN sau cổ phần hóa Bên cạnh đó, cổ phần hóa đã trở thành giải pháp cơ bản và quan trọng nhất trong cơ cấu lại DNNN, giúp DNNN có cơ cấu thích hợp, quy mô lớn, tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, và cũng là một giải pháp huy động thêm vốn của xã hội đầu tư vào phát triển sản xuất kinh doanh. Ngoài việc đánh giá lại khách quan hơn vốn Nhà nước tại doanh nghiệp, giúp nguồn vốn này tiếp cận hơn với phương thức thị trường, quá trình CPH DNNN còn huy động được vốn của các cá nhân, tổ chức ngoài xã hội vào doanh nghiệp để kinh doanh đầu tư phát triển sản xuất. Từ đó, phần vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp CPH không những không bị giảm đi mà còn được bảo toàn và phát triển nhờ hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp CPH ngày càng tăng. DNNN sau khi cổ phần hóa đã chuyển sang hoạt động theo luật doanh nghiệp, tạo động lực mới trong sản xuất kinh doanh và hình thành cơ chế kiểm soát có hiệu quả hơn của cổ đông và người lao động đối với doanh nghiệp; tiết kiệm được chi phí quản lý; năng suất lao động tăng; hạ giá thành sản phẩm, từ đó nâng cao được hiệu quả sản xuất kinh doanh; thu nhập của người lao động được bảo đảm và có xu hướng ngày càng tăng; lợi ích của doanh nghiệp, của nhà nước được bảo đảm. Một số doanh nghiệp đã đầu tư thêm máy móc thiết bị; đổi mới công nghệ; mở rộng ngành nghề; tăng cường liên doanh liên kết, nên năng lực, hiệu quả sản xuất kinh doanh tăng đáng kể; tiêu biểu là các công ty cổ phần: Phụ liệu may Nha Trang, Chế biến lâm thủy sản, Vật tư thiết bị giao thông, Thương mại vật liệu và khí đốt... So sánh các chỉ tiêu của doanh nghiệp về doanh thu thuần bình quân, vốn chủ sở hữu bình quân, tỷ suất lợi nhuận/vốn chủ sở hữu bình quân, lợi nhuận sau 72 thuế/doanh thu và thu nhập bình quân của người lao động, tổng nộp ngân sách nhà nước... (xem bảng 2.4, 2.5, 2.7, 2.8), chúng ta thấy rằng nhìn chung các chỉ tiêu này đều tăng so với trước khi cổ phần hóa. Nhìn vào bảng 2.4 và bảng 2.7 chúng ta có nhận xét là các doanh nghiệp đã tiến hành cổ phần hóa sớm có sự biến chuyển rõ nét hơn. Chẳng hạn như so với trước khi CPH, các doanh nghiệp CPH từ năm 1999 đã tăng tỷ lệ lợi nhuận sau thuế/vốn chủ sở hữu bình quân từ 6,99% lên đến 69,52%; còn các DNNN đã tiến hành CPH từ năm 2002, tỷ lệ này tăng từ 7,64% lên tới 24,51%. Trong số các DNNN đã CPH thì các doanh nghiệp thuộc nhóm ngành nông lâm, thủy sản có tỷ lệ lợi nhuận sau thuế/vốn chủ sở hữu bình quân cao nhất (65,05%), tiếp đến là lĩnh vực xây dựng, giao thông, vận tải (22,24%) và thương mại, dịch vụ, du lịch (21,98%). Đây là những lĩnh vực có lợi thế của thành phố. Ngoài ra, CPH còn tạo điều kiện pháp lý và vật chất để người lao động nâng cao vai trò làm chủ của doanh nghiệp, làm chủ thật sự của phần vốn góp của mình. Họ có quyền tham gia quản lý doanh nghiệp bằng việc dự Đại hội cổ đông để thông qua điều lệ công ty bầu các thành viên hội đồng quản trị, và Ban kiểm soát, biểu quyết các vấn đề liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh thuộc thẩm quyền Đại hội cổ đông. Nhờ đó nâng cao được tính chủ động và ý thức kỷ luật, tinh thần tự giác, tiết kiệm trong sản xuất kinh doanh, góp phần làm tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. CPH không những cắt giảm lượng lao động mà thậm chí còn tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động. Sau CPH, doanh nghiệp đã có sự xắp xếp lại lao động cho phù hợp để có thể phát huy hết năng lực, thay thế những lao động thiếu trách nhiệm, yếu kém chuyên môn bằng những lao động năng động, sáng tạo, làm việc có hiệu quả. Vì vậy, trong vài năm đầu khi doanh nghiệp vừa mới CPH xong, việc bố trí, sắp xếp lao động còn đang ở bước khởi đầu nên số lượng lao động bình quân có thể giảm xuống, tăng lên hoặc gần như không đổi, như so với năm 2005 số lao động trong các DNNN CPH năm 2001 (217 so với 209), năm 2002 (300 so với 295), năm 2004 (267 so với 262) giảm xuống, trong khi số lao động trong các DNNN CPH 73 năm 2003 (92 so với 104) lại tăng lên. Tuy nhiên, với sự xắp xếp lao động ngày càng phù hợp như vậy thì hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ ngày càng được nâng lên, doanh nghiệp có thể mở rộng quy mô hoạt động của mình. Do đó, nhu cầu lao động sẽ tăng lên, thậm chí nhiều hơn rất nhiều so với số lượng đã sa thải trước đây. Điều này thể hiện rõ trong số lượng lao động bình quân của các DNNN năm 1999 là 226 người, vậy mà sau khi CPH đến nay đã tăng gần gấp đôi là 405 người. Không chỉ tạo thêm việc làm cho người lao động mà từ việc nâng cao hiệu quả hoạt động các doanh nghiệp, thu nhập của người lao động còn tăng lên đáng kể. Doanh nghiệp càng CPH sớm thì đến nay thu nhập bình quân người lao động càng cao, càng tăng từ 230-600 nghìn đồng. Vì vậy, đời sống của người lao động được bảo đảm và nâng cao hơn. Đó cũng là một trong những lý do mà người lao động rất đồng tình và ủng hộ việc DNNN sớm CPH. Người được lợi không chỉ là người lao động và doanh nghiệp, mà việc DNNN CPH hoạt động có hiệu quả còn là một nguồn thu đáng kể cho ngân sách nhà nước. Điểm nổi bật là đa số các doanh nghiệp CPH đều hoạt động hiệu quả được thể hiện rõ trong phần nộp NSNN. Nếu như trước đây (năm 1999) số tiền nộp NSNN bình quân các doanh nghiệp chỉ là 679 triệu đồng thì sau CPH đến nay số tiền này đã tăng lên gần 4,44 lần tức 3041 triệu đồng, hay so với số tiền nộp NSNN của các doanh nghiệp CPH trong những năm 2002, 2003 đến nay số tiền này đã tăng gần 1,4-2 lần. Đó là những dấu hiệu đáng mừng trong kết quả đạt được thời gian qua. Thêm vào đó, tài chính của công ty cổ phần được minh bạch hơn, công khai hơn, cùng với những quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của cổ đông, tạo điều kiện cho việc thực hiện quy chế dân chủ trong doanh nghiệp một cách hiệu quả và khá triệt để. b. Những mặt còn hạn chế: -Số lượng doanh nghiệp CPH tuy có tăng đáng kể, nhất là trong những năm gần đây, nhưng so với yêu cầu đổi mới còn hạn chế, tốc độ cổ phần hóa còn chậm, 74 thời gian thực hiện CPH còn quá dài. Trung bình việc CPH một doanh nghiệp kéo dài khoảng 300 ngày. -Việc đa dạng hóa sở hữu trong CPH còn hạn chế. Nhiều doanh nghiệp thuộc dạng không cần giữ cổ phần chi phối nhưng Nhà nước vẫn nắm giữ. Nhiều người lao động trong doanh nghiệp chưa đủ khả năng mua cổ phần với số lượng lớn ngoài số cổ phần ưu đãi; trong khi đó, không ít người lao động không những không mua cổ phần, lại bán cổ phần ưu đãi ngay sau khi mua. Việc thu hút cổ đông ngoài doanh nghiệp cũng chưa được nhiều (mới chỉ đạt 19,39% vốn điều lệ) và chưa rộng rãi, đặc biệt là chưa có sự góp mặt của các nhà đầu tư nước ngoài. Rất nhiều doanh nghiệp thực hiện CPH khép kín, có tới 17 doanh nghiệp không bán cổ phần ra bên ngoài (chiếm 50% số doanh nghiệp cổ phần). -Vốn Nhà nước trong các DNNN cổ phần hóa còn quá nhỏ, và việc huy động vốn trong quá trình CPH doanh nghiệp Nhà nước chưa được nhiều. Quy mô vốn bình quân tại một doanh nghiệp đã CPH xấp xỉ 5 tỷ đồng. Mục tiêu huy động vốn ngoài xã hội nhằm tăng quy mô vốn, tăng năng lực sản xuất kinh doanh thực hiện còn rất hạn chế. c. Những khó khăn, vướng mắc còn tồn tại ở các doanh nghiệp: Việc chuyển đổi từ DNNN sang công ty cổ phần đã mang lại một môi trường kinh doanh mới, nhưng từ đây cũng nảy sinh những khó khăn như: đất đai của doanh nghiệp sau CPH; kiểm kê đánh giá lại tài sản của doanh nghiệp cổ phần; vướng mắc về chính sách tài chính, hoàn thuế giá trị gia tăng, hoàn thuế nhập khẩu, xuất khẩu... Trong đó, vấn đề được doanh nghiệp quan tâm chính là đất đai, tín dụng và thủ tục hành chính... do sự thiếu rõ ràng về quyền sử dụng đất cũng như chưa giải quyết dứt điểm các quyền và nghĩa vụ đất đai có liên quan trước khi đăng ký dưới hình thức công ty cổ phần. Nhìn chung việc sắp xếp DNNN chủ yếu mới thu gọn đầu mối về mặt số lượng. Cơ cấu và chất lượng các doanh nghiệp sau khi đổi mới, sắp xếp còn nhiều tồn tại. Vốn ngân sách đầu tư cho các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế, chủ yếu là doanh nghiệp tự đi vay để đầu tư nên hiệu quả chưa cao, năng lực sản xuất, khả 75 năng mở rộng thị trường và sức cạnh tranh của nhiều DNNN còn nhiều hạn chế.Bên cạnh các doanh nghiệp sau khi CPH đã nhanh chóng thích nghi với môi trường mới, thì vẫn còn một số các doanh nghiệp chưa thực sự thoát khỏi “bầu sữa mẹ”. Các doanh nghiệp này vẫn chưa thật sự chuẩn bị hành trang cho một sự đổi mới về chất. Vì vậy, trong thời gian đầu khi mới tiến hành CPH, một số doanh nghiệp hoạt động vẫn chưa thực sự hiệu quả, tốc độ phát triển còn chậm. Một số doanh nghiệp sau khi CPH vẫn chưa nhận thức rõ tầm quan trọng của việc xây dựng thương hiệu sản phẩm, tạo uy tín cho thị trường trong nước và nước ngoài. Bên cạnh đó, việc đầu tư đổi mới công nghệ vẫn chậm, trang thiết bị công nghệ còn lạc hậu so với nhiều nước trong khu vực. Ngoài một số doanh nghiệp như Dệt Tân Tiến, công ty nước khoáng Khánh Hòa, công ty Vật liệu may Nha Trang có đầu tư máy móc thiết bị tiên tiến, trình độ công nghệ tương đối hiện đại, còn đại bộ phận DNNN vẫn còn sử dụng các thiết bị máy móc, công nghệ lạc hậu so với trong nước và thế giới. Vì vậy, sản phẩm có giá thành cao, chất lượng thấp, mẫu mã, bao bì kém đa dạng, khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và nước ngoài không cao. Việc tìm kiếm thị trường tiêu thụ ở các nước trong khu vực và trên thế giới, công tác tiếp thị đã bước đầu được quan tâm nhưng chưa được đầu tư đúng mức. Các trang web giới thiệu về công ty chưa ấn tượng và chưa thể hiện được thế mạnh công ty. Việc tham gia các hội chợ triển lãm nước ngoài vẫn còn hạn chế. Không ít DNNN chưa thực hiện tốt quy chế dân chủ tại doanh nghiệp, nhất là công khai tài chính. Việc bán cổ phần thiếu sự công khai minh bạch, còn khép kín trong nội bộ doanh nghiệp ở một số trường hợp đã dẫn đến những yếu kém của DNNN sau CPH và chậm được khắc phục. Với xu hướng CPH trong nội bộ doanh nghiệp, các công ty cổ phần sẽ không thực hiện được việc mở rộng đối tượng, quyền mua cổ phần của các nhà đầu tư cũng như việc huy động vốn và thay đổi phương thức quản lý, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Hiện nay, chưa có một DNNN đã CPH nào ở TP. Nha Trang có cổ phiếu niêm yết trên TTCK và khi được hỏi các doanh nghiệp cũng chưa có ý định lên sàn, nguyên nhân chính là do hầu hết các công ty có vốn điều lệ thấp, không đủ điều 76 kiện niêm yết, bên cạnh đó các công ty cổ phần ngại phải công khai báo cáo tài chính hàng năm khi được niêm yết trên TTCK, mặt khác những điều kiện, thủ tục niêm yết, sự can thiệp mang tính hành chính cũng cản trở việc niêm yết trên TTCK Vì vậy, thị trường ngầm về cổ phiếu đã diễn ra tương đối phổ biến. Hầu hết các DNNN ở Nha Trang sau khi chuyển thành công ty cổ phần ít được đổi mới mà do bộ máy lãnh đạo trước đây đảm nhận, cách quản lý điều hành vẫn như cũ. Việc duy trì đội ngũ lãnh đạo cũ với cách làm và nếp nghĩ cũ không phù hợp với địa vị pháp lý mới của doanh nghiệp và không phù hợp với cơ chế thị trường. Chính vì vậy, nhiều doanh nghiệp sau khi CPH đã gặp không ít khó khăn về vốn, phương thức hoạt động và công tác quản lý kinh doanh. Một số khác tìm mọi cách để thôn tính dần số cổ phiếu của cổ đông là Nhà nước, mua gom số cổ phiếu khác dưới nhiều thủ tục rất tinh vi nhằm thâu tóm quyền lực. Một số DNNN được sắp xếp, chuyển đổi theo Nghị định 44/1998/NĐ-CP ngày 29 tháng 6 năm 1998 còn thiếu những ràng buộc cần thiết nên ngay sau khi chuyển đổi đã có hiện tượng mua gom cổ phần vào một số ít cá nhân. Khi chuyển thành công ty cổ phần, chưa quan tâm đúng mức đến đổi mới phương thức quản trị và điều hành doanh nghiệp, hiệu quả sản xuất, kinh doanh của một số công ty cổ phần chưa cao. Vấn đề quản lý nhà nước về hành chính, về phần vốn Nhà nước nắm giữ cũng gây khó khăn cho rất nhiều doanh nghiệp sau CPH. Khi còn là DNNN, số vốn Nhà nước trong doanh nghiệp chịu sự quản lý của cơ quan chủ quản. Sau CPH, chế độ cơ quan chủ quản không còn, nhiều doanh nghiệp xử lý vấn đề này hết sức lúng túng. Như trong vấn đề tiếp cận nguồn vốn sau khi cổ phần hóa, các đơn vị gặp nhiều khó khăn đối với hệ thống ngân hàng. Khi còn là DNNN, nếu thiếu vốn doanh nghiệp có thể vay ngân hàng đã có cơ quan chủ quản cấp trên đứng ra bảo lãnh nhưng sau CPH, doanh nghiệp muốn vay vốn ngân hàng phải có tài sản thế chấp, mà tài sản thế chấp của doanh nghiệp thường lại không có đầy đủ các loại giấy tờ liên quan, đặc biệt là giấy chứng nhân quyền sử dụng đất đai (sổ đỏ)... Còn đối với kênh huy động vốn từ thị trường chứng khoán thì các doanh nghiệp đều dè dặt khi tiếp cận. Bên cạnh đó, những điều kiện về tín dụng, thế chấp, cầm cố tài sản 77 và lòng tin khi cho vay của ngân hàng có sự thay đổi đáng kể đối với công ty cổ phần trước và sau khi chuyển đổi. Có khoảng cách khá xa giữa quy định và thực tế thực hiện các chính sách tín dụng ngân hàng, chưa tạo được môi trường bình đẳng cho doanh nghiệp CPH. Đây là những trở ngại đối với các công ty cổ phần. Mặt khác, sự hỗ trợ tài chính thông qua vốn vay ưu đãi và các biện pháp tài chính như khoanh nợ, dãn nợ, xoá nợ, chuyển vốn vay thành vốn Nhà nước đầu tư... sau CPH đã không còn. Vì vậy, trong nhiều trường hợp, các doanh nghiệp vừa và nhỏ khi có nhu cầu, ngoài huy động nguồn vốn nội bộ hạn chế, rất nhiều doanh nghiệp phải tự huy động vốn từ bên ngoài và đây đang là nguồn vốn quan trọng đối với nhiều doanh nghiệp. Tuy nhiên đây chỉ là biện pháp mang tính tình thế không thể áp dụng về lâu dài. Việc giải quyết số lao động dôi dư sau CPH đang là một bài toán không kém phần nan giải. Trong khi đó, doanh nghiệp lại không được hỗ trợ kinh phí như trước đây để đào tạo và sắp xếp lại số lao động này khiến cho khả năng hoạt động của doanh nghiệp bị hạn chế. Hơn nữa, đội ngũ cán bộ chủ chốt một số doanh nghiệp còn kém về năng lực cũng như phẩm chất, được đề bạt trong cơ chế cũ, nay chuyển sang công ty cổ phần đã không đảm đương được nhiệm vụ được giao. Các doanh nghiệp đã CPH chỉ sau khi nộp thuế thu nhập mới được tính cổ tức, nhưng nếu doanh nghiệp vay vốn ngân hàng thì lãi vay lại được hạch toán vào chi phí, sau đó mới tính thuế thu nhập. Đây là quy định rất bất bình đẳng, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của doanh nghiệp. Ngoài ra, nhiều cổ đông nhỏ trong các doanh nghiệp CPH thường không biết quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong công ty, không am hiểu việc chuyển nhượng cổ phiếu như thế nào, tỷ lệ ra sao, bởi công tác thông tin còn chưa đầy đủ... Ngoài ra, hàng loạt các vấn đề về pháp lý, tìm kiếm các nhà đầu tư chiến lược có tiềm lực tài chính, kinh nghiệm quản lý tốt để hợp tác, học hỏi, nhằm củng cố vị thế phát triển... cũng là những vấn đề bức thiết đặt ra cho các doanh nghiệp sau CPH. Có thể khẳng định, những khó khăn, vướng mắc mà các doanh nghiệp sau CPH đi trước gặp phải, nếu không được quan tâm đúng mức sẽ không chỉ cản trở 78 sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần, mà còn trở thành rào cản tâm lý khiến các doanh nghiệp chưa CPH nhìn vào e ngại, không mặn mà với việc CPH. 2.2.2.2. Những vướng mắc đối với các doanh nghiệp đang trong tiến trình thực hiện cổ phần hóa. Tính đến tháng 10/2006, trên địa bàn tp. Nha Trang có 10 DNNN đang tiến hành cổ phần hóa theo chủ trương của tỉnh Khánh Hòa. Chúng tôi đã tiến hành phát phiếu điều tra cho cả 10 doanh nghiệp để tìm hiểu những vướng mắc các doanh nghiệp đang gặp phải với 7 tiêu chí và kết quả khảo sát như bảng 9. Tiến độ cổ phần hóa DNNN tại tp. Nha Trang gặp khó khăn do nhiều nguyên nhân, đặc biệt là quá trình xác định giá trị doanh nghiệp. Có 8/10 công ty cho rằng họ đang gặp vướng mắc rất lớn trong việc định giá doanh nghiệp. Mặc dù giá trị doanh nghiệp được xác định hợp lý sẽ bảo đảm lợi ích của nhà đầu tư và lợi ích của Nhà nước, nhưng việc xác định giá trị doanh nghiệp vẫn còn mang tính chủ quan, hành chính, thiếu sự hỗ trợ của cơ quan tư vấn chuyên môn. Một số đơn vị kiểm toán được lựa chọn tham gia quá trình này non yếu về nghiệp vụ gây tình trạng kéo dài. Hầu hết các DNNN tại tp. Nha Trang nằm trong chủ trương CPH năm 2006 được chỉ định mời trung tâm định giá Miền Nam xác định giá trị doanh nghiệp. Khi được hỏi lý do chưa tiến hành CPH doanh nghiệp đã than phiền rằng mặc dù trung tâm đã tiến hành tính toán giá trị doanh nghiệp 2 lần nhưng vẫn chưa thể xác định giá trị cuối cùng của doanh nghiệp, lúc thì cho rằng giá định ra lần đầu quá rẻ phải định lại, còn khi định giá lần thứ hai vẫn kêu chưa được vì giá quá cao. Bảng 2.9: Những vướng mắc các DNNN đang CPH gặp phải: Vướng mắc Số DN Tỷ lệ % 1. Phương pháp định giá tài sản (theo qui định của nhà nước) 8 80 2. Những trở ngại về hành lang pháp lý 6 60 3. Những trở ngại về thủ tục hành chính 3 30 4. Thiếu sự ủng hộ từ giám đốc các DNNN 3 30 5. Vấn đề phúc lợi xã hội của NLĐ sau CPH 0 0 6. Vấn đề xử lý nợ tồn đọng của các DN được chọn CPH 6 60 7. Vấn đề tranh chấp đất đai 2 20 Nguồn: kết quả điều tra 79 Hiện nay, tỉnh Khánh Hòa bắt đầu thực hiện chủ trương CPH các DNNN hoạt động công ích, việc định giá các DN này đang gặp rất nhiều khó khăn. Hầu hết các dịch vụ công ích đưa ra đều được Nhà nước quản lý về giá, giá cả mang tính chất xã hội, giá cả thấp hơn chi phí bỏ ra, không phản ánh đúng giá thành thực sự của công ty. Chính vì vậy, hàng năm Nhà nước phải bỏ ra một khoản tiền để bù lỗ cho các DN này. Như vậy, khi xây dựng phương án CPH cho công ty, các chỉ số về tỷ suất lợi nhuận và cổ tức đều rất thấp, chưa phản ánh đúng khả năng thật sự của công ty, kết quả là không thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư. Qua tìm hiểu về những vướng mắc của các DNNN đang tiến hành CPH chúng tôi được biết, công ty dịch vụ vận tải Khánh Hòa với chức năng chính là quản lý bến xe và cung cấp các dịch vụ trong bến xe, nhưng hiện nay giá các dịch vụ này không phản ánh đúng chi phí đã bỏ ra. Chẳng hạn như, công ty đang quản lý và cung cấp dịch vụ xe buýt công cộng, giá vé xe buýt thấp hơn so với chi phí công ty phải bỏ ra. Do đó, hàng năm Nhà nước phải bù lỗ 11 tỷ đồng cho công ty này. Vì vậy, nếu trở thành CTCP, công ty không thể định giá theo thị trường được vì giá cao người dân sẽ không đi xe buýt, điều này ảnh hưởng không tốt đến xã hội vì xe buýt đang được Nhà nước quan tâm khuyến khích làm giảm sự ùn tắc trong giao thông. Chính vì những vướng mắc trên mà cả hai công ty hoạt động công ích ở tp. NT là công ty dịch vụ vận tải Khánh Hòa và công ty Môi trường đô thị Nha Trang không thể hoàn thành kế hoạch CPH trong năm 2006 theo chủ trương của tỉnh. Thêm vào đó, việc xử lý tài chính cũng gây không ít khó khăn cho việc xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa (60% doanh nghiệp đồng ý vướng mắc này) nhưng đến nay vẫn chưa được giải quyết triệt để. Các khoản nợ tồn đọng, dây dưa khó đòi đã qua nhiều năm, tài sản không cần dùng, vật tư hàng hoá tồn kho lâu ngày, trải qua nhiều đời giám đốc không còn chứng từ, không sổ sách nên không thể xác nhận được. Hơn nữa, sự thiếu cơ chế chung xác định giá đất, đền bù giải tỏa, khung giá đất cao, ... cũng khiến tiến độ cổ phần hóa các doanh nghiệp diễn ra chậm chạp. Công ty kinh doanh và phát triển nhà Khánh Hòa cũng đang gặp khó khăn trong việc xác định giá trị doanh nghiệp, đó là việc công ty phải tính tiền chuyển 80 quyền sử dụng đất vào giá trị của công ty. Điều 19 trong Nghị định 187/2004/NĐ- CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ quy định về việc xác định giá trị chuyển quyền sử dụng đất theo mức giá do UBND tỉnh hoặc Trung ương quy định vào ngày 1 tháng 1 hàng năm, nhưng khung giá này hiện nay quá thấp, chưa phản ánh đúng giá thị trường. Do đó, công ty vẫn chưa xác định được giá trị doanh nghiệp. Bên cạnh đó, nhận thức về chủ trương đổi mới, sắp xếp DNNN chưa thống nhất, đầy đủ. Các cấp, các ngành của tỉnh chưa quan tâm đúng mức, thiếu kiên quyết trong chỉ đạo, thực hiện, nên công tác sắp xếp, đổi mới, phát triển DNNN trong thời gian qua ở tỉnh còn diễn ra chậm. Doanh nghiệp giải thích cho lý do về việc mình có tên trong danh sách CPH từ đầu năm 2005 nhưng đến cuối tháng 10/2006 nhưng chưa tiến hành thực hiện, đó là vì cho đến tận thời điểm này ban đổi mới DNNN vẫn phải họp để bàn xem có nên CPH hay vẫn giữ nguyên loại hình công ty. Doanh nghiệp Dệt Tân Tiến than phiền rằng mặc dù đã định giá xong và đã nộp hồ sơ lên Ban đổi mới doanh nghiệp Nhà nước tỉnh từ tháng 8/2006, nhưng đến nay vẫn chưa nhận được phản hồi. DN cho rằng đây không phải lần đầu tiên doanh nghiệp bị chậm trễ như vậy. Doanh nghiệp cũng chưa hiểu rõ sự phân định giữa quyền của Ban đổi mới DNNN và Bộ tài chính trong việc ra quyết định xác định giá trị doanh nghiệp để tiến hành CPH. Khi tìm hiểu về việc này, chúng tôi được biết do giá trị DN khá lớn nên Ban đổi mới DNNN đã có công văn xin ý kiến của Bộ tài chính nhưng đến nay chưa có ý kiến phản hồi. Vì vậy, DN vẫn chưa tiến hành xong CPH được. Có một thực tế là 100% các DN đang tiến hành CPH được hỏi đều cho rằng nguyên nhân chính công ty phải CPH là do đề nghị hoặc bắt buộc từ các cơ quan cấp trên. Việc tranh chấp đất đai cũng là nguyên nhân dẫn đến sự trì hoãn CPH ở DNNN. Quy trình CPH ở xí nghiệp khai thác và dịch vụ thủy sản Khánh Hòa đã hoàn tất nhưng hiện tại xí nghiệp đang có tranh chấp về đất đai, do đó công ty vẫn chưa tiến hành đại hội cổ đông được. Một số cơ chế, chính sách của Nhà nước về sắp xếp, đổi mới DNNN còn có những vướng mắc, nhưng chưa được bổ sung, sửa đổi, xử lý kịp thời, gây nhiều 81 lúng túng, chậm trễ trong tổ chức thực hiện, nổi rõ là việc xác định giá trị doanh nghiệp, nhất là xác định giá đất cho thuê hay vấn đề đấu giá cổ phần chậm được sửa đổi, bổ sung và hướng dẫn cụ thể, nên các địa phương chỉ đạo thực hiện khác nhau, thiếu thống nhất chung trong cả nước. Sự phân biệt đối xử giữa DNNN và doanh nghiệp CPH trên thực tế đã xảy ra, thể hiện ở chính sách cho vay, cho thuê đất đai, gây ảnh hưởng không nhỏ tới tâm lý cho chính những doanh nghiệp đã CPH cũng như các DNNN sẽ thực hiện sắp xếp, cổ phần hóa. Kết luận chương 2. Chương này đã nêu được thực trạng tình hình sản xuất kinh doanh và vấn đề cổ phần hóa các DNNN ở thành phố Nha Trang. Nhìn chung các doanh nghiệp sau khi tiến hành cổ phần hóa đều nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh so với trước đó. Các chỉ số về doanh thu thuần bình quân, vốn chủ sở hữu bình quân, lợi nhuận sau thuế/doanh thu thuần bình quân, lợi nhuận sau thuế/vốn chủ sở hữu bình quân, thu nhập bình quân người lao động, tổng nộp ngân sách nhà nước, số lao động bình quân... của doanh nghiệp đều tăng lên đáng kể. Đây là những kết quả rất khả quan và khẳng định thêm chủ trương cổ phần hóa của nhà nước là đúng đắn và tất yếu trong cơ chế thị trường. Bên cạnh những mặt đã đạt được, luận án cũng nêu lên những khó khăn, vướng mắc còn tồn tại ở các doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa cũng như những vướng mắc mà các doanh nghiệp đang trong tiến trình CPH phải đối mặt. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong chương 3. 82 CHƯƠNG 3:MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỔ PHẦN HÓA CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TẠI TP. NHA TRANG 3.1. Chủ trương cổ phần hóa các DNNN ở tp. Nha Trang Thực hiện chủ trương của chính phủ, từ năm 1990 đến nay tỉnh Khánh Hòa và tp. Nha Trang đã tiến hành 3 đợt sắp xếp DNNN. Đợt 1 từ 1990 đến 1993, đợt 2 từ 1994 đến 1997 và đợt 3 từ 1998 đến nay. Bắt đầu từ năm 1998 tỉnh đã chủ trương cổ phần hóa thí điểm một số DNNN làm ăn có hiệu quả, sau đó mở rộng đối tượng CPH sang các doanh nghiệp khác. Từ năm 1998 đến nay, trên địa bàn tp. Nha Trang đã có 34 DNNN cổ phần hóa, trong số đó có 5 doanh nghiệp bộ phận. Theo chủ trương của tỉnh Khánh Hòa trong năm 2006 phải tiến hành cổ phần hóa 12 DNNN tại tp. Nha Trang và số DNNN còn lại là 13 doanh nghiệp. Nhưng tính đến tháng 10/2006 tp. Nha Trang mới chỉ CPH xong 3 DNNN. Như vậy, trên địa bàn tp. Nha Trang vẫn còn 9 DNNN chưa tiến hành xong CPH như kế hoạch đề ra. Hiện nay, theo tinh thần mới mở rộng diện CPH của Chính phủ, tỉnh có kế hoạch chuyển đổi tiếp một số doanh nghiệp sang hình thức cổ phần, chỉ giữ lại dưới 10 doanh nghiệp là công ty 100% vốn Nhà nước. Trong khuôn khổ bài luận văn này, chúng tôi xin đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả và đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các DNNN trên địa bàn tp. Nha Trang. 3.2. Các căn cứ đề xuất giải pháp. Trên cơ sở nghiên cứu những kinh nghiệm cổ phần hóa ở một số quốc gia trên thế giới, bài học rút ra về kinh nghiệm cổ phần hóa cho Việt Nam, thực trạng cổ phần hóa và những vướng mắc của các doanh nghiệp đã tiến hành CPH cũng như các doanh nghiệp đang trong tiến trình thực hiện CPH, các giải pháp được đưa ra nhằm góp phần nâng cao hiệu quả cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước trên địa bàn tp. Nha Trang. 3.3. Đề xuất một số giải pháp. 3.3.1. Nhóm giải pháp vi mô 83 3.3.1.1. Về việc xác định giá trị doanh nghiệp CPH: Chúng ta thấy rằng, CPH DNNN là hoạt động mang tính trao đổi mua bán, trong đó bên bán là Nhà nước do các cấp được ủy quyền khác nhau đại diện và bên mua là công dân với các chủ thể đa dạng như cá nhân, pháp nhân, tổ chức đoàn thể trong nước và nước ngoài... Trong mối quan hệ mua bán này, lợi ích của mỗi bên không nhất thiết phải tuyệt đối thống nhất với nhau. Nhà nước muốn bán được giá cao còn người mua lại muốn mua rẻ để có lợi sau này. Do đó, giá cả cổ phiếu phải được sự chấp nhận của cả bên mua lẫn bên bán thông qua thỏa thuận và cơ chế tạo ra giá thỏa đáng ấy chính là giá thị trường trên cơ sở cung - cầu và cạnh tranh. Như vậy, nếu xác định hợp lý giá trị doanh nghiệp sẽ bảo đảm lợi ích của cả nhà đầu tư và Nhà nước. Nhưng trên thực tế, việc xác định giá trị doanh nghiệp trong thời gian qua với cơ chế định giá theo NĐ 28/CP, NĐ 44/CP, NĐ 64/CP rồi đến NĐ187/CP cho thấy quá trình xác định giá trị doanh nghiệp vẫn còn mang tính chủ quan, hành chính, thiếu sự hỗ trợ của cơ quan tư vấn chuyên môn và thiếu tính thị trường. Hiện nay theo Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần và Thông tư 126/2004 TT- BTC hướng dẫn thực hiện Nghị định 187/2004/NĐ-CP, quy định hai phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp là phương pháp tài sản và phương pháp dòng tiền chiết khấu. Thực tế cho thấy, hầu hết các doanh nghiệp ở Nha Trang chỉ mới sử dụng phương pháp tài sản trong định giá. Các phương pháp định giá doanh nghiệp mặc dù đã được cải tiến so với trước đây nhưng vẫn nghiêng về tính giá trị trên sổ sách. Các khoản nợ tồn đọng, dây dưa khó đòi đã qua nhiều năm, tài sản không cần dùng, vật tư hàng hoá tồn kho lâu ngày, trải qua nhiều đời giám đốc không còn chứng từ, sổ sách nên không thể xác nhận được. Bên cạnh đó, do thiếu thông tin về thị trường để xác định giá trị còn lại của nhà xưởng, máy móc, đồng thời do chưa có tiêu chuẩn cụ thể để định giá thương hiệu, uy tín, mẫu mã của doanh nghiệp nên chưa tính hết được giá trị tiềm năng của doanh nghiệp. Việc tính giá trị tiềm năng như thương hiệu, sức phát triển tương lai chỉ được áng chừng rồi cộng vào chứ 84 không có cơ sở xác thực. Trong khi đó, phương pháp dòng tiền chiết khấu ưu việt hơn lại chưa được áp dụng rộng rãi, một phần do phương pháp này tính toán phức tạp hơn, phần do tâm lý của ban lãnh đạo doanh nghiệp không muốn giá trị công ty được đánh giá quá cao sẽ khó bán cổ phần, bất lợi trong việc phân chia cổ phần ưu đãi trong nội bộ doanh nghiệp. Bên cạnh đó việc xử lý tài chính cũng gây không ít khó khăn cho việc xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa. Mặc dù đã có nhiều văn bản hướng dẫn vấn đề tài chính khi chuyển DNNN thành công ty cổ phần nhưng đến nay vấn đề này vẫn chưa được giải quyết triệt để. Trong hội nghị tư vấn giữa kỳ các nhà tài trợ cho Việt Nam ở Nha Trang, các chuyên viên cổ phần hóa đã nhận định là cần “phải tổ chức thị trường đấu giá cổ phần công khai hơn, cả trong quy định lẫn thực hiện, để đông đảo quần chúng có thể tham gia. Nếu không sẽ tạo ra sự tiêu cực và lạm dụng trong cơ chế mới”. Càng nhiều nhà đầu tư tham gia càng giảm bớt sự thông đồng làm dìm giá doanh nghiệp. Để khắc phục tình trạng này, các doanh nghiệp khi chuyển đổi thành công ty cổ phần phải được các tổ chức chuyên nghiệp (công ty định giá doanh nghiệp, công ty tư vấn tài chính, công ty kiểm toán...) tính toán đặt ra một mức giá làm căn cứ đưa ra chào thầu, sau đó trên cơ sở bỏ thầu mà xác định được mức giá cổ phiếu. Như vậy giá cổ phiếu sẽ do cung cầu trên thị trường quyết định. Ở nước ta hiện nay, các tổ chức dịch vụ thị trường tài chính còn yếu kém do thị trường chứng khoán chưa phát triển mạnh. Do đó, trong thời gian đầu, chúng ta có thể mời thầu các cổ đông chiến lược, vì đây mới là yếu tố hiệu quả và đổi mới của công ty cổ phần sau này. Sau đó, căn cứ vào giá thầu có tham chiếu là giá tính toán để quyết định giá trị DNNN. Theo cách làm này có thể xảy ra một số doanh nghiệp sau CPH giá tăng cao. Nhưng nếu giá tăng cao do năng lực quản trị và chiến lược của công ty cổ phần tốt thì đó không phải là thất thoát của Nhà nước. Cũng có thể xuất hiện nhiều DNNN không bán được vì doanh nghiệp quá kém, không thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư, khi đó cần giảm giá hay bán với giá ưu đãi. Thậm chí với những DNNN dù có chuyển sang hình thức công ty cổ phần cũng 85 không thể tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh thì nên chuyển qua xử lý bằng các hình thức khác như giao, bán, khoán, cho thuê thậm chí giải thể, phá sản. Ở Việt Nam hiện nay các doanh nghiệp CPH là nguồn cung cấp hàng hoá chủ yếu cho TTCK. Khi doanh nghiệp tham gia vào thị trường chứng khoán thì giá cổ phiếu chịu tác động rất lớn bởi giá trị doanh nghiệp. Giá trị doanh nghiệp nên được tính theo nguyên tắc khả năng sinh lợi của doanh nghiệp mà được sự chấp nhận của người bán lẫn người mua. Giá trị doanh nghiệp phải bao gồm cả lợi ích vô hình như vị trí kinh doanh, uy tín, thương hiệu của doanh nghiệp, tính chất độc quyền về sản phẩm,… Nếu chúng ta chỉ xác định giá trị doanh nghiệp một cách cứng nhắc thì những thông tin xác thực về doanh nghiệp sẽ không đến được nhà đầu tư và công ty sẽ bị thiệt trong việc thu hút nguồn vốn. Chúng ta có thể thực hiện bán đấu giá cổ phiếu thông qua các tổ chức tài chính trung gian để đảm bảo tính minh bạch và phản ánh đúng giá trị doanh nghiệp hoặc thuê chuyên gia và các doanh nghiệp định giá nước ngoài về hỗ trợ định giá. Đa số các doanh nghiệp được CPH ở tp.Nha Trang là những doanh nghiệp nhỏ nên phương pháp tốt nhất là để thị trường quyết định giá bán thông qua đấu thầu, cạnh tranh. Một vấn đề nữa là các

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf45581.pdf
Tài liệu liên quan