Tài liệu Luận văn Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước tỉnh Quảng Nam: Luận văn 
Hiệu quả sản xuất kinh 
doanh của doanh nghiệp nhà 
nước tỉnh Quảng Nam 
MỞ ĐẦU 
 1. Tính cấp thiết của đề tài 
 Quá trình chuyển đổi nền kinh tế nước ta, từ nền kinh tế kế hoạch hoá 
tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ 
nghĩa, doanh nghiệp nhà nước luôn được coi là bộ phận trọng yếu của kinh tế 
nhà nước, là lực lượng vật chất quan trọng để kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ 
đạo trong nền kinh tế quốc dân. 
 Ở nước ta trong 20 năm đổi mới, nhất là từ sau Nghị quyết Trung ương 
3 khoá IX, hệ thống doanh nghiệp nhà nước đã được sắp xếp, đổi mới, nâng 
cao hiệu quả và sức cạnh tranh, đã có những đóng góp đáng kể vào GDP, tổng 
thu ngân sách nhà nước và thực hiện các nhiệm vụ chính trị - xã hội khác. Tuy 
vậy, hệ thống doanh nghiệp nhà nước ở nước ta vẫn còn nhiều yếu kém, sức 
cạnh tranh thấp,... Vì thế, trong Văn kiện Đại hội lần thứ X của Đảng đã đưa 
ra chủ trương: "Tiếp tục đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu qu...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
105 trang | 
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1328 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước tỉnh Quảng Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn 
Hiệu quả sản xuất kinh 
doanh của doanh nghiệp nhà 
nước tỉnh Quảng Nam 
MỞ ĐẦU 
 1. Tính cấp thiết của đề tài 
 Quá trình chuyển đổi nền kinh tế nước ta, từ nền kinh tế kế hoạch hoá 
tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ 
nghĩa, doanh nghiệp nhà nước luôn được coi là bộ phận trọng yếu của kinh tế 
nhà nước, là lực lượng vật chất quan trọng để kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ 
đạo trong nền kinh tế quốc dân. 
 Ở nước ta trong 20 năm đổi mới, nhất là từ sau Nghị quyết Trung ương 
3 khoá IX, hệ thống doanh nghiệp nhà nước đã được sắp xếp, đổi mới, nâng 
cao hiệu quả và sức cạnh tranh, đã có những đóng góp đáng kể vào GDP, tổng 
thu ngân sách nhà nước và thực hiện các nhiệm vụ chính trị - xã hội khác. Tuy 
vậy, hệ thống doanh nghiệp nhà nước ở nước ta vẫn còn nhiều yếu kém, sức 
cạnh tranh thấp,... Vì thế, trong Văn kiện Đại hội lần thứ X của Đảng đã đưa 
ra chủ trương: "Tiếp tục đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả và sức 
cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước" [18, tr.232]. 
 Đối với tỉnh Quảng Nam, một tỉnh vừa mới được chia tách từ đơn vị 
hành chính Quảng Nam - Đà Nẵng. Từ năm 1997 đến nay doanh nghiệp nhà 
nước của tỉnh đã có những bước phát triển và đóng góp nhất định vào sự phát 
triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Song, các doanh nghiệp nhà nước ở Quảng 
Nam hầu hết là quy mô vừa và nhỏ, trừ một số ít doanh nghiệp đang có nhiều 
nỗ lực để duy trì khả năng hoạt động trong điều kiện chưa hội đủ các yếu tố 
của nền kinh tế thị trường, thì phần lớn các doanh nghiệp nhà nước đang trong 
tình trạng sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, cần phải có giải pháp sắp xếp, 
đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh. 
 Vì thế, đề tài nghiên cứu “Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh 
nghiệp nhà nước tỉnh Quảng Nam” là cần thiết và có ý nghĩa lý luận, thực tiễn. 
 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 
 Đã có nhiều tác giả, nhiều nhà lý luận nghiên cứu về hiệu quả sản xuất 
kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp nhà nước nói riêng, 
nghiên cứu về các giải pháp đổi mới hoạt động của doanh nghiệp nhà nước 
dưới các góc độ khác nhau, tiêu biểu như: 
 - Những giải pháp nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước - tác giả 
PGS.TSKH Đỗ Nguyên Khoát đăng trên tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 5/2004. 
 - Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh 
nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay của Đoàn Ngọc Phúc, đăng trên tạp chí 
Khoa học Chính trị, số 6 năm 2002. 
 - Nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam của 
TS Lê Khoa, đăng trên tạp chí Phát triển kinh tế, tháng 4/2002. 
 - Thực hiện thắng lợi chủ trương của Đảng về nâng cao hiệu quả 
doanh nghiệp nhà nước của tác giả Hồ Xuân Hùng đăng trên tạp chí Cộng 
sản, số 8 tháng 4/2004. 
 - Một số giải pháp đổi mới quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà 
nước của Phạm Đức Trung đăng trên tạp chí Quản lý nhà nước, số 11 năm 2003. 
 - Nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong quá 
trình hội nhập của TS Nguyễn Đăng Nam đăng trên tạp chí Tài chính, số 1+2 
năm 2003. 
 - Để kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường 
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay của PGS.TS Nguyễn Đình 
Kháng. 
 - Các giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả của hệ thống doanh nghiệp 
nhà nước ở nước ta của GS.TS Chu Văn Cấp. 
 - Nâng cao hiệu quả hoạt động của Công ty nhà nước trong quá trình hội 
nhập của TS Nguyễn Văn Quảng đăng trên tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 2/2005. 
 - Nâng cao khả năng cạnh tranh - vấn đề sống còn đối với doanh 
nghiệp Việt Nam tham gia AFTA của Đoàn Nhật Dũng đăng trên tạp chí 
Nghiên cứu Kinh tế, số 281 tháng 10/2001. 
 - Tác động của rào cản trong cạnh tranh đối với khả năng cạnh tranh 
của các doanh nghiệp Việt Nam của Đặng Thành Lê đăng trên tạp chí Nghiên 
cứu Kinh tế, số 304 tháng 9/2003. 
 - Một số quan điểm chỉ đạo bảo đảm nâng cao sức cạnh tranh của 
doanh nghiệp nhà nước trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Đỗ Huy 
Hà đăng trên tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 9/2004. 
 Và rất nhiều công trình khác. 
 Tuy nhiên cho đến nay vẫn còn ít đề tài nghiên cứu một cách cụ thể và 
có hệ thống về hiệu quả sản xuất kinh doanh doanh nghiệp nhà nước ở Quảng 
Nam dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị. Do đó, đề tài luận văn này không 
trùng lặp với các công trình, bài viết đã công bố. 
 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 
 3.1. Mục đích 
 - Nghiên cứu thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước tỉnh 
Quảng Nam hiện nay, qua đó đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp 
nhà nước trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. Trên cơ sở đó, đề xuất phương hướng 
và giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà 
nước tỉnh Quảng Nam đến năm 2010. 
 3.2. Nhiệm vụ 
 - Khái quát những vấn đề lý luận chung về doanh nghiệp nhà nước, 
hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước và sự cần thiết nâng cao hiệu 
quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước trong quá trình phát triển nền 
kinh tế thị trường ở nước ta nói chung và ở Quảng Nam nói riêng. 
 - Đánh giá thực trạng hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước tỉnh Quảng 
Nam, những kết quả và tồn tại, nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế. 
 - Đề xuất quan điểm, phương hướng, giải pháp chủ yếu nhằm nâng 
cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước tỉnh Quảng Nam đến 
năm 2010. 
 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 
 4.1. Đối tượng 
 Tất cả các doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Nam thuộc sự quản lý nhà 
nước của tỉnh, có quan hệ trực tiếp và tác động ảnh hưởng đến quá trình phát 
triển kinh tế - xã hội của địa phương. 
 4.2. Giới hạn phạm vi và thời gian nghiên cứu 
 - Đi sâu nghiên cứu các mối quan hệ kinh tế, các định hướng chung, tổng 
quát, cũng như các quan điểm... liên quan đến việc nâng cao hiệu quả kinh doanh 
của doanh nghiệp nhà nước, đề tài không đi vào mặt kỹ thuật, nghiệp vụ cụ thể 
để nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước. 
 - Phạm vi nghiên cứu là các doanh nghiệp nhà nước của tỉnh Quảng Nam 
có 100% vốn nhà nước và hoạt động kinh doanh trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. 
 - Không nghiên cứu các doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích 
cũng như các doanh nghiệp nhà nước của Trung ương và của các tỉnh, thành 
phố đóng chân và hoạt động trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. 
 - Thời gian nghiên cứu từ 2001 đến nay. 
 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 
 5.1. Cơ sở lý luận 
 Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, 
các quan điểm, đường lối, chính sách, pháp luật... của Đảng và Nhà nước. 
 5.2. Phương pháp nghiên cứu 
 Sử dụng phương pháp tổng hợp và các phương pháp phân tích thống kê 
để xử lý số liệu và kết quả điều tra khảo sát thực tiễn, đặc biệt là phương pháp 
tổng kết thực tiễn để rút ra các bài học kinh nghiệm. 
 6. Đóng góp khoa học của luận văn 
 Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo 
cho các cơ quan hữu quan của tỉnh hoạch định chính sách, giải pháp cải cách 
doanh nghiệp nhà nước của tỉnh nói riêng, phát triển kinh tế - xã hội nói 
chung, đồng thời ứng dụng hợp lý các giải pháp đối với các doanh nghiệp nhà 
nước của tỉnh Quảng Nam đang tồn tại và hoạt động. 
 7. Kết cấu của luận văn 
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung 
của luận văn gồm 3 chương, 6 tiết 
Chương 1: Doanh nghiệp nhà nước và hiệu quả kinh doanh. 
Chương 2: Thực trạng hoạt động và hiệu quả kinh doanh của doanh 
nghiệp nhà nước tỉnh Quảng Nam. 
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu qủa kinh doanh 
của doanh nghiệp nhà nước tỉnh Quảng Nam. 
Chương 1 
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC VÀ HIỆU QUẢ KINH DOANH 
 1.1. DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG NỀN 
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 
 1.1.1. Khái niệm về doanh nghiệp nhà nước 
Doanh nghiệp nhà nước được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau ở 
các nước, do cách tiếp cận khác nhau về khoa học hoặc do để thực hiện các số 
liệu thống kê với mục đích khác nhau. 
Theo tổ chức phát triển Công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO) doanh 
nghiệp nhà nước được định nghĩa là các tổ chức kinh tế thuộc sở hữu nhà 
nước hoặc do nhà nước kiểm soát có thu nhập chủ yếu từ việc tiêu thụ hàng 
hoá và cung cấp dịch vụ. Theo định nghĩa này, doanh nghiệp nhà nước bao 
gồm các doanh nghiệp hoàn toàn thuộc sự quản lý của các Bộ, Ngành, các 
doanh nghiệp mà nhà nước giữ phần lớn cổ phần, song do sự phân tán của cổ 
đông mà nhà nước nắm giữ quyền chi phối. 
Ở nước ta, khái niệm doanh nghiệp nhà nước trong hệ thống pháp luật 
Việt Nam thay đổi qua nhiều thời kì, tương ứng với sự thay đổi về quan niệm 
đối với sở hữu nhà nước, thay đổi trong cơ chế quản lý kinh tế. Năm 1995 
Nhà nước ta đã ban hành Luật doanh nghiệp nhà nước và định nghĩa: “Doanh 
nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ 
chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện 
các mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao. Doanh nghiệp nhà nước có tư 
cách pháp nhân, có quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ 
hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý. Doanh 
nghiệp nhà nước có tên gọi, có con dấu riêng và có trụ sở chính trên lãnh thổ 
Việt Nam” [26, tr.1]. Điểm mới về những thay đổi trong chính sách và cơ cấu 
kinh tế ở nước ta quy định bởi nội dung định nghĩa này được phản ánh: 
Thứ nhất, doanh nghiệp nhà nước do Nhà nước đầu tư, thành lập và 
quản lý, nghĩa là hoàn toàn thuộc sở hữu nhà nước. Các quy chế hoạt động 
của doanh nghiệp nhà nước phải căn cứ vào ý chí của chủ sở hữu. Mối quan 
hệ giữa nhà nước với người lao động không đơn thuần là quan hệ nhà nước 
với chủ thể pháp luật mà còn là quan hệ giữa chủ sở hữu với người được chủ 
sở hữu giao quản lý tài sản. Đây là điểm khác biệt đối với doanh nghiệp tư 
nhân cũng như các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. 
Thứ hai, doanh nghiệp nhà nước dưới tác động của cạnh tranh và dưới 
tác động của các nhu cầu phúc lợi xã hội, an ninh, quốc phòng được phân 
thành doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh và doanh nghiệp nhà 
nước hoạt động công ích. Việc phân chia này được đưa ra lần đầu tiên và 
được đề cập trong Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 1995. 
Thứ ba, tư cách pháp nhân của doanh nghiệp nhà nước đã xác định tính 
chất vô hạn trong quan hệ với các chủ thể khác đồng thời khẳng định giới hạn 
trách nhiệm của nhà nước trong phạm vi phần vốn mà Nhà nước đầu tư vào 
doanh nghiệp nhà nước. Đây là vấn đề mà doanh nghiệp nhà nước cần chú ý 
khi tham gia các giao dịch dân sự, thương mại với các doanh nghiệp, các tổ 
chức khác. 
Tuy nhiên, khái niệm doanh nghiệp nhà nước đã được phát triển tương 
đối sâu trong định nghĩa và các quy định của Luật doanh nghiệp nhà nước 
năm 2003, được thể hiện ở điều I: “Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế 
do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, 
được tổ chức dưới hình thức Công ty nhà nước, Công ty cổ phần, Công ty 
trách nhiệm hữu hạn” [27, tr.7-8]. Có thể hiểu rằng: Khái niệm của Luật 
doanh nghiệp nhà nước năm 2003 chứa đựng nhiều đổi mới phản ánh những 
thay đổi khá cơ bản trong nhận thức của các nhà lập pháp và hoạch định chính 
sách của nước ta đối với thành phần kinh tế nhà nước cũng như các thành 
phần kinh tế khác. 
Thứ nhất, việc xác định doanh nghiệp nhà nước không hoàn toàn dựa 
vào tiêu chí sở hữu như trước đây mà tiêu chí để xác định doanh nghiệp nhà 
nước theo Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003 là quyền kiểm soát và chi 
phối doanh nghiệp nhà nước. Đây chính là điểm mới trong cách tiếp cận 
doanh nghiệp nhà nước. 
Thứ hai, thừa nhận sự tồn tại bình đẳng của các hình thức sở hữu trong 
một doanh nghiệp nhà nước. Nghĩa là có những loại doanh nghiệp nhà nước 
mà trong đó các hình thức sở hữu khác nhau hoàn toàn bình đẳng với nhau 
trên nguyên tắc của nền dân chủ cổ phần. Bất kì là Nhà nước, các nhà đầu tư, 
các doanh nhân nếu góp vốn nhiều thì có nhiều khả năng chi phối doanh 
nghiệp nhà nước. 
Thứ ba, thừa nhận khả năng chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước thành 
doanh nghiệp thông thường, thông qua cơ chế chuyển nhượng, mua bán cổ 
phần - Nghĩa là trong quá trình tồn tại, do sự vận động của cổ phần giữa các 
cổ đông với nhau dẫn đến nhà nước không còn nắm giữ được đủ số lượng cổ 
phần chi phối thì sẽ không bảo đảm được quyền chi phối, và do vậy doanh 
nghiệp đó sẽ không còn là doanh nghiệp nhà nước nữa. 
Có thể nói, Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003 đã đa dạng hoá các 
doanh nghiệp nhà nước trên tiêu chí quyền chi phối. Khác với trước đây, 
doanh nghiệp nhà nước chỉ tồn tại dưới dạng doanh nghiệp nhà nước độc lập 
hoặc Tổng Công ty nhà nước thì nay doanh nghiệp nhà nước cũng có thể tồn 
tại dưới nhiều dạng khác nhau. Chính sự đa dạng về hình thức tồn tại của 
doanh nghiệp nhà nước sẽ làm sinh động thành phần kinh tế công, làm cho nó 
thích ứng hơn với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 
Như vậy, theo nội dung khái niệm của Luật Doanh nghiệp nhà nước 
2003 thì doanh nghiệp nhà nước là một pháp nhân do nhà nước đầu tư vốn, 
thành lập và tổ chức quản lý, có thẩm quyền kinh tế bình đẳng với các doanh 
nghiệp và hạch toán kinh tế độc lập trong phạm vi vốn do doanh nghiệp quản 
lý. Doanh nghiệp nhà nước cũng có nhiều loại hình khác nhau tuỳ theo qui 
mô kinh doanh, chức năng, nhiệm vụ, mức độ liên kết kinh doanh và hoạt 
động độc lập mà có tên gọi khác nhau như: Tập đoàn kinh tế, Tổng Công ty 
nhà nước, Công ty nhà nước có hoặc không có Hội đồng quản trị. 
 Trên cơ sở mục đích hoạt động, quy mô, hình thức và cách tổ chức 
quản lý mà doanh nghiệp nhà nước được phân thành các loại doanh nghiệp 
khác nhau, như: Doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh; doanh nghiệp 
nhà nước hoạt động công ích; doanh nghiệp nhà nước độc lập; doanh nghiệp 
nhà nước thành viên; doanh nghiệp nhà nước có hội đồng quản trị và doanh 
nghiệp nhà nước không có hội đồng quản trị. 
Sơ đồ 1.1: Các loại hình doanh nghiệp nhà nước 
theo Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003 
 Nguồn: [5, tr.248]. 
Doanh nghiệp nhà nước 
Công ty nhà nước 
DN hoạt động theo Luật DN có 
cổ phần 100% hoặc chi phối 
của nhà nước 
Loại 
100% 
vốn NN 
DN có cổ 
phần, vốn 
góp NN 
trên 50% 
vốn Điều 
lệ 
DN do 
NN hoặc 
DNNN 
có quyền 
chi phối 
Công ty 
NN 
không có 
HĐQT 
Công ty 
NN có 
HĐQT 
Loại 
Độc lập 
Tổng 
công ty 
TCT do 
NN 
Quyết 
định đầu 
tư và 
thành 
Lập 
TCT 
chuyên 
đầu tư 
và kinh 
doanh 
vốn NN 
Loại do 
các 
công ty 
tự đầu 
tư và 
thành 
lập 
Công ty 
cổ phần 
nhà 
nước 
Công ty 
TNHH 
nhà 
nước 1 
thành 
viên 
Công ty 
TNHH 
nhà 
nước có 
2 thành 
viên trở 
lên 
Như vậy, trải qua quá trình thay đổi của các thời kì, khái niệm doanh 
nghiệp nhà nước đã được hoàn thiện hơn, quyền và nghĩa vụ của doanh 
nghiệp nhà nước được mở rộng và qui định chi tiết tại các Điều 12, 13, 14, 15, 
16, 17, 18, 19, 20 chương III, Điều 57, 58, 59 chương V, Điều 70, 71 mục 3 
chương VI của Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003, thể hiện căn bản 
quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước trên cơ sở bảo 
toàn, phát triển và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn do nhà nước đầu tư 
hoặc do doanh nghiệp tự huy động, đồng thời phải tự chịu trách nhiệm trước 
kết quả lỗ lãi trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, và phải 
thực hiện đầy đủ, kịp thời các nghĩa vụ đối với Nhà nước, đối với chủ sở hữu, 
đối với người lao động theo quy định của pháp luật. 
 1.1.2. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị 
trường định hướng xã hội chủ nghĩa 
Định hướng xã hội chủ nghĩa là xác định và điều khiển hướng phát 
triển nền kinh tế quốc dân theo con đường đi tới chủ nghĩa xã hội, mô hình xã 
hội lí tưởng của Cách mạng Việt Nam mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã 
chọn. Đây được coi là nguyên tắc lớn, có tính bao trùm, xuyên suốt và vạch rõ 
hướng đích cho cả quá trình phát triển lâu dài, ổn định của đất nước trên mọi 
lĩnh vực, trong đó có phát triển kinh tế. Nguyên tắc này cũng vạch rõ mục tiêu 
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là phát 
triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất của xã 
hội chủ nghĩa, nâng cao đời sống nhân dân. Mặt khác, nguyên tắc này cũng 
xác định nền kinh tế thị trường mà Việt Nam đang nỗ lực xây dựng là nền 
kinh tế trong đó có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, nhưng 
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập 
thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Định 
hướng này đã được Đảng ta chủ trương ngay từ Đại hội VI (tháng 12/1986) 
của Đảng, đánh dấu bước ngoặt của quá trình đổi mới nền kinh tế nước ta từ 
nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều 
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo 
định hướng xã hội chủ nghĩa. Và tiếp tục khẳng định trong các lần Đại hội 
Đảng toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX và tại Đại hội lần thứ X của Đảng định 
hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta được khẳng 
định là: “Thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, 
văn minh, giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng 
cao đời sống nhân dân, đẩy mạnh xoá đói giảm nghèo, khuyến khích mọi 
người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng 
bước khá giả hơn” [18, tr.77]. Điều này cũng có nghĩa rằng, yêu cầu xây 
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải nâng 
cao hiệu quả thực hiện chức năng kinh tế của nhà nước.Vì rằng: “Kinh tế nhà 
nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định 
hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành 
phần kinh tế cùng phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày 
càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân” [18, tr.83]. 
Trong khi đó doanh nghiệp nhà nước là bộ phận chính yếu, quan trọng của 
kinh tế nhà nước, một lực lượng vật chất cơ bản để kinh tế nhà nước thực hiện 
vai trò chủ đạo, đóng góp vào quá trình tăng trưởng kinh tế, thực hiện tốt các 
mục tiêu kinh tế - xã hội của nhà nước. Do vậy, vai trò của doanh nghiệp nhà 
nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa luôn gắn liền 
với việc tham gia tích cực vào quá trình gia tăng nguồn lực kinh tế của nhà 
nước với tư cách vừa là chủ thể kinh doanh, là lực lượng trực tiếp tạo cơ sở 
vật chất cho xã hội, vừa là lực lượng kinh tế nòng cốt của nhà nước dẫn dắt, 
mở đường cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển. 
Như vậy, thể hiện trên 3 khía cạnh: Kinh tế, chính trị - xã hội và môi 
trường có thể khái quát nội dung vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền 
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như sau: 
 - Là công cụ chủ yếu tạo ra sức mạnh vật chất để nhà nước giữ vững sự 
ổn định xã hội, điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế phát triển theo định hướng 
xã hội chủ nghĩa. 
- Là lực lượng kinh tế nòng cốt đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, 
hiện đại hoá, bảo đảm những cân đối lớn cho nền kinh tế góp phần tạo ra môi 
trường, tiền đề và mở đường hỗ trợ cho các thành phần kinh tế khác phát triển, 
thúc đẩy sự tăng trưởng bền vững của toàn bộ nền kinh tế, lôi cuốn các thành phần 
kinh tế khác cùng tham gia vào quỹ đạo đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. 
- Là lực lượng xung kích đi đầu trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học 
kỹ thuật và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng và hiệu quả, góp 
phần thúc đẩy nhanh chóng tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 
- Là lực lượng đối trọng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước, 
không ngừng đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh doanh, là lực 
lượng nòng cốt, chủ lực trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. 
 - Là lực lượng nắm những vị trí, lĩnh vực then chốt trong nền kinh tế, là 
công cụ trọng yếu để Nhà nước thực sự là “bàn tay” hữu hình điều tiết vĩ mô 
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 
- Là lực lượng tiên phong đảm nhận hoạt động trên các lĩnh vực có tính 
chiến lược đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nhằm giữ vững sự ổn định về 
chính trị. Cung ứng các hàng hoá, dịch vụ thiết yếu trong lĩnh vực kết cấu hạ 
tầng như: giao thông, thuỷ lợi, điện, nước, thông tin; trên lĩnh vực xã hội như: 
y tế, giáo dục...và an ninh quốc phòng. 
- Giữ vững vai trò nòng cốt chi phối trong lưu thông hàng hoá, tiền tệ 
và xuất nhập khẩu, những ngành hàng quan trọng, lĩnh vực trọng yếu nhằm 
đảm bảo sự tăng trưởng của đất nước, góp phần quan trọng trong việc ngăn 
ngừa và khắc phục những khiếm khuyết từ mặt trái của cơ chế thị trường. 
- Là lực lượng tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới- xã hội chủ nghĩa; đi 
đầu thực hiện các chính sách xã hội, tạo việc làm ổn định cho người lao động, 
đặc biệt là tham gia hỗ trợ phát triển các vùng khó khăn, kém phát triển như: 
miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa... 
- Là lực lượng biết sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả tài nguyên thiên 
nhiên và gương mẫu trong việc gìn giữ môi trường sinh thái, bảo vệ sức khoẻ 
cho nhân dân. 
Như vậy, điều không thể thiếu được trong yêu cầu xây dựng nền kinh tế 
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là vai trò doanh nghiệp nhà nước, bộ 
phận cấu thành chính yếu của kinh tế nhà nước, là lực lượng vật chất chủ yếu 
để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo đóng góp vào sự tăng trưởng 
kinh tế, thực hiện các chính sách xã hội, đi đầu trong tiến trình công nghiệp 
hoá, hiện đại hoá và là lực lượng chủ lực trong hội nhập kinh tế quốc tế, mở 
đường và thu hút các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng xã 
hội chủ nghĩa. Theo đó, doanh nghiệp nhà nước càng hoạt động có hiệu quả 
thì kinh tế nhà nước càng phát huy vai trò chủ đạo, thúc đẩy nhanh chóng sự 
phát triển bền vững về kinh tế xã hội, góp phần thực hiện mục tiêu: Dân giàu, 
nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. Ngược lại, nếu doanh 
nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả sẽ dẫn đến làm suy yếu đi vai trò 
của kinh tế nhà nước và do đó sẽ tác động ngược đến qui trình phát triển của 
nhà nước xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy mà Đại hội lần thứ IX của Đảng đã 
tiếp tục khẳng định: “Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế nhà nước để thực 
hiện tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Kinh tế nhà nước là lực lượng vật 
chất quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền 
kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt trong nền kinh tế, 
đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất 
lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp hành luật pháp” [17, tr.189]. 
 1.2. HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP 
 1.2.1. Khái niệm về hiệu quả kinh doanh 
Kinh doanh là việc sử dụng một nguồn lực có hạn nào đó để đầu tư vào 
hoạt động sản xuất, hay dịch vụ nhằm sinh lợi, đồng thời cung cấp cho xã hội 
một lượng hàng hoá hay giá trị dịch vụ đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của 
xã hội. Mục đích kinh tế của kinh doanh là bằng mọi hình thức tạo ra lợi 
nhuận và do đó mục đích kinh doanh là mong muốn dành những lợi thế về 
phía mình để có được hiệu quả cao nhất. 
Hiệu quả là mục tiêu quan trọng hàng đầu mà doanh nghiệp phải đạt 
được trong quá trình tổ chức hoạt động kinh doanh. 
Từ nội dung định nghĩa nêu trên, có thể hiểu rằng: Hiệu quả kinh doanh 
là một khái niệm bao hàm sự tổng hoà của mối quan hệ, của hệ thống chỉ tiêu 
chất lượng được qui định như là những thước đo phản ánh tình trạng hoạt 
động của một doanh nghiệp. 
Nói cách khác, hiệu quả kinh doanh là việc lựa chọn, sử dụng hợp lý 
các nguồn lực về vốn, tài nguyên thiên nhiên, nhân lực và áp dụng các 
phương pháp quản lí, dây chuyền công nghệ, thiết bị sao cho các mục tiêu 
trong kinh doanh đạt đến sự tối ưu, về chi phí thì tối thiểu, mà lợi nhuận là tối 
đa, thoả mãn được nhu cầu của người tiêu dùng đồng thời thực hiện được các 
nghĩa vụ đối với Nhà nước, tạo ra lợi ích cho xã hội, góp phần vào quá trình 
tăng trưởng của nền kinh tế. 
Trong nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, 
hiệu quả kinh doanh quyết định sự tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp, 
đặc biệt đối với doanh nghiệp nhà nước thì hiệu quả kinh doanh ngoài mục tiêu 
phải hướng tới thì đòi hỏi phải được thể hiện cả trên 3 khía cạnh, đó là: hiệu quả 
kinh tế thuần tuý, hiệu quả về chính trị - xã hội và hiệu quả về môi trường. 
- Hiệu quả kinh tế thuần tuý là hiệu quả nhằm vào mục đích tối đa hoá 
lợi nhuận trong các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thông qua các chỉ 
số về doanh thu, lợi nhuận, thu nhập bình quân, nộp ngân sách nhà nước năm 
sau cao hơn năm trước và được thể hiện trong các nhóm chỉ tiêu sau: 
 Doanh thu 
+ Hiệu suất sử dụng vốn = 
 Vốn 
Chỉ tiêu này cho biết toàn bộ vốn kinh doanh của doanh nghiệp trong 
kỳ luân chuyển được bao nhiêu vòng, qua đó có thể đánh giá được khả năng 
sử dụng tài sản của doanh nghiệp theo tiêu chí của các tổ chức ngân hàng 
thương mại. Trong những trường hợp cụ thể người ta có thể tính hiệu quả sử 
dụng riêng cho từng loại vốn cố định hay vốn lưu động. 
 Lợi nhuận hoạt động kinh doanh 
+ Tỷ suất lợi nhuận vốn = 
 Vốn sử dụng bình quân 
Chỉ tiêu này phản ánh 1 đồng vốn kinh doanh sử dụng trong kì sẽ tạo ra 
được bao nhiêu đồng lợi nhuận, cho phép đánh giá khả năng sinh lợi của tổng vốn. 
 Lợi nhuận hoạt động kinh doanh 
+ Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu = 
 Vốn chủ sở hữu bình quân 
Chỉ tiêu này phản ánh đồng vốn chủ sở hữu sử dụng trong kì có thể tạo 
ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. 
Lợi nhuận hoạt động kinh doanh 
+ Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu = 
 Doanh thu thuần 
Đây là chỉ tiêu phản ánh mỗi đồng doanh thu thuần mà doanh nghiệp 
thu được trong kì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. 
 Tổng tài sản lưu động 
+ Khả năng thanh toán chung = 
 Tổng nợ ngắn hạn 
Đây là chỉ tiêu phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp. Nếu chỉ số 
này ≥ 1 có nghĩa là doanh nghiệp không có nguy cơ rơi vào tình trạng vỡ nợ. 
- Hiệu quả chính trị xã hội là hiệu quả mà doanh nghiệp đạt được và 
đóng góp vào sự phát triển vững mạnh của đất nước, tạo việc làm và mang 
lại thu nhập ổn định cho người lao động, giữ vững trật tự an ninh cho xã 
hội, góp phần xoá đói giảm nghèo, nâng cao mức sống về vật chất và tinh 
thần cho nhân dân. Với tư cách là bộ phận quan trọng của kinh tế nhà nước 
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thì những lợi ích 
thuần tuý về hiệu quả kinh tế doanh nghiệp nhà nước, trong quá trình tổ 
chức các hoạt động kinh doanh phải luôn hướng đến mục tiêu vì lợi ích cộng 
đồng thông qua việc tiên phong thực hiện kịp thời và đầy đủ các chính sách 
xã hội của Nhà nước. 
- Hiệu quả về môi trường là hiệu quả được tạo ra từ các doanh nghiệp 
trên lĩnh vực gìn giữ và bảo vệ môi trường sinh thái, khai thác và sử dụng hợp 
lý tài nguyên thiên nhiên, đóng góp tích cực vào quá trình cải thiện về môi 
trường xanh - sạch - đẹp, khắc phục triệt để những ảnh hưởng về vệ sinh công 
nghiệp, đảm bảo điều kiện sống của nhân dân và người lao động. 
Như vậy, một doanh nghiệp nhà nước kinh doanh có hiệu quả theo các 
tiêu chí hiện hành là phải bảo toàn và phát triển vốn, phải tính đủ khấu hao tài 
sản cố định, lương bình quân phải bằng hoặc vượt mức bình quân của doanh 
nghiệp cùng ngành nghề trên địa bàn, trả đầy đủ các khoản nợ đến hạn, nộp 
đủ các khoản thuế theo luật định, có lãi và lập đủ các quỹ của doanh nghiệp 
như: Dự phòng tài chính, trợ cấp mất việc làm, đầu tư phát triển, khen thưởng, 
phúc lợi. Ngoài ra phải thực hiện đầy đủ các chính sách xã hội đối với người 
lao động: Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, chăm lo đời sống tinh thần đối với 
người lao động, hưởng ứng và đóng góp tích cực các hoạt động vì mục tiêu 
lợi ích cộng đồng thông qua trợ giúp giảm nghèo, xoá nhà tạm, hỗ trợ sinh 
viên nghèo vượt khó, tham gia khắc phục thiên tai...Mặt khác, phải tạo ra và 
tham gia tích cực trong quá trình bảo vệ và cải thiện môi trường xanh - sạch - 
đẹp, tạo sự an toàn cho xã hội và mang lại cuộc sống yên lành cho nhân dân 
và người lao động. 
Tất cả những tiêu chí về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà 
nước vừa nêu trên sẽ là những nhân tố quan trọng đóng góp vào quá trình 
phát triển bền vững của kinh tế địa phương và toàn bộ nền kinh tế nước ta 
đang vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bởi lẽ 
hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước bao giờ cũng được đặt 
trong mối quan hệ tổng thể của nền kinh tế, đặt trong yêu cầu lợi ích chung 
của đất nước và dân tộc. 
 1.2.2. Các tiêu chí, yếu tố cấu thành và ảnh hưởng đến hiệu quả 
kinh doanh 
1.2.2.1. Các tiêu chí đánh giá hiệu qủa kinh doanh của doanh nghiệp 
- Trong nền kinh thế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các doanh 
nghiệp nhà nước được giao quyền tự chủ ngày càng cao, tuy nhiên do đặc 
điểm của doanh nghiệp nhà nước thuộc sở hữu nhà nước về kinh tế nên việc 
đánh giá hiệu quả kinh doanh phải dựa trên cơ sở tốc độ “tăng trưởng kinh 
tế” thông qua hệ thống các tiêu chí như: 
+ Doanh số sản lượng phải bảo đảm liên tục tăng, hoàn thành chỉ tiêu 
sản lượng đối với ngành, nhà nước có chỉ tiêu kế hoạch giao thực hiện. 
+ Tỉ suất lợi nhuận trên vốn, giá trị gia tăng trên vốn phải đạt mức năm 
sau cao hơn năm trước đồng thời cao hơn định mức hiệu quả sử dụng vốn của 
nhà nước vào kinh doanh. 
+ Bảo toàn và tăng trưởng vốn, tự tích luỹ đầu tư mở rộng các hoạt 
động kinh doanh. 
- Tình hình tài chính lành mạnh, đảm bảo được khả năng thanh toán nợ 
đến hạn. 
- Các khoản đóng góp cho ngân sách tối thiểu phải tương ứng với vốn 
đầu tư của Nhà nước. 
- Nộp đầy đủ và đúng hạn các nghĩa vụ thuế theo qui định của pháp luật. 
- Việc làm và đời sống của người lao động trong doanh nghiệp được ổn 
định và nâng cao. 
- Chấp hành tốt các chế độ, chính sách và pháp luật trong hoạt động 
kinh doanh như là các chính sách về bảo hiểm, chế độ báo cáo tài chính kế 
toán, kiểm toán, chính sách về lao động và tiền lương, chính sách cải thiện và 
bảo vệ môi trường, đồng thời với việc tham gia các hoạt động và mục tiêu của 
xã hội. 
Hệ thống các tiêu chí trên đây, là những thành tố rất quan trọng làm cơ 
sở để đánh giá một cách toàn diện, chính xác và khách quan hiệu quả kinh 
doanh của doanh nghiệp nhà nước. Hệ thống tiêu chí này cũng đã được Thủ 
tướng Chính phủ thống nhất ban hành tại Quyết định 271/TTg ngày 
31/12/2003 và đang được áp dụng đới với việc đánh gía hiệu quả kinh doanh 
của doanh nghiệp nhà nước. 
1.2.2.2. Các yếu tố cấu thành và ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh 
Thứ nhất, chiến lược kinh doanh và các chính sách hỗ trợ 
Một trong những nhiệm vụ quan trọng đối với doanh nghiệp nhà nước 
là xây dựng và phát triển chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp mình trên 
cơ sở những dự báo về sự tăng trưởng nền kinh tế cùng với những ảnh hưởng 
của các yếu tố về chính trị, kinh tế - xã hội và những tiền đề được xem là yếu 
tố nội lực của doanh nghiệp. Thông qua đó phân tích những điểm mạnh, điểm 
yếu những cơ hội và nguy cơ mà doanh nghiệp có được để đón bắt và ngăn 
ngừa những biến động có thể xảy ra liên quan đến quá trình kinh doanh của 
doanh nghiệp, như là sự bão hoà thị trường, sự thay đổi các quan niệm giá trị, 
sự xuất hiện công nghệ mới, các yếu tố liên minh khu vực cũng như toàn cầu 
hoá xu hướng phát triển nền kinh tế hay là vấn đề môi trường, vệ sinh công 
nghiệp...Như vậy, chiến lược kinh doanh có thể hiểu là những định hướng 
kinh doanh, những phương pháp hay sự lựa chọn và những khả năng thực 
hiện các công việc kinh doanh đã được đặt ra. 
Đi cùng với chiến lược kinh doanh là các chính sách hỗ trợ được xem 
như là các giải pháp tối ưu về nguồn lực nhằm thực hiện các mục tiêu của 
chiến lược kinh doanh, đó là: 
- Chính sách về nguồn vốn: Bao gồm các nguồn tài chính mà doanh 
nghiệp cần huy động để phục vụ cho hoạt động kinh doanh. 
- Chính sách về sản xuất: Là hoàn thiện quá trình sản xuất khai thác 
tiềm năng nguồn lao động, kế hoạch tăng, giảm năng lực sản xuất phù hợp với 
chiến lược kinh doanh, điều hành và bố trí hợp lý các qui trình sản xuất với 
khả năng đổi mới thiết bị công nghệ, nhằm tăng năng suất lao động, hạ giá 
thành sản phẩm. 
- Chính sách nghiên cứu và phát triển: Tập trung các vấn đề như là tiến 
bộ kỹ thuật, phát huy sáng kiến, thu thập ý tưởng mới, phát minh sáng chế và 
tăng cường trách nhiệm đối với chất lượng sản phẩm. 
- Chính sách maketing: Nhằm giữ vững thị trường và khách hàng tiềm 
năng đồng thời mở rộng thị trường mới để tăng cường tiêu thụ sản phẩm. 
- Chính sách nhân sự: Xây dựng được đội ngũ những người lao động có 
phẩm chất, tư cách đạo đức, có giác ngộ chính trị, có phong cách và thói quen 
lao động công nghiệp để xứng đáng là lực lượng lao động tiên tiến, có ý thức kỉ 
luật lao động, có khả năng ứng dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công 
nghệ. 
- Chính sách tài chính: Nhằm ổn định khả năng thanh toán, tự đầu tư về 
lợi nhuận, đầu tư ra ngoài hợp lý, kế hoạch tăng vốn tự có, loại bỏ các rủi ro 
tiền tệ. 
- Chính sách thu thập và xử lí thông tin: Trên cơ sở những tin tức mới 
được thu nhập, được hiểu và được đánh giá là có ích trong việc ra quyết định 
về sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp. 
- Chính sách xã hội: Là công cụ mà chủ thể lãnh đạo sử dụng để định 
hướng, điều chỉnh hành vi, hành động của con người, bảo vệ và thoả mãn nhu 
cầu về quyền lợi của mọi thành viên trong doanh nghiệp mình như: Thu nhập, 
việc làm, khát vọng cá biệt về uy thế, thăng tiến, bảo hành quyền lợi sử dụng 
sản phẩm của khách hàng và chăm lo công tác từ thiện, an sinh xã hội. 
- Chính sách về lợi nhuận: Đây là mục tiêu hàng đầu đối với mọi hoạt 
động kinh doanh của doanh nghiệp. Lợi nhuận tối đa sẽ tạo mọi điều kiện cho 
doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh, làm tốt nghĩa vụ đóng góp cho 
Nhà nước theo luật định và tạo nguồn tăng thu nhập cho người lao động. 
Những chính sách này là sự tương hỗ lẫn nhau trong mối quan hệ tổng 
hoà thúc đẩy quá trình hiệu xuất hoá chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. 
Thứ hai, trình độ công nghệ, thiết bị 
- Thiết bị là một bộ phận về “phần cứng” của công nghệ. Thiết bị nói 
chung là các công cụ và máy móc tạo ra và hình thành dây chuyền sản xuất 
của doanh nghiệp để sản xuất ra sản phẩm phục vụ nhu cầu xã hội. 
- Công nghệ là tổng hợp các phương tiện kỹ thuật, kỹ năng, phương 
pháp được dùng đến để chế biến và sản xuất vật phẩm hàng hoá. Ngoài phần 
cứng là thiết bị, máy móc còn có phần mềm bao gồm: con người, thông tin, 
phương pháp, tổ chức quản lý, trong đó tri thức khoa học là chủ yếu. 
- Công nghệ còn là hệ thống các giải pháp mà con người sử dụng trong 
quá trình thực hiện một mục tiêu cụ thể như: Chế tạo sản phẩm, xây dựng một 
công trình hay thực hiện một dịch vụ nào đó, thể hiện dưới hai dạng: Công 
nghệ quy trình là các phương thức chế tạo sản phẩm hàng hoá và công nghệ 
sản phẩm được đề cập với bản chất, đặc tính và tính hữu ích của sản phẩm sản 
xuất ra. 
Đối với doanh nghiệp nhà nước đổi mới nâng cao trình độ công nghệ, 
thiết bị là động lực giúp doanh nghiệp tạo ra lợi thế cạnh tranh trên thị trường 
vì lẽ kết quả của đổi mới công nghệ thiết bị là làm cho chất lượng sản phẩm, 
dịch vụ của doanh nghiệp tăng lên, đáp ứng nhu cầu khắt khe của khách hàng 
và tạo ra được uy tín với thị trường. Đổi mới công nghệ, thiết bị sẽ làm tăng 
năng suất lao động, giảm bớt được hao phí lao động trên một sản phẩm dẫn 
đến hạ giá thành và do đó số lượng cũng như chất lượng sản phẩm sẽ tăng lên 
do được ứng dụng những tiến bộ của khoa học công nghệ mới. 
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì việc đổi 
mới công nghệ, thiết bị là yếu tố vô cùng quan trọng đối với hiệu quả kinh 
doanh của doanh nghiệp nhà nước. 
Thứ ba, chất lượng nguồn nhân lực 
Nguồn nhân lực trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này được hiểu 
là lực lượng lao động trong một doanh nghiệp và là nhân tố quyết định việc tổ 
chức sử dụng có hiệu quả các nguồn lực khác trong quá trình hoạt động kinh 
doanh của doanh nghiệp đó. Nói cách khác, nguồn lực lao động đó là nhân tố 
quyết định việc tái tạo sử dụng, phát triển các nguồn lực chủ yếu của quá trình 
sản xuất. Nguồn lực lao động còn là nhân tố sáng tạo ra công nghệ, thiết bị và 
sử dụng chúng vào quá trình phát triển kinh tế, làm thay đổi cơ cấu chi phí, 
giảm giá thành sản phẩm do quá trình tăng năng suất lao động. Có thể nói, 
đây là yếu tố cấu thành quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh 
doanh của doanh nghiệp, vì rằng con người nói chung, nguồn lực lao động nói 
riêng, vừa là yếu tố quan trọng, vừa là kết quả của quá trình lao động sản xuất 
xã hội. Nếu quá trình tái sản xuất xã hội không đạt được sự gắn kết hài hoà 
giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội thì chưa thể gọi là 
đạt được mục tiêu đặt con người ở vị trí trung tâm của mọi quá trình phát 
triển. 
Đảng và Nhà nước ta cũng đã khẳng định, mục tiêu và động lực phát 
triển kinh tế xã hội là vì con người và do con người. Ngày nay, trong nền kinh 
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vai trò của nguồn nhân lực càng 
được khẳng định thông qua trình độ về chuyên môn, về thể chất, về kỹ thuật 
cao, đánh dấu bước phát triển nguồn lực lao động ứng với sự phát triển của 
nền kinh tế. 
Nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố không chỉ góp phần tạo nên 
hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp mà còn là yếu tố cấu thành sự phát triển 
bền vững của nền kinh tế. 
Đối với doanh nghiệp nhà nước việc thường xuyên đào tạo nâng cao 
chất lượng nguồn nhân lực để phục vụ cho doanh nghiệp mình và cung cấp 
cho xã hội là một trong những nhiệm vụ cơ bản nhằm tạo ra hiệu quả kinh 
doanh vì mục tiêu xã hội. 
Thư tư, ổn định việc làm và nâng cao thu nhập 
Đây là hai đại lượng luôn gắn liền với cuộc sống thiết thân của người 
lao động và luôn vận động trong mối quan hệ hữu cơ. Vì rằng: Việc làm luôn 
luôn, bao giờ và lúc nào cũng là nhu cầu cần thiết của con người trong xã hội. 
Đó là một đòi hỏi tự nhiên bởi con người được sinh ra để sống và làm việc, 
nhưng để có đủ điều kiện làm việc con người phải đáp ứng lại nhu cầu tiêu 
dùng cá nhân thông qua thu nhập, và phải từ thu nhập thường xuyên trên cơ 
sở việc làm ổn định. Lúc sinh thời, Bác Hồ của chúng ta cũng từng nói: “Phát 
triển sản xuất để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân” [28, 
tr.212]. Nghĩa là: đời sống được nâng cao là nhằm phục vụ cho sản xuất và sản 
xuất phải nhằm mục đích nâng cao đời sống của con người, bởi vì như Mác 
đã từng nói: “Chính con người mới là nhân tố tạo ra mọi giá trị”. Trong thực 
tế hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước vấn đề việc làm và 
thu nhập đã trở thành yếu tố cấu thành và ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả, 
nó tuỳ thuộc vào các chính sách giải quyết việc làm và phân phối thu nhập mà 
doanh nghiệp đã lựa chọn. Nếu sử dụng chính sách phù hợp sẽ tạo được việc 
làm ổn định cho người lao động và do vậy sẽ khai thác được những tiềm năng 
to lớn thông qua trình độ bậc thợ, tay nghề, kỹ năng kỹ xảo và ý thức tổ chức 
kỷ luật của người lao động nhằm tăng năng suất lao động, tạo điều kiện tăng 
các chỉ số kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời thực hiện phân phối thu 
nhập công bằng trên cơ sở kết quả kinh doanh và kết quả đóng góp của người 
lao động sẽ là nguồn lực thúc đẩy sản xuất phát triển, tạo ra được việc làm ổn 
định cho người lao động. Thực hiện chính sách khuyến khích và phát huy 
sáng kiến cải tiến kỹ thuật thông qua các chế độ khen thưởng và phúc lợi xã 
hội nhằm tạo động lực để thi đua lao động, gắn bó với doanh nghiệp bởi tinh 
thần trách nhiệm của người lao động. Từ đó, tạo ra một phong trào thi đua lao 
động sản xuất thường xuyên và góp phần mang lại hiệu quả kinh doanh cho 
doanh nghiệp. 
 Thứ năm, chất lượng sản phẩm 
Theo tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn hoá ISO thì thuật ngữ chất lượng 
được định nghĩa là: “Toàn bộ các đặc tính của một thực thể tạo cho thực tế 
đó có khả năng thoả mãn các nhu cầu đã công bố hay còn tiềm ẩn” [40, 
tr.16]. 
 Như vậy, chất lượng được đo bởi sự thoả mãn nhu cầu. Nếu một sản 
phẩm hay dịch vụ nào đó mà không đáp ứng được nhu cầu, không được thị 
trường chấp nhận thì coi như là kém chất lượng, cho dù trình độ công nghệ đã 
chế tạo ra sản phẩm đó có thể rất hiện đại. Đây chính là yếu tố then chốt để 
các nhà quản lý, các doanh nghiệp nhà nước định ra những chính sách phù 
hợp với chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, vì lẽ hoạt động của doanh 
nghiệp hoàn toàn phụ thuộc vào khách hàng của mình bởi các chỉ tiêu chất 
lượng sản phẩm và dịch vụ sẽ mang lại giá trị và giá trị sử dụng đối với khách 
hàng, làm cho khách hàng thoả mãn, ưa chuộng tạo dựng nên niềm tin và sự 
gắn bó giữa khách hàng với doanh nghiệp. 
 Mặt khác, do chất lượng được đo bởi nhu cầu, mà nhu cầu thì biến 
động theo thực tế phát triển của kinh tế, xã hội, theo mức sống của người tiêu 
dùng được nâng cao nên chất lượng sản phẩm, dịch vụ cũng luôn thay đổi cho 
phù hợp với nhu cầu theo thời gian, không gian, điều kiện sử dụng...Do vậy 
nó không chỉ giới hạn ở mức độ sản xuất sản phẩm và dịch vụ thoả mãn lại 
nhu cầu của khách hàng mà phải liên tục nâng cao chất lượng hơn nữa để tạo 
nên lợi thế so sánh với các sản phẩm và dịch vụ của các đối thủ cạnh tranh, 
nhằm giữ vững khả năng chiếm lĩnh thị trường, duy trì khách hàng truyền 
thống và thu hút khách hàng mới. 
 Chất lượng cũng không phải chỉ là thuộc tính của sản phẩm, hàng hoá 
mà chất lượng có thể áp dụng cho mọi thực thể, đó sẽ là sản phẩm một hoạt 
động, một quá trình, một doanh nghiệp hay một con người. Một khi nền kinh 
tế nước ta đang trong điều kiện tham gia vào tiến trình hội nhập với nền kinh 
tế thế giới và khu vực thì việc các doanh nghiệp cung cấp cho khách hàng 
những sản phẩm, dịch vụ có chất lượng cao là hoàn toàn cần thiết và nó sẽ là 
yếu tố cơ bản, là chất xúc tác hiện hữu mang lại hiệu quả kinh doanh cho 
doanh nghiệp. Do vậy, doanh nghiệp cần phải thường xuyên nâng cao chất 
lượng sản phẩm và hàng hoá, dịch vụ. 
 Thứ sáu, gìn giữ môi trường sinh thái 
 Môi trường sinh thái là những giá trị nguyên sinh của tài nguyên thiên 
nhiên, hình thành và tồn tại trong tự nhiên được xem là một trong những yếu 
tố nguồn lực cơ bản của quá trình sản xuất. Đó là tất cả những của cải vật chất 
thuộc về thiên nhiên mà con người có thể sử dụng để thoả mãn nhu cầu tồn tại 
và phát triển của mình, bao gồm: đất đai, rừng, biển, sông ngòi, khoáng sản, 
nguồn nước, nhiệt năng, khí hậu, thời tiết... 
 Quá trình phát triển các hoạt động sản xuất kinh doanh cũng chính là 
quá trình làm thay đổi đối tượng lao động, biến các tài nguyên thiên nhiên 
thành các sản phẩm tiêu dùng để phục vụ cho nhu cầu của con người. Tuy 
nhiên, do trữ lượng tài nguyên có hạn, vả lại có những tài nguyên không tái 
tạo được hoặc chu kì tái tạo chậm dẫn đến sự cạn kiệt tài nguyên. Mặt khác, 
quá trình khai thác tài nguyên đã làm phá vỡ môi trường sinh thái do chất thải 
rắn, chất thải khí tăng lên, đặc biệt là khai thác gỗ và phá rừng bừa bãi sẽ dẫn 
đến thay đổi thời tiết khí hậu gây ra thiên tai, lũ lụt, làm ô nhiễm nguồn nước 
ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống và sức khoẻ của con người. 
 Đây là yếu tố vô cùng quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh 
của doanh nghiệp, đòi hỏi ý thức của mọi thành viên trong doanh nghiệp phải 
biết sử dụng tiết kiệm các nguồn tài nguyên thiên nhiên, biết bảo vệ môi 
trường sinh thái, đồng thời, phải tạo môi trường làm việc hợp lý cho mỗi 
thành viên trong doanh nghiệp của mình cả về không gian, không khí, khí 
hậu, ánh sáng, thông gió...Thực hiện tốt yếu tố này chính là sử dụng hiệu quả 
năng lực làm việc của mọi thành viên trong doanh nghiệp vừa tăng năng suất 
lao động, vừa gìn giữ được môi trường sinh thái, đạt được mục tiêu hiệu quả 
về môi trường, là yếu tố của sự phát triển bền vững. 
 Thứ bảy, chi phí kinh doanh 
 Đây là các khoản chi phí đầu vào của doanh nghiệp phát sinh trong quá 
trình sản xuất kinh doanh, bao gồm: chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp. 
 Chi phí trực tiếp: là chi phí được phân bổ thẳng vào những sản phẩm 
như là chi phí nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng, chi phí 
nhân công, ca máy,... 
 Chi phí gián tiếp: là chi phí quản lý doanh nghiệp bao gồm: tiền lương, 
thu nhập khác, tiền ăn ca của bộ máy quản lý, cước điện thoại, tiền điện, 
nước, quảng cáo, thông tin, bảo hiểm, đào tạo, chuyên gia, giao tế, khấu hao 
và các chi phí quản lý khác. 
 Nếu quản lý và phân bổ hợp lý cơ cấu chi phí kinh doanh thì doanh 
nghiệp sẽ tiết kiệm được chi phí trong giá thành sản phẩm và do đó sẽ mang 
lại lợi nhuận cao hơn. Ngược lại, không quản lý tốt chi phí kinh doanh thì chi 
phí sẽ bằng hoặc lớn hơn doanh thu, khi đó sẽ không mang lại hiệu quả cho 
doanh nghiệp trong quá trình hoạt động kinh doanh. Do vậy, chi phí kinh 
doanh cũng chính là yếu tố cấu thành và ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả 
kinh doanh của doanh nghiệp. 
 Thứ tám, năng lực quản lí 
Có thể hiểu rằng: Hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp bao 
gồm nhiều nội dung và nhiều cách tiếp cận, nhưng xét cho cùng thì năng lực 
quản lý chính là một chức năng vô cùng quan trọng thể hiện những phương thức 
tác động đến các quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, như là: 
- Quản lý quá trình sản xuất: bao gồm toàn bộ các hoạt động có tính 
chất qui trình trên cơ sở phối hợp các yếu tố lao động, tư liệu lao động và đối 
tượng lao động đã có để chế biến, sản xuất ra sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ. 
Qui trình đó chính là: hoạch định, xây dựng kế hoạch sản xuất, điều khiển quá 
trình vận hành chế biến, kiểm tra chất lượng, giữ gìn bí quyết, kiểu dáng và 
phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật của các thành viên. 
- Quản lý tài chính và quá trình tác nghiệp, bao gồm: Tạo vốn, sử dụng 
vốn, chủ yếu là quản lý quá trình lưu thông, thanh toán và các quan hệ tín 
dụng, cũng như các quy trình, hệ thống tác nghiệp, báo cáo. 
- Quản lý vật tư, chi phí các yếu tố đầu vào kể cả các chi phí trực tiếp 
và gián tiếp trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ, 
cơ cấu hợp lý giá thành nhằm tối đa hoá lợi nhuận. 
- Quản lý nhân sự thông qua kết quả công việc được thống kê, cập nhật, 
đồng thời lập kế hoạch, tuyển dụng, bố trí nhân sự theo đúng ngành nghề, kĩ năng 
đào tạo phù hợp với nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 
- Quản lý các kênh thông tin cần thiết, liên quan đến hoạt động của 
doanh nghiệp, kiểm tra chọn lọc và xử lý thông tin kịp thời, chính xác. 
- Thực hiện tốt các mối quan hệ pháp lý trong và ngoài doanh nghiệp 
cũng như tổ chức thường xuyên các hoạt động quần chúng, phúc lợi trong 
doanh nghiệp. 
- Phát huy vai trò lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng trong doanh nghiệp 
nhà nước. Tuy nhiên, Đảng không can thiệp sâu hoặc làm thay công việc 
chuyên môn của Giám đốc doanh nghiệp. Thông qua Đại hội công nhân viên 
chức hàng năm mà thực hiện tốt qui chế dân chủ ở cơ sở trong doanh nghiệp 
nhà nước. 
Nếu duy trì tốt yếu tố này sẽ là điều kiện nâng cao năng lực cạnh tranh 
của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội 
chủ nghĩa ở nước ta. 
Thứ chín, quyết định của Giám đốc doanh nghiệp 
Giám đốc doanh nghiệp là người được chủ sở hữu doanh nghiệp giao 
cho quyền được quản lý, điều hành doanh nghiệp theo chế độ một thủ trưởng, 
chịu trách nhiệm trước chủ sở hữu và tập thể người lao động về mọi hoạt 
động cũng như kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp 
nhà nước thì Giám đốc doanh nghiệp được Nhà nước bổ nhiệm và hưởng 
lương theo chế độ do Nhà nước qui định. 
 Lao động của Giám đốc doanh nghiệp phải là lao động của nhà hoạt 
động xã hội, biết tuân thủ và hiểu đầy đủ những vấn đề về luật pháp, nhất là 
luật kinh tế, luật dân sự, các chính sách chế độ qui định của nhà nước có liên 
quan đến chức năng, nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 
 Sản phẩm lao động của Giám đốc doanh nghiệp là các quyết định mang 
tính hệ trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến nhiều lĩnh vực, nhiều mối quan hệ, 
nhiều con người trong doanh nghiệp, đó là hành vi sáng tạo mang tính chỉ thị 
tác động vào đối tượng quản lý nhằm giải quyết những vấn đề chín muồi trên 
cơ sở nắm vững các qui luật vận động của đối tượng. 
 Quyết định đúng, kịp thời sẽ mang lại hiệu quả cao còn ngược lại, 
quyết định sai, không kịp thời, sẽ mang lại hậu quả nghiêm trọng. Do vậy, 
trước khi ra quyết định cần phải nghiên cứu vấn đề một cách tỉ mỉ, sâu sắc, 
đồng thời phải thảo luận và lắng nghe ý kiến của cộng sự. 
 Do tính chất quan trọng của quyết định nên đòi hỏi Giám đốc phải là 
người có kiến thức về chuyên môn, am hiểu về pháp luật, có năng lực quản lý 
và kinh nghiệm thực tiễn, có tư duy sáng tạo, biết quan sát và tổ chức công 
việc, đồng thời phải có ý chí, nghị lực và biết tự tin vào quyết định sáng suốt 
của mình. Ngoài ra, việc quyết định kịp thời đối với hoạt động kinh doanh của 
doanh nghiệp, Giám đốc phải là người hiểu được tâm trạng chính trị của tập 
thể do mình lãnh đạo, phải có quan điểm sống tích cực, đấu tranh chống lại 
các hiện tượng tiêu cực, luôn luôn vì lợi ích tập thể và phải luôn tu dưỡng 
mình về đạo đức chính trị, đặc biệt phải chú trọng học tập Chủ nghĩa Mác - 
Lê Nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước. 
Trong thực tế, hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước hiện nay, quyết định 
của Giám đốc có vai trò quan trọng ảnh hưởng trực tiếp kết quả hoạt động 
kinh doanh của doanh nghiệp. 
Kết luận chương 1 
Doanh nghiệp nhà nước, đó là tổ chức kinh tế mà Nhà nước sở hữu 
100% vốn điều lệ hoặc giữ quyền chi phối trên cơ sở phần vốn góp của Nhà 
nước tại các doanh nghiệp, tồn tại dưới các hình thức: Công ty nhà nước, 
Công ty cổ phần nhà nước, Công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành 
viên, Công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước hai thành viên. 
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò của 
doanh nghiệp nhà nước gắn liền với quá trình phát triển kinh tế xã hội trên 3 
khía cạnh: Kinh tế, chính trị - xã hội và môi trường, là lực lượng nòng cốt mở 
đường dẫn dắt các thành phần kinh tế khác cùng phát triển theo định hướng xã 
hội chủ nghĩa. 
Tuy nhiên, để có cơ sở đánh giá thực chất hiệu quả kinh doanh của 
doanh nghiệp nhà nước, cần sử dụng nhóm tiêu chí thuộc các chỉ số kinh 
doanh để xác định về tốc độ tăng trưởng kinh tế và sử dụng những chỉ tiêu 
thuộc lợi ích cộng đồng để đánh giá hiệu quả về mục tiêu xã hội và môi 
trường, đồng thời phải phân tích cụ thể quá trình tác động của các yếu tố cấu 
thành và ảnh hưởng đến hiệu suất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước. 
Do vậy, nghiên cứu về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước 
tỉnh Quảng Nam cần dựa vào các tiêu chí, các yếu tố cấu thành và ảnh hưởng 
đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp như đã nêu trên. 
Chương 2 
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG VÀ HIỆU QUẢ KINH DOANH 
CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TỈNH QUẢNG NAM 
 2.1. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TỈNH 
QUẢNG NAM 
 2.1.1. Sự cần thiết để tồn tại doanh nghiệp nhà nước của tỉnh 
Quảng Nam 
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò của 
doanh nghiệp nhà nước gắn liền với quá trình phát triển kinh tế xã hội và giữ 
vững sự ổn định chính trị của một quốc gia, thông qua việc thực hiện sứ mệnh 
đặc biệt của mình trong quá trình gánh vác chức năng nặng nề và khác biệt so 
với các loại hình doanh nghiệp khác, đó là công cụ của Nhà nước làm “bà đỡ” 
cho hệ thống doanh nghiệp phát triển ổn định, tham gia khắc phục những 
khuyết tật của cơ chế thị trường, góp phần tạo việc làm và đi đầu thực hiện 
các chính sách xã hội, đặc biệt là phân phối phúc lợi công cộng, giảm bớt tình 
trạng phân hoá giàu nghèo, bất bình đẳng trong xã hội. 
Mặt khác, doanh nghiệp nhà nước phải đảm nhận các lĩnh vực sản xuất 
kinh doanh có tính chiến lược đối với sự phát triển kinh tế xã hội đòi hỏi vốn 
đầu tư vượt quá khả năng tài chính của tư nhân, tham gia đầu tư vào một số 
ngành có hệ số rủi ro như ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, xử lí môi 
trường, giao thông công cộng...hoặc tham gia vào những ngành có lợi thế 
cạnh tranh để vừa mang tính chất chính trị, vừa tạo nguồn thu lớn cho ngân 
sách. Doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội 
chủ nghĩa cần nắm giữ những vị trí then chốt quan trọng để chủ động định 
hướng xã hội làm đối trọng phát triển hội nhập kinh tế quốc tế; tham gia kiến 
tạo quan hệ sản xuất mới, mở đường cho các thành phần kinh tế khác phát 
triển, đồng thời phải nắm giữ những ngành đặc biệt quan trọng liên quan đến 
an ninh quốc phòng, chính trị xã hội của quốc gia. 
 Đối với Quảng Nam, một tỉnh mới được chia tách từ đơn vị hành chính 
Quảng Nam - Đà Nẵng vào tháng 01 năm 1997 đến nay vừa được 9 năm. 
Cơ sở vật chất, hạ tầng kĩ thuật của tỉnh trong những năm qua được Nhà 
nước và chính quyền địa phương quan tâm đầu tư xây dựng nhưng thực 
chất chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của kinh tế - xã hội tỉnh nhà. 
Nghị quyết Đại hội lần thứ XIX của Tỉnh Đảng bộ đã đánh giá cao những 
thành tựu đạt được trong gần 10 năm qua, trong đó có sự đóng góp rất tích 
cực của bộ phận doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn tỉnh và trong phương 
hướng nhiệm vụ của những năm đến, Tỉnh uỷ Quảng Nam cũng đã chủ 
trương đẩy mạnh quá trình phát triển kinh tế địa phương trên cơ sở chuyển 
đổi cơ cấu ngành, thu hút mạnh đầu tư, đẩy nhanh tốc độ xây dựng khu 
kinh tế mở Chu Lai, tập trung phát triển công nghiệp, du lịch và dịch vụ, 
phấn đấu đến trước năm 2020 Quảng Nam trở thành tỉnh Công nghiệp, giữ 
vững tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 14%/ năm, giá trị sản xuất công 
nghiệp tăng bình quân hằng năm là 27%. Nghị quyết Đại hội Tỉnh Đảng bộ 
Quảng Nam lần thứ XIX cũng khẳng định: “Phát triển kinh tế phải đi đôi 
với phát triển văn hoá, tiến bộ và công bằng xã hội, chăm lo sự phát triển 
toàn diện con người” [20, tr.42]. Nội dung định hướng thể hiện rõ quan 
điểm của Đảng bộ tỉnh Quảng Nam là phát triển kinh tế phải đi đôi với giải 
quyết các vấn đề về xã hội, về môi trường, phải thực hiện được công bằng 
xã hội và nâng cao mức sống của nhân dân. Nói cách khác là phải phát 
triển bền vững và do vậy, để thực hiện thắng lợi nội dung định hướng này, 
không thể không sử dụng vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước mà trong đó 
doanh nghiệp nhà nước là bộ phận cấu thành chính yếu. Điều đó cũng có 
nghĩa rằng sự tồn tại của doanh nghiệp nhà nước tỉnh Quảng Nam trong 
giai đoạn hiện nay là hoàn toàn cần thiết mang tính tất yếu khách quan, phù 
hợp với thực tế đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước trong lộ trình sắp 
xếp đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. 
 2.1.2. Hệ thống doanh nghiệp nhà nước của tỉnh Quảng Nam - đặc 
điểm và phân loại 
 + Hệ thống doanh nghiệp nhà nước của tỉnh Quảng Nam 
 Tỉnh Quảng Nam thuộc khu vực miền Trung Việt Nam. Sau khi được 
tái lập vào năm 1997, địa giới hành chính của tỉnh Quảng Nam tiếp giáp với 
thành phố Đà Nẵng và tỉnh Thừa Thiên - Huế về phía Bắc, phía Nam giáp 
tỉnh Quảng Ngãi và KonTum, phía Tây giáp Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào 
và phía Đông tiếp giáp với biển Đông, là điểm trung lộ cách Hà Nội 860km 
và cách Thành phố Hồ Chí Minh 865km. Diện tích tự nhiên của toàn tỉnh là 
(1.408,78km2) dân số khoảng 1,465triệu người với mật độ trung bình 
141người/km2. Địa hình của tỉnh chia thành các vùng khác nhau rõ rệt, đó là 
vùng núi cao, vùng trung du, vùng đồng bằng và vùng ven biển với các điều 
kiện tự nhiên, sinh thái, tập quán sinh hoạt khác nhau của cư dân địa phương 
hết sức phong phú. 
 Về mặt hành chính, tỉnh Quảng Nam có 15 huyện và 2 thị xã, trong đó 
có 6 huyện miền núi, có 2 di sản văn hoá thế giới là Thánh địa Mỹ Sơn ở Duy 
Xuyên và Phố cổ Hội An. Xuyên ngang qua địa bàn của tỉnh có quốc lộ 1A, 
đường sắt xuyên Việt, quốc lộ 14 đi các tỉnh Tây Nguyên và sang đường 
xuyên Á thông qua cửa khẩu Nam Giang - Đăk-ta-ốc (Lào), có Cảng biển Kỳ 
Hà và sân bay Chu Lai thuận lợi cho giao lưu kinh tế thông qua hệ thống giao 
thông thuỷ bộ và hàng không. 
 Trước khi tái lập tỉnh, địa phận Quảng Nam gồm 2 thị xã và các huyện 
đồng bằng, trung du, miền núi thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Mọi nguồn 
lực và hạ tầng kỹ thuật đều tập trung tại thành phố Đà Nẵng và do vậy hầu hết 
các doanh nghiệp nhà nước có qui mô lớn đều hoạt động trên địa bàn thành 
phố Đà Nẵng. Theo đó, khi chia tách tỉnh thì cũng đồng thời hệ thống doanh 
nghiệp nhà nước cũng được chia theo địa bàn đóng chân của các doanh 
nghiệp nhà nước nên hầu hết các doanh nghiệp ở tỉnh Quảng Nam khi tái lập 
tỉnh là những doanh nghiệp nhà nước chủ yếu trước đó hoạt động ở địa bàn 
thị xã Hội An, thị xã Tam Kỳ và một vài thị trấn thuộc huyện. Thực tế số 
doanh nghiệp nhà nước này không thể đáp ứng được nhu cầu nhiệm vụ của 
một tỉnh mới tái lập, do vậy phải thành lập mới thêm một số doanh nghiệp 
nhà nước trên cơ sở chức năng, ngành nghề hoạt động thích ứng với nhiệm vụ 
phát triển kinh tế xã hội của tỉnh lúc bấy giờ và được thực hiện dưới các hình 
thức: đổi tên, thành lập mới hoặc chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước theo 
đúng qui định của Chính phủ tại Nghị định số 50/CP ngày 28/8/1996. 
 Tính đến thời điểm năm 2001, tức là sau 5 năm tái lập tỉnh, hệ thống 
Doanh nghiệp nhà nước của tỉnh Quảng Nam có tổng số là: 103 doanh 
nghiệp, trong đó doanh nghiệp nhà nước thuộc các cơ quan Trung ương quản 
lý và các tỉnh, thành phố trong cả nước có Chi nhánh hoạt động trên địa bàn 
tỉnh Quảng Nam là 34 doanh nghiệp, số doanh nghiệp nhà nước thuộc tỉnh 
Quảng Nam quản lý có tổng số là 69 doanh nghiệp. Từ năm 2001 đến 2005 hệ 
thống doanh nghiệp nhà nước của tỉnh Quảng Nam có nhiều biến động (bảng 
2.1). 
Bảng 2.1: Hệ thống doanh nghiệp nhà nước của tỉnh Quảng Nam 
giai đoạn từ năm 2001-2005 
Năm 
Cấp quản 
lý DNNN 
2001 2002 2003 2004 2005 
DNNN Trung ương 
và các tỉnh có chi nhánh 
tại Quảng Nam 
34 39 42 31 21 
DNNN địa phương thuộc 
tỉnh quản lý 69 66 39 31 22 
Tổng số 103 105 81 62 43 
 Nguồn: [3], [12], [33]. 
 Qua số liệu thống kê (bảng 2.1) cho thấy, hệ thống doanh nghiệp nhà 
nước ở tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2001-2005 biến động theo hướng giảm 
dần, trong đó doanh nghiệp nhà nước thuộc sự quản lý của tỉnh Quảng Nam 
có tốc độ giảm nhanh hơn do thực hiện lộ trình sắp xếp đổi mới và nâng cao 
hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước theo tinh thần Nghị quyết 
Trung ương 3 khoá IX của Đảng; Chỉ thị số 20/1998 ngày 21/8/1998, và các 
Quyết định số 58/2002/QĐ-TTg ngày 26/4/2002, Quyết định số 72/2003/QĐ-
TTg ngày 29/4/2003 của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh sắp xếp và đổi 
mới doanh nghiệp nhà nước. Theo số liệu tổng hợp từ Ban đổi mới doanh 
nghiệp nhà nước tỉnh Quảng Nam thì số lượng doanh nghiệp nhà nước giảm, 
trong năm 2002 là: 5 doanh nghiệp nhưng lại tăng 2 doanh nghiệp, trong đó: 
sáp nhập và tổ chức lại 3 doanh nghiệp, chuyển giao: 2 doanh nghiệp; Năm 
2003 giảm 27 doanh nghiệp, trong đó: Cổ phần hoá là 8 doanh nghiệp, sáp 
nhập 11 doanh nghiệp, chuyển giao 2 doanh nghiệp, chuyển về Trung ương 
quản lý 5 doanh nghiệp và chuyển sang đơn vị sự nghiệp có thu 1 doanh 
nghiệp; Năm 2004 giảm 8 doanh nghiệp, trong đó: cổ phần hoá 7 doanh 
nghiệp, phá sản 1 doanh nghiệp; Năm 2005 giảm 9 doanh nghiệp, trong đó: cổ 
phần hoá 5 doanh nghiệp, sáp nhập 1 doanh nghiệp, chuyển giao 2 doanh 
nghiệp và chuyển đơn vị sự nghiệp có thu 1 doanh nghiệp. 
 Như vậy, đến thời điểm tháng 12/2005 hệ thống doanh nghiệp nhà 
nước ở tỉnh Quảng Nam hiện còn tổng số 43 doanh nghiệp, trong đó: doanh 
nghiệp nhà nước thuộc sự quản lý của các cơ quan Trung ương và các tỉnh, 
thành phố khác là 21 doanh nghiệp và doanh nghiệp thuộc sự quản lý của tỉnh 
là 22 doanh nghiệp. 
 + Đặc điểm và phân loại doanh nghiệp nhà nước của tỉnh Quảng Nam. 
 Đặc điểm: Doanh nghiệp nhà nước của tỉnh Quảng Nam hầu hết có qui 
mô hoạt động vừa và nhỏ, nguồn vốn kinh doanh từ 1 đến 5 tỷ đồng, chiếm 
55%, gồm 38/69 doanh nghiệp trong năm 2001 và 14/22 doanh nghiệp trong 
năm 2005, số doanh nghiệp có nguồn vốn dưới 1 tỷ đồng có 16/69 doanh 
nghiệp vào năm 2001 và 2/22 doanh nghiệp vào năm 2005, còn lại số doanh 
nghiệp có nguồn vốn từ 5-10 tỉ và >10 tỷ chiếm tỷ lệ khá khiêm tốn 15/69 
trong năm 2001 và 6/22 vào năm 2005 (Bảng 2.2). Từ đó cho thấy qui mô 
hoạt động của doanh nghiệp nhà nước của tỉnh Quảng Nam chỉ giới hạn trong 
phạm vi nguồn vốn chủ sở hữu và nếu muốn mở rộng sản xuất kinh doanh 
phải lệ thuộc vào nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại và do vậy 
phải thường xuyên đối mặt với những biến động bởi quá trình điều tiết vĩ mô 
từ các chính sách tín dụng theo cơ chế thị trường. 
Bảng 2.2: Doanh nghiệp nhà nước tỉnh Quảng Nam 
theo qui mô nguồn vốn chủ sở hữu 
Năm 
Qui mô 
DNNN 
2001 2002 2003 2004 2005 
<1 tỉ đồng 16 13 6 5 2 
Từ 1 – 5 tỉ 38 39 24 19 14 
Từ 5 – 10 tỉ 7 8 5 4 4 
>10 tỉ 8 6 4 3 2 
Tổng Cộng 69 66 39 31 22 
 Nguồn: [3], [12]. 
 Về cơ cấu ngành nghề, nhiều doanh nghiệp nhà nước của tỉnh Quảng 
Nam có cùng ngành nghề kinh doanh nhưng lại giới hạn bởi quy mô nhỏ, 
không mang tính tiên phong, dẫn dắt mở đường. Nhiều doanh nghiệp mở rộng 
ngành nghề hoạt động nhưng lại thiếu chuyên sâu, tạo ra những hiện tượng 
cạnh tranh không lành mạnh. Phần lớn các doanh nghiệp hoạt động nhỏ lẻ, 
phân tán, thiếu sự phối hợp, liên doanh, liên kết với nhau. 
 Trong tổng số 69 doanh nghiệp nhà nước của tỉnh Quảng Nam tập 
trung chủ yếu ở 4 loại ngành nghề đó là: Nông nghiệp, Công nghiệp chế biến, 
Xây dựng và Thương mại. Tại thời điểm 2001-2002 chiếm tỉ lệ 82,4% và thời 
điểm 2005 chiếm 72,6%, trong khi 8 loại ngành nghề còn lại chỉ chiếm tỉ lệ 
17,6% tại thời điểm 2001-2002 và 27,4% trong năm 2005. Tuy nhiên, hoạt 
động chủ yếu của doanh nghiệp nhà nước tỉnh Quảng Nam là dịch vụ, khai 
thác, gia công với qui mô vừa và nhỏ. Có rất ít doanh nghiệp hoạt động sản 
xuất với qui mô lớn, đòi hỏi phải sử dụng công nghệ thiết bị hiện đại và lao 
động kỹ thuật. Trong giai đoạn từ 2001 đến 2005 chỉ có 6 doanh nghiệp nhà 
nước được công nhận là doanh nghiệp nhà nước hạng I đó là: Công ty Khai 
thác Công trình Thuỷ lợi, Công ty Nông sản Xuất khẩu Thu Bồn, Công ty 
Lâm đặc sản Xuất khẩu, Công ty Xây dựng Quảng Nam, Công ty Xây dựng & 
Cấp thoát nước Quảng Nam và Công ty Xây dựng Thuỷ lợi Thuỷ điện Quảng 
Nam [12]. 
 Về cơ sở vật chất cũng như điều kiện để phục vụ các hoạt động sản 
xuất kinh doanh như: Văn phòng làm việc, nhà xưởng, phương tiện, thiết 
bị,...đều chưa được đầu tư đúng mức, phần lớn là cũ kỹ, lạc hậu, tạm bợ, chắp 
vá do nguồn vốn kinh doanh còn hạn hẹp. Cho đến nay vẫn còn nhiều doanh 
nghiệp vừa hoạt động vừa đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, thậm chí có doanh 
nghiệp vẫn còn thuê văn phòng làm việc vì chưa xây dựng được trụ sở. Địa 
bàn hoạt động của doanh nghiệp nhà nước tỉnh Quảng Nam giới hạn trong 
phạm vi ở tỉnh, chỉ một số ít doanh nghiệp có Chi nhánh hoặc Văn phòng đại 
diện tại thành phố Đà Nẵng. Năng lực cạnh tranh nhìn chung còn rất thấp, 
ngoại trừ Công ty Du lịch Dịch vụ Hội An có mối quan hệ trong hệ thống các 
hoạt động của Ngành Du lịch Việt Nam thì chưa có doanh nghiệp nhà nước 
nào của tỉnh Quảng Nam có thương hiệu về sản phẩm hoặc doanh nghiệp trên 
thị trường rộng rãi trong và ngoài nước. 
 Có thể khái quát rằng: Đặc điểm của doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh 
Quảng Nam hầu hết là qui mô vừa và nhỏ, hoạt động trên địa bàn của tỉnh là 
chủ yếu, tập trung ở 4 loại ngành nghề bao gồm: Nông nghiệp, Công nghiệp 
chế biến, Xây dựng và Thương mại. Mặt khác, cơ sở vật chất, phương tiện 
thiết bị phục vụ sản xuất kinh doanh của phần lớn các doanh nghiệp còn rất 
lạc hậu, nghèo nàn nên không tạo được sức cạnh tranh. 
 + Phân loại doanh nghiệp nhà nước của tỉnh Quảng Nam 
 Doanh nghiệp nhà nước của tỉnh Quảng Nam từ 2001-2003 được chia 
theo 12 loại ngành nghề kinh tế khác nhau như là: Nông nghiệp, Công cộng, 
Thuỷ sản, Công nghiệp khai thác, Công nghiệp chế biến, Sản xuất và Phân 
phối, Xây dựng, Thương nghiệp, Khách sạn nhà hàng - Du lịch, Vận tải, Bưu 
điện, Tài chính và Văn hoá - Thể thao. Năm 2004 giảm 01 ngành và năm 
2005 giảm tiếp 02 ngành do quá trình thực hiện sắp xếp, chuyển đổi doanh 
nghiệp nhà nước của tỉnh Quảng Nam nên đến 31/12/2005 chỉ còn 09 ngành 
nghề với 22 doanh nghiệp nhà nước hoạt động, trong đó doanh nghiệp nhà 
nước hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp vẫn chiếm tỉ lệ cao hơn, tiếp đến 
là ngành công nghiệp chế biến và xây dựng (bảng 2.3). 
Bảng 2.3: Doanh nghiệp nhà nước chia theo ngành kinh tế 
 Năm 
DNNN chia 
Năm 
2001 
Năm 
2002 
Năm 
2003 
Năm 
2004 
Năm 
2005 
theo ngành 
kinh tế 
1.Nông nghiệp 12 10 8 6 6 
2.Công cộng 1 1 1 1 1 
3.Thủy sản 1 1 1 1 1 
4.Công nghiệp khai thác 1 1 1 
5.Công nghiệp chế biến 14 12 7 6 4 
6. Sản xuất và phân phối 5 5 2 2 2 
7. Xây dựng 16 15 7 6 4 
8. Thương nghiệp 15 16 8 5 2 
9. Khách sạn, nhà hàng, du lịch 1 2 1 1 
10. Vận tải, Bưu điện 1 1 1 1 1 
11. Tài chính 1 1 1 1 1 
12. Văn hóa, thể thao 1 1 1 1 
Tổng cộng 69 66 39 31 22 
 Nguồn: [12], [33]. 
 Qua bảng tổng hợp phân loại chia theo ngành kinh tế (bảng 2.3), cho 
thấy doanh nghiệp nhà nước của tỉnh Quảng Nam chủ yếu là thực hiện 
chức năng kinh tế nhà nước trên các lĩnh vực tư vấn, dịch vụ, khai thác, chế 
biến mang tính chuyên môn hoá, nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội vì sự tồn tại 
của các doanh nghiệp; chưa có nhóm doanh nghiệp nhà nước nào mang 
tính chiến lược, đảm đương những hoạt động sản xuất kinh doanh trong 
những ngành, những lĩnh vực trọng yếu, then chốt có tính chất quyết định 
sự ổn định và phát triển kinh tế địa phương, trên cơ sở định hướng của Nhà 
nước nhằm thực hiện vai trò hỗ trợ thúc đẩy sự phát triển của các thành 
phần kinh tế khác. 
 2.1.3. Khái quát quá trình hoạt động của doanh nghiệp nhà nước 
tỉnh Quảng Nam (2001-2005) 
 Cùng với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của địa phương trong 
quá trình tái lập tỉnh, doanh nghiệp nhà nước của tỉnh Quảng Nam trong giai 
đoạn 2001 - 2005 đã có nhiều nỗ lực, biết vượt qua nhiều khó khăn, thách 
thức, duy trì được sự ổn định và từng bước tạo cơ hội phát triển, đóng góp 
một phần quan trọng vào những thành tựu to lớn của tỉnh nhà. Có thể nói, đây 
là giai đoạn thực hiện lộ trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước nên 
mặc dù số lượng doanh nghiệp nhà nước biến động theo hướng giảm dần (từ 
69 doanh nghiệp trong năm 2001 còn 22 doanh nghiệp trong năm 2005) 
nhưng các chỉ số đóng góp của doanh nghiệp nhà nước có 100% vốn nhà 
nước vẫn tăng đều qua các năm. Ngoại trừ số lao động sử dụng trong 2 năm 
2004 - 2005 có giảm so với các năm 2002, 2003 do số lượng doanh nghiệp 
nhà nước giảm từ 66 doanh nghiệp xuống còn 34 doanh nghiệp, còn lại các 
chỉ số về doanh thu, lợi nhuận trước thuế, nộp ngân sách và thu nhập của 
người lao động đều tăng (bảng 2.4). 
Bảng 2.4: Một số chỉ tiêu cơ bản về kết quả hoạt động kinh doanh 
của doanh nghiệp nhà nước tỉnh Quảng Nam 
từ năm 2001 - 2005 
Các chỉ 
tiêu 
Năm 
Số 
doanh 
nghiệp 
Số lao 
động 
(người) 
Doanh 
thu thuần 
(triệu 
đồng) 
Lợi 
nhuận 
trước 
thuế 
(triệu 
đồng) 
Thuế và 
các khoản 
đã nộp 
ngân sách 
(triệu 
đồng) 
Thu nhập 
bình quân 
người lao 
động 
(đồng/ 
người) 
Năm 2001 69 3.718 891.842 16.460 10.330 599.475 
Năm 2002 66 12.036 1.109.734 18.341 126.666 685.893 
Năm 2003 39 11.180 1.289.919 14.299 234.162 684.988 
 Năm 2004 31 9.206 1.478.772 15.466 171.555 861.249 
Năm 2005 22 9.210 2.045.685 18.502 636.818 1.160.161 
 Nguồn: [1], [2], [3], [12], [33].
Bảng 2.5: Tổng sản phẩm (GDP) theo giá thực tế ở tỉnh Quảng Nam 
giai đoạn 2001 - 2005 
Năm 
Nội dung 
2001 2002 2003 2004 2005 
Số tuyệt 
đối (triệu 
đồng) 
Tỉ 
trọng(%) 
Số tuyệt 
đối (triệu 
đồng) 
Tỉ 
trọng(%) 
Số tuyệt 
đối(triệu 
đồng) 
Tỉ 
trọng(%) 
Số tuyệt 
đối (triệu 
đồng) 
Tỉ 
trọng(%) 
Số tuyệt 
đối (triệu 
đồng) 
Tỉ 
trọng(%) 
Kinh tế nhà nước Trung 
ương 
243.714 
5.21 
327.032 
6.24 
384.016 
6.41 
569.904 
8.03 
736.289 
8.36 
Kinh tế nhà nước địa 
phương 
891.842 
19.06 
1.109.734 
21.17 
1.289.919 
21.53 
1.478.772 
21.84 
2.045.685 
23.24 
Kinh tế ngoài nhà nước 
3.492.931 
74.64 
3763.158 
71.78 
4.261.524 
71.13 
4.957.094 
69.85 
5.868.327 
66.67 
Kinh tế có vốn đầu tư 
nước ngoài 
51.005 
1.09 
42.477 
0.81 
55.718 
0.93 
91.001 
1.28 
152.067 
1.73 
Tổng cộng 
4.679.492 
100 
5.242.401 
100 
5.991.177 
100 
7.096.771 
100 
8.802.368 
100 
 Nguồn: [12]. 
40 
 Trên cơ sở số liệu tổng hợp (bảng 2.4) đã phản ánh được những đóng 
góp đáng kể của doanh nghiệp nhà nước tỉnh Quảng Nam đối với sự phát triển 
kinh tế - xã hội của tỉnh trong giai đoạn 2001 -2005. Cũng trong giai đoạn này 
doanh nghiệp nhà nước tỉnh Quảng Nam chiếm tỉ trọng bình quân từ 19 - 
23%/ năm trong giá trị tổng sản phẩm xã hội hàng năm của tỉnh (bảng 2.5); đã 
giải quyết được việc làm ổn định cho gần 10.000 lao động/năm, góp phần 
quan trọng vào việc bảo đảm cho xã hội những sản phẩm, dịch vụ công thiết 
yếu, cùng với Nhà nước từng bước đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật quan 
trọng phục vụ cho sản xuất, quốc phòng và an sinh xã hội, tham gia tích cực 
quá trình phòng chống và khắc phục thiên tai. Mặt khác, doanh nghiệp nhà 
nước của tỉnh Quảng Nam cũng đã giữ được vai trò đại diện cho nhà nước 
thực hiện chức năng liên doanh, liên kết, hợp tác đầu tư với nước ngoài, thành 
công trên các lĩnh vực dịch vụ du lịch, khách sạn, khai thác khoáng sản, công 
nghiệp chế biến,...Một số doanh nghiệp nhà nước đã thích ứng nhanh chóng 
với cơ chế thị trường, chọn được giải pháp hữu hiệu để nâng cao năng lực 
cạnh tranh, tạo ra hiệu quả trong sản xuất kinh doanh, từng bước nâng cao đời 
sống cho người lao động, đồng thời đã xây dựng được đề án phát triển doanh 
nghiệp hoạt động đa ngành nghề, đa sở hữu theo những mô hình Công ty nhà 
nước, phù hợp với tính chất, đặc điểm và những điều kiện cụ thể theo chủ 
trương của Thường vụ Tỉnh ủy, Thường trực Ủy ban Nhân dân tỉnh trên cơ sở 
lộ trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước. 
 Nhìn chung, hoạt động của doanh nghiệp nhà nước tỉnh Quảng Nam trong 
giai đoạn 2001-2005 có nhiều khởi sắc, góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước 
thực hiện vai trò chủ đạo, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng 
Nam, trong điều kiện một đơn vị hành chính vừa được tái lập từ năm 1997. 
 Đồng thời với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp nhà nước 
của tỉnh Quảng Nam đã hoạt động tích cực và có hiệu quả trong các chương 
trình công tác xã hội vì mục tiêu và lợi ích cộng đồng như: tham gia xóa nhà 
tạm, cùng với các địa phương xây dựng nhà tình nghĩa, các hoạt động xóa đói 
giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, các chương trình khuyến học, bảo trợ trẻ em 
nghèo vượt khó cũng như các hoạt động ủng hộ nạn nhân chất độc màu da 
cam, mang lại ánh sáng cho người khuyết tật...Tuy nhiên, hoạt động của 
doanh nghiệp nhà nước tỉnh Quảng Nam trong giai đoạn này vẫn còn nhiều 
hạn chế, đó là: 
 - Quy mô hoạt động chỉ ở mức nhỏ và vừa, nguồn vốn chủ sở hữu 
chậm được bổ sung, ngành nghề kinh doanh chồng chéo, chưa tập trung vào 
những ngành nghề, những lĩnh vực then chốt mang tính chiến lược của địa 
phương, địa bàn hoạt động chủ yếu là ở tỉnh, chưa mở rộng thị trường và thu 
hút đối tác để liên kết kinh doanh. 
 - Chậm đổi mới thiết bị, công nghệ, thiếu nguồn lực để đầu tư phát triển 
sản xuất kinh doanh. Rất ít doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo tiêu chuẩn 
ISO về chất lượng sản phẩm, dịch vụ chưa có thương hiệu, sản phẩm được 
giới thiệu rộng rãi trên thị trường trong nước và quốc tế, năng lực cạnh tranh 
thấp không đủ sức góp phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế 
của tỉnh nhà theo hướng công nghiêp-nông nghiệp-thương mại-dịch vụ. 
 - Chưa chủ động, sáng tạo và tự chủ trong sản xuất kinh doanh, nhiều 
doanh nghiệp nhà nước hoạt động cầm chừng, chắp vá, hiệu quả kinh doanh 
thấp. Tình hình tài chính của nhiều doanh nghiệp không được kiểm soát, công 
nợ phát sinh ngày càng tăng, tồn đọng kéo dài. Một số doanh nghiệp đã sáp 
nhập vào những doanh nghiệp khác, đã có 3 doanh nghiệp phải thực hiện phá 
sản và giải thể vì không thể duy trì được khả năng hoạt động. 
 - Chưa khai thác được những khả năng tiềm ẩn trong tài nguyên thiên 
nhiên, trên các lĩnh vực nuôi trồng, chế biến xuất khẩu, chưa phát huy tương 
ứng nguồn nhiệt lượng nội tại của địa phương nhất là là lực lượng lao động và 
nguyên liệu tại chỗ. Mặt khác, chưa huy động được những nguồn lực bên 
ngoài một cách hợp lý và hiệu quả. 
 - Công tác quản lý doanh nghiệp còn nhiều bất cập, thiếu thông tin và 
chậm sửa đổi theo nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Giám đốc 
doanh nghiệp cũng như đội ngũ cán bộ chủ chốt về chuyên môn, nghiệp vụ ít 
có điều kiện bồi dưỡng nâng cao năng lực quản lý cũng như ứng dụng các 
phương pháp quản lý điều hành theo công nghệ mới, lực lượng lao động thiếu 
việc làm và dôi dư ngày càng tăng. 
 - Những hạn chế nêu trên ít nhiều mang tính phổ biển trong hầu hết các 
doanh nghiệp nhà nước của tỉnh Quảng Nam trong giai đoạn 2001-2005. Đó 
cũng là điểm chung nhất được xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau 
vừa là khách quan, vừa là chủ quan nhưng cơ bản nhất vẫn là nguồn vốn 
chủ sở hữu của các doanh nghiệp tỉnh Quảng Nam quá bé, không đủ điều 
kiện để tổ chức sản xuất kinh doanh, đầu tư tập trung vào những ngành 
nghề trọng yếu, then chốt mang tính định hướng của tỉnh, mặt khác qui mô 
hoạt động quá hạn hẹp, công nghệ, thiết bị kỹ thuật quá lạc hậu không đủ 
sức cạnh tranh trong môi trường kinh doanh của nền kinh tế thị trường định 
hướng xã hội chủ nghĩa. 
 2.2. ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ 
NƯỚC TỈNH QUẢNG NAM 
 2.2.1. Theo mô hình SWOT 
 SWOT là tên viết tắt của các từ tiếng Anh có nghĩa là: 
 Strengths : Các điểm mạnh 
 Waknesses : Các điểm yếu 
 Opporainities : Các cơ hội 
 Threats : Các mối đe dọa 
 Mục đích của mô hình SWOT là phát hiện những cơ hội chủ yếu của 
môi trường kinh doanh, những mối đe dọa gây tác hại đến hoạt động của 
doanh nghiệp, phát triển những điểm mạnh và khắc phục những điểm yếu 
nhằm sắp xếp và kết hợp các yếu tố này để có thể gợi ra những chiến lược 
còn tiềm ẩn cũng như cung cấp những thông tin để đánh giá các phương án 
chiến lược. 
 Các cơ hội và các mối đe dọa được xem là yếu tố bên ngoài và các 
điểm mạnh, điểm yếu là yếu tố bên trong của doanh nghiệp. Nói cách khác, 
cơ hội là một tập hợp hoàn cảnh thuận lợi để thực hiện các mục tiêu của doanh 
nghiệp, và mối đe dọa là tập hợp hoàn cảnh bất lợi ngược lại với cơ hội được 
phân tích qua dữ liệu hiện trạng và trên cơ sở các dự báo. Còn điểm mạnh là các 
yếu tố mang tính lợi thế của bản thân doanh nghiệp dựa vào đó mà xây dựng và 
triển khai chiến lược và điểm yếu là những khiếm khuyết, những tồn tại bên 
trong của doanh nghiệp cần được khắc phục. Nếu phối hợp được các yếu tố này 
sẽ là điều kiện để góp phần tạo ra hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp. 
 Ở Quảng Nam, trong giai đoạn 2001-2005 là thời điểm mà môi trường 
kinh doanh tại đây có nhiều cơ hội (O), vì lẽ là một tỉnh mới được chia tách, 
ngoài các chủ trương chính sách chung của Nhà nước ưu tiên cho các hoạt 
động của Doanh nghiệp nhà nước thì Quảng Nam còn có những chính sách ưu 
đãi khác trở thành nhân tố tác động và tạo điều kiện cho những cơ hội kinh 
doanh như là: chính sách thu hút đầu tư và mở rộng kinh doanh để phát triển 
Khu kinh tế mở Chu Lai, Khu công nghiệp tập trung Điện Nam - Điện Ngọc; 
các chính sách ưu đãi đầu tư phát triển sản xuất; các cơ hội về điều kiện tự 
nhiên ẩn chứa những tiềm năng khoáng sản to lớn với lực lượng lao động cần 
cù, chịu khó. Mặt khác, Quảng Nam là địa phương cùng lúc có hai Di sản văn 
hoá thế giới được Unesco công nhận đã thu hút hàng triệu lượt khách trong và 
ngoài nước hàng năm đến tham quan, du lịch. Bên cạnh đó là những vùng đất 
bạt ngàn trù phú đầy quyến rũ tạo ra những cơ hội, những điều kiện để phát 
triển sản xuất kinh doanh với những ưu thế cơ bản. Tuy nhiên, ngoài những 
doanh nghiệp nhà nước như: Công ty Du lịch và Dịch vụ Hội An, Công ty 
Đầu tư và Phát triển Kỳ Hà Chu Lai, Công ty Lâm Đặc sản Xuất khẩu, Cảng 
Kỳ Hà, Công ty Xây dựng và Cấp thoát nước Quảng Nam thì rất ít doanh 
nghiệp nhà nước ở Quảng Nam tranh thủ được những cơ hội kinh doanh mà 
không phải địa phương nào cũng có. 
 Bên cạnh những nhân tố được xem là cơ hội kinh doanh, thì những mối 
đe dọa (T) tất yếu xuất hiện đương nhiên trong nền kinh tế theo cơ chế thị 
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đó là những yếu tố cạnh tranh được hiểu 
là quy luật kinh tế cơ bản của nền kinh tế thị trường như là chất lượng sản 
phẩm, nguồn lực vô hình, quá trình phát triển công nghệ, thông tin,... cùng với 
những biến động của các chính sách thuộc công cụ điều tiết vĩ mô của nền 
kinh tế như là: Cơ chế tài chính, tín dụng, lãi suất ngân hàng, thuế suất, giá cả, 
lạm phát.v.v...Một số doanh nghiệp nhà nước của tỉnh Quảng Nam đã không 
đủ điều kiện tranh thủ phối hợp giữa những cơ hội với mối đe dọa nên quá 
trình hoạt động kinh doanh không mang lại hiệu quả, có doanh nghiệp phải 
thực hiện phá sản, giải thể hoặc sáp nhập như Công ty Vật tư Nông nghiệp, 
Công ty Dịch vụ Sản xuất Phân bón, Công ty Thương mại Hội An.v.v...Nhìn 
chung, phần lớn các doanh nghiệp nhà nước của tỉnh Quảng Nam trong giai 
đoạn 2001-2005 chưa đề ra được những biện pháp phòng chống các rủi ro từ 
sự phối hợp bởi những cơ hội để tạo ra những hiệu quả cao hơn trong quá 
trình sản xuất kinh doanh. 
 Việc phát huy những lợi thế được xem là điểm mạnh (S) của doanh 
nghiệp nhà nước địa phương như là sự quan tâm hỗ trợ tích cực của lãnh đạo 
tỉnh, của các Sở, Ban, Ngành các huyện, thị, luôn tạo điều kiện thuận lợi đối 
với các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp hầu như được các doanh 
nghiệp nhà nước của tỉnh Quảng Nam khai thác triệt để. Tuy nhiên, đây mới 
chỉ là yếu tố ngoại lực mang tính tác động, điều quan trọng là các yếu tố nội 
lực của chính doanh nghiệp, khả năng sử dụng và đổi mới công nghệ thiết bị, 
cơ sở vật chất kỹ thuật được đầu tư tương ứng với nhiệm vụ sản xuất kinh 
doanh...gần như chưa được chú trọng. Do đó, chưa thể góp phần mang lại 
hiệu quả kinh doanh một cách bền vững cho doanh nghiệp. 
 Vấn đề được bộc lộ cơ bản trong hầu hết các doanh nghiệp nhà nước 
của tỉnh Quảng Nam được hiểu là điểm yếu (W) chính là nguồn vốn chủ sở 
hữu dùng để kinh doanh quá bé nên hoàn toàn lệ thuộc vào quá trình quan hệ 
tín dụng với các Ngân hàng thương mại, mà cơ chế sinh lợi trong kinh doanh 
tiền tệ luôn biến động nhất là cơ chế bảo đảm tiền vay cũng như tốc độ tăng 
lãi suất đã khiến cho nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn, thậm chí có doanh 
nghiệp đã chấp nhận lãi suất nợ quá hạn. Mặt khác, điều kiện cơ sở vật chất 
kỹ thuật yếu kém, công nghệ thiết bị lạc hậu đã ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu 
quả kinh doanh của doanh nghiệp. 
Sơ đồ 2.1: Ma trận SWOT 
Ma trận SWOT Cơ hội (O) 
- Chính sách ưu đãi đầu tư 
phát triển sản xuất kinh doanh. 
- Các chính sách ưu tiên 
đối với DNNN 
Mối đe doạ (T) 
- Các yếu tố cạnh tranh 
- Sự biến động của các 
chính sách điều tiết vĩ mô 
của nền kinh tế (Lãi suất, 
thuê suất, giá cả, lạm phát) 
Điểm mạnh (S) 
- Sự quan tâm tạo điều 
kiện của lãnh đạo tỉnh 
- Các nguồn lực nội tại của 
địa phương và doanh 
Phối hợp S/O 
S – Các nguồn lực nội tại 
của địa phương và doanh 
nghiệp. 
O – Chính sách ưu đãi 
Phối hợp S/T 
S – Sự quan tâm của lãnh 
đạo tỉnh đối với doanh 
nghiệp Nhà nước. 
T – Sự biến động các 
nghiệp đầu tư phát triển sản xuất 
kinh doanh. 
chính sách điều tiết vĩ mô 
của nền kinh tế. 
Điểm yếu (W) 
- Vốn chủ sở hữu còn quá bé 
- Cơ sở vật chất kỹ thuật 
yếu kém, công nghệ thiết 
bị lạc hậu, khả năng thích 
ứng chậm 
Phối hợp W/O 
W - Vốn chủ sở hữu còn 
quá bé. 
O - Chính sách ưu tiên đối 
với doanh nghiệp nhà nước. 
Phối hợp W/T 
W - Cơ sở vật chất kỹ 
thuật, công nghệ thiết bị 
yếu kém lạc hậu. 
T - Các yếu tố cạnh tranh 
 Như vậy, dựa theo tiêu chí phối hợp của mô hình SWOT (Sơ đồ 2.1) để 
đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh Quảng Nam 
trong giai đoạn 2001-2005, thì có thể thấy rằng đa phần các doanh nghiệp 
không tạo được khả năng phối hợp giữa việc tranh thủ tận dụng các yếu tố 
được xem là cơ hội với việc ngăn ngừa, phòng chống các rủi ro từ những mối 
đe dọa, và ngoại trừ một số ít doanh nghiệp biết phát huy những điểm mạnh 
của bản thân để giữ vững sự ổn định, tạo đà mở rộng và phát triển các hoạt 
động sản xuất kinh doanh, biết khắc phục và kiểm soát kịp thời những điểm 
yếu cơ bản làm chi phối hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thì hầu hết các 
doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả. Trong năm 2004 có đến: 07 
doanh nghiệp không có lãi và có đến 14 doanh nghiệp lỗ, trong đó có 3 doanh 
nghiệp có số lỗ từ 300-700 triệu đồng, có 06 doanh nghiệp có số lỗ > 1 tỷ 
đồng và một số doanh nghiệp có số lỗ luỹ kế lớn hơn nguồn vốn nhà nước có 
tại doanh nghiệp ở thời điểm báo cáo [33]. 
 2.2.2. Theo các tiêu chí, các yếu tố cấu thành và ảnh hưởng đến 
hiệu quả kinh doanh 
 + Theo các tiêu chí tại Quyết định số 271/TTg ngày 31 tháng 12 năm 
2003 của Thủ tướng Chính phủ. 
 Đây là những tiêu chí được hiểu là hiệu quả kinh tế thuần tuý thông qua 
các chỉ số như là: tốc độ tăng trưởng kinh tế biểu hiện qua doanh thu, tỉ suất lợi 
nhuận so với doanh thu cũng như vốn của chủ sở hữu, hiệu quả sử dụng vốn, khả 
năng thanh toán, nợ đến hạn, thực hiện các khoản nộp ngân sách nhà nước... 
 Cùng với tiến trình sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, trong giai đoạn 
2001-2005, thực tế doanh nghiệp nhà nước của tỉnh Quảng Nam mặc dù đã 
giảm dần về số lượng, nhưng tổng doanh thu, lợi nhuận và thu nhập của người 
lao động vẫn đạt ở mức tăng trưởng đều qua các năm, đồng thời thực hiện các 
khoản nộp ngân sách nhà nước kịp thời theo qui định của pháp luật. Chấp 
hành tốt các chế độ báo cáo tài chính kế toán, các chính sách về vấn đề lao 
động tiền lương và bảo hiểm. Tuy nhiên, phần lớn các doanh nghiệp đều có 
khả năng sinh lời thấp, bình quân trong 5 năm, tỉ suất lợi nhuận trên doanh 
thu chỉ đạt: 131 % nghĩa là 100 đồng doanh thu chỉ tạo ra 1,31 đồng lợi 
nhuận; 100 đồng vốn chủ sở hữu chỉ tạo ra 3,36 đồng lợi nhuận (tỉ suất lợi 
nhuận / vốn chủ sở hữu). Đặc biệt có số doanh nghiệp kinh doanh trong ngành 
xây dựng nhiều năm liền đạt được hiệu suất kinh tế cao nhưng do nợ xây 
dựng cơ bản tồn đọng kéo dài, lãi suất ngân hàng thương mại ngày càng tăng, 
khả năng thanh toán nợ đến hạn thấp dẫn đến thua lỗ, dần dần mất đi khả 
năng bảo toàn vốn, tích luỹ đầu tư mở rộng kinh doanh. Nhìn chung, theo các 
tiêu chí nêu trên thì thực tế hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp nhà 
nước tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2001- 2005 đạt ở mức thấp (bảng 2.6). 
Bảng 2.6: Chỉ số so sánh hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước 
tỉnh Quảng Nam 
 ĐVT: Triệu đồng 
Năm 
Chỉ tiêu 
2001 2002 2003 2004 2005 
Doanh thu 891.842 1.109.734 1.289.919 1.478.772 2.045.685 
Vốn 370.949 406.207 478.859 551.719 891.814 
Lợi nhuận 16.460 18.341 14.299 15.466 18.502 
Tỷ suất lợi nhuận / 
Vốn nhà nước (%) 4.44 4.52 2.97 2.80 2.07 
Tỷ suất lợi nhuận / 
Doanh thu (%) 1.85 1.65 1.11 1.05 
0.90 
 Nguồn: [1], [3], [12], [33]. 
 + Theo các yếu tố cấu thành và ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh. 
Trước tiên, đó là chiến lược kinh doanh và các chính sách hỗ trợ: Đây có 
thể hiểu là những phương pháp, là sự lựa chọn và những khả năng thực hiện 
các mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. Xây dựng chiến lược kinh doanh 
cũng có nghĩa đã dự báo được khả năng hiện hữu các chính sách về nguồn 
vốn, về sản xuất và maketing, về lợi nhuận, về nghiên cứu và phát triển, về 
nhân sự, tài chính, môi trường và cả những chính sách về xã hội. Và một khi 
đã thực thi được các chính sách này một cách phù hợp, có kiểm soát thì hẳn 
nhiên hiệu quả kinh doanh sẽ đạt được ở mức tối đa. Tuy nhiên, phải đến 
khoảng 80% doanh nghiệp nhà nước của tỉnh Quảng Nam chưa đề ra được 
cho doanh nghiệp mình một chiến lược kinh doanh cùng với những chính 
sách hỗ trợ phù hợp. Do vậy, thường rơi vào tình trạng bị động, hụt hẫng khi 
gặp trở ngại trong quá trình hoạt động kinh doanh. 
 + Về đổi mới công nghệ thiết bị: Do không có chính sách về nguồn 
vốn mà ngân sách nhà nước của tỉnh Quảng Nam thì không thể cân đối để cấp 
đủ nhu cầu vốn cho doanh nghiệp nhà nước theo qui định để doanh nghiệp 
đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị phục vụ sản xuất kinh doanh nên tình trạng 
chung là vẫn phải sử dụng công nghệ thiết bị đã không còn thích ứng với tư 
cách là hệ thống của các giải pháp tạo ra năng suất lao động cao, sản phẩm 
hàng hoá, dịch vụ tiện ích, nhằm thoả mãn nhu cầu xã hội. Điều đó cũng có 
nghĩa rằng hao phí lao động cùng với giá thành sản phẩm sẽ không giảm, chất 
lượng sản phẩm sẽ không được nâng lên, tự khắc lợi thế cạnh tranh của doanh 
nghiệp sẽ bị đe doạ và như thế sẽ không có được hiệu quả trong kinh doanh. 
Thực tế này đã phản ánh ở hầu hết các doanh nghiệp nhà nước của tỉnh Quảng 
Nam giai đoạn 2001-2005. 
 Qua khảo sát ở nhóm doanh nghiệp nhà nước hoạt động trên lĩnh vực 
xây dựng, cho thấy cấp độ đổi mới công nghệ thiết bị phục vụ thi công xây 
lắp chậm, trong 5 năm chỉ đạt 134,63% (bảng 2.7). 
Bảng 2.7: Thực trạng tình hình đổi mới công nghệ thiết bị tại một số 
 doanh nghiệp nhà nước ngành xây dựng của tỉnh Quảng Nam 
Giai đoạn 2001 - 2005 
 Khái quát một số thiết bị thi công chủ yếu của doanh nghiệp xây lắp: 
 ĐVT: cái 
TT Tên thiết bị Năm 2001 
Năm 
2002 
Năm 
2003 
Năm 
2004 
Năm 
2005 
Cấp độ tăng 
(%) 
2005/2001 
Ghi 
chú 
1 Máy làm đất 174 190 208 211 217 + 24,71 
 Trong đó: 
 Máy ủi 79 81 84 86 89 + 12,66 
 Máy san 38 42 46 45 45 + 18,42 
 Máy đào, xúc 22 28 35 36 36 + 63,64 
 Máy lu 18 18 19 19 21 + 16,67 
2 Máy làm đá 20 33 43 44 46 + 130,00 
 Trong đó: 
 Máy nén khí 9 9 9 8 8 - 11,11 
3 Máy xây dựng 101 108 115 117 121 + 19,80 
 Trong đó: 
 Máy trộn bêtông 32 39 48 49 52 + 62,50 
 Máy trộn vữa 8 11 14 15 17 + 112,50 
 đóng cọc 3 3 3 3 3 0,00 
4 Máy vận chuyển 98 127 149 149 153 + 56,12 
 trong đó: 
 ô tô tự đổ 68 86 107 109 112 + 64,71 
5 Máy vận chuyển cao 15 15 15 15 15 0,00 
 Trong dó: 
 Cần cẩu thiếu nhi 2 2 2 3 3 + 50,00 
6 Máy phát điện 17 17 19 20 20 + 17,65 
7 Máy biến thế 6 6 7 7 7 + 16,67 
8 Các loại máy khác 5 5 5 7 8 + 60,00 
 Tổng cộng 436 501 561 570 587 + 34,63 
 Nguồn: [12] 
 + Về chất lượng nguồn nhân lực: Mặc dù được nhiều doanh nghiệp 
quan tâm, đặt trọng tâm yếu tố này trong mối quan hệ tác động có hiệu quả 
quá trình sử dụng các nguồn lực khác. Tuy nhiên, do điều kiện về cơ sở đào 
tạo ở địa phương chưa đủ khả năng đáp ứng, nguồn nhân lực tại các doanh 
nghiệp cũng vừa đủ để phục vụ nhu cầu hoạt động kinh doanh chưa thể sắp 
xếp cho kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng hoặc nâng cao. Đa phần các doanh 
nghiệp nhà nước của tỉnh Quảng Nam gần đây mới bắt đầu khởi động đến 
việc nâng cao tay nghề và nghiệp vụ chuyên môn cho ngưòi lao động nhưng 
cũng ở mức độ hạn chế. Kết quả khảo sát từ số lượng lao động được giải 
quyết dôi dư do quá trình cổ phần hoá và sắp xếp lại doanh nghiệp nhà 
nước của tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2001-2005, có đến khoảng 1000 lao 
động phải nghỉ dôi dư, trong đó một số cán bộ công nhân viên phải nghỉ vì 
chưa được đào tạo lại, cũng như thực trạng đội ngũ cán bộ quản lý doanh 
nghiệp nhà nước hiện có, kể cả cán bộ quy hoạch dự nguồn cho thấy công 
tác đào tạo nguồn nhân lực của phần lớn các doanh nghiệp nhà nước trong 
thời gian qua chưa được chú trọng, nên thực tế nó chưa trở thành yếu tố 
cấu thành tạo ra hiệu quả kinh doanh. 
 Kết quả khảo sát công tác đào tạo nguồn nhân lực tại Quảng Nam cho 
thấy thực trạng chất lượng nguồn nhân lực tại các doanh nghiệp nhà nước của 
tỉnh Quảng Nam trong giai đoạn 2001 - 2005 chưa được nâng cao kịp với yêu 
cầu kế hoạch phát triển của doanh nghiệp cũng như kinh tế địa phương. Bình 
quân khoảng 10.000 lao động thường xuyên hàng năm, chỉ có khoảng 10% 
đến 15% được đào tạo nâng cao trình độ tay nghề cũng như năng lực quản lý 
(Biểu đồ 2.1). 
 BiÓu ®å 2.1: Thùc tr¹ ng chÊt l î ng nguån nh©n lùc th«ng qua c«ng t¸ c ®µo t¹ o 
t¹ i c¸ c Tr êng ®µo t¹ o Qu¶ng Nam giai ®o¹ n 20012005
( bæ sung cho c¸ c DNNN tØnh Qu¶ng Nam)
70 100 150 250
350157 175
216
360 370
172 215
237
247
375
250
320
375
575
615
649
810
978
1432
1710
0
500
1000
1500
2000
2500
3000
3500
4000
2001 2002 2003 2004 2005
Nguån: [32]
N
gu
ån
 n
h©
n 
lù
c
Tæng céng
Ngµnh kü thuËt x©y dùng
C«ng nghiÖp chÕ biÕn
C«ng nghÖ th«ng tin
DÞch vô kh¸ch s¹n
N¨m
52 
 + Về nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ: Hầu hết 
các doanh nghiệp đều tập trung và đây là yếu tố được xem là lợi thế cạnh 
tranh cần thiết. Từ những nỗ lực mang tính khác biệt của từng loại hàng hoá, 
sản phẩm và dịch vụ mà mỗi một doanh nghiệp lựa chọn giải pháp hữu hiệu 
để nâng cao chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp mình như: Công ty May 
Trường Giang, Công ty Khoáng sản Miền Trung, Công ty Lâm đặc sản Xuất 
khẩu, Công ty Xây lắp điện, Công ty Vật tư Y tế, Công ty Du lịch Dịch vụ 
Hội An, Công ty Nông Lâm sản Xuất khẩu Thu Bồn, Công ty Xây dựng 
Quảng Nam, Công ty Xây dựng & Cấp thoát nước Quảng Nam, v.v...Tuy 
nhiên, chỉ mới có một số ít doanh nghiệp được công nhận là đủ điều kiện hoạt 
động theo tiêu chuẩn ISO 9001-2000, Đó là: Công ty Xây dựng Quảng Nam, 
Công ty Xây dựng & Cấp thoát nước Quảng Nam, Công ty May Trường 
Giang, Công ty Xây lắp điện Quảng Nam, Công ty Du lịch Dịch vụ Hội An... 
 + Về môi trường sinh thái: Nhìn chung, rất ít các doanh nghiệp hoạt 
động kinh doanh ảnh hưởng trực tiếp đến khai thác sử dụng lãng phí tài 
nguyên rừng, khoáng sản; cũng không có doanh nghiệp nào hoạt động trong 
lĩnh vực hầm mỏ nên không trực diện đến môi trường độc hại. Một số ít 
doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực nuôi trồng, khai thác, chế biến hải sản, 
chế biến gỗ, sản xuất phân bón, sản xuất vật liệu xây dựng, v.v...nhưng hầu 
hết đều không làm ảnh hưởng đến môi trường sinh thái. Tuy nhiên, về môi 
trường làm việc thông thoáng, tiện ích thì chỉ một số ít doanh nghiệp quan 
tâm đầu tư và nếu xét một cách toàn diện để yếu tố này vừa góp phần tăng 
năng suất lao động, tạo được hiệu quả kinh doanh vừa gìn giữ được môi 
trường sinh thái thì thực tế đối với doanh nghiệp nhà nước của tỉnh Quảng 
Nam vẫn chưa được thỏa đáng. 
 + Về chi phí kinh doanh, tạo việc làm và ổn định thu nhập: Được 
xem là yếu tố có lợi thế đối với các doanh nghiệp nhà nước của tỉnh Quảng 
Nam vì lẽ giá sinh hoạt ở đây rất rẻ so với các Tỉnh, Thành phố khác, đặc biệt 
là tiền công lao động và giá trị các loại nguyên vật liệu khai thác tại chỗ như: 
Cát, đá, sỏi, gỗ, v.v...Hầu hết các doanh nghiệp đã tận dụng được các điểm 
mạnh này nên tiết kiệm được chi phí trong cơ cấu giá thành sản phẩm, giữ 
được tốc độ tăng trưởng đều, các chỉ số qua các năm về doanh thu, lợi nhuận, 
thu nhập bình quân của người lao động. Theo số liệu tổng hợp tại bảng 2.4, 
thu nhập bình quân của người lao động tăng từ 599.475đồng trong năm 2001 
lên đến 1.160.161đồng trong năm 2005, số người lao động ổn định việc làm 
trong năm 2001 là 3.718 người và tăng lên 9.210 người trong năm 2005. Mặc 
dù vậy, nhưng trong lộ trình sắp xếp đổi mới doanh nghiệp nhà nước của tỉnh 
Quảng Nam giai đoạn 2001 - 2005 vẫn bộc lộ nhiều bất cập, đối với những 
biện pháp cải cách cơ cấu lao động trong một số doanh nghiệp dẫn đến số lao 
động dôi dư thiếu việc làm ngày càng tăng, phản ảnh độ bền vững đối với quá 
trình phát triển của doanh nghiệp còn ở chỉ số thấp và do vậy, chưa thể được 
đánh giá là kinh doanh có hiệu quả. 
 + Năng lực quản lý kinh doanh và quyết định của Giám đốc doanh 
nghiệp: Hai yếu tố này có tính độc lập tương đối, song lại quan hệ hữu cơ 
trong quá trình điều hành tổ chức mang tính quyết định đối với hiệu quả kinh 
doanh của từng doanh nghiệp. Thực tế các doanh nghiệp nhà nước của tỉnh 
Quảng Nam trong phạm vi thời gian nghiên cứu, một số doanh nghiệp đã thể 
hiện được thực chất công tác quản lý kinh doanh thông qua các giải pháp 
kiểm soát được các yếu tố đầu vào, đầu ra, tiếp cận và ứng dụng nhanh chóng 
các tiến bộ khoa học kỹ thuật, các quy trình công nghệ mới. Cùng với năng 
lực quản lý là khả năng điều hành chủ động sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, 
dám chịu trách nhiệm của Giám đốc doanh nghiệp. Những quyết định nhạy 
cảm, kịp thời của một số Giám đốc các doanh nghiệp kết hợp với hệ thống 
quản lý chặt chẽ đã mang lại hiệu quả thiết thực trong kinh doanh. Tuy nhiên, 
bên cạnh đó vẫn có không ít các doanh nghiệp nhà nước trong quá trình tổ 
chức hoạt động kinh doanh còn buông lỏng công tác quản lý, không kiểm tra 
rà soát quá trình tổ chức thực hiện, không kiểm soát được những biến động 
của thị trường và sự thay đổi của các cơ chế chính sách. Bản thân Giám đốc 
doanh nghiệp còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự trợ giúp của Nhà nước, 
lúng túng, bị động trước những biến thiên của cơ chế thị trường nên mặc dù 
vẫn cố sức duy trì các hoạt động kinh doanh nhưng hoàn toàn không mang lại 
hiệu quả hoặc có hiệu quả thì cũng ở mức rất thấp. 
 2.2.3. Nguyên nhân của thành tựu và hạn chế về hiệu quả kinh doanh 
 Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước trong tỉnh Quảng 
Nam trong quá trình hoạt động được mang lại từ nhiều nguyên nhân, vừa 
khách quan, vừa chủ quan, song cốt lõi vẫn là những nguyên nhân cơ bản 
mang tính phổ biến sau: 
 Một là, từ các chính sách của nhà nước mang tính chất công cụ điều tiết 
vĩ mô của nền kinh tế thường biến động lớn hoặc biến động liên tục ảnh 
hưởng trực tiếp đến các yếu tố đầu vào và cả yếu tố đầu ra trên cơ sở ngành 
nghề kinh doanh của doanh nghiệp. Nguyên nhân này thường là gây trở ngại 
cho nhiều doanh nghiệp, nhưng ngược lại nếu xây dựng được các chính sách 
sản xuất kinh doanh phù hợp trên cơ sở biết phòng chống rủi ro và dự báo 
được khả năng biến động từ cơ chế thì sẽ mang lại hiệu quả cao. 
 Hai là, sự ưu ái của Nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước ở địa 
phương trong quá trình sử dụng các yếu tố thuộc môi trường kinh doanh như 
là sử dụng tài nguyên đất đai, nguyên vật liệu, lao động cũng như các chế độ 
ưu đãi khác. Đây chính là một trong những nguyên nhân tạo điều kiện lâu dài 
để doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh mang lại hiệu quả. Tuy 
nhiên, nếu không sử dụng đúng mục đích và tận dụng tối đa nguồn lực về tài 
nguyên thiên nhiên, về lao động,... thì quá trình hoạt động của doanh nghiệp 
sẽ không tạo được tiền đề phát triển bền vững, thậm chí còn gây lãng phí 
nguồn lực. 
 Ba là, tranh thủ kịp thời các cơ hội về nguồn lực từ các đối tác liên 
doanh, liên kết, các nhà đầu tư có năng lực về nguồn tài chính, về khoa học 
công nghệ, thiết bị kỹ thuật để phối hợp thực hiện các hoạt động kinh doanh 
của doanh nghiệp mình, nhằm tạo ra hiệu quả. Thực tiễn cho thấy, một số 
doanh nghiệp nhà nước của tỉnh Quảng Nam sau khi liên kết được với các đối 
tác có đủ các khả năng về vốn, công nghệ, khoa học kỹ thuật đã nhanh chóng 
phối hợp tổ chức hoạt động kinh doanh và thực tế đã thu được hiệu quả ở mức 
cao. Song cũng cần lưu ý rằng, khi thực hiện các hoạt động liên kết, liên 
doanh với đối tác nước ngoài cần vận dụng đúng đắn đường lối, chính sách 
của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nhất là Luật Doanh nghiệp năm 2005 và 
Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi cùng với những điều luật có liên quan, nhằm 
tránh tối đa sự thua thiệt về phía Việt Nam. 
 Bốn là, kinh tế địa phương giữ được tốc độ tăng trưởng đều, vững chắc 
sẽ kéo theo sự phát triển của doanh nghiệp nhà nước địa phương thông qua 
các hoạt động sản xuất kinh doanh, đạt được các mục tiêu chiến lược giải 
quyết ổn định việc làm và cải thiện được đời sống của người lao động. Từ đó 
sẽ là đòn bẩy tạo những khả năng vật chất dồi dào được hiểu là nguồn lực nội 
tại của doanh nghiệp và là nguyên nhân dẫn đến hiệu quả kinh doanh. Ngược 
lại, nếu kinh tế địa phương phát triển cầm chừng hoặc phát triển chậm, hoạt 
động của doanh nghiệp sẽ chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi các chỉ số kinh doanh. 
 Năm là, giữ vững uy tín của doanh nghiệp với khách hàng, với nhà 
cung cấp các yếu tố đầu vào, cũng như với công luận và các địa phương, với 
tư cách là một chủ thể đang tồn tại trong vô lượng mối quan hệ của nền kinh 
tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thông qua đó, liên tục 
củng cố vị thế của doanh nghiệp trên thị trường tiềm năng. 
 Sáu là, thực hiện kịp thời đầy đủ các chế độ chính sách đối với người 
lao động, nhằm động viên, khuyến khích, thúc đẩy quá trình tăng năng suất 
lao động, nuôi dưỡng được phong trào thi đua gắn với trách nhiệm cá nhân 
của mọi thành viên trong doanh nghiệp. Nếu không thực hiện tốt vấn đề này 
điều chắc chắn sẽ xảy ra những hiệu ứng ngược lại. 
 Bảy là, nêu cao vai trò lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng trong doanh 
nghiệp nhà nước đồng thời với việc phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ 
chức Công đoàn, Đoàn Thanh niên, trên cơ sở thực hiện có hiệu quả quy chế 
dân chủ ở cơ sở trong doanh nghiệp nhà nước. Thực tiễn cho thấy một số 
doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, một trong những nguyên nhân là do 
không phát huy được vai trò lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng trong doanh 
nghiệp nhà nước cũng như sự ảnh hưởng của các tổ chức đoàn thể trong 
doanh nghiệp bị xem nhẹ. 
Kết luận chương 2 
 Hệ thống doanh nghiệp nhà nước của tỉnh Quảng Nam trong giai đoạn 
2001-2005 phần lớn các doanh nghiệp hoạt động ở qui mô vừa và nhỏ, nguồn 
vốn chủ sở hữu không tương ứng với ngành nghề kinh doanh, cơ sở vật chất 
và thiết bị công nghệ chưa đủ điều kiện để đáp ứng nhu cầu hoạt động. Mặc 
dù được đánh giá là tốc độ tăng trưởng thấp nhưng doanh nghiệp nhà nước 
của tỉnh Quảng Nam trong giai đoạn này đã có những đóng góp tích cực cho 
quá trình phát triển kinh tế địa phương, thông qua các chỉ số về doanh thu, lợi 
nhuận, nộp ngân sách nhà nước và thu nhập bình quân, đồng thời tham gia 
giải quyết việc làm ổn định cho khoảng 10.000 người lao động/năm, đóng góp 
bình quân khoảng 21% tỉ trọng GDP hàng năm của tỉnh. Đối với tỉnh Quảng 
Nam, một đơn vị hành chính vừa mới được thành lập từ năm 1997, hiện đang 
tập trung xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật để phát triển kinh tế địa 
phương, phấn đấu đến trước năm 2020 cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp, thì 
sự tồn tại của doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh Quảng Nam trong giai đoạn hiện 
nay nhằm thực hiện vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong quá trình thúc 
đẩy phát triển kinh tế địa phương là hoàn toàn cần thiết.Tuy nhiên, từ kết quả 
của lộ trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước của tỉnh Quảng Nam giai 
đoạn 2001-2005 đã bộc lộ nhiều bất cập, không ít doanh nghiệp nhà nước 
trong một thời gian dài chỉ hoạt động cầm chừng, nhằm duy trì sự tồn tại 
trong trạng thái khó khăn của doanh nghiệp chứ thực sự kinh doanh không có 
hiệu quả, thậm chí đã có một số doanh nghiệp nhà nước thua lỗ lũy kế kéo dài 
không còn khả năng hoạt động, phải thực hiện sáp nhập, giải thể, khoán, cho 
thuê và phá sản.v.v...Phần lớn doanh nghiệp nhà nước của tỉnh Quảng Nam 
hoạt động chỉ ở phạm vi trong địa bàn tỉnh, năng lực cạnh tranh thấp, chưa 
định hướng và xây dựng được chiến lược kinh doanh cũng như các chính sách 
yểm trợ phù hợp. 
 Trên cơ sở thực trạng hoạt động và hiệu quả kinh doanh của doanh 
nghiệp nhà nước tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2001-2005, dưới góc độ nghiên 
cứu của đề tài, cần đề xuất những giải pháp hữu hiệu để nhằm nâng cao hiệu 
quả hoạt động kinh
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
Luận văn- Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước tỉnh Quảng Nam.pdf