Luận văn Giáo dục giá trị truyền thống văn hóa cho lứa tuổi vị thành niên trong nhà trường

Tài liệu Luận văn Giáo dục giá trị truyền thống văn hóa cho lứa tuổi vị thành niên trong nhà trường: LUẬN VĂN: Giáo dục giá trị truyền thống văn hóa cho lứa tuổi vị thành niên trong nhà trường Phần mở đầu 1. Lý do chọn đề tài Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, và gần đây Đại hội Đảng IX của Đảng đã mở ra bước ngoặt lịch sử, đưa nước ta tiến lên một thời kỳ phát triển hoàn toàn mới. Một luận điểm quan trọng của Đảng ta về sự nghiệp CNH, HĐH đất nước là "lấy việc chăm sóc, đào tạo, phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững". Vì vậy, xây dựng con người phát triển hài hòa, toàn diện là mục tiêu hàng đầu của Đảng và Nhà nước. Trong giai đoạn hiện nay và lâu dài, chiến lược phát triển nhân cách văn hóa toàn diện cho thế hệ trẻ được đặc biệt quan tâm. NQTW 5 khóa VIII và NQTW 2 khóa VIII cho thấy văn hóa và giáo dục, giáo dục và văn hóa trong thời đại ngày nay là cặp phạm trù có mối quan hệ biện chứng. Giáo dục đưa dân trí đất nước phát triển, góp phần quan trọng phát triển nền văn hóa dân tộc, tạo nên một sức mạnh nội lực. ...

pdf156 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1020 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Giáo dục giá trị truyền thống văn hóa cho lứa tuổi vị thành niên trong nhà trường, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Giáo dục giá trị truyền thống văn hóa cho lứa tuổi vị thành niên trong nhà trường Phần mở đầu 1. Lý do chọn đề tài Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, và gần đây Đại hội Đảng IX của Đảng đã mở ra bước ngoặt lịch sử, đưa nước ta tiến lên một thời kỳ phát triển hoàn toàn mới. Một luận điểm quan trọng của Đảng ta về sự nghiệp CNH, HĐH đất nước là "lấy việc chăm sóc, đào tạo, phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững". Vì vậy, xây dựng con người phát triển hài hòa, toàn diện là mục tiêu hàng đầu của Đảng và Nhà nước. Trong giai đoạn hiện nay và lâu dài, chiến lược phát triển nhân cách văn hóa toàn diện cho thế hệ trẻ được đặc biệt quan tâm. NQTW 5 khóa VIII và NQTW 2 khóa VIII cho thấy văn hóa và giáo dục, giáo dục và văn hóa trong thời đại ngày nay là cặp phạm trù có mối quan hệ biện chứng. Giáo dục đưa dân trí đất nước phát triển, góp phần quan trọng phát triển nền văn hóa dân tộc, tạo nên một sức mạnh nội lực. Văn hóa là nội dung và là mục đích của giáo dục. Giáo dục là con đường chuyển tải và phát huy giá trị văn hóa. Trường học ngày nay được xem không chỉ cung cấp tri thức cho học sinh mà còn phải biến tri thức đó thành vốn văn hóa, nhân cách văn hóa cho các em theo mục tiêu và nội dung của đổi mới giáo dục (tinh thần NQ Trung ương 2 khóa VIII). Học sinh ở độ tuổi vị thành niên từ 11 - 12 đến 17 - 18 là lứa tuổi có những đột biến trong tâm sinh lý. Thời kỳ này được đặc trưng bởi sự phát triển rất nhanh cả về trí lực, thể lực. Song đây cũng là giai đoạn chuyển tiếp từ tuổi thơ sang tuổi trưởng thành, một mặt các em có nhu cầu rất lớn những kiến thức khoa học về bản thân (vấn đề giới, tình bạn, tình yêu, tình dục...), mặt khác, là những nhu cầu về định hướng giá trị hành vi, kỹ năng sống. Nhiều công trình nghiên cứu gần đây, và những thông tin trên báo chí, phát thanh, truyền hình xung quanh vấn đề tuổi vị thành niên cho thấy, do sự thiếu hụt những kiến thức cần thiết ở lứa tuổi này từ phía gia đình - nhà trường - xã hội, vị thành niên đang có những biểu hiện đáng lo ngại về lối sống - đạo đức: sống buông thả, đua đòi, xa hoa, lười biếng trong học tập, quay cóp trong thi cử, giải trí thiếu lành mạnh (VD: Trò chơi tiêu cực, xem phim bạo lực, tình ái trên mạng Internet), từ đó dẫn đến phạm pháp, quan hệ yêu đương sớm, thậm chí có những em quan hệ tình dục sớm, nạo phá thai trước tuổi trưởng thành ảnh hưởng không nhỏ tới sức khỏe, học tập, tâm lý và tương lai của các em. Một điều không thể phủ nhận là những thành tựu cách mạng khoa học kỹ thuật của thời đại ngày nay đã cho lớp trẻ có được trình độ học vấn và trình độ sống cao. Song những tồn tại trên cũng cho thấy sự mất cân đối giữa giáo dục học vấn và giáo dục nhân cách văn hóa cho học sinh. Nhận thức được vấn đề này, một vài năm trở lại đây, giáo dục nhân cách cho học sinh ở tuổi vị thành niên trong nhà trường đã bước đầu được nghiên cứu một cách hệ thống và đưa vào thể nghiệm từ năm 2000; song cũng mới chỉ dừng lại thí điểm ở học sinh một số trường phổ thông cơ sở với nội dung "giáo dục giá trị đạo đức nhân văn". Cho đến nay, chưa có một công trình nào đi vào vấn đề "giáo dục giá trị truyền thống văn hóa cho lứa tuổi vị thành niên trong trường phổ thông" một cách chuyên biệt. Với lý do này, chúng tôi chọn đề tài "Giáo dục giá trị truyền thống văn hóa cho lứa tuổi vị thành niên trong nhà trường" nhằm tích hợp với một số môn xã hội, đặc biệt với bộ môn giáo dục công dân, và giáo dục hoạt động ngoài giờ lên lớp. Qua đó, hình thành và phát triển nhân cách văn hóa cho lứa tuổi vị thành niên, đáp ứng mục tiêu giáo dục toàn diện theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII và Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII của Đảng, phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. 2. Mục đích nghiên cứu - Xác định những giá trị truyền thống văn hóa phù hợp với lứa tuổi cấp học. - Đề xuất những giải pháp nhằm hình thành, phát triển những giá trị đó ở thế hệ vị thành niên. 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu - Khách thể nghiên cứu: Học sinh ở tuổi cấp II, III. - Đối tượng nghiên cứu: Nội dung giá trị truyền thống văn hóa và giải pháp giáo dục để thực hiện mục tiêu trên. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài - Nêu được thực trạng lối sống, nhân cách vị thành niên học sinh phổ thông hiện nay. - Nêu thực trạng những đánh giá của học sinh VTN, giáo viên, phụ huynh VTN về truyền thống văn hóa và công tác giáo dục giá trị truyền thống văn hóa ở tuổi vị thành niên trong nhà trường hiện nay. Những khó khăn, thuận lợi và nguyên nhân của thực trạng này. - Đề xuất những giải pháp giáo dục giá trị truyền thống văn hóa trong nhà trường phổ thông hiện nay. 4.2. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu - Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu giá trị truyền thống văn hóa với sự hình thành nhân cách văn hóa ở tuổi VTN trong trường học (chủ yếu là học sinh dân tộc kinh các trường ở thành phố và nông thôn). 5. Phương pháp nghiên cứu - Người viết sẽ đứng ở góc độ lý luận văn hóa để phân tích vấn đề, tuy nhiên đề tài sẽ kế thừa những kết quả nghiên cứu của các ngành xã hội học văn hóa, nhân học văn hóa, tâm lý học trẻ em, và các tài liệu khác xung quanh tuổi VTN. - Phương pháp luận nghiên cứu, đề tài dựa vào phương pháp DVBC và DVLS - Tư tưởng chỉ đạo của đề tài là dựa theo văn kiện của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh nói về xây dựng con người Việt Nam thời kỳ CNH, HĐH. - Các phương pháp cụ thể là phương pháp lôgic, lịch sử thống kê, phân tích, đi khảo sát thực tế, phỏng vấn sâu, lấy ý kiến chuyên gia, phát phiếu thăm dò. 6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài - Một trong những xu hướng nghiên cứu văn hóa học hiện đại là xu hướng "văn hóa và nhân cách", đã xuất hiện từ nửa đầu thế kỷ XX, với nhiều tên tuổi nổi tiếng như Herskovists (1948), Mead (1964), Bastide (1971), Xôcôlốp (1972)..., và ở Việt Nam gần đây tiêu biểu có GS Phan Ngọc. Đề tài nằm trong xu hướng trên đây nên nó mang tính lý luận sâu sắc. - Vận dụng lý luận trên vào hoạt động thực tiễn sẽ hình thành nên văn hóa con người, trong đó có xây dựng nhân cách văn hóa ở tuổi VTN trong hệ thống giáo dục nhà trường. Đây là ý nghĩa thực tiễn của đề tài. 7. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và mục tài liệu tham khảo, đề tài chia làm 3 chương. Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề giáo dục giá trị truyền thống văn hóa cho vị thành niên trong nhà trường 1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài nghiên cứu. 1.2. Nội dung giáo dục giá trị truyền thống văn hóa cho lứa tuổi VTN trong nhà trường. 1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc giáo dục giá trị truyền thống văn hóa ở tuổi vị thành niên. Chương 2: Thực trạng về giáo dục giá trị truyền thống văn hóa cho lứa tuổi VTN trong nhà trường hiện nay 2.1. Nhận thức của học sinh VTN, của giáo viên, phụ huynh VTN về giáo dục truyền thống văn hóa 2.2. Vài nét về tình hình giáo dục giá trị truyền thống văn hóa trong trường phổ thông hiện nay. Chương 3: Những biện pháp giáo dục giá trị truyền thống văn hóa cho lứa tuổi vị thành niên trong nhà trường 3.1. Những biện pháp giáo dục lý thuyết ở phần chính khóa. 3.2. Những biện pháp giáo dục thực hành khuôn mẫu văn hóa ứng xử (ở phần hoạt động ngoài giờ lên lớp). 3.3. Những biện pháp giáo dục văn hóa ứng xử của Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh nhà trường. 3.4. Biện pháp giáo dục kỹ năng sống tiếp cận vào lối sống, đạo đức, sức khỏe và phòng chống tệ nạn xã hội cho học sinh vị thành niên trong nhà trường Kết luận Chương 1 Cơ sở lý luận của vấn đề giáo dục giá trị truyền thống văn hóa cho vị thành niên trong nhà trường 1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài nghiên cứu 1.1.1. Khái niệm văn hóa Văn hóa, nếu xét về nguồn gốc của từ, được bắt nguồn từ tiếng La tinh Colere, nghĩa là "gieo trồng". Đến thế kỷ 19, thuật ngữ văn hóa đi vào khoa học xuất sinh từ phương Tây, tiếng Pháp và tiếng Anh đều viết là Culture. Theo nghĩa rộng, văn hóa là phương thức tồn tại đặc hữu của con người, khác biệt với phương thức tổ chức cuộc sống của các loài sinh thể khác trên trái đất. Quan điểm của C.Mác - Ph.Ăngghen khi nói về "lực lượng bản chất người" đã chứng minh tính chất xã hội chỉ có ở con người. Một trong các lực lượng bản chất ấy là sức lao động, là tài năng sáng tạo của con người. Hai ông viết "căn cứ vào mức độ được con người biến thành bản chất người, tức là mức độ tự nhiên được con người khai thác, cải tạo, thì có thể xét được trình độ văn hóa chung của con người" [3, 287]. Như vậy lực lượng bản chất người không phải là các lực lượng bẩm sinh xuất hiện một cách tự nhiên, mà chúng được hình thành, biến đổi do tác động của quan hệ xã hội, do trình độ phát triển của văn hóa, do hoạt động cải tạo thế giới của con người. Chính các hoạt động này là phương thức tồn tại và tái sản xuất ra đời sống xã hội. Theo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen thì lao động như một "hoạt động sáng tạo". Nếu ở phương diện kinh tế lao động với chức năng sản xuất ra của cải vật chất, thì ở phương diện văn hóa, lao động là sự sáng tạo. Hay nói cách khác, sản xuất của cải vật chất là phương diện kinh tế của lao động còn sáng tạo khoa học kỹ thuật, phát triển sản xuất là phương diện văn hóa của lao động. Như vậy, lao động đồng nghĩa với hoạt động sáng tạo, nó là hoạt động thuộc về bản chất người, là biểu hiện của tư chất tinh thần và thể chất người. Lao động sáng tạo chính là khởi điểm của văn hóa. Nhà khoa học người Pháp Tây-ha Đơ Sác-đanh (Teihard de Chardin) cho rằng: "Sự phát triển của vũ trụ bắt đầu từ khi xuất hiện sự sống, ông gọi đó là sinh quyển (Biosphère). Tiếp đó là sự xuất hiện của tri quyển (Noosphère) chỉ có ở loài người. Tri quyển đó là quyển về ý thức, tinh thần, về tư duy do loài người tạo ra. Tri quyển chính là văn hóa, biểu hiện thành "thiên nhiên thứ hai" hoặc còn gọi là "thế giới nhân tạo" của con người" [15, tr. 9]. Giải thích thuật ngữ văn hóa, các nhà nhân học phương Tây thường phân biệt ra hai trường hợp: văn hóa viết hoa, số ít (Culture) và văn hóa không viết hoa, số nhiều (cultures) [2, tr. 13]. Văn hóa viết hoa, số ít (Culture) là thuật ngữ dùng để chỉ thuộc tính chỉ có ở loài người. Đó là khả năng học hỏi, thích ứng, sáng tạo ra những quan niệm, hành vi ứng xử và hệ thống các biểu tượng, nhờ đó loài người có thể vận thông với nhau để tồn tại và phát triển. Văn hóa không viết hoa, số nhiều (cultures) là thuật ngữ dùng để chỉ các nền văn hóa. Đó là những truyền thống, thể hiện thành những lối sống khác nhau của cộng đồng, bao gồm các hệ thống ý niệm, hệ thống ứng xử liên quan đến giá trị, hệ thống biểu hiện và hệ thống kỹ thuật, mà các cộng đồng ấy trong quá trình hoạt động thực tiễn đã sáng tạo ra và học hỏi được. Hệ thống ý niệm (hệ tư tưởng) được xem là yếu tố cốt lõi của văn hóa, đóng vai trò chi phối đối với các hệ thống khác. Phù hợp với cách khu biệt trên đây, các nhà xã hội học cũng chia văn hóa ra: văn hóa cá nhân và văn hóa cộng đồng [8]. Văn hóa cá nhân là toàn bộ tri thức (vốn kinh nghiệm), quan niệm được tích lũy vào mỗi cá nhân, quy định ứng xử của nó trong quá trình hoạt động thực tiễn - lịch sử - xã hội. Văn hóa cộng đồng không phải là con số cộng đơn giản của những văn hóa cá nhân sống trong cộng đồng xã hội ấy, mà là văn hóa của một nhóm xã hội. Đó là toàn bộ những quan niệm và hành xử được cộng đồng chia sẻ và chấp nhận, đã trở thành truyền thống của cộng đồng xã hội. Chính hệ thống những quan niệm và hành xử này làm nên bản sắc văn hóa của cộng đồng xã hội ấy. Trong đề tài này khi nói: "Tác động của văn hóa..." - tức là nói đến tác động của "văn hóa cộng đồng", đối với "nhân cách trẻ VTN" - Tức là nói đến sự phát triển "văn hóa cá nhân" ở mỗi trẻ VTN. Như vậy, đề tài sử dụng cả hai nghĩa của từ văn hóa. Để tiếp cận đối tượng nghiên cứu, đề tài sẽ phân tích văn hóa dưới góc nhìn xã hội học và với phương pháp liên ngành: tâm lý, văn hóa, xã hội học. Phù hợp với cách tiếp cận trên đây, đề tài vận dụng định nghĩa văn hóa (cộng đồng) của nhà xã hội học Ba Lan Giăng Sê-pan-xki. Ông viết: "Văn hóa là toàn bộ sản phẩm vật chất tinh thần của hoạt động người, những hệ thống giá trị và khuôn mẫu ứng xử được cộng đồng xã hội thừa nhận và truyền lại cho các cộng đồng người khác và cho những thế hệ tương lai thông qua các thiết chế xã hội - văn hóa của nó" [8]. Định nghĩa trên đây là xuất phát từ quan điểm mác-xít xem văn hóa là hoạt động sáng tạo tích cực của con người, sống trong một cộng đồng xã hội nhất định. Hoạt động sáng tạo ấy đã tạo ra những sản phẩm vật chất và tinh thần nhằm đáp ứng các nhu cầu tồn tại và phát triển, nó còn tạo ra những hệ thống giá trị và chuẩn mực xã hội đóng vai trò nền tảng tinh thần, điều tiết và thúc đẩy xã hội đi lên theo hướng nhân bản. Toàn bộ những thành quả sáng tạo ấy được tích lũy lại, thông qua các thiết chế xã hội - văn hóa như: gia đình và trường học, truyền đạt cho các thế hệ tương lai và cho các cộng đồng khác nữa. Như vậy, văn hóa chẳng những là chất keo liên kết làm cho xã hội bền vững và phát triển, nó còn là cầu nối giữa các thế hệ và giữa các cộng đồng người, tạo nên sự đa dạng và sự liên tục của đời sống xã hội. Định nghĩa trên đây nhấn mạnh vào bốn yếu tố: những sản phẩm vật chất và tinh thần, các hệ thống giá trị, các hệ thống khuôn mẫu ứng xử, các thiết chế xã hội - văn hóa. Đó là những yếu tố cùng với những con người làm nên môi trường văn hóa, tác động đến nhân cách tuổi vị thành niên. Tổng giám đốc UNESCO F. May-ơ cũng nêu quan niệm về văn hóa: "Văn hóa là tổng thể sống động của các hoạt động sáng tạo trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ; hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống giá trị, các truyền thống và thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc" (Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa, Hà Nội, 1992, trang 23). Qua những định nghĩa và quan niệm nêu trên cho ta thấy rõ hai vấn đề: Một, lao động sáng tạo là cội nguồn khởi điểm của văn hóa. Mọi hoạt động sáng tạo chỉ trở thành văn hóa đích thực khi nó hướng về các giá trị nhân bản, tiến bộ nhằm hoàn thiện con người. Hai, văn hóa được con người tích lũy trong quá trình hoạt động thực tiễn xã hội và đúc kết thành hệ giá trị - chuẩn mực xã hội, biểu hiện thông qua vốn di sản văn hóa (bao gồm văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể). Hệ giá trị xã hội là một thành tố làm nên bản sắc và truyền thống văn hóa của một cộng đồng xã hội. Hệ giá trị xã hội có khả năng chi phối đời sống tâm lý và hệ ứng xử văn hóa của con người sống trong cộng đồng xã hội ấy và nó được trao truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. Như vậy, văn hóa có những đặc trưng cơ bản riêng được biểu hiện ở: 1- tính hệ thống, với tư cách là một phức hợp bao gồm cả tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, phong tục, thói quen, luật pháp mà con người vừa là chủ thể sáng tạo vừa là khách thể tiếp nhận văn hóa. 2- Văn hóa dưới góc độ giá trị nó là cái đẹp, chỉ chứa cái đẹp và các giá trị văn hóa là thước đo mức độ nhân bản của con người. 3- Văn hóa đối lập với tự nhiên. Văn hóa là tự nhiên có sự tác động của con người, do đó, nó mang tính nhân sinh. 4- Văn hóa được hình thành trong một quá trình và được tích lũy qua nhiều thế hệ tạo nên bề dày văn hóa trong lịch sử. Do tính lịch sử, văn hóa được duy trì bằng truyền thống văn hóa. Truyền thống văn hóa là cơ chế tích lũy và truyền đạt kinh nghiệm qua không gian, thời gian cho con người trong cộng đồng và xã hội. Truyền thống văn hóa được tồn tại nhờ giáo dục, đồng thời giáo dục là chức năng cơ bản của văn hóa. Xây dựng nội dung giá trị truyền thống văn hóa ở tuổi VTN trong học đường chủ yếu sẽ đi sâu phân tích lý giải phần đạo lý sống (lối sống) và khuôn mẫu ứng xử trong nếp sống. Giá trị truyền thống văn hóa ở đây sẽ được xem xét cả góc độ động và tĩnh. Góc động, xem xét truyền thống có sự tiếp nhận giá trị mới cho phù hợp với thời đại. Góc tĩnh, truyền thống là những giá trị tích cực trường tồn trong phong tục tập quán, nếp sống của dân tộc. Giáo dục giá trị truyền thống văn hóa ở tuổi VTN trong nhà trường phổ thông là giáo dục đạo lý sống, nếp ứng xử trong môi trường học đường. Ví dụ, dạy đạo lý trong quan hệ Thày - Trò; quan hệ Trò - Trò; dạy những nghi lễ, nghi thức trong nhà trường, trong gia đình và trong cộng đồng xã hội, mục đích tạo ra môi trường văn hóa trong đó gồm cả cảnh quan văn hóa, lối sống văn hóa và những nhân cách văn hóa. Dậy đạo lý trong học đường là dạy cá nhân ứng xử văn hóa trong các vai trò xã hội của mình, đó cũng chính là quá trình VTN nhập thân văn hóa. Trong nhà trường, dạy học là dạy kiến thức, tri thức, đạo đức cho học sinh bằng ngôn ngữ. Còn dạy văn hóa là dạy đạo lý (vừa bằng ngôn ngữ, vừa bằng các hoạt động văn hóa) để tạo ra những nhân cách văn hóa, tạo ra những tấm gương, tạo ra những ông tổ văn hóa trong giáo dục trở thành truyền thống của ngành. Dạy học là cái hữu thức, còn dạy văn hóa là cái ngầm ẩn, đi từ cái vô thức đến hữu thức. Nhập thân văn hóa là một thuật ngữ được ra đời từ môn nhân học văn hóa mà một trong các tác giả là M.JHerskovits (1948). Nhân học văn hóa là môn khoa học liên ngành nghiên cứu văn hóa con người. Quan niệm văn hóa như một công cụ vận thông đặc biệt giúp cho con người dễ dàng thích nghi với điều kiện sống đã khiến trường phái nhân học đặc biệt quan tâm giải quyết vấn đề nhập thân văn hóa. Nhập thân văn hóa, theo Từ điển dân tộc học tiếng Pháp, Michel Panoff và Michel Perrin giải nghĩa: "Đó là quá trình hữu thức hoặc vô thức, nhờ đó một cá thể trong suốt đời người đã hấp thụ các truyền thống - tức các mô hình ứng xử của nhóm, và hành xử về mặt chức năng đối với các truyền thống ấy. Nhờ có thuật ngữ này, người ta đã xác lập được mối liên hệ giữa sự kiện xã hội, được xem xét như bản thân sự vật, với hành vi của cá nhân, thông qua đó mà văn hóa biểu lộ ra. Thuật ngữ này thường coi như đồng nghĩa với thuật ngữ "xã hội hóa" hoặc "nhập tâm văn hóa" (Internalisation de la culture), tuy nhiên một số tác giả đã có dụng ý xác định nghĩa riêng cho mỗi thuật ngữ. Một số nhà nghiên cứu khác lại thâu gộp trong thuật ngữ "nhập thân văn hóa" cả quá trình trao truyền văn hóa, cùng với các biểu tượng "đổi mới" (phát sinh) văn hóa (PGS. Từ Chi dịch). Còn trong từ điển hiện đại về văn hóa (tiếng Nga), Min-Xcơ-1999 giải nghĩa "nhập thân văn hóa là quá trình, trong đó chủ thể cần phải học tập để nắm vững, hiểu thấu các mối liên hệ trong nhóm, nắm được những nét, sắc thái và những chi tiết văn hóa cần và đủ của xã hội hay của dân tộc mình, làu thông những hệ chuẩn tâm thức, những chuẩn mẫu văn hóa, những khuôn mẫu đa dạng mang tính cấu trúc của văn hóa... Bằng khái niệm "nhập thân văn hóa", có thể diễn đạt trình bày sự lĩnh hội của trẻ em đối với các chuẩn mực văn hóa, khuôn mẫu văn hóa, giá trị văn hóa trong quá trình hoạt động, chủ động tiếp cận với xã hội và với những cá thể khác". Như vậy, văn hóa bên cạnh sự vận hành tự thân trong thời gian, nó còn thâm nhập vào mọi hành vi ứng xử của con người những giá trị mà mỗi thế hệ đi qua để lại. Nhập thân văn hóa do đó, vừa là một cách thức để con người thích ứng với điều kiện sống, vừa là cách thức để văn hóa tồn tại và phát triển. Theo các nhà nhân học, quá trình nhập thân văn hóa kéo dài suốt cả đời người, chỉ đến chết mới thôi (M.J. Herskovits), song giai đoạn ấu thơ kéo đến đầu tuổi VTN là giai đoạn quan trọng bậc nhất trong đời sống văn hóa của một cá thể. Đặc biệt ở, giai đoạn đầu bước vào tuổi VTN, những xuất hiện thay đổi đột biến (tâm, sinh lý) từ bên trong khiến các em có những hành vi bất thường thậm chí đi ngược lại truyền thống. Tuy nhiên, để đảm bảo quá trình nhập thân văn hóa của cá nhân diễn ra hài hòa toàn vẹn ở lứa tuổi này chúng ta cần có những giải pháp văn hóa để trở thành nhân tố tự điều chỉnh từ bên trong mỗi cá nhân. Mặt khác, những nhân tố bảo đảm quá trình nhập thân văn hóa phụ thuộc vào hai yếu tố: áp lực xã hội và áp lực tín niệm. áp lực xã hội có thể từ gia đình, nhóm xã hội... áp lực xã hội tỷ lệ nghịch với quy mô xã hội. Nếu áp lực xã hội lớn, quy mô xã hội nhỏ (đó là gia đình). áp lực xã hội giảm, quy mô xã hội lớn (cộng đồng xã hội). ý nghĩa vấn đề ở chỗ giáo dục gia đình (quy mô nhỏ) áp lực tác động tới hành vi ứng xử cá nhân sẽ lớn hơn, chặt chẽ hơn, vào khuôn khổ hơn. Giáo dục cộng đồng - xã hội (quy mô lớn) áp lực xã hội giảm do tính chất không ép buộc khuyến khích sự tự nguyện và hướng cá nhân tới hành vi lựa chọn. áp lực tín niệm là sự hướng tới ý niệm cao cả như một nhu cầu, có thể từ tôn giáo, từ hệ giá trị Chân - Thiện - Mĩ hay từ quan niệm về đạo đức. Con người - ngoài quan hệ tác động và phụ thuộc vào nhau còn có quan hệ và sống với những giá trị thiêng liêng, những tín niệm mà họ tôn thờ. Trong hành vi văn hóa của mình họ luôn đối diện với những giá trị đó. Tìm hiểu hệ thống những áp lực này sẽ cho ta hiểu được giá trị đặc thù của từng loại hành vi. Cơ bản hơn, nó là sự hướng đạo thầm lặng cho cá nhân trong quá trình tiếp nhận và nhập thân văn hóa truyền thống. 1.1.2. Khái niệm nhân cách và nhân cách văn hóa Thế giới có nhiều định nghĩa khác nhau về nhân cách - Trong Đại bách khoa toàn thư Liên Xô đã nêu lên định nghĩa: "Nhân cách là một hệ thống bền vững các đặc điểm có ý nghĩa xã hội đặc trưng cho các cá nhân với tư cách là một thành viên của một xã hội hay một cộng đồng nào đó". Trong cuốn Tâm lý học - H, Nxb Giáo dục 1988 định nghĩa "Nhân cách là toàn bộ những đặc điểm, phẩm chất tâm lý của cá nhân, quy định giá trị xã hội và hành vi xã hội của họ". Đứng ở góc độ "nhân học tâm lý" J.Honig man định nghĩa "Nhân cách là văn hóa được phản ánh vào hành vi cá nhân". Xuất phát từ sự lý giải Văn hóa và Nhân cách J.Honig man cho rằng "vấn đề cá nhân nắm được những khuôn mẫu văn hóa của hành vi là quá trình mô hình hóa, hình thành các khuôn mẫu hành vi trong tiến trình gia nhập văn hóa, phù hợp với định hướng giá trị của mỗi nền văn hóa". Nhân cách, theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh bao gồm: đức và tài, lấy đức làm gốc. Như vậy khi nói đến khái niệm nhân cách (phiên dịch từ các thuật ngữ: personality (Anh), personnalité (Pháp)), trước hết có sự phân biệt khác nhau về nội dung giữa các thuật ngữ có liên quan, mà các nhà tâm lý học hay dùng, như: cá nhân, chủ thể, cá tính, nhân cách, tính cách, v.v... "Cá nhân" (hay cá thể người) - bất kỳ người nào, từ đứa trẻ mới sinh cho tới người trưởng thành, dù khỏe mạnh hay tật bệnh, dù có các phẩm chất và đặc điểm thế nào, thì đều được coi là một "cá nhân" (cá thể người). Khi cá nhân thực hiện một hoạt động nhất định, có mục đích, có ý nghĩa nhằm nhận thức hay cải biến hiện thực khách quan - thì nó được coi là "chủ thể". Mỗi cá nhân có những đặc điểm thể tạng và tâm lý độc đáo, không lặp lại ở người khác - đó là "cá tính". Cá tính của mỗi người thường được hình thành trên cơ sở các tố chất di chuyền chịu ảnh hưởng của điều kiện giáo dục nào đó, do hoàn cảnh sống và hoạt động cá nhân. Còn khi xem xét con người với tư cách là thành viên của một xã hội nhất định, là chủ thể của các quan hệ xã hội, của các hoạt động có ý thức - đó là nói tới: "nhân cách" của người đó. VD: Nhân cách người cha, nhân cách người lãnh đạo, nhân cách người thầy, nhân cách quân nhân, nhân cách người học sinh, sinh viên v.v... (một đứa trẻ mới sinh chỉ là một cá nhân, cá thể người - khi đạt tới một độ tuổi nào đó và có được một trình độ xã hội hóa nhất định, nó mới trở thành nhân cách. Quá trình hình thành nhân cách thường bắt đầu từ lúc 2 - 3 tuổi - kéo dài tới khoảng 17 - 18 tuổi). ở đây nhân cách được xem là một cá nhân (cá thể con người) chủ động và có ý thức tham gia vào các quan hệ xã hội và tác động tích cực tới các quan hệ đó. Đồng thời nhân cách được thể hiện (một biểu tượng cá nhân con người) trong hoạt động sống của nhiều người khác. Giữa con người - nhân cách cho thấy: "con người" (homme) và "nhân cách" (personnalite) đều có chung bản chất là sinh vật - xã hội. Nhưng nó có sự phân biệt rạch ròi: - "Con người" là một khái niệm sinh vật - xã hội, còn "nhân cách" có ý nói về phương diện xã hội của con người. - "Con người" là người mang vác vật chất của nhân cách, còn "nhân cách" chỉ diễn tả mặt phẩm chất của con người. Trên đây đã giới thiệu những định nghĩa phổ biến về nhân cách và trình bày phân tích khái niệm nhân cách. Cần tìm hiểu thêm về cấu trúc tâm lý của nhân cách, có ý nghĩa là, nghiên cứu xem nhân cách gồm những yếu tố nào cấu thành. Về điều này, cũng có nhiều cách phân tích khác nhau. - Có quan niệm cho rằng, cấu trúc của nhân cách chủ yếu gồm ba lĩnh vực hợp thành; cảm xúc (rung cảm); ý chí, kỹ năng, kỹ xảo, thói quen. - Lại cũng có quan niệm cho rằng, cấu trúc nhân cách là gồm ba yếu tố chủ đạo hợp thành: Trí tuệ (nhận thức); tình cảm (xúc cảm, rung cảm); thể chất. - Trong quan niệm thông thường ở nước ta, "nhân cách" con người gồm có: "đức và tài" hoặc phải "vừa Hồng vừa Chuyên", và thêm nữa là phải có "sức khỏe". - Theo sách giáo khoa của Liên Xô và các tài liệu phổ biến hiện nay ở nước ta, thì cấu trúc nhân cách chủ yếu gồm có 4 thuộc tính tâm lý cá nhân điển hình là: xu hướng; năng lực; tính cách (thái độ); tính khí. Cụ thể: + Xu hướng của cá nhân Đây là một đặc điểm tâm lý quan trọng nhất của cá nhân. Nó xác định mục tiêu ý muốn, động cơ, lợi ích,... mà con người ấy đặt ra và cần tuân theo; nó biểu lộ những thái độ nhất định với thế giới xung quanh; v.v... Nhìn chung, xu hướng của con người thường được xuất hiện trên các phương diện cụ thể như: nhu cầu, hứng thú, sở thích, lý tưởng, thế giới quan, v.v... + Tính khí của con người Đây là những thuộc tính tâm lý thể hiện trong sắc thái hành vi, cử chỉ của con người. Tính khí thường là sự biểu thị ra bề ngoài của hành vi. Trong đời sống con người, thường phân loại ra mấy kiểu tính khí chủ yếu, như: tính nóng nảy, tính lạnh (bình thản), tính hoạt (linh hoạt), tính ưu tư;... + Tính cách của con người Tính cách là tổng thể những đặc tính tâm lý vững bền, thuộc bản chất của con người với tư cách một thành viên của xã hội, thể hiện thái độ đối với thực tế và in dấu vào tư cách, hành động của người đó. (Tính cách được gọi là một phẩm chất rất quan trọng, một phẩm chất chủ đạo, bản chất của "nhân cách". Đã có nhà khoa học đem đồng nhất "nhân cách" với "tính cách" rằng: nhân cách, ấy là tính cách cá nhân). Tóm lại, có thể hiểu: "Nhân cách là một con người khi đã phát triển ổn định bền vững toàn diện các tố chất người theo những chuẩn mực xã hội của một cộng đồng (dân tộc - quốc gia) để trở thành là con người mẫu mực của xã hội. Nhân cách văn hóa được quan niệm như một quá trình diễn ra từ việc hình thành nhân cách đến việc hoàn thiện nhân cách ngày một toàn diện và cao hơn. Đó là một quá trình nhằm phát triển hết các tố chất của cá nhân về mọi mặt để mỗi cá nhân có đủ điều kiện đảm nhận những hoạt động lao động, học tập, hoạt động xã hội đang đòi hỏi. Với ý nghĩa này, có thể quan niệm, "nhân cách văn hóa" cũng có nghĩa là "phát triển toàn diện con người". Tuy nhiên, nhân cách văn hóa được quyết định bởi những điều kiện chủ quan tích cực, thông qua nhiều con đường và biện pháp hữu hiệu. Điều kiện đầu tiên và cũng quan trọng nhất là bằng con đường giáo dục, hiểu theo nghĩa rộng và đầy đủ của nó, bao gồm cả những biện pháp trong hệ thống giáo dục nhà trường, giáo dục ngoài nhà trường (giáo dục văn hóa), giáo dục tập thể, cộng đồng, giáo dục gia đình, theo hướng giáo dục tích cực, toàn diện. Thứ nữa, sự phát triển nhân cách còn đòi hỏi thực hiện bằng con đường là con người phải tích cực chủ động tham gia vào đời sống lao động để rèn luyện, thử thách, nâng mình lên. Và một điều kiện khác nữa không kém phần quan trọng, là để hình thành nhân cách văn hóa, con người phải tích cực chủ động tham gia vào các hoạt động văn hóa - xã hội, thông qua các phương tiện sách, báo, thông tin đại chúng, di tích, danh thắng, v.v... những hoạt động nhóm, tập thể, tổ, đội, v.v... ở đây, có những câu nói dân gian chứa đầy ý nghĩa: "đi một ngày đàng học một sàng khôn", "học thầy không tầy học bạn", v.v... Khi nói đến giáo dục phát triển nhân cách toàn diện, ở Trung Quốc có nêu lên một khái niệm gọi là "Giáo dục tố chất". ở đây, "giáo dục tố chất" cũng mang ý nghĩa là giáo dục để phát triển con người cả về thể chất và tâm hồn. Có thể nói, giáo dục tố chất và giáo dục toàn diện, không khác nhau về nội hàm. Theo quan điểm giáo dục học mác- xít, sự phát triển toàn diện mỗi cá nhân là điều kiện góp phần khai thác toàn diện nguồn lực người của xã hội và ngược lại. Giáo dục tố chất cũng như quan niệm giáo dục con người phát triển toàn diện là một quá trình cá thể hóa yêu cầu của xã hội và xã hội hóa mỗi cá thể để mỗi con người thực sự là một chủ thể của sự phát triển cá nhân. Nhân cách văn hóa là một khái niệm mới và rất khó, cho nên ở đây chúng tôi muốn dựa theo quan niệm của GS.TSKH Tâm lý học Phạm Minh Hạc để trình bày rõ hơn về các khái niệm này [21]. Theo ông, để hiểu nhân cách văn hóa là gì, trước hết cần phân biệt mấy khái niệm như: con người, cá thể, cá nhân, nhân cách. Đây là những khái niệm mà trong đời sống thông thường người ta hay dùng lẫn lộn. Trong khoa học, người ta xem con người là tác phẩm kỳ diệu của thiên nhiên, là một vũ trụ nhỏ theo quan niệm "nhân thân - tiểu vũ trụ". Con người là kẻ sáng tạo ra lịch sử, văn hóa, đồng thời là sản phẩm của lịch sử văn hóa, văn minh nhân loại. Khi là đại diện cho loài, con người được gọi là cá thể (cá thể/loài). Khi là thành viên của một xã hội, nó được gọi là cá nhân (cá nhân/xã hội). Khi là chủ thể của hoạt động sáng tạo, con người được gọi là nhân cách (nhân cách/chủ thể của hoạt động). Khi con người hoạt động, nó phải vận dụng tâm lý của bản thân, (nhận thức, tình cảm, ghi nhớ và chú ý, tính khí và tâm trạng, lời nói và việc làm...). Chừng nào những hiện tượng tâm lý ấy có thái độ riêng, và các thái độ riêng này bền vững, ổn định như các thuộc tính của chủ thể, khi đó các thái độ ấy trở thành diện mạo tâm lý của con người này. Như vậy, nhân cách là tổ hợp các thái độ - thuộc tính riêng trong quan hệ với hành vi ứng xử (nói năng, đi đứng, cư xử...), hành động, hoạt động với thiên nhiên với đồ vật, người khác, cộng đồng, xã hội và bản thân. Đó chính là hệ thống thái độ làm nên diện mạo tâm lý, tức nhân cách của con người. Và, khi nào hệ thống thái độ ấy phản ánh và chứa đựng các giá trị văn hóa của các cộng đồng (mà cá nhân ấy sở thuộc vào), chủ yếu là cộng đồng dân tộc - quốc gia, khi ấy ta có nhân cách văn hóa. Từ góc độ văn hóa, nhân cách văn hóa có thể hình dung như là diện mạo tâm lý người lao động sáng tạo, người đại biểu mang vác hệ giá trị và chuẩn mực xã hội của một cộng đồng xã hội nhất định (ở đây là cộng đồng dân tộc - quốc gia). Đặc điểm ưu trội của nhân cách văn hóa có thể biểu hiện ở năng lực sáng tạo của nó. Lao động sáng tạo trong văn hóa như là hình thức tự khẳng định, tự bộc lộ và phát huy "các lực lượng bản chất người" (K.Marx) của nhân cách văn hóa. Vấn đề xây dựng văn hóa suy cho cùng, là vấn đề con người văn hóa, nhân cách văn hóa. Hồ Chí Minh là Một nhà văn hóa - một nhân cách văn hóa tiêu biểu của dân tộc Việt Nam. ở con người Bác, nhân cách văn hóa được thể hiện trước hết là các giá trị văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc, và điều quan trọng, nó luôn tỏa sáng, ảnh hưởng tới trong cuộc sống mọi con người Việt Nam nói riêng và làm rung động không ít tâm hồn con người các dân tộc trên thế giới. Để phát triển toàn diện con người, hình thành nhân cách văn hóa ở con người, đặc biệt ở lứa tuổi VTN, vai trò của Văn hóa và Giáo dục là cực kỳ to lớn và có ý nghĩa then chốt trong thời kỳ phát triển CNH, HĐH của đất nước. Đưa các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc - hiện đại vào giáo dục gia đình, nhà trường nhằm phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và văn hóa văn minh nhân loại, hình thành nhân cách văn hóa cho thế hệ trẻ là đã đưa Nghị quyết Trung ương V (khóa VIII) của Đảng vào cuộc sống. 1.1.3 Khái niệm giáo dục V.I. Lênin coi giáo dục là phạm trù tất yếu và vĩnh hằng liên quan chặt chẽ với sự phát triển xã hội loài người. Điều đó có nghĩa là giáo dục xuất hiện khi bắt đầu có xã hội, đồng thời giáo dục cũng được quy định bởi nhu cầu xã hội. Giáo dục gắn liền với sự phát triển xã hội, do đó nó mang tính lịch sử - cụ thể và tính kế thừa - phát triển. Giáo dục, theo nghĩa rộng nhất là sự tác động của xã hội toàn bộ đến con người. Giáo dục được bao gồm giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình, giáo dục xã hội và tự giáo dục. Giáo dục là quá trình chuẩn bị cho thế hệ trẻ bước vào cuộc sống xã hội. Trong quá trình này thế hệ trẻ phải tiếp nhận những gì mà xã hội tích lũy được (tri thức, kỹ năng sống, kỹ năng lao động, những chuẩn mực hành vi trong gia đình xã hội và thiên nhiên...). Thế hệ trẻ phải có những phẩm chất cần thiết để giải quyết những nhiệm vụ mới của thời đại mình đặt ra. Như vậy, có thể nói rằng, giáo dục là quá trình các thế hệ đi trước truyền đạt cho thế hệ mới những kinh nghiệm lịch sử - xã hội nhằm chuẩn bị cho thế hệ mới cuộc sống lao động và kỹ năng sống đảm bảo cho xã hội tiếp tục phát triển. Nói về vai trò quan trọng của giáo dục, trong tuyên bố của AIA (Năm quốc tế chống mù chữ) có nêu "Giáo dục là quan trọng, nó là một sinh lực tác động lên mọi mặt của đời sống. Giáo dục là điều kiện hết sức thiết yếu, thậm chí chính là động lực của tiến bộ... Giáo dục, tóm lại, vừa là thước đo, biện pháp và ý nghĩa của sự phát triển". ở nước ta, vai trò của giáo dục được tinh thần Đại hội IX của Đảng đề cập nhằm "phát huy nguồn lực con người" - một yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Phát triển "nguồn lực con người" (hoặc nguồn nhân lực, hoặc nguồn tài nguyên con người (Human Resourees Development - HRD), về cơ bản, cần được hiểu là sự gia tăng giá trị cho con người về mọi mặt: đạo đức, trí tuệ, thể chất, kỹ năng, tâm hồn... để hình thành nhân cách văn hóa. Đó chính là những năng lực, phẩm chất mới của con người mà giáo dục phải đảm nhận nhằm đáp ứng những yêu cầu to lớn của đất nước và thời đại. Thời đại ngày nay, trên toàn cầu, cũng như ở nước ta, không ai không thấy rõ vai trò hết sức quan trọng của giáo dục. Theo GS.TS Phạm Minh Hạc trong báo cáo tổng kết sau ba năm làm việc của ủy ban chuẩn bị giáo dục đi vào thế kỷ XXI của tổ chức giáo dục, khoa học, văn hóa của liên hiệp quốc (UNESCO) nêu ra 4 mục tiêu (nguyên lý) của nền giáo dục tương lai của nhân loại là: 1) Học để biết; 2) Học để làm; 3) Học để chung sống; 4) Học để làm người, để tự khẳng định mình [21, tr. 52]. Dưới góc độ văn hóa, giáo dục chính là nơi gìn giữ, truyền thụ và phát huy hệ thống giá trị truyền thống dân tộc và nhân loại. Giáo dục đào tạo ra các thế hệ tiếp nối và sáng tạo các giá trị. Hơn nữa, giáo dục ngày nay đang phát triển theo xu hướng Học đi đôi với Hành. Trên cơ sở tri thức tiếp nhận được (ở trường lớp, tự học) con người phải hình thành được các kỹ năng, kỹ xảo tương ứng, để có một khả năng thực hành trong cuộc sống, sáng tạo ra các giá trị trong cuộc sống. Hay nói khác đi, chức năng của nhà trường ngày nay không thể chỉ dừng lại ở việc chuyển giao tri thức cho thế hệ trẻ mà mục tiêu đặt ra là con người biết làm cho tri thức mang lại hiệu quả xã hội. Vì vậy, nếu trước đây kết luận của khoa học giáo dục về bản tính người là sản phẩm của quá trình hoạt động liên tục nhằm có được tri thức, kỹ năng và thái độ thì lý luận giáo dục ngày nay xếp giáo dục thái độ lên hàng đầu, rồi mới đến tri thức và kỹ năng. Có nghĩa là con người ngày nay cần có những năng lực, trí lực lựa chọn những giá trị đồng thời cũng sáng tạo ra những giá trị mới thông qua những phương thức giáo dục mang tính lý luận thay vì những phương thức giáo dục truyền thống mang tính trao truyền bằng kinh nghiệm. Bởi xã hội khoa học công nghệ và thông tin phát triển mạnh mẽ chưa từng thấy như ngày nay thì việc giáo dục bằng trao truyền kinh nghiệm là khó đáp ứng yêu cầu thời đại. Như vậy, lý luận giáo dục ngày nay đưa nhân cách văn hóa lên nhiệm vụ hàng đầu, biến học vấn thành văn hóa. ở cấp ấu thơ và cấp "cơ sở" giai đoạn khởi đầu hình thành nhân cách con người lấy phương thức giáo dục "Tiên học lễ - Hậu học văn". ở cấp phổ thông trung học, giai đoạn hình thành và phát triển nhân cách lấy phương thức giáo dục liên thông kết hợp giáo dục học vấn với giáo dục hướng nghiệp, định nghiệp, lập nghiệp. Đó là "phương thức giáo dục trực tiếp phục vụ phát triển bền vững, phát triển nguồn lực người, qua đó trực tiếp phục vụ phát triển xã hội - kinh tế. Hoạt động học tập gắn liền với hoạt động lao động, sáng tạo ra mọi giá trị cuộc sống" [21, tr. 52]. 1.1.4. Khái niệm giá trị Trước khi đi vào khái niệm giá trị, chúng tôi xin lưu ý tới các định nghĩa văn hóa đã được nêu ở trên đều nhắc đến một khái niệm cốt lõi là giá trị, hệ giá trị. Điều đó chứng tỏ rằng, nói văn hóa là đề cập đến giá trị, chí ít cũng từ góc nhìn xã hội học mà đề tài tiếp cận. Hệ giá trị chính là nội dung, là yếu tố thực thể của văn hóa. Nhưng giá trị là gì? nội hàm của giá trị là thế nào? Cho đến nay, đã có không ít những định nghĩa, những quan niệm khác nhau về giá trị được xuất phát từ những góc độ tiếp cận khác nhau: toán học, kinh tế học, ngôn ngữ học... ở góc độ văn hóa học, đối tượng nghiên cứu là nội dung giáo dục giá trị truyền thống văn hóa thì giá trị phải là những giá trị xã hội. Giá trị xã hội là những cái có ý nghĩa tích cực, tiến bộ, hữu ích được đa số người trong xã hội mong ước và cùng chia sẻ. Hay nói khác là, giá trị mà cộng đồng xã hội chấp nhận là dựa trên sự đánh giá của đa số các thành viên trong cộng đồng ấy về những cái mà họ khát khao như cái đẹp, cái tốt, cái đúng, cái có ích, ngược lại, những cái họ không mong muốn như cái xấu, cái tồi tệ, cái có hại bị coi là những phản giá trị. Như vậy giá trị ở đây là sự biểu thị của tình cảm cộng đồng, sự đánh giá của cộng đồng, chứ không phải dựa vào sự đánh giá của cá nhân. Vì vậy, về nguyên tắc, giá trị là cái mang tính xã hội. Một yếu tố nữa của giá trị được thừa nhận khá phổ biến coi giá trị như những quan niệm về cái đang mong muốn có ảnh hưởng tới hành vi lựa chọn. Vì vậy, để tìm hiểu giá trị người ta thường gắn nó với nhu cầu. Chính nhu cầu tạo nên động cơ hành động và hành động được biểu thị như là sự lựa chọn giá trị ở mỗi con người. Đến đây có thể hiểu nội hàm của khái niệm giá trị "Bất cứ sự vật nào đó cũng có thể xem là có giá trị, dù nó là vật thể hay phi vật thể, miễn là nó được người ta thừa nhận, người ta cần đến nó như một nhu cầu trong đời sống của cộng đồng, của đời sống con người". Giá trị có tính lịch sử khách quan. Trong mọi giá trị đều chứa đựng yếu tố, nhận thức, tình cảm, sự lựa chọn và đánh giá của chủ thể. Giá trị phản ánh khách quan lợi ích xã hội của mỗi nhóm, cộng đồng hay giai cấp, vì thế nó gắn liền với ý thức xã hội. Trong mỗi chế độ, mỗi giai đoạn lịch sử xã hội có một hệ thống và thang giá trị khác nhau, nó được tạo bởi hoàn cảnh xã hội và những đặc điểm riêng của xã hội đó.. Giá trị xã hội có mối quan hệ mật thiết với chuẩn mực xã hội. Nếu giá trị là cái ngầm ẩn (các nhu cầu) thì chuẩn mực là cái hiện thực hóa giá trị trong hiện thực. Chuẩn mực xã hội (CMXH) là những yêu cầu mang tính tiêu chuẩn của xã hội đối với hành động của cá nhân, đòi hỏi mỗi cá nhân trong xã hội phải tuân theo. CMXH được thể hiện thành những quy tắc, tiêu chuẩn, phương hướng khuôn mẫu ứng xử của con người. CMXH là sự kết tinh cao của các khuôn mẫu mà con người phải theo. Hệ thống chuẩn mực xã hội là hệ quy chiếu để cho xã hội hoạt động và duy trì trạng thái ổn định của nó. Bởi thế CMXH thể hiện rõ tính quy định của khuôn mẫu của tính thể chế và pháp lý. Nó điều tiết hành động con người, xác lập những nguyên tắc hành động của con người trong từng lĩnh vực hoạt động khác nhau: chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực giáo dục, chuẩn mực pháp chế... Trong thang giá trị của CMXH lại chia cấp độ có cái chính, có cái phụ và cái phái sinh. Giá trị chính là giá trị chủ đạo chi phối toàn bộ hoạt động xã hội, đồng thời là giá trị định hướng, lý tưởng chung của toàn xã hội. Định hướng giá trị là một trong những biến đổi rõ của đặc trưng xu hướng nhân cách và có ý nghĩa hướng dẫn hoạt động của con người. Định hướng giá trị mang đậm tính lịch sử - xã hội của cả cộng đồng, nét riêng của mỗi dân tộc và những nét đặc thù của các nhóm xã hội, các nhóm tuổi, giới, nghề nghiệp, tôn giáo, địa phương khác nhau. Bất cứ một xã hội nào, một thời kỳ lịch sử nào cũng có những chuẩn giá trị xã hội và định hướng xã hội nhằm duy trì sự ổn định xã hội và cũng để quản lý xã hội. 1.1.5. Khái niệm truyền thống văn hóa và giá trị truyền thống văn hóa - Khái niệm truyền thống Truyền thống vốn là một từ Hán - Việt. Trong cuốn Từ điển Hán - Việt của Đào Duy Anh "Truyền thống: đời nọ truyền xuống đời kia". Trong từ điển tiếng Việt phổ thông truyền thống được định nghĩa là "thói quen hình thành từ lâu đời trong lối sống và nếp nghĩ, được truyền lại từ thế hệ này qua thế hệ khác". Theo quan niệm của các nước phương Tây, Truyền thống (tradition) có nghĩa là "giao", "chuyển giao". Bách khoa thư Pháp định nghĩa "Truyền thống là tất cả những gì người ta biết và thực hành bằng sự chuyển giao từ thế hệ này đến thế hệ khác, thường là truyền miệng, hay bằng sự bảo tồn và noi theo những tập quán, những cách ứng xử, những mẫu hình và tấm gương". Như vậy, có thể hiểu "truyền thống" như là một hệ thống các tính cách, các thế ứng xử của một cộng đồng, được hình thành trong lịch sử, trong môi trường sinh thái và nhân văn nhất định, trở nên ổn định, trường tồn nhưng không vĩnh cửu, có thể được định chế hóa bằng luật hay bằng lệ (phong tục tập quán) và được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Có thể gọi là sự di truyền văn hóa bên cạnh sự di truyền sinh vật về thể xác - để đảm bảo tính thống nhất của một cộng đồng trong lịch sử. Mọi sự phát triển đều xuất phát từ truyền thống, con người từ khi sinh ra trong một gia đình, một xã hội đã bị chi phối bởi truyền thống và các hiện tượng văn hóa cũng vậy. Tuy nhiên mọi vấn đề đều có tính hai mặt, truyền thống cũng vậy Truyền thống nào cũng có truyền thống phù hợp và truyền thống không phù hợp. Truyền thống có thể thúc đẩy sự phát triển nhưng mặt khác nó cũng có thể cản trở sự phát triển. Truyền thống mang tính cộng đồng. Truyền thống được chuyên chở, lưu giữ trong ký ức và từ đó điều khiển hành động của cá nhân. Nhiều khi nó trở thành vô thức, con người cứ hành động theo các quy định. Truyền thống có thể thay đổi, nhưng trong sự ổn định. - Khái niệm giá trị truyền thống văn hóa Giá trị truyền thống là sự tuyển chọn những truyền thống tốt đẹp mang ý nghĩa tích cực và tiêu biểu cho bản sắc văn hóa dân tộc. Trong các giá trị truyền thống có cái biến đổi nhanh, có cái bị đứt gẫy, và cũng có cái bền vững trường tồn. VD: Trong hệ thống giá trị văn hóa Việt Nam, tinh thần yêu nước là một giá trị truyền thống bền vững và trường tồn, tuy nhiên nội dung của nó cũng có quá trình hình thành, phát triển và biến đổi, nâng cao qua các quá trình lịch sử. Việt Nam là một nước giàu truyền thống văn hóa với 54 tộc người cùng chung sống. Tính đa dạng về văn hóa tộc người thể hiện trên bình diện văn hóa các nhóm ngôn ngữ - tộc người, và văn hóa các nhóm địa phương của mỗi tộc người. Như Việt - Mường, Tày - Thái, Môn - Khơme, Nam Đảo, Mông - Dao, Tạng - Miến, Hoa... Mỗi tộc người lại gồm nhiều nhóm địa phương với sắc thái văn hóa phong phú. Cái sắc thái văn hóa tộc người ấy đan kết, thâm nhập, tiếp biến giữa nhân tố bản địa và ngoại lai, tạo nên bức tranh đa sắc của văn hóa Việt Nam. Truyền thống văn hóa và nội dung của truyền thống văn hóa rất đa dạng và phong phú. Trong phạm vi nghiên cứu vấn đề đưa giáo dục giá trị văn hóa truyền thống ở tuổi VTN trong nhà trường phổ thông, chỉ tập trung vào những giá trị truyền thống văn hóa tinh thần tiêu biểu, cốt lõi của dân tộc Việt (kinh), phù hợp với lứa tuổi, cấp học của các em, đồng thời nhằm phát huy vai trò của truyền thống đối với xây dựng nhân cách văn hóa vị thành niên trong cuộc sống và yêu cầu phát triển của đất nước hiện nay. Trong xã hội hiện thời, khi quan niệm về giá trị truyền thống văn hóa người ta thường dùng cách phân chia văn hóa ra thành văn hóa truyền thống và văn hóa hiện đại. Song, theo chúng tôi nghĩ cách phân địch tách bạch truyền thống - hiện đại chỉ có thể có phần đúng đối với những loại giá trị văn hóa vật chất. Còn đối với những giá trị văn hóa tinh thần, ví dụ như: tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc, uống nước nhớ nguồn... khó có thể phân định tách bạch truyền thống với hiện đại. Không thể có tình yêu nước truyền thống khác biệt với tình yêu nước hiện đại, hay ý thức độc lập tự cường dân tộc truyền thống khác ý thức độc lập tự cường dân tộc thời hiện đại... mà những giá trị truyền thống văn hóa đó vẫn tồn tại được phát huy, phát triển lên một trình độ mới phù hợp với yêu cầu đổi mới và phát triển của thời đại. Bởi vì, cái được gọi là hiện đại hiện thời thực chất là những cái giá trị văn hóa cốt lõi được bảo tồn, lưu truyền từ trong truyền thống (quá khứ đã qua) được phát triển nâng lên ngang tầm với trình độ văn hóa thời nay (tạm gọi là hiện đại), trải qua dòng chảy của lịch sử lại được trở thành giá trị văn hóa truyền thống của quá khứ, để cho những thời sau, sau nữa kế tục, phát triển nâng lên, cứ thế... cứ thế mãi... Từ những lý giải trên, có thể đi đến một quan niệm về giá trị truyền thống văn hóa Việt Nam trên lĩnh vực văn hóa tinh thần là "biết cách định hướng, lựa chọn, kế thừa, thu nạp và phát triển các giá trị văn hóa, dù nội sinh hay ngoại sinh, của quá khứ hay hiện tại, để làm giàu và phát triển vốn di sản văn hóa tinh thần dân tộc và theo kịp thời đại tiến bộ". Vốn di sản văn hóa ấy là tài sản văn hóa chung thể hiện truyền thống văn hóa Việt Nam, đồng thời thể hiện sức mạnh của bản lĩnh, bản sắc văn hóa Việt Nam trong lịch sử văn hóa dân tộc. Nhờ có vốn di sản văn hóa dân tộc rất phong phú, đa dạng và đặc sắc mà giá trị truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam thật to lớn, bởi nó đã hình thành nên một bảng giá trị tinh thần khả dĩ làm "nền tảng sức mạnh tinh thần" và là động lực cho công cuộc xây dựng phát triển đất nước hiện thời. Như vậy, truyền thống văn hóa Việt Nam tự tồn với những giá trị bắt nguồn từ tinh thần nhân bản khoan dung Việt Nam, đó là dòng sữa nuôi dưỡng tinh thần Việt Nam, tôi luyện bản lĩnh, xây dựng nhân cách văn hóa con người Việt Nam qua các thế hệ cho tới hôm nay. 1.1.6. Khái niệm vị thành niên Trong cuộc đời một con người, có một giai đoạn được gọi là tuổi "Vị thành niên". Theo từ điển tiếng Việt thì "Vị thành niên là những người chưa đến tuổi trưởng thành để chịu trách nhiệm về những hành động của mình". Trong các văn bản pháp luật hiện hành ở nước ta (như Bộ luật dân sự, Bộ luật lao động...) có dùng thuật ngữ "người chưa thành niên" và có quy định cụ thể về độ tuổi và mức độ mà người chưa thành niên phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Về mặt thuật ngữ, tuy chưa hoàn toàn thống nhất, song có sự thừa nhận chung là: Vị thành niên là một giai đoạn trong quá trình phát triển của con người với đặc điểm lớn nhất là quá trình dạy thì - cơ thể tăng trưởng nhanh chóng để đạt tới sự trưởng thành, tâm lý có sự "bùng nổ sâu sắc. Có thể hiểu đây là giai đoạn "sau trẻ con và trước lớn". Theo tổ chức y tế thế giới, độ tuổi vị thành niên là từ 10 đến 19 tuổi. ở Việt Nam, vị thành niên là lứa tuổi từ 11 - 12 tuổi đến 17 - 18 tuổi, chiếm gần 1/4 dân số nước ta (khoảng 22,5%). Đây là lứa tuổi đang phát triển nhân cách, đặc biệt là quan điểm sống, thế giới quan chưa rõ ràng, sự phát triển về mặt xã hội cũng chưa được xác định. Hầu hết vị thành niên còn phải sống phụ thuộc vào cha mẹ, chưa có vị trí kinh tế độc lập, chưa có đầy đủ quyền và nghĩa vụ của người công dân về mặt pháp luật. 1.2. Nội dung giáo dục giá trị truyền thống văn hóa cho lứa tuổi vị thành niên trong nhà trường 1.2.1. Cơ sở xác định nội dung giáo dục giá trị truyền thống văn hóa a) Nội dung cốt lõi của một nền văn hóa, theo đó là một truyền thống văn hóa của một dân tộc, như mọi người đã biết, đó là hệ thống giá trị văn hóa của chính dân tộc đó. Truyền thống văn hóa không phải là bất biến. Nó được hình thành và phát triển trong quá trình vận động, qua nhiều thử thách và tuyển chọn, từ thế hệ này qua thế hệ khác. Dù xuất phát từ nguồn nội sinh hay nguồn ngoại sinh, dù do tự nguyện hay có thể là do cưỡng bức áp đặt, nhưng tất cả đều trải qua một quá trình thử thách, tuyển chọn, đánh giá tích cực của những con người đương thời, họ muốn chiếm dụng và truyền lưu; để rồi những con người hiện nay coi đấy là những di sản văn hóa của dân tộc mình, tiếp nối tuyển chọn, tôi luyện, chiếm dụng và muốn truyền lưu tới thế hệ kế tiếp. Do vậy, việc giáo dục giá trị truyền thống cho lứa tuổi vị thành niên là hết sức cần thiết, nhưng không phải giáo dục theo kiểu "về nguồn", trở lại hay "tìm về cội nguồn". Với các em vị thành niên lứa tuổi đang hình thành và phát triển nhân cách văn hóa, các em chưa phải "can lỗi" đánh mất truyền thống, dẫm đạp truyền thống, vọng ngoại hay bài ngoại văn hóa một cách mù quáng. Nếu có, chẳng qua đó chỉ là do học đòi theo những người lớn không gương mẫu, không hiểu hay không thấm nhuần giá trị truyền thống văn hóa Việt Nam. Lỗi ở người lớn chúng ta chưa chú trọng giáo dục đến nơi đến chốn những giá trị truyền thống văn hóa quý báu của dân tộc cho thế hệ trẻ các em. Giải trình như vậy, để có ý nói rằng, mục đích giáo dục giá trị truyền thống văn hóa Việt Nam cho các em vị thành niên ở nhà trường là rất khác với giáo dục cho người lớn, nhất là những người lớn không đàng hoàng thiếu gương mẫu. Các em không phải là đối tượng phải "giáo dục lại". Cần phải giáo dục mới cho các em thấu hiểu sâu và đúng đắn những mặt tích cực của giá trị truyền thống văn hóa. Cũng phải phân tích cho các em thấy được những mặt hạn chế, không phù hợp điều kiện xã hội mới ở nước ta hiện nay. Đồng thời còn phải giáo dục cho các em cả về phương pháp lựa chọn, định hướng giá trị truyền thống văn hóa Việt Nam phù hợp, tiếp nối trong điều kiện xã hội nước ta công nghiệp hóa, hiện đại hóa bước vào thế kỷ XXI. Giáo dục giá trị truyền thống văn hóa cho các em không phải nhằm mục đích "sưu tầm đồ cổ", cũng không phải để các em "về nguồn" hay "đi tìm cội nguồn", mà chủ yếu phải là để cho thế hệ tiếp sau người lớn hôm nay tránh khỏi "đứt đoạn truyền thống văn hóa" và cũng tránh khỏi cả việc bảo thủ cố chấp những giá trị văn hóa truyền thống không còn hợp thời. Để cho giá trị truyền thống văn hóa Việt Nam bị "đứt gánh giữa đường" là có tội lớn với đất nước. Còn việc bảo thủ cố chấp, làm cản trở bước phát triển của truyền thống văn hóa tốt đẹp, cũng là có tội với đất nước. Do vậy, ở đây phương pháp định hướng - giá trị cho các em là vô cùng quan trọng. b) Những giá trị truyền thống đang hiện diện trong cuộc sống hôm nay thông qua nhiều hệ thống di sản văn hóa dân tộc: hệ thống các tác phẩm văn học, nghệ thuật, lịch sử, khoa học xã hội, nhân văn,...; hệ thống các nhân cách văn hóa lớn; hệ thống các khuôn mẫu văn hóa đậm thuần phong mĩ tục dân tộc; hệ thống những di tích lịch sử - văn hóa; hệ thống những di sản văn hóa dân gian; v.v... Đây là những đối tượng sử dụng tốt nhất trong việc giáo dục giá trị truyền thống văn hóa cho mọi người nói chung và cho lứa tuổi vị thành niên ở học đường nói riêng. Mỗi loại di sản có những tính năng, tác dụng riêng, cần nghiên cứu kỹ lưỡng để đưa ra những biện pháp sử dụng phù hợp và hữu hiệu với từng đối tượng giáo dục. Hệ thống tác phẩm văn hóa rất phong phú, đa dạng. Nó có khả năng cung cấp tri thức và tác động cảm xúc tích cực về giá trị truyền thống văn hóa bằng con đường học, đọc, nghe, xem, chơi. Các tác phẩm văn hóa đã có sự lựa chọn, định hướng giá trị đạt trình độ cao, có tầm khái quát và tầm chuẩn mực cao. Nó là một loại đối tượng sử dụng giáo dục tối ưu cho mọi đối tượng công chúng đủ điều kiện thực hiện việc học, đọc, nghe, xem, chơi với nó. Hệ thống những di tích lịch sử - văn hóa cũng rất nhiều, có ở khắp mọi nơi trên đất nước ta. Nó có khả năng giáo dục tri thức và cảm xúc tích cực về truyền thống văn hóa dân tộc bằng con đường gián tiếp (qua nghe đài, nghe kể, xem sách, báo, tranh ảnh), nhưng mạnh nhất, tối ưu là bằng con đường tham quan khảo sát trực tiếp. Tầm tuyển lựa, định hướng giá trị cũng như tầm khái quát, tầm chuẩn mực giá trị của những di tích lịch sử - văn hóa cũng đã đạt đến trình độ cao trong lịch sử đương thời. Nó là một đối tượng sử dụng giáo dục tối ưu cho mọi đối tượng công chúng nào có đủ điều kiện thực hiện việc tham quan khảo sát trực tiếp với các bảo tàng trong nhà, bảo tàng ngoài trời, các di tích lịch sử - văn hóa, nhà truyền thống, nhà lưu niệm... Cũng là những di sản văn hóa vô cùng quý giá của dân tộc, các nhân cách văn hóa lớn ở nước ta, kể cả ở thời quá khứ và những nhân chứng lịch sử thời đại Hồ Chí Minh, là một kho tàng quý báu những giá trị truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam. Những nhân cách văn hóa lớn chính là nơi đã có tầm tuyển lựa, khái quát, chuẩn mực và định hướng giá trị rất cao, cả cho hiện nay và lâu dài mai sau. Đây cũng là một đối tượng sử dụng tốt cho những đối tượng giáo dục nào có điều kiện thực hiện bằng con đường gián tiếp (đọc tiểu sử, lịch sử, hồi ký, nghe kể chuyện, xem phim tài liệu Việt Nam - đất nước - con người, v.v...) và con đường trực tiếp gặp gỡ danh nhân. Hệ thống những di sản văn hóa dân gian và những khuôn mẫu văn hóa lại còn phong phú, đa dạng hơn nữa. Nó đang hiện diện, hiện hành trong thực tế cuộc sống, trực tiếp ngay trên từng cộng đồng dân cư. Tầm chuẩn mực, khái quát và định hướng - giá trị của những loại di sản văn hóa này có thể chưa đạt tới trình độ cao như những loại di sản kể trên, nhưng nó lại rất đậm tính nhân văn, dân tộc, đại chúng. Đây là những đối tượng sử dụng rất đáng được quan tâm khai thác để giáo dục phổ cập truyền thống văn hóa cho mọi tầng lớp nhân dân quần chúng. Hai loại - Di sản văn hóa dân gian và khuôn mẫu văn hóa - có những đặc trưng riêng khác nhau về tính năng, tác dụng giáo dục giá trị truyền thống văn hóa. Văn hóa, nghệ thuật dân gian có khả năng giáo dục truyền thống văn hóa qua con đường nghe, xem, chơi và bằng những biện pháp giáo dục thẩm mĩ. Còn những khuôn mẫu văn hóa thì có khả năng giáo dục truyền thống văn hóa qua con đường thực thao hành vi ứng xử và bằng những biện pháp xây dựng thành nếp sống văn hóa. c) Để giáo dục giá trị truyền thống văn hóa cho lớp người vị thành niên ở học đường, cụ thể là những học sinh trường phổ thông cấp II, cấp III của nước ta, chúng ta có thể khai thác sử dụng tất cả các loại di sản văn hóa kể trên. Tuy nhiên, phải tùy theo đặc điểm của lứa tuổi và điều kiện học tập ở trường, tùy đặc điểm từng trường của từng địa phương lứa tuổi học sinh này ở nước ta hiện nay, chúng ta cần nghiên cứu sử dụng những biện pháp giáo dục giá trị truyền thống văn hóa dân tộc cho các em thế nào cho phù hợp và có hiệu quả thiết thực. Thực tình ai cũng vậy, lĩnh vực nào cũng quan trọng. Ngoại trừ những môn khoa học cơ bản đương nhiên phải học, như Toán, Lý, Hóa, Sinh, Văn, Sử, Địa, Ngôn ngữ, Tâm lý, Ngoại ngữ, Chính trị, v.v... thì các lĩnh vực khác về văn hóa, xã hội, nghệ thuật, thể thao, pháp luật, v.v... ai cũng muốn lĩnh vực của mình được xây dựng thành một môn học chính khóa đàng hoàng gồm hàng chục bài với hàng chục tiết học, có cả chính khóa và phụ khóa, có cả lý thuyết và thực hành, bài tập, để rèn luyện giáo dục cho các em thấm nhuần sâu sắc vững vàng trước khi vào đời. Bởi các em đang tuổi cần được giáo dục toàn diện để hình thành nhân cách phát triển toàn diện, đủ tất cả các tố chất Đức, Trí, Thể, Mỹ, Năng lực, Kỹ năng sống v.v... Lĩnh vực văn hóa càng quan trọng không kém, nhất lại phải nhấn mạnh vào truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam. Bởi, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; văn hóa vừa là động lực vừa là mục tiêu của phát triển xã hội; chúng ta chiến thắng bao kẻ thù mạnh gấp bội là nhờ có truyền thống văn hóa Việt Nam; chúng ta cũng cần phát huy truyền thống văn hóa Việt Nam vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, v.v... Theo đó, lĩnh vực văn hóa rất đáng mong muốn được xây dựng thành một môn học "Giáo dục truyền thống văn hóa Việt Nam", đồng hành với các môn "Giáo dục công dân", "Giáo dục đạo đức", "Giáo dục pháp luật", "Giáo dục thể chất", v.v... để dạy cho các em học sinh cấp II, cấp III. Nước ta có đủ khả năng để xây dựng một môn học đặc trưng "Giáo dục truyền thống văn hóa Việt Nam" chính khóa, đàng hoàng, không kém gì các môn học về văn học Việt Nam, Lịch sử Việt Nam, v.v... Nước ta trong lúc đang bước vào thời kỳ CNH, HĐH, phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, v.v..., do vậy, cũng đang rất cần "giáo dục truyền thống văn hóa Việt Nam" cho các em vị thành niên, những người làm chủ tương lai ở thế kỷ XXI, đủ sức mạnh chống tình trạng "đứt đoạn truyền thống văn hóa Việt Nam" nếu xảy ra. Thực lòng mong muốn và thực tế cần thiết đáng là như vậy. Song, trong phạm vi của đề tài này, hơn nữa trong thực tế hoàn cảnh học tập của các em học sinh hiện nay, chưa cho phép đặt ra thêm một môn học chính khóa về "Giáo dục truyền thống văn hóa Việt Nam" với đầy đủ nội dung toàn diện đích thực của nó, để giảng dạy và để học tập cho các em học sinh cấp II, III. Chỉ hy vọng rằng, ước mơ xây dựng môn học "Giáo dục truyền thống văn hóa Việt Nam" sẽ được hiện thực hóa để giảng dạy và học tập, cả cho học sinh phổ thông và sinh viên đại học, trong những năm tương lai gần đây nhất. (Nếu được bàn luận thêm ngoài lề, xa hơn chút nữa, chúng tôi có cảm nhận là nên sắp xếp lại cho hợp lý, thiết thực, các môn học có nội dung về "văn hóa" hiện đang được giảng dạy và học tập ở một số trường đại học xã hội - nhân văn - văn hóa - nghệ thuật. Chúng ta đang có nhiều phần trùng lặp nhau, nội dung bàng bạc. Chúng ta đã có khá nhiều môn về văn hóa học, lý luận văn hóa, văn hóa phương Đông, cơ sở văn hóa Việt Nam, đường lối văn hóa, xã hội học - văn hóa, v.v... chiếm thời lượng dạy và học hơn hai trăm giờ, chưa kể giờ viết tiểu luận, trong lúc đó chưa có một giờ nào cho một môn nào về "Giáo dục truyền thống văn hóa Việt Nam" đích thực, để góp phần vào việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam). Trở lại với thực tại giáo dục cho các em học sinh cấp II, III. Hiện nay các em đang bị quá tải, học quá nhiều môn. Trên vai các em đang mang quá nhiều sách và vở đủ cho rất nhiều môn phải học. Về nhà, các em học "hết nổi", có nhiều môn phải chịu học qua loa, nhất là những môn được các em xếp vào hàng "không quan trọng", "không phải môn chính". Những môn nào nặng về "lý luận quá", trừu tượng quá, các em càng ít muốn học. ở trường, vì mới bổ sung thêm quá nhiều môn, nên thời khóa biểu hay bị kẹt, có lúc phải tăng giờ học, hoặc có môn bị xếp giờ xếp lịch ép, có nhiều môn mới quá chưa có hoặc chưa đủ thầy dạy, v.v... Trong hoàn cảnh như vậy, nếu bây giờ phải xếp thêm vào một môn lý luận "Giáo dục truyền thống văn hóa Việt Nam" nữa, sợ e không thể thực hiện nổi. Nó sẽ làm tăng thêm sức ép, chồng thêm lên mức quá tải cả cho các em và cả cho nhà trường. Muốn cố chen vào kỳ được cũng không còn chỗ để chen. Muốn đẩy môn khác ra để đưa môn này vào lại càng vô lý. Chi bằng hợp tình hợp lý nhất lúc này, nên đưa môn "Giáo dục truyền thống văn hóa Việt Nam" xếp vào Chương trình môn giáo dục ngoài giờ lên lớp. Cũng còn những lý do khác nữa, khái niệm "Văn hóa" cũng như "truyền thống văn hóa" đang là một khái niệm rất co giãn. Nó có thể được khái quát hóa lên ở tầm độ rất cao, với mức lý luận trừu tượng rất lớn, và cũng có thể được chi tiết hóa ở/vào những hiện tượng, hành vi rất nhỏ. Trong thực tế ngôn ngữ thông dụng ở nước ta hiện nay, khái niệm văn hóa có thể được xếp vào nhiều hạng sử dụng. Văn hóa được coi như một nền văn hóa - (Nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc...). Văn hóa cũng được gom lại thành một Ngành văn hóa - (khác với các ngành khác như Thông tin, Giáo dục, Khoa học, Thể thao, v.v...). Văn hóa lại còn được coi như một tính từ, làm định ngữ - (con người có văn hóa, nhân cách văn hóa, nếp sống văn hóa, gia đình văn hóa, làng, ấp, xóm văn hóa, khu phố văn hóa, chợ văn hóa, thuyền văn hóa, v.v... và v.v...). Văn hóa cũng hay được dùng để nói lên trình độ giỏi, điêu luyện, đặc sắc của một lĩnh vực nào đó - (văn hóa ẩm thực, văn hóa chơi, văn hóa rượu, văn hóa quản lý, văn hóa kinh doanh, v.v...). Giữa "văn hóa truyền thống" và "truyền thống văn hóa" cũng hay được hiểu rất co giãn, nội dung khái niệm còn nhiều điều nhập nhùng, bàng bạc, khó xử. Các cụm từ khác về văn hóa, như "Văn hóa thể thao", "Thể thao văn hóa"; "Văn hóa gia đình", "Gia đình văn hóa"; Văn hóa làng", "Làng văn hóa"; v.v... và v.v... cũng có tình trạng như vậy. Do đó, nếu chưa giải mã rành mạch được các khái niệm văn hóa này, thật khó lòng đưa vào cho các em học về văn hóa, về truyền thống văn hóa hay văn hóa truyền thống,... có thể làm cho các em thêm rối rắm, khó tiếp nhận đầy đủ, chính xác. Nhưng qua những điều giãi bày ở trên, cũng cho thấy một số điều thú vị, khả dĩ giúp xác định cụ thể nội dung giáo dục truyền thống văn hóa cho các em học sinh. Khi nói đến văn hóa hay truyền thống văn hóa, nên giải thích chia ra thành hai bình diện: Văn hóa ở bình diện lý thuyết và văn hóa ở bình diện thực hành. Cũng như lĩnh vực "đạo đức" - có đạo đức học ở bình diện lý thuyết và có hành vi đạo đức ở bình diện thực hành. Đối với lĩnh vực "Pháp luật" cũng vậy - có pháp luật học ở bình diện lý thuyết, và có văn bản pháp luật, hành vi pháp luật,... ở bình diện thực hành, v.v... Trở lại với văn hóa là truyền thống văn hóa. ở bình diện lý thuyết văn hóa học, có biết bao nhiêu nguyên lý, lý luận, định nghĩa, phương pháp luận tiếp cận với văn hóa và truyền thống văn hóa. ở bình diện này, lý luận đã nhiều, còn nhiều và vẫn còn nhiều điều tranh cãi. Còn ở bình diện thực hành, văn hóa và truyền thống văn hóa đang hiện diện ra trong xã hội với biết bao nhiêu hình thức, mô hình trong thực hành nghề văn hóa và hành vi văn hóa của một truyền thống văn hóa Việt Nam. Nó đang diễn ra có cả cái đúng và cái sai, có cả cái hay và cái dở, cái hợp thời và cái không hợp thời. Dĩ nhiên, ở đây, giữa bình diện lý thuyết và bình diện thực hành có sự tương liên, tương tác, chi phối lẫn nhau để cùng nhau phát triển. Lý luận là chất xám để cây đời phát triển và ngược lại, cây đời phát triển xanh tươi để cho chất xám gia tăng và hoàn chỉnh. Bình diện lý thuyết và bình diện thực hành tuy là xen cài nhau, nhưng vẫn cho thấy rõ diện mạo riêng của chúng. ở bình diện lý thuyết, người ta "nhìn thấy" văn hóa, truyền thống văn hóa như một "cấu trúc có bề sâu", là "cái còn đọng lại..." - (một diện mạo vô hình). Còn ở bình diện thực hành, người ta nhìn thấy thật diện mạo của văn hóa, truyền thống văn hóa là một hệ thống (hữu hình) những sản phẩm văn hóa, hoạt động văn hóa, khuôn mẫu văn hóa ứng xử, v.v... đang diễn ra trên bề mặt xã hội ấy. Diện mạo hữu hình của văn hóa đang diễn ra trên bề mặt ấy lại được hệ thống các quy tắc văn hóa (vô hình, ở chiều sâu) hướng dẫn và điều chỉnh. Khi nói đến nội dung của văn hóa, không mấy ai không nhắc đến hệ thống những tác phẩm văn hóa và những khuôn mẫu văn hóa ứng xử. Nhắc lại quan điểm của Max Weber, nhà xã hội học nổi tiếng của Đức: Văn hóa là tập hợp những khuôn mẫu hành vi, sự định hướng giá trị được con người tiếp thu từ sớm, quy định điều chỉnh sự giao tiếp giữa con người với nhau, tạo cho con người cảm giác an toàn trong thái độ và hoạt động của mình... Do vậy, thiết nghĩ rằng, nội dung giáo dục giá trị truyền thống văn hóa Việt Nam cho lứa tuổi vị thành niên, nên trực tiếp giáo dục ngay vào những giá trị khuôn mẫu văn hóa ứng xử đậm bản sắc truyền thống dân tộc Việt Nam. Nhất trí với quan điểm của một số nhà nghiên cứu về giáo dục, cho rằng: Các phương pháp, hình thức giáo dục, cả nội khóa và ngoại khóa, đều nhằm giúp học sinh tiếp thu một cách sinh động các chuẩn mực giá trị đạo đức, nhân văn, biểu hiện thông qua những hành vi, thái độ ứng xử trong cuộc sống và kể cả phương pháp lựa chọn để phấn đấu theo những định hướng giá trị mới phù hợp tiến bộ. Từ những điều giải trình ở trên, cho phép nêu lên một vài kết luận nhỏ: Giáo dục hệ giá trị truyền thống văn hóa Việt Nam cho các em học sinh cấp II, III các trường phổ thông hiện nay ở nước ta là rất cần thiết, không thể thiếu được. Nội dung giáo dục hệ giá trị truyền thống văn hóa cho các em chủ yếu là cần giáo dục thông qua hệ khuôn mẫu văn hóa đậm bản sắc truyền thống Việt Nam. Hình thức giáo dục, ở bình diện lý thuyết, nên đưa vào dạy ở chương trình nội khóa, nhưng cho lồng ghép thêm nội dung vào các môn giáo dục đạo đức, giáo dục công dân, giáo dục pháp luật, văn học Việt Nam, lịch sử Việt Nam,... Như vậy cũng hợp lý, bởi văn hóa và truyền thống văn hóa được coi như "một vũ trụ chất lỏng xuyên qua một vũ trụ chất rắn". Còn phần thực thao hệ khuôn mẫu văn hóa ứng xử thì cho đưa dạy ở chương trình giáo dục hoạt động ngoài giờ lên lớp với nhiều phương pháp khác nhau. 1.2.2. Nội dung giáo dục hệ giá trị truyền thống văn hóa thông qua hệ khuôn mẫu văn hóa ứng xử Hệ thống giá trị truyền thống Việt Nam rất phong phú, đầy sức sống, đã được lịch sử công nhận và thế giới ngày nay tôn trọng. Đã có rất nhiều nhà khoa học, công trình khoa học nghiên cứu tổng kết nêu lên từng loại cụ thể trong hệ thống giá trị đó. Đứng ở mỗi góc độ khác nhau, người ta đã phân loại hệ giá trị truyền thống Việt Nam theo nhiều cách khác nhau. Song nhìn chung có thể quy vào một số hệ giá trị cơ bản như sau: - Hệ giá trị về tình yêu nước, yêu quê hương. - Hệ giá trị đạo đức, nhân văn, tình nghĩa, nhân ái. - Hệ giá trị hiếu học, ham tu dưỡng, tôn sư trọng đạo. - Hệ giá trị về tình đoàn kết, bảo vệ cộng đồng. - Hệ giá trị về tinh thần lao động cần cù, tiết kiệm, giản dị. - Hệ giá trị về tinh thần khoan dung; đa dạng văn hóa. - Hệ giá trị văn hóa gia đình. - Hệ giá trị văn hóa cộng đồng, tinh thần đồng thuận dân chủ. - Hệ giá trị về tinh thần dũng cảm, sáng tạo, tự cường... - Hệ giá trị về sự hòa hợp thiên thời - địa lợi - nhân hòa. Tuy phân loại, phân biệt tách ra như vậy, nhưng không nên nhìn giá trị truyền thống theo từng loại giá trị riêng lẻ. Hệ thống giá trị đó tác động vào đời sống cá nhân và đời sống cộng đồng một cách toàn bộ, tổng hòa, tổng hợp, hình thành nên văn hóa cá nhân và văn hóa cộng đồng. Trong đó, các giá trị thường có sự tương liên, tương tác, liên hoàn, móc xích, hỗ trợ nhau cùng phát huy tác dụng. Thực là khó phân biệt tách bạch những giá trị như tình yêu quê hương, yêu nước, thương yêu đồng loại, thương người,... Hoặc như, đã yêu nước thì phải yêu lao động, cần cù, tự lực tự cường, sáng tạo để làm cho đất nước ngày càng thêm giàu mạnh, đẹp đẽ. Và muốn lao động với hiệu quả cao thì phải ham học hỏi để nắm văn hóa, kỹ thuật. Và muốn học hỏi cho có kết quả thì phải có đầu óc phóng khoáng, không hẹp hòi, sẵn sàng tiếp nhận cái mới, cái tiến bộ, không câu nệ là từ đâu đến. Hoặc như nói về tình người, nhân ái (thương người), nếu phát huy cao dần lên nó sẽ trở thành tình nhân loại, anh em bốn biển đều là người một nhà. Người Việt Nam ta giàu tính nhân bản, đồng thời cũng giàu lòng hiếu khách, bao dung. Toàn bộ những tổng hòa, tổng hợp giá trị ấy tích lũy vào trong cá nhân hình thành lên văn hóa cá nhân. Mà văn hóa cá nhân, như ý kiến của GS.TS tâm lý học Hồ Ngọc Đại, do tích lũy văn hóa được ít nhiều gì đó thì cũng chỉ để ứng xử trong đời; dù cao thấp lớn bé xấu tốt thế nào đó, nó cũng thể hiện trung thành ở cách ứng xử trong đời. Dù thế nào, mọi ứng xử cũng biểu hiện chất văn hóa của nó; chỉ qua một cử chỉ ứng xử ngẫu nhiên, người ta cũng có thể nhận ra văn hóa cá nhân của cá nhân ấy như thế nào. GS Phan Ngọc đã rất đúng khi cho "văn hóa chính là nhân cách". Từ đó có thể nói, để hình thành văn hóa cá nhân tiến bộ văn minh đậm đà bản sắc dân tộc thì phải chú ý giáo dục hướng dẫn ngay vào cho các em về những khuôn mẫu ứng xử đậm truyền thống dân tộc, nhưng theo xu hướng tiến bộ văn minh, hay nói ngược lại những khuôn mẫu ứng xử tiến bộ văn minh mà đậm đà truyền thống dân tộc. Để cho văn hóa cá nhân không hình thành tự phát, tùy tiện, lệch hướng, nhất là trong điều kiện phát triển công nghiệp, kinh tế thị trường, thì việc giáo dục ứng xử phải đi vào khuôn mẫu - khuôn mẫu văn hóa ứng xử. Giáo dục ứng xử, trước hết là giáo dục gia đình và sau thêm giáo dục nhà trường. Gia đình thường là giáo dục bằng kinh nghiệm, nhà trường chủ yếu là giáo dục bằng khoa học - công nghệ. Giáo dục nhà trường có giá trị rất cơ bản đến với văn hóa cá nhân. Bên cạnh đó, ngày nay Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh cũng có phần góp đáng kể vào việc giáo dục văn hóa cá nhân các em học sinh vị thành niên. Cơ chế và vai trò giáo dục ứng xử cho các em là gồm một "bộ ba" như vậy: Gia đình - Nhà trường - Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Tất cả ba nguồn ấy thực hiện giáo dục ứng xử theo hướng giáo dục mới, bổ sung nâng cao, chứ không phải giáo dục lại, cải tạo lại. Thuật ngữ ứng xử như một khái niệm mở. Có thể hiểu nó như một hành vi ứng xử, như một cách ứng xử, hoặc như một văn hóa ứng xử. Hành vi ứng xử thì vô cùng nhiều và cũng có không ít những hành vi ứng xử mang tính bản năng. Không phải bất cứ hành vi ứng xử nào cũng đáng trở thành khuôn mẫu văn hóa. Những hành vi ứng xử có văn hóa phải là những hành vi có tác dụng chỉ nam, mẫu mực, làm quy tắc cho mọi người trong xã hội, nó phải chứa đựng một ý nghĩa xã hội rộng lớn. Còn cách ứng xử, kiểu ứng xử, phép ứng xử, - đó là cách biểu hiện hình thức ứng xử, thiên nhiều về tính kỹ năng thao tác, nó có thể dễ dàng mau chóng thay đổi. Trong lúc đó, thì văn hóa ứng xử lại thể hiện lên cái Chất văn hóa, chất giá trị truyền thống của ứng xử, và chỉ văn hóa ứng xử mới bền vững truyền lưu trong dòng phát triển đi lên của xã hội. Do vậy, mới đặt ra vấn đề "giáo dục giá trị truyền thống văn hóa thông qua việc giáo dục những khuôn mẫu văn hóa ứng xử". ở đây, "khuôn mẫu văn hóa ứng xử" được quan niệm như một khuôn phép hoàn chỉnh những thái độ hành vi ứng xử có văn hóa đúng chuẩn mực xã hội - tức là hành vi ứng xử thực hiện đúng theo những quy tắc, quy định cụ thể do xã hội đặt ra cho mọi người trong giao tiếp xã hội. Trong giao tiếp xã hội, mỗi cá nhân có rất nhiều quan hệ ứng xử tùy theo vai trò của mình. Mỗi loại quan hệ ứng xử có một khuôn mẫu ứng xử riêng. Mỗi cá nhân phải thực hiện đồng thời nhiều vai trò, do đó, phải thực hiện nhiều khuôn mẫu ứng xử tương ứng với các loại quan hệ ứng xử của mình. Sống trong xã hội, mỗi cá nhân ai cũng phải có mẹ có cha, có trên có dưới, có anh em bạn bè, có vợ chồng, hàng xóm láng giềng, có trẻ có già, có nam có nữ, có ông bà tổ tiên, có làng có xóm, có thầy có trò, có người may mắn, sung sướng, có người nghèo khó, hoạn nạn, tật nguyền, hy sinh mất mát, v.v... và v.v... vô cùng nhiều quan hệ đòi hỏi mỗi con người Việt Nam phải có cách, có thái độ xử sự thế nào cho đẹp nghĩa, đẹp tình, đẹp nết người. Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước, yêu nòi, nhân ái, vị tha, khoan dung, nghĩa tình, ham học, chịu khó, tôn sư trọng đạo, hiếu đễ, v.v... Không thể kết hết và cũng không thể cụ thể hóa nêu lên hết được tất cả khuôn mẫu cho từng hành vi ứng xử. ở đây chỉ có thể tạm nêu lên khái quát khuôn mẫu ứng xử cho các em vị thành niên học sinh nhà trường cần rèn luyện trong từng môi trường mà các em thường phải tiếp xúc. Có thể nêu một số môi trường thường tiếp xúc của các em như: 1. Tiếp xúc trong môi trường gia đình. 2. Tiếp xúc trong môi trường nhà trường. 3. Tiếp xúc trong môi trường cộng đồng xã hội. 4. Tiếp xúc tôn trọng cá nhân mình. Dưới đây thử nêu lên khái quát những khuôn mẫu văn hóa ứng xử của các em học sinh nhà trường, theo từng môi trường thường tiếp xúc của chính các em. 1.2.2.1. Khuôn mẫu ứng xử trong môi trường gia đình Gia đình là hạt nhân sơ bản của xã hội. Môi trường gia đình là môi trường của một xã hội thu nhỏ. Em là một thành viên rất quan trọng trong gia đình, có ý nghĩa quyết định sự tồn vong, sự phát triển của gia đình, và theo đó là của xã hội. Sống trong gia đình, mỗi các em phải thực hiện đồng thời mấy vai trò cơ bản: làm người con, người cháu, người anh (chị) hoặc người em. Các em phải ăn ở xử sự thế nào cho trọn nghĩa vẹn tình đẹp nết người Việt Nam con hiếu, dâu (vợ) hiền, cháu thảo. + Với ông, bà (nội, ngoại): - Phải có thái độ xử sự đúng đắn trên cả mấy phương diện: - Chăm sóc, hỏi han sức khỏe ông, bà thường xuyên lúc ăn, ngủ, tĩnh dưỡng. Không làm hành động gì để ảnh hưởng đến sức khỏe hoặc phật lòng ông, bà. - Phải biết nhận lỗi với ông bà và hứa sửa chữa khi mình làm điều gì sơ suất. - Lễ phép, kính trọng, thân mật, vâng lời. Không hỗn láo, cãi trả. - Thưa, hỏi, mời, chào phải có lời nói, cử chỉ lễ phép, nghiêm túc, thân mật, rành mạch, thật lòng, tôn trọng đúng thứ bậc trong gia đình - ông bà trước, bố mẹ sau, anh chị rồi các em. Kính trọng, lễ phép cả với bạn bè, bà con ngang hàng ngang tuổi với ông bà mình.  Thân mật, gần gũi học hỏi ông bà về những điều khôn, lẽ phải, những kinh nghiệm truyền thống quý báu về học tập, tu dưỡng, cũng như trong công lao sự nghiệp của ông, bà đã trải qua. Trình bày với ông, bà những thành tích của mình đã đạt được và cả những yếu kém của mình còn mắc phải, v.v... + Với cha, mẹ - Phải "Siêng giúp đỡ cha mẹ", như Bác Hồ đã từng căn dặn. Tùy sức mình, đừng ỷ lại chây lười, quan tâm đỡ đần cho cha mẹ những việc gì mình có thể làm được. Đừng đòi hỏi những gì quá đáng, quá sức, quá khả năng đáp ứng của gia đình, cha mẹ, làm giảm bớt những khó khăn, khổ sở, hao tâm tổn lực của cha mẹ. - Lễ phép, kính trọng, thân mật, chân thật vâng lời cha mẹ. - Khi ở trong nhà hay ngoài nhà đừng làm điều gì sai trái để cha mẹ phải hổ thẹn, mất thanh danh vì con. - Đừng nói dối, đừng dấu giếm cha mẹ điều gì. - Biết tự giữ gìn, rèn luyện sức khỏe, thân thể như giữ gìn giọt máu thân yêu của cha mẹ mình. - Những lời thưa, hỏi, mời, chào cha mẹ phải nghiêm chỉnh, chân tình, tình cảm. Lễ phép đúng mực với bạn bè, bà con ngang hàng ngang tuổi bố mẹ mình. - Chăm tu dưỡng, chăm học, học giỏi, tu chí học hành để cha mẹ vui lòng, tự hào, rạng danh vì con người, vừa là để đền đáp công ơn cha mẹ, để giữ gìn gia phong, vừa là để cho mình vững bước vào đời lập nghiệp. - Khi cha mẹ ốm đau, mệt mỏi mình thật sự xót xa, hỏi han, chăm sóc thường xuyên v.v... Làm đúng làm tốt được những điều như trên mới là một người con có hiếu, giữ tròn truyền thống chữ "hiếu" trong điều kiện xã hội mới hiện nay, giữ tròn đạo làm con, đáp "công cha như núi", đáp "nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra". + Với anh, chị, em Hãy nhớ lấy câu: "Huynh - Lương, Đệ - Đệ". - Là làm anh, làm chị thì phải gương mẫu mọi việc để cho em noi theo. - Phải giúp hoặc thay mặt cha mẹ chăm sóc, theo dõi, giúp đỡ em mọi việc. - Phải nhường nhịn, không tranh giành ghen tị với em. - Không đánh mắng, gây gổ thô bạo với em. - Có điều gì không hay không phải khó xử thì thưa báo lại với cha mẹ. - Không bày cho em làm điều gì có hại. - Phải bênh vực, thương yêu che chở em, ngăn chặn em làm điều gì không tốt. - Là làm em, phải biết kính nhường anh, chị. Không nói dối, nói gạt anh, chị. - Không hỗn láo, cãi vã thô lỗ với anh, chị. - Nghe lời anh, chị. Nhỡ có điều gì khó xử, trái ý anh, chị thì thưa báo lại với mẹ, cha, ông, bà. - Nhỡ có điều gì mình làm sai thì thành thật nhận lỗi với anh, chị, mẹ, cha. - Phải thật thà, thật lòng kính yêu anh chị, mẹ cha. - Không quanh co giấu giếm điều gì. - Phải biết lễ phép, kính nhường anh chị, tôn trọng bạn bè của anh, chị. + Với cảnh quan môi trường trong nhà - Cần quan tâm đỡ đầu, chung sức với mẹ cha hoặc tự lực tự động sắp xếp bố trí ngăn nắp, trật tự đẹp mắt, vệ sinh đồ đạc không gian bài trí trong nhà. - Bàn bạc và chung sức với mẹ, cha để cải tạo, xây dựng văn minh khoa học tiện lợi môi trường điện, nước, vệ sinh, phòng hỏa, đi lại, thông tin, sinh vật cảnh,... trong nhà, ngoài vườn, ngoài sân. - Giữ gìn không khí tinh thần lành mạnh, vui tươi, khỏe khoắn, trí tuệ trong gia đình. - Không gây ầm ĩ, cũng không để u buồn không khí trong nhà. - Không chơi với những đồ chơi, sách báo tranh ảnh băng hình "phản văn hóa", thị hiếu thẩm mĩ thấp kém, phản truyền thống thuần phong mĩ tục. 1.2.2.2. Khuôn mẫu ứng xử trong môi trường nhà trường Đến học ở trường thì có thầy có trò, có bạn trai bạn gái, có giờ học giờ chơi, có sách vở giấy bút, có quy chế nội quy, có cảnh quan trường, lớp, v.v... mọi quan hệ đó đều cần có những khuôn mẫu ứng xử đúng đắn. Nhớ lời Bác Hồ dạy, trong tác phẩm "Đời sống mới", với những giá trị truyền thống văn hóa đó vẫn còn vang vọng đến tận bây giờ. Xin được trích dẫn một đoạn của Bác viết: ..."Trong một trường học, các thầy (cô) nên thi nhau tìm cách dạy sao cho dễ hiểu, dễ nhớ, nhanh chóng và thiết thực. Các trò nên đua nhau học. Đồng thời, biết tiết kiệm giấy bút, biết giữ kỷ luật. Từ tiểu học, trung học, cho đến đại học, là nơi rèn luyện nhi đồng và thanh niên. óc những người tuổi trẻ trong sạch như một tấm lụa trắng. Nhuộm xanh thì nó sẽ xanh. Nhuộm đỏ thì nó sẽ đỏ. Vì vậy sự học tập ở trong trường có ảnh hưởng rất lớn cho tương lai của thanh niên, và tương lai của thanh niên tức là tương lai của nước nhà. Vì vậy, cốt nhất là phải dạy cho học trò biết yêu nước, thương nòi. Phải dạy cho họ có chí tự lập, tự cường, quyết không chịu thua kém ai, quyết không chịu làm nô lệ. Phải dùng những lời lẽ giản đơn, những thí dụ thiết thực mà giải thích: dân chủ là gì, tự do là gì, thuộc địa là gì... Vì sao ta phải kháng chiến. Họ có thể làm được những việc gì để giúp đỡ kháng chiến. Nên giữ bí mật thế nào, đề phòng Việt gian thế nào. Nên giúp đồng bào tản cư thế nào. nên giúp bình dân học vụ thế nào, v.v... Cố nhiên, trong lúc dạy, chớ nên làm cho học trò có tư tưởng vị quốc như bọn phát xít; vị quốc nghĩa là chỉ biết yêu trọng nước mình mà khinh ghét nước người... Nói tóm lại: Trong chương trình học, phải trọng về môn tinh thần và đạo đức. Phải tẩy sạch óc kiêu ngạo, tự phụ, mà giáo dục thực dân còn để lại. Hơn nữa, phải khuyên học trò tham gia việc tăng gia sản xuất. Điều này cũng quan trọng lắm. Một là làm cho họ biết kính trọng sự cần lao. Hai là tập cho họ quen khổ. Ba là cho họ cái chí khí tự thực kỷ lực (làm lấy mà ăn), không ăn bám xã hội. Bốn là có ích cho sức khỏe của họ. Đại khái đời sống mới của một trường học là như thế. Lớp này nên thi đua với lớp khác, trường này với trường khác, làm cho học trò thêm hăng hái" [26, tr. 102]. Đi vào những quan hệ ứng xử ở trong nhà trường của các em học sinh phổ thông nên có những khuôn mẫu ứng xử cụ thể như sau: * Với thầy giáo, cô giáo: Thông qua nhiều kiểu hành vi ứng xử tốt đẹp để thể hiện truyền thống: uống nước nhờ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây; tôn sư trọng đạo, "nhất tự vi sư, bán tự vi sư". Lễ phép kính trọng chân thành ân cần với thầy, cô đã dạy, đang dạy cho mình và bạn học mình. Cách thức ứng xử "tôn sư trọng đạo" ngày nay có khác xưa. Nhớ ơn và tôn trọng, kính trọng "Thầy" - không "Thầy" đố mày làm nên - ngày nay đã có một ý nghĩa rộng lớn hơn xưa nhiều. Các em sau này "làm nên" là nhờ có công lao của tất cả các thầy giáo, cô giáo, các thầy, cô đã đang và sẽ giảng dạy cũng như phục vụ việc giảng dạy, học tập cho các em, chứ không phải duy chỉ nhờ một thầy (ngày xưa không có cô giáo) như việc học ngày xưa. Do vậy, thái độ tôn sư trọng đạo ngày nay phải là trân trọng, kính trọng, nhớ công ơn, đền đáp công ơn đối với tất cả các thầy giáo, cô giáo đã trải qua trong cuộc đời mình. Thái độ tôn sư trọng đạo ngày nay cần được thể hiện hành vi ứng xử đúng mực, đúng khuôn phép trên cả mấy phương diện như: - Tôn trọng, kính mến, lễ phép, vâng lời thầy giáo, cô giáo - thể hiện trong hành vi chào, hỏi, chúc mừng, thăm hỏi, nghe thầy, cô giảng dạy. Tùy theo tuổi tác, có thể coi thầy, cô như cha, mẹ, hay như anh cả, chị cả của mình. - Với việc học thầy - ở trong lớp, chấp hành nội quy của lớp. Nghiêm túc, chăm chú tập trung lắng nghe để thấu hiểu hết những kiến thức và những giáo huấn thầy, cô giảng dạy. Ghi chép cẩn thận đàng hoàng, chú ý rèn chữ như rèn người, vì nét chữ cũng là nét người. Với các môn học ngoài giờ, hoạt động lao động, thể thao,... cũng phải học, tập và làm đầy đủ, nghiêm túc. Về nhà, phải chăm chỉ ôn tập, kiên trì tự lực đào sâu suy nghĩ. Quyết tâm phấn đấu đạt kết quả cao, không ỷ lại trông chờ may rủi, không có ý thức trung bình chủ nghĩa, không chịu để thua kém ai trong tất cả các môn học và công việc rèn luyện tu dưỡng. Cần mẫn tìm tòi đọc thêm sách thư viện. Đồng thời cũng nên học hỏi noi theo những gương tốt, mẫu mực của các thầy, cô về tư cách, đạo đức, khí phách, lao động trí óc,... để mình rèn luyện bản lĩnh cá nhân của mình. Tất cả như thế, vừa là giữ vững, phát huy truyền thống hiếu học chăm tu dưỡng của con người Việt Nam, vừa là để giúp vào đời lập nghiệp vững vàng, và cũng vừa là để nhớ ơn, đền công ơn và làm thêm rạng danh công lao của các thầy, cô đã giảng, dạy, dẫn dắt mình. Truyền thống "tôn sư trọng đạo" ngày nay phải là như vậy. Tôn sư trọng đạo ngày nay không nên và không phải chỉ là sự quan tâm ứng xử vật chất với thầy, cô. + Với cảnh quan nhà trường: Tuổi đi học là tuổi đẹp nhất trong đời. Khi rời trường, không ai không nhớ nhung, lưu luyến cái "mái trường" đã từng giáo dưỡng, dạy dỗ mình. Những cái để nhớ đó là: nhớ thầy, cô; nhớ bạn học (đồng môn); nhớ cảnh trường, cảnh lớp. Nhớ cảnh trường - ấy là nhớ đến toàn bộ khung cảnh nhà trường, ở đó có cổng trường, các ngôi nhà, sân trường, cột cờ, sân chơi, cây cảnh, v.v... Cả đến những bàn ghế ngồi học, những tiếng trống trường, những tiếng vui đùa khi ra chơi, cười nói nhộn nhịp khi tan trường, v.v... đều để lại kỷ niệm lưu luyến trong ký ức nhớ nhung của mỗi người đi học. Để khỏi phải ân hận, mang tiếng phụ bạc, khi đến trường mỗi học sinh phải quan tâm đến việc giữ gìn vệ sinh, bảo vệ tài sản, góp công sức bảo vệ và xây dựng cảnh quan nhà trường, bảo vệ an ninh trật tự nhà trường - để trường mình ngày càng thêm xanh - sạch - đẹp - an toàn, trật tự. ở tuổi trẻ, làm sao tránh khỏi được sự nô đùa, vui nghịch, nhưng không nên để cho những hành vi đùa, nghịch đó dẫn đến mức nghịch ngợm, phá phách ảnh hưởng bất lợi đến cảnh quan và thanh danh nhà trường. Đừng để cho miệng đời mặc cảm xếp học trò vào hạng với ma, quỷ (nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò) như đã từ lâu thiên hạ đàm tiếu đánh giá xấu học sinh. + Với bạn học: Cùng vào Đảng, chúng ta có Đồng chí. Cùng một quê hương, chúng ta có Đồng hương. Cùng vào cửa học, chúng ta có đồng môn - những bạn cùng học với mình, với nhau. Trong bạn học, tất có người thân kẻ sơ, có bạn tiếp xúc nhiều ít khác nhau, song đã là đồng môn, bạn học đều phải có thái độ xử sự đúng mực với nhau tất cả, từ việc học, việc chơi, đến việc giúp đỡ nhau bảo vệ nhau chính đáng trong những trường hợp khó khăn, hoạn nạn. Trong học tập, đã là bạn học với nhau, cùng thầy cùng trường với nhau thì phải giúp nhau tận tình, chân tình, vô tư; không để cho bạn mình học kém, lười nhác, trốn học, bỏ học. Cần biết ray rứt khi bạn học của mình, có người bị khiển trách về học tập cũng như về tư cách, đạo đức; cùng nhau tìm cách giúp đỡ để bạn ấy trở thành người học trò tốt. Có kế hoạch để bạn học giỏi giúp đỡ bạn học kém, để học hỏi kinh nghiệm học tập của nhau. Trong quan hệ cần thái độ chân thật, đoàn kết, không bài xích, chia bè chia cánh. Quan hệ với bạn trai hay bạn gái phải có thái độ lịch sự, không thô lỗ, trong sáng hồn nhiên, bình đẳng. Đối với bạn gái cần phải lịch sự, tế nhị. Quan hệ bạn bè phải giữ gìn cho nhau; không làm điều gì để nhà trường và gia đình lo lắng, khiển trách. Chơi với nhau phải có thái độ cao thượng, không cố chấp xét nét, phải khoan dung, không trịch thượng, không "mượn gió bẻ măng", "dậu đổ bìm leo" v.v... Trong số bạn học, có thể có những bạn gặp cảnh hoạn nạn hay tật nguyền, mình phải xót xa và cùng nhau giúp đỡ tích cực, chia xẻ khó khăn, để bạn mau chóng vượt qua và vẫn học tốt. 1.2.2.3. Khuôn mẫu ứng xử trong môi trường cộng đồng Mỗi cá nhân dù đã sống hằng xuyên với gia đình mình, đã được rèn luyện lâu dài trong nhà trường, cũng đều phải sống và chịu sự tác động giáo dục thường xuyên, thế hệ này qua thế hệ khác, của môi trường cộng đồng xã hội - hoặc các thôn, làng, bản, ấp... hoặc các khu phố, khối phố, khu dân cư, khu tập thể, v.v... Đó là nơi "ta sinh, ta ở, ta tụ, ta về" trải qua bao thế hệ. Đó cũng là cái nơi cho ta cảnh sống "thiên thời, địa lợi, nhân hòa", tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển đời sống gia đình mình và sự học hành của con em, học sinh mình. Cộng đồng, do vậy, như một hình ảnh thu nhỏ của đất nước. Trong môi trường xã hội cộng đồng, mỗi cá nhân hàng ngày thường có rất nhiều quan hệ tiếp xúc, đòi hỏi có nhiều loại hành vi ứng xử, khó có thể nêu lên cụ thể chi li được. Nhưng khái quát chung, có thể quy vào mấy loại quan hệ tiếp xúc ứng xử như: ứng xử trong quan hệ xã hội; ứng xử với môi trường tự nhiên; ứng xử với môi trường văn hóa. + ứng xử trong quan hệ xã hội Bước ra khỏi nhà, khỏi trường lớp, mỗi cá nhân đương nhiên lập tức gặp biết bao con người và sự kiện, sự cố mà mình phải quan tâm xử sự đúng mực. Chẳng hạn, gặp các cụ già - mình phải kính nể, lễ phép. Khi gặp trường hợp các cụ khó khăn, mình cần tận tâm giúp đỡ theo khả năng của mình. Khi gặp những người lớn gồng gánh nặng nề hay bụng mang dạ chửa,... mình cần tránh đường, nhường bước để họ giảm bớt sự vất vả, nhọc nhằn. Khi gặp các em nhỏ không có ai đi cùng dẫn dắt, mình cần có thái độ thương yêu và giúp đỡ các em. Khi gặp các em lang thang cơ nhỡ, tật nguyền, mình tỏ thái độ xót thương và có thể giúp đỡ theo khả năng của mình, không nên chế giễu chọc ghẹo v.v... Khi đi trên đường cần giữ gìn luật lệ giao thông, dù đi bộ hay đi xe. Không nên nghênh ngang, làm ầm ĩ, làm mất vệ sinh, ô nhiễm môi trường công cộng. Không ngông nghênh gây gổ đánh nhau, v.v... Khi gặp đám tang trên đường, mình nên đi chậm đôi lát để tỏ thái độ kính cẩn, chia buồn cảnh "nghĩa tử là nghĩa tận". Khi gặp những sự cố tai nạn, hoạn nạn (như cháy nhà, tai nạn giao thông, chết đuối, cướp giật, v.v...), mình không bàng quan, cần có thái độ dũng cảm, tùy khả năng, điều kiện của mình góp phần giúp đỡ giải quyết, chứ không nên kéo nhau tụ tập xem lạ xem chơi làm mất trật tự giao thông. Khi gặp của rơi, cần tìm cách nhặt đem trả lại cho người mất của, v.v... Sống trong cộng đồng, bên cạnh gia đình, còn có hàng xóm láng giềng, hãy bảo vệ bao bọc nhau, đừng có thái độ bàng quan xa lạ "cháy nhà hàng xóm bình chân như vại". Đừng để có tình trạng "chuyện trẻ con mất lòng người lớn", có chuyện gì không bằng không phải, bàn bạc nhẹ nhàng hòa giải với nhau, đừng để cho "cái vảy sẩy bằng cái nong",... Là một thành viên trong cộng đồng, tùy theo khả năng của mình, cần đóng góp vào việc công ích, việc tình nguyện nhân đạo, từ thiện, dạy bình dân học vụ của cộng đồng, tham gia bảo vệ trật tự, trị an, vệ sinh trong cộng đồng, thực hiện tốt mọi quy ước, quy chế, nội quy đề ra trong cộng đồng, v.v... + ứng xử với môi trường cảnh quan trong cộng đồng Mỗi cộng đồng nào cũng đều có những cảnh quan đường làng, đường phố, kiến trúc nhà cửa, cầu cống, đình chùa, hồ ao, v.v... do các thế hệ cha anh xây dựng nên. Lại còn có ít nhiều gì đó những cảnh quan thiên nhiên, như con sông con suối, vườn cây, chim, thú,... do cảnh thiên thời, địa lợi sinh ra. Có những cái đáng quý cần được bảo tồn, bảo vệ. Và cũng có cả những cái đã lạc hậu, không được hợp thời cần phải xây dựng lại hoặc cải tạo sửa chữa. ở đây điều quan trọng với các em học sinh là không nên bàng quan, coi đây chỉ như là việc riêng của những người lớn. Bằng khả năng hiểu biết, sức lực và thái độ lựa chọn tiến bộ của mình, các em nên cùng người lớn tham gia vào việc bảo tồn, bảo vệ những cái đáng để lại và cải tạo xây dựng những gì phù hợp với bối cảnh tương lai CNH, HĐH, bảo đảm cho cảnh quan thiên nhiên và cảnh quan xây dựng của cộng đồng mình ngày càng xanh, sạch, đẹp, văn minh tiến bộ hơn lên. + ứng xử với môi trường văn hóa cộng đồng Môi trường văn hóa cũng có người gọi là môi trường nhân văn. Nó có nhiều cấp độ: môi trường văn hóa vĩ mô, mang tầm quốc gia của một xã hội toàn bộ; môi trường văn hóa vi mô, mang tầm một xã hội thu nhỏ như gia đình; và ở đây chúng ta nói đến một môi trường văn hóa cỡ trung mô, mang tầm một cộng đồng dân cư cơ sở, như làng, xã, bản, ấp, khu phố, khu dân cư, v.v... Theo cách miêu tả để dễ hiểu, chúng ta có thể quan niệm: Môi trường văn hóa cộng đồng là một tổng thể các sản phẩm văn hóa, chương trình văn hóa, hành vi văn hóa, thiết chế, phương tiện và cảnh quan văn hóa,... hiện diện trong cộng đồng đó, mà cá nhân tiếp xúc trong suốt đời mình và có ảnh hưởng qua lại với mình. Rõ ràng môi trường văn hóa là một bộ phận không thể thiếu được trong môi trường sống của con người. Nó nói lên sự ứng xử của con người với con người, với xã hội và với thiên nhiên. Nó góp phần tích cực vào việc hình thành nhân cách văn hóa, phát triển văn hóa cá nhân toàn diện. Do vậy, mỗi cá nhân nói chung, mỗi các em học sinh nói riêng, cần có thái độ ứng xử đúng mực, có văn hóa. Điều này thể hiện rõ ở thái độ định hướng - giá trị của các em khi tiếp xúc với môi trường văn hóa cộng đồng. Khuyên các em chú ý tiếp xúc, thưởng thức với những sản phẩm văn hóa lành mạnh, khỏe khoắn, tươi trẻ tiến bộ, cả về nội dung và hình thức. Nên tiếp xúc với đa dạng, phong phú các loại hình văn hóa, nghệ thuật, không nên thưởng thức đơn điệu, si mê chỉ một thứ khoái cảm lập dị nào. Nên chú ý tăng cường thị hiếu thẩm mĩ của mình vào những giá trị văn hóa, nghệ thuật dân gian. Nên tích cực, tự nguyện tham gia những sinh hoạt câu lạc bộ, những hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao quần chúng ở cộng đồng mình. Cần quan tâm bảo vệ, tham quan, tìm hiểu những di tích lịch sử văn hóa nghệ thuật kiến trúc, công viên văn hóa hiện có ở địa phương. Đối với các thiết chế thông tin đại chúng, không những mình nên quan tâm tiếp xúc thông tin, mà nên theo khả năng học lực của mình để tham gia làm "phóng viên nhân dân", biên tập thông tin quần chúng cho các đài, báo, tờ tin. Đối với các thiết chế nhà văn hóa, nhà lưu niệm, thư viện, v.v... cũng vậy, mình nên tích cực tham gia tiếp xúc, với tính cách vừa là một công chúng văn hóa, vừa là một cộng tác viên đắc lực, đều đặn, có hiệu quả. Hơn nữa, các em không nên học đòi theo những người lớn không đàng hoàng trong việc tiếp xúc với những sản phẩm hay những tụ điểm sinh hoạt "phản văn hóa". (Chẳng hạn như: những băng hình, trang ảnh lịch, cuốn sách, vũ trường, điểm karaokê, caphê internet, v.v... "không sạch"; những điểm sinh hoạt mê tín, đồng bóng; những sòng bạc, những trò chơi sát phạt; những băng xì ke, ma túy; v.v...). Khuyên các em cần có thái độ dị ứng, xa lánh, ghét bỏ những thứ "phản văn hóa" đó ngay từ tuổi thơ ấu, tuổi vị thành niên. Phải luôn luôn suy nghĩ phấn đấu làm sao để xứng đáng là một người có học, một học sinh có giáo dục, có văn hóa; để giữ gìn danh dự và đền đáp công ơn của cha, mẹ, gia đình, của thầy, cô và nhà trường đã suốt đời tận tâm chăm lo cho mình, vì mình. 1.2.2.4. Khuôn mẫu ứng xử tôn trọng, giữ gìn cá nhân con người mình Về thực chất, mỗi cá nhân con người vốn đã là một sinh thể có văn hóa, được hình thành ngay từ tấm bé. Nhưng nó không thể cứ ngưng đọng cái "có văn hóa" ấy mãi mãi được. Cần phải được tiếp tục giáo dục và tự rèn luyện. Trong lứa tuổi đi học, nhờ được học, được giáo dục, mỗi cá nhân học sinh cần tăng cường tự rèn luyện những khuôn phép tự ứng xử với mình, chính là để tự trọng, tôn trọng và bảo trọng mình trước đời sống xã hội. Làm đẹp cho mình ấy là làm đẹp cho xã hội, vì xã hội. Cho nên cũng có người coi đây là những khuôn phép "tạo dáng cá nhân" vì sự tạo dáng cho/của xã hội, đồng thời cũng là để bộc lộ tính cách riêng của mỗi người. Mỗi cá nhân nói chung, mỗi các em học sinh nói riêng, nên quan tâm đến việc "làm đẹp" cho mình, đẹp cả người, đẹp cả nết, đẹp cả công dung ngôn hạnh, đẹp cả thể chất, đẹp cả về sự chơi, sự giao tiếp, đẹp cả về tâm hồn, v.v... Khó có thể kể chi li ra hết những cái cần làm đẹp của mỗi cá nhân. ở đây thử quy tụ vào một số phạm vi nhất định, như: + ứng xử trong nói năng giao tiếp xã hội Mỗi người hàng ngày ngoài giao tiếp gia đình, giao tiếp học đường, còn có những hành vi giao tiếp xã hội chào hỏi, chúc mừng, cảm ơn hay xin lỗi v.v... Nhưng tất cả những ứng xử đó cần giữ được một số phép tắc nhất định, thích ứng với từng đối tượng giao tiếp: - Phải lựa lời mà nói - "Lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau", truyền thống văn hóa người Việt Nam đã từng nhắn nhủ như vậy. Nói năng làm sao cho có lời hay ý đẹp, có thái độ nghiêm chỉnh mà thân mật, lịch sự, nhẹ nhàng, dễ lọt tai, không làm phật lòng người nghe. Dù là người Hà Nội hay không là Hà Nội cũng nên "thanh lịch như người Tràng An". Dĩ nhiên, trong trường hợp nào, với đối tượng tiếp xúc nào, chúng ta cũng cần loại bỏ những lời nói thô lỗ, tục tằn, xấc xược, ngạo mạn, khiêu khích, trống không, xã giao sáo rỗng, ba hoa,... - Phải lựa tư thế, động tác khi ứng xử - thế nào đó cho lễ phép, lịch sự, tế nhị, văn minh, dù ở trong vị trí tiếp xúc thuận lợi hay không thuận lợi, dù dưới hình thức vái chào, bắt tay, hay ôm hôn. Nhưng dĩ nhiên hãy cần tránh xa những hình thức tiếp xúc vô lễ, lợi dụng, kiêu ngạo, kiêu điệu kệch cỡm, khúm núm, giả tạo, thô bỉ,... Chung quy, cần có tác phong, phong cách tiếp xúc lễ phép, vui vẻ lịch sự, văn minh, nhanh nhẹn - "có văn hóa", không lẳng lơ, không nhìn ngang liếc dọc, quê kệch. - Cần chỉnh trang lại trang phục của mình khi tiếp xúc cho gọn gàng, đứng đắn, lịch sự - từ quần áo, đầu tóc, giày dép - nhất là những khi tiếp xúc với thầy, cô, với những người lớn tuổi, với ông bà, cha mẹ, với bạn gái. + ứng xử trong trang diện và thể hình của mình Rõ ràng ai cũng muốn phô diễn hình thức đẹp của mình qua sự trang diện và thể hình của mình. Người đẹp vì lụa... và người đẹp cũng nhờ có thân hình đẹp, có bộ mặt khả ái. Do vậy để tự trọng, tôn trọng và bảo trọng mình trước đời sống xã hội, các học sinh cũng cần quan tâm và biết cách tự xử lý thế nào cho đẹp cả về trang diện và thể hình của mình. Nhưng, như thế nào là đẹp, quả là một điều khó phân xử. Và làm thế nào cho nó đẹp, cũng lại một điều thật nan giải. Mỗi người có một sở thích, thị hiếu khác nhau, có cách nhìn về cái đẹp khác nhau. ở đây, chỉ thử gợi ý nêu lên mấy yêu cầu thẩm mĩ khuyên các học sinh lựa chọn: - Về trang diện - từ trang điểm đến trang phục - nên đơn giản, giản dị, giữ được nét vừa thanh nhã vừa khỏe khoắn, vừa đẹp thoáng đãng vừa bảo vệ được sức khỏe. Không nên cầu kỳ lòe loẹt, lộ liễu, cũng không nên diêm dúa, luộm thuộm, dơ bẩn... Trang điểm hay trang phục nên xử lý thế nào cho hài hòa, cân đối với khuôn mặt và thân hình của mình. Giá trị sắm sửa cho trang điểm và trang phục không nên để vượt quá khả năng chi phí cho phép của mình và điều kiện gia cảnh của mình. Hình thức trang điểm và trang phục không được để làm mất đi sắc thái văn hóa dân tộc của mình là con người Việt Nam. Các mô típ trang điểm và trang phục cũng không nên đơn điệu, đường mòn, mà cần được xử lý đa dạng, phong phú, tiến bộ theo thời đại đang đi lên của đất nước mình. Và nên đặt lên trên tất cả là đừng để cho người đời coi mình mất gốc coi mình không còn mang dáng dấp người Việt Nam, không còn giữ được tâm hồn Việt Nam. - Về hình thể của bản thân vốn do cha sinh mẹ đẻ ra bản thân mình không những cần bảo trọng, mà còn phải làm cho nó ngày càng khỏe, đẹp thêm lên, vừa để bảo toàn giọt máu thân yêu của cha mẹ hun đúc (như một phần giữ tròn đạo hiếu), vừa để cho mình sống khỏe, sống đẹp, rạng mặt với đời. Để có hình thể khỏe, đẹp, phải dày công rèn luyện, dưỡng dục suốt đời, nhưng cần bắt đầu quan tâm ngay từ thời còn trẻ, còn học sinh. Cần xóa bỏ nếp nghĩ, cho rằng chỉ người già mới xếp bảng giá trị sức khỏe lên hàng đầu, còn tuổi trẻ thì ngược lại: Tình yêu hàng đầu, tiền của hàng hai, còn sức khỏe xếp vào hàng chót - Nghĩa là tuổi trẻ thường hay coi thường, phí phạm sức khỏe! - Đừng, khuyên các em tuổi học sinh vị thành niên đừng nên như thế. Những hành xử cá nhân để làm khỏe, đẹp thể hình mình thì có nhiều và tùy theo điều kiện từng người, từng nơi. ở đây chỉ nêu lên mấy yêu cầu khuyên các em nên theo: - Cần chủ động giữ gìn điều độ, chừng mực, từ trong sự ăn, sự chơi, sự ngủ, nghỉ, sự làm. "Kiệm" - tức là chừng mực - là một trong những yếu tố quan trọng để giữ sức khỏe và sống lâu (Từ, Kiệm, Hòa, Tĩnh). Đừng quá tham trong bất cứ một điều gì kể trên - (một chút giận, hai chút tham - lận đận cả đời càng thêm khổ). Cần tránh bỏ những thứ gì làm tổn hại đến sức khỏe, nhân cách và của cải làm ra của mình và cha mẹ mình (như hút xách, nghiện ngập, chơi bời, nhậu nhẹt vung phí, vô bổ, v.v...). Cũng đừng để cho bản thân quá si mê hay quá sầu muộn về một điều gì không đáng - nó làm cho con người hao tổn tinh thần, sa sút sức khỏe. - Cần thường xuyên rèn luyện thân thể và luyện tập thể hình, thể dục thẩm mĩ giúp cho mình tăng cường sức khỏe, chống bệnh tật, sống lâu đẹp thể hình. - Phải phối hợp đồng thời cả từ việc tăng cường dinh dưỡng, giữ gìn điều độ, chừng mực và tăng cường rèn luyện thể lực, thể hình, cải thiện một bước tầm vóc con người Việt Nam của thời đại mới văn minh tiến bộ. + ứng xử trong hoạt động rỗi của cá nhân Sau thời gian học tập ở trường, thời gian giúp việc ở gia đình, thời gian tham gia cộng đồng và các đoàn thể xã hội của mình, còn lại một số thời gian dành cho hoạt động rỗi của riêng mình. Trong khoảng thời gian này, mỗi các em nên có sự lựa chọn những hình thức nghỉ ngơi giải trí vui chơi gì cho phù hợp, thật thú vị, phong phú, hữu ích, lành mạnh, trẻ trung, khỏe khoắn. Để thực hiện tốt việc này, chúng ta có nhiều cách xử lý: - Tùy điều kiện thực tế của mỗi gia đình, nên bố trí ngay trong góc học tập của mình một số sách, báo, băng hình, bàn cờ, đồ chơi,... cùng các phương tiện nghe - nhìn cần thiết. (Dĩ nhiên là không nên có những sản phẩm phản văn hóa). Khi chơi có thể tự chơi một mình hoặc cùng chơi với người trong nhà, chơi với bạn bè, nhưng không để làm ảnh hưởng bất lợi, đến các sinh hoạt khác trong gia đình. - Có kế hoạch hàng tuần sắp xếp thời gian đọc sách ở thư viện, tham quan bảo tàng, di tích, hoạt động câu lạc bộ, dạo công viên, chơi thể thao, chơi vi tính, chơi thuyền, bơi lội, xem triển lãm, xem phim, xem biểu diễn nghệ thuật, học tập văn nghệ, múa, vẽ, v.v... - Trong những dịp nghỉ lễ, nghỉ hè, xin phép bố mẹ, thầy, cô, cùng bạn bè tổ chức những cuộc đi chơi xa, tham quan, du khảo, đi pích ních, cắm trại, leo núi, tắm biển, v.v... - Dĩ nhiên, với tư cách người học sinh có văn hóa, có

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Giáo dục giá trị truyền thống văn hóa cho lứa tuổi vị thành niên trong nhà trường.pdf
Tài liệu liên quan