Luận văn Hoàn thiện môi trường đầu tư nhằm đẩy mạnh hoạt động thu hút vốn FDI tại thành phố Đà Nẵng

Tài liệu Luận văn Hoàn thiện môi trường đầu tư nhằm đẩy mạnh hoạt động thu hút vốn FDI tại thành phố Đà Nẵng: 1 MỤC LỤC Trang Trang bìa phụ Lời cam đoan Lời cảm ơn Mục lục Danh mục các chữ viết tắt i Danh mục các bảng, biểu ii Danh mục hình vẽ iii Danh mục các hộp tiêu điểm iv Lời mở đầu v 1. Ý nghĩa và tính cấp thiết của đề tài v 2. Mục tiêu nghiên cứu vi 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu vii 4. Tính mới của luận văn vii 5. Phương pháp nghiên cứu ix 6. Nội dung x Chương I: Những cơ sở lý luận về môi trường đầu tư 1 1.1 Những vấn đề về đầu tư trực tiếp nước ngoài 1 1.1.1 Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài 1 1.1.2 Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam 1 1.1.3 Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong nền kinh tế hiện nay 3 1.2 Môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài 4 1.2.1 Khái niệm 4 2 1.2.2 Các yếu tố cấu thành môi trường đầu tư 7 1.3 Ý nghĩa của việc nghiên cứu môi trường đầu tư 1...

pdf115 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 907 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Hoàn thiện môi trường đầu tư nhằm đẩy mạnh hoạt động thu hút vốn FDI tại thành phố Đà Nẵng, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 MỤC LỤC Trang Trang bìa phụ Lời cam đoan Lời cảm ơn Mục lục Danh mục các chữ viết tắt i Danh mục các bảng, biểu ii Danh mục hình vẽ iii Danh mục các hộp tiêu điểm iv Lời mở đầu v 1. Ý nghĩa và tính cấp thiết của đề tài v 2. Mục tiêu nghiên cứu vi 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu vii 4. Tính mới của luận văn vii 5. Phương pháp nghiên cứu ix 6. Nội dung x Chương I: Những cơ sở lý luận về môi trường đầu tư 1 1.1 Những vấn đề về đầu tư trực tiếp nước ngoài 1 1.1.1 Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài 1 1.1.2 Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam 1 1.1.3 Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong nền kinh tế hiện nay 3 1.2 Môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài 4 1.2.1 Khái niệm 4 2 1.2.2 Các yếu tố cấu thành môi trường đầu tư 7 1.3 Ý nghĩa của việc nghiên cứu môi trường đầu tư 15 1.4 Các bài học kinh nghiệm về hoàn thiện môi trường đầu tư nhằm tăng cường thu hút vốn FDI 16 1.4.1 Kinh nghiệm của Bình Dương 16 1.4.2 Kinh nghiệm của Singapore 18 1.4.3 Bài học kinh nghiệm rút ra trong việc hoàn thiện môi trường đầu tư của thành phố Đà Nẵng 20 Kết luận chương 1 21 Chương 2: Phân tích thực trạng môi trường đầu tư trong hoạt động thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố Đà Nẵng từ năm 2001 đến nay 22 2.1 Một số nét khái quát về Thành phố Đà Nẵng 22 2.1.1 Điều kiện tự nhiên 22 2.1.2 Điều kiện xã hội 23 2.2 Tình hình thu hút vốn FDI vào thành phố Đà Nẵng từ năm 2001 – 2005 24 2.2.1 Số lượng vốn FDI thu hút 24 2.2.2 Tình hình thu hút vốn FDI theo đối tác 26 2.2.3 Tình hình thu hút vốn FDI theo hình thức đầu tư 27 2.2.4 Tình hình thu hút vốn FDI theo lĩnh vực đầu tư 28 2.2.5 Kết quả hoạt động thu hút FDI tại TP. Đà Nẵng từ năm 2001-2005 29 2.3 Phân tích thực trạng môi trường đầu tư trong việc thu hút vốn FDI của thành phố Đà Nẵng trong thời gian qua (2001-nay) 32 2.3.1 Môi trường chính trị – xã hội 32 2.3.2 Môi trường pháp lý – hành chính 34 2.3.3 Môi trường cơ sở hạ tầng 38 3 2.3.4 Môi trường kinh tế – tài nguyên 43 2.3.5 Môi trường tài chính – ngân hàng 51 2.3.6 Môi trường lao động 52 Kết luận chương 2 55 Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện môi trường đầu tư nhằm đẩy mạnh hoạt động thu hút vốn FDI của thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2006-2010 57 3.1 Quan điểm đề xuất giải pháp 57 3.2 Mục tiêu đề xuất giải pháp 57 3.3 Căn cứ đề xuất giải pháp 58 3.4 Ma trận SWOT 59 3.4.1 Những điểm mạnh 59 3.4.2 Những điểm yếu 60 3.4.3 Những cơ hội 61 3.4.4 Những thách thức 62 3.5 Các nhóm giải pháp hoàn thiện môi trường đầu tư để thu hút vốn FDI của thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2006-2010 64 3.5.1 Nhóm giải pháp về hoàn thiện cơ chế quản lý – thủ tục hành chính 64 3.5.2 Nhóm giải pháp về hoàn thiện môi trường cơ sở hạ tầng 69 3.5.3 Nhóm giải pháp về hoàn thiện môi trường lao động 73 3.5.4 Một số kiến nghị 76 Kết luận chương 3 79 Kết luận xiv Tài liệu tham khảo xvi Phụ lục xxi 4 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT - FDI : Đầu tư trực tiếp nước ngoài - CNH-HĐH : Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa - DN : Doanh nghiệp - GDP : Tổng sản phẩm quốc nội - IMF : Quỹ Tiền tệ quốc tế (International Monetary Fund) - KCN : Khu công nghiệp - KCX : Khu chế xuất - TNHH : Trách nhiệm hữu hạn - TP : Thành phố - UBND : Ủy ban nhân dân - WB : Ngân hàng Thế giới (World Bank) 5 DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU Trang - Bảng 1.1: Tình hình thu hút vốn FDI vào Bình Dương 16 - Bảng 2.1: Tình hình thu hút vốn FDI vào TP. Đà Nẵng từ năm 2001-2005 25 - Bảng 2.2: Nguồn vốn FDI đầu tư vào tỉnh Bình Dương và TP. Đà Nẵng 25 - Bảng 2.3: Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài theo quốc gia/ vùng lãnh thổ 26 - Biểu 2.1: Vốn FDI theo hình thức đầu tư 28 - Bảng 2.4: Tổng sản phẩm nội địa (GDP) của Đà Nẵng giai đoạn 2001–2005 30 - Bảng 2.5: Tốc độ tăng GDP của các thành phần kinh tế TP. Đà Nẵng 30 - Bảng 2.6: Kim ngạch xuất khẩu của các thành phần kinh tế TP. Đà Nẵng 31 - Bảng 2.7: Lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn FDI 32 - Bảng 2.8: Số lượng các doanh nghiệp trong các KCN tại Đà Nẵng 42 - Bảng 2.9: Các KCN, KCX tại Thành phố Hồ Chí Minh và Bình Dương 42 - Bảng 2.10: Giá trị sản xuất công nghiệp của Thành phố Đà Nẵng 46 - Bảng 2.11: Giá cước thuê tàu tại thị trường Đà Nẵng và TP. Hồ Chí Minh 47 - Bảng 2.12: Kết quả hoạt động kinh doanh du lịch của Đà Nẵng 48 - Bảng 2.13: Trình độ lực lượng lao động của TP. Đà Nẵng 52 DANH MỤC HÌNH VẼ Trang - Hình 1.1: Các điều kiện về môi trường đầu tư của Trung Quốc 7 6 DANH MỤC CÁC HỘP TIÊU ĐIỂM Trang - Hộp 1: Dự án khu nghỉ mát Furama 36 - Hộp 2: Quyết định đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài 37 - Hộp 3: Quyết tâm xây dựng cầu Sông Hàn của thành phố Đà Nẵng 39 - Hộp 4: 10 năm xây dựng đô thị Đà Nẵng – "được" gì, "mất" gì? 43 - Hộp 5: Sự yếu kém của các doanh nghiệp hoạt động tại Đà Nẵng 45 - Hộp 6: Báo động ô nhiễm môi trường tại thành phố Đà Nẵng 46 - Hộp 7: Bà Nà – Để chơi hay để nghỉ? 49 - Hộp 8: Đi du lịch tìm thấy cơ hội kinh doanh 50 7 LỜI MỞ ĐẦU 1. Ý nghĩa và tính cấp thiết của đề tài Trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa (CNH-HĐH), vốn đầu tư luôn được xem là vấn đề nan giải đối với các nước đang phát triển. Làm thế nào huy động được nguồn vốn (cả nguồn vốn bên trong lẫn nguồn vốn bên ngoài) để đáp ứng được yêu cầu của công cuộc CNH-HĐH luôn là thách thức đối với các nước trên con đường thoát ra khỏi đói nghèo. Vì lẽ đó, cuộc cạnh tranh giữa các nước cũng như các địa phương trong một quốc gia nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài ngày càng trở nên gay gắt hơn bao giờ hết. Kể từ năm 1997, sau khi được tách ra từ tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng, Đà Nẵng đã trở thành thành phố trực thuộc Trung ương, được xác định là hạt nhân của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và Tây Nguyên; và đã được Chính phủ chính thức công nhận là đô thị loại 1. Nghị quyết 33 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ CNH-HĐH đất nước đã nêu rõ rằng: " Đà Nẵng nằm ở vị trí trung độ cả nước, có vị trí trọng yếu cả về kinh tế – xã hội, an ninh – quốc phòng; là đầu mối giao thông quan trong về đường bộ, đường sắt, đường biển và đường hàng không; cửa ngõ chính đi ra biển Đông của các tỉnh miền Trung – Tây Nguyên và các nước tiểu vùng Mê-Kông". Do vậy, nếu có một chính sách phát triển đúng đắn với những bước đi thích hợp, Đà Nẵng sẽ phát huy được thế mạnh sẵn có, tạo động lực và làm đòn bẩy thúc đẩy kinh tế phát triển, "trở thành một trong những đô thị lớn của cả nước; là trung tâm kinh tế – xã hội lớn của miền Trung với vai trò là trung tâm công nghiệp, thương mại, du lịch và dịch vụ" . Để thực hiện được các mục tiêu đề ra, thành phố Đà Nẵng cần phải có một nguồn vốn rất lớn. Trong khi khả năng tích lũy vốn nội bộ của địa phương còn 8 Xuất phát từ thực tiễn đó, tôi đã chọn đề tại "Hoàn thiện môi trường đầu tư nhằm đẩy mạnh hoạt động thu hút vốn FDI tại thành phố Đà Nẵng" với mong muốn được nghiên cứu và phân tích các thực trạng về môi trường đầu tư, từ đó đề xuất ra các giải pháp nhằm hoàn thiện môi trường đầu tư tại thành phố Đà Nẵng. 2. Mục tiêu nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu một số vấn đề cơ bản sau: - Hoạt động thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố Đà Nẵng trong những năm qua (2001-2005) - Thực trạng môi trường đầu tư trong hoạt động thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố Đà Nẵng ở một số khía cạnh sau: • Môi trường chính trị – xã hội • Môi trường pháp lý – hành chính • Môi trường cơ sở hạ tầng • Môi trường kinh tế – tài nguyên 9 • Môi trường tài chính • Môi trường lao động - Phân tích ma trận SWOT thông qua các điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của môi trường đầu tư để từ đó thấy được những tác động của môi trường này đến hoạt động thu hút vốn đầu tư nước ngoài của thành phố trong thời gian qua. - Căn cứ vào mục tiêu và định hướng phát triển kinh tế – xã hội của thành phố nói chung cũng như hoạt động thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng của thành phố trong những năm tới; và dựa vào ma trận SWOT để đưa ra những giải pháp nhằm cải thiện môi trường đầu tư trong hoạt động thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cho thành phố Đà Nẵng. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu Môi trường đầu tư là một vấn đề rất rộng; tuy nhiên, trong phạm vi đề tài này, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu môi trường đầu tư liên quan đến hoạt động thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố Đà Nẵng. - Phạm vi nghiên cứu: • Không gian: Thành phố Đà Nẵng và một số địa phương khác có liên quan. • Thời gian: Số liệu được cập nhật từ năm 2001 – 2005, vì đây là thời điểm Đà Nẵng bắt đầu thực hiện quá trình quy hoạch phát triển tổng thể thành phố giai đoạn 2001 – 2010. 4. Tính mới của luận văn Đầu tư trực tiếp nước ngoài không còn là vấn đề mới mẻ trong giai đoạn hiện nay. Kể từ khi Luật Đầu tư nước ngoài ra đời, vấn đề này đã thu hút được sự 10 - "Các nhân tố ảnh hưởng và giải pháp đẩy mạnh thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam" của TS. Triệu Hồng Cẩm (2003) - "Một số giải pháp hoàn thiện công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố Hồ Chí Minh" của TS. Trần Đăng Long (2002) - "Vấn đề chuyển giá tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam" của TS. Nguyễn Thị Liên Hoa (2003) - "Một số giải pháp đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố Đà Nẵng" của Th.S Phạm Minh Nhựt (2005) … Nhìn chung, các công trình trên đã tập trung vào nghiên cứu những yếu tố ảnh hưởng hay liên quan đến hoạt động đầu tư, và phần nhiều là đứng trên bình diện của cả nước Việt Nam, hoặc một số tỉnh thành đi đầu trong hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài như Thành phố Hồ Chí Minh hay Bình Dương…( ngoại trừ nghiên cứu của Th.S Phạm Minh Nhựt); tuy nhiên, các tác phẩm trên lại chưa đi sâu vào nghiên cứu môi trường đầu tư của các địa phương cụ thể, một trong những yếu tố rất quan trọng trong hoạt động thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện nay của các địa phương trên cả nước. Luận văn tập trung vào một mảng của hoạt động đầu tư – đó chính là môi trường đầu tư trong hoạt động thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn thành phố Đà Nẵng; nghiên cứu các yếu tố cấu thành môi trường đầu tư, từ đó nêu ra những giải pháp nhằm hoàn thiện môi trường đầu tư. Đây là những điểm mới của luận văn phần lớn chưa được đề cập trong các công trình nghiên cứu mà người viết đã tiếp cận. 11 5. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình triển khai các vấn đề đặt ra, luận văn đã sử dụng đan xen các phương pháp nghiên cứu. - Phương pháp chuyên gia: từ những chuyên gia và những cá nhân có kinh nghiệm, thông qua các cuộc gặp gỡ, người viết đã thực hiện phỏng vấn, tiếp cận các tư liệu, số liệu thực tế để có những định hướng giải quyết đề tài. - Phương pháp so sánh, đối chiếu: Đối tượng nghiên cứu là môi trường đầu tư phải đặt trong sự liên hoàn của chiến lược kinh tế thành phố; việc so sánh, đối chiếu giữa các địa phương trong lĩnh vực thu hút đầu tư và các khía cạnh của môi trường đầu tư để rút ra được những kiến giải và hướng đi đúng trong việc xây dựng môi trường đầu tư của thành phố Đà Nẵng. - Phương pháp phân tích thống kê và tổng hợp: từ việc thu thập những số liệu, dữ liệu về hoạt động thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn thành phố Đà Nẵng và các địa phương có liên quan cũng như những thông tin về chính sách – chiến lược của thành phố Đà Nẵng, luận văn tiến hành phân tích nhằm đưa ra những kiến giải. - Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng phương pháp quan sát thực tế để có cái nhìn cụ thể và định hướng cho những số liệu, chiến lược rồi đưa ra những giải pháp phù hợp với thực tế môi trường đầu tư của thành phố Đà Nẵng. - Trong quá trình tiến hành, luận văn vận dụng kết hợp tất cả các phương pháp nêu trên để có cái nhìn cụ thể và rõ ràng nhất có thể. 12 6. Nội dung Chương 1: Những cơ sở lý luận về môi trường đầu tư Chương này tập trung tìm hiểu khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài, môi trường đầu tư, các yếu tố cấu thành môi trường đầu tư … để làm nền tảng cơ sở lý luận cho việc phân tích môi trường đầu tư ảnh hưởng như thế nào trong hoạt động thu hút vốn FDI của thành phố Đà Nẵng. Chương 2: Phân tích thực trạng môi trường đầu tư trong hoạt động thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố Đà Nẵng từ năm 2001 đến nay. - Khái quát đôi nét về thành phố Đà Nẵng. - Điểm qua hoạt động thu hút vốn FDI của Đà Nẵng trong thời gian từ 2001- 2005. Từ đó, rút ra kết luận về những thuận lợi, khó khăn, cơ hội cũng như thách thức của môi trường đầu tư với hoạt động thu hút vốn FDI trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện môi trường đầu tư nhằm đẩy mạnh hoạt động thu hút vốn FDI của thành phố Đà Nẵng. - Tìm hiểu những quan điểm, mục tiêu cũng như những căn cứ làm nền tảng cho việc củng cố và hoàn thiện môi trường đầu tư tại thành phố Đà Nẵng. Trên cơ sở những phân tích, đánh giá về môi trường đầu tư, người viết xây dựng ma trận SWOT làm cơ sở đề ra những giải pháp hoàn thiện môi trường đầu tư trong thời gian đến (2006-2010) cho thành phố Đà Nẵng. - Đề xuất các giải pháp hoàn thiện môi trường đầu tư nhằm đẩy mạnh hoạt động thu hút vốn FDI vào thành phố Đà Nẵng trong thời gian đến. 13 Chương 1: NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ 1.1 Những vấn đề về đầu tư trực tiếp nước ngoài 1.1.1 Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài được nhiều tổ chức kinh tế trên thế giới đưa ra nhằm mục đích giúp các quốc gia trong việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô về hoạt động đầu tư nước ngoài. Có nhiều cách tiếp cận khác nhau đối với khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài. Theo IMF trong báo cáo Cán cân thanh toán hàng năm đã đưa ra khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài như sau: ”Đầu tư trực tiếp nước ngoài là đầu tư có lợi ích lâu dài của một doanh nghiệp tại một nước khác (nước nhận đầu tư – hosting country), không phải là tại nước mà doanh nghiệp đang hoạt động (nước đi đầu tư – sourcing country) với mục đích quản lý một cách có hiệu quả doanh nghiệp". Với Việt Nam, sau nhiều lần sửa đổi bổ sung, Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã được đổi lại tên gọi mới là Luật Đầu tư có hiệu lực ngày 01/07/2006; mà theo quy định của khoản 2, điều 3, chương I của Luật này thì đầu tư trực tiếp được hiểu là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư. Như vậy, qua các định nghĩa trên, có thể rút ra một kết luận: đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức mà nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư nhằm mục đích kinh doanh có lãi. 1.1.2 Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam Hiện nay, tại Việt Nam có 3 hình thức đầu tư chủ yếu sau: a. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài Đây là doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài, do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại nước chủ nhà, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết 14 b. Doanh nghiệp liên doanh Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp được thành lập do các chủ đầu tư nước ngoài góp vốn chung với các tổ chức, cá nhân trong nước trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Các bên cùng tham gia điều hành doanh nghiệp, phân chia lợi nhuận cũng như chịu rủi ro theo tỷ lệ góp vốn tương ứng giữa các bên. Loại hình doanh nghiệp này là công ty trách nhiệm hữu hạn; tùy thuộc vào quy mô của vốn đầu tư và lĩnh vực đầu tư mà thời hạn đầu tư cho mỗi liên doanh sẽ khác nhau. c. Hợp đồng hợp tác kinh doanh Là doanh nghiệp hợp doanh theo kiểu hợp đồng hay còn được xem là văn bản ký kết giữa hai hay nhiều bên quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu tư kinh doanh mà không cần thành lập pháp nhân. d. Một số hình thức đầu tư đặc thù - Xây dựng – kinh doanh – chuyển giao (BOT) - Xây dựng – chuyển giao – kinh doanh (BTO) - Xây dựng – chuyển giao (BT) Nhìn chung, cả ba hình thức trên đều có những đặc điểm chung sau: - Chỉ được ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền - Đầu tư vào hạ tầng cơ sở của Việt Nam: xây dựng cầu đường, cầu, cảng, sân bay, các công trình điện nước … - Được hưởng nhiều ưu đãi của chính phủ Việt Nam về tiền thuê đất, thuế các loại, thời gian đầu tư dài, tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thu hồi vốn và có lời hợp lý 15 - Hết thời hạn hoạt động của giấy phép, chủ đầu tư phải chuyển giao không bồi hoàn công trình cho chính phủ Việt Nam trong tình trạng hoạt động bình thường. 1.1.3 Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong nền kinh tế hiện nay 1.1.3.1 Đối với nước chủ đầu tư - Giúp thâm nhập vào những thị trường mới mà vẫn có thể đạt được lợi nhuận cao nhờ tận dụng việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư, các lợi thế sản xuất sẵn có của nước tiếp nhận đầu tư và mở rộng thị trường tiêu thụ. - Xây dựng được thị trường cung cấp nguyên vật liệu ổn định. - Phân tán và giảm bớt rủi ro của việc tập trung sản xuất và kinh doanh trong phạm vi một quốc gia. - Hạn chế được các rào cản thương mại, các hàng rào bảo hộ mậu dịch do một số các quốc gia đặt ra; thông qua con đường đầu tư, các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể tranh thủ được những ưu đãi của nước tiếp nhận đầu tư. 1.1.3.2 Đối với nước tiếp nhận đầu tư - Góp phần bổ sung nguồn vốn đầu tư, thúc đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế. - Giải quyết công ăn, việc làm, đẩy lùi nạn thất nghiệp, từ đó góp phần nâng cao đời sống của người dân, tăng thu nhập quốc dân. - Giúp các nước nghèo, kém phát triển chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cải thiện cơ sở hạ tầng của nền kinh tế mà nguồn vốn trong nước không đủ khả năng đáp ứng. - Giúp các nước nghèo phần nào tiếp thu và theo kịp với trình độ công nghệ, trình độ quản lý, trình độ nguồn nhân lực … từ các nước tiên tiến thông qua các hợp đồng chuyển giao công nghệ. 1.1.3.3 Đối với sự phát triển của thành phố Đà Nẵng 16 - Được xem là nguồn vốn đóng góp và bổ sung quan trọng cho hoạt động đầu tư và phát triển kinh tế – xã hội, vốn FDI giải quyết một phần đáng kể nhu cầu vốn đang bị thiếu hụt trầm trọng và góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của thành phố. - Góp phần tích cực vào việc duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế, đẩy mạnh xuất khẩu, mở rộng thị trường xuất khẩu và tăng thu cho ngân sách của thành phố. - Tiếp thu công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý, tổ chức … đẩy nhanh quá trình phát triển ngang bằng với hai đầu đất nước; thúc đẩy quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực. - Các doanh nghiệp FDI góp phần giải quyết việc làm, tạo ra thu nhập cho người lao động và góp phần nâng cao trình độ của người lao động. - Góp phần đáng kể vào việc sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên đang sẵn có của địa phương. - Đầu tư trực tiếp nước ngoài còn được xem là động lực góp phần làm cho môi trường kinh doanh của Đà Nẵng nói riêng và khu vực miền Trung thêm phần sôi động. 1.2 Môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài 1.2.1 Khái niệm 1.2.1.1 Môi trường đầu tư Môi trường đầu tư là tổng hòa các yếu tố về pháp luật, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và các yếu tố: cơ sở hạ tầng, năng lực thị trường, cả các lợi thế của một quốc gia có liên quan, ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động đầu tư trong và ngoài nước tại một quốc gia [47,74]. Theo World Bank, môi trường đầu tư được định nghĩa như sau: “môi trường đầu tư là tập hợp các yếu tố đặc thù của địa phương đang định hình cho các cơ hội và động lực để doanh nghiệp đầu tư có hiệu quả, tạo việc làm và mở rộng sản xuất” [27,26]. 17 Như vậy, môi trường đầu tư được xem là tổng hòa hoặc tập hợp của nhiều yếu tố có thể làm tăng khả năng sinh lãi (hoặc rủi ro) cho các nhà đầu tư nước ngoài. Vấn đề đặt ra là ta phải tìm hiểu tất cả các yếu tố cấu thành của môi trường đầu tư để hoàn thiện nó, thu hút nhiều hơn nữa các nhà đầu tư đến và làm ăn. 1.2.1.2 Môi trường đầu tư bình đẳng và cạnh tranh a. Môi trường đầu tư bình đẳng Đầu tư là một trong những hoạt động chính của quá trình hội nhập kinh tế. Sự hội nhập kinh tế quốc tế trong hoạt động đầu tư được thực hiện thông qua hai nguyên tắc cơ bản là: nguyên tắc tối huệ quốc và nguyên tắc đối xử quốc gia. Và một môi trường đầu tư bình đẳng sẽ hoạt động dựa trên hai nguyên tắc này. - Nguyên tắc đối xử quốc gia trong hoạt động đầu tư – Nguyên tắc NT (National Treatment): nước tiếp nhận đầu tư FDI cam kết giành các điều kiện đầu tư thuận lợi (ưu đãi) cho các nhà đầu tư các nước khác đến đầu tư ở nước mình, không kém hơn những điều kiện nhà đầu tư nội địa được hưởng. - Nguyên tắc Tối huệ quốc trong hoạt động đầu tư – Nguyên tắc MFN (Most Favoured Nations): một nước sẽ giành các điều kiện thuận lợi (ưu đãi) cho các nhà đầu tư của một nước khác, không kém hơn những ưu đãi mà họ đã giành cho các nhà đầu tư ở nước thứ 3 khác khi họ tiến hành đầu tư trên lãnh thổ quốc gia mình. Về thực chất, hai nguyên tắc này đều hướng đến một mục đích chung là tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng, môi trường đầu tư bình đẳng giữa các nhà đầu tư. Sự bình đẳng này thể hiện ở việc tất cả các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau đều phải được đảm bảo quyền lợi như nhau trước các yêu cầu, quy định của pháp luật, cũng như phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ mà pháp luật quy định trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình. Đó chính là tính minh bạch của 18 Như vậy, có thể nói rằng bình đẳng trong hoạt động đầu tư được xem là “môi trường sống” của doanh nghiệp. Một môi trường đầu tư tốt, thông thoáng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp nói chung; ngược lại môi trường đầu tư bị “ô nhiễm”, “đi mắc núi, về mắc sông” sẽ là những trở ngại, hạn chế doanh nghiệp phát triển [48,20]. b. Môi trường đầu tư cạnh tranh Tính cạnh tranh của môi trường đầu tư chính là sự so sánh môi trường đầu tư khác nhau ở những tiêu chí như nhau. Môi trường đầu tư thay đổi không chỉ giữa các nước mà ngay cả trong nội bộ một nước. Điều này xuất hiện chính do sự khác biệt trong cách thức quản lý của các quốc gia nói chung cũng như trong chính sách và hành vi quản lý của từng địa phương nói riêng. Theo Báo cáo về Môi trường kinh doanh toàn cầu của WB, để thành lập một doanh nghiệp mới, nhà đầu tư ở nước cải cách nhất là Canada chỉ mất 3 ngày với việc thực hiện 2 thủ tục; và ở nước ít cải cách nhất là Angola, nhà đầu tư phải mất 146 ngày với 14 thủ tục mới thành lập xong doanh nghiệp của mình; còn ở Việt Nam, con số này là 50 ngày với 11 thủ tục [27,61]. 19 Ngoài ra, còn có sự khác biệt rất lớn trong những điều kiện về môi trường đầu tư đã diễn ra trong phạm vi một quốc gia. Hình 1.1 Các điều kiện về môi trường đầu tư của Trung Quốc 0 5 10 15 20 25 Bắc Kinh Thành Đô Quảng Châu Thượng Hải Thiên Tân Thời gian bắc điện thoại (ngày) Thời gian làm thủ tục HQ nhập khẩu (ngày) (Nguồn: Báo cáo phát triển thế giới 2005–Môi trường đầu tư tốt hơn cho mọi người)[27] 1.2.2 Các yếu tố cấu thành môi trường đầu tư 1.2.2.1 Yếu tố chính trị – xã hội - Sự ổn định chính trị là yếu tố hấp dẫn hàng đầu với các nhà đầu tư. Chính phủ nước sở tại cần có một chính sách hợp lý để ổn định chính trị và giữ cho xã hội ổn định trong một thời gian dài. Đặc biệt là đường lối đối ngoại cởi mở hữu hảo sẽ thu hút được sự quan tâm, tán đồng, ủng hộ của các quốc gia trong vùng, cuốn hút họ cùng tham gia vào công cuộc phát triển kinh tế của nước mình. Nội chiến sẽ không chỉ thiêu đốt cả vốn lẫn lãi mà hơn nữa còn uy hiếp đến tính mạng của chủ đầu tư. Chiến tranh và các dạng bạo lực tràn lan sẽ đặt dấu chấm hết cho tất cả các khoản đầu tư. Như vậy, ổn định chính trị là điều kiện tiên quyết để đảm bảo các cam kết của chính phủ đối với các nhà đầu tư về sở hữu vốn đầu tư, các chính sách ưu tiên đầu tư, định hướng đầu tư, cơ cấu đầu tư của nước tiếp nhận đầu tư. 20 - Sự ổn định chính trị còn là điều kiện thiết yếu để duy trì sự ổn định về tình hình kinh tế – xã hội. Đây là yếu tố tác động trực tiếp và có tính toàn diện làm tăng hoặc giảm tính rủi ro trong hoạt động đầu tư. Nguyên tắc hàng đầu của các nhà đầu tư nói chung và các nhà đầu tư nước ngoài nói riêng là an toàn vốn và sinh lãi. Vì hoạt động trong môi trường xa lạ, vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn lâu nên các nhà đầu tư nước ngoài rất lo ngại tài sản của họ bị nước chủ nhà tịch thu, quốc hữu hóa. Hơn nữa, tình hình chính trị không ổn định thường dẫn tới đường lối phát triển của đất nước không nhất quán. Có thể chính phủ đương nhiệm cam kết không quốc hữu hóa tài sản của người nước ngoài, của các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài; nhưng sau khi đất nước có bất kỳ một sự thay đổi nào về chế độ chính trị, chính phủ mới chưa chắc đảm bảo những cam kết này hoặc lại đưa ra những sửa đổi, thay đổi làm đe dọa đến sự an toàn đối với tài sản của các nhà đầu tư nước ngoài. Đây là một trong những nguyên nhân giải thích tại sao dòng vốn đầu tư thường ít vào các nước châu Phi và một số nước đang phát triển khác ở Nam Mỹ trong thời kỳ có nhiều chính biến. Ngược lại, tình hình chính trị ổn định là điều kiện tiên quyết đảm bảo đường lối phát triển nhất quán của nước chủ nhà; nhờ đó, các cam kết đảm bảo độ an toàn đối với tài sản hợp pháp của họ được thực hiện. Điều này được phản ánh rõ nét ở nhiều nước đang phát triển và những nước công nghiệp mới ở châu Á. - Sự ổn định chính trị của một quốc gia còn quyết định môi trường chính trị của các địa phương trong quốc gia đó. Tuy nhiên, cùng trong một quốc gia, cùng dưới một chế độ chính trị như nhau; thế nhưng ở mỗi vùng, tính ổn định lại có xu hướng khác nhau; và điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh tế nói chung và thu hút đầu tư nước ngoài nói riêng của địa phương đó. Bên cạnh các điều kiện thuận lợi khác, cùng môi trường chính trị ổn định Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương hay Vũng Tàu 21 - Năng lực điều hành của Chính phủ cũng là một trong những yếu tố được xét đến. Chính phủ có thể có ảnh hưởng hạn chế đến những yếu tố như vị trí địa lý, nguồn tài nguyên thiên nhiên, thời tiết … nhưng chính phủ lại có ảnh hưởng rất lớn đến việc đảm bảo quyền về tài sản, cách điều tiết và đánh thuế (cả trong nội địa lẫn tại cửa khẩu), mức độ thỏa mãn của cơ sở hạ tầng, sự vận hành của thị trường tài chính, hiện tượng tham nhũng và rất nhiều yếu tố khác liên quan [27,70].Tất cả những điều này phụ thuộc phần lớn vào năng lực điều hành và phẩm chất đạo đức của đội ngũ lãnh đạo đất nước. 1.2.2.2 Môi trường pháp lý – hành chính Hệ thống pháp luật là một trong những yếu tố hết sức quan trọng đóng vai trò quyết định trong việc tạo diện mạo của môi trường đầu tư. Đó là điều kiện không thể thiếu được trong mọi hoạt động kinh tế nói chung và trong hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài nói riêng. Hệ thống pháp luật của một quốc gia có thể được biểu hiện qua một số nét sau: - Xây dựng thể chế - Tính đầy đủ và đồng bộ - Tính chuẩn mực và hội nhập - Tính rõ ràng, công bằng, công khai và khả năng thực thi Đây là yêu cầu hàng đầu của một hệ thống luật pháp nói chung của một quốc gia, là mối quan tâm rất lớn của các chủ đầu tư nước ngoài. Do làm ăn ở nơi xa lạ với lượng tài sản lớn nên các nhà đầu tư nước ngoài phải dựa vào pháp luật của nước chủ 22 Bên cạnh đó, thủ tục hành chính là một yếu tố rất quan trọng góp phần tạo nên sự thành công của môi trường đầu tư. Thủ tục hành chính càng đơn giản, gọn nhẹ, rõ ràng thì sức hút của môi trường đầu tư đối với các nhà đầu tư nước ngoài càng lớn. Thủ tục hành chính bao trùm lên tất cả các hoạt động của doanh nghiệp. Và một trong những lỗ hổng nếu thủ tục hành chính không được quan tâm sát sao đó chính là hiện tượng tham nhũng. Có thể nói, chính sách về môi trường đầu tư là mục tiêu hấp dẫn để các doanh nghiệp, quan chức và các nhóm lợi ích khác nhau trục lợi. Tham nhũng có thể làm tăng chi phí tiến hành kinh doanh và khi nó lan đến bộ máy chính quyền cao cấp thì có thể dẫn đến những méo mó ghê gớm trong chính sách và làm bóp méo quá trình hoạch định chính sách trên quy mô lớn. Lũng đoạn, nâng đỡ và chủ nghĩa thân quen, những hệ lụy tất yếu của thủ tục hành chính yếu kém sẽ gây ra những méo mó trong chính sách nghiêm trọng làm cho chính sách thiên vị một số nhóm người với cái giá phải trả từ nhóm người khác; như vậy sẽ làm mất lòng tin của nhà đầu tư vào chính phủ [27,61]. Tuy nhiên, thủ tục hành chính cũng như cách hành xử của mỗi địa phương là khác nhau, vì vậy mới có những nơi mà nhà đầu tư gặp phải rất nhiều khó khăn trong việc xin cấp giấy phép đầu tư, đăng ký kinh doanh…. [38, 42] 23 Tóm lại, quá trình điều hành của chính phủ nước sở tại, sự ổn định của hệ thống pháp luật, sự đơn giản hóa các thủ tục hành chính, sự tuân thủ các chính sách cũng như các quy định của pháp luật … sẽ tạo dựng được độ tin cậy của các nhà đầu tư nước ngoài; ngược lại, sẽ làm gia tăng sự quan ngại của các doanh nghiệp, các nhà đầu tư về môi trường đầu tư của nước đó. 1.2.2.3 Vị trí địa lý và cơ sở hạ tầng Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên bao gồm các yếu tố như khoảng cách, địa điểm, khí hậu, tài nguyên thiên nhiên … Đây là những yếu tố quan trọng tác động đến tính sinh lãi hoặc rũi ro của các hoạt động đầu tư. Các nhà đầu tư nước ngoài, phần lớn phải tiến hành việc chuyên chở hàng hóa và dịch vụ từ nước đầu tư đến nước tiếp nhận đầu tư, từ điểm sản xuất đến điểm tiêu thụ… Vì vậy, nếu vị trí thuận lợi, không cách trở thì chi phí vận chuyển thấp, giảm được giá thành và hạn chế được rủi ro. Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng luôn luôn được các nhà đầu tư quan tâm. Hệ thống đường sá, cầu cống, sân bay, cảng biển, dịch vụ viễn thông, khách sạn … được đảm bảo sẽ là lời mời gọi rất tích cực đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Vị trí địa lý cũng như cơ sở hạ tầng của mỗi quốc gia là khác nhau và môi trường hạ tầng này lại càng khác nhau giữa các địa phương trong cùng một nước. Mỗi địa phương nằm trên một vùng địa hình khác nhau với những ưu đãi hoặc hạn chế về điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên… Thế nhưng, ngoài sự khác biệt sẵn có do tự nhiên đem lại, chiến lược phát triển cơ sở hạ tầng của mỗi địa phương chính là yếu tố quyết định môi trường cơ sở hạ tầng ở mỗi địa phương sẽ khác nhau. Điều này sẽ tác động lại hoạt động kinh tế cũng như thu hút đầu tư nước ngoài của từng địa phương. Bình Dương, xuất phát điểm là một vùng đất nông nghiệp – không có cảng sông lẫn cảng biển, không có hệ thống sân bay, đường sắt… thế nhưng Bình Dương lại 24 1.2.2.4 Môi trường kinh tế – tài nguyên - Mỗi quốc gia thường áp dụng một chính sách kinh tế riêng tùy thuộc vào trình độ phát triển và các mục tiêu mà quốc gia đó theo đuổi. Một đất nước muốn tạo điều kiện thuận lợi để thu hút được các nguồn vốn của nước ngoài, trước hết phải thực hiện chính sách kinh tế mở, tức là mọi chính sách kinh tế của họ phải đảm bảo gắn kết nền kinh tế của nước mình vào thị trường chung của thế giới, tham gia thực sự vào phân công lao động quốc tế; lấy mục tiêu cho mọi hoạt động kinh tế của mình không chỉ phục vụ cho nhu cầu trong nước mà cả nhu cầu của thị trường quốc tế. Ngoài ra, trình độ phát triển kinh tế của nước tiếp nhận đầu tư bao gồm mức độ phát triển về quản lý kinh tế vĩ mô, cơ sở hạ tầng, chất lượng cung cấp các dịch vụ cho các hoạt động kinh doanh của các nhà đầu tư nước ngoài và mức độ cạnh tranh của thị trường nước chủ nhà cũng là các yếu tố có sự tác động mạnh hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Trên cơ sở đó, môi trường kinh tế – tài nguyên của mỗi địa phương cũng sẽ hình thành phù hợp với tình hình phát triển. Mỗi địa phương sẽ có những chính sách phát 25 1.2.2.5 Môi trường tài chính Khả năng tạo ra một môi trường tài chính lành mạnh và hệ thống ngân hàng hoạt động có hiệu quả là một yêu cầu đặt ra trong quá trình hoàn thiện môi trường đầu tư vì không một dự án đầu tư nào lại không liên quan đến việc giải quyết vốn, tín dụng và giám sát điều tiết thông qua hệ thống tiền tệ. Nền tài chính của một quốc gia được đánh giá qua các chỉ tiêu như cán cân thanh toán quốc tế, cán cân thương mại quốc tế, tỷ lệ lạm phát, tỷ giá hối đoái, khả năng tự do chuyển đổi đồng tiền … Đó là những chỉ số phản ánh sự ổn định của nền kinh tế vĩ mô. Sự bất ổn định các yếu tố này làm cho hiệu quả đầu tư trong tương lai trở nên không chắc chắn và ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài. Môi trường tài chính của một địa phương được cụ thể hóa qua hệ thống ngân hàng, các công ty tài chính, thị trường chứng khoán, thị trường tiền tệ… Hoạt động của 26 1.2.2.6 Môi trường lao động Nguồn lao động và giá cả nhân công tại nước mà nhà đầu tư dự kiến đầu tư vào ảnh hưởng lớn đến hiệu quả đầu tư. Bởi lẽ với lực lượng lao động dồi dào và giá nhân công rẽ tương đối sẽ thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư do chi phí lao động sẽ giảm hơn so với khi tuyển dụng lao động ở các quốc gia khác đến. Tuy nhiên, hiện nay yếu tố lao động giá rẽ ở các nước đang và kém phát triển không còn là yếu tố hấp dẫn hàng đầu đối với các nhà tư bản nữa; vì cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại đã cho phép đẩy nhanh quá trình tự động hóa và nâng cao năng suất lao động. Trong điều kiện đó, nước nào có được đội ngũ lao động được đào tạo với trình độ khoa học và chuyên môn cao được xem là một lợi thế; vì thông qua sử dụng lao động, các nhà đầu tư không chỉ muốn thu lại lợi nhuận thông thường, mà còn muốn thu thêm được lợi nhuận siêu ngạch. Theo tài liệu nghiên cứu của UNIDO, giờ đây người ta đang càng ngày phân biệt được là chính trình độ giáo dục và tay nghề của lực lượng lao động quyết định 27 Bên cạnh đó, môi trường lao động ổn định còn thể hiện qua tính cần cù và tinh thần kỷ luật của người lao động của người lao động; và quan trọng hơn nữa là tinh hình đình công, bãi công của người lao động, của các tổ chức công đoàn… Đây là những vấn đề khá nhạy cảm mà không một nhà đầu tư nào muốn gặp rắc rối với nước sở tại. 1.3 Ý nghĩa của việc nghiên cứu môi trường đầu tư - Nghiên cứu môi trường đầu tư giúp nước sở tại hoàn thiện môi trường kinh tế, đẩy nhanh quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Lịch sử phát triển kinh tế thế giới từ sau đại chiến thế giới lần thứ II đến nay đã minh chứng rằng các nước đang phát triển có trình độ và điều kiện phát triển kinh tế tương đồng, do lựa chọn chiến lược kinh tế và khả năng tạo ra môi trường thu hút đầu tư khác nhau lại phát triển khác nhau. Nhiều nước thực hiện chiến lược kinh tế mở và biết tạo ra môi trường kinh tế, môi trường đầu tư thuận lợi đã mau chóng trở thành các nước công nghiệp mới (NIEs), một số khác lại không nắm bắt thời cơ, bỏ lỡ nhiều cơ hội phát triển đã đẩy nền kinh tế của quốc gia mình lâm vào cảnh lạc hậu, trì trệ. - Nghiên cứu môi trường đầu tư giúp các nước tiếp nhận đầu tư điều chỉnh nhằm hoàn thiện môi trường đầu tư của nước mình trong quá trình thu hút đầu tư thực hiện công cuộc tái thiết và phát triển đất nước. Thường thì các nhân tố kích thích và thu hút đầu tư của một quốc gia không có đầy đủ cùng một lúc; mà nó phải được hình thành và hoàn thiện, phải được điều chỉnh liên tục của cả nước nhận đầu tư và sự cố gắng, thiện chí của cả hai bên nhận đầu tư và đầu tư; và mọi cố gắng, thiện chí của hai bên phải xuất phát từ động cơ kinh tế. 28 1.4 Các bài học kinh nghiệm về hoàn thiện môi trường đầu tư nhằm tăng cường thu hút vốn FDI 1.4.1 Kinh nghiệm của Bình Dương Bình Dương, một tỉnh miền Đông Nam bộ không có cảng, không có sân bay, không có cửa khẩu, lại không phải là một tỉnh trung tâm của đất nước, đã trở thành địa phương dẫn đầu cả nước trong lĩnh vực thu hút vốn FDI. Bảng 1.1: Tình hình thu hút vốn FDI vào Bình Dương (ĐVT: dự án; triệu USD) Năm Dự án Số vốn (triệu USD) 2001 116 292.37 2002 155 403.34 2003 149 340.2 2004 147 398.21 2005 186 840.48 Tổng 753 2274.6 (Nguồn: Website tỉnh Bình Dương), [52] Nơi đây là một điển hình về phát triển không dựa vào những lợi thế “tĩnh” nêu trên. Bình Dương đã tự xây dựng cho mình những lợi thế “động” rất riêng và rất phù hợp với tiến trình phát triển và hội nhập của địa phương. - Nổi bật trong quá trình xây dựng và hoàn thiện môi trường đầu tư của Bình Dương đó chính là việc “trải chiếu hoa”, “trải thảm đỏ” mời gọi đầu tư, đón rước nhân tài [25]. “Chính quyền tỉnh Bình Dương có thái độ thực sự trọng thị trong chính sách thu hút đầu tư. Tôi cảm nhận tỉnh rất khát khao mời gọi các nhà đầu tư” [43,40]. Nhờ có sự nhất trí và ủng hộ xuyên suốt từ trên xuống dưới nên rất nhiều các nhà khoa học, các nhà đầu tư trong và ngoài nước kéo về giúp sức cho Bình Dương. Lãnh đạo tỉnh hàng tháng đều có chương trình cùng cán bộ đầu ngành của tỉnh xuống các 29 - Việc từng bước hoàn thiện cơ sở hạ tầng cũng là một bài học đáng được quan tâm của tỉnh. Là một tỉnh nhỏ, năng lực tài chính có hạn nên Bình Dương tính chuyện “ăn chắc mặc bền”, không dùng tiền ngân sách hay vay tiền ngân hàng để làm cơ sở hạ tầng khu công nghiệp. Trọng trách huy động vốn được toàn quyền giao cho chủ đầu tư, vận động các doanh nghiệp chuẩn bị đầu tư vào các khu công nghiệp bỏ tiền ra lo cơ sở hạ tầng ngay tại nơi mình đầu tư, và làm theo kiểu cuốn chiếu, để các nhà đầu tư “vui lòng tự lo”. Việc đền bù, giải tỏa nhà dân để xây dựng cơ sở hạ tầng, đường giao thông, khu công nghiệp được người dân ủng hộ vì tâm nguyện của nhà lãnh đạo và người dân gặp nhau và cùng muốn Bình Dương phát triển. - Trong lĩnh vực cải cách thủ tục hành chính, cơ chế “một dấu, một cửa” được Bình Dương quán triệt sâu sắc. Dự án trong khu công nghiệp thì do Ban quản lý Khu công nghiệp, dự án ngoài khu công nghiệp thì do Sở Kế hoạch – Đầu tư đảm trách. Hai cơ quan này là “công bộc” cho đến khi giấy phép được cấp [43,40]. Nếu không may bị “tắc” do không thuộc thẩm quyền của tỉnh thì các nhà lãnh đạo của tỉnh cùng nhà đầu tư đi ra Hà Nội cùng “gõ” cửa các cơ quan chức năng… Hay là việc trong lúc nhiều địa phương khác đua nhau giảm giá thuê đất để thu hút đầu tư thì Bình Dương không giảm mà lại sử dụng phương thức hỗ trợ nhà đầu tư giúp họ yên tâm làm ăn. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm cần tiếp tục phát huy như trên, vẫn còn nhiều tồn tại mà Bình Dương đang phải đối mặt cần được tháo gỡ dần trong quá trình hoàn thiện môi trường đầu tư thu hút vốn FDI của mình. 30 - Quá trình đầu tư phát triển do nóng vội, thiếu một quy hoạch mang tính ”tầm nhìn xa” dẫn đến một số những bất cập về sinh thái môi trường, mất cân đối giữa đầu tư phát triển công nghiệp với xây dựng cơ sở hạ tầng … nên xử lý hết sức khó khăn, nhất là việc phục hồi môi trường - Sự phát triển không đồng đều giữa các địa phương trong tỉnh, dẫn đến cơ cấu ngành nghề như gốm sứ, sơn mài, chế biến gỗ, hàng thủ công mỹ nghệ … phát triển quá mức cần thiết, vượt khả năng cung ứng nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm. - Tốc độ phát triển nhanh của sản xuất công nghiệp đã tạo ra “cơn sốt” về lao động kể cả số lượng lẫn chất lượng, đặc biệt là số lao động có tay nghề trình độ cao. Hơn 200 nghìn lao động công nghiệp và gần 100 nghìn lao động các ngành nghề ít được đào tạo, phần lớn là lao động từ các địa phương khác đổ về; lao động địa phương chỉ chiếm khoảng 12% trong tổng số lao động các KCN là một trở ngại lớn cho việc giải quyết nơi ăn, chốn ở, phương tiện đi lại và khó khăn cho việc đào tạo nghề…[26] Do vậy, bên cạnh việc tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài, Bình Dương cần khắc phục một số tồn tại nêu trên, nhanh chóng đổi mới quy hoạch, đảm bảo sự hài hòa trong quá trình công nghiệp hóa của địa phương. 1.4.2 Kinh nghiệm của Singapore Vào những năm đầu thập niên 50 thế kỷ XX, Singapore – một đảo quốc tách ra từ Malaysia – là một nước nghèo về kinh tế, lạc hậu về công nghệ kỹ thuật. Thế nhưng, đến cuối thập niên 80, đảo quốc nhỏ bé này đã trở thành thị trường tài chính tiền tệ lớn thứ 4 trên thế giới, là trung tâm buôn bán dầu lửa hàng đầu châu Á, là nơi thu hút được nhiều kỹ thuật công nghệ cao của thế giới, tốc độ phát triển kinh tế của Singapore đạt ở mức cao trên thế giới… Kinh nghiệm tạo dựng môi trường đầu tư của đảo quốc này đang trở thành một trong những “loại hàng hóa chất xám” quý giá mà 31 - Điểm đầu tiên cần nhắc đến trong việc xây dựng môi trường đầu tư của Singapore là bộ máy quản lý hoàn hảo của chính phủ Singapore. Năm 2003, Singapore được bầu là nước có bộ máy công quyền phi tham nhũng và tạo thuận lợi cho kinh doanh thứ 2 trong sách “Cạnh tranh thế giới” và được Tổ chức môi trường đầu tư toàn cầu bầu là nước có lợi nhuận cao thứ hai cho các nhà đầu tư. Bộ máy quản lý trong sạch giúp các nhà đầu tư nước ngoài cảm thấy thoải mái và an tâm khi đến đất nước này. Các tập đoàn nước ngoài đến tìm hiểu kinh doanh tại Singapore khó có cơ hội gặp gỡ trực tiếp các quan chức cao cấp trong bộ máy công quyền của Singapore [34,8]. - Sự nhạy bén trong hệ thống quản lý cũng như trong các nhà lãnh đạo của Singapore. Các nhà lãnh đạo của Singapore nhận thấy được rất sớm xu thế quốc tế hóa đời sống kinh tế. Là một nước nhỏ bé không có tiềm năng lớn về tài nguyên thiên nhiên, Singapore đã áp dụng chiến lược tranh thủ vốn và kỹ thuật nước ngoài nhưng không phụ thuộc vào nước ngoài nặng nề. Để thực hiện chiến lược đó, tất yếu Singapore phải dựa vào vị trí địa lý thuận lợi của mình là cầu nối và là điểm trung chuyển hàng hóa, kỹ thuật, tài chính giữa các nước trong khu vực Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Cải cách thị trường tài chính và hoàn thiện hệ thống ngân hàng là một trong những yếu tố quan trọng để tạo dựng một hệ thống các yếu tố cấu thành môi trường đầu tư hoàn chỉnh của Singapore. Singapore lập ra các đặc khu kinh tế phục vụ cho nhu cầu xuất khẩu của các nhà đầu tư nước ngoài. Hoạt động kinh tế của các nhà đầu tư và thương nhân trong đặc khu kinh tế được hưởng nhiều ưu đãi về tài chính, tín dụng, tiền tệ và được hưởng chế độ thuế quan tự do … Ngoài ra, nhằm tạo ra 32 1.4.3 Bài học kinh nghiệm rút ra trong việc hoàn thiện môi trường đầu tư của thành phố Đà Nẵng Hai điển hình về môi trường đầu tư: Bình Dương, Singapore và thực tiễn thu hút đầu tư của các tỉnh thành trong cả nước cũng như các quốc gia lân cận; có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam nói chung và thành phố Đà Nẵng nói riêng trong việc xây dựng và hoàn thiện môi trường đầu tư trong quá trình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. - Phải có chiến lược kinh tế mở, phải xem nền kinh tế của địa phương, của quốc gia là một bộ phận của nền kinh tế thế giới. - Phải tạo dựng được những nhân tố kích thích, hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, phải bảo đảm được lợi ích kinh tế của hai bên – lợi ích của nhà đầu tư nước ngoài là lợi nhuận của nước tiếp nhận đầu tư trong quá trình CNH-HĐH. - Trong quá trình kiến tạo các yếu tố hình thành môi trường đầu tư, việc ra đời và hoàn thiện một nền kinh tế thị trường nội địa hoàn chỉnh bao gồm các loại thị trường khác nhau như: thị trường tài chính tiền tệ, thị trường lao động, thị trường hàng hóa … là rất bức thiết. Sự ra đời của các thị trường này sẽ tạo động lực thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. - Trên phương diện quốc gia cần phải có môi trường pháp lý – cơ sở hạ tầng “mềm” – tốt và vững vàng, các luật lệ, quy định phải rõ ràng, dễ hiểu, thống nhất và đồng bộ. Trên góc độ địa phương, cần phải thể hiện sự tuân thủ luật pháp một cách nghiêm túc, tránh hiện tượng đi ngược hoặc vượt khung quy định của nhà nước… vì 33 - Tận dụng và tập trung khai thác những lợi thế sẵn có của địa phương về vị trí địa lý (như trường hợp của Singapore) để thu hút đầu tư nước ngoài. * * * * Kết luận chương 1 Trong chương 1, luận văn đã đi vào nghiên cứu một số vấn đề lý luận liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài; trong đó, tập trung tìm hiểu và phân tích các khía cạnh của môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài. - Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài, các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện nay đang có tại Đà Nẵng, vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài … - Môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài, các yếu tố cấu thành môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài… và những lý luận này sẽ làm nền tảng cho việc đi sâu vào phân tích môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài của Đà Nẵng trong chương kế tiếp. - Nghiên cứu một số kinh nghiệm thực tiễn của Bình Dương và Singapore, từ đó rút ra bài học cho Việt Nam nói chung và Đà Nẵng nói riêng trong quá trình kiến tạo và hoàn thiện môi trường đầu tư nhằm đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. 34 Chương 2: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ TRONG HOẠT ĐỘNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 2001 ĐẾN NAY 2.1 Một số nét khái quát về Thành phố Đà Nẵng 2.1.1 Điều kiện tự nhiên Thành phố Đà Nẵng nằm ở 15o55’ đến 16o14’ vĩ Bắc, 107o18’ đến 108o20’ kinh Đông, phía Bắc giáp tỉnh Thừa Thiên – Huế, phía Tây và Nam giáp tỉnh Quảng Nam, phía Đông giáp biển Đông. Đà Nẵng nằm ở trung độ của đất nước, trên trục giao thông Bắc–Nam về đường bộ, đường sắt, đường biển và đường hàng không; cách Hà Nội 764km về phía Bắc, cách thành phố Hồ Chí Minh 964km về phía Nam. Ngoài ra, Đà Nẵng còn là thành phố nằm trong trung điểm của 4 di sản văn hóa thế giới là cố đô Huế, phố cổ Hội An, thánh địa Mỹ Sơn và rừng quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng. Trong phạm vi khu vực và quốc tế, Đà Nẵng là một trong những cửa ngõ quan trọng ra biển của Tây Nguyên, các nước Lào, Campuchia, Thái Lan và Myanma đến các nước vùng Đông Bắc Á thông qua hành lang kinh tế Đông – Tây với điểm kết thúc là cảng biển Tiên Sa của Đà Nẵng. Với vị trí nằm ngay trên một trong những tuyến đường biển và đường hàng không quốc tế, thành phố Đà Nẵng có một vị trí địa lý đặc biệt thuận lợi cho sự phát triển nhanh chóng và bền vững. Vấn đề nằm ở chổ khai thác vị trí này như thế nào để đạt hiệu quả cao nhất. Thành phố Đà Nẵng có diện tích tự nhiên là 1.255,53km2; gồm 6 quận và 2 huyện. Các quận nội thành chiếm diện tích 213,05 km2, các huyện ngoại thành chiếm diện tích 1.042,48 km2, trong đó: - Đất nông nghiệp: 117,22 km2 (9,34%) 35 - Đất lâm nghiệp: 514,21 km2 (40,96%) - Đất chuyên dùng: 358,69 km2 (30,72%) - Đất ở: 30,79 km2 (2,42%) - Đất chưa sử dụng: 207,62 km2 (16,54%) Đà Nẵng nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa điển hình, nhiệt độ cao và ít biến động. Khí hậu Đà Nẵng là nơi chuyển tiếp đan xen giữa khí hậu miền Bắc và miền Nam, với tính trội là khí hậu nhiệt đới điển hình ở phía Nam. Mỗi năm có 2 mùa rõ rệt: mùa mưa kéo dài từ tháng 8 đến tháng 12 và mùa khô bắt đầu tư tháng 1 đến tháng 7, thỉnh thoảng có những đợt rét mùa đông nhưng không đậm và không kéo dài. Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 25,9oC; cao nhất vào các tháng 6, 7, 8 trung bình từ 28 - 30oC; thấp nhất vào các tháng 12, 1, 2 trung bình từ 18 - 23oC. Riêng vùng rừng núi Bà Nà ở độ cao gần 1.500m, nhiệt độ trung bình khoảng 20oC. Như vậy, có thể nói khí hậu của vùng rất thích hợp để phát triển các hoạt động du lịch, đặc biệt là du lịch biển. 2.1.2 Điều kiện xã hội - Thành phố Đà Nẵng được tách ra khỏi tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng vào năm 1997 và trở thành thành phố trực thuộc trung ương. Cùng với Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và Hải Phòng, Đà Nẵng trở thành thành phố loại 1 vào năm 2000. Hiện nay, thành phố có 6 quận: Hải Châu, Thanh Khê, Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn, Liên Chiểu và Cẩm Lệ; 2 huyện ngoại thành gồm Hòa Vang và huyện đảo Hoàng Sa. Dân số trung bình của Đà Nẵng khoảng 763.297 người [14,61]... Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên của thành phố tương đối cao, khoảng 1,114%/ năm; dân số chủ yếu tập trung ở thành thị: 79,59%, số còn lại ở vùng nông thôn [13,61]. Lực lượng lao động 36 - Xét về trình độ dân trí, hiện nay tại Đà Nẵng tỷ lệ người lớn tuổi không biết chữ vẫn còn; nhưng tỷ lệ này ngày một giảm đi. Thành phố đã được công nhận đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ từ tháng 1/1997. Bên cạnh đó, nếu tính đến chỉ số HDI, Đà Nẵng có những điểm nổi trội hơn các thành phố lớn khác trong cả nước về các mặt như điều kiện sống, mức độ chăm sóc y tế, sức khỏe, phổ cập giáo dục, xóa đói giảm nghèo … Điều này phần nào giúp Đà Nẵng thu được những kết quả đáng kể trong quá trình thu hút vốn FDI, phát triển kinh tế địa phương với những ngành nghề tương xứng. 2.2 Tình hình thu hút vốn FDI vào Thành phố Đà Nẵng từ năm 2001–2005: 2.2.1 Số lượng vốn FDI thu hút Kể từ khi Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành từ năm 1987 và qua các lần sửa đổi đến nay; bằng những nỗ lực, cố gắng của thành phố và được sự hỗ trợ từ phía Chính phủ, các bộ – ban – ngành trung ương, thành phố Đà Nẵng đã và đang đạt được những kết quả nhất định trong lĩnh vực thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Trong giai đoạn trước khi tách tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng (1987 – 1997), trên địa bàn tỉnh Quảng Nam có 59 dự án được cấp giấy phép với tổng vốn đầu tư vào khoảng 833,2 triệu USD. Vào thời điểm Đà Nẵng chính thức tách ra khỏi tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng, thành phố đã tiếp nhận và quản lý 44 dự án còn đang hoạt động với tổng vốn đầu tư khoảng 443,6 triệu USD, trong đó vốn thực hiện chỉ chiếm khoảng 31,5% tương đương 140 triệu USD. Tuy nhiên, trong những năm vừa qua, hoạt động thu hút FDI trên địa bàn thành phố đã có những thay đổi. 37 Bảng 2.1: Tình hình thu hút vốn FDI vào Đà Nẵng từ năm 2001-2005 (ĐVT: dự án; triệu USD) Năm Số dự án được cấp phép Số vốn (triệu USD) 2001 6 13.034 2002 8 51.860 2003 12 75.230 2004 9 62.247 2005 19 142.971 Tổng cộng 54 345.342 (Nguồn: Trung tâm xúc tiến đầu tư Thành phố Đà Nẵng), [57] Như vậy, hoạt động thu hút FDI của Đà Nẵng chỉ mới bắt đầu sôi động vào năm 2001. Hơn nữa, kể từ năm 1997 – 2000, Đà Nẵng tập trung vốn chuẩn bị cơ sở hạ tầng, xây dựng cơ sở vật chất … cho quá trình phát triển lâu dài của thành phố, và vấn đề thu hút vốn FDI chỉ bắt đầu có xu hướng tăng mạnh từ năm 2001 trở lại đây. Đặc biệt, sau khi bị giảm xuống vào năm 2004 theo xu hướng chung của cả nước, năm 2005, vốn FDI vào Đà Nẵng đã tăng mạnh trở lại cả về số vốn đầu tư mới lẫn số dự án. Thế nhưng, nếu so sánh với Bình Dương thì lượng vốn FDI mà Đà Nẵng thu hút được vẫn còn rất thấp. Bảng 2.2: Nguồn vốn FDI đầu tư vào tỉnh Bình Dương và TP. Đà Nẵng (ĐVT: dự án; triệu USD) Bình Dương Đà NẵngNăm Dự án Số vốn Dự án Số vốn 2001 116 292.37 6 13.034 2002 155 403.34 8 51.860 2003 149 340.2 12 75.230 2004 147 398.21 9 62.247 2005 186 840.48 19 142.971 Tổng 753 2274.6 54 345.342 (Nguồn: - Niên giám thống kê Tỉnh Bình Dương, [52] - Niên giám thống kê Thành phố Hồ Chí Minh,[53] - Trung tâm xúc tiến đầu tư Thành phố Đà Nẵng, [51, 57]) 38 Trong thời gian từ năm 2001 đến 2005, tổng số dự án của Đà Nẵng có tăng nhưng tốc độ tăng rất chậm. Vào thời điểm tách khỏi tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng, thành phố có 44 dự án thì sau 8 năm hoạt động, con số này chỉ tăng thêm 10 dự án. Năm 2005 thành phố Đà Nẵng có hoạt động thu hút vốn FDI đạt mức cao nhất từ trước đến nay, thế nhưng nó chỉ bằng khoảng 23,68% vốn đầu tư và 6,15% số dự án đầu tư vào Thành phố Hồ Chí Minh, 17,01% vốn đầu tư và 10,22% số dự án đầu tư vào Bình Dương. Như vậy, khả năng cạnh tranh trong thu hút nguồn vốn FDI của Đà Nẵng vẫn còn khá yếu. 2.2.2 Tình hình thu hút vốn FDI theo đối tác Cũng như Bình Dương, Đồng Nai, Thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh thành khác, đối tác đầu tư vào Đà Nẵng chủ yếu là châu Á, nhiều nhất là Đài Loan, Trung Quốc, Singapore, Nhật Bản … Các quốc gia châu Âu, châu Mỹ dường như rất hạn chế. Bảng 2.3: Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài theo quốc gia / vùng lãnh thổ Quốc gia/ Vùng lãnh thổ Số dự án Tổng vốn đầu tư (triệu USD) Trung Quốc (Hồng Kông) 10 87,490 Hoa Kỳ 5 59,293 Đài Loan 17 59,899 Malaysia 7 44,842 British Virgin Islands 3 6 Australia 3 52,025 Singapore 3 56,000 Nhật Bản 12 83,131 Hàn Quốc 8 56,808 Bahamas 2 13,500 Pháp 3 4,061 Khác 10 30,035 Tổng 83 547,090 (Nguồn: Trung tâm xúc tiến đầu tư Đà Nẵng), [55] Như đã phân tích, số lượng dự án đầu tư vào Đà Nẵng còn rất khiêm tốn. Nếu so sánh với Bình Dương, con số này chỉ đạt khoảng 10.22%. Đây là một trong những vấn đề mà cấp quản lý của Đà Nẵng cần sớm đưa ra phương thức giải quyết 39 Tuy nhiên, kể từ năm 2005 trở lại đây, do ngày càng nhận thức được tầm quan trọng của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và với những sửa đổi linh hoạt trong cơ chế, chính sách cũng như cách thức quản lý đầu tư, nên hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài tại thành phố Đà Nẵng cũng có một số những chuyển biến nhất định. Một số các dự án lớn, tập trung chủ yếu vào lĩnh vực du lịch, đã được ký kết như: dự án khu du lịch giải trí Silver Shores của Mỹ 86 triệu USD, dự án sân golf Hòa Ninh 12 triệu USD, dự án khu du lịch Millenium của Mỹ 35 triệu USD, dự án sản xuất thuốc lá của Anh 40 triệu USD… [55]; thế nhưng tốc độ triển khai của các dự án này còn rất chậm trễ. Bên cạnh đó, nhìn vào bảng thống kê trên, chúng ta thấy phần lớn các nhà đầu tư vào Đà Nẵng chủ yếu là châu Á, những nước này đầu tư chủ yếu vào các ngành công nghiệp thâm dụng lao động; do vậy cơ hội để tiếp thu công nghệ hiện đại, học tập kinh nghiệm quản lý từ các nước châu Âu, châu Mỹ là điều rất khó khăn. 2.2.3 Tình hình thu hút vốn FDI theo hình thức đầu tư Nguồn vốn FDI đầu tư vào Thành phố Đà Nẵng trong thời gian qua tập trung chủ yếu vào 3 hình thức như đã đề cập. 40 Biểu 2.1: Vốn FDI theo hình thức đầu tư: Liên doanh (29%) Hợp đồng hợp tác kinh doanh (4%) 100% vốn nước ngoài (67%) (Nguồn: Trung tâm xúc tiến đầu tư Đà Nẵng), [55] Nhìn vào tỷ lệ phân bố, hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài chiếm vị trí chủ yếu và hình thức này đang ngày càng tăng lên; còn hình thức hợp tác kinh doanh ngày càng bị thu hẹp – chỉ có một số dự án về dầu khí. Phần lớn, trong quan hệ đầu tư nước ngoài, các nhà đầu tư khi mới thâm nhập vào nước sở tại thường đầu tư dưới hình thức liên doanh; nhưng ở Đà Nẵng, hình thức đầu tư này thường gặp nhiều khó khăn hơn so với các địa phương khác như Bình Dương, Đồng Nai hay Thành phố Hồ Chí Minh… Điều này được lý giải là muốn thực hiện một dự án đầu tư dưới hình thức liên doanh, phía tiếp nhận đầu tư phải có một mặt bằng chung ở mức tương đối về nhiều khía cạnh: sở hữu, nhân lực, vốn, … Tuy nhiên, tại thành phố Đà Nẵng, phần lớn các doanh nghiệp nhà nước vốn không nhiều, trình độ quản lý, trình độ nguồn nhân lực lại hạn chế nên khi đặt vấn đề liên doanh, phía đối ứng Việt Nam gặp phải không ít khó khăn. Do vậy, trong thời gian gần đây, phần lớn phía nước ngoài thường hoạt động theo hình thức 100% vốn khi đầu tư trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. 2.2.4 Tình hình thu hút vốn FDI theo lĩnh vực đầu tư 41 Khi phân tích nguồn vốn FDI đầu tư vào thành phố Đà Nẵng theo lĩnh vực đầu tư, ta thấy khá đơn điệu, tập trung vào 3 lĩnh vực chính: công nghiệp và xây dựng (chiếm 78,27%), dịch vụ (chiếm 18,19%) và nông lâm thủy hải sản (chiếm 3,53%) [55].Trong khi đó, nếu so sánh với Bình Dương, lĩnh vực đầu tư ở địa phương này đa dạng hơn: công nghiệp (chiếm 92,94%), xây dựng (chiếm 0,23%), lĩnh vực lâm nghiệp (chiếm 1,93%), giao thông vận tải (chiếm 0,17%) và 4,73% tổng vốn đầu tư còn lại dành cho một số lĩnh vực khác [51]. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Đà Nẵng trong những năm qua vẫn tập trung vào những lĩnh vực đơn giản như: sản xuất đồ uống, du lịch, khách sạn, nhà hàng - những lĩnh vực có khả năng thu lợi nhuận, thu hồi vốn nhanh, dễ khai thác thị trường nội địa … Những ngành phục vụ cho xuất khẩu còn rất hạn chế, số dự án chủ yếu đầu tư vào lĩnh vực thâm dụng lao động ít đòi hỏi chất xám … Mặt khác, Đà Nẵng được xem là trung tâm kinh tế – tài chính của miền Trung – Tây Nguyên; nhưng cho đến thời điểm hiện nay, rất ít công ty hoặc chi nhánh nào thuộc lĩnh vực tài chính ngân hàng hoạt động tại Đà Nẵng. Trong khi đó, tại thành phố Hồ Chí Minh hay Hà Nội, hàng loạt các nhà đầu tư thuộc lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm … đã hoạt động khá hiệu quả trong một thời gian dài, là đầu mối cung cấp các dịch vụ trong lĩnh vực tài chính cho các nhà đầu tư, các công ty nước ngoài phục vụ các hoạt động sản xuất của họ tại các vùng lân cận như: Bình Dương, Đồng Nai, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh… Đây cũng là một trong những lý do tại sao các nhà đầu tư tiềm năng chưa muốn đặt chân lên Đà Nẵng. 2.2.5 Kết quả hoạt động thu hút FDI tại thành phố Đà Nẵng từ năm 2001– 2005 42 Kết quả của hoạt động thu hút vốn FDI tại thành phố Đà Nẵng trong thời gian qua sẽ được đánh giá dưới ba tiêu chí: a) Đóng góp vào GDP của thành phố Trong thời gian qua, thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã có những đóng góp nhất định vào GDP của thành phố. Thế nhưng, những đóng góp này thực sự vẫn còn rất nhỏ và chiếm một tỷ trọng khá khiêm tốn. Bảng 2.4: Tổng sản phẩm nội địa (GDP) của Đà Nẵng giai đoạn 2001 – 2005 (ĐVT: triệu đồng) Thành phần kinh tế 2001 2002 2003 2004 2005 Kinh tế nhà nước 3,255,25 1 3,874,234 4,674,226 5,874,543 6,976,372 Tỷ lệ 57,2% 58,33% 60,17% 61,46% 60,89% Kinh tế ngoài quốc doanh 1,881,10 6 2,181,565 2,398,282 2,939,877 3,652,885 Tỷ lệ 32,9% 32,7% 30,8% 30,7% 31,9% Kinh tế có vốn FDI 565,197 596,462 702,125 749,990 825,148 Tỷ lệ 9,9% 8,97% 9,03% 7,84% 7,21% Tổng 5,703,555 6,654,263 7,776,636 9,566,414 11,456,410 (Nguồn: - Thành phố Đà Nẵng – 30 năm xây dựng và phát triển - Niên giám thống kê 2001, 2002, 2003, 2004, 2005), [14] Mặc dù mức đóng góp của thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng lên qua các năm xét về giá trị tuyệt đối; thế nhưng tốc độ gia tăng này nhìn chung vẫn còn rất thấp nếu so sánh với các thành phần kinh tế khác. Bảng 2.5: Tốc độ tăng GDP của các thành phần kinh tế tại TP. Đà Nẵng Thành phần kinh tế 2002/2001 2003/2002 2004/2003 2005/2004 Kinh tế nhà nước 1.19% 1.21% 1.25% 1.18% Kinh tế ngoài quốc doanh 1.16% 1.09% 1.22% 1.24% Kinh tế có vốn FDI 1.05% 1.17% 1.07% 1.1% 43 (Nguồn: - Niên giám Thành phố Đà Nẵng – 30 năm xây dựng và phát triển), [14,61] Có thể hiểu kết quả này một phần là do số lượng các doanh nghiệp FDI trên địa bàn còn khá ít; phần khác, hoạt động của thành phần kinh tế này còn ở mức độ cầm chừng, và phần lớn các doanh nghiệp đều hoạt động với quy mô nhỏ, chưa tạo ra được sản phẩm chủ lực. b) Tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn thành phố Đà Nẵng Kim ngạch xuất khẩu của thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong thời gian qua có tăng, nhưng tốc độ tăng không đáng kể. Bảng 2.6: Kim ngạch xuất khẩu của các thành phần kinh tế TP. Đà Nẵng (ĐVT: 1.000 USD) Thành phần kinh tế 2001 2002 2003 2004 2005 Kinh tế trung ương 98.828 90.364 89.209 130.306 146.041 Kinh tế ngoài quốc doanh 91.357 80.265 91.095 99.586 112.577 Kinh tế có vốn ĐTNN 76.335 78.401 80.520 80.539 83.932 (Nguồn: - Niên giám Thành phố Đà Nẵng – 30 năm xây dựng và phát triển - Thống kê Sở Thương mại Thành phố Đà Nẵng 2005) [51] Kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vẫn còn chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong tổng kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn thành phố, chưa đến 25%. Hoạt động mạnh ở thành phố Đà Nẵng vẫn là các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế nhà nước, chiếm trên 42,62%. Nếu so sánh với tỷ lệ xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại thành phố Hồ Chí Minh, kim ngạch xuất khẩu của khu vực này ở Đà Nẵng chiếm chưa đến 4%. c) Giải quyết việc làm Lĩnh vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài cũng góp phần vào việc giải quyết việc làm cho lao động của thành phố tuy nhiên vẫn không nhiều, vì số lượng doanh 44 45 Bảng 2.7: Lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn ĐTNN Năm 2001 2002 2003 2004 2005 Lực lượng lao động 338.500 348.997 355.820 380.978 382.002 Lực lượng lao động trong khu vực FDI 17.225 18.150 19.300 20.500 22.500 Tỷ lệ 5,09% 5,2% 5,43% 5,38% 5,89% (Nguồn: - Niên giám Thành phố Đà Nẵng – 30 năm xây dựng và phát triển [14] - Trung tâm xúc tiến đầu tư Thành phố Đà Nẵng [51]) Tuy những đóng góp của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tại thành phố Đà Nẵng chỉ chiếm một tỷ lệ khá khiêm tốn, nhưng đã thể hiện được sự tăng trưởng qua các năm. Có được những kết quả này, bên cạnh những nỗ lực chủ quan trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp FDI; cũng cần phải kể đến những nỗ lực của chính quyền thành phố Đà Nẵng trong việc kiến tạo và hoàn thiện môi trường đầu tư. Việc tìm hiểu và phân tích môi trường đầu tư là một trong những yêu cầu quan trọng mà bất kỳ doanh nghiệp nào trước khi kinh doanh cũng cần phải thực hiện. 2.3 Phân tích thực trạng môi trường đầu tư trong việc thu hút vốn FDI của thành phố Đà Nẵng trong thời gian qua (2001 – đến nay) 2.3.1 Môi trường chính trị – xã hội Ổn định chính trị – xã hội được coi là yếu tố hấp dẫn hàng đầu đối với các nhà đầu tư và càng đặc biệt quan trọng đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Tình hình chính trị ổn định là điều kiện tiên quyết để đảm bảo các cam kết của chính phủ đối với các nhà đầu tư. Đồng thời, ổn định chính trị đóng vai trò thiết yếu để duy trì sự ổn định kinh tế, xã hội, pháp luật … Việt Nam nói chung và Đà Nẵng nói riêng có một môi trường chính trị ổn định. Đây là nhận định của hầu hết các quốc gia, các nhà đầu tư trên thế giới khi nhận xét 46 Tóm lại, với những nỗ lực trong việc thực hiện chủ trương của nhà nước cũng như các chương trình do địa phương đề ra, có thể nói môi trường chính trị – xã hội của Đà Nẵng đầy đủ những yếu tố ổn định nếu được đem ra để trên bàn cân so sánh với các địa phương khác. Điều quan trọng là cấp quản lý biết phát huy những lợi thế đó như thế nào để biến thành những điểm mạnh và lợi thế của Đà Nẵng trong cuộc chạy đua thu hút đầu tư nước ngoài với các tỉnh thành khác. 47 2.3.2 Môi trường pháp lý, hành chính - Nghiên cứu môi trường đầu tư của một quốc gia không tách rời việc nghiên cứu môi trường pháp lý, luật, quy định, các văn bản pháp quy … liên quan đến hoạt động đầu tư. Mặc dù còn những hạn chế và tồn tại, nhưng ở một chừng mực nào đó, môi trường pháp lý hiện nay của Việt Nam phần nào đã được cải thiện. Các văn bản luật được ban hành ngày càng gắn liền với tình thực tiễn của cuộc sống như: Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Hải quan… Các địa phương tiếp nhận các văn bản luật này và với những văn bản hướng dẫn thi hành luật, áp dụng cụ thể vào tình hình của địa phương mình. - Kể từ khi ra đời lần đầu tiên vào năm 1987, qua các lần sửa đổi vào các năm 1990, 1992, 1996, 2000 và gần đây nhất là lần sửa đổi vào tháng 11/ 2005 có hiệu lực từ ngày 1/7/2006, luật Đầu tư đã ngày càng được củng cố, hoàn thiện. Song song đó, Đà Nẵng đã ban hành những quy định liên quan đến vấn đề đầu tư nước ngoài nhằm cải thiện và củng cố môi trường đầu tư, thu hút nhiều hơn nữa nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào địa phương mình. Tính đến tháng 7/2006, Đà Nẵng đã ban hành một số lượng 979 văn bản pháp quy (Xem Phụ lục 1). Trong đó, số lượng các văn bản phục vụ cho chính sách phát triển kinh tế chỉ có 129 văn bản, chủ yếu là hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhà nước; còn trong lĩnh vực thu hút và xúc tiến đầu tư nước ngoài chỉ có 17 văn bản quy định [51]. Số lượng các văn bản trong lĩnh vực hành chính, đất đai, các loại thuế – lệ phí chiếm tỷ lệ khá lớn. Trong thời gian qua, lãnh đạo thành phố phần lớn tập trung vào việc cải tạo và chỉnh trang đô thị với mục đích tạo nền tảng vững chắc để phát triển kinh tế. Các văn bản, quy định trong lĩnh vực thu hút và xúc tiến đầu tư nước ngoài phần lớn là quy định thủ tục thành lập doanh nghiệp, mở cửa văn phòng đại diện và một số quy định về chính sách ưu đãi 48 - Cơ chế “một cửa, một dấu” tuy đã được triển khai thực hiện tại Trung tâm Xúc tiến đầu tư nhằm rút ngắn thời gian cấp phép đầu tư cho các doanh nghiệp, thế nhưng các thủ tục liên quan vẫn còn rườm rà, gây khó khăn cho các nhà đầu tư, bởi chính Trung tâm Xúc tiến đầu tư cũng phải “chạy đến nhiều cửa” để giải quyết thay cho các nhà đầu tư. Do vậy, từ đầu năm 2006 đến nay, Trung tâm Xúc tiến đầu tư của thành phố Đà Nẵng đã chính thức cho ra đời và đi vào hoạt động việc cấp phép qua mạng điện tử. Thông qua hình thức này, đơn xin cấp phép của doanh nghiệp sẽ được Trung tâm Xúc tiến đầu tư gởi đến các cơ quan ban ngành có liên quan trực tuyến, hạn chế được việc tiếp xúc trực tiếp, giảm bớt thời gian chờ đợi và chi phí giấy tờ. Cũng trong thời gian thực hiện luận văn này, tác giả đã thực hiện phỏng vấn một số cán bộ làm việc trong Sở Kế hoạch – Đầu tư, Hội đồng nhân dân và một số nhân viên làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Kết quả thu nhận được qua các buổi tiếp xúc đó là Đà Nẵng có một hệ thống quản lý hành chính mạnh và các cơ quan cấp dưới thường triển khai tốt các chỉ đạo và chính sách của UBND thành phố; nếu có sự phản ánh thông qua các đường dây điện thoại nóng đến trực tiếp các cơ quan lãnh đạo thành phố và chính quyền thành phố muốn giải quyết khó khăn cho doanh nghiệp là giải quyết được ngay – tuy không phải là nhiều. Đây là một lợi thế mà không phải địa phương nào cũng có như Đà Nẵng. Bình Dương cũng đã thành công trong hoạt động thu hút vốn FDI chính nhờ ưu điểm này. 49 Trong hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa của các doanh nghiệp, thời gian qua việc hiện đại hóa ngành hải quan nói chung và của thành phố Đà Nẵng nói riêng đã tạo nên những bước tiến nhất định cho hải quan thành phố. Việc lần đầu tiên Đà Nẵng triển khai khai báo thủ tục hải quan cho tàu qua mạng thông tin điện tử đã giúp giảm bớt thời gian cũng như công việc giấy tờ cho các chủ tàu thuyền. Hàng hóa làm thủ tục xuất nhập khẩu tại các cửa khẩu thuộc cảng Đà Nẵng không còn tình trạng chờ đợi lâu như trước đây, hàng hóa thuộc luồng nào sẽ được giải quyết theo đúng luồng quy định, hạn chế việc ảnh hưởng đến khách hàng bởi vì hiện nay tính cạnh tranh tại các cảng ở khu vực miền Trung rất cao. Do vậy, những vướng mắc trong thủ tục hành chính của lĩnh vực nhạy cảm này phần nào đã được khắc phục [42]. - Tuy nhiên, bên cạnh việc cho ra đời các quy định, văn bản, chính sách nhằm thu hút các nhà đầu tư, trong thời gian qua, Đà Nẵng và một số địa phương khác trong cuộc chạy đua đẩy mạnh thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đã thực hiện chính sách “xé rào ưu đãi đầu tư”. Đó là việc ưu đãi về thời gian thuê đất, ưu đãi về giá thuê Khu nghỉ mát Furama là dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài – hiện nay đã chuyển sang quản lý trong nước – có vốn đầu tư là 40 triệu USD. Ngay trong ngày đầu khai trương vào tháng 3 năm 1997, Furama đã bị công an đến kiểm tra. Nhận được phản ánh của giám đốc quản lý, Chủ tịch UBND Thành phố (lúc này là ông Nguyễn Bá Thanh) đã ra quyết định mọi hoạt động kiểm tra, giám sát khu nghỉ mát này phải được sự đồng ý bằng văn bản của UBND Thành phố. Đó là một tín hiệu mạnh phát ra từ UBND đối với các cơ quan quản lý nhà nước khác về sự hỗ trợ của lãnh đạo thành phố đối với Furama. Các hành động làm “phiền toái” khu nghỉ mát được chấm dứt. Cho đến nay, Furama là một trong những dự án kinh doanh khách sạn – du lịch thành công nhất ở Việt Nam.[30,24] Hộp 1: Dự án khu nghỉ mát Furama 50 Trong khi đó, Đà Nẵng nói riêng và khu vực miền Trung nói chung đã có tiếng là khó khăn cho hoạt động kinh doanh và hình ảnh này hầu như không được thay đổi Ông Francis T. Tsai, Chủ tịch công ty Mitac, Đài Loan nhận xét chính sách vĩ mô của Việt Nam dường như rất tốt nhưng triển khai cụ thể ở từng địa phương lại quá khác nhau. Mitac đã từng khảo sát môi trường đầu tư tại Hà Nội, Bắc Ninh, Hưng Yên và một số tỉnh thành phía Nam, rồi quyết định xây dựng nhà máy tại Bắc Ninh. Chính quyền địa phương nhiệt tình, thủ tục hành chính nhanh gọn là điểm nhà đầu tư này đánh giá cao nhất chứ không phải là những ưu đãi về thuế [36]. Hộp 2: Quyết định đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài 51 Nhìn chung, môi trường pháp lý – hành chính của Đà Nẵng vẫn còn gặp một số những khó khăn, vướng mắc; tuy nhiên đây không phải là vấn đề bức bối nhất trong hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của thành phố Đà Nẵng. Tuy nhiên, trước thực tế hội nhập, việc tinh giản, đơn giản hóa các thủ tục hành chính vẫn được xem là một yêu cầu cấp bách đặt ra cho chính quyền thành phố Đà Nẵng. Từ cuối năm 2005, chương trình “Năm thủ tục hành chính” đã được phổ biến và triển khai thực hiện ở tất cả các cấp, các sở ban ngành. Việc phát triển kinh tế – xã hội nói chung và đẩy nhanh tốc độ thu hút vốn FDI một phần là phụ thuộc vào tính minh bạch của hệ thống pháp lý, tính gọn nhẹ hơn nữa của thủ tục hành chính của địa phương trong thời gian đến. 2.3.3 Môi trường cơ sở hạ tầng Nếu so sánh với Đồng Nai hay Bình Dương, Đà Nẵng chiếm ưu thế hơn hẳn so về mặt vị trí địa lý. Khi mới tách ra khỏi tỉnh Sông Bé vào cùng thời điểm tách tỉnh của Đà Nẵng (01/01/1997), Bình Dương chỉ là một tỉnh thuần nông, trong khi đó Đà Nẵng lại là một thành phố công nghiệp lớn của miền Trung, nằm trên vị trí chiến lược với 52 Kể từ khi tách ra khỏi tỉnh Quảng Nam vào năm 1997, Đà Nẵng đã bước vào thời kỳ xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng mạnh mẽ với sự nhất trí cao trong bộ máy chính quyền của thành phố. Trong 5 năm qua, kể từ khi được công nhận là đô thị loại 1, thành phố Đà Nẵng nổi lên như một “hiện tượng” trong việc chỉnh trang và phát triển đô thị. Khẩu hiệu “mỗi ngày một công trình khởi công, một công trình khánh thành” được xem như biểu hiện của sự hóa thân mạnh mẽ ở địa phương này. Người ủng hộ mạnh mẽ cho chính sách phát triển cơ sở hạ tầng không ai ngoài ông chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng Nguyễn Bá Thanh, mà giờ đây là Bí thư thành ủy. Chính do những nỗ lực hết mình đó mà người dân thành phố đã đặt cho ông danh hiệu “Mr. cơ sở hạ tầng” [30]. Khác với Bình Dương, nếu như sau khi tách tỉnh, Bình Dương không nhận được sự hỗ trợ về mặt ngân sách từ trung ương cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng; thì ngược lại, Đà Nẵng được hưởng trọn một khoản ngân sách từ 400-500 tỷ đồng/ năm từ trung ương để phát triển cơ sở hạ tầng [3]. Trong 10 năm qua, nguồn vốn đầu tư từ ngân sách cho cơ sở hạ tầng tăng từ 400 tỉ lên 3.200 tỉ đồng [15,6]. Quyết tâm phát triển cơ sở hạ tầng của thành phố Đà Nẵng thể hiện rõ nhất trong dự án xây dựng cầu Sông Hàn. Cây cầu bắc qua con sông Hàn, dòng sông vốn chia tách thành phố ra làm 2 phần, được lập kế hoạch xây dựng từ nguồn vốn của trung ương. Thế nhưng, do có những điểm không nhất trí về thiết kế của cây cầu – thành phố Đà Nẵng muốn xây dựng cây cầu xoay để tàu thuyền có thể qua lại được, nhưng kinh phí xây dựng sẽ cao hơn rất nhiều lần – nên Bộ Giao thông vận tải chỉ đầu tư 53 tỷ đồng, UBND bổ sung 15 tỷ đồng từ ngân sách của thành phố và huy động 27 tỷ đồng từ sự tự nguyện đóng góp của người dân [30]. Hộp 3: Quyết tâm xây dựng cầu sông Hàn của thành phố Đà Nẵng 53 Có thể nói, những thành công trong việc phát triển cơ sở hạ tầng ở Đà Nẵng là do thành phố đã hình thành được cơ chế mệnh lệnh và ngày càng được củng cố trong bộ máy quản lý từ trên xuống. Trong dự án có giải tỏa, với chính sách nếu có trên 80% số hộ gia đình đồng tình chấp nhận mức di dời theo đền bù của thành phố thì số hộ còn lại buộc phải tuân thủ. Thậm chí trong một số dự án mở rộng đường nội thị, thành phố ra chính sách chỉ đền bù nhà cửa chứ không đền bù đất và hàng rào cổng ngõ bởi vì giá trị đất còn lại của các hộ gia đình tăng lên đáng kể khi đường được cải tạo. Kể từ năm 1997, với chính sách đền bù thỏa đáng, gần 30.000 hộ gia đình đã được di dời, 30 tuyến đường mới được xây dựng và nâng cấp lên, diện mạo của thành phố đã thay đổi. Đà Nẵng được đánh giá là địa phương thực hiện công tác đền bù giải tỏa hiệu quả nhất trong cả nước [30]. Điều này không có gì là sai, và sẽ là tốt nếu quy hoạch hợp lý thì rất thuận tiện cho nhà đầu tư phát triển sau này. Nhưng hiện nay, Đà Nẵng đang đuối sức với cơ sở hạ tầng, các công trình xây dựng đang dỡ dang, không kịp tiến độ, không đủ vốn đầu tư. Lý do là vốn xây dựng cơ sở hạ tầng ở đây chủ yếu là sử dụng từ tiền khai thác quyền sử dụng đất; mà hiện nay thị trường nhà đất đang đóng băng nên Đà Nẵng đang gặp nhiều khó khăn. Hơn nữa, số vốn ứng trước để đầu tư mở rộng đô thị, chỉnh trang cơ sở hạ tầng lại chưa thu hút được đầu tư, chưa đem lại hiệu quả thúc đẩy phát triển kinh tế tương xứng. Ngoài ra, Đà Nẵng còn tập trung mở rộng và nâng cấp hệ thống sân bay, cảng biển. Các đường bay quốc tế tới Hồng Kông, Băng Cốc, Siêm Riệp đã được thiết lập. Trong năm 2005, cùng với cảng Hải Phòng và cảng Sài Gòn, cảng Đà Nẵng đã trở thành cảng thứ 3 được tạp chí Vinalines xếp vào hạng nhất các cảng biển của Việt Nam. Nhìn chung, tính đến năm 2002, Đà Nẵng đã có được một hệ thống cơ sở hạ tầng tương đối tốt so với các đô thị trung tâm khác của Việt Nam. Năm 2005 vừa qua, 54 Tuy nhiên, trong thời gian qua, xây dựng đô thị và phát triển cơ sở hạ tầng của Đà Nẵng chưa đặt trong sự tương tác với công cuộc công nghiệp hóa, nặng tư tưởng "chủ quan", nóng vội", chưa đầu tư vào hạ tầng công nghiệp, hạ tầng phục vụ phát triển du lịch, văn hóa... [30]. Trong khi đó, tỉnh Quảng Nam trong thời gian qua vừa tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng đô thị, lại vừa tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng công nghiệp, đặc biệt là các công trình thủy điện lớn: nhà máy điện A Vương 1, Sông Tranh 2, Thu Bồn với sản lượng điện từ 3.000 – 4.000 tỷ kWh/ nhà máy/ năm; và dự kiến đến năm 2010 sản lượng điện sẽ bằng nhà máy thủy điện Sông Đà hiện nay. Tính đến thời điểm hiện nay, Đà Nẵng chỉ mới có 5 KCN với tổng diện tích trên 1.110,29 ha, gồm có: KCN Đà Nẵng, KCN Liên Chiểu, KCN Hòa Khánh, KCN Hòa Cầm và KCN Thọ Quang, tất cả đều được xây dựng trước năm 2003. Thế nhưng, độ lấp đầy bởi các nhà máy trong các KCN này chưa cao; chủ yếu là các nhà máy, xí nghiệp của trung ương và địa phương trên địa bàn thành phố hoặc các doanh nghiệp tư nhân có quy mô trung bình và nhỏ; các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn còn khá khiêm tốn. Hầu như các nhà đầu tư chỉ đặt văn phòng đại diện hoặc văn phòng kinh doanh tại Đà Nẵng còn các nhà xưởng, nhà máy sản xuất hay chế tạo, lắp ráp máy móc, linh kiện tuy có nhưng còn rất hạn chế. Hơn nữa, mặc dù các KCN đã được xây dựng 55 Bảng 2.8 : Số lượng doanh nghiệp trong các KCN tại Đà Nẵng Loại hình DN Đà Nẵng Hòa Khánh Liên Chiểu Hòa Cầm Thọ Quang DN có vốn FDI 9 15 0 2 1 DN trong nước 11 90 27 26 27 Tổng 20 105 27 28 28 (Nguồn: Ban Quản lý Các KCN – KCX Đà Nẵng)[51] Điều này hầu như ngược hẳn với các KCN, KCX ở phiùa Nam như Bình Dương và Thành phố Hồ Chí Minh. Hầu như diện tích các KCN, KCX tại đây đều được lấp đầy: KCX Linh Trung, Tân Thuận, KCN Sóng Thần, KCN Việt Nam – Singapore… và nhu cầu xây dựng thêm các KCN ở các địa phương này là rất lớn. Chính các nhà máy, xí nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài này là một trong những đóng góp đáng kể cho nguồn thu ngân sách cũng như giải quyết công ăn việc làm cho các địa phương. Bảng 2.9: Các KCN, KCX tại Thành phố Hồ Chí Minh và Bình Dương Địa điểm Số lượng KCN/KCX Diện tích (ha) Tổng vốn đầu tư (triệu USD) Số nhà đầu tư TP. Hồ Chí Minh 14 2.913,14 1.612 939 Bình Dương 15 4.635,40 4.209 962 (Nguồn: - Website Tỉnh Bình Dương [52] - Website Ban quản lý các KCN và KCX Thành phố Hồ Chí Minh [62]) 56 Tuy nhiên, nếu so sánh với Bình Dương, cách phát triển cơ sở hạ tầng ở hai địa phương theo hai hướng khác nhau. Bình Dương thực hiện chính sách “cuốn chiếu” trong phát triển cơ sở hạ tầng, là đến đâu là khai thác, sử dụng, thu hút vốn đầu tư đến đó và nhà đầu tư cùng xây dựng cơ sở hạ tầng với địa phương. Từ đó, tạo nên sự quay vòng vốn đầu tư và nguồn thu mới theo cách “đánh nhỏ ăn nhỏ, đánh chắc ăn chắc” [6,13]. Trong khi đó, Đà Nẵng lại thực hiện chính sách “bày cỗ” sẵn, khởi đầu là phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển và hoàn thiện cơ sở hạ tầng rồi mới thu hút đầu tư [6,14]. Một trong những hạn chế khác đó là Đà Nẵng có lợi thế về phát triển du lịch nhưng cơ sở hạ tầng để phát triển ngành công nghiệp không khói này ở Đà Nẵng lại khá mờ nhạt. Sở hữu một dãi bờ biển dài nằm sát bên triền núi cùng với những khu du lịch sinh thái nhưng Đà Nẵng hầu như bỏ ngõ trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng nhằm phát triển loại hình công nghiệp này. Nhìn chung, môi trường cơ sở hạ tầng của Đà Nẵng đan xen những mặt tích cực và vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế. 2.3.4 Môi trường kinh tế – tài nguyên - Trong 5 năm qua, kinh tế Đà Nẵng tăng trưởng liên tục với tốc độ trung bình hàng năm là 13%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực, tỷ trọng ngành công nghiệp – Mười năm qua, Đà Nẵng đã nhanh chóng lột xác từ một đô thị cấp huyện loại 3 thành đô thị loại 1, đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển kinh tế cho toàn vùng. Thế nhưng, khuyết điểm lớn nhất trong quy hoạch đô thị Đà Nẵng là thành phố này chưa xây dựng đồng bộ được những công trình phục vụ việc phát triển công nghiệp, dịch vụ, du lịch, văn hóa, xã hội. Mới thấy cái trước mắt là chia lô, phân lô theo chủ trương mà không chú ý đến tính sáng tạo trong quy hoạch nhằm phục vụ cho sự phát triển của tương lai thành phố.[16,6] Hộp 4: 10 năm xây dựng đô thị Đà Nẵng – "được" gì, "mất" gì? 57 - Cũng như Bình Dương tại thời điểm tách tỉnh năm 1997, Đà Nẵng cũng đứng trước những lựa chọn trong chính sách phát triển kinh tế cho địa phương mình. Thế nhưng, nếu lãnh đạo của Bình Dương lựa chọn con đường phát triển kinh tế dựa vào thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài; thì Đà Nẵng lại đi theo một hướng khác. Theo lãnh đạo của thành phố, với vị trí chiến lược và tầm quan trọng của một đô thị trung tâm ở miền Trung, con đường phát triển dựa vào đầu tư trong nước mà chủ yếu là vốn nhà nước trở thành lựa chọn an toàn cho Đà Nẵng. Nền kinh tế của Đà Nẵng vẫn còn phụ thuộc nhiều vào các doanh nghiệp nhà nước, các công ty tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn nhỏ và chưa thực sự là nền “kinh tế mở”. Đầu năm 2004, tổng cộng trên địa bàn thành phố có 2.124 doanh nghiệp trong đó có hơn 90% doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế dân doanh, còn lại là các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài [52]. Tuy nhiên, phần lớn các doanh nghiệp này đều có quy mô vốn tương đối nhỏ, nhất là các doanh nghiệp tư nhân, các công ty TNHH. Thêm vào đó, các doanh nghiệp hoạt động manh mún, rời rạc, thiếu sự liên kết, chưa hình thành được các hiệp hội ngành nghề để hỗ trợ nhau. Rõ ràng, sự yếu kém của các doanh nghiệp địa phương khiến cho môi trường kinh doanh tại thành phố kém sôi động, gây khó khăn trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. 58 - Chính sách kinh tế của Đà Nẵng thiếu tính định hướng. Lãnh đạo thành phố Đà Nẵng đã không rõ ràng và nhất quán trong việc lựa chọn và theo đuổi một chính sách kinh tế thống nhất thích hợp cho sự phát triển của thành phố trong một thời gian dài; chẳng hạn như tỉnh Bình Dương, Đồng Nai tập trung vào phát triển công nghiệp, tỉnh Thừa Thiên Huế hay tỉnh Quảng Nam thì tập trung phát triển Cố đô Huế và Phố cổ Hội An thành những trung tâm du lịch dựa trên những di tích cũ; Khánh Hòa với chiến lược phát triển Nha Trang thành thành phố du lịch biển … Trong khi đó, Đà Nẵng vẫn còn loay hoay trong việc đưa ra chính sách phát triển kinh tế cho địa phương: nên tập trung vào phát triển công nghiệp, phát triển du lịch hay phát triển dịch vụ? + Lĩnh vực công nghiệp: Đà Nẵng vốn được xem là trung tâm công nghiệp của miền Trung – Tây Nguyên từ nhiều năm qua. Thế nhưng, đến thời điểm hiện nay, ngành công nghiệp của Đà Nẵng vẫn chưa có những bước phát triển thật sự khởi sắc cũng như chưa xác định được ngành công nghiệp chủ chốt của địa phương. Số lượng các doanh nghiệp tại Đà Nẵng có đủ khả năng tham gia liên doanh rất hạn chế do gặp nhiều khó khăn trong việc xác định, giải trình nguồn vốn góp cũng như chọn người có đủ năng lực tham gia đàm phán với đối tác nước ngoài. Thành phố thường chỉ có thể giới thiệu một vài doanh nghiệp địa phương làm đối tác liên doanh như Công ty Cơ khí Ô tô và thiết bị điện, Công ty cổ phần Nhựa Đà Nẵng, Công ty Điện chiếu sáng … trong lĩnh vực công nghiệp, công ty Dịch vụ du lịch Đà Nẵng … trong lĩnh vực du lịch. Ngay cả công ty tương đối mạnh như Công ty Kinh doanh và chế biến hàng xuất nhập khẩu sau một thời gian dài theo đuổi dự án liên doanh chế biến gia cầm với Đức cũng không thực hiện được vì không vay được vốn góp.[61] Hộp 5: Sự yếu kém của các doanh nghiệp hoạt động tại Đà Nẵng 59 Bảng 2.10: Giá trị sản xuất công nghiệp của Thành phố Đà Nẵng Thành phần kinh tế 2001 2002 2003 2004 2005 Kinh tế trong nước 4,185.295 5,320,429 6,679,981 7,428,598 7,984,869 Kinh tế có vốn FDI. 1,208.478 1,259,323 1,470,029 1,605,683 1,806,537 Tổng 5,393.773 6,579,752 8,150,010 9,034,281 9,791,406 (Nguồn: Thành phố Đà Nẵng 30 năm xây dựng và phát triển) [14,86] Một trong những tồn tại của lĩnh vực công nghiệp hiện nay của thành phố Đà Nẵng là vấn đề ô nhiễm môi trường trầm trọng đang diễn ra tại các nhà máy, trong các KCN làm ảnh hưởng đến môi trường sống của người dân thành phố. Đó là các nhà máy chế biến thực phẩm, chế biến thủy sản (Danifood, Thuận Phước, công ty Procimex Đà Nẵng), các nhà máy sản xuất xi măng (Cosevco 19) … Trong khi đó, trong sạch hóa môi trường cần thiết phải là một trong những yếu tố căn nhắc hàng đầu của một địa phương khi tiếp nhận một dự án đầu tư nhất định. Theo các chuyên gia Canađa và Nhật Bản thì ngoài sự ô nhiễm tại các cơ sở sản xuất công nghiệp, hệ sinh thái cũng như tính bền vững của môi trường sinh thái ở Đà Nẵng đang bị đe dọa bởi tốc độ đô thị hóa và quy hoạch phát triển đô thị không phù hợp. Tổ chức này khuyến cáo thành phố cần phải có động thái kịp thời và tích cực nhằm hạn chế tình trạng xuống cấp về môi trường hiện nay… và đây là tiếng chuông cảnh báo cần thiết đối với Đà Nẵng, một địa bàn đang tăng tốc đô thị hóa.[17] Hộp 6: Báo động ô nhiễm môi trường tại thành phố Đà Nẵng 60 + Lĩnh vực vận tải, kinh tế biển: Hoạt động kinh tế thuộc lĩnh vực vận tải tại Đà Nẵng đã có từ rất lâu nhưng đến thời điểm hiện nay hoạt động rất kém sôi động, khác hoàn toàn so với các cảng hay sân bay tại Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng. Đà Nẵng được xem là trung tâm kinh tế của miền Trung và cũng được xem là điểm trung chuyển của toàn miền Trung – Tây Nguyên vì Đà Nẵng nằm trên một vị trí địa lý rất thuận lợi để phát triển lĩnh vực vận tải: có cả cảng sông, cảng biển, sân bay quốc tế, tuyến đường sắt Bắc – Nam, hành lang kinh tế Đông Tây, tuyến đường Liên Á. Thế nhưng, lĩnh vực giao nhận vận tải của Đà Nẵng hoạt động rất ì ạch, không tương xứng với tiềm năng sẵn có của thành phố. Chi phí cho hoạt động kinh doanh, đặc biệt là kinh doanh xuất nhập khẩu còn cao. Bảng 2.11: Giá cước thuê tàu tại thị trường Đà Nẵng và TP. Hồ Chí Minh (ĐVT: USD, container) Container 20’ (USD) Container 40’ (USD) Cảng Đà Nẵng TP. HCM Đà Nẵng TP. HCM Hồng Kông 350 130 700 260 Nhật Bản (Osaka) 830-1.100 450 1.480 – 1.700 900 Châu Âu (Hamburge) 1.700 1400 3.400 2800 Mỹ (Los-Angeles) 2.100 1700 2.700 2900 Busan 600 400 1.200 780 Singapore 250 110 500 220 (Nguồn: Thương vụ cảng Đà Nẵng và cập nhật của tác giả) + Lĩnh vực phát triển du lịch: Đây là một trong những lợi thế kinh tế của Đà Nẵng thế nhưng vẫn chưa có chính sách thích hợp và chưa được đầu tư khai thác hợp lý. Hầu như tất cả các địa phương vùng duyên hải miền Trung đều có lợi thế ngang nhau về phát triển du lịch dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên biển – thế nhưng, du 61 Bảng 2.12: Kết quả hoạt động kinh doanh du lịch của TP. Đà Nẵng (ĐVT: lượt khách; triệu đồng) Năm 2001 2002 2003 2004 2005* (ước đạt) Nội địa 291.462 351.059 339.381 371.942 462.376Số lượng du khách Quốc tế 194.670 214.137 174.453 239.718 272.491 Doanh thu 291.859 338.838 338.000 369.406 429.500 (Nguồn: Sở Du lịch Thành phố Đà Nẵng) [59] Tại Đà Nẵng, cơ sở hạ tầng dành cho phát triển du lịch chưa được quan tâm đầu tư đúng mức, đặc biệt là du lịch biển. Hiện tại, Đà Nẵng chỉ mới có 1 khách sạn 5 sao (Furama Resort) và 31 khách sạn từ 1- 4 sao, các khu nghỉ dưỡng dọc theo bờ biển (resort) chưa được đầu tư xây dựng; trong khi đó tại Quảng Nam, Quy Nhơn, Nha Trang, hàng loạt các khu resort cao cấp đã được xây dựng xong và đang được khai thác hiệu quả: Victory Hội An (Quảng Nam); Vinpearl (Nha Trang)… ; và khu vực này thường do phía nước ngoài hoặc các công ty tư nhân quản lý. Trong khi đó, cơ hội để phát triển du lịch của Đà Nẵng thì rất nhiều nhưng chưa được phát huy và vẫn mãi chỉ nằm ở dạng tiềm năng. Khi du khách có yêu cầu thì hầu như loại hình sản phẩm du lịch nào ở Đà Nẵng cũng có: núi có chuyện núi, sông có chuyện sông, biển có chuyện biển và nội thành có chuyện nội thành. Nhưng khi đưa khách đến nơi thì họ lại lắc đầu ngán ngẫm bởi không có cái gì ra cái gì cả. Được tạp chí Forbes bình chọn là một trong 6 bãi biển đẹp nhất hành tinh, thế nhưng khách du lịch đến tham quan và ở lại với Đà Nẵng trên thực tế không nhiều. Theo thống kê của Sở Du lịch Thành phố Đà Nẵng, nhìn chung các con số đều tăng dần qua các 62 Ngoài ra, sản phẩm du lịch của Đà Nẵng rất nghèo nàn và hầu như chưa có “cái riêng”. Cố Đô Huế đặc sắc với sản phẩm Festival Huế được tổ chức 2năm/ lần; phố cổ Hội An với các sản phẩm văn hóa về chèo, tuồng … tổ chức vào ngày 14 âm lịch hàng tháng và sản phẩm hữu hình là chiếc đèn lồng; còn ở Đà Nẵng, chỉ là những sản phẩm nữa vời, thiếu hẳn yếu tố đặc trưng, độc đáo – ngoài Bảo tàng Chàm ra thì thật sự có rất ít điểm gọi là "ấn tượng" để giới thiệu nếu không muốn nói là không có. Bà Nà đã được người Pháp đánh giá rất cao như một khu nghỉ dưỡng với trên 200 biệt thự, rồi nhà hát opera, nhà thờ … được xây dựng; thế nhưng tất cả đã bị chiến tranh phá hủy gần hết. Muốn phát triển Bà Nà phải xác định trọng tâm của nó là sinh thái hay nghỉ dưỡng thông thường, nếu là sinh thái thì chưa hữu hiệu. Phải có một đội ngũ làm việc, hướng dẫn viên rành về sinh thái (như Bạch Mã) phối hợp với nhân viên khu bảo tồn, kiểm lâm cùng làm, quy định về quản lý môi trường phải chặt chẽ. Như vậy, quay lại là nghỉ dưỡng. Nghỉ dưỡng thì gồm có: tôi đến, tôi nghỉ và tôi đi dạo chơi. Bà Nà làm nhà nghỉ trên đỉnh nu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf45661.pdf