Tài liệu Luận văn Một số biện pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện công tác lập và quản lý dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng trong thời gian tới:  1
Luận văn 
MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỦ YẾU 
NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG 
TÁC LẬP VÀ QUẢN LÝ DỰ ÁN 
ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ 
VÀ THIẾT BỊ XÂY DỰNG 
TRONG THỜI GIAN TỚI
 2
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG CỦA CÔNG 
TÁC LẬP VÀ QUẢN LÝ DỰ ÁN ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI 
CÔNG NGHỆ VÀ THIẾT BỊ XÂY DỰNG. 
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƯ VÀ ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ VÀ 
THIẾT BỊ XÂY DỰNG 
1. Định nghĩa về đầu tư 
Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các 
hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn 
hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. 
Nguồn lực đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí 
tuệ. 
Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền vốn), tài 
sản vật chất (nhà máy, đường xá…), tài sản trí tuệ (trình độ văn hoá, 
chuyên môn, khoa học kỹ thuật…) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện để 
làm việc có năng suất trong nền sản xuất xã hội. 
Trong những kết quả đã đạt được trên ...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
99 trang | 
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1429 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Một số biện pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện công tác lập và quản lý dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng trong thời gian tới, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 1
Luận văn 
MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỦ YẾU 
NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG 
TÁC LẬP VÀ QUẢN LÝ DỰ ÁN 
ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ 
VÀ THIẾT BỊ XÂY DỰNG 
TRONG THỜI GIAN TỚI
 2
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG CỦA CÔNG 
TÁC LẬP VÀ QUẢN LÝ DỰ ÁN ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI 
CÔNG NGHỆ VÀ THIẾT BỊ XÂY DỰNG. 
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƯ VÀ ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ VÀ 
THIẾT BỊ XÂY DỰNG 
1. Định nghĩa về đầu tư 
Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các 
hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn 
hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. 
Nguồn lực đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí 
tuệ. 
Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền vốn), tài 
sản vật chất (nhà máy, đường xá…), tài sản trí tuệ (trình độ văn hoá, 
chuyên môn, khoa học kỹ thuật…) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện để 
làm việc có năng suất trong nền sản xuất xã hội. 
Trong những kết quả đã đạt được trên đây, những kết quả trực tiếp của sự 
hy sinh các nguồn lực là các tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân 
lực tăng thêm có vai trò quan trọng trong mọi lúc, mọi nơi không chỉ đối 
với người bỏ vốn mà cả đối với toàn bộ nền kinh tế. Những kết quả này 
không chỉ người đầu tư mà cả nền kinh tế xã hội thụ hưởng. Chẳng hạn một 
nhà máy được xây dựng, tài sản vật chất của người đầu tư trực tiếp tăng 
thêm, đồng thời tài sản vật chất, tiềm lực sản xuất của nền kinh tế cũng 
được tăng thêm. 
Lợi ích trực tiếp do sự hoạt động của nhà máy này đem lại cho nhà đầu tư 
là lợi nhuận, còn cho nền kinh tế là thoả mãn nhu cầu tiêu dùng (cho sản 
xuất và cho sinh hoạt) tăng thêm của nền kinh tế, đóng góp cho ngân sách, 
giải quyết việc làm cho người lao động… 
 3
Trình độ nghề nghiệp, chuyên môn của người lao động tăng thêm không 
chỉ có lợi cho chính họ (để có thu nhập cao, địa vị cao trong xã hội) mà còn 
bổ sung cho nguồn nhân lực có kỹ thuật cho nền kinh tế để có thể tiếp nhận 
công nghệ ngày càng hiện đại, góp phần nâng cao dần trình độ công nghệ 
và kỹ thuật của nền sản xuất quốc gia. 
Mục tiêu của mọi công cuộc đầu tư là đạt được những kết quả lớn hơn so 
với những hy sinh mà người đầu tư phải gánh chịu khi tiến hành đầu tư. 
Đối với từng cá nhân, đơn vị, đầu tư là điều kiện quyết định sự ra đời, tồn 
tại và tiếp tục phát triển mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ. Đối 
với nền kinh tế, đầu tư là yếu tố quyết định sự phát triển nền sản xuất xã 
hội, là chìa khoá của sự tăng trưởng. 
2. Đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng 
Đổi mới công nghệ và mua sắm thiết bị xây dựng là việc sử dụng các kỹ 
thuật mới, các loại máy móc mới có hiệu quả hơn, thể hiện ở chỗ khối 
lượng và chất lượng sản phẩm tăng lên nhưng số lao động tham gia vào quá 
trình sản xuất vẫn giữ nguyên hoặc ít hơn, hoặc là khối lượng sản phẩm 
vẫn giữ nguyên nhưng tiêu hao lao động ít hơn, đồng thời không làm tăng 
số lượng thiết bị. 
Đầu tư vào công nghệ và máy móc thiết bị theo chiều sâu gắn liền với việc 
đổi mới kỹ thuật, mua sắm mới các thiết bị hiện đại hoàn hảo hơn. Đầu tư 
theo chiều rộng là đầu tư mở rộng quy mô sản xuất, mở rộng việc sử dụng 
máy móc thiết bị với công nghệ và kỹ thuật lặp lại như cũ. 
Đầu tư theo chiều sâu sẽ làm tăng hiệu quả kinh tế tính cho một đồng vốn 
đầu tư nhưng lại đòi hỏi vốn đầu tư cơ bản để mua sắm thiết bị xây dựng và 
công nghệ lớn hơn. Đầu tư theo chiều rộng về cơ bản không làm tăng hiệu 
quả kinh tế tính cho một đồng vốn đầu tư nhưng đòi hỏi vốn đầu tư ban đầu 
bỏ ra ít hơn, phù hợp với hoàn cảnh thiếu vốn. Nhìn về lâu dài, đầu tư theo 
chiều rộng cũng có những tác dụng quan trọng, nhất là ở giai đoạn đầu của 
phát triển kinh tế vì nó cũng tạo ra điều kiện chuẩn bị cho phát triển và đầu 
tư theo chiều sâu. 
 4
Để đầu tư đổi mới công nghệ và máy móc thiết bị xây dựng có thể tiến 
hành một số hình thức đầu tư sau: 
- Thay thế những thiết bị đã lạc hậu về mặt công nghệ và kỹ thuật bằng các 
thiết bị thi công tiến bộ và có hiệu quả cao hơn, có chi phí quy đổi tính cho 
một đơn vị sản phẩm của thiết bị làm ra bé hơn khi so sánh ở giai đoạn lập 
dự án, giai đoạn thiết kế hoặc nhập khẩu máy nhưng chưa chắc đã có chi 
phí quy đổi bé hơn ở khâu sử dụng sau này, bởi vì nó chịu ảnh hưởng của 
nhiều nhân tố có liên quan đến đặc điểm của ngành sản xuất xây dựng và 
nhất là liên quan đến khâu quản lý dự án đầu tư. Vấn đề hiệu quả kinh tế 
của việc đầu tư vào công nghệ và thiết bị xây dựng phụ thuộc vào các điều 
kiện sử dụng cụ thể, gắn liền với quá trình quản lý dự án đầu tư. 
- Tiến hành cải tạo, hiện đại hoá các máy xây dựng hiện có đã lạc hậu. 
- Cải tiến kỹ thuật sử dụng máy và công nghệ xây dựng cơ giới hoá tại các 
công trường xây dựng, các phương án sử dụng máy theo công suất… 
- Cải tiến kỹ thuật trong khâu bảo dưỡng, sửa chữa máy. 
- Đầu tư tăng năng lực thiết bị thi công phục vụ cho chiến lược cạnh tranh, 
chiến lược phát triển của doanh nghiệp 
- Đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng phục vụ cho một dự án cụ 
thể. Thông thường, khi không bị hạn chế về vốn đầu tư và đặc biệt không 
bị chi phối bởi đầu ra của công việc, tức là có điều kiện để thiết bị phát huy 
công suất càng lớn càng tốt thì việc đầu tư thiết bị mới, có công nghệ và kỹ 
thuật mới lẽ dĩ nhiên càng cao càng tốt. 
Khi thiếu vốn đầu tư, thị trường đầu ra bị hạn chế và tình trạng lao động dư 
thừa thì có thể xem xét việc đầu tư vào công nghệ và thiết bị theo hướng 
đầu tư vào thiết bị có công nghệ kỹ thuật cũ, giá thấp vừa đủ cho các loại 
hình công việc và tạo điều kiện cho việc sử dụng lao động thủ công. Ngày 
nay, đối với doanh nghiệp xây dựng cơ sở hạ tầng, do việc sử dụng nhân 
công rất linh hoạt, việc đầu tư vào máy móc và công nghệ phụ thuộc chủ 
yếu vào hai nhân tố: Thị trường công việc và vốn đầu tư. 
 5
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ và 
thiết bị xây dựng trong doanh nghiệp xây dựng 
Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ và 
thiết bị xây dựng, trong đó có thể kể đến các nhân tố chủ yếu sau: 
3.1. Nhân tố thị trường 
 Đây là nhân tố chi phối nhiều nhất tới hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ 
và thiết bị xây dựng, cả trong giai đoạn hiện nay và trong những năm tới. 
Nhân tố thị trường bao gồm: Thị trường công việc, thị trường thiết bị, thị 
trường đối tác…Các nhân tố này có ảnh hưởng đến mục tiêu đổi mới, quy 
mô và tốc độ đổi mới thiết bị ở các doanh nghiệp. Nó có tác động rất lớn 
đến hiệu quả đầu tư. 
3.2.Định hướng phát triển lâu dài và mục tiêu đầu tư của doanh nghiệp 
Đầu tư xây dựng cơ bản nói chung và đầu tư đôỉ mới công nghệ máy móc 
xây dựng nói riêng không phải là một việc làm nhất thời mà là một vấn đề 
có tính chiến lược lâu dài của doanh nghiệp. Bởi vậy đầu tư đổi mới công 
nghệ và thiết bị thi công trước hết là nhằm phục vụ những nhiệm vụ, mục 
tiêu có tính chiến lược của doanh nghiệp. Các nhiêm vụ, mục tiêu đó 
thường được hoạch định trong chiến lược kinh doanh, chiến lược đầu tư và 
chiến lược trang bị kỹ thuật của doanh nghiệp. Trong một chừng mực nhất 
định, mục tiêu nhiệm vụ đó vừa là căn cứ để lập dự án đầu tư, vừa là cơ sở 
để phân tích lựa chọn dự án. Các dự án đầu tư vào công nghệ và máy móc 
thiết bị có thể có các mục tiêu sau: 
+ Cực tiểu chi phí và cực đại lợi nhuận. 
+ Cực đại khối lượng sản phẩm xây dựng. 
+ Đạt được một mức thoả mãn nào đó về hiệu quả tài chính của dự án. 
+ Duy trì sự tồn tại của doanh nghiệp trong tình hình cạnh tranh hay phục 
hồi doanh nghiệp thoát khỏi sự tụt dốc suy thoái. 
+ Nâng cao chất lượng sản phẩm xây dựng và uy tín đối với chủ đầu tư để 
chiếm lĩnh thị trường. 
+ Đầu tư chiều sâu đổi mới công nghệ 
+ Đầu tư để cùng nhà thầu nước ngoài liên doanh nhằm tranh thủ công 
nghệ mới và mở rộng thị trường. 
 6
+ Đầu tư để đảm bảo điều kiện lao động, đảm bảo yêu cầu môi trường… 
3.3. Các đặc điểm của ngành sản xuất xây dựng 
Các nhiệm vụ sản xuất có tính cá biệt và đơn chiếc cao. Cho nên ở giai 
đoạn lập dự án đầu tư mua sắm thiết bị ban đầu, việc lập dự án chỉ có tính 
chất dự báo gần đúng và chưa tính hết đến các đặc điểm cụ thể của công 
trường sau này. Đặc điểm này có thể làm đảo lộn hiệu quả của dự án. Do 
đó để tăng độ chính xác cần phải bổ xung hay xem xét gắn liền với quá 
trình quản lý dự án. 
Điều kiện sản xuất không ổn định, luôn biến động theo địa điểm và giai 
đoạn xây dựng công trình dẫn đến tính chất lưu động của thiết bị thi công. 
Chu kỳ sản xuất thường dài ảnh hưởng lớn đến hiệu quả dự án, nhất là việc 
tính toán huy động vốn và khi thành lập dòng tiền của dự án. 
Tính đơn dụng và đa dụng của máy móc xây dựng. Tuy phân loại thiết bị 
theo chức năng nhưng trong thực tế sản xuất xây dựng có nhiều loại thiết bị 
sử dụng đa năng nên cần phải kết hợp giữa việc lập dự án cho từng loại 
thiết bị và cho tập hợp các thiết bị thi công. Mặt khác, do một thiết bị có 
thể sử dụng vào nhiều loại hình công việc khác nhau, nhiều dự án khác 
nhau nên cần phải chú ý khi tính toán khối lượng sản phẩm trong lập và 
quản lý dự án. 
Đối với ngành xây dựng, khác với các ngành khác, khi lập dự án đầu tư 
máy móc xây dựng, có nhiều trường hợp địa điểm sản xuất chưa được xác 
định, thậm chí có thể ảnh hưởng đến khả năng không có thị trường do thực 
trạng phụ thuộc vào khả năng thắng thầu của doanh nghiệp trong điều kiện 
cạnh tranh gay gắt trên thị trường. 
Thời tiết cũng là một yếu tố tác động mạnh mẽ đến hoạt động sản xuất của 
ngành xây dựng 
3.4. Các giải pháp huy động và sử dụng vốn 
Thông thường giữa vốn tài chính và nhu cầu đầu tư đổi mới công nghệ thiết 
bị xây dựng là mâu thuẫn với nhau. Vốn có hạn, phạm vi lãi suất và các 
điều kiện vay khác nhau, còn nhu cầu đầu tư cho cả chiều rộng lẫn chiều 
sâu đều lớn, nhất là trong điều kiện hiện nay. Mặt khác, thị trường vốn 
 7
vay trong những năm gần đây biến động rất phức tạp và phong phú. Việc 
lựa chọn được giải pháp huy động và sử dụng vốn hợp lý sẽ tạo điều kiện 
cho doanh nghiệp giảm bớt chi phí lãi vay và quay vòng đồng vốn phù 
hợp với điều kiện của doanh nghiệp mình. 
3.5. Thực trạng thiết bị và sức cạnh tranh của doanh nghiệp. 
Ở nước ta, đây cũng là một nhân tố có ảnh hưởng đến đầu tư đổi mới 
công nghệ và thiết bị xây dựng của các công ty xây dựng. Đặc điểm này 
kết hợp với các yêu cầu của hồ sơ thầu, yêu cầu của chủ đầu tư, của kỹ 
sư tư vấn và nhất là đối với các gói thầu thực hiện đấu thầu quốc tế cho 
phép quyết định các giải pháp đầu tư hợp lý nhằm từng bước đổi mới 
thiết bị, tăng khả năng cạnh tranh, phù hợp với thực trạng và chiến lược 
phát triển của doanh nghiệp. 
3.6. Tiến bộ khoa học công nghệ trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng 
Tiến bộ về khoa học công nghệ trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng 
đòi hỏi sự phù hợp của thiết bị thi công về mặt chất lượng, kỹ thuật, 
công nghệ trên cơ sở đáp ứng yêu cầu của chủ đầu tư, năng lực của 
doanh nghiệp và bảo đảm về hiệu quả kinh tế. 
3.7. Nhân tố con người trong hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ và 
thiết bị xây dựng 
Đây là nhân tố rất quan trọng, có ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng 
và hiệu quả công tác lập và quản lý dự án đầu tư đổi mới công nghệ và 
thiết bị thi công của doanh nghiệp xây dựng. Nhân tố con người thể 
hiện trên hai mặt: phẩm chất đạo đức và năng lực trình độ. Trong điều 
kiện xuất phát thấp của nền kinh tế nước ta cộng với sự cạnh tranh gay 
gắt trên thị trường xây dựng cơ sở hạ tầng, nếu không chú trọng đến 
nhân tố này có thể dẫn tới sự sai lệch về mục tiêu cũng như hiệu quả 
đầu tư của doanh nghiệp. 
 8
Có thể tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động đầu tư đổi mới 
công nghệ và thiết bị xây dựng theo sơ đồ sau 
II. KHÁI NIỆM VỀ LẬP VÀ QUẢN LÝ DỰ ÁN ĐẦU TƯ 
1. Khái niệm cơ bản về dự án đầu tư 
Dự án đầu tư có thể xem xét từ nhiều góc độ. Về mặt hình thức, dự án đầu 
tư là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một cách chi tiết và có hệ thống các 
hoạt động và chi phí theo một kế hoạch để đạt được những kết quả và thực 
hiện được những mục tiêu nhất định trong tương lai. 
Trên góc độ quản lý, dự án đầu tư là một công cụ quản lý việc sử dụng vốn, 
vật tư, lao động để tạo ra các kết quả tài chính, kinh tế – xã hội trong một 
thời gian dài. 
Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động đầu tư đổi 
mới công nghệ và thiết bị xây dựng 
Nhân 
tố thị 
trườn
g 
Định 
hướn
g phát 
triển 
và 
mục 
tiêu 
Đặc 
điểm 
sản 
xuất 
ngành 
xây 
dựng 
Giải 
pháp 
huy 
động 
và sử 
dụng 
vốn 
Thực 
trạng 
thiết 
bị và 
sức 
cạnh 
tranh 
Tiến 
bộ 
KHCN 
trong 
xây 
dựng 
cở sở 
Nhân 
tố con 
người 
Công 
việc 
Thiết 
bị 
Đối 
tác 
Đạo 
đức 
Năng 
lực 
 9
Trên góc độ kế hoạch hoá, dự án đầu tư là một công cụ thể hiện kế hoạch 
chi tiết của một công cuộc đầu tư sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế xã 
hội, làm tiền đề cho các quyết định đầu tư và tài trợ. Dự án đầu tư là một 
hoạt động kinh tế riêng biệt nhỏ nhất trong công tác kế hoạch hoá nền kinh 
tế quốc dân nói chung. 
Xét về mặt nội dung, dự án đầu tư là một tập hợp các hoạt động có liên 
quan với nhau được kế hoạch hoá nhằm đạt được các mục tiêu đã định 
bằng việc tạo ra các kết quả cụ thể trong một thời gian nhất định, thông qua 
việc sử dụng các nguồn lực xác định. 
Như vậy một dự án đầu tư bao gồm 4 thành phần chính: 
- Mục tiêu của dự án được thể hiện ở 2 mức: 1/Mục tiêu phát triển là 
những lợi ích kinh tế – xã hội do thực hiện dự án đem lại. 2/ Mục tiêu trước 
mắt là các mục đích cụ thể cần phải đạt được của dự án. 
- Các kết quả: đó là những kết quả cụ thể, có thể định lượng, được tạo 
ra từ các hoạt động khác nhau của dự án. Đây là điều kiện cần thiết để thực 
hiện được các mục tiêu của dự án. 
- Các hoạt động: Là những nhiệm vụ hoặc hành động được thực hiện 
trong dự án để tạo ra những kết quả nhất định. Những nhiệm vụ hoặc hành 
động này cùng với một lịch biểu và trách nhiệm cụ thể của các bộ phận 
thực hiện sẽ tạo thành kế hoạch làm việc của dự án. 
- Các nguồn lực: về vật chất, tài chính và con người cần thiết để tiến 
hành các hoạt động của dự án. Giá trị hoặc chi phí của các nguồn lực này 
chính là vốn đầu tư cần cho dự án. 
Trong 4 thành phần trên thì kết quả được coi là cột mốc đánh dấu tiến độ 
của dự án. Vì vậy, trong quá trình thực hiện dự án phải thường xuyên theo 
dõi đánh giá các kết quả đạt được. Những hoạt động nào có liên quan trực 
tiếp đối với việc tạo ra các kết quả được coi là hoạt động chủ yếu cần phải 
được đặc biệt quan tâm. 
 10
2. Quá trình hình thành và phát triển một dự án đầu tư 
Quá trình hình thành và thực hiện dự án đầu tư trải qua 3 giai đoạn: Chuẩn 
bị đầu tư, thực hiện đầu tư và vận hành các kết quả đầu tư. Các bước công 
việc, các nội dung nghiên cứu ở các giai đoạn được tiến hành tuần tự nhưng 
không biệt lập mà đan xen gối đầu cho nhau, bổ xung cho nhau nhằm nâng 
cao dần mức độ chính xác của các kết quả nghiên cứu và tạo thuận lợi cho 
việc tiến hành nghiên cứu ở các bước kế tiếp. 
Các bước công việc của các giai đoạn hình thành và thực hiện một dự án 
đầu tư có thể được tóm tắt trong bảng sau: 
Chuẩn bị đầu tư Thực hiện đầu tư Vận hành kết quả 
đầu tư 
Nghiên 
cứu 
phát 
hiện 
cơ hội 
đầu tư 
Nghiên 
cứu 
tiền 
khả thi 
sơ bộ 
lựa 
chọn 
dự án 
Nghiên 
cứu 
khả thi 
Đánh 
giá 
và 
quyết 
định 
(thẩm 
định 
dự 
án) 
Hoàn 
tất 
thủ 
tục 
để 
triển 
khai 
thực 
hiện 
đầu 
tư 
Thiết 
kế 
và 
lập 
dự 
toán 
xây 
lắp 
công 
trình 
Thi 
công 
xây 
lắp 
công 
trình 
Chạy 
thử và 
nghiệm 
thu sử 
dụng 
Sử 
dụng 
chưa 
hết 
công 
suất 
Sử 
dụng 
công 
suất 
ở 
mức 
cao 
nhất 
Công 
suất 
giảm 
dần 
và 
thanh 
lý 
Trong 3 giai đoạn trên đây, giai đoạn chuẩn bị đầu tư tạo tiền đề và quyết 
định sự thành công hay thất bại ở giai đoạn sau, đặc biệt là đối với giai 
đoạn vận hành kết quả đầu tư. Do đó, đối với giai đoạn chuẩn bị đầu tư, 
vấn đề chất lượng, vấn đề chính xác của các kết quả nghiên cứu, tính toán 
và dự đoán là quan trọng nhất. Trong quá trình soạn thảo dự án phải dành 
đủ thời gian và chi phí theo đòi hỏi của các nghiên cứu. 
 11
Tổng chi phí cho giai đoạn chuẩn bị đầu tư chiếm từ 0.5 – 15% vốn đầu tư 
của dự án. Làm tốt công tác chuẩn bị đầu tư sẽ tạo tiền đề cho việc sử dụng 
tốt 85 – 99.5% vốn đầu tư của dự án ở giai đoạn thực hiện đầu tư (đúng 
tiến độ, không phải phá đi làm lại, tránh được những chi phí không cần 
thiết khác…). Điều này cũng tạo cơ sở cho quá trình hoạt động của dự án 
được thuận lợi, nhanh chóng thu hồi vốn đầu tư và có lãi (đối với các dự án 
sản xuất kinh doanh), nhanh chóng phát huy hết năng lực dự kiến (đối với 
các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng và dịch vụ xã hội). 
Trong giai đoạn 2, vấn đề thời gian là quan trọng nhất. Ở giai đoạn này, 
vốn đầu tư của dự án được chi ra nằm khê đọng trong suốt những năm thực 
hiện đầu tư. Đây là những năm vốn không sinh lời. Thời gian thực hiện đầu 
tư càng kéo dài, vốn ứ đọng càng nhiều, tổn thất càng lớn, lại thêm những 
tổn thất do thời tiết gây ra đối với vật tư thiết bị chưa hoặc đang được thi 
công, đối với các công trình đang được xây dựng dở dang. Đến lượt mình, 
thời gian thực hiện đầu tư lại phụ thuộc nhiều vào chất lượng công tác 
chuẩn bị đầu tư, vào việc quản lý quá trình thực hiện đầu tư, quản lý việc 
thực hiện những hoạt động khác có liên quan trực tiếp đến các kết quả của 
quá trình thực hiện đầu tư đã được xem xét trong dự án đầu tư. 
Giai đoạn 3: Vận hành các kết quả của giai đoạn thực hiện đầu tư (giai 
đoạn sản xuất kinh doanh dịch vụ) nhằm đạt được các mục tiêu của dự án. 
Nếu các kết quả do giai đoạn thực hiện đầu tư tạo ra đảm bảo tính đồng bộ, 
giá thành thấp, chất lượng tốt, đúng tiến độ, tại địa điểm thích hợp, với quy 
mô tối ưu thì hiệu quả trong hoạt động của các kết quả này và mục tiêu của 
dự án chỉ còn phụ thuộc trực tiếp vào quá trình tổ chức, quản lý hoạt động 
các kết quả đầu tư. Làm tốt các công việc của giai đoạn chuẩn bị đầu tư và 
thực hiện đầu tư tạo thuận lợi cho quá trình tổ chức quản lý phát huy tác 
dụng của các kết quả đầu tư.Thời gian phát huy tác dụng của các kết quả 
đầu tư chính là đời của dự án, nó gắn với đời sống của sản phẩm (do dự án 
tạo ra) trên thị trường 
 12
3. Quản lý dự án đầu tư 
Phương pháp quản lý dự án lần đầu được áp dụng trong lĩnh vực quân sự 
Mỹ vào những năm 50, đến nay nó nhanh chóng được ứng dụng rộng rãi 
vào các lĩnh vực kinh tế, quốc phòng và xã hội. Có hai lực lượng cơ bản 
thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của phương pháp quản lý dự án là: (1) nhu 
cầu ngày càng tăng của những hàng hoá và dịch vụ sản xuất phức tạp, kỹ 
thuật tinh vi trong khi khách hàng càng “khó tính”; (2) kiến thức của con 
người (hiểu biết tự nhiên, xã hội, kinh tế, kỹ thuật) ngày càng tăng. 
Quản lý dự án là quá trình lập kế hoạch, điều phối thời gian, nguồn lực 
và giám sát quá trình phát triển nhằm đảm bảo cho dự án hoàn thành 
đúng thời hạn, trong phạm vi ngân sách được duyệt và đạt được các yêu 
cầu đã định về kỹ thuật và chất lượng sản phẩm dịch vụ, bằng những 
phương pháp và điều kiện tốt nhất cho phép 
Quản lý dự án bao gồm 3 giai đoạn chủ yếu. Đó là việc lập kế hoạch, điều 
phối thực hiện mà nội dung chủ yếu là quản lý tiến độ thời gian, chi phí 
thực hiện và thực hiện giám sát các công việc dự án nhằm đạt được những 
mục tiêu xác định. 
Lập kế hoạch. Đây là giai đoạn xây dựng mục tiêu, xác định những công 
việc cần được hoàn thành, nguồn lực cần thiết để thực hiện dự án và là quá 
trình phát triển một kế hoạch hành động theo trình tự lôgic mà có thể biểu 
diễn dưới dạng sơ đồ hệ thống. 
Điều phối thực hiện dự án. Đây là quá trình phân phối nguồn lực bao gồm 
tiền vốn, lao động, thiết bị và đặc biệt quan trọng là quản lý và điều phối 
tiến độ thời gian. Giai đoạn này chi tiết hoá thời hạn thực hiện cho từng 
công việc và toàn bộ dự án (khi nào bắt đầu, khi nào kết thúc). 
 13
Giám sát là quá trình theo dõi kiểm tra tiến trình dự án, phân tích tình hình 
hoàn thành, giải quyết những vấn đề liên quan và thực hiện báo cáo hiện 
trạng. 
Các giai đoạn của quá trình quản lý dự án hình thành một chu trình năng 
động từ việc lập kế hoạch đến điều phối thực hiện và giám sát, sau đó phản 
hồi cho việc tái lập kế hoạch dự án theo hình sau: 
Hình 1: Chu trình quản lý của dự án 
Quản lý dự án đầu tư bao gồm các nội dung sau: 
3.1- Quản lý vĩ mô và vi mô đối với các dự án 
a. Quản lý vi mô đối với dự án 
Lập kế hoạch 
Thiết lập mục tiêu 
Điều tra nguồn lực 
Xây dựng kế 
hoạch 
Điều phối thực 
hiện 
Điều phối tiến độ 
thời gian 
Phân phối nguồn 
lực 
Giám sát 
Đo lường kết quả 
So sánh với mục 
tiêu 
Báo cáo 
Giải quyết vấn đề 
 14
Quản lý vĩ mô hay quản lý Nhà nước đối với các dự án bao gồm tổng thể các 
biện pháp vĩ mô tác động đến quá trình hình thành, hoạt động và kết thúc dự 
án. 
Trong quá trình triển khai thực hiện dự án, Nhà nước mà đại diện là cơ quan 
quản lý Nhà nước về kinh tế luôn theo dõi chặt chẽ, định hướng và chi phối 
hoạt động của dự án nhằm đảm bảo cho dự án đóng góp tích cực vào việc 
phát triển kinh tế- xã hội. Những công cụ quản lý vĩ mô chính của Nhà nước 
để quản lý dự án bao gồm các chính sách, kế hoạch, quy hoạch như chính 
sách tiền tệ, tỷ giá, lãi suất, chính sách đầu tư, chính sách thuế, hệ thống luật 
pháp, những qui định về chế độ kế toán, thống kê, bảo hiểm, tiền lương,… 
b. Quản lý vi mô đối với hoạt động dự án 
 Quản lý dự án ở tầm vi mô là quá trình quản lý các hoạt động cụ thể của 
dự án. Nó bao gồm nhiều khâu công việc như lập kế hoạch, điều phối, kiểm 
soát,…các hoạt động dự án. Quản lý dự án bao gồm hàng loạt vấn đề như 
quản lý thời gian, chi phí, nguồn vốn đầu tư, rủi ro, quản lý hoạt động mua 
bán,…Quá trình quản lý được thực hiện trong suốt các giai đoạn từ chuẩn 
bị đầu tư, thực hiện đầu tư đến giai đoạn vận hành kết quả của dự án. 
Trong từng giai đoạn, tuy đối tượng quản lý cụ thể có khác nhau nhưng đều 
phải gắn với ba mục tiêu cơ bản của hoạt động quản lý dự án là: thời gian, 
chi phí và kết quả hoàn thành. 
3.2- Lĩnh vực quản lý dự án 
Theo đối tượng quản lý, quản lý dự án bao gồm các nội dung như trong 
bảng dưới. Quản lý dự án bao gồm chín lĩnh vực chính cần được nghiên 
cứu, xem xét ( theo Viện nghiên cứu Quản trị Dự án Quốc tế- PMI) là: 
- Quản lý phạm vi. 
Quản lý phạm vi dự án là việc xác định, giám sát việc thực hiện mục đích, 
mục tiêu của dự án, xác định công việc nào thuộc về dự án và cần phải thực 
hiện, công việc nào ngoài phạm vi của dự án. 
 15
- Quản lý thời gian. 
Quản lý thời gian là việc lập kế hoạch, phân phối và giám sát tiến độ thời 
gian nhằm đảm bảo thời hạn hoàn thành dự án. Nó chỉ rõ mỗi công việc 
kéo dài bao lâu, khi nào bắt đầu khi nào kết thúc và toàn bộ dự án bao giờ 
sẽ hoàn thành. 
- Quản lý chi phí. 
Quản lý chi phí của dự án là quá trình dự toán kinh phí, giám sát thực hiện 
chi phí theo tiến độ cho từng công việc và toàn bộ dự án, là việc tổ chức, 
phân tích số liệu và báo cáo những thông tin về chi phí. 
- Quản lý chất lượng. 
Quản lý chất lượng dự án là quá trình triển khai giám sát những tiêu chuẩn 
chất lượng cho việc thực hiện dự án, đảm bảo chất lượng sản phẩm dự án 
phải đáp ứng mong muốn của chủ đầu tư. 
- Quản lý nhân lực. 
Quản lý nhân lực là việc hướng dẫn, phối hợp những nỗ lực của mọi thành 
viên tham gia dự án vào việc hoàn thành mục tiêu dự án. Nó cho thấy việc 
sử dụng lực lượng lao động của dự án hiệu quả đến mức nào? 
- Quản lý thông tin. 
Quản lý thông tin là quá trình đảm bảo các dòng thông tin thông suốt một 
cách nhanh nhất và chính xác giữa các thành viên dự án và với các cấp 
quản lý khác nhau. Thông qua quản lý thông tin có thể trả lời được các câu 
hỏi: ai cần thông tin về dự án, mức độ chi tiết và các nhà quản lý dự án cần 
báo cáo cho họ bằng cách nào? 
- Quản lý rủi ro. 
Quản lý rủi ro là việc xác định các yếu tố rủi ro của dự án, lượng hoá mức 
độ rủi ro và có kế hoạch đối phó cũng như quản lý từng loại rủi ro. 
 16
- Quản lý hợp đồng và hoạt động mua bán. 
Quản lý hợp đồng và hoạt động mua bán của dự án là quá trình lựa chọn, 
thương lượng và quản lý các hợp đồng và điều hành việc mua bán nguyên 
vật liệu, trang thiết bị, dịch vụ,…cần thiết cho dự án. Quá trình quản lý này 
giải quyết vấn đề: bằng cách nào dự án nhận được hàng hoá và dịch vụ cần 
thiết của các tổ chức bên ngoài cung cấp cho dự án, tiến độ cung, chất 
lượng cung như thế nào. 
- Lập kế hoạch tổng quan. 
Lập kế hoạch tổng quan cho dự án là quá trình tổ chức dự án theo một trình 
tự lôgic, là việc chi tiết hoá các mục tiêu dự án thành những công việc cụ 
thể và hoạch định một chương trình để thực hiện các công việc đó nhằm 
đảm bảo các lĩnh vực quản lý khác nhau của dự án đã được kết hợp một 
cách chính xác và đầy đủ. 
Hình 3 : Các lĩnh vực quản lý của dự án 
 17
III. ĐẶC ĐIỂM, NỘI DUNG CÔNG TÁC LẬP VÀ QUẢN LÝ DỰ ÁN ĐẦU TƯ ĐỔI 
MỚI CÔNG NGHỆ VÀ THIẾT BỊ XÂY DỰNG TRONG DOANH NGHIỆP XÂY 
DỰNG 
1. Nội dung công tác lập dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị 
xây dựng 
Nội dung chủ yếu của báo cáo nghiên cứu khả thi trong dự án đầu tư 
gần đây nhất được quy định trong NĐ 52/1999/NĐ - CP ngày 
8/7/1999 của Chính phủ. Đối với doanh nghiệp xây dựng, nội dung 
Lập kế hoạch 
tổng quan 
* Lập kế hoạch 
* Thực hiện kế 
hoạch 
* Quản lý những 
thay đổi 
Quản lý phạm vi 
* Xác định phạm vi 
* Lập kế hoạch 
phạm vi 
* Quản lý thay đổi 
phạm vi 
Quản lý thời gian 
* Xác định công 
việc 
* Dự tính thời 
gian 
* Quản lý tiến độ 
Quản lý chi phí 
* Lập kế hoạch 
nguồn lực 
* Tính toán chi 
phí 
* Lập dự toán 
* Lập kế hoạch 
Quản lý chất lượng 
* Lập kế hoạch chất 
lượng 
* Đảm bảo chất 
lượng 
* Quản lý chất lượng 
Quản lý nguồn 
lực 
* Lập kế hoạch 
nhân lực 
* Tuyển dụng 
* Phát triển nhóm 
Quản lý thông tin 
*Lập kế hoạch 
quản lý thông tin 
* Phân phối thông 
tin 
* Báo cáo tiến độ 
Quản lý rủi ro dự 
án 
* Xác định rủi ro 
* Chương trình 
quản lý rủi ro 
* Phản ứng với rủi 
ro 
Quản lý hoạt động 
cung ứng 
* Kế hoạch cung 
ứng 
* Lựa chọn nhà cung 
* Quản lý tiến độ 
 18
của dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng có đặc thù 
riêng. 
Thông thường một đời máy ( tuổi thọ sử dụng thiết bị ) hay trong dự 
án đầu tư thường tính toán là thời gian hoàn vốn của thiết bị, phải 
được thực hiện thi công trên nhiều công trình khác nhau, trên các 
địa bàn khác nhau. Mặt khác, đối với doanh nghiệp xây dựng cơ sở 
hạ tầng giao thông, trừ một số loại thiết bị đặc chủng, còn nói chung 
là các thiết bị đa năng, đồng thời các dự án đầu tư thường là được 
lập cho một tập hợp máy xây dựng. Với các điều kiện như vậy, nội 
dung của dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng được 
lập trên cơ sở các nhân tố chung nhất mà không phân chia riêng cho 
từng loại. 
Những nội dung chính của dự án bao gồm : 
1.1. Xác định sự cần thiết phải đầu tư 
 - Xác định thị trường công việc cho cáca thiết bị dự kiến được đầu tư 
 Đây là nội dung quan trọng đầu tiên có ảnh hưởng trực tiếp nhất 
đến mục tiêu và hiệu quả đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây 
dựng. Việc xác định thị trường công việc càng chính xác bao nhiêu 
sẽ tạo tiền đề cho việc quyết định lựa chọn phương án đầu tư hợp lý 
bấy nhiêu. 
Thị trường công việc có khả năng thực hiện bao gồm 
 Các công trình đã ký hợp đồng đang triển khai 
 Các công trình đang đấu thầu hoặc chuẩn bị được nhận thầu. 
Đối với loại này, do chưa đủ nhân tố chắc chắn nên cần phải tiến 
hành phân tích, đánh giá khả năng thắng thầu, trên cơ sở đó xác định 
thị phần có thể nhất. 
 Các công trình dự kiến sẽ tham gia đấu thầu hoặc khi chỉ định 
thầu trong chiến lược sản xuất kinh doanh hàng năm và dài hạn của 
doanh nghiệp. 
Trong thực tiễn việc tính toán thị phần công việc đòi hỏi rất công 
phu, tỷ mỷ, dựa trên việc phân tích nhiều nhân tố có liên quan, đồng 
thời sử dụng tốt nhất công cụ dự báo. Đây là nhân tố có nhiều rủi ro 
 19
nhất cho việc quyết định đầu tư Việc xác định thời gian, tiến độ xây 
dựng, các yêu cầu về chất lượng xây dựng cũng vì vậy được phân 
chia theo từng thị trường công việc. Đối với những công trình đã 
được xác định, việc tính toán rất thuận lợi trên cơ sở yêu cầu, hồ sơ 
của chủ công trình và kỹ sư tư vấn. 
- Xác định số lượng, chủng loại thiết bị đầu tư 
Thực tiễn là thời gian xây dựng các công trình giao thông và cơ sở 
hạ tầng thường dài. Mặt khác một gói thầu xây dựng cơ sở hạ tầng 
lớn yêu cầu nhiều chủng loại thiết bị. Xu hướng hiện nay trừ một số 
thiết bị đặc chủng được lập thành dự án riêng, còn nhìn chung về cơ 
bản một doanh nghiệp thành viên trực thuộc các Tổng công ty phải 
có đủ dây chuyền thiết bị thi công, bao gồm cả thiết bị làm nền, 
móng, mặt đường, xe tải, xe lu…Đối với cấp tổng công ty phải có 
nhiều dây chuyền thiết bị đồng bộ để có thể triển khai một lúc nhiều 
công trình. Vì vậy việc tính toán nhu cầu đầu tư cho từng thời kỳ, 
hay là xác định số lượng, chủng loại thiết bị trong dự án đầu tư phải 
dựa vào các căn cứ, trong đó căn cứ quan trọng nhất là việc lập bảng 
cân đối nhu cầu đầu tư thiết bị thi công. Việc xác định nhu cầu đầu 
tư cần phải được dựa trên các cơ sở sau : 
 Số lượng, chủng loại thiết bị hiện có cho từng loại thiết bị 
 Nhu cầu đầu tư về số lượng, chủng loại cho từng loại thiết bị 
( trên cơ sở nghiên cứu thị trường xây dựng và căn cứ vào chỉ tiêu, 
năng suất thiết bị thi công và các phương án sử dụng máy ). 
Xác định số thiết bị cần đầu tư theo công thức : 
M t = Mc – ( Mhc – Mđ ) 
Trong đó : 
M t : Số thiết bị cần đầu tư cho loại thiết bị thứ t 
Mc : Số thiết bị cần cho các công trình xây dựng của doanh 
nghiệp trong khoảng thời hạn khấu hao tính toán khi lập dự án. 
Mhc : Số thiết bị hiện có của loại thiết bị t. 
Mđ : Số thiết bị dự kiến đào thải bình quân trong kỳ của thiết 
bị thứ t 
 20
- Khả năng cung cấp máy xây dựng của thị trường bao gồm 
 Các nguồn và các nước cung cấp thiết bị, chủng loại, mẫu mã máy. 
 Trình độ kỹ thuật, đặc tính sử dụng, hiệu quả kinh tế, giá cả. 
 Điều kiện mua bán và thanh toán 
 Khả năng thuê thiết bị 
- Các điều kiện thuận lợi và khó khăn 
 Bao gồm các vấn đề 
 Cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ thiết bị hoạt động (đường giao 
thông, điện, chất đốt, cơ sở sửa chữa, khả năng cung cấp phụ tùng 
thay thế…) 
 Các điều kiện tự nhiên về thời tiết, địa chất, thuỷ văn, nhất là 
ở các công trường xây dựng dự kiến cho thiết bị thực hiện. 
 Các điều kiện về nguyên vật liệu xây dựng có liên quan đến 
thiết bị phải vận chuyển hay chế biến. 
Cuối cùng là kết luận sơ bộ về hiệu quả và sự cần thiết phải đầu tư 
1.2. Lựa chọn hình thức đầu tư 
 - Lựa chọn hình thức huy động vốn để tự kinh doanh hay liên 
doanh. 
 - So sánh giữa phương án mua sắm và đi thuê. 
 - So sánh giữa phương án cải tạo nâng cấp máy hiện có và mua mới. 
 - So sánh giữa mua máy móc công nghệ nước ngoài và máy nội địa 
giữa các thị trường trong nước, nước ngoài với nhau. 
 - So sánh giữa thiết bị cũ với thiết bị mới trên cơ sở lựa chọn đời 
thiết bị phù hợp. 
 - Lựa chọn giữa đấu thầu rộng rãi hay chào hàng cạnh tranh.. 
1.3. Lựa chọn công suất, phương án sản phẩm, giải pháp kỹ thuật và 
công nghệ của thiết bị 
- Xác định công suất của thiết bị 
Căn cứ để xác định công suất của thiết bị là tính chất và khối lượng 
công việc hàng năm của thiết bị phải thực hiện theo dự báo, khả 
năng cung cấp máy móc phù hợp với công suất định chọn, khả năng 
 21
về vốn, tính toán hiệu quả kinh tế, trình độ tập trung và quy mô các 
công trường xây dựng theo dự báo ( nếu độ xa chuyên chở lớn, quy 
mô các công trường nhỏ và phân tán theo lãnh thổ thì máy có quy 
mô lớn không có lợi). 
Các loại công suất của thiết bị dự kiến, bao gồm công suất tối dự án, 
công suất tính toán (có tính đến một độ an toàn nhất định của doanh 
thu hàng năm, sản lượng hoà vốn). 
- Xác định phương án sản phẩm của thiết bị 
 Lựa chọn thiết bị dự án năng hay thiết bị đặc chủng. 
 Khả năng thực hiện các công việc xây dựng với một chất lượng nhất định 
 Công việc chính và phụ của thiết bị 
 Thiết bị đầu tư mới hay đã qua sử dụng 
- Xác định giải pháp kỹ thuật và công nghệ của thiết bị 
 Xác định trình độ hiện đại của thiết bị phù hợp (nguyên lý tĩnh 
hay chấn động, cơ cấu thuỷ lực hau cơ cấu cơ học bình thường, cơ 
cấu di chuyển bánh xích hay bánh hơi, loại chất đốt, hoạt động liên 
tục hay chu kỳ. Thiết bị của các nước công nghệ tiên tiến hay các 
nước đang phát triển hoặc trong nước sản xuất…) 
 Xác định công nghệ sử dụng thiết bị, bao gồm việc phối hợp 
giữa máy móc, con người và đối tượng lao động theo trình tự thời 
gian và không gian khi thực hiện công việc xây dựng. 
 Xác định một số chỉ tiêu cơ bản như: Mức độ tự động hóa, độ 
dài chu kỳ công nghệ, hệ số sử dụng nguyên liệu xuất phát, thế hệ 
kỹ thuật, độ linh hoạt, chất lượng và phế phẩm, an toàn và cải thiện 
điều kiện lao động, bảo vệ môi trường, độ bền chắc và độ tin cậy, 
mức độ nhiệt đới hoá… 
 Xác định nhu cầu về thiết bị phục vụ và phụ tùng thay thế kèm 
theo khi tháo lắp và chuyên chở thiết bị 
1.4. Dự báo các đặc điểm sử dụng thiết bị 
Bao gồm các vấn đề 
 22
- Dự báo các loại công trường xây dựng mà thiết bị có thể tham gia 
khi thực hiện sau này, dựa trên các điều kiện tự nhiên của công 
trường và tình trạng cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ thiết bị. 
- Xác định loại quy mô công trường và độ xa chuyên chở thiết bị thi 
công đến công trường phù hợp nhất với loại thiết bị được đầu tư. 
- Xác định các yêu cầu kỹ thuật công nghệ thi công, các tiêu chuẩn 
về thiết bị do chủ đầu tư, kỹ sư tư vấn yêu cầu trong hồ sơ dự thầu 
đối với các gói thầu xây dựng giao thông đã có địa điểm hoặc chuẩn 
bị tham gia đấu thầu. 
1.5. Phương án tổ chức quản lý và lao động phục vụ thiết bị 
Bao gồm các vấn đề chủ yếu sau 
- Xác định hình thức tổ chức sử dụng thiết bị (chuyên môn hoá hay 
sử dụng hỗn hợp, sử dụng phân tán hay tập trung), nghiên cứu về bộ 
máy quản lý nếu có… 
- Xác định biên chế công nhân vận hành máy và nhu cầu lao động 
khi tháo lắp hoặc di chuyển thiết bị. 
1.6. Phân tích đánh giá tài chính, kinh tế – xã hội của dự án 
- Xác định các số liệu để phân tích, đánh giá dự án 
 Các số liệu chính gồm có 
 Vốn đầu tư mua sắm, tuổi thọ hay thời hạn khấu hao và dự 
kiến giá trị thu hồi khi đào thải máy. 
 Xác định một số vốn lưu động cần thiết để máy hoạt động, chủ 
yếu là dự trữ phụ tùng thay thế và nhiên liệu. 
 Chi phí sử dụng máy hàng năm dựa trên khối lượng công việc 
xây dựng của máy dự kiến. 
 Chi phí vận hành máy hàng năm (không tính khấu hao). 
 Doanh thu hàng năm của máy. 
 Khấu hao cơ bản và các khoản trừ dần. 
 Tiến độ vay vốn, trả nợ gốc và lãi. 
 Tiền nộp thuế và lệ phí hàng năm. 
 23
 Xác định hiệu số giữa doanh thu và chi phí vận hành không có 
khấu hao. 
 Xác định suất thu lợi tối thiểu có thể chấp nhận được. 
 Lập dòng tiền (CFi) của dự án 
- Phân tích tài chính dự án 
Phân tích tài chính là chủ yếu phân tích xem khả năng sinh lợi của 
đồng vốn đầu tư cũng như sự cân bằng tài chính của một doanh 
nghiệp chịu trách nhiệm chính của dự án. Phân tích tài chính là bước 
chuẩn bị cho phân tích kinh tế. Thông thường được tiến hành theo 
hai bước : sơ bộ và chi tiết 
Phân tích tài chính sơ bộ 
Có các nội dung chính sau 
 Phân tích các khoản thu được bằng tiền như doanh thu, tiền 
cho thuê, các khoản thu khác… 
 Phân tích các khoản chi phí tính được bằng tiền của dự án như : 
Giá mua thiết bị, chi phí giao dịch, chi phí trong khâu sử dụng… 
 Lựa chọn lãi suất (r) và năm cơ bản 
 Phân tích các chỉ tiêu hiệu quả. 
 Phân tích độ nhạy của dự án, thực chất là tính tới các rủi ro 
thường gặp như rủi ro kỹ thuật ( thiếu thông tin để phân tích trình 
độ kỹ thuật của thiết bị, lựa chọn thiết bị không chính xác…), rủi ro 
kinh tế ( lạm phát tăng làm tăng giá thiết bị, lãi suất tăng…), rủi ro 
thương mai (không trúng thầu, giảm khách hàng, dự báo không 
chính xác nhu cầu…) 
Phân tích tài chính chi tiết 
Được tiến hành ở bước lập báo cáo khả thi. 
Nội dung được phân tích theo những tiêu chí như ở bước phân tích 
sơ bộ nhưng mức độ chi tiết và chính xác cao hơn. Ngoài ra còn làm 
rõ hơn 
 Xác định dòng tiền trước khi nộp thuế và trả nợ 
 Xác định dòng tiền sau khi nộp thuế và trả nợ (cả vốn lẫn lãi) 
Các chỉ tiêu hiệu quả trong phân tích tài chính 
 24
Bao gồm một số chỉ tiêu cơ bản sau 
 Chỉ tiêu thu nhập thuần của dự án (NPV) 
Thu nhập thuần của dự án là thu nhập còn lại sau khi đã trừ dần các 
khoản chi phí của cả đời dự án. Chỉ tiêu này không chỉ bao gồm 
tổng lợi nhuận thuần hàng năm của cả đời dự án mà còn bao gồm cả 
giá trị thu hồi thanh lý tài sản cố định ở cuối đời dự án và các khoản 
thu hồi khác. Nó được xác định theo công thức : 
NPV = 
   
n n
i i
i i
i 0 i 0
B C
1 r 1 r 
 
  
Trong đó : 
Bi : Khoản thu của năm i (doanh thu thuần năm i, giá trị thanh lý tài 
sản cố định, vốn lưu động bỏ ra ban đầu và được thu về cuối đời dự 
án) 
Ci : Khoản chi phí năm i (không bao gồm khấu hao) 
n : Số năm hoạt động của đời dự án 
r : Tỷ suất chiết khấu được chọn. 
 Hệ số hoàn vốn nội bộ (IRR) 
Hệ số hoàn vốn nội bộ là mức lãi suất nếu dùng nó làm hệ số chiết 
khấu để tính chuyển các khoản thu chi của dự án về mặt bằng hiện 
tại thì tổng thu sẽ cân bằng với tổng chi, tức là : 
   
n n
i ii i
i 0 i 0
1 1
B C
1 IRR 1 IRR 
 
  
IRR cho biết mức lãi suất mà dự án có thể đạt được. Dự án được 
chấp nhận khi IRR>r giới hạn. Dự án không được chấp nhận khi 
IRR< r giới hạn. Trong đó r giới hạn có thể là mức lãi suất đi vay 
nếu dự án đi vay vốn để đầu tư, có thể là tỷ suất lợi nhuận định mức 
do nhà nước quy định nếu sử dụng vốn do ngân sách nhà nước cấp, 
có thể là chi phí cơ hội nếu dự án sử dụng vốn tự có để đầu tư. 
 Thời gian thu hồi vốn đầu tư (T) 
 25
Thời gian thu hồi vốn đầu tư là số thời gian cần thiết để dự án hoạt 
động thu hồi đủ số vốn đầu tư đã bỏ ra. Nó chính là khoảng thời 
gian để hoàn trả số vốn đầu tư ban đầu bằng các khoản lợi nhuận 
thuần hoặc tổng lợi nhuận thuần hàng năm. 
Thời gian thu hồi vốn đầu tư được xác định như sau 
- Phương pháp cộng dồn 
  
T
0i
i 1
W D Iv
  
Trong đó: 
 T: Năm thu hồi vốn đầu tư; 
(W + D) i: là khoản thu hồi lợi nhuận thuần và khấu hao năm i. 
Iv0 là tổng vốn đầu tư ban đầu. 
- Phương pháp trừ dần : 
 IvT - (W + Đ)T   0 
Ngoài các chỉ tiêu trên, phân tích tài chính dự án đầu tư còn có thể 
xem xét các chỉ tiêu khác như Tỷ lệ lợi ích trên chi phí (B/C), điểm 
hoà vốn và các chỉ tiêu đánh giá mức độ an toàn về mặt tài chính 
của dự án đầu tư. 
1.7. Phân tích kinh tế – xã hội của dự án đầu tư 
 Nội dung chính bao gồm 
- Xác định ảnh hưởng của dự án đối với bản thân doanh nghiệp và 
đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. 
- Xác định lợi ích kinh tế và chi phí kinh tế của dự án. 
Trong thực tế, người ta thường áp dụng phương pháp dự án chỉ tiêu 
để phân tích kinh tế – xã hội của dự án. Đây là phương pháp mà các 
chỉ tiêu được sử dụng có thể không định lượng được bằng tiền. Các 
chỉ tiêu đó có thể được phân nhóm thành. 
 Các chỉ tiêu về mặt kinh tế 
 Các chỉ tiêu về mặt môi trường 
 Các chỉ tiêu về mặt văn hoá - xã hội 
Ngoài ra còn có những chỉ tiêu khác cần phân tích do yêu cầu của 
chủ đầu tư. Đối với doanh nghiệp xây dựng, một số chỉ tiêu được 
 26
dùng như : Mức độ tăng khả năng cạnh tranh trong đấu thầu, tăng 
khả năng thắng thầu, đẩy nhanh tiến độ thi công công trình, cải 
thiện điều kiện lao động, nâng cao thu nhập… 
Để đánh giá mức độ tác động của các chỉ tiêu, người ta có thể dùng 
cách cho điểm với xác định trọng số của từng loại chỉ tiêu. Xác định 
thang điểm 10 (hoặc 100), xác định tiêu chuẩn để cho điểm. Phương 
án được lựa chọn là phương án có tổng điểm cao nhất. 
2. Nội dung công tác quản lý dự án đầu tư đôỉ mới công nghệ và thiết 
bị xây dựng 
Nội dung công tác quản lý dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết 
bị xây dựng bao gồm những nội dung chủ yếu sau 
2.1. Quản lý thời gian 
Đối với dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng, việc 
quản lý được thực hiện trên hai giai đoạn 
 Giai đoạn 1 : Giai đoạn quản lý thời gian mua sắm. 
 Giai đoạn 2 : Giai đoạn quản lý sử dụng máy trong tuổi thọ tính toán 
của dự án. 
Để việc quản lý được thuận lợi, có thể tổng hợp theo các bước sau trong 
cả hai giai đoạn : 
 Bước 1 : Xác định một bảng tiến độ mang tính hiện thực (phương 
pháp sơ đồ mạng). Bước này bao gồm các công việc sau : Xác định các 
mối quan hệ, đường Găng, xác định các mốc chính, tính thời gian hoàn 
thành. Trong bước này cần đặc biệt chú ý tìm hiểu về tính năng, tác dụng 
của thiết bị, nắm được nội dung của dự án, nắm được yêu cầu đầu vào, 
năng lực sẵn có, kinh nghiệm. 
 Bước 2 : Kiểm soát tiến độ 
 Bước 3 : Đưa ra những điều chỉnh thích hợp khi không đạt được tiến 
độ 
Trong giai đoạn 1, yếu tố ảnh hưởng đến đường Găng là thời điểm phải 
đưa thiết bị vào hoạt động theo yêu cầu thi công công trình và lãi suất vốn 
đầu tư. Đối với các thiết bị có tính cơ động cao, không phụ thuộc vào 
 27
công tác lắp đặt, công tác quản lý thời gian đơn giản hơn, nhưng đối với 
các thiết bị đặc chủng như trạm trộn bê tông asphalt, hệ thống nghiền sàng 
đá, các thiết bị thi công cầu, hầm thì phải chú trọng hơn đến hoạt động 
quản lý nhằm đảm bảo tiến độ và tiết kiệm chi phí. 
Trong giai đoạn 2, việc quản lý thời gian phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nó 
chính là việc quản lý hệ số sử dụng thiết bị. 
Hệ số sử dụng thiết bị  = 
 số ca hoạt động trong năm 
365 
Trong thực tế hệ số sử dụng thiết bị phụ thuộc vào 2 yếu tố chính là 
thị trường công việc và sơ đồ bố trí sử dụng thiết bị trên công trường. 
2.2. Quản lý chi phí 
Đối với dự án đầu tư thiết bị, việc quản lý chi phí bao gồm 2 giai đoạn : 
 Giai đoạn đầu tư mua sắm 
 Giai đoạn sử dụng thiết bị 
Trong cả hai giai đoạn, các yếu tố chi phí cần quản lý bao gồm 
 Xác định ngân sách, trong đó xác định rõ yêu cầu về vốn, nguồn 
vốn, tiến độ cấp vốn. 
 Kiểm soát chi phí bao gồm : Cho phí mua sắm lắp đặt, chi phí quản 
lý thi công. Đối với chi phí mua sắm phải chú trọng kiểm tra chi phí ở các 
mốc chính, kiểm soát chi phí dự kiến, kiểm soát thay đổi các chi phí. Đối 
với chi phí quản lý thi công phải chú trọng chi phí khấu hao, chi phí 
nguyên vật liệu động lực, chi phí sửa chữa lớn, thường xuyên, chi phí 
quản lý… 
Việc quản lý chặt chẽ yếu tố chi phí trong quá trình sử dụng thiết bị sẽ 
bảo đảm cho việc giảm rủi ro trong thực thi các mục tiêu của dự án đề ra 
ban đầu. 
2.3. Quản lý chất lượng 
- Mục đích của quản lý chất lượng 
Chất lượng thiết bị thi công được đầu tư là một yếu tố rất quan trọng ảnh 
hưởng đến hiệu quả đầu tư, nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi mà thị 
trường thiết bị thi công rất đa dạng, phức tạp, trong đó thị trường thiết bị 
 28
đã qua sử dụng chiếm tới 50 – 60% thị phần do khả năng vốn đầu tư có 
hạn và đặc biệt là do ảnh hưởng của đấu thầu cạnh tranh trong lĩnh vực 
xây dựng cơ sở hạ tầng. Do vậy mục đích của công tác quản lý dự án đầu 
tư mua sắm máy thi công nhằm : 
 Đáp ứng yêu cầu của chủ đầu tư 
 Đạt được mục tiêu của dự án 
 Được quản lý trong suốt quá trình thực hiện dự án 
- Nội dung quản lý chất lượng 
Lập kế hoạch đảm bảo chất lượng. Khi lập kế hoạch đảm bảo chất lượng 
cần xác định rõ các yêu cầu và tiêu chuẩn áp dụng, xây dựng quy trình 
quản lý chất lượng thiết bị cụ thể. Do đặc thù của ngành xây dựng, một 
công trình có thể cùng lúc sử dụng sản phẩm là một dự án hoặc một tập 
hợp dự án, hoặc cũng có thể một dự án đầu tư là một tập hợp thiết bị lại 
được sử dụng cho nhiều dự án công trình xây dựng khác nhau, do đó khi 
lập kế hoạch đảm bảo chất lượng cần chú ý : 
- Lập kế hoạch chi tiết cho từng dự án cụ thể, từng thiết bị cụ thể. 
 Lập kế hoạch quản lý chất lượng cho cả giai đoạn mua sắm và giai đoạn 
vận hành sử dụng. 
Kế hoạch phải dễ hiểu cho tất cả mọi người, từ nhà quản lý, kỹ sư đến các 
công nhân kỹ thuật, vận hành sử dụng thiết bị 
Kế hoạch quản lý phải dễ thực thi phù hợp với điều kiện thực tiễn của 
doanh nghiệp. 
Khi lập kế hoạch quản lý chất lượng cần phải xác định : 
 Mức độ yêu cầu về chất lượng của dự án 
 Các phương pháp đảm bảo chất lượng được thực hiện trong quá trình 
mua sắm và sử dụng thiết bị. 
 29
 Trách nhiệm của công việc kiểm tra quản lý chất lượng từ cấp Tổng 
công ty, các doanh nghiệp thành viên, đội sản xuất cho đến người trực 
tiếp vận hành. 
 Cơ chế kiểm tra chất lượng. 
- Kiểm soát chất lượng : 
Mục đích của kiểm soát chất lượng là thỏa mãn yêu cầu của chủ đầu tư và 
các mục tiêu của dự án. Việc kiểm soát chất lượng trong giai đoạn này 
nhờ vào nội dung hoạt động thẩm định giá thiết bị, trong đó quan trọng 
nhất là : 
 Trình độ và khả năng của các kỹ sư chuyên gia về lĩnh vực kỹ thuật, sử 
dụng thiết bị của doanh nghiệp. 
 Có bộ phận kiểm tra, giám sát từng giai đoạn chính của hoạt động mua 
sắm, lắp đặt, vận hành, chạy thử… 
 Kiểm soát chất lượng trong quá trình sử dụng thiết bị… 
Mục đích của công tác này là đảm bảo cho việc sử dụng thiết bị đúng 
tiến độ trong dự án đặt ra. Một yếu tố quan trọng trong nội dung này là 
đảm bảo được hệ số sử dụng thiết bị 
Hệ số sử dụng thiết bị  = 
 ngày trung bình tốt trong năm 
365 
Đạt được mục đích này phải dựa vào : 
 Trình độ và năng lực của kỹ sư, công nhân vận hành thiết bị 
 Sự hợp tác chặt chẽ của nhà cung cấp 
 Quá trình giám sát kỹ thuật trên công trường 
 Tổ chức việc sửa chữa bảo dưỡng thiết bị 
- Hệ thống quản lý chất lượng thiết bị của doanh nghiệp xây dựng. 
Mỗi tổ chức tham gia dự án phải quản lý chất lượng phần việc của tổ chức 
mình theo một cách riêng tuân thủ theo nguyên tắc : 
 Chất lượng phải được đảm bảo bằng hệ thống quản lý chất lượng. 
 30
 Hệ thống quản lý chất lượng phải đảm bảo tính pháp lý thể hiện thông 
qua các văn bản thủ tục nhằm đảm bảo cho các sản phẩm đầu ra đáp ứng 
được yêu cầu chất lượng. Đối với các doanh nghiệp xây dựng, hệ thống 
quản lý chất lượng được tổ chức thống nhất từ Tổng công ty cho đến các 
doanh nghiệp thành viên và đội sản xuất. 
 Hệ thống quản lý chất lượng được kiểm tra một cách độc lập dựa trên 
các tiêu chuẩn trong nước và quốc tế, nhất là thoả mãn tiêu chuẩn của 
chủ đầu tư và tư vấn giám sát các gói thầu. 
1.4. Quản lý rủi ro 
 Sơ đồ : Mô tả các khả năng rủi ro trong đầu tư 
Giai đoạn lập dự án 
Dự án 
không 
được 
phê 
duyệt 
Thông 
tin 
kém 
chất 
lượng 
Chậm 
trễ do 
các yếu 
tố khách 
quan 
Tranh 
chấp 
hợp 
đồng 
Khả 
năng 
huy 
động 
vốn 
Phá 
sản 
khủng 
hoảng 
kinh tế 
Đánh 
giá 
không 
đúng thị 
trường 
Năng 
lực lập 
dự án 
Giai đoạn quản l ý dự án 
Chất 
lượng 
sản 
phẩm 
Thời 
tiết 
Quá 
trình 
vận 
dụng 
thiết bị 
Thị 
trườn
g 
công 
việc 
Trượ
t giá 
Tác 
động 
của 
cạnh 
tranh 
Hệ số 
sử 
dụng 
Năng 
lực 
quản l ý 
dự án 
 31
Đặc điểm của dự án đầu tư mua sắm thiết bị xây dựng cùng với những đặc 
điểm của ngành xây dựng là luôn luôn biến động, chịu tác động của nhiều 
yếu tố khách quan. Đặc trưng của dự án là có nhiều thành phần, nhiều bộ 
phận với các kỹ năng là lợi ích khác nhau, cùng tham gia vào các hoạt 
động để thực hiện dự án. Quá trình đó gồm nhiều yếu tố không kiểm soát 
được gọi là những yếu tố rủi ro. Vì vậy một trong những mục tiêu của 
quản lý dự án là phải dự đoán được những rủi ro và đề xuất các biện pháp 
dự phòng nhằm giảm nhẹ hoặc ngăn chặn rủi ro có thể xảy ra. 
- Những quá trình cơ bản của quản lý rủi ro 
 Xác định những khả năng rủi ro có thể xảy ra 
 Đánh giá ảnh hưởng và phân loại các rủi ro 
 Lựa chọn và thực hiện các biện pháp phù hợp để giảm nhẹ rủi ro 
Rủi ro có thể xảy ra trong tất cả các giai đoạn. từ khi lập dự án cho đến 
khi kết thúc dự án. 
- Những khả năng có thể kiểm soát 
Nhìn chung không thể loại bỏ rủi ro mà chỉ có thể hạn chể rủi ro xuống 
mức thấp nhất để có được hiệu quả trong triển khai dự án. Những khả 
năng có thể kiểm soát gồm. 
 Tiến hành khảo sát kỹ hơn thông qua việc nâng cao chất lượng thông 
tin 
 Gắn việc lập và quản lý dự án đầu tư với nhau làm cho sự gần nhau 
vêd các nội dung chỉ tiêu càng lớn càng tốt 
 Tiến hành thí nghiệm các giải pháp dự phòng, có kế hoạch khắc 
phục các sự cố và nâng cao vai trò của hệ thống quản lý chất lượng. 
 32
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC LẬP VÀ QUẢN 
LÝ DỰ ÁN ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ VÀ THIẾT BỊ 
XÂY DỰNG TẠI CÔNG TY TƯ VẤN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG 
GIAO THÔNG CÔNG CHÍNH HÀ NỘI 
I. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CỦA CÔNG TY TƯ VẤN ĐẦU TƯ VÀ XÂY 
DỰNG GIAO THÔNG CÔNG CHÍNH HÀ NỘI 
1. Đôi nét về quá trình hình thành và phát triển của Công ty 
Công ty Tư vấn Đầu tư và Xây dựng GTCC Hà Nội (tên giao dịch quốc tế 
là CCIC ) là doanh nghiệp Nhà nước loại I, được thành lập theo quyết định 
số 702/QĐUB, ngày 31 tháng 5 năm 1996 của Uỷ ban nhân dân thành phố 
Hà Nội, trên cơ sở đổi tên và bổ sung nhiệm vụ cho Công ty khảo sát thiết 
kế GTCC Hà Nội ( tên cũ của công ty). 
- Chứng chỉ hành nghề tư vấn xây dựng số 254/BXD – CSXD do Bộ 
Xây dựng cấp ngày 11 tháng 12 năm 1998. 
- Đăng ký kinh doanh số 100637, 305688 và 305689 do Uỷ ban kế 
hoạch ( Sở Kế hoạch và đầu tư ) thành phố Hà Nội cấp ngày 13 tháng 4 
năm 1995 và ngày 16 tháng 9 năm 1995. 
- Công ty bao gồm 2 xí nghiệp trực thuộc là xí nghiệp xây lắp và xí 
nghiệp khảo sát và 8 đội sản xuất, mỗi xí nghiệp có một giám đốc và một 
phó giám đốc; mỗi đội sản xuất đều có đội trưởng để điều hành đội sản 
xuất. Cả hai xí nghiệp trực thuộc được phép hạch toán độc lập, có con dấu 
riêng, có tài khoản tại ngân hàng. Các đơn vị trực thuộc vẫn phải gửi hoá 
đơn lên để công ty hoạch toán. 
Quy định cụ thể về việc sử dụng tài khoản của hai xí nghiệp như sau: 
- Xí nghiệp xây lắp: 
+ Đối với những hợp đồng kinh tế về tư vấn, khảo sát – thiết kế: Giám đốc 
công ty ký hợp đồng với chủ đầu tư bằng tài khoản thu chi của công ty và 
 33
hạch toán đối với xí nghiệp xây lắp theo đúng quy chế hạch toán và khoán 
sản phẩm nội bộ ban hành ngày 5 tháng 4 năm 1999. 
+ Đối với những hợp đồng kinh tế về thi công xây lắp: Giám đốc công ty 
uỷ quyền cho Giám đốc Xí nghiệp xây lắp ký hợp đồng với chủ đầu tư 
bằng tài khoản của xí nghiệp. Xí nghiệp tự hạch toán, làm nhiệm vụ đối với 
Nhà nước và thực hiện trách nhiệm tài chính đối với Công ty theo quy chế 
ban hành ngày 5 tháng 4 năm 1999. 
Trong trường hợp chủ đầu tư yêu cầu phải sử dụng tài khoản của công ty 
trong hợp đồng kinh tế thì Giám đốc uỷ quyền cho Giám đốc Xí nghiệp sử 
dụng tài khoản của Công ty để thanh toán, quyết toán với chủ đầu tư. 
- Xí nghiệp khảo sát 
+ Đối với những công trình được giao theo Kế hoạch Pháp lệnh ( A1) và 
các công trình do công ty tự khai thác ( A2): Giám đốc công ty trực tiếp ký 
hợp đồng với chủ đầu tư bằng tài khoản của Công ty. Xí nghiệp khảo sát 
thực hiện nhiệm vụ sản xuất theo đúng phiếu giao việc của Công ty. Việc 
hạch toán và phân bổ lợi ích với Xí nghiệp được thực hiện theo đúng quy 
chế đã ban hành ngày 5 tháng 2 năm 1999. 
+ Đối với công trình do xí nghiệp tự khai thác ( A3): Giám đốc công ty uỷ 
quyền cho giám đốc Xí nghiệp khảo sát ký hợp đồng trực tiếp với chủ đầu 
tư bằng khoản thu của Xí nghiệp. Xí nghiệp tự hạch toán, làm nhiệm vụ đối 
với nhà nước và thực hiện trách nhiệm tài chính đối với Công ty theo quy 
chế ban hành ngày 14 tháng 4 năm 1999. 
Cả hai xí nghiệp đều có bộ phận nghiệp vụ chuyên ngành kế hoạch nghiệp 
vụ để giúp Giám đốc Xí nghiệp quản lý hạch toán theo chế độ chính sách 
hiện hành cũng như các quy định của Công ty. Các xí nghiệp phải làm văn 
bản báo cáo định kỳ hàng tháng và hàng quý tình hình thu – chi theo 
nghiệp vụ quản lý tài chính của đơn vị cho phòng Tài vụ của Công ty để 
tổng hợp thành báo cáo chung trình các cơ quan quản lý doanh nghiệp. 
Các khoản chi phí để duyệt đề cương, hội họp, duyệt quyết toán về các nội 
dung khảo sát trong Hợp đồng kinh tế đối với các công trình A1, A2 đều do 
Công ty thực hiện. Khi quyết toán công trình, phòng Tài vụ lập báo cáo 
tổng hợp các chi phí sản xuất, trình Giám đốc công ty xem xét để xác định 
phần trách nhiệm của Xí nghiệp khảo sát theo nguyên tắc “Các chi phí sản 
xuất được phân bổ theo tỷ trọng giá trị mà chủ đầu tư thanh toán cho tư 
vấn, thiết kế và cho khảo sát”. Đối với các công trình lớn, phòng tài vụ và 
phòng kế hoạch – kỹ thuật cần hạch toán đầy đủ các khoản Chi phí trong 
 34
quá trình thực hiện Hợp đồng kinh tế để phân bổ trách nhiệm đóng góp một 
cách hợp lý cho các đơn vị tham gia. 
2. Thực trạng tình hình đầu tư ở Công ty Tư vấn Đầu tư và Xây dựng 
GIAO THÔNG CÔNG CHÍNH Hà Nội 
Trong thời gian qua, với xu thế hội nhập quốc tế, các doanh nghiệp Việt 
Nam nói chung và tại Công ty Tư vấn Đầu tư Xây dựng GTCC đã nhận 
thức được rằng để nâng tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp và xây dựng, 
để khai thác triệt để các tiềm năng sẵn có, tạo điều kiện phát triển vốn với 
chủ trương phát triển sản xuất kinh doanh thì không thể không có các hoạt 
động đầu tư. Do đó, trong những năm gần đây, công ty đã tiến hành đầu tư 
vào các lĩnh vực sau: 
- Đầu tư xây dựng cơ bản. 
- Đầu tư vào công nghệ và thiết bị xây dựng 
- Đầu tư vào nguồn nhân lực. 
Biểu 1 : Tình hình đầu tư của công ty trong những năm qua. 
Năm Đơn vị 1997 1998 1999 2000 2001 2002 
TổngmứcVĐT Triệu 
đồng 
8434 7984 13285 19801 13857 11028 
VĐT XDCB - 900 1520 2400 1236 870 724 
VĐT CN & 
thiết bị XD 
- 7500 6400 10800 18400 12800 10100 
VĐT nhân lực - 34 64 85 165 187 204 
Tốc độ phát 
triển liên hoàn 
% - 94.66 166.4 148.0 69.9 79.6 
Nguồn: Báo cáo tổng hợp của Công ty Tư vấn Đầu tư và Xây dựng GTCC 
Biểu trên cho thấy tình hình đầu tư thực tế của công ty luôn đạt ở mức cao 
suốt từ năm 1998 cho đến nay. Đặc biệt vào các năm 1999 và 2000, tốc độ 
tăng trưởng đã lên đến 166.4% và 148%. Nguyên nhân của sự tăng đầu tư 
mạnh trong giai đoạn này là do năm 1997, công ty được đổi tên mới và bổ 
sung chức năng nhiệm vụ ( tên cũ là Công ty khảo sát thiết kế GTCC Hà 
Nội ) nên công ty đã tiến hành đâu tư rất mạnh trên các mặt Xây dựng cơ 
bản và máy móc công nghệ. Trong giai đoạn này công ty đã tiến hành xây 
 35
dựng thêm hai hạng mục công trình lớn tại Hà Nội làm trụ sở cho xưởng 
Thiết kế đô thị 2 và Xưởng thiết kế cầu đường 2 (thuộc Xí nghiệp khảo sát) 
và mở rộng trụ sở của Xí nghiệp Xây lắp. Đồng thời công ty cũng mạnh 
dạn vay vốn ngân hàng để đầu tư mới nhiều thiết bị thi công hiện đại để tạo 
cơ sở mở rộng sản xuất kinh doanh. Sang đến năm 2001 cho đến nay, tình 
hình đầu tư vào xây dựng cơ bản và công nghệ thiết bị thi công của Công 
ty giảm dần do đã tạo được một khối lượng tài sản cố định tương đối đầy 
đủ. Thay vào đó, công ty lại tăng cường đầu tư vào nguồn nhân lực của 
mình trên tất cả các mặt: chính trị ,tư tưởng cũng như những kiến thức và 
tay nghề chuyên môn. Tuy nhiên cho đến thời điểm này, đội ngũ cán bộ có 
tay nghề cao của công ty hãy còn rất mỏng, việc tiếp cận với công nghệ thi 
công mới, hiện đại hãy còn nhiều bỡ ngỡ do trước đó chủ yếu sử dụng công 
nghệ thi công từ Liên Xô cũ và các nước XHCN. Vì vậy, trong những năm 
gần đây, đầu tư vào nguồn nhân lực lại càng được Công ty quan tâm sâu 
hơn nữa. Cụ thể là công ty thường sử dụng những hình thức đầu tư vào 
nguồn nhân lưc bằng cách: 
- Liên kết với một số trường đại học như Đại học Xây dựng, đại học 
Kiến Trúc, Đại học GTVT... đầu tư cho sinh viên học tập để tiếp nhận khi 
ra trường. 
- Tuyển chọn đội ngũ lao động trẻ, có trình độ văn hoá và trình độ 
chuyên môn cao đi đào tạo thời chuyên môn kỹ thuật ở nước ngoài. 
- Thông qua các chuyên gia nước ngoài để đào tạo thực tiễn cán bộ, 
chuyên gia, công nhân kỹ thuật của mình. Đây là một hình thức đầu tư 
nhanh, hiệu quả để bắt kịp với nhu cầu lao động có trình độ cao của công ty. 
Cho đến thời điểm hiện nay, về cơ bản lực lượng cán bộ chuyên môn kỹ 
thuật, kỹ sư của công ty đã có thể đảm đương được hầu hết các công việc 
trong toàn bộ dây chuyền sản xuất kinh doanh xây dựng hạ tầng giao thông. 
Tuy nhiên mức độ linh hoạt và tinh xảo của các kỹ năng cũng như mức độ 
am hiểu về công nghệ kỹ thuật tiên tiến trên thế giới của cán bộ và công 
nhân kỹ thuật hãy còn hạn chế và đòi hỏi phải tiếp tục rèn luyện qua đào 
tạo thực tế thi công. 
 36
II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ VÀ THIẾT BỊ 
XÂY DỰNG CỦA CÔNG TY. 
1. Đánh giá chung về hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị 
xây dựng của công ty. 
 Máy móc và công nghệ xây dựng có tầm quan trọng đặc biệt đối với doanh 
nghiệp xây dựng. Chính vì thế các doanh nghiệp đều coi đây là chìa khoá 
mở ra và tạo đà cho chính sách, chiến lược phát triển doanh nghiệp. Thực 
trạng về đầu tư mua sắm máy móc xây dựng có thể được phân theo các giai 
đoạn sau: 
- Giai đoạn trước năm 1990: Thực tế hoạt động đầu tư mua sắm thiết 
bị của doanh nghiệp thiết kế và xây dựng công trình giao thông chịu ảnh 
hưởng của cơ chế tập trung bao cấp. Thị trường xây dựng về cơ bản chưa 
thực hiện cơ chế đấu thầu, các công trình xây dựng chủ yếu được chỉ định 
thầu, hoặc bằng hình thức giao nhiệm vụ theo kế hoạch của nhà nước, vì 
thế máy móc thi công cũng được coi là một khâu đảm bảo kế hoạch của 
Nhà nước. Mặt khác do công nghệ xây dựng đường chủ yếu từ Liên Xô và 
các nước XHCN và việc cung cấp máy móc xây dựng qua thị trường này 
tương đối dồi dào bằng hình thức nhập khẩu theo kế hoạch với tỷ giá quy 
đổi theo đồng rúp rất rẻ. Thế nhưng công ty chưa coi việc mua sắm máy 
móc thiết bị xây dựng là một hình thức đầu tư, nhất là đầu tư chiến lược. 
Tuy nhiên việc có được một nguồn thiết bị từ thị trường này cũng đã tạo 
điều kiện thuận lợi cho Công ty trong một số năm sau khi bắt đầu chuyển 
sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, nhất là một số thiết bị 
làm đất như máy ủi, lu, xe Ben tự đổ… 
- Giai đoạn 1990 – 1993: Được coi là thời kỳ đệm của Công ty trong 
hoạt động đầu tư. 
Thời kỳ này do tình hình kinh tế đất nước gặp nhiều khó khăn, bước đầu 
chuyển sang cơ chế thị trường, do nhiều yếu tố khách quan về cơ chế, 
chính sách nên các nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào hệ thống cơ sở hạ 
tầng ngành Giao thông chưa triển khai được. Việc xây dựng chủ yếu tập 
trung vào công tác duy tu, bảo dưỡng, cải tạo bằng các nguồn vốn đầu tư 
 37
trong nước là chính. Tuy đã nhìn thấy được khả năng về các nguồn vốn đầu 
tư sẽ được huy động trong tương lai, nhưng do hạn chế về năng lực tài 
chính, mặt khác do thiếu thông tin về thị trường thiết bị máy thi công, thiếu 
thông tin về quy trình công nghệ thiết bị thi công, nên hoạt động đầu tư 
mua sắm máy móc xây dựng trong giai đoạn này chỉ mang tính thăm dò, 
cầm chừng, chưa trở thành mục tiêu cấp bách của Công ty. 
- Giai đoạn từ năm 1993 đến nay: Có thể phân chia thời kỳ này thành 
2 giai đoạn để đánh giá thực trạng đầu tư mua sắm máy móc xây dựng của 
công ty. Giai đoạn 1 từ năm 1993 đến năm 1996 và giai đoạn 2 từ năm 
1996 đến nay. 
+ Giai đoạn 1993 - 1996: Trong giai đoạn này, do chưa hiểu biết các 
tiêu chuẩn về công nghệ thi công xây dựng hạ tầng giao thông và chưa am 
hiểu về tính năng kỹ thuật, chất lượng, giá cả của các loại thiết bị trên thị 
trường phục vụ cho yêu cầu thi công nên các dự án đầu tư chưa được xây 
dựng trên luận cứ chặt chẽ, xác đáng, có cơ sở khoa học và thực tiễn mà 
chủ yếu dựa vào định hướng chiến lược và những phán đoán mang tính chủ 
quan. Vì vậy, kết quả là những dự án đầu tư vào mua sắm máy móc thiết bị 
thi công có giá trị lớn thường không đem lại hiệu quả. 
+ Giai đoạn 1996 đến nay: Do đã trải qua một quá trình thực tiễn, công 
ty đã lớn mạnh về mọi mặt, đặc biệt là đã rút ra được những kinh nghiệm 
quan trọng trong lĩnh vực đầu tư đầu tư, nên trong giai đoạn này việc đầu 
tư của công ty đã thận trọng hơn. Các dự án đầu tư được lập đã trải qua một 
quá trình thực nghiệm công tác quản lý, vận hành thiết bị của các dự án đầu 
tư trong giai đoạn trước. Đồng thời, công ty cũng cẩn trọng hơn trong việc 
vận dụng để đảm bảo các yêu cầu của kỹ sư tư vấn về chất lượng, chủng 
loại thiết bị phục vụ thi công công trình. Hơn nữa, thị trường cung cấp thiết 
bị trong giai đoạn này cũng rất phong phú, các nhà cung cấp thiết bị cũng 
phải cạnh tranh gay gắt để có thể bán được hàng, do đó đã tạo điều kiện 
thuận lợi cho công ty trong việc lựa chon thiết bị phù hợp, đúng với giá thị 
trường, phù hợp với năng lực của mình đồng thời đáp ứng yêu cầu của chủ 
đầu tư. 
Đánh giá chung từ năm 1993 đến nay: Công ty đã mở rộng được quy mô 
đầu tư cả về số lượng, chất lượng, chủng loại thiết bị phục vụ thi công công 
 38
trình, chuẩn bị tiền đề cho giai đoạn tới nhưng hiệu quả đầu tư nói chung 
còn nhiều hạn chế. 
2. Thực trạng hoạt động đầu tư vào công nghệ và thiết bị xây dựng 
của công ty 
2.1. Về mặt quy mô. 
Biểu 2: Quy mô đầu tư vào công nghệ và thiết bị xây dựng của doanh nghiệp 
Năm Đơn vị 1997 1998 1999 2000 2001 2002 
VĐT Tỷ VNĐ 7.5 6.4 10.8 18.4 12.8 10.1 
Tốcđộphát 
triểnliênhoàn 
% _ 85.3 168.8 170.4 69.1 78.9 
Nguồn: Báo cáo tổng kết của Công ty Tư vấn Đầu tư và Xây dựng GTCC 
Đồ thị biểu diễn tình hình đầu tư vào công nghệ và thiết bị xây dựng 
0
2
4
6
8
10
12
14
16
18
20
1997 1998 1999 2000 2001 2002
Nhìn vào biểu 2 và qua đồ thị, nhìn chung tốc độ đầu tư mua sắm máy 
móc thiết bị của công ty liên tục tăng từ năm 1998 đến năm 2000. Riêng 
từ năm 2001 cho đến nay, quy mô đầu tư cho máy móc xây dựng của 
công ty có bị giảm sút. Tuy nhiên, điều này hoàn toàn không phải do 
công ty chưa chú ý đến đầu tư mua sắm thiết bị trong hai năm trở lại 
 39
đây, mà chủ yếu là do các máy móc thiết bị của công ty cho đến giai 
đoạn này cũng đã tạm đáp ứng được những yêu cầu công nghệ cơ bản và 
một số yêu cầu công nghệ cao, do đó quy mô đầu tư vào máy xây dựng 
đã được giảm xuống. Cụ thể việc đầu tư vào máy móc thiết bị qua các 
năm được thể hiện qua bảng sau: 
Biểu 3: Các máy móc thiết bị được đầu tư từ năm 1993 đến nay 
STT Loại thiết bị 
Năm 
mua 
Nguồn gốc 
xuất xứ 
Số lượng 
1 Máy khoan UKB – 25 1993 Liên Xô 1 bộ 
2 Khoan máy SH – 30 1993 Trung Quốc 1 bộ 
3 Máy nén tam liên 1994 Trung Quốc 2 chiếc 
4 Máy cắt ứng biên 1994 Trung Quốc 2 bộ 
5 Thiết bị thí nghiệm cơ đất 1994 Liên Xô 1 bộ 
6 Thiết bị thí nghiệm đầm chặt tiêu 
chuẩn 
1995 Việt Nam 1 chiếc 
7 Máy thuỷ bình kiểm tra độ lún NI 004 1995 Thuỵ Sỹ 1 chiếc 
8 Máy đo toàn đạc Delta 1996 Đức 3 chiếc 
9 Súng kiểm tra bê tông Schimidt 1997 Đức 6 chiếc 
10 Máy dò cốt thép 1998 Đức 2 bộ 
11 Máy khoan lấy lõi bê tông DR – 
1305B – 4 SOILTEST 
1998 Mỹ 1 bộ 
12 Thiết bị siêu âm bê tông 1999 Anh 1 bộ 
13 Trạm trộn bê tông ASphalt 1999 Nhật 2 chiếc 
14 Máy rải bê tông Asphalt 1999 Nhật 2 chiếc 
15 Trạm trộn cấp phối CB138 2000 Nhật Bản 1 chiếc 
16 Máy rải cấp phối 2000 Nhật Bản 1 chiếc 
17 Máy rải hỗn hợp bê tông nhựa 2000 Nhật Bản 1 chiếc 
18 Máy khoan lấy lõi bêtông 2000 Nhật Bản 1 chiếc 
19 Máy ủi 108CV 2000 Nhật Bản 2 chiếc 
20 Xe tưới nhựa DRGM 2000 Nga 5 chiếc 
21 Máy san Tital 2000 Đức 3 chiếc 
22 Máy lu rung VV 113 2000 Sec 8 chiếc 
23 Máy lu rung DY 2000 Nga 10 chiếc 
24 Máy lu bánh sắt 2001 Trung Quốc 6 chiếc 
 40
25 Máy đầm bàn 2001 Nhật 3 chiếc 
26 Máy ủi DZ 171 2001 Nga 4 chiếc 
27 Máy ủi DZ 42 2001 Nga 2 chiếc 
28 Máy xúc lốp gầu lật T018 2001 Trung Quốc 4 chiếc 
29 Máy xúc lốp gầu lật T030 2001 Việt Nam 2 chiếc 
30 Máy trộn bê tông xi măng B521 2002 Hàn Quốc 6 chiếc 
31 Máy trộn vữa 2002 Đức 2 chiếc 
32 Thiết bị đóng cọc DJ2 2002 Pháp 1 chiếc 
33 Cẩu K162 2002 Trung Quốc 3 chiếc 
34 Xe téc nước KAMAZ 2002 Nga 7 chiếc 
35 Máy bơm cao áp 2002 Hàn Quốc 4 chiếc 
36 Xe vận tải KAMAZ 5320 và 5425 2002 Nga 4 chiếc 
37 Xe ben tự đổ KPAZ 256 và MAZ 5549 2002 Nga 5 chiếc 
Nguồn: Hồ sơ dự thầu của Công ty Tư vấn Đầu tư Xây dựng GTCC năm 2001 Hạ 
tầng kỹ thuật khu liên hợp thể thao quốc gia Mỹ Đình – Mễ Trì ( 110 ha) – giai 
đoạn 1 
2.2. Về mặt chất lượng công nghệ 
Chất lượng công nghệ thiết bị được đầu tư phụ thuộc vào khả năng tài 
chính của công ty, yêu cầu của công trình và phụ thuộc vào chiến lược 
phát triển đồng thời phải phù hợp với định hướng Công nghiệp hoá - 
hiện đại hoá của đất nước. Đó chính là vấn đề đầu tư chiều sâu tăng 
năng lực thiết bị của doanh nghiệp. Có thể tóm tắt tình hình đầu tư máy 
móc và công nghệ xây dựng của công ty về mặt chất lượng trong những 
năm qua như sau: 
- Giai đoạn từ năm 1993 đến năm 1995: Tỷ lệ các thiết bị mới, chất 
lượng cao, công nghệ hiện đại đã tương đối cao. Công ty đã bắt đầu chú 
trọng đến việc đầu tư mua sắm máy móc thiết bị thi công để tăng cường 
sức cạnh tranh của chính mình. 
- Giai đoạn từ năm 1996 đến nay: Tập trung đầu tư các thiết bị có 
công nghệ hiện đại nhưng chủ yếu là các thiết bị đã qua sử dụng. Đầu 
tư theo hướng này đem lại hiệu quả tương đôi cao cho đơn vị, vì theo 
 41
yêu cầu của Nhà nước, loại thiết bị này phải là thiết bị được sản xuất từ 
năm 1990 trở lại đây, có chất lượng không nhỏ hơn 75% và có giá trị sử 
dụng bằng 50 – 60% so với thiết bị mới cùng loại, đồng thời vẫn đảm 
bảo yêu cầu của chủ đầu tư. Với con đường đầu tư như vậy, công ty đã 
có thể tiết kiệm được một khoản tiền khá lớn mà vẫn đảm bảo đựơc yêu 
cầu công nghệ vì các máy móc còn tương đối mới, do đó thời hạn thu 
hồi vốn đầu tư giảm và khả năng thu hồi vốn được tăng cao rõ rệt. 
Đối với một số dự án thắng thầu có thời gian xây dựng dài, giá cả dự 
thầu hợp lý, doanh nghiệp đã tận dụng lợi thế để có thể đầu tư mua sắm 
từng bước các thiết bị có công nghệ tiên tiến hiện đại, tạo thế cho sự 
phát triển lâu dài, nhất là đối với một số dự án thi công cầu, đường, kè 
bờ sông… 
2.3. Về mặt kinh tế xã hội. 
Hiệu quả tổng thể của hiệu quả đầu tư vào máy móc thi công được thể hiện ở: 
- Thực hiện thi công các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng với yêu 
cầu chất lượng kỹ thuật cao, đáp ứng được yêu cầu của chủ đầu tư và yêu 
cầu phát triển kinh tế của đất nước. 
- Nâng cao giá trị sản lượng và doanh thu xây lắp của công ty, từ đó 
tạo tiền đề để công ty có thể nâng cao sức cạnh tranh và mở rộng các hoạt 
động đầu tư phát triển 
- Tạo công ăn việc làm ổn đinh, thường xuyên và lâu dài cho người lao 
động. Tạo ra một môi trường làm việc năng động, sáng tạo, phát huy được 
sức mạnh tổng thể của toàn bộ đội ngũ cán bộ công nhân viên trong toàn 
công ty. Nâng cao trình độ tay nghề của công nhân, trình độ kỹ thuật của 
các kỹ sư, các kiến trúc sư và của cán bộ quản lý thông qua các chương 
trình đạo tạo và đào tạo lại ở cả trong nước và quốc tế. Qua đó gián tiếp 
nâng cao chất lượng lao động của cán bộ công nhân viên của công ty nói 
riêng và của cả nước nói chung. 
- Tạo ra lợi nhuận cao, từ đó đảm bảo khả năng tái đầu tư và nâng cao 
sức cạnh tranh của công ty trên thị trường xây dựng. 
 42
III. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC LẬP VÀ QUẢN LÝ DỰ ÁN ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI 
CÔNG NGHỆ THIẾT BỊ XÂY DỰNG. 
1. Hệ thống tổ chức công tác lập và quản lý dự án đầu tư đổi mới công 
nghệ và thiết bị xây dựng của công ty. 
Trên cơ sở định hướng chiến lược, nhiệm vụ kế hoạch giao hàng năm, 
từ dự án của công ty, từ nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của công ty, 
giám đốc sử dụng các cơ quan chức năng của mình lập dự án đầu tư. 
Các công trường sản xuất, các đội sản xuất là đầu mối sử dụng thiết bị 
xây dựng được đầu tư. Nhóm chuyên viên kiêm nhiệm dự án là đơn vị 
cơ sở để đánh giá hiệu quả đầu tư, là đầu mối trực tiếp quản lý dự án, 
hoàn trả vốn vay. 
Trong những năm qua, hệ thống tổ chức này đã góp phần quan trọng 
giúp cho các doanh nghiệp xây dựng giao thông trong lĩnh vực lập và 
quản lý dự án đầu tư. Tuy nhiên, nó vẫn còn tồn tại khá nhiều bất cập 
gây ảnh hưởng đến chất lượng của công tác lập dự án cũng như hiệu 
quả của công tác quản lý dự án đầu tư đổi mới công nghệ thiết bị xây 
dựng của công ty. 
Sơ đồ tổ chức quản lý dự án của công ty được thể hiện như sau:
 43
Hệ thống tổ chức của Công ty về lập và quản l ý dự án đầu tư đổi mới 
công nghệ và thiết bị xây dựng 
Sở GTCC - Hà Nội 
Tổng Giám đốc 
PGĐ phụ trách KT PGĐ phụ trách 
KD 
Kinh 
tế kế 
hoạc
h 
Tổ 
chức 
hành 
chín
h 
Kế 
toàn 
tài vụ 
Dự 
án 
đấu 
thầu 
Tư 
vấn 
đầu 
tư 
Các 
xưởn
g 
thiết 
kế 
Thẩm 
định 
tư 
vấn 
giám
sát 
Kỹ 
thuật 
công 
nghệ 
thi
công 
Cơ 
giới 
vật 
tư 
Nhóm chuyên viên kiêm nhiệm dự án 
Các phòng chức 
năng 
Các đội sản xuất 
Công trường xây dựng 
 44
2. Thực trạng thực hiện trình tự, nội dung lập và quản lý dự án đầu 
tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng 
Cả 3 giai đoạn: Chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và vận hành kết quả 
đầu tư đều đã được công ty quan tâm thực hiện đầy đủ. 
- Đối với giai đoạn chuẩn bị đầu tư : 
Đã thực hiện các bước quy định của quá trình lập dự án bao gồm nghiên 
cứu cơ hội đầu tư, nghiên cứu tiền khả thi, nghiên cứu khả thi và thẩm định 
dự án. Trong đó giai đoạn nghiên cứu cơ hội đầu tư được đặc biệt quan tâm 
qua việc nghiên cứu về tình hình cung cầu trên thị trường xây dựng. Tuy 
nhiên, cũng do ảnh hưởng của thị trường nên các kết quả trong giai đoạn 
này thường được lập trên cơ sở những định hướng chung nhất của công ty 
nhiều hơn là bám sát tình hình thực tiễn. 
Xét riêng về công tác lập báo cáo nghiên cứu khả thi, đối với các dự án dài 
hạn thường được thực hiện đầy đủ, ví dụ như dự án đầu tư vào thiết bị đóng 
cọc DJ2 vào năm 1999 với tổng mức vốn đầu tư là 2678 triệu đồng. Còn 
đối với các dự án đầu tư phục vụ trực tiếp cho một công trường cụ thể hoặc 
cho một dự án lớn đã thắng thâù thì thường xuất phát từ nhiệm vụ cấp bách 
để ra quyết định đầu tư, và trong một số trường hợp thường không tuân thủ 
các bước nhất là công tác thẩm định dự án. Do biến động của thị trường 
cung cấp vốn cho dự án đầu tư nên ngoài việc phụ thuộc vào mục tiêu đầu 
tư và thị trường xây dựng, trình tự đầu tư còn phụ thuộc vào sự biến động 
của việc huy động vốn, và nhiều khi còn phụ thuộc vào chính yêu cầu của 
nhà cung cấp vốn. 
Trong thực tiễn có trường hợp giai đoạn chuẩn bị đầu tư và giai đoạn thực 
hiện đầu tư được tiến hành song song với nhau. Thậm chí giai đoạn thực 
hiện đầu tư được thực hiện trước rồi hoàn tất các thủ tục về tình tự đầu tư 
 45
sau do yêu cầu của tiến độ thi công công trình. Điều này một mặt có thể 
đáp ứng được tiến độ thi công, nhưng mặt khác là do chỉ tính đến yêu cầu 
trước mắt nên sẽ chịu ảnh hưởng trực tiếp của các yếu tố sau khi kết thúc 
dự án. 
- Đối với giai đoạn thực hiện đầu tư: 
Việc tiến hành các thủ tục, các bước cũng còn nhiều yếu tố tác động. Đối 
với các dự án đã xác định được địa chỉ lắp đặt dựa trên hợp đồng xây lắp 
cụ thể, công việc tiếp nhận, xây dựng, lắp đặt các cơ sở bảo quản thường 
đựoc chuẩn bị trực tiếp nhằm phục vụ kịp thời cho việc thi công công 
trình, nhưng thông thường việc chuẩn bị tổ chức đào tạo thợ vận hành, 
chuyên môn kỹ thuật không kịp thời nên ảnh hưởng đến việc phát huy 
hiệu quả sử dụng máy của giai đoạn vận hành. 
Đối với các dự án đầu tư chưa xác định rõ địa điểm sử dụng máy mà chỉ 
nhằm làm tăng năng lực của thiết bị của doanh nghiệp và phục vụ cho 
các công trình mang tính ước đoán thì có điều kiện chuẩn bị về lực lượng 
công nhân kỹ thuật vận hành nhưng thường khó thực hiện các yếu tố 
đảm bảo. 
Trong giai đoạn này, công ty tuy có quan tâm đến hình thức đấu thầu 
thiết bị xây dựng, nhưng chủ yếu là vận dụng hình thức chào hàng cạnh 
tranh hoặc chỉ định thầu và nhằm vào việc hợp lý hoá thủ tục phục vụ 
cho vay vốn và công tác thanh tra kiểm tra của cơ quan chủ quản, cơ 
quan pháp luật là chính. 
- Đối với giai đoạn quản lý vận hành: 
 46
Tuy bản thân việc thực hiện đúng các trình tự trong giai đoạn này cũng 
rất quan trọng nhưng hầu hết các doanh nghiệp chưa xác định được một 
sơ đồ mạng về các bước thực hiện trên tất cả các lĩnh vực quản lý vận 
hành, từ việc quản lý thời gian, quản lý chất lượng, quản lý chi phí và 
các chương trình quản lý rủi ro. Thêm vào đó, việc đánh giá kiểm tra 
hiệu quả sử dụng trong trình tự quản lý dự án không được xem xét 
thường xuyên và đầy đủ. 
Kết luận: Về cơ bản, công ty đã quan tâm đến trình tự, nội dung lập và 
quản lý dự án đầu tư, thực hiện tương đối tốt đối với các dự án phục 
vụ trực tiếp cho các công trình xây dựng, các dự án đã thắng thầu. 
Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại rất nhiều bất cập đối với các dự án đầu tư 
theo định hướng chiến lược. Các bước trong trình tự lập dự án đầu tư 
và các nội dung trong dự án đầu tư về cơ bản đã được đề cập đến 
nhưng chưa đầy đủ và chưa đáp ứng được yêu cầu về chất lượng, ảnh 
hưởng đến hiệu quả đầu tư chung của toàn công ty. 
3. Thực trạng phân tích tài chính dự án đầu tư đổi mới công nghệ và 
thiết bị xây dựng. 
Phân tích tài chính là một nội dung quan trọng trong công tác lập dự án. 
Nhận thức được việc này, công tác lập dự án của công ty cũng đã rất 
quan tâm việc tính toán các chỉ tiêu tài chính và thông qua đó để đánh 
giá tính khả thi của dự án. Để xem xét thực trạng của việc phân tích tài 
chính trong dự án đầu tư đổi mới công nghệ và máy xây dựng của công 
ty, ta xem xét cụ thể một dự án đầu tư vào dây chuyền rải bê tông cấp 
phối của Nhật Bản năm 2000. Dây chuyền này bao gồm: 
 47
Biểu4 : Những thiết bị chính được đầu tư trong dây chuyền . 
Tên máy Đơn vị tính Số lượng Đơn giá Thành tiền 
Máy rải bêtông cấp phối 1000đ 1 5.674.950 5.674.950 
Trạm trộn cấp phối - 1 2.675.050 2.675.050 
Máyrải hỗn hợp bêtông 
nhựa 
- 1 1.675.508 1.675.508 
Máy khoan lấy lõi bê tông - 1 1.897.712 1.897.712 
Máy ủi 108CV - 2 87. 800 175. 600 
Thành tiền - 12.098.820 
Nguồn: Dự án đầu tư dây chuyền rải bê tông cấp phối Nhật Bản năm 2000 
Cơ sở để tính toán các chỉ tiêu 
Giá trị doanh thu: 
Với dây chuyền trang thiết bị trên, tính trên cơ sở sử dụng được 70% 
công suất thiết kế, đơn giá tính theo đơn giá khu vực Hà Nội (giá 
393/KT – XD) vì công ty chủ yếu thi công các công trình trên địa bàn 
thành phố Hà Nội thì sản lượng thực hiện của dây chuyền một năm có 
thể đạt được như sau (tính khái toán các thành phần công việc chủ yếu 
của làm đường mới). 
 48
Biểu 5: Sản lượng thực hiện của dây chuyền rải bêtông cấp phối Nhật 
Bản thực hiện được trong một năm (70% công suất) 
 Đơn vị tính: 1.000 đ 
Tên công việc ĐV Khối lượng Đơn giá Thành tiền 
Đào khuôn đường m3 9.251,7 40 370.068 
Đắp nền lớp đáy kết 
cấu mặt đường 
m3 2700 60 162.000 
Đắp cát hạt thô m3 9.251,7 55 508843.5 
Làm đường thảm 
bêtông asphalt KCI 
m2 16.515 23 3.798.450 
Làm đường thảm 
bêtông asphalt KCII 
m2 5.966 20 1.193.200 
Làm đường thảm 
bêtông asphalt KCIII 
m2 15.602 185 2.886.370 
Mặt đường mềm kết 
cấu loại 3 
m2 1.760 185 325.600 
Mặt đường cứng m2 2.100 170 357.000 
Tổng giá trị doanh thu 9601531.5 
 Nguồn: Dự án đầu tư dây chuyền rải bê tông cấp phối Nhật Bản năm 2000 
Cơ sở tính toán chi phí 
- Chi phí nguyên vật liệu: Tính theo khối lượng nguyên vật liệu thực tế 
trong một năm và theo bảng khối lượng dự kiến (biểu 5 ). Giá nguyên vật 
liệu lấy theo giá khu vực Hà Nội quý II năm 2000. 
- Chi phí nhân công: Theo định mức 58/BXD – VKT và các quy định chế 
độ lương, phụ cấp hiện hành. 
- Chi phí máy: Trên cơ sở giá ca máy 57/BXD – VKT trong đó 
 Khấu hao cơ bản: 20% giá trị trung bình năm 
 Khấu hao sửa chữa lớn, sửa chữa nhỏ: 6% giá trị trung bình một năm 
 Năng lượng, nhiên liệu theo định mức tiêu hao từng loại thiết bị, lấy 
theo khối lượng thi công thực tế (12% Tổng chi phí nguyên vật liệu ) 
- Chi phí quản lý doanh nghiệp: 66,5% chi phí nhân công 
- Thuế doanh thu 4% 
 49
- Lãi định mức 11% (theo tiêu chuẩn thi công đường) 
Biểu 6: Giá trị chi phí được tính toán cụ thể trong bảng sau: 
Đơn vị: 1000đ 
Tên công việc Đơn 
vị 
Khối 
lượng 
Đơn giá Thành tiền 
I. Chi phí vật liệu 3.124.180,4 
Đất, cát tại công trường m3 18.000 42,00 756.000 
Đá lớp cấp phối m3 5.800 186,00 1.078.800 
Nhựa bitum kg 15.300 3,500 53.550 
Đá lớp base m3 2.400 142,20 341.280 
Bêtông cấp phối Tấn 1.220 298,70 364.414 
Bột đá kg 11.720 21,00 246.120 
Vật liệu khác % 10 2.840.164 284.016,4 
II.Chi phí nhân công % 15 3.124.180,4 468.627,06 
III. Chi phí máy 3.471.852,77 
Khấu hao cơ bản % 20 11275480 2.255.096 
Sửa chữa lớn, sửa chữa 
nhỏ 
% 6 11275480 676.528,8 
Nhiên liệu % 12 3.124.180,4 374.901,65 
Chi phí khác % 5 3306526.45 165.326,3 
IV. Chi phí quản lý % 66,5 468.627,06 311.637 
V. Thuế, lãi định mức % 11 7.376.297,23 811.392,7 
VI. Tổng chi phí 8.187.689,93 
Nguồn: Dự án đầu tư dây chuyền rải bê tông cấp phối Nhật Bản năm 2000 
Các nội dung được đề cập đến trong dự án bao gồm 
- Tổng mức đầu tư (1000Đ) 
+ Giá mua dây chuyền thiết bị: 12.098.820 
+ Chi phí lắp đặt: 26.660 
+ Chi phí lập và thẩm định dự án: 52.700 
 50
+ Giá trị còn lại: 850.000 
- Cơ cấu vốn đầu tư 
+ Vốn tự có (trích từ quỹ đầu tư phát triển) 79.360 
+ Vốn vay: 12.098.820 
 - Vốn vay tín dụng ưu đãi với lãi suất 7.8%/năm 
- Thời gian vay: 5 năm (thời hạn ân hạn 1 năm) 
- Nguồn vốn để trả vốn vay ngân hàng hàng năm được lấy từ 
 Quỹ khấu hao hàng năm ( khấu hao đều 5 năm ) 
 Lợi nhuận sau thuế vốn 
- Tỷ suất chiết khấu r 
 Nguồn vốn vay ngân hàng: 7.8% 
 Nguồn vốn tự có: 10% 
Tỷ suất chiết khấu r = 
(0,078*12.098.820)+ (0.1* 79.360) 
= 0.078 
12.098.820 + 79.360 
 51
 52
 53
KẾT LUẬN 
Những kết quả đạt được 
- Dự án đã cho thấy tính cấp thiết phải thực hiện đầu tư, mục tiêu của dự án 
hoàn toàn phù hợp với mục tiêu chung của ngành và của doanh nghiệp xây 
dựng. 
- Các chỉ tiêu được tính toán rất chi tiết và cụ thể, thể hiện sự hợp lý trong 
việc phân tích các chỉ tiêu tài chính. 
- Quy trình phân tích tài chính được thực hiện theo đúng các bước đã đề ra, 
một số các chỉ tiêu cơ bản và chủ yếu của quá trình phân tích taì chính dự 
án đều được tính toán đầy đủ như xác định quy mô đầu tư, dự tính tổng vốn 
đầu tư, cơ cấu nguồn vốn đầu tư… 
- Chi phí và doanh thu của dự án được tính toán dựa trên cơ sở công suất 
kinh doanh an toàn của dự án nên tương đối chính xác, giúp cho quá trình 
thực hiện đầu tư được tiến hành có hiệu quả. 
- Dự án đã quan tâm đầy đủ đến các chỉ tiêu hiệu quả cơ bản và quan trọng 
nhất như NPV, NFV, IRR, thời gian hoàn vốn. Những chỉ tiêu này được 
tính dựa trên sự tuân thủ tương đối nghiêm ngặt các yêu cầu của việc phân 
tích, qua đó có thể xem xét tình hình, kết quả và hiệu quả hoạt động của dự 
án trên góc độ hạch toán kinh tế của công ty. Kết quả của quá trình phân 
tích này sẽ được lấy làm căn cứ cho quyết định có nên đầu tư vào dự án 
hay không. 
Những hạn chế còn tồn tại 
- Các yếu tố như doanh thu, chi phí nguyên vật liệu, tiền lương công nhân 
sản xuất trực tiếp chỉ là những ước tính chủ quan của người lập dự án mà 
chưa xét đến những biến động thực tế có thể phát sinh làm ảnh hưởng đến 
những chỉ tiêu hiệu quả đang xét. Có thể lấy ví dụ như chi phí nguyên vật 
liệu được ước tính dựa theo đơn giá của Hà Nội tại thời điểm lập dự án. 
Nhưng đơn giá này thường xuyên được Nhà nước điều chỉnh theo từng thời 
kỳ cho phù hợp với sự biến động của thị trường và thường có xu hướng 
tăng lên. Vì thế việc tính toán chi phí cho cả đời dự án với cùng một mức 
đơn giá như vậy là không hợp lý. 
- Tỷ lệ khấu hao được tính toán là 20% (5 năm hoàn vốn) là phù hợp với 
các thông tư, hướng dẫn của Bộ tài chính về khấu hao thiết bị xây dựng 
 54
trong từng giai đoạn cho từng loại thiết bị. Nhưng trên thực tế, qua tổng kết 
các năm thì hầu như rất ít khi công ty có thể đạt được tỷ lệ này. Nhất là 
trong điều kiện thị trường xây dựng cạnh tranh nhau ngày càng găy gắt 
như hiện nay, công ty muốn thắng thầu thường phải giảm giá dự thầu 
xuống rất thấp, vì thế tỷ lệ khấu hao 20% chỉ là lý thuyết mà không được 
thực hiện. 
Biểu 9: Tỷ lệ khấu hao thực tế bình quân của Công ty qua các năm 
Năm ĐV 1997 1998 1999 2000 2001 
Tỷ lệ khấu hao % 13,5 14,7 11,4 11,6 10,8 
Nguồn: Báo cáo tổng kết của Công ty Tư vấn Đầu tư và Xây dựng GTCC qua các năm 
- Chỉ tiêu lãi định mức được tính toán là 11% theo tiêu chuẩn thi công 
đường của Bộ tài chính ban hành. Nhưng cũng tương tự như cách tính khấu 
hao ở trên, chỉ tiêu này thường phải giảm xuống thấp hơn nhiều so với thực 
tế tính toán của dự án do yêu cầu cạnh tranh giảm giá dự thầu. Thậm chí có 
những gói thầu công ty phải giảm chỉ tiêu lãi định mức xuống 0% để giành 
được công trình bảo đảm cho việc sản xuất được liên tục. 
Biểu 10: Lợi nhuận thuần bình quân của công ty qua các năm 
Năm ĐV 1997 1998 1999 2000 2001 
Tỷ lệ lợi nhuận 
thuần bình quân 
% 3,5 3,2 3,8 4,1 4,0 
Nguồn: Báo cáo tổng kết của Công ty Tư vấn Đầu tư và Xây dựng GTCC qua các năm 
- Một số chỉ tiêu quan trọng khác như chỉ tiêu B/C, điểm hoà vốn…chưa 
được dự án quan tâm tính toán mà mới chỉ tập trung tính toán vào các chỉ 
tiêu NPV, NFV, IRR và thời hạn thu hồi vốn. 
- Lãi suất huy động vốn tự có của công ty thường được xác định theo cảm 
tính của người lập dự án, chưa nêu ra một cách khoa học việc tính toán là 
dựa trên những cơ sở nào. Vì vậy, lãi suất vốn tự có thường được ước tính 
là 10% là chưa hợp lý và chưa có căn cứ chính xác. Tuy nhiên, khi sử dụng 
vốn tự có để đầu tư thì lãi suất được tính phải bao gồm cả tỷ lệ lạm phát và 
 55
chi phí cơ hội. Thông thường, mức chi phí cơ hội được xác định dựa vào tỷ 
suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế hoặc của chủ đầu tư trong kinh 
doanh trước khi đầu tư, r vốn tự có phải được xác định như sau: 
r (%) = (1 + f)*( 1 + rcơ hội) – 1 
Trong đó 
 f: Tỷ lệ lạm phát 
rcơ hội: Chi phí cơ hội 
- Trong hầu hết các dự án, các chỉ tiêu đánh giá tiềm lực tài chính của 
doanh nghiệp chưa được tính toán nên chưa thấy được tình hình tài chính 
của doanh nghiệp. Vốn đầu tư đổi mới công nghệ và máy móc thiết bị xây 
dựng của doanh nghiệp chủ yếu là vốn đi vay, do đó cần phải tính toán đến 
chỉ tiêu này để thấy được khả năng tài chính thực tế của doanh nghiệp, 
đồng thời đây cũng là một chỉ tiêu có tác dụng quan trọng đối với các tổ 
chức cho vay vốn. 
4. Thực trạng công tác quản lý dự án đầu tư đổi mới công nghệ và 
thiết bị xây dựng 
Công tác quản lý dự án đầu tư tại công ty thực tế giao cho các đội sản xuất 
trực tiếp quản lý và sử dụng. Đây cũng chính là các đầu mối đánh giá hiệu 
quả công tác quản lý dự án. 
4.1. Quản lý thời gian: 
Các dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị thi công thường được chia 
làm 2 giai đoạn: 
+ Giai đoạn thứ nhất là quản lý từ khi chuẩn bị thực hiện dự án cho đến khi 
kết thúc giai đoạn thực hiện đầu tư, tức là việc mua sắm lắp đặt máy móc 
thiết bị và quy trình chuyển giao công nghệ đã hoàn thành. 
+ Giai đoạn thứ hai là giai đoạn vận hành kết quả đầu tư, được tính từ khi 
máy móc thiết bị được đưa vào hoạt động cho đến khi kết thúc dự án, thông 
thường là sau khi đã hoàn đủ vốn đầu tư hoặc là đến khi máy móc thiết bị 
đã được khấu hao xong toàn bộ. 
Nhìn chung công ty đã chú trọng đến việc quản lý thời gian nhằm kéo dài 
tuổi thọ và nâng cao hệ số sử dụng thiết bị. Tuy nhiên, do tác động của môi 
 56
trường xây dựng và do trình độ, năng lực công tác quản lý nên việc quản lý 
thời gian trong giai đoạn vận hành kết quả đầu tư còn nhiều hạn chế. 
4.2. Quản lý chi phí mua sắm máy móc thiết bị. 
Quản lý chi phí của dự án là nội dung quản lý rất quan trọng trong công tác 
quản lý dự án của công ty vì trong quản lý giá phải đảm bảo thực hiện đúng 
quy định của Nhà nước với một mức giá hợp lý, chống lãng phí, thực hành 
tiết kiệm, lại vừa phải đảm bảo lợi ích cho các nhà đầu tư vốn. 
Đây cũng là một yếu tố phát sinh nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu 
quả hoạt động đầu tư. Do từ năm 1996 trở lại đây, phần lớn các thiết bị 
công ty mua là thiết bị đã qua sử dụng nên việc xác đinh giá trị còn lại 
gặp nhiều khó khăn do trình độ am hiểu về máy móc trên thị trường xây 
dựng của công ty hãy còn hạn chế. Mặc dù Nhà nước đã quy định việc 
mua sắm máy móc xây dựng phải là những thiết bị được sản xuất từ 
năm 1990 trở lại đây, có chất lượng không nhỏ hơn 75% và giá trị chỉ 
bằng khoảng 50 – 60% so với thiết bị mới cùng loại, nhưng trên thực tế 
có nhiều loại thiết bị công ty vẫn mua với mức giá vượt tỷ lệ này. Bên 
cạnh đó còn một loạt các nguyên nhân khác cũng làm cho chi phí của 
hoạt động đầu tư mua sắm máy móc thiết bị và đổi mới công nghệ xây 
dựng tăng như chi phí tăng do quản lý không tốt lao động, nguyên vật 
liệu, sửa chữa…hay do lãi suất vốn vay không hợp lý. 
Trong giai đoạn vận hành, các yếu tố chính ảnh hưởng đến quản lý chi 
phí dự án đầu tư đổi mới công nghệ và máy xây dựng được ước tính 
theo tỷ lệ sau : 
Biểu 11: Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý chi phí của dự án đầu tư 
mua sắm thiết bị xây dựng 
Các nhân tố ảnh hưởng Đơn vị Mức độ ảnh 
hưởng 
Do không có thị trường xây dựng % 55 
Quản lý không tốt các yếu tố đầu vào - 21 
Quản lý điều hành thiết bị - 12 
 57
Lãi suất vốn vay không hợp lý - 4 
Các yếu tố khác - 8 
Nguồn: Báo cáo tổng kết của công ty Tư vấn đầu tư và xây dựng GTCC Hà Nội 
 58
Đồ thị biểu diễn tỷ lệ các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý chi phí trong 
các dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng tại công ty 
nhan to 
nhan to 
2
nhan to 3
nhan to nhan to 
Nhân tố 1: Do không có thị trường xây dựng 
Nhân tố 2: Quản lý không tốt các yếu tố đầu vào ( lao động, nguyên 
vật liệu…) 
Nhân tố 3: Quản lý điều hành thiết bị 
Nhân tố 4: Lãi suất vốn vay không hợp lý 
Nhân tố 5: Các yếu tố khác 
4.3. Quản lý chất lượng: 
Quản lý chất lượng của công ty được thực hiện theo mô hình sau: 
 59
Mô hình quản lý chất lượng máy móc thiết bị đầu tư của công ty tư 
cấn đầu tư và xây dựng GTCC – Hà Nội 
Về thủ tục quản lý chất lượng: Tùy theo yêu cầu kỹ thuật của từng dự 
án đầu tư, công ty phải tổ chức đấu thầu hoặc chỉ định thầu các nhà 
cung cấp máy móc thiết bị, trong đó các hợp đồng cung cấp thiết bị 
phải có điều khoản đảm bảo về chất lượng của các thiết bị được đầu tư. 
Trước khi chính thức ký kết hợp đồng cung cấp thiết bị, các chuyên gia 
quản lý dự án phải thực hiện đầy đủ các thủ tục về thẩm định và xét 
duyệt các máy móc và công nghệ được đầu tư theo đúng yêu cầu kỹ 
thuật của từng loại máy móc và công nghệ cụ thể. Trong quá trình lắp 
đặt máy móc thiết bị, các chuyên gia quản lý dự án phải thực hiện giám 
sát kỹ thuật theo đúng hợp đồng đã ký kết, kịp thời tổ chức nghiệm thu 
chất lượng của các loại máy móc thiết bị đó. Công ty có quyền yêu cầu 
đơn vị cung cấp giải trình về mặt chất lượng và kỹ thuật các thiết bị do 
họ cung cấp. Nếu thiết bị nào không đạt chất lượng so với các tiêu 
Tổng giám đốc 
Bộ phận Q Phòng TN trung tâm 
Trạm 
TN 
hiện 
trường 
Công trường Chuyên gia QCLL 
Đội sản xuất 
 Lái, thợ vận hành 
 60
chuẩn kỹ thuật hoặc không phù hợp với các điều khoản về chất lượng 
được ký kết trong hợp đồng, công ty có quyền yêu cầu từ chối nghiệm 
thu. 
Về việc quản lý bảo hành các thiết bị được đầu tư: Việc bảo hành các 
thiết bị được đầu tư nhằm bảo vệ lợi ích của chính công ty, đồng thời 
xác định trách nhiệm của đơn vị cung cấp máy móc thiết bị trước công 
ty và trước pháp luật. Đơn vị cung cấp có trách nhiệm và nghĩa vụ sửa 
chữa các hư hỏng do lỗi kỹ thuật gây ra trong thời gian bảo hành. Việc 
bảo hành chất lượng công trình là một việc làm bắt buộc đối với tất cả 
các hợp đồng cung cấp thiết bị và cần phải được làm rõ trước khi ký kết 
hợp đồng chính thức. 
Tuy đã quan tâm đến hoạt động quản lý chất lượng nhưng trên thực tế 
đầu mối quản lý chất lượng lại chính là các đội sản xuất. Công tác kiểm 
soát chất lượng tuy có được đề ra nhưng không được triển khai và thực 
hiện triệt để. Chính thực tế này đã cho thấy sự gắn kết lỏng lẻo giữa các 
bộ phận giám sát chất lượng, nghiệm thu, kiểm định và các đội sản 
xuất. Các bộ phận này thường chưa thực hiện đầy đủ nhiệm vụ của 
mình, thiếu thái độ hợp tác tích cực giữa các bên tham gia…đã làm cho 
chất lượng của máy móc thiết bị trong quá trình sử dụng bị giảm đi 
đáng kể. Việc quản lý chất lượng theo các tiêu chuẩn bảo dưỡng, bảo 
quản, đại tu và kiểm tra định kỳ cũng không được giám sát đầy đủ, do 
đó làm giảm chất lượng của thiết bị và đôi khi còn làm giảm tuổi thọ 
của máy móc thiết bị được đầu tư. 
Tuy nhiên, trong những năm qua, hệ số kỹ thuật sử dụng thiết bị của 
công ty cũng đã tăng lên, đáp ứng được nhu cầu sản xuất và xây dựng 
ngày một cao của thị trường. 
 61
Biểu 12: Hệ số kỹ thuật sử dụng thiết bị bình quân của công ty qua các năm 
Năm Đơn vị 1997 1998 1999 2000 2001 2002 
HS SD 
thiết bị 
% 60.4 62.3 65.8 72.8 70.4 74.1 
Nguồn: Báo cáo tổng kết của công ty qua các năm 
4.4. Quản lý hoạt động mua sắm thiết bị: 
Thực tiễn hoạt động mua sắm thiết bị của công ty được thực hiện qua các 
hình thức chủ yếu là đấu thầu, chỉ định thầu hoặc chào hàng cạnh tranh. Cụ 
thể tình hình mua sắm máy móc thiết bị công nghệ từ năm 1993 được thể 
hiện qua bảng sau: 
Biểu 13: Hoạt động mua sắm máy móc thiết bị của công ty qua các hình thức khác nhau: 
Năm ĐV 1997 1998 1999 2000 2001 2002 
Vốn ĐT Tỷ đ 7.5 6.4 10.8 18.4 12.8 10.1 
Đấu thầu Tỷ đ 2.5 1.7 2.85 4.34 6.67 5.21 
Tỷ lệ % 33.33 26.56 26.39 23.59 52.11 51.59 
Chỉ định thầu Tỷ đ 3.61 4.22 4.62 12.4 4.25 3.11 
Tỷ lệ % 48.13 65.93 42.78 67.39 33.20 30.8 
Chào hàng cạnh tranh Tỷ đ 1.39 0.48 3.33 1.66 1.88 1.78 
Tỷ lệ % 18..53 7.5 30.08 9.02 14.69 17.62 
Nguồn: Tổng hợp từ tài liệu của công ty Tư vấn đầu tư và xây dựng GTCC – Hà Nội 
Như vậy nhìn chung hoạt động đấu thầu mua sắm máy móc thiết bị đã có 
xu hướng tăng dần tỷ lệ đấu thầu, giảm dần tỷ lệ chỉ định thầu. Việc thực 
hiện mua sắm máy móc thiết bị thông qua hình thức đấu thầu đã tiết kiệm 
được cho công ty một lượng vốn khá lớn, đặc biệt là những dự án đầu tư 
vào các loại máy móc thiết bị công nghệ tiên tiến trên thế giới. 
Trong quá trình quản lý dự án, các chuyên gia quản lý dự án sẽ phải tiến 
hành tuyển chọn các nhà thầu có đủ tư cách để tham gia đấu thầu hoặc trực 
tiếp chỉ định thầu. Chỉ có những nhà thầu đủ năng lực, có thể đáp ứng được 
 62
yêu cầu chất lượng kỹ thuật mới được chọn để ký kết hợp đồng cung cấp 
các loại máy móc thiết bị. Những yêu cầu đó là: 
+ Các đơn vị cung cấp phải có tư cách pháp nhân, có giấy đăng ký kinh 
doanh. Đối với đấu thầu mua sắm các loại máy móc thiết bị công nghệ cao, 
ngoài giấy phép đăng ký kinh doanh, phải có giấy phép bán hàng thuộc 
thẩm quyền của nhà sản xuất. 
+ Đơn vị cung cấp thiết bị phải cung cấp những loại thiết bị theo đúng yêu 
cầu đã được ký kết trong hợp đồng và phải chịu sự kiểm tra, giám sát của 
các chuyên gia quản lý dự án và của cơ quan giám định của Nhà nước về 
chất lượng máy móc công nghiệp. 
+ Đơn vị cung cấp thiết bị phải có hệ thống tổ chức đảm bảo chất lượng 
các máy móc thiết bị cung cấp trong quá trình các máy móc thiết bị vận 
hành sản xuất. 
4.5. Quản lý rủi ro 
Do thông tin kém chất lượng kéo theo sự thiếu chính xác của các yếu tố 
trong lập và quản lý dự án nên thường gây ra rất nhiều rủi ro trong quản lý 
hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị thi công xây dựng. Yếu tố 
rủi ro nhất đối với quyết điịnh đầu tư mua sắm máy móc thiết bị là thị 
trường công việc xây dựng cơ sở hạ tầng cạnh tranh nhau quá gay gắt. Tất 
cả các doanh nghiệp xây dựng cơ sở hạ tầng đều phải cạnh tranh trên một 
thị trường có quy mô hãy còn khá khiêm tốn và tốc độ phát triển không 
cao, vì vậy tình trạng thiếu thị trường công việc cho công ty thường xuyên 
xảy ra. Hơn nữa, khi thực hiện những dự án lớn, công ty thường chỉ là nhà 
thầu phụ từng phần cho các nhà của nước ngoài, vì vậy giá bỏ thầu của 
công ty phải rất thấp để đảm bảo được hoạt động sản xuất liên tục của 
mình. Từ đó tất yếu dẫn đến việc các máy móc thiết bị buộc phải giảm mức 
khấu hao xuống thấp nhất, thậm chí không có khấu hao và hậu quả là công 
ty không thể đảm bảo được tiến độ hoàn vốn cho các dự án. 
Ngoài ra còn phải kể đến hàng loạt các yếu tố khác khi quyết định đầu tư 
mua sắm máy móc thiết bị xây dựng như rủi ro về công nghệ thiết bị, rủi ro 
về lạm phát,trượt giá…cũng có ảnh hưởng không nhỏ. 
 63
IV. MỘT SỐ NHỮNG TỒN TẠI CHỦ YẾU TRONG CÔNG TÁC LẬP VÀ QUẢN 
LÝ DỰ ÁN ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ VÀ THIẾT BỊ XÂY DỰNG. 
1. Chất lượng của công tác lập và quản lý dự án còn thấp 
Lập dự án đầu tư mua sắm thiết bị thi công trong doanh nghiệp xây dựng 
có đặc thù riêng do tác động của các đặc điểm thuộc ngành xây dựng. Qua 
quá trình phân tích công tác lập và quản lý dự án đầu tư đổi mới công nghệ 
và thiết bị xây dựng tại công ty có thể rút ra một số hạn chế cơ bản sau: 
Thứ nhất công ty chưa tuân theo đúng các yêu cầu quy định trong trình tự 
lập dự án đầu tư, đặc biệt là đối với những dự án phục vụ cho một công 
trình cụ thể. Trong thực tiễn có khi giai đoạn chuẩn bị đầu tư và giai đoạn 
thực hiện đầu tư được làm gối lên nhau. Điều này một mặt đảm bảo kịp 
thời tiến độ thi công nhưng nó sẽ ảnh hưởng đến công tác vận hành và quản 
lý dự án sau này. 
Thứ hai là các nội dung của dự án đầu tư chưa được thực hiện đầy đủ, 
chưa tuân theo các yêu cầu về nội dung của một dự án được quy định tại 
các Nghị định của Chính phủ trong từng thời kỳ mà gần đây nhất là Nghị 
định 52/NĐCP về quy chế quản lý đầu tư và xây dựng. 
Thứ ba là chất lượng của việc tính toán các chỉ tiêu hiệu quả trong phân 
tích tài chính dự án đầu tư còn nhiều hạn chế, các tính toán chủ yếu mang 
tính ước lượng chủ quan mà chưa dựa vào những biến động thực tế của thị 
trường cũng như thực tế của hoạt động sản xuất của công ty. Các chỉ tiêu 
hiệu quả mới chỉ dừng lại ở việc tính toán các chỉ tiêu NPV, NFV, IRR và 
thời hạn thu hồi vốn nhằm hợp lý hoá các thủ tục vay vốn ngân hàng mà 
chưa tính đến những chỉ tiêu hiệu quả quan trọng khác. 
Bên cạnh đó, tính khả thi về tài chính của dự án mới chỉ được đánh giá 
thông chỉ qua các chỉ tiêu phản ánh mặt tài chính mà chưa được thể hiện 
thông qua việc xem xét độ an toàn về tài chính như: An toàn về nguồn 
 64
vốn, an toàn về khả năng thanh toán nghĩa vụ tài chính ngắn hạn và khả 
năng trả nợ, độ nhạy của dự án. Những chỉ tiêu an toàn về tài chính này rất 
quan trọng, đặc biệt là trong điều kiện thị trường xây dựng biến động liên 
tục như hiện nay thì việc xem xét chúng là rất cần thiết. 
Các dự án cũng chưa xem xét đến tỷ lệ trượt giá và tỷ lệ lạm phát. Lạm 
phát là sự giảm sức mua của đồng tiền nói chung. Còn trượt giá là sự tăng 
hay giảm giá của một mặt hàng nhất định. Trượt giá và lạm phát là yếu tố 
khách quan tác động đến các khoản thu chi và mức lãi suất thực tế của dự 
án. Bởi vậy, để đánh giá đúng hiệu quả tài chính của dự án trong bối cảnh 
nền kinh tế nước ta thì cần phải xét đến tác động này. Doanh thu và chi phí 
của các dự án tại công ty hầu hết đều được giữ nguyên trong suốt cả đời dự 
án là chưa được hợp lý vì nó chưa phản ánh trung thực những biến động về 
giá cả có thể xảy ra trên thị trường trong suốt những năm dự án vận hành 
sản xuất. 
Thứ tư công tác quản lý dự án chủ yếu được thực hiện bởi các đội sản xuất 
ngay tại công trường chứ chưa có một bộ phận riêng biệt đảm bảo theo dõi 
công tác này. Chính vì vậy mà quá trình quản lý dự án, đặc biệt là quản lý 
trong giai đoạn vận hành thường không nghiêm túc, chặt chẽ, các yêu cầu 
về bảo hành bảo dưỡng máy móc thiết bị thường bị bỏ qua. Về mặt nội 
dung, mặc dù các dự án có chia theo từng lĩnh vực quản lý cụ thể như quản 
lý thời gian, quản lý chất lượng, quản lý chi phí, quản lý rủi ro nhưng trên 
thực tế không có sự quản lý rõ ràng đối với từng lĩnh vực. Công tác quản lý 
do đó chỉ mang nhiều tính chất hình thức mà chưa phát huy được tác dụng 
một cách rõ ràng. 
2. Công tác quản lý dự án chưa theo sát công tác lập dự án 
Do đặc điểm của ngành xây dựng trong một thời kỳ có thể cùng lúc thực 
hiện nhiều công trình khác nhau nên nhìn chung hoạt động quản lý dự án 
 65
đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị thi công ở khâu vận hành rất phức tạp. 
Công tác quản lý dự án đầu tư chỉ phụ thuộc vào yêu cầu thi công tại công 
trường chứ ít khi được quản lý theo từng nội dung cụ thể. Ngược lại, các 
dự án được lập cũng chủ yếu dựa vào yêu cầu thi công hoặc mục tiêu phát 
triển chiến lược của công ty chứ không dựa vào cơ sở thực tiễn quản lý dự 
án của những năm trước. Thêm vào đó, công tác quản lý dự án chủ yếu do 
các đội sản xuất tại công trường đảm nhiệm. Bộ phận này lại hoàn toàn độc 
lập với nhóm chuyên viên kiêm nhiệm lập dự án. Vì vậy mà công tác lập và 
quản lý dự án tại công ty hoàn toàn không được thông nhất với nhau cả về 
mặt nội dung và trình tự. Công tác lập dự án chưa tạo điều kiện thuận lợi 
cho công tác quản lý, và ngược lại, công tác quản lý dự án cũng chưa thống 
nhất về trình tự và nội dung để có những điều chỉnh trong khâu lập cho 
thích hợp. 
3. Chưa áp dụng hình thức đấu thầu trong mua sắm thiết bị xây dựng 
Theo quy chế Đấu thầu, đối với những gói thầu mua sắm trị giá trên 2 tỷ 
đồng phải thực hiện đấu thầu. Nhưng trên thực tế, quy định này thường bị 
bỏ qua. Công ty thường không tổ chức đấu thầu theo quy định mà thường 
sử dụng hình thức chỉ định thầu hoặc chào hàng cạnh tranh trên cơ sở các 
mối quan hệ. Một số dự án có sử dụng biện pháp đấu thầu cạnh tranh hạn 
chế, nhưng thực chất cũng chỉ là chỉ định thầu do các nhà thầu liên kết với 
nhau nhằm đảm bảo cho việc thanh tra kiểm tra của các cơ quan pháp luật. 
Nội dung và quy trình chấm thầu của công ty cũng thiếu chuyên nghiệp. Do 
năng lực tài chính còn hạn chế nên công ty hầu như chỉ quan tâm đến yếu 
tố giá cả, còn các yếu tố về chất lượng công nghệ thường mơ hồ, thiếu 
những tiêu chuẩn chặt chẽ, các chế độ bảo hành bảo trì cũng không được 
quan tâm nhiều. Điều này là đặc biệt nguy hiểm đối với những thiết bị đã 
qua sử dụng. 
 66
4. Bộ máy lập và quản lý dự án chưa có tính chuyên nghiệp 
Công ty chưa có một tổ chức chuyên nghiệp để lập và quản lý dự án mà 
vẫn chỉ sử dụng các chuyên gia, các cán bộ kỹ thuật ở các phòng ban chức 
năng khác nhau tham gia lập và quản lý dự án đầu tư. Chính vì vậy mà 
công tác lập và quản lý dự án tại công ty không có trách nhiệm rõ ràng, 
không có một đầu mối để quản lý chung. Hơn nữa, chức năng, quyền hạn, 
nhiệm vụ của các chuyên gia, các phòng chức năng không thống nhất, đôi 
khi còn mâu thuẫn làm cho việc lập dự án chồng chéo thiếu nhịp nhàng. 
Thêm vào đó, năng lực của các cán bộ lập và quản lý dự án còn hạn chế 
cũng ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng của công tác này. 
V. MỘT SỐ NGUYÊN NHÂN ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG CỦA CÔNG TÁC 
LẬP VÀ QUẢN LÝ DỰ ÁN ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ THIẾT BỊ XÂY 
DỰNG 
1. Nguyên nhân từ thị trường công việc. 
Thị trường công việc chính là yếu tố cơ bản nhất, quyết định nhất đến hiệu 
quả đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị thi công của công ty. Nó tác động 
đến hiệu quả trên hai khía cạnh là: 
- Doanh thu 
- Lợi nhuận và thời gian hoàn vốn đầu tư 
Thông thường, khi lập dự án đầu tư mua sắm thiết bị xây dựng, công ty tuy 
đã tính toán đến yếu tố này nhưng diễn biến thực tế của thị trường rất phức 
tạp. Khi tính toán chỉ tiêu doanh thu hàng năm của máy móc thiết bị và 
công nghệ được đầu tư, công ty thường dựa vào năng suất bình quân của 
thiết bị, hệ số kỹ thuật của máy và những dự đoán chung nhất về hệ số sử 
dụng thiết bị. Nhưng thực tế lại không diễn ra như vậy. Đối với những dự 
án đầu tư vào công nghệ thiết bị cho một công trình cụ thể có thời gian xây 
dựng dài ( khoảng trên 50% thời gian hoàn vốn của dự án) thì các chỉ tiêu 
về hệ số sử dụng thiết bị có thể bảo đảm được. Còn đối với những dự án 
đầu tư vào thiết bị đặc chủng được lập theo mục tiêu chiến lược và kế 
 67
hoạch kinh doanh của doanh nghiệp thì hệ số sử dụng thiết bị ước tính có 
thể khác rất xa so với thực tế. 
Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt trên thị trường xây dựng cơ sở hạ tầng 
như hiện nay, muốn thắng thầu công ty phải giảm xuống mức thấp 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
Luận văn- MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỦ YẾU NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC LẬP VÀ QUẢN LÝ DỰ ÁN ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ VÀ THIẾT BỊ XÂY DỰNG TRONG THỜI GIAN TỚI.pdf