Luận văn Giáo dục chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh cho thanh niên tỉnh Thanh Hóa trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước

Tài liệu Luận văn Giáo dục chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh cho thanh niên tỉnh Thanh Hóa trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước: LUẬN VĂN: Giáo dục chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh cho thanh niên tỉnh Thanh Hóa trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của Đảng và dân tộc Việt Nam, Anh hùng giải phóng dân tộc và Danh nhân văn hoá kiệt suất. Tư tưởng của Người là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta, là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong hơn nửa thế kỷ hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh là người ý thức sâu sắc về giá trị tinh thần Việt Nam, về sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Người dạy "Dân ta phải biết sử ta. Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam" [36, tr.221]. Tổng kết lịch sử Việt Nam, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chì...

pdf102 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1142 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Giáo dục chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh cho thanh niên tỉnh Thanh Hóa trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Giáo dục chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh cho thanh niên tỉnh Thanh Hóa trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của Đảng và dân tộc Việt Nam, Anh hùng giải phóng dân tộc và Danh nhân văn hoá kiệt suất. Tư tưởng của Người là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta, là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong hơn nửa thế kỷ hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh là người ý thức sâu sắc về giá trị tinh thần Việt Nam, về sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Người dạy "Dân ta phải biết sử ta. Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam" [36, tr.221]. Tổng kết lịch sử Việt Nam, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước [39, tr.171]. Rõ ràng, hệ giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam, mà đứng đầu là chủ nghĩa yêu nước đã đóng một vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước, giữ nước. Trong thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin như một cuộc "hẹn hò lịch sử" giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính với học thuyết cách mạng và khoa học của thời đại, tìm thấy ở chủ nghĩa Mác - Lênin ánh sáng soi đường cứu dân, cứu nước. Từ đó hình thành chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh. Thời gian lặng lẽ trôi đi, nhưng chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh làm nên thắng lợi Cách mạng Tháng Tám 1945, hai cuộc kháng chiến và bước đầu quá độ lên CNXH mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc Việt Nam như một sự kiện chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời nhất của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống xuyên qua mọi thời đại. Hiện nay cách mạng nước ta bước vào thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước - với mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh vô cùng vẻ vang nhưng cũng không ít những khó khăn, thách thức. Chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh càng đóng một vai trò quan trọng, tiếp tục phát huy tác dụng to lớn. Nó đã được Đảng và nhân dân ta vận dụng sáng tạo trong thời kỳ hội nhập, phát triển kinh tế tri thức, xây dựng nền tảng vật chất để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Thanh Hoá là một trong những địa phương có số dân đông (hiện có 3,7 triệu người). Trong đó thanh niên, chiếm hơn 1 triệu, là lực lượng nòng cốt cho sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá Thanh Hoá nói riêng và cả nước nói chung. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức đúng vị trí, vai trò của thanh niên trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng xã hội mới. Người đã thấy rất sớm sự đóng góp to lớn của tuổi trẻ Việt Nam trong sự trường tồn và phát triển của dân tộc. Người khẳng định: "Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên" [38, tr.186]. Họ là lực lượng đông đảo nhất, hùng hậu nhất, hăng hái, dũng cảm nhất trong các cuộc chống xâm lược, là lực lượng gánh vác những công việc nặng nề khó khăn, vất vả trong lao động sản xuất xây dựng đất nước, "đâu cần là thanh niên có, đâu khó có thanh niên". Trước lúc đi xa Người dặn lại trong Di chúc: "Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng XHCN vừa "hồng" vừa "chuyên". Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết" [45, tr.498]. Việc giáo dục chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh cho thanh niên cả nước nói chung và cho thanh niên tỉnh Thanh Hóa nói riêng trong giai đoạn hiện nay là một việc làm rất quan trọng và cần thiết vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nó tạo ra sức mạnh cực kỳ to lớn để phát huy tiềm năng vô tận của con người Việt Nam trước những thách thức của lịch sử, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, sớm đưa nước Việt Nam ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo điều kiện đuổi kịp các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới. Xuất phát từ yêu cầu thực tế của đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đang chấn hưng đất nước gắn liền với giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng đất nước gắn liền với kiên định chủ nghĩa xã hội. Điều đó chứng tỏ rằng Đảng và dân ta đã vận dụng sáng tạo phát huy những tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa yêu nước dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác-Lênin và trên lập trường giai cấp vô sản. Với những lý do trên và trực tiếp nghiên cứu chuyên ngành Hồ Chí Minh học, tôi chọn đề tài: "Giáo dục chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh cho thanh niên tỉnh Thanh Hóa trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước" để viết luận văn thạc sĩ khoa học chính trị chuyên ngành Hồ Chí Minh học. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Những năm gần đây đã có những công trình khoa học nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có tư tưởng yêu nước của Người. Đây là những thành quả rất đáng tự hào về sự lao động nghiêm túc, không mệt mỏi của các nhà khoa học xã hội trong và ngoài nước. Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu về "Giáo dục chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh cho thanh niên tỉnh Thanh Hoá trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước", khiến tác giả yên tâm về sự lựa chọn đề tài của mình, không trùng lặp, không lập lại ý tưởng của những người đi trước. Song cũng có nhiều công trình liên quan gián tiếp đến đề tài ví như: - Cuốn "Chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh" của Nguyễn Mạnh Tường. Cuốn sách được hình thành trên cơ sở luận án tiến sĩ của tác giả. Kết cấu của sách gồm 3 chương, tác giả chủ yếu tập trung nghiên cứu chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh. - Cuốn "Hồ Chí Minh và con người Việt Nam trên con đường dân giầu nước mạnh" của Phạm Văn Đồng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993 nghiên cứu tư tưởng và con người Hồ Chí Minh với công cuộc đổi mới. Tác phẩm đã khẳng định: Hồ Chí Minh là một nhà yêu nước, đồng thời là một chiến sĩ cộng sản. Từ đó để nói tới thông điệp của Hồ Chí Minh là lời nói nổi tiếng: "Không có gì quý hơn độc lập tự do". Độc lập, tự do ở đây là độc lập của dân tộc, tự do của nhân dân, của con người. Độc lập đi liền với tự do là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đây là một gợi mở rất sâu sắc khi nghiên cứu chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh. - Cuốn "Nhận thức cơ bản về tư tưởng Hồ Chí Minh", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tác giả Phạm Văn Đồng cũng khẳng định hành trang ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành là truyền thống lịch sử 4000 với sức sống mãnh liệt của một dân tộc. Đó là một nhận thức cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giúp ta suy nghĩ tới việc nghiên cứu chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh trong tình hình hiện nay. - Cuốn "Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam" do Đại tướng Võ Nguyên Giáp chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia ấn hành năm 1997. Tác giả đã khẳng định truyền thống yêu nước của dân tộc đã phát triển thành chủ nghĩa yêu nước. Và chính chủ nghĩa yêu nước đó đã thúc đẩy Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước. Chủ nghĩa yêu nước là một trong những nguồn gốc chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh. - Cuốn "Góp phần tìm hiểu cuộc đời và tư tưởng Hồ Chí Minh" của GS, NGND Đinh Xuân Lâm, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005. Đã tập hợp nhiều bài nghiên cứu. Có thể khai thác một số bài phục vụ cho đề tài như "Chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh - sự kết hợp biện chứng giữa truyền thống và thời đại", "Về con đường cứu nước của Hồ Chí Minh"... - Cuốn "Đến với tư tưởng Hồ Chí Minh" của Trần Bạch Đằng, Nxb Trẻ, 2004. Tác giả đã khẳng định "tư tưởng Hồ Chí Minh được ấp ủ lâu dài trong cái nôi chủ nghĩa yêu nước, tắm mình sâu sắc trong tâm hồn dân tộc, là kết tinh truyền thống nhiều nghìn năm dựng nước và giữ nước của nhân dân Việt Nam"... - Đặng Xuân Kỳ có cuốn "Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển văn hoá và con người", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005. - "Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh" của Trần Xuân Trường, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2001. - Cuốn "Hồ Chí Minh và nhà tư tưởng lỗi lạc" của Song Thành, Nxb Lý luận chính trị, 2005. - Lê Hữu Buôl, "Vai trò của tư tưởng yêu nước Việt Nam và phương hướng kế thừa phát triển trong sự nghiệp đổi mới đất nước", Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1993. Những kết quả nghiên cứu của tác giả trên là nguồn tư liệu quý giá để tôi tham khảo và kế thừa có chọn lọc trong quá trình thực hiện đề tài luận văn của mình. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích: Làm rõ thêm về chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh và đề xuất phương hướng, giải pháp giáo dục chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh cho thanh niên Thanh Hóa trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 3.2. Nhiệm vụ: - Xác định chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh là gì? Cơ sở hình thành nội dung chủ yếu và những đặc điểm của chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh. - Đánh giá thực trạng đội ngũ thanh niên và công tác giáo dục thanh niên, đề xuất phương hướng, giải pháp để nâng cao hiệu quả giáo dục chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh cho thanh niên Thanh Hóa trong tình hình mới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: - Các bài nói bài viết trong Hồ Chí Minh toàn tập và cuộc đời, sự nghiệp của Người đấu tranh không mệt mỏi cho nền độc lập dân tộc và tự do hạnh phúc của nhân dân Việt Nam. - Các văn kiện, chỉ thị của Đảng và Tỉnh uỷ Thanh Hóa. - Phong trào thanh niên tỉnh Thanh Hóa. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa yêu nước và việc giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho thanh niên ở tỉnh Thanh Hóa trong tình hình hiện nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài 5.1. Cơ sở lý luận: Luận văn vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng về thanh niên và "Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau". 5.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương pháp lịch sử và lôgic, phương pháp phân tích tổng hợp, điều tra khảo sát thực tiễn và các phương pháp chuyên ngành trong nghiên cứu và thể hiện đề tài. 6. Những đóng góp về khoa học của luận văn - Luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm những vấn đề cơ bản trong nghiên cứu chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh. Làm rõ vai trò của chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh trong hình thành nhân cách thanh niên tỉnh Thanh Hóa hiện nay. - Đánh giá có căn cứ khoa học thực trạng và đề xuất một số giải pháp từng bước nâng cao chất lượng giáo dục chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh cho thanh niên Thanh Hoá. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu 2 chương, 5 tiết. Chương 1 CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC HỒ CHÍ MINH - SỰ HèNH THÀNH VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN 1.1. SỰ HèNH THÀNH CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC HỒ CHÍ MINH 1.1.1. Quan niệm về chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh Chủ nghĩa yêu nước là một trong những giá trị tinh thần có tính phổ quát ở mọi dân tộc. Không một dân tộc nào trên thế giới lại không yêu mến Tổ quốc của họ. Tuy nhiên, giữa các quốc gia dân tộc, do nhiều lý do khỏc nhau, làm cho quỏ trỡnh hỡnh thành và phỏt triển chủ nghĩa yêu nước về bản chất cũng như đặc điểm không hoàn toàn giống nhau. Ở Việt Nam, chủ nghĩa yêu nước là giá trị tinh thần truyền thống cao nhất của dân tộc ta, là sự kết tinh tư tưởng và bản lĩnh của nhõn dõn ta trong quỏ trỡnh đấu tranh chinh phục thiên nhiên khắc nghiệt để dựng nước và trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm để giữ nước. Đó là lũng tha thiết yờu làng xúm, quờ hương, đất nước, tôn kính tổ tiên, ông bà, hiếu kính cha mẹ. Đó là sự quý trọng tiếng nói, nền văn hoá và các phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc, là ý thức cộng đồng đoàn kết, tỡnh đồng bào, gắn bó trong một quốc gia dân tộc. Đó là ý thức chủ quyền và toàn vẹn lónh thổ của đất nước. Chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam trải dài theo dũng lịch sử từ thời Vua Hùng dựng nước, đi qua tinh thần của Hai Bà Trưng “đền nợ nước trả thù nhà”, của bà Triệu “không chịu cúi đầu, khom lưng làm tỳ thiếp cho người”, đến thời Lý Thường Kiệt khẳng định thành văn ý chí độc lập, chủ quyền dân tộc và sự toàn vẹn lónh thổ quốc gia. Được vun đắp qua thời Lê Lợi, Nguyễn Trói, thành lý tưởng khát vọng dập tắt muôn đời ngọn lửa chiến tranh xâm lược, xây dựng quan hệ hoà hiếu, bỡnh đẳng giữa các dân tộc. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam cũn được giương cao trong phong trào nông dân Tây Sơn, với lónh tụ thiờn tài Quang Trung, đó thể hiện một ý chớ mónh liệt của nhõn dân ta trong xây dựng và bảo vệ một Tổ quốc độc lập, thống nhất và giàu mạnh. Yêu nước, quý trọng độc lập tự do đó trở thành lẽ sống, phẩm chất đạo đức truyền thống của người dân nước ta, của toàn thể dân tộc ta. Chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh là chủ nghĩa yêu nước Việt Nam xuất hiện trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam bằng con đường cách mạng vô sản và xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh theo con đường xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh là chủ nghĩa yêu nước cách mạng. Hồ Chí Minh là người đặt nền móng đầu tiên cho chủ nghĩa yêu nước cách mạng với tư cách một lãnh tụ của Đảng, của dân tộc, Người đã soi sáng cho nó theo suốt lịch sử từ cách mạng tháng Tám đến nay. Chủ nghĩa yêu nước cách mạng ấy trở thành của toàn thể dân tộc Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh là chủ nghĩa yêu nước của dân tộc ở thời hiện đại. Đó là chủ nghĩa yêu nước của dân tộc mang tên Người. Chủ nghĩa yêu nước truyền thống của dân tộc, dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin, đã có bước phát triển nhảy vọt về chất vươn lên ngang tầm thời đại. Trong bước phát triển nhảy vọt ấy, Hồ Chí Minh là người đặt nền móng đầu tiên cho việc hình thành một chủ nghĩa yêu nước kiểu mới ở giai đoạn mới của lịch sử dân tộc, mà những đặc điểm nổi bật là thống nhất dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Tư tưởng yêu nước của Người lớn dần lên từ truyền thống yêu nước của gia đình, quê hương và trước cảnh nước mất nhà tan, trước những nổi đau khổ của nhân dân, đặc biệt là những thất bại đau lòng của các phong trào yêu nước. Trong thời gian tìm đường cứu nước ở nước ngoài, Người còn được chứng kiến những nổi đau khổ và những thất bại đau lòng của nhân dân các dân tộc khác đấu tranh vì nền độc lập của Tổ quốc mình. Điều dễ thấy là từ năm 1920 cho đến khi về cõi vĩnh hằng toàn bộ tinh lực của Người và của Đảng tập trung vào vấn đề giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước. Nhưng tư tưởng yêu nước và chủ nghĩa yêu nước ở Người là có sự thống nhất với nhau trong bản chất khoa học và cách mạng. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, đã vươn lên lập trường giai cấp vô sản và ngang tầm đòi hỏi của sự nghiệp giải phóng đất nước trong thời hiện đại,trở thành chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa yêu nước ấy mang tinh thần cách mạng triệt để, mang tư tưởng nhân văn sâu sắc và được thể hiện trong sự thống nhất của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Đó cũng là sự thống nhất giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. 1.1.2. Sự ra đời chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh là một tất yếu lịch sử 1.1.2.1. Vai trũ của chủ nghĩa yêu nước truyền thống và sự bất cập của chủ nghĩa yêu nước theo tư tưởng phong kiến và tư sản dân tộc trong cuộc chống Pháp xâm lược giành lại độc lập dân tộc đầu thế kỷ XX Chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam đó đóng một vai trũ lịch sử cực kỳ to lớn đó là động lực tinh thần chủ yếu của nhân dân ta trong quỏ trỡnh lõu dài hàng chục thế kỷ dựng nước và giữ nước. Tuy nhiên, từ giữa thế kỷ XIX, khi dân tộc ta đứng trước sự xâm lược của chủ nghĩa tư bản phương Tây thỡ chủ nghĩa yêu nước ấy tỏ ra rất bất cập và bắt đầu bước vào một thời kỳ khủng hoảng kéo dài hơn nửa thế kỷ. Với sự xâm lược của thực dân Pháp, lần đầu tiên nhân dân Việt Nam đương đầu với một kẻ thù mới, đại diện cho một chế độ xó hội cao hơn chế độ phong kiến, nắm trong tay một nền kinh tế và kỷ thuật quân sự hiện đại, với những thủ đoạn thống trị tinh vi hơn. Chủ nghĩa yêu nước truyền thống tuy vẫn tiếp tục đóng vai trũ động lực tinh thần trong những cuộc chiến đấu đầu tiên của nhân dân vỡ độc lập dân tộc, nhưng đó tỏ ra kém hiệu lực hơn trước. Thời đại mới và kẻ thù mới đũi hỏi dõn tộc phải cú những vũ khớ tinh thần mới. Chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam có được cái cốt lừi nhõn dõn sõu sắc, nú bao hàm cả những lý tưởng về dân chủ và công bằng xó hội. Tuy nhiên, trong điều kiện lịch sử, trong những giới hạn chật hẹp của hệ tư tưởng phong kiến, lý tưởng về độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc của nhân dân chỉ có thể tương đồng với lý tưởng về một quốc gia phong kiến độc lập, có vua hiền tôi giỏi, thỏi bỡnh thịnh trị. Song, sự thối nát triền miên của một chế độ phong kiến suy tàn đó làm suy giảm trong lũng nhõn dõn niềm hy vọng về một xó hội bỡnh trị, một xó hội "nơi thôn cùng xóm vắng không có tiếng khóc thương, sầu thảm". Tuy nhiên trong xó hội phong kiến nhà Nguyễn, lý tưởng đó vẫn phát triển cao trong tâm hồn một bộ phận vua quan biểu hiện bằng những thất bại liên tiếp của các toán tính “Cần vương” khi đất nước bị Pháp xâm lược. Chủ nghĩa yêu nước với nội dung chính trị và lý tưởng xó hội "Cần vương" đó cáo chung, nhưng tỡnh cảm yêu nước mónh liệt của nhõn dõn với những truyền thống lịch sử bền vững thỡ vẫn cũn đó. Cái tâm hồn khoẻ khoắn, bừng bừng khí thế chiến đấu của dân tộc không mất đi mà chỉ tạm lắng xuống để chờ đợi một lý tưởng chính trị mới mẻ tỡm đến với nó. Lịch sử Việt Nam trong những năm cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX là những năm khủng hoảng về đường lối cứu nước, là những năm tỡm kiếm, rốn giũa vũ khớ tinh thần mới. Cú một thời kỳ, lý tưởng chính trị tư sản dân quyền đó tỡm đến tâm hồn yêu nước của người Việt Nam và muốn đóng vai trũ như lý tưởng "quân thần" xưa kia đó từng đóng. Sau khi phong trào kháng chiến cần vương tan vỡ, các sĩ phu, các nhà yêu nước đó phải suy nghĩ nhiều về nguyờn nhõn mất nước. Bộ phận tiên tiến nhất trong tầng lớp đó, qua những tác phẩm của các nhà cải cách Trung Quốc, Nhật Bản, đó tiếp xỳc với tân văn, tân thư và văn minh phương Tây đó đề ra, đường lối “khai dân trí, chấn dân khí”. Đường lối chống Pháp giành lại độc lập dân tộc, lập chế độ quân chủ lập hiến hoặc chế độ cộng hoà, phát triển nhà nước theo lối duy tân của Nhật và nhờ vào sự giúp đỡ của Nhật, thực chất chỉ là tư tưởng chính trị tư sản cải lương. Phong trào yêu nước Việt Nam trong những năm đó chứng tỏ rằng lý tưởng tư sản dân quyền hóy cũn lạ với quảng đại nhân dân Việt Nam. Với một sự nhạy cảm chính trị, nhân dân ta thấy rằng đây không phải là cái cần thiết đối với mỡnh. Lý tưởng đó với những nội dung trừu tượng, chung chung của nó không đáp ứng được những nhu cầu bức thiết của quần chúng công nông. Trong khi cơ sở xó hội cần thiết cho chủ nghĩa yêu nước tư sản phát triển là giai cấp tư sản bản xứ và tầng lớp tri thức gắn liền với giai cấp đó ở Việt Nam lại quá mỏng manh và yếu ớt. Vỡ vậy, hệ tư tưởng chính trị tư sản đi qua tâm hồn dân tộc một cách nhanh chóng và để lại dấu vết không đáng kể. Có thể xem đây là sự bất cập của hệ tư tưởng phong kiến, tư sản ở cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX trong đấu tranh giải phóng dân tộc. Cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa yêu nước phong kiến và tư sản tạo ra một chỗ trống trong tâm hồn dân tộc. Tâm hồn những người yêu nước Việt Nam đang đứng trước sự lựa chọn quyết liệt. Quay trở lại với hệ tư tưởng phong kiến thỡ quá lạc hậu. Tiến theo ngọn cờ "tự do, bỡnh đẳng, bác ái", theo mô hỡnh của nước Pháp đang thống trị mỡnh thỡ cũng chưa hứa hẹn điều gỡ tốt lành. Nếu tâm hồn yêu nước Việt Nam không gặp được hơi thở của thời đại, không kết hợp được một hệ tư tưởng chính trị tiên tiến thỡ chủ nghĩa yờu nước truyền thống mónh liệt của dân tộc Việt Nam có nguy cơ trở thành một chủ nghĩa yêu nước thuần tuý tỡnh cảm. Chủ nghĩa yêu nước truyền thống trầm lắng lại, chưa có phương hướng phát huy sức mạnh. Các nhà cách mạng đều yêu nước, thương dân sâu sắc, song họ không tỡm thấy con đường, lực lượng và phương pháp cách mạng để đánh thắng được đế quốc Pháp và bố lũ phong kiến tay sai. Chỉ cú lũng yờu nước và nhiệt tỡnh cứu nước thỡ chưa đủ để có thể giải phóng dân tộc. Tỡnh hỡnh đen tối và sẽ không có đường ra nếu như không chuyển hướng đường lối cứu nước theo lập trường của giai cấp công nhân, nếu như không kết hợp chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống với chủ nghĩa Mác-Lênin, và nâng chủ nghĩa yêu nước truyền thống lên một trỡnh độ mới về chất. Bởi vỡ mỗi thời đại có những quy luật chủ yếu của nó về con đường tiến hoá và cách mạng, vấn đề cách mạng bao giờ cũng gắn với vấn đề thời đại. 1.1.2.2. Thời đại mới, hoàn cảnh mới đũi hỏi chủ nghĩa yờu nước mới - chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh Tỡnh hỡnh thế giới trong những năm đầu thế kỷ XX cú những chuyển biến lớn. Cỏch mạng xó hội chủ nghĩa thỏng Mười Nga thành công vào năm 1917 đó mở ra con đường giải phóng giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức. Chính thời đại mới bắt đầu từ Cách mạng tháng Mười Nga đó quy định và chỉ ra sự cần thiết phải kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong các cuộc cách mạng. Cách mạng tháng Mười Nga đó tỏc động vào các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc ở khắp các lục địa, hướng họ đi tới cách mạng vô sản và liên minh với giai cấp vô sản. Nó là một tấm gương đối với nhân dân lao động thế giới, đặc biệt là đối với nhân dân các dân tộc phương Đông - những dân tộc mà bọn đế quốc đó nô dịch và đang tiếp tục nô dịch, kỡm hóm họ trong vũng đói khổ và luôn luôn trà đạp lên tinh thần dân tộc của họ. Chính lúc phong trào yêu nước Việt Nam đang trong tỡnh trạng khủng hoảng về đường lối cứu nước đó xuất hiện Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc một thanh niên cách mạng quyết tâm đi tỡm đường cứu nước và anh đó tỡm thấy con đường cứu nước mỡnh trong con đường cứu các nước của cách mạng vô sản, con đường của cách mạng tháng Mười Nga. Là một nhà yêu nước vĩ đại, Hồ Chí Minh là sự kết tinh truyền thống yêu nước, đạo lý làm người trong bốn ngàn năm của dân tộc, Người cũn tiờu biểu cho những truyền thống nhõn nghĩa, nhõn ỏi lõu đời của nhân dõn ta. Lũng yờu nước, thương người cùng khổ, yêu thương nhân loại cần lao bị áp bức, bóc lột đó làm cho Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh sớm nhận ra chủ nghĩa đế quốc không chỉ là kẻ thự của dõn tộc mỡnh, mà cũn là kẻ thù chung của các dân tộc và từng bước Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin - chủ nghĩa quốc tế vô sản. Công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với nhân dân Việt Nam chính là Người đó tỡm ra con đường cứu nước mới, con đường cách mạng chân chính và do đó đó đưa cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Con đường đó là con đường cách mạng vô sản. Trong lời tự bạch của mỡnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: Lúc đầu chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đó đưa tôi tin theo Lênin, tin theo quốc tế thứ ba. Từng bước một trong cuộc đấu tranh vừa nghiờn cứu lý luận Mác - Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xó hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phúng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ [43, tr.128]. Sự phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa cộng sản, việc Người xuất phát từ động cơ yêu nước, ra đi tỡm đường cứu nước và đó tỡm thấy con đường cứu nước ở con đường của cách mạng vô sản, ở chủ nghĩa Mác - Lênin và Cách mạng tháng Mười, đánh dấu bước chuyển biến quyết định trong lịch sử cách mạng Việt Nam, đó chấm dứt thời kỳ khủng hoảng tương đối dài về đường lối cứu nước của nhân dân ta những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Với con đường đó, một chủ nghĩa yêu nước kiều mới, chủ nghĩa yêu nước theo hệ tư tưởng cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin đó ra đời và đóng vai trũ động lực tinh thần cho nhân dân ta trong cuộc trường chinh lịch sử mới của dân tộc giành lại độc lập, tự do từ tay đế quốc hùng mạnh. Chủ nghĩa yêu nước mới - chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh mang một bản chất giai cấp và một nội dung khác về chất với chủ nghĩa yêu nước truyền thống theo tư tưởng phong kiến và tư sản. Đó là một chủ nghĩa yêu nước theo lập trường chính trị của một giai cấp hoàn toàn mới trong lịch sử Việt Nam, giai cấp công nhân Việt Nam. Đó là chủ nghĩa yêu nước của một thời đại mới, thời đại chưa hề có trước đây, thời đại quá độ lên CNXH bắt đầu từ cuộc đại cách mạng tháng Mười Nga. Đó cũng là chủ nghĩa yêu nước thuộc một hệ tư tưởng tiên tiến nhất, hệ tư tưởng cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin. Rừ ràng, chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh đó khắc phục được nhược điểm cảm tính và trực quan của chủ nghĩa yêu nước phong kiến và tư sản trước đây. Công bằng mà nói trong tinh thần yêu nước truyền thống đó cú ớt nhiều tớnh mục tiờu, cú lý tưởng xó hội và biện phỏp đấu tranh, nhưng nét chủ yếu trong chủ nghĩa yêu nước truyền thống là nhiệt tỡnh yờu nước nồng nàn, là tâm hồn yêu nước rực cháy, biểu hiện thành hành động anh hùng trong sự nghiệp cứu nước và giữ nước. Chủ nghĩa yêu nước truyền thống trước Hồ Chí Minh chưa thể trở thành một hệ luận chính trị yêu nước có hệ thống chặt chẽ theo đúng nghĩa khoa học của từ này. Chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh không chỉ kế thừa, phỏt triển tỡnh cảm yờu nước nồng nàn, mónh liệt của dân tộc đến những đỉnh cao mới, mà cũn hỡnh thành một hệ thống những quan điểm về con đường cứu nước, về mục tiờu xó hội, về chiến lược và sách lược và biện pháp đấu tranh để giành và giữ độc lập dân tộc. Nghĩa là đó hỡnh thành và phỏt triển một lý luận chớnh trị yờu nước với tư cách một bộ phận của lý luận cách mạng Việt Nam. Chính bằng cách đó, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam kiểu Hồ Chí Minh đó mang trong mỡnh đầy đủ các yếu tố để trở thành một chủ nghĩa yêu nước với nghĩa hoàn chỉnh của từ này, và đó trở thành một trào lưu lý luận, tư tưởng và tỡnh cảm thống nhất của mỗi người Việt Nam trong hoàn cảnh mới. “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Và “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bỡnh đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vỡ mọi người, niềm vui, hoà bỡnh, hạnh phỳc” [34, tr.461]. Kết luận ấy thật sự đó tạo ra một bước ngoặt quyết định đối với con đường cứu nước của dân tộc Việt Nam, nâng chủ nghĩa yêu nước Việt Nam lên một chất lượng mới, kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Đó chính là chủ nghĩa yêu nước kiểu mới - chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh. 1.1.3. Sự hỡnh thành chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh 1.1.3.1. Hồ Chí Minh đó nâng chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam lên tầm cao mới - chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh Hồ Chí Minh đó từng khẳng định: Dõn ta cú một lũng nồng nàn yờu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng, thỡ tinh thần ấy lại sụi nổi, nú kết hợp thành một làn song vụ cựng mạnh mẽ, to lớn, nú lướt qua mọi nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chỡm tất cả lũ bỏn nước và lũ cướp nước [39, tr.171]. Cuộc đời hoạt động yêu nước, cách mạng của Hồ Chí Minh đó khẳng định đanh thép và là một minh chứng rực rỡ cho chân lý lịch sử hào hựng đó. Đau xót trước cảnh đoạ đầy đau khổ, trước cuộc sống nô lệ đầy máu và nước mắt của đồng bào ta dưới ách thống trị hà khắc của thực dân Pháp và phong kiến tay sai, nhận thấy sự bế tắc của phong trào yêu nước ở nước ta hồi đầu thế kỷ XX, ngày 05 tháng 06 năm 1911 Bác Hồ kính yêu của chúng ta đó ra đi tỡm đường cứu nước đúng đắn “về cho đồng bào”. Mối quan tâm đầu tiên và chủ yếu của Người lúc mới bước chân ra đi tỡm đường cứu nước cũng như trong suốt quá trỡnh hoạt động về sau này là làm sao đem lại độc lập cho Tổ quốc, tự do hạnh phúc cho đồng bào - "Độc lập cho Tổ quốc tôi, tự do, hạnh phúc cho đồng bào tôi". Ở Chủ tịch Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước sớm được hỡnh thành khụng phải như một ý niệm mơ hồ, trừu tượng mà bắt nguồn từ tỡnh thương yêu nhân dân sâu sắc, niềm tự hào về truyền thống anh hùng của dân tộc. Ở Người có rất nhiều phẩm chất quý báu. Đó là yêu ghét phân minh, bạn thù rừ rệt. Đó là nghĩa nước gắn chặt với tỡnh dõn, tỡnh dõn là cỏi gốc của nghĩa nước. Ở Người là sự trung với nước hiếu với dân, là hai mặt không thể tách rời nhau. Người không chỉ thông cảm sâu sắc với đời sống lầm than cực khổ của quần chúng công nông trên đất nước mỡnh mà là tất cả những người nghèo khổ, những người lao động bị bóc lột ở tất cả các nơi mà người đó đi qua trên thế giới. Người đau nỗi đau của họ, có ý thức đứng về phía họ tỡm cỏch giỳp họ thoỏt khỏi búc lột, thoỏt khỏi nghốo nàn lạc hậu và mọi nỗi khổ đau do chủ nghĩa đế quốc gây nên. Tinh thần thương dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh khác về chất với tinh thần “dõn vi quý” của các nhà yêu nước thuộc các giai cấp thống trị trước đây trong lịch sử. Khác ở chỗ, khái niệm “dân” của chủ tịch Hồ Chí Minh bao hàm một nội dung giai cấp cụ thể, chỉ rừ thành phần chủ yếu chiếm tuyệt đại đa số trong "dân" là nhân dân lao động. Đồng thời cũng khỏc ở chỗ tỡnh cảm yờu dõn của Chủ tịch Hồ Chớ Minh khụng phải là tỡnh cảm của người trên nhỡn xuống. Theo Hồ Chớ Minh, yờu dõn thỡ phải làm đầy tớ trung thành của dân, hết lũng hết sức phục vụ nhõn dõn. Tỡnh yờu dõn của Chủ tịch Hồ Chớ Minh xuất phỏt từ niềm tin tưởng không bờ bến vào sức mạnh của dân. Người khẳng định: “Công nông là gốc cách mạng”, “Công nông là người chủ cách mạng” [35, tr.266]. Người đó sớm nhận ra sai lầm bất hợp lý trong những phương thức cứu nước theo tư tưởng phong kiến hoặc theo khuynh hướng tư sản. Bởi vậy, Người đó đi về phía những người lao động để tỡm con đường cứu nước mới và Người đó đứng hẳn vào đội ngũ của giai cấp vô sản, một giai cấp mang bản chất quốc tế. Con người yêu nước Nguyễn Ái Quốc đó hoà làm một với con người công nhân. Chân lý rất sơ đẳng, nhưng lại rất căn bản, là ở đâu chủ nghĩa tư bản cũng tàn ác và vô nhân đạo, ở đâu giai cấp vô sản và các tầng lớp nhân dân lao động cũng đều bị chủ nghĩa tư bản áp bức bóc lột một cách giống nhau: "Ở đâu trên thế giới này cũng có hai loại người là một loại người bóc lột và một loại người bị bóc lột". Chân lý ấy đó được Người trực tiếp thể hiện qua cuộc sống lao động làm thuê của mỡnh ở nhiều nước tư bản chủ nghĩa khác nhau, qua dân tin ở quần chúng lao động đó dẫn Người đi tới tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin một cách nhanh chóng và sâu sắc những năm sau đó. Động cơ đầu tiên và cũng là cuối cùng của việc lựa chọn con đường xó hội chủ nghĩa là do Người đó nhận thức được rằng “Chỉ có giải phóng giai cấp vụ sản thỡ mới giải phúng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới” [34, tr.416]. Rừ ràng là lúc đầu chính vỡ chủ nghĩa yờu nước, chính vỡ tha thiết với độc lập dân tộc mà Nguyễn Ái Quốc đó tin theo Lênin, tin theo quốc tế thứ ba, rồi trở thành một trong những người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Khi đọc được luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin, Người đó vui mừng đến phát khóc lên. Bởi vỡ Người nhận thấy ở đó con đường cứu nước, con đường giải phóng dân tộc đúng đắn nhất kể từ khi Người ra đi tỡm đường cứu nước, cứu dân. Luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa là lập trường giải quyết các vấn đề dân tộc và thuộc địa theo những nguyên tắc của giai cấp công nhân quốc tế mà quốc tế thứ ba là đại biểu. Trong luận cương ấy Lênin núi rừ: Trong chính sách của quốc tế cộng sản về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa phải là làm cho giai cấp vô sản và quần chúng lao động của tất cả các dân tộc và tất cả các nước gần gũi nhau để tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng chung nhằm lật đổ bọn địa chủ và giai cấp tư sản. Bởi vỡ cú sự gần gũi ấy mới đảm bảo việc chiến thắng chủ nghĩa tư bản, nếu không có chiến thắng đó thỡ khụng thể thủ tiờu được ách áp bức dân tộc và tỡnh trạng bất bỡnh đẳng [32, tr.199]. Người đó nờu ra luận điểm đấu tranh giải phóng dân tộc phải gắn với đấu tranh giải phóng giai cấp, chủ nghĩa yêu nước phải kết hợp với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Với Nguyễn Ái Quốc, lũng yờu nước có nghĩa là yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, yêu giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới. Chủ nghĩa yêu nước chân chính là cơ sở tốt đẹp để tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin mở đường đó thỳc đẩy chủ nghĩa yêu nước phát huy mạnh mẽ. Ở Người, hai dũng tư tưởng này luôn hoà quyện vào nhau tạo nên một tầm nhỡn xa trụng rộng, đúng với xu thế phát triển của thời đại mới, để từ đó đưa ra một đường lối chiến lược và phương pháp cách mạng đúng đắn cho cách mạng Việt Nam. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đó phõn tớch xó hội Việt Nam và chỉ ra mõu thuẫn giữa dõn tộc và thực dõn, đế quốc và nông dân với giai cấp tư sản, địa chủ, đồng thời đó nhận thấy rằng giai cấp công nhân tuy nhỏ bé nhưng có sứ mệnh và tiền đồ thật to lớn là giai cấp lónh đạo cách mạng. Giai cấp công nhân cần phải liên minh với giai cấp nông dân và sự liên minh ấy trở thành lực lượng nũng cốt của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Như vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin đó đóng vai trũ to lớn trong đường lối cứu nước của Hồ Chí Minh và tạo ra bước ngoặt quan trọng trong đường lối cứu nước của lịch sử dân tộc. Qua trí tuệ sáng tạo của Người, chủ nghĩa yêu nước truyền thống được soi sáng bằng chủ nghĩa Mác - Lênin đó vươn lên ngang tầm thời đại. Và trên thực tế nó đó đáp ứng được yêu cầu của cách mạng nước ta. Hồ Chí Minh đó kế thừa tư tưởng của C.Mác về xây dựng giai cấp dân tộc và của Lênin về sự liên minh chiến đấu của hai phong trào cách mạng ấy. Song Người cũn đề xuất một tư tưởng hết sức sáng tạo rằng: Cách mạng giải phóng dân tộc cần phải chủ động và có thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở “chính quốc”. Người viết: Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân Châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân lũng tham khụng đáy họ sẽ hỡnh thành một lực lượng khổng lồ, và khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mỡnh ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn [34, tr.36]. Như vậy, ở Người tư tưởng về sự thống nhất dân tộc với giai cấp, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xó hội đó hỡnh thành và phỏt triển ở thời kỳ này. Về hai nền dân chủ tư sản và vô sản, Người đó viết: Một đặc điểm đặc biệt nhất biểu hiện sự "dã man" của những người Bônsêvích là không những họ coi "những người dân thuộc địa thấp kém" ấy như anh em, mà còn tổ chức cho họ tham gia đời sống chính trị của nước Nga nữa...Những người không có quyền gì khác hơn là quyền nộp thuế...thì nước Nga xô viết những người đó được tham gia bầu cử và cử đại biểu của họ vào xô viết [34, tr.300 - 301]. Và được bàn bạc về chính trị. Vậy là, theo Người, "nền văn minh khai hóa cao cả" của chế độ dân chủ tư sản không có ý nghĩa thực tế "Khai hóa" cho nhân dân các dân tộc thuộc địa. Với thực tế thấu hiểu sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lênin về đấu tranh giai cấp, Hồ Chí Minh đã có sự tổng kết tình hình chính trị, kinh tế, xã hội ở Việt Nam, có sự phân tích sâu sắc từng giai cấp, tầng lớp xã hội cả trong quá khứ và hiện tại. Trong báo cáo gửi quốc tế cộng sản, Người đã chỉ rõ: "Triều đình và quan chức lệ thuộc tuyệt đối vào chính quyền Pháp. Họ bị chủ Pháp của họ khinh bỉ và nhân dân An Nam ghét". Thiểu số các nhà nho hay các nhà trí thức là các nhà cách mạng dân tộc chủ nghĩa chính họ đã kích động mọi cuộc nổi dậy trong quá khứ. Công nhân có thể là 2% trong dân số, không được học hành, không được tổ chức, do vậy họ không có một lực lượng chính trị nào. Tiểu tư sản không nhiều, là một phần tử bấp bênh. Nó chịu sự chi phối của nhiều thứ triết lý, như là nó hướng vào phong trào dân tộc rất vội vã. Nó nhút nhát. Quần chúng nông dân bị bóc lột nhất và cùng khổ nhất, rất yêu nước, Người rút ra kết luận: "Tuyên truyền tốt trong nông dân và tổ chức tốt công nhân nếu chúng ta làm tới được điều đó thì tương lai thuộc về chúng ta" [34, tr.204]. Từ đó Hồ Chí Minh đã phát hiện ra rằng: Đối với giai cấp công nhân Việt Nam đang cần có một chính Đảng chắc chắn để tổ chức và huấn luyện họ, và lực lượng nòng cốt của cách mạng là liên minh công nông, dù rằng họ còn nhiều hạn chế, nhưng họ là những người cùng khổ nhất và rất yêu nước. Đảng đó cần và nhất thiết đại diện cho lợi ích của cả dân tộc và giai cấp, Tổ quốc, nhân dân, xã hội và cá nhân. Trong tác phẩm: Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ. Hồ Chí Minh chỉ rõ rằng ở Việt Nam "cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như ở Phương Tây". Sau khi phân tích tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, các tầng lớp, các giai cấp, phân tích tỉ mỷ cơ cấu tổ chức xã hội và lịch sử xã hội Việt Nam, Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận: Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước. Chính nó đã gây nên cuộc nổi dậy chống thuế năm 1908, nó dạy cho người culi biết phản đối, nó làm cho những người "Nhà quê" phản đối ngầm trước thuế tạp dịch và thuế muối. Cũng chủ nghĩa dân tộc đã luôn luôn thúc đẩy các nhà buôn An Nam cạnh tranh với người Pháp và người Trung Quốc. Nó đã thúc giục thanh niên bãi khóa, làm cho những nhà cách mạng tiến sang Nhật Bản và làm vua Duy Tân mưu tính khởi nghĩa năm 1917 [34, tr.464]. Hồ Chí Minh nhận thấy ở Việt Nam "Chiến tranh đã làm thay đổi chủ nghĩa dân tộc" thành chủ nghĩa dân tộc bản xứ và đề nghị "phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh quốc tế cộng sản... Một chính sách mang tính hiện thực tuyệt vời. Giờ đây người ta không thể làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên động lực vĩ đại và duy nhất của đời sống xã hội của họ" [34, tr 466, 467]. Chủ nghĩa dân tộc bản xứ ở đây chúng ta cần hiểu là ý thức yêu nước và tinh thần dân tộc. Theo Hồ Chí Minh ở Việt Nam chỉ có kết hợp phong trào giải phóng dân tộc với phong trào cách mạng vô sản thành nguồn động lực chung thì cách mạng mới có sức mạnh và mới giải quyết được vấn đề hiện tại của thực tiễn đất nước. Điều đó có nghĩa tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội nhằm thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp và giải phóng con người cũng đã được phát triển ở thời kỳ này. Dự kiến về cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Việt Nam trong tương lai Hồ Chí Minh viết: Phải có tính chất một cuộc khởi nghĩa quần chúng chứ không phải một cuộc nổi loạn. Cuộc khởi nghĩa phải được chuẩn bị trong quần chúng, nổ ra trong thành phố, theo kiểu các cuộc cách mạng ở Châu Âu, chứ không phải nổ ra đột ngột ở biên giới Trung Quốc, theo phương pháp của những nhà cách mạng trước đây [34, tr.468 - 469]. Như vậy, Hồ Chí Minh đã phát triển những tư tưởng cơ bản về đường lối cứu nước, giải phóng dân tộc từ trước khi Người thực hiện chuyến công tác về Trung Quốc và Việt Nam (1924) để thiết lập đường dây liên lạc giữa Việt Nam và quốc tế cộng sản. Từ đó, Người có quan hệ chặt chẽ với những người yêu nước Việt Nam thường xuyên có những chỉ dẫn cụ thể và chuẩn bị mọi mặt cho việc tiến tới thành lập Đảng cộng sản Việt Nam. Trong "Chánh cương vắn tắt", "Sách lược vắn tắt", "Điều lệ vắn tắt"...những tư tưởng trên của Người đã được khẳng định và được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng 3/2/1930. ở đây cần phải nhấn mạnh rằng độc lập, tự do, hạnh phúc được Người hiểu dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và trên lập trường giai cấp vô sản nhằm mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nhưng sau đó Hồ Chí Minh đã phải kiên trì đấu tranh trong nhiều năm và rất khôn khéo trong đấu tranh để giữ mình và giữ vững mục tiêu đã chọn. Quá trình từ 1941 - 1969 là quá trình bổ sung phát triển và hoàn thiện những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh. Quan điểm của Người phù hợp với quan điểm trong luận cương của Lênin - Vấn đề dân tộc là một bộ phận hợp thành của cách mạng vô sản thế giới. Sự kết hợp chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân và chủ nghĩa yêu nước chân chính của Người là sự kết hợp được thực hiện trên cơ sở lập trường giai cấp công nhân, và vì thế đây không là một sự kết hợp nữa mà là một sự thống nhất, một sự hòa hợp đến mức không thể tách rời được. Có thể nói Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân của cuộc đấu tranh cho khẩu hiệu của Lê nin: "Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại". Người đã tích cực kêu gọi những người vô sản các nước đế quốc chủ nghĩa hãy vì lợi ích của bản thân mình, vì nghĩa vụ quốc tế mà hết sức quan tâm ủng hộ phong trào cách mạng giải phóng của các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc. Ngược lại, Người cũng nêu cao ý nghĩa của phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc đối với sự nghiệp cách mạng vô sản ở các nước đế quốc chủ nghĩa. Cống hiến lớn nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với phong trào giải phóng dân tộc chính là những đóng góp của Người về phương diện lý luận cũng như quan điểm chiến lược về cuộc cách mạng đó. Người đã gắn chặt chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. Trong lịch sử phong trào giải phóng dân tộc thế giới, chủ tịch Hồ Chí Minh là người đầu tiên làm rõ sức mạnh tấn công và vị trí quan trọng đặc biệt của phong trào giải phóng dân tộc trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là người sớm nêu lên tinh thần chủ động cách mạng tấn công của phong trào giải phóng dân tộc và sớm khẳng định vai trò lãnh đạo cách mạng của giai cấp công nhân ở các nước thuộc địa, nơi phần lớn dân cư là nông dân, giai cấp công nhân chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ. Người chỉ ra cho nhân dân các nước thuộc địa phải đoàn kết tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ giúp đỡ của giai cấp công nhân trên thế giới, phát huy cao độ lòng yêu nước chân chính, ý chí tự lực tự cường và không thể ngồi đợi cách mạng vô sản ở chính quốc giải phóng cho mình, mà phải chủ động đứng lên làm cách mạng góp phần vào sự nghiệp chung của cách mạng thế giới. Hai cuộc cách mạng này phải tiến hành đồng thời tác động hỗ trợ lẫn nhau. Người nhấn mạnh rằng: Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập, mỗi một người cần phải hiểu rõ có tự lực mới độc lập, có tự cường mới có tự do; Muốn người ta giúp mình thì trước hết phải tự giúp lấy mình đã. Người kêu gọi tinh thần đoàn kết của tất cả những người yêu nước: "Vì có đoàn kết mới có lực lượng, có lực lượng mới giành được Độc Lập Tự Do" [36, tr.553]. Quán triệt và vận dụng sáng tạo những luận điểm của Lênin về quy luật phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và khả năng giành thắng lợi của cách mạng vô sản trong một vài nước, thậm chí trong một nước riêng biệt, Người cho rằng trong những điều kiện chủ quan và khách quan cho phép, nếu các dân tộc bị áp bức biết thúc đẩy và chớp lấy thời cơ nổi dậy khởi nghĩa, họ có thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Người rất chú trọng phát triển tính năng động, tính tích cự của yếu tố chủ quan trong mối quan hệ với khách quan và thực tại. Người viết: "Chúng ta phải dùng tinh thần hăng hái của toàn dân để tìm cách giải quyết sự thiếu kém vật chất" [39, tr.163], và "Vật chất cố nhiên là trọng, tinh thần cũng là trọng. Có khi địch vật chất hơn ta mà ta tinh thần hơn nó, nên ta thắng nó" [41, tr.383]. Trong thực tiễn cách mạng Việt Nam, Người đã dựa vững chắc trên những nguyên lý quy luật của triết học duy vật biện chứng và duy vật lich sử để tìm tòi, phát hiện mâu thuẫn của bản thân đối tượng, hiện tượng cụ thể và tư duy sáng tạo trong việc lựa chọn phương pháp giải quyết tối ưu nhất. Kết hợp với sự hiểu biết sâu sắc truyền thống lịch sử dân tộc và những tinh hoa của tư duy truyền thống, Người đã đưa ra cách giải quyết đúng đắn nhất cho cách mạng giải phóng dân tộc. Về điều này có thể lấy một số dẫn chứng, ví dụ như: Về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, vấn đề cách mạng giải phóng dân tộc trong quỹ đạo của cách mạng vô sản, vấn đề tập hợp lực lượng cách mạng và mối quan hệ giữa con người với vũ khí, vấn đề phản đế và phản phong..., đã được Hồ Chí Minh giải quyết rất sáng tạo, nó đã cho thấy tính đặc thù trong tư duy của Người là khả năng tổng kết thực tiễn, suy xét hết sức sâu sắc và suy nghĩ độc lập, tìm, phát hiện và giải quyết mâu thuẫn ở từng đối tượng cụ thể của hiện thực. Trên cơ sở của sự tổng kết lịch sử về truyền thống dân tộc Hồ Chí Minh đã chủ trương "Phát triển tinh thần yêu nước" và "làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến" [39, tr.172], đồng thời phải kết hợp chặt chẽ tinh thần yêu nước với tinh thần quốc tế vô sản. Như vậy, dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa yêu nước truyền thống đã có bước nhảy vọt về chất, trở thành chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa yêu nước thời đại Hồ Chí Minh đã dựa vững chắc trên lập trường giai cấp vô sản, đã bổ sung thêm "cơ sở lịch sử" cho chủ nghĩa Mác - Lênin và "Củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông" [34, tr.465]. Và chỉ có Hồ Chí Minh mới thực hiện được điều đó, mới tiếp thu được và tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin và hiện thực nó ở Việt Nam. Dân tộc Việt Nam có một di sản quý là chủ nghĩa yêu nước truyền thống. Dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa yêu nước truyền thống vươn lên ngang tầm thời đại trở thành chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh, và chỉ có Hồ Chí Minh mới thực hiện được sự kết hợp chặt chẽ hai thành phần cơ bản nói trên trong cách mạng Việt Nam hồi đầu thế kỷ XX. Không được chủ nghĩa Mác - Lênin soi sáng thì chủ nghĩa yêu nước truyền thống không thể tránh khỏi tình trạng bất cập trước thời đại đế quốc chủ nghĩa. Ngược lại, không được chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam bổ sung thì chủ nghĩa Mác - Lênin thiếu mất mảng nhận thức những vấn đề phương Đông. Nếu không nhận thức được tình hình đặc thù của Việt Nam thì làm sao soi sáng cho vấn đề dân tộc cụ thể của Việt Nam, mà đặc điểm xuyên suốt từ trong lịch sử xa xưa đến thời hiện đại là lấy yếu thắng mạnh. Hai nhân tố cơ bản trên tất yếu phải qua một thiên tài trí tuệ mới có thể kết hợp với nhau. Như lịch sử đã chứng minh, thiên tài trí tuệ ấy là Hồ Chí Minh. Từ những điều trình bày ở trên, chúng ta có thể khẳng định quá trình hình thành chủ nghĩa yêu nước của Nguyễn ái Quốc - Hồ Chí Minh vừa có mặt tiếp thu truyền thống yêu nước chống xâm lược tốt đẹp của gia đình, của quê hương, của dân tộc, nhưng khác hẳn về chất với chủ nghĩa yêu nước của các sĩ phu lớp trước, từ các sĩ phu yêu nước trong phong trào Cần Vương cuối thể kỷ XIX đến các sĩ phu tiến bộ của các cuộc vận động Duy tân miền Trung, của Đông kinh nghĩa thục ngoài Bắc. Đặc điểm của chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh mang dấu ấn sâu sắc của tính nhân dân, tính nhân văn, tính giai cấp. Đó là tình thương yêu vô cùng rộng lớn đối với nhân dân lao động, đối với những người cùng khổ, đối với công nhân không chỉ giới hạn trong phạm vi nước mình, mà còn mở rộng ra cả nhân dân lao động, những người cùng khổ, giai cấp công nhân các nước trên toàn thế giới. Từ một người yêu nước tiến bộ trở thành người cộng sản, một chiến sỹ xã hội chủ nghĩa, một lãnh tụ phong trào giải phóng dân tộc, chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng lập Đảng ta, chấm dứt tình trạng khủng hoảng và bế tắc về đường lối lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Người đã lãnh đạo thành công cuộc cách mạng dân tộc - dân chủ - nhân dân tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, lần đầu tiên biến chủ nghĩa Mác - Lênin thành hiện thực sinh động trong một nước thuộc địa nửa phong kiến. Tất cả những điều đó là lòng trung thành vô hạn của Người đối với Tổ quốc Việt Nam và đối với chủ nghĩa Mác - Lênin. Con đường từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa xã hội là con đường của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng thời là con đường hợp quy luật của dân tộc Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh là sản phẩm Việt Nam mà cũng là sản phẩm nhân loại. 1.1.3.2. Mấy đặc điểm thể hiện bản chất của chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh thông qua sự hình thành * Đặc điểm thứ nhất: Sự kết hợp chủ nghĩa yêu nước truyền thống với chủ nghĩa Mác - Lênin đã đối lập với chủ nghĩa quốc gia cải lương và chủ nghĩa yêu nước vị kỷ, sô vanh. Trong quá trình bôn ba tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh là nhà yêu nước Việt Nam đầu tiên đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và đã kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống thành chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh. Trong sự kết hợp ấy, chủ nghĩa Mác - Lênin được Hồ Chí Minh bổ sung cách nhìn từ phía một dân tộc thuộc địa phương Đông bị áp bức, bóc lột, còn chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống đã vươn lên ngang tầm thời đại dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin và trên lập trường giai cấp vô sản. Chủ nghĩa Mác - Lênin lấy mục tiêu giải phóng giai cấp, tiến lên giải phóng con người làm điểm trung tâm, làm động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Còn chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh lại đặt vấn đề giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp, tiến lên giải phóng con người. Đó là nguồn lực của cách mạng Việt Nam trong đấu tranh giành độc lập, thống nhất và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ngay từ khi mới thành lập, trong cương lĩnh chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh sáng lập đã xác định rõ cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn chiến lược. Trước tiên làm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, chống đế quốc, chống phong kiến, giành độc lập dân tộc, từng bước thực hiện quyền tự do dân chủ của nhân dân, đem lại ruộng đất cho nông dân. Tiếp sau đó là đi lên chủ nghĩa xã hội, giải phóng hoàn toàn giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đây được xem là một sáng tạo lớn của Hồ Chí Minh trong việc vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cách mạng Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc thống nhất với chủ nghĩa xã hội là mục tiêu của cách mạng Việt Nam, cả trong hiện tại và tương lai. Giá trị của tư tưởng này không chỉ đối với cách mạng Việt Nam mà còn đối với cách mạng giải phóng dân tộc của các dân tộc thuộc địa trên thế giới. Chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh có sự kết hợp nhuần nhuyễn lập trường dân tộc với lập trường giai cấp vô sản trong bản chất và tổng thể, nhưng trong giai đoạn cách mạng giải phóng dân tộc thì đặt lợi ích dân tộc, nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trên hết và trước hết. Chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh thủy chung thống nhất với chủ nghĩa quốc tế vô sản, lý luận và thực tiễn luôn ăn khớp với nhau giữ vững lợi ích của dân tộc và luôn luôn tôn trọng lợi ích của các dân tộc khác. Như chúng ta đã biết chủ nghĩa yêu nước truyền thống được hình thành và phát triển từ lịch sử xa xưa đến hết thời kỳ phong kiến nhưng chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh được hình thành và phát triển trong thời hiện đại. Do vậy, chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh đề cập và giải quyết nhiều vấn đề có ý nghĩa sống còn của dân tộc ở giai đoạn mới mà chủ nghĩa yêu nước truyền thống chưa từng biết đến, như vấn đề đấu tranh giai cấp, cách mạng vô sản, đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế,... hoặc có biết đến thì cũng hoàn toàn bất lực không giải quyết nổi. Chủ nghĩa yêu nước truyền thống gắn liền với những hệ tư tưởng cũ và bị chi phối bởi nhiều học thuyết đã lỗi thời. Nhưng chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh gắn liền với hệ tư tưởng vô sản, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của mình. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống vốn bao hàm sâu đậm quan điểm thân dân đã nhận thức được tầm quan trọng của vai trò con người và lực lượng nhân dân trong đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, đã thực hiện được chính sách thân dân cố kết lòng người....Nhưng điều chắc chắn là chủ nghĩa yêu nước ấy và những nhà tư tưởng của nó đã không đạt đến tư tưởng nâng con người và nhân dân lên địa vị chủ nhân của đất nước, không đạt được tư tưởng tất cả vì tự do hạnh phúc của nhân dân, càng không có tư tưởng thay đổi về chế độ xã hội. Trong chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh, giai cấp công nhân Việt Nam được khẳng định giữ vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Con đường phát triển của cách mạng Việt Nam do giai cấp công nhân lãnh đạo tất yếu là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Và dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin, giác ngộ dân tộc của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống đã vươn lên giác ngộ giai cấp vô sản, đấu tranh giải phóng dân tộc thống nhất với đấu tranh giải phóng giai cấp. Cuộc đấu tranh đó tất yếu đưa đến độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Từ giác ngộ dân tộc tiến lên giác ngộ giai câp vô sản là bước nhảy vọt cơ bản trong tư duy lý luận Hồ Chí Minh. Người hiểu sâu hơn vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, đồng thời càng sâu sắc hơn trong giác ngộ dân tộc để kiên trì lý tưởng phục vụ lợi ích giai cấp công nhân và dân tộc. Hồ Chí Minh thường xuyên giáo dục cán bộ, đảng viên và quần chúng, là trong xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp, thì mỗi người đều phải theo lập trường một giai cấp nhất định, người cách mạng phải đứng về phía giai cấp công nhân. Người luôn phê phán thái độ "đứng ngoài giai cấp", "siêu giai cấp", phê phán thái độ mơ hồ, không xác định rõ ràng, dứt khoát quan điểm giai cấp. Theo Người, chỉ có đứng hẳn về phe lao động, phe công nông, phe tương lai, phe tiến bộ thì mới vững chắc được. Cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ ở nước ta là một phong trào cách mạng rộng lớn của quần chúng nhân dân đông đảo, chủ yếu là của công nhân và nông dân đấu tranh cho độc lập dân tộc và dân chủ, chống đế quốc và phong kiến. Trong cuộc đấu tranh rộng lớn và vô cùng phong phú đó, những mục tiêu và lợi ích dân tộc và giai cấp, kinh tế và chính trị, trước mắt và lâu dài của phong trào gắn bó với nhau hết sức chặt chẽ. Cũng giống như giai cấp công nhân quốc tế, giai cấp công nhân Việt Nam có những lợi ích giai cấp riêng của mình, cả những lợi ích trước mắt hàng ngày lẫn những lợi ích cơ bản lâu dài. Nhưng giai cấp công nhân lại là một bộ phận của dân tộc và là bộ phận năng động nhất, có hệ tư tưởng cách mạng và khoa học. Thông qua chính đảng của mình, giai cấp công nhân phải giải quyết vấn đề giải phóng dân tộc khỏi áp bức bóc lột của chủ nghĩa đế quốc là vấn đề cơ bản hàng đầu, định ra cương lĩnh cứu nước và đi đầu trong phong trào của nhân dân thực hiện cương lĩnh đó. Theo Hồ Chí Minh đứng hẳn về giai cấp công nhân có nghĩa là: 1) Phải giữ vững hệ tư tưởng vô sản với nội dung cách mạng và sáng tạo. 2) Phải giữ vững vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân, với đội tiên phong của nó là Đảng cộng sản, và đảm bảo lợi ích thống nhất của giai cấp công nhân và của dân tộc. 3) Phải sáng tạo khoa học trong việc vận dụng những nguyên tắc cách mạng vào việc phân tích tình hình, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể từng nơi, từng lúc mà đề ra được đường lối chiến lược và những sách lược phù hợp. Rõ ràng vấn đề dân tộc gắn liền với giai cấp là xây dựng giai cấp công nhân thành một giai cấp dân tộc và làm cho giác ngộ dân tộc sâu sắc hơn, khoa học hơn. Điều đó giúp cho việc phân biệt rõ, đúng vị trí và vai trò của từng thành viên xã hội trong cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Tóm lại, ý thức yêu nước, tinh thần dân tộc gắn liền với hệ tư tưởng vô sản, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin qua trí tuệ sáng tạo của Hồ Chí Minh, của Đảng và của cả dân tộc là đặc điểm xuyên suốt của chủ nghĩa yêu nước kiểu mới. Chủ nghĩa yêu nước truyền thống kết hợp với chủ nghĩa Mác - Lênin thực sự là một đặc điểm lớn của chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh. * Đặc điểm thứ hai: Thống nhất độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là một chân lý lớn của thời đại, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng, không phải chỉ với Việt Nam mà còn có ý nghĩa chung đối với tất cả các dân tộc đang đấu tranh giải phóng và tìm tòi con đường phát triển cho đất nước mình sau khi giành được độc lập dân tộc. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội có mối quan hệ thống nhất và biện chứng với nhau, yếu tố này sẽ nhân lên sức mạnh của yếu tố kia và ngược lại. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội còn bao hàm cả nội dung về sự thống nhất lợi ích của Tổ quốc với lợi ích của nhân dân. Nước đã độc lập thì nhân dân sẽ thoát khỏi kiếp nô lệ và có hạnh phúc, tự do. Với Người đấu tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội cũng là đấu tranh vì tự do, hạnh phúc của nhân. Bởi vì, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đảm bảo mang được tự do, ấm no, hạnh phúc thực sự cho nhân dân và mang lại lợi ích cho Tổ quốc cũng là mang lại lợi ích cho nhân dân. Do vậy, mục tiêu duy nhất đúng đắn là mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Để đi đến mục tiêu ấy, cách mạng Việt Nam cần phải đi theo con đường cách mạng vô sản. Con đường nối tiếp từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa và tiến lên xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Người chỉ rõ: Chủ nghĩa xã hội "Nói một cách giản đơn và dễ hiểu là: "Không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động" [43, tr.271], và "Những phong tục tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ" [43, tr.591]. Độc lập dân tộc là nguồn sức mạnh vô tận của cách mạng Việt Nam. Độc lập dân tộc là yêu cầu nóng bỏng của mọi người dân mất nước. Sự nô dịch của chủ nghĩa đế quốc làm quần chúng nhân dân căm phẫn đến tột độ. Nhân dân ta, thế hệ nối tiếp thế hệ, quyết không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ. ở Hồ Chí Minh độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mang tinh thần triệt để cách mạng đã thể hiện quyết tâm sắt đá trong việc đánh đuổi kẻ thù ra khỏi bờ cõi của Tổ quốc: "Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi" [45, tr.407]. Quét sạch kẻ thù xâm lược để giành lại độc lập cho Tổ quốc nhưng không phải chỉ có vậy, điều quan trọng hơn là đưa lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Khí phách của ý thức độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở Hồ Chí Minh đã kế thừa được những tinh hoa truyền thống của dân tộc, lại được bổ sung và nâng cao bằng giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin đã vươn lên ngang tầm thời đại. Hồ Chí Minh xác định khi thời cơ đến thì dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng kiên quyết giành cho được độc lập. Người khẳng định: "Không ! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ" [37, tr.480]. Đó là sự khẳng định ý chí đấu tranh cho độc lập, tự do của nhân dân ta, đồng thời cũng là sự khẳng định chân lý lớn của thời đại. Cứu nước là cách mạng, nhưng không thể là cuộc cách mạng nào khác ngoài cách mạng vô sản. Chỉ có đi theo con đường cách mạng vô sản thì Tổ quốc mới có độc lập, thống nhất hoàn toàn và dân tộc mới được giải phóng và có tự do, hạnh phúc thật sự trong thời hiện đại. Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân toàn thế giới" [45, tr.474]. Mệnh đề cô đúc này đã thể hiện trí tuệ và niềm tin của Người vào con đường cách mạng ấy. Cách mạng là một phạm trù cơ bản trong tư tưởng của Hồ Chí Minh và đã mang một tinh thần mới. Theo Người: "Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt" [35, tr.263]. Công cuộc đổi xã hội cũ và xấu thành xã hội mới và tốt là công việc của cách mạng. Đó là công việc khó, nhưng nếu làm khéo và có phương pháp thì vẫn làm được. Người đã phân tích một cách khoa học những nhân tố đảm bảo cho thắng lợi của cách mạng, như yếu tố về Đảng, về liên minh công nông, về khối đại đoàn kết dân tộc... Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ xác định mục tiêu của cách mạng, giai cấp lãnh đạo cách mạng, kẻ thù cụ thể, bố trí lực lượng, lợi dụng mâu thuẫn, vạch các chính sách lớn đến việc đặt tên cho các đoàn thể quần chúng của Đảng... đều xuất phát từ mối quan hệ qua lại giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong thực tiễn chỉ đạo cách mạng dân tộc dân chủ, chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta, một mặt thực hiện chính sách mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất, mặt khác đấu tranh chống tư tưởng đòi giành hoặc chia quyền lãnh đạo của giai cấp tư sản, bởi vì nếu quyền lãnh đạo rơi vào tay giai cấp tư sản thì chẳng những cuộc cách mạng dân tộc dân chủ không thể tiến hành đến cùng mà còn không thể chuyển lên chủ nghĩa xã hội khi có đủ điều kiện. Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tuy chủ nghĩa xã hội chưa phải là mục tiêu trực tiếp, nhưng Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng chế độ mới ở vùng tự do, vùng căn cứ du kích theo định hướng xã hội chủ nghĩa: Chính quyền cách mạng của dân, do dân, vì dân; Xây dựng một số cơ sở kinh tế có mầm mống xã hội chủ nghĩa, phát triển văn hóa, giáo dục, y tế, đặc biệt là đã từng bước thực hiện chính sách ruộng đất để củng cố khối liên minh công - nông - trí thức, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng... Thực hiện các chính sách nói trên, Đảng vừa tạo ra lực lượng mạnh để chiến thắng đế quốc thực dân vừa chuẩn bị điều kiện để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh xác định muốn cách mạng thành công thì dân chúng (công nông) là gốc, phải có đảng vững bền, phải thống nhất và phải theo chủ nghĩa Mác - Lênin, dân tộc cách mạng phải liên hệ chặt chẽ với thế giới cách mạng. Nói tóm lại, độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội và người cách mạng là người không những có khí phách kiên cường, không hề biết run sợ trước sức mạnh của kẻ thù, không sợ phải hy sinh, gian khổ, không sợ bị tàn phá, không sợ kéo dài mà còn có niềm tin vững chắc vào sự lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Khi phân tích các cuộc cách mạng ở các nước và các dân tộc trong lịch sử, Hồ Chí Minh chỉ rõ: Cách mạng Mỹ và cách mạng Pháp là chưa đến nơi, đến chốn, vì sau khi cách mạng thành công, nhân dân vẫn bị áp bức, bóc lột và nghèo nàn. Đối với cách mạng Việt Nam, Người viết: "Chúng ta đã hy sinh làm cách mạng thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều chớ để trong tay một bọn ít người, thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc" [35, tr.270]. Để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đât nước ta, Người chỉ rõ: "Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất. Chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta" [41, tr.493]. Do vậy, "không thể làm mau được mà phải dần dần" [41, tr.226] và phải từng bước cụ thể những nhiệm vụ trước mắt phù hợp với tình hình và điều kiện của đất nước, đáp ứng yêu cầu và nguyện vọng của nhân dân và sự phát triển của xã hội. Tư tưởng về xây dựng một xã hội mới tốt đẹp và ưu việt như vậy đã chuyển thành ước mơ, lý tưởng, mục đích của cả dân tộc ta. Thực tế lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh sự lựa chọn con đường độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội là đúng đắn, không ai có thể phủ nhận được. Độc lập dân tộc thống nhất với chủ nghĩa xã hội là một đặc điểm lớn của chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh. * Đặc điểm thứ ba: Chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh thống nhất với chủ nghĩa quốc tế vô sản Chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh thuộc hệ tư tưởng Mác - Lênin, là chủ nghĩa yêu nước trên lập trường của giai cấp công nhân, chủ nghĩa yêu nước đó cũng đồng thời thống nhất với chủ nghĩa quốc tế vô sản. ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước thống nhất với chủ nghĩa quốc tế vô sản luôn chứa đựng niềm tin tuyệt đối với nhân dân các dân tộc khác. Sự gắn bó của nhân dân Việt Nam với nhân dân các dân tộc khác trên tinh thần hữu ái vô sản, mà yếu tố cốt lõi là tư tưởng đại đoàn kết đã nâng truyền thống yêu nước của dân tộc lên ngang tầm thời đại. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và trên lập trường giai cấp vô sản, Hồ Chí Minh xác định đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế có quan hệ mật thiết và gắn bó chặt chẽ với nhau. Từ rất sớm và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc và củng cố liên minh chiến đấu giữa phong trào công nhân chính quốc với phong trào giải phóng dân tộc thuộc địa nhằm kết hợp, phát huy sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại để giành chiến thắng. Người khẳng định: "Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng lòng đoàn kết của chúng ta không bao giờ giảm bớt" [37, tr.217] và "Tứ hải giai huynh đệ", "Quan sơn muôn dặm một nhà; Bốn phương vô sản đều là anh em" [43, tr.195]. Hồ Chí Minh luôn đặt cách mạng Việt Nam trong sự gắn bó với cách mạng thế giới, đề ra chủ trương thích ứng với xu thế phát triển của toàn cầu. Khi phân tích bản chất của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc với hình ảnh "Con chim hai cánh", "Con đĩa hai vòi", Hồ Chí Minh đã đặt cơ sở cho tình đoàn kết giữa giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc với giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở thuộc địa, giữa giai cấp công nhân và nhân dân Pháp với giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản tuy là hai phạm trù khác nhau nhưng chỉ là hai mặt của cùng một vấn đề, vấn đề lập trường của giai cấp công nhân giác ngộ, tức lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin trong việc giải quyết những mối quan hệ giữa lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc, giữa lợi ích dân tộc và lợi ích quốc tế trong quá trình cách mạng diễn ra trong phạm vi từng quốc gia dân tộc cũng như trên phạm vị toàn thế giới. Từ hoạt động thực tiễn trong giải phóng dân tộc và phong trào cách mạng thế giới, Hồ Chí Minh đã rút ra những kết luận có giá trị, thể hiện rõ nội dung của tư tưởng đại đoàn kết như: "Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta" [40, tr.392], "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công" [43, tr.607]. Sự đoàn kết của Đảng ta với các đảng của quốc tế cộng sản là hạt nhân của khối đoàn kết toàn dân và nhân dân các dân tộc. Trong tiến trình cách mạng Việt Nam, tư tưởng về đại đoàn kết của Hồ Chí Minh luôn được phát huy cao độ. Từ trong nội bộ Đảng, Người yêu cầu: "Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình" [45, tr.497]. Phê phán bệnh hẹp hòi cho rằng chỉ cần đoàn kết trong Đảng, Người chỉ rõ: Nếu chỉ đoàn kết trong Đảng thì chưa đủ mà Đảng còn phải đoàn kết xung quanh mình toàn thể dân tộc thì cách mạng mới thành công. Người chủ trương mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, mà cốt lõi là liên minh công nông đặt dước sự lãnh đạo của Đảng cộng sản miễn là người Việt Nam yêu nước, chống đế quốc, tán thành xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Tư tưởng đại đoàn kết là yếu tố cốt lõi của sự thống nhất giữa chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản, nó trở thành một trong những nhân tố quan trọng quyết định thắng lợi của cách mạng. Đoàn kết là sức mạnh nhưng phải trên nền tảng lập trường của giai cấp vô sản và dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin. Đoàn kết toàn dân, đoàn kết giữa nhân dân Việt nam với nhân dân thế giới, giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới và đoàn kết thực sự, có lý có tình mới tạo ra sức mạnh. Như vậy, chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh là sản phẩm của sự kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa Mác - Lênin với chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống, mà đặc điểm chính là thống nhất lập trường dân tộc với lập trường giai cấp vô sản, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng nhằm thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Sự thống nhất đó được thực hiện sáng tạo trên lập trường giai cấp vô sản, dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin. Xử lý mối quan hệ giữa dân tộc và thời đại, độc lập tự chủ và hợp tác quốc tế, nội lực và ngoại lực là một vấn đề có tầm quan trọng hàng dầu trong chỉ đạo chiến lược và sách lược của cách mạng của Đảng ta, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay. Thấm nhuần sâu sắc và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề này là một việc làm cần thiết để tìm ra những đối sách phù hợp nhằm giải quyết tốt những vấn đề của cách mạng đặt ra trong xu thế hội nhập và phát triển. 1.2. một số nội dung cơ bản của chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh Chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh là chủ nghĩa yêu nước Việt Nam xuất hiện trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc bằng con đường cách mạng vô sản và xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, theo con đường xã hội chủ nghĩa. Cho nên trong nội dung đã hàm chứa những vấn đề cơ bản, tiêu biểu của chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam được thể hiện ở trình độ mới và chất lượng mới. Chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh với tư cách là một hệ thống lý luận chính trị sâu sắc và toàn diện đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu và thể hiện trong các công trình của mình như: Trần Xuân Trường: "Chủ nghĩa yêu nước thời đại Hồ Chí Minh", Nguyễn Mạnh Tường "Chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh". Có thể liệt kê (nhưng chưa đầy đủ) những nội dung của chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh như sau: 1. Yêu nước tức là yêu cội rễ lịch sử, giữ gìn và phát huy văn hoá dân tộc: "Dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam". 2. Yêu nước "phải lấy dân làm gốc", "yêu nước thương nòi", "dân là dân nước, nước là nước dân". 3. Yêu nước phải biết hoà hợp dân tộc, đoàn kết toàn dân "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết". 4. Yêu nước tức là yêu độc lập dân tộc, tự do hạnh phúc của nhân dân "Không có gì quý hơn độc lập, tự do". 5. Yêu nước là thực hiện "nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một" thống nhất đất nước toàn vẹn lãnh thổ. 6. Yêu nước là "hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta thì ta phải quét sạch nó đi", "thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ". 7. Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua. 8. Yêu nước là thực hành tiết kiệm chống tham ô, lãng phí. 9. Yêu nước tức là yêu độc lập của dân tộc mình và đấu tranh cho các dân tộc khác độc lập và làm cho Việt Nam sánh vai các cường quốc năm châu. 10. Yêu nước phải xây dựng con người Việt Nam mới - con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong phần này tác giả đi sâu phân tích một số nội dung tiêu biểu, mang nặng dấu ấn Hồ Chí Minh. 1.2.1. "Không có gì quý hơn độc lập tự do" - nội dung xuyên suốt chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh Độc lập dân tộc là mục tiêu cao cả, là giá trị tinh thần quý nhất của người Việt Nam, là sự thể hiện tập trung của chủ nghĩa yêu nước và ý chí tự lực tự cường Việt Nam. Nhân dân Việt Nam có lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, đã từng phải chiến đấu với nhiều kẻ thù xâm lược tàn bạo đến từ nhiều phương. Chính quá trình lịch sử đã hun đúc nên ở nhân dân ta ý chí đấu tranh bất khuất để bảo vệ độc lập dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh là tiêu biểu cho ý chí đó. Người từng viết: "Trên đời ngàn vạn điều cây đắng; Cay đắng chi bằng mất tự do", trong Bản tuyên ngôn độc lập (1945), Người đã trịnh trọng tuyên bố trước thế giới quyết tâm và ý chí đó của nhân dân ta: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và thật sự đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy" [37, tr.4]. Giặc Pháp trở lại xâm lược nước ta, hòng đặt ách nô lệ lên dân ta một lần nữa, Người khẳng khái kêu gọi: "Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ" [37, tr.480]. Giặc Mỹ mở rộng chiến tranh ra Miền Bắc hòng kéo nước ta trở lại thời kỳ đồ đá, Người tuyên bố: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!" [45, tr.108]. Đó là sự khăng định ý chí đấu tranh cho độc lập tự do của nhân dân ta đồng thời cũng là sự khẳng định chân lý của thời đại. "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" [45, tr.108] là một nội dung cơ bản của chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh. Nước có độc lập thì dân mới có tự do, ấm no, hạnh phúc. Người khẳng định: "Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta nước hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành" [37, tr.161]. Điều đó cho thấy lý tưởng yêu nước truyền thống vừa chứa đựng chất liệu mới của thời đại và được thử thách, tôi luyện trong cách mạng Việt Nam. Độc lập dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh là một nền độc lập thực sự. Kẻ thù của dân tộc thường dùng thủ đoạn reo rắt ảo tưởng về "độc lập, tự do". Chúng rêu rao đưa lại "độc lập, tự do" cho nhân dân nhưng thực sự đó chỉ là "cái bánh vẽ", chỉ là "độc lập hình thức", "độc lập giả hiệu", mọi quyền hành chính trị, kinh tế, đối ngoại... đều nằm trong tay bọn thực dân, do chúng toàn quyền chi phối. Hồ Chí Minh thường nhắc nhở phải đấu tranh giành cho được độc lập thực sự, độc lập hoàn toàn, chứ không phải là thứ "độc lập giả hiệu", "độc lập nửa vời", "độc lập hình thức". Người đã kiên quyết chống chủ nghĩa thực dân mới để giành được độc lập thực sự cho đất nước. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao giờ cũng gắn liền với thống nhất đất nước, Nam Bắc một nhà - "Bắc Nam sum họp xuân nào vui hơn". Tư tưởng độc lập, thống nhất của Người bao giờ cũng gắn với tự do dân chủ và ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao động. Người đã từng nói "Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì" [37, tr.56], "Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ" [37, tr.512]. Chính sách của Đảng và chính phủ là phải không ngừng phấn đấu nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân. "Không có gì quý hơn độc lập tự do" là lý tưởng yêu nước được hình thành không phải ngẫu nhiên, mà trong điều kiện lịch sử nhất định từ truyền thống của gia đình, quê hương, của dân tộc đến thực trạng của đất nước và trên thế giới. Trên mỗi chặng đường của cuộc sống và lao động, Người đã thường xuyên củng cố và bồi đắp lý tưởng yêu nước của mình. Lý tưởng yêu nước của Hồ Chí Minh được hoàn thiện có cơ sở khoa học khi người đến với chủ nghĩa Mác Lênin và tiếp thu chủ nghĩa ấy, nghĩa là tiếp thu lý luận khoa học cách mạng nhất của thời đại. Lý tưởng yêu nước ấy tiếp tục phát triển trong thực tiễn cách mạng nước ta mà nhất là trong cuộc đấu tranh khốc liệt chống kẻ thù xâm lược đầu sỏ của chủ nghĩa đế quốc. "Không có gì quý hơn độc lập tự do" không đơn giản chỉ là đánh đuổi quân xâm lược, khôi phục lại độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ cho dân tộc mà còn phải xây dựng được một chế độ xã hội trong đó mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân, đem lại đời sống tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân lao động, xóa bỏ áp bức bất công về kinh tế - xã hội, xây dựng trong đó người với người là bè bạn, là đồng chí, là anh em; các dân tộc đều bình đẳng, được tạo điều kiện để giữ gìn và phát triển bản sắc văn hóa của dân tộc mình. Lý tưởng "Không có gì quý hơn độc lập tự do" của Chủ tịch Hồ Chí Minh mang nội dung sâu sắc, triệt để: Độc lập - Thống nhất - Tự do - Dân chủ, nó là mục tiêu chiến đấu rất kiên định của Người trong suốt cuộc đời cách mạng. Qua thực tiễn cách mạng Việt nam gần một thế kỷ qua, lý tưởng yêu nước của Nguời đã thâm nhập vào con tim khối óc và trong mọi hoạt động của cả dân tộc. Nó đã trở thành sức mạnh Việt nam ở thời đại mang tên Người. Nó đã để lại bài học kinh nghiệm quý báu của lịch sử rằng sức mạnh của vũ lực không bao giờ khuất phục được ý chí của một dân tộc mà lý tưởng yêu nước đã vươn tới tầm thời đại. "Không có gì quý hơn độc lập tự do" là một nội dung cơ bản và xuyên xuốt chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh. 1.2.2. Yêu nước đi liền với thương dân Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và trên lập trường giai cấp vô sản, yêu nước ở Hồ Chí Minh luôn thể hiện quan điểm về sự thống nhất lợi ích của nhân dân với lợi ích của Tổ quốc. "Yêu Tổ quốc: yêu như thế nào ? yêu là phải làm sao cho Tổ quốc ta giàu mạnh. Muốn cho Tổ quốc giàu mạnh thì phải ra sức lao động, ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm" [42, tr.173]. Mà làm cho Tổ quốc giàu mạnh cũng là vì nhân dân. Người đã coi yêu nước như một chuẩn mực đạo lý cao nhất, đứng đầu bậc thang giá trị của cả dân tộc. Người đòi hỏi: Yêu Tổ quốc phải gắn liền với yêu nhân dân , yêu chủ nghĩa xã hội, yêu lao động yêu khoa học, yêu kỷ luật. Từ đó Hồ Chí Minh đã giải quyết một loạt vấn đề về trung, hiếu, trách nhiệm..., về mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, về chăm lo đời sống nhân dân..., đồng thời phát huy sức mạnh của nhân dân trong sự nghiệp đấu tranh giành lại và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng và phát triển đất nước. Yêu nước còn bao hàm sự thống nhất giữa độc lập của Tổ quốc với tự do, hạnh phúc của nhân dân. Đối với nhân dân, được làm dân của một nước độc lập là hạnh phúc lớn, nhưng không dừng lại ở đây. Hồ Chí Minh đòi hỏi phải đưa lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Chỉ có đem lại lợi ích thiết thực cho nhân dân, đem lại ấm no hạnh phúc cho nhân dân, thì nhân dân mới biết rõ giá trị của tự do, của độc lập mà tự thắp sáng ngọn lửa yêu nước trong mình. Yêu nước, thương dân là phải trung với nước hiếu với dân, phải cần kiệm, liêm, chính chí công vô tư. Đây là phẩm chất bao trùm nhất, quan trọng nhất chi phối các phẩm chất khác là điểm xuất phát mang tính cách mạng. "Trung" và "Hiếu" là hai khái niệm cơ bản, đứng đầu trong "Tam cương" và "Ngũ luân" của đạo đức nho giáo. Hồ Chí Minh trên cơ sở kế thừa truyền thống yêu nước của người Việt Nam, giữ lại ý nghĩa trách nhiệm, bổn phận của người dân, của người con trong khái niệm "Trung, hiếu" để đưa vào đây nội dung mới, hoàn toàn mang tính cách mạng ''Trung với nước, hiếu với dân". "Trung với nước" là trung thành với sự nghiệp dựng nước, giữ nước của nhân dân, của Đảng "Hiếu với dân" là đem lại cuộc sống "ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân", "Thương dân, gần dân, gắn bó với dân, kính trọng lễ phép với dân, học tập dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc". Đối với cán bộ, đảng viên Hồ Chí Minh đặt ra yêu cầu cao hơn là "tận trung với nước, tận hiếu với dân", vì cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, người "dẫn dắt" nhưng lại "là đầy tớ thật trung thành của nhân dân". Trung với nước, hiếu với dân có quan hệ chặt chẽ với nhau càng "trung với nước" bao nhiêu, thì càng "hiếu với dân" bấy nhiêu và càng "hiếu với dân" bao nhiêu sẽ thể hiện được "trung với nước" cao bấy nhiêu. Nước và dân là hai khái niệm tương đương, có sự thống nhất, nhưng không hoàn toàn đồng nhất với nhau, nghĩa là có sự gắn bó mật thiết, chặt chẽ với nhau, nhưng cũng có những yếu tố không thuộc về nhau. Khi nói đến nước thì bao giờ Hồ Chí Minh cũng nói đến cộng đồng dân tộc và khẳng định nghĩa đồng bào, tình ruột thịt của cộng đồng. Cộng đồng đó là "Con rồng cháu tiên", "Con lạc cháu hồng", có cuội nguồn từ "Bọc trăm trứng" mà ra thì ai cũng có ít nhiều lòng ái quốc... ai cũng có trách nhiệm gánh vác một phần. Người đã định nghĩa "Gia đình to là cả nước" [40, tr.60] với định nghĩa như vậy về nước, Người chỉ ra rằng đã là người Việt Nam thì dù là giai cấp công nhân hay bất kỳ giai cấp, tầng lớp nào khác, ai nấy đều có chung Tổ quốc Việt Nam, không có giai cấp nào là không có Tổ quốc và không có nghĩa vụ, trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc. Mọi người Việt Nam dẫu có khác nhau về thành phần, giai cấp, tín ngưỡng, dân tộc vẫn có thể và cần phải đoàn kết với nhau trong tình ruột thịt để bảo vệ Tổ quốc mình, phát triển tinh thần yêu nước và tinh thần đoàn kết của cả dân tộc là một trong những nội lực quan trong của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Trong sự nghiệp to lớn ấy, Đảng và Chính phủ phải là người dẫn đường tin cậy của nhân dân. Hồ Chí Minh chỉ rõ "Nếu không có nhân dân thì chính phủ không đủ lực lượng. Nếu không có chính phủ thì nhân dân không ai dẫn đường" [37, tr.56]. Vì vậy, mối quan hệ giữa Đảng, Chính phủ với nhân dân là mối quan hệ máu thịt, không thể tách rời. Đảng và Chính phủ muốn nhân dân tin tưởng và đi theo thì cần phải luôn luôn chăm lo mọi mặt đời sống của nhân dân và trung thành kính trọng nhân dân. Chăm lo đời sống nhân dân có nghĩa là bồi dưỡng lực lượng nhân dân, mà bồi dưỡng lực lượng nhân dân là tăng cường sức mạnh của lực lượng cách mạng trong lực lượng quần chúng. Vì vậy, Người luôn đòi hỏi mỗi cán bộ của Đảng và chính phủ, trước hết phải biết cách "Đem tài dân, sức dân, của dân và làm lợi cho dân" [38, tr.65]. Và "Việc gì lợi cho dân ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta kính ta" [37, tr.56- 57]. Trong di chúc trước lúc đi xa, Người đề nghị miễn thuế nông nghiệp cho nhân dân một năm , "Để cho đồng bào hỉ hả, mát dạ, mát lòng, thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất" [45, tr.504]. Trong thời chiến, tinh thần yêu nước đã được phát huy cao độ, trở thành động lực chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Còn trong thời bình, tinh thần đó được chuyển vào sự nghiệp xây dựng đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cống hiến chọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân lao động thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Người khẳng định "Lòng thương yêu của tôi với nhân dân và nhân loại không bao giờ thay đổi" Tình cảm đó thể hiện sâu sắc trong suốt cuộc đời Hồ Chí Minh. Trước lúc vĩnh viễn đi xa trong Di chúc, Người viết "Đầu tiên là vấn đề con người" và "cuối cùng, tôi để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng. Tôi cũng gửi lời chào thân ái đến các đồng chí các bầu bạn và các cháu thanh niên, nhi đồng quốc tế " [45, tr.500]. Lòng yêu nhân dân, nhân loại, người cùng khổ ở Hồ Chí Minh không chỉ dừng lại ở "Tình thương trừu tượng" ở sự thông cảm, ở lòng tin, mà trên cơ sở nắm vững lý luận, phương pháp khoa học, cách mạng, Người đã đi sâu tìm hiểu, vạch rõ nguồn gốc của mọi nghèo khổ, mọi áp bức, bóc lột, mọi bất công trên đời. Từ đó, gắn lòng thương yêu nhân dân, nhân loại người cùng khổ với lòng căm ghét, lên án mọi chế độ bất công, lên án chủ nghĩa đế quốc, thực dân, lên án chủ nghĩa tư bản bóc lột, tìm ra con đường đúng đắn, khoa học để xóa bỏ chế độ áp bức bóc lột, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Người cũng hết sức căm ghét lên án những kẻ sâu mọt trong cán bộ, đảng viên, trong nội bộ nhân dân xâm phạm quyền lợi nhân dân, tham ô, lãng phí, ức hiếp nhân dân,... với bọn này, Người đã chỉ rõ là, nếu giáo dục làm gương không xong, thì sẽ dùng pháp luật mà trị - "đã trị, đang trị và sẽ trị cho kỳ hết ". 1.2.3. Yêu nước cũng chính là yêu chủ nghĩa xã hội - cái bảo đảm cho độc lập dân tộc hoàn toàn và tự do hạnh phúc của nhân dân Chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí minh là sự thống nhất giữa lòng yêu Tổ quốc với lòng yêu chủ nghĩa xã hội. Lòng yêu chủ nghĩa xã hội không phải chỉ là một nhận thức lý luận và tình cảm chung, mà phải biểu hiện ra thành hành động hàng ngày đấu tranh không mệt mỏi để xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho đất nước ngày càng phồn vinh, nhân dân lao động ngày càng có đời sống vật chất và tinh thần không ngừng nâng cao. Sự thống nhất giữa yêu Tổ quốc và yêu chủ nghĩa xã hội đòi hỏi mỗi người Việt Nam chúng ta phải ngày càng nhận thức rằng muốn đưa đất nước và dân tộc tiến lên không có con đường nào khác ngoài con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Sự thống nhất đó là một nội dung khách quan cho phép chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh không những chỉ đóng góp vai trò động lực tinh thần trong lĩnh vực chiến đấu chống ngoại xâm mà cả trong lĩnh vực lao động xây dựng đất nước. Đó là điều mà chủ nghĩa yêu nước trước đây không bao giờ có thể có được. Hồ Chí Minh đã từng nói rằng "Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì" [37, tr.56]. Điều đó cho thấy, với Hồ Chí minh, kiên quyết đấu tranh giành độc lập dân tộc và đưa đất nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa sau khi giành được độc lập để dân có hạnh phúc, tự do là điều tất yếu như nhau. Người chỉ rõ, mỗi dân tộc có quyền tự do lựa chon con đường phát triển của riêng mình. Con đường mà Hồ Chí Minh và dân tộc lựa chọn là con đường độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây là sự lựa chọn thống nhất giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Chỉ có đi theo con đường đó thì nhân dân mới có tự do hạnh phúc thực sự. Hồ Chí Minh đã viết "Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc..." [34, tr.461]. Trong tuyên ngôn độc lập, tư tưởng ấy đã thể hiện sự gắn bó các quyền dân tộc cơ bản với các quyền cơ bản của con người mà đã hoàn toàn thoát khỏi ảnh hưởng của các hệ tư tưởng cũ, đã khẳng định một cách hùng hồn rằng ngọn cờ độc lập dân tộc thống nhất đất nước với chủ nghĩa xã hội là ngọn cờ bảo vệ nhân quyền và các quyền lợi chân chính của con người. Có thể khẳng định trong tư tưởng Hồ Chí Minh sự thống nhất khăng khiết, không thể tách rời giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là cái cốt lõi nhất, căn bản nhất. Yêu nước phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội. Vì chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đảm bảo tự do, hạnh phúc thực sự cho nhân dân, mới có độc lập dân tộc với đúng nghĩa của nó. Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là "Xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội" [43, tr.591]. Chủ nghĩa xã hội là "Không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động" [43, tr.271], và "Chủ nghĩa xã hội là làm cho dân đủ ăn, đủ mặc ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ" [43, tr.591]. "Chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc" [43, tr.17]. Người còn chỉ rõ: Một trong những nhiệm vụ căn bản của cách mạng xã hội là phát huy cao độ tinh thần tự lực, tự cường gắn liền với việc xây dựng một nền kỷ thuật công nghệ tiên tiến để không ngừng nâng cao năng suất lao động, tạo ra những điều kiện cần thiết cho một nền độc lập vững chắc. Như vậy, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mới thực sự đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân lao động. Yêu nước phải yêu chủ nghĩa xã hội là nội dung quan trọng trong chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh Rõ ràng dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và trên lập trường giai cấp vô sản, yêu nước ở Hồ Chí Minh luôn thể hiện quan điểm về sự thống nhất của lợi ích nhân dân với lợi ích của Tổ quốc. Yêu nước gắn liền với thương dân, yêu chủ nghĩa xã hội là nội dung quan trọng của chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí minh. Xét trên cơ sở lý luận và thực tiễn, cả tình hình trong nước và kinh nghiệm quốc tế, muốn thay đổi căn bản cuộc sống của người lao động từ kiếp nô lệ làm thuê trở thành người làm chủ, không có con đường nào khác ngoài con đường đi lên chủ nghĩa xẫ hội. Mọi con đường khác không được nhân dân ta chấp nhận. Vì vậy, hơn lúc nào hết, chúng ta cần kiên định vững vàng với mục tiêu, lý tưởng mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn là con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. 1.2.4. Yêu nước thì phải gắn liền với thi đua xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Sinh thời Hồ Chí Minh rất chăm lo tới công tác thi đua đồng thời là tấm gương mẫu mực trong mọi phong trào thi đua do chính Người khởi sướng. Xuất phát từ quan điểm coi quần chúng nhân dân là người làm nên lịch sử, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nên thi đua là phát huy nội lực của toàn dân, thi đua là quy tụ sức mạnh của dân tộc. Thi đua là một đặc trưng nổi bật của sự vận động phát triển trong một xã hội mà nhân dân lao động làm chủ. Thi đua là khơi dậy trong mỗi cá nhân, mỗi tập thể và toàn xã hội tính chủ động, tích cực, sáng tạo. Thi đua là khơi dậy lòng tự tin, trí tiến thủ, lòng hăng say, sự quả quyết, lòng dũng cảm dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám vượt qua khó khăn gian khổ....nhằm cùng nhau đua sức, đua tài, thực hiện những nhiệm vụ cách mạng, vì lợi ích thiết thân của từng cá nhân và cả cộng đồng. Với mục đích đưa dân tộc đến bến bờ tự do, ấm no và hạnh phúc, Hồ Chí Minh đã dày công tìm kiếm con đường và biện pháp làm cho tinh thần yêu nước của cả dân tộc được bộc ra trong hành động và được huy động vào sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước. Con đường và biện pháp ấy là thi đua yêu nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khởi xướng phong trào thi đua yêu nước năm 1948 lúc mà cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đang gay go quyết liệt, để nhằm động viên, cổ vũ toàn bộ tinh thần và lực lượng của cả nước vào cuộc kháng chiến trường kỳ. Người chỉ rõ: Nhân dân ta thi đua tăng gia sản xuất và tiết kiệm để cải thiện đời sống tinh thần và vật chất của quân và dân, cung cấp đầy đủ cho kháng chiến chuẩn bị chuyển sang tổng phản công. Quân đội ta thi đua giết giặc lập công để tiêu diệt nhiều sinh lực địch, chuẩn bị chuyển sang tổng phản công để kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành công, hoàn thành dân chủ mới tiến lên chủ nghĩa xã hội" [39, tr.469]. Hơn ai hết, Hồ Chí Minh hiểu rõ "lực lượng của dân, tinh thần của dân: là vô cùng to lớn, là cội nguồn sức mạnh của đất nước và phải được tổ chức, lãnh đạo, động viên và cổ vũ. Quan điểm " Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua và những người thi đua là những người yêu nước nhất" [39, tr.473], đã trở thành phong trào cách mạng trong toàn nhân dân, một phong trào tự giác gắn với bổn phận, trách nhiệm của mỗi người Việt Nam yêu nước, không phân biệt sĩ, nông, công, thương , binh, già, trẻ, trai, gái... Trên tất cả các mặt trận quân sự, kinh tế, chính trị, văn hóa. Người viết: "Người người thi đua, ngành ngành thi đua, ta nhất định thắng, địch nhất định thi đua" [39, tr.476]. Bộ đội thi đua giết giặc lập công, nhân dân thi đua tăng gia sản xuất và tiết kiệm, các cụ phụ lão thi đua đốc thúc con cháu hăng hái tham gia mọi công việc, các cháu thiếu niên nhi đồng thi đua học hành và giúp việc người lớn, đồng bào, phú hào thi đua mở mang doanh nghiệp, trí thức và chuyên môn thi đua sáng tác và phát minh, nhân viên chính phủ thi đua tận tụy với công việc phụng sự nhân dân, mỗi người Việt Nam yêu nước, ai cũng thi đua, ai cũng tham gia kháng chiến, kiến quốc tùy theo khả năng, sức lực, công việc của mình làm cho thi đua ái quốc trở nên sôi nổi, ăn sâu, lan rộng khắp mọi mặt và mọi tầng lớp nhân dân. Đối với kiều bào ta ở nước ngoài, Người kêu gọi phát huy tinh thần yêu nước, giương cao ngọn cờ đại đoàn kết, tích cực góp phần của cải, trí tuệ của mình vào sự nghiệp chung của dân tộc, kháng chiến thành công, kiến quốc thắng lợi. Hồ Chí Minh chỉ rõ "Dưới chế độ tư bản, thực dân và phong kiến quyết không thể có phong trào thi đua yêu nước,....Chỉ có dưới chế độ dân chủ nhân dân và xã hội chủ nghĩa, dưới chế độ mà nhân dân lao động làm chủ nước nhà, thì mới có phong trào thi đua" [42, tr.198]. Thi đua của chúng ta là "Thi đua với tinh thần giác ngộ xã hội chủ nghĩa". Thi đua chẳng những bồi dưỡng tinh thần đoàn kết và tinh thần yêu nước của dân tộc ta, mà còn làm cho nhân dân ta đoàn kết với nhân dân lao động thế giới. Thi đua góp phần cải tạo con người, là một cách tốt nhất, rất thiết thực để làm cho con người tiến bộ. Thi đua làm hạn chế mặt xấu và làm tăng mặt tốt, mặt tích cực trong mỗi con người. " Yêu nước thì phải thi đua, thi đua tức là yêu nước ", " Thi đua là một cách yêu nước thiết thực và tích cực ". Thi đua yêu nước là lợi cho mình, lợi cho gia đình mình và lợi cho làng cho nước, cho dân tộc. Người nói "Tất cả mọi ngành muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội muốn làm cho dân giàu, nước mạnh thì phải thi đua". Nhưng thi đua ái quốc phải có phương hướng đúng và vững, nghĩa là phải nâng cao lòng nồng nàn yêu nước và giác ngộ chính trị của mọi người và phải có kế hoạch tỷ mỷ, nội dung của kế hoạch phải thiết thực, rõ ràng đúng mức. Thi đua không phải cái gì cao xa, khác lạ. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Thi đua chính là "Những công việc hàng ngày" và "Công việc hàng ngày chính là nền tảng thi đua". "Mọi việc điều có thi đua". Phong trào thi đua phải được tổ chức tốt, có trọng tâm, trọng điểm, có những mục tiêu riêng để đáp ứng nhiệm vụ chính trị cho từng thời gian, từng giai đoạn của cách mạng, sát hợp hoàn cảnh của từng nơi, tránh rập khuôn, máy móc làm theo chỉ thị một cách cứng nhắc, thiếu linh hoạt, thiếu tính lịch sự cụ thể với từng nơi, từng lúc, từng đơn vị. Trong quá trình thi đua, Hồ Chí Minh rất coi trọng việc rút kinh nghiệm, tổng kết kinh nghiệm, trao đổi và phổ biến kinh nghiệm, gom góp sáng kiến. Người nói "Sáng kiến và kinh nghiệm là của quý chung cho cả dân tộc. Chúng ta phải ra sức làm cho nó dồi dào thêm và lan rộng mãi" [39, tr.471]. Để thi đua yêu nước có kết quả cao, Người cũng rất quan tâm đến khen thưởng. Người viết "Thi đua là gieo trồng, khen thưởng là thu hoạch". Để có một vụ thu hoạch thắng lợi thì khen thưởng phải kịp thời, chính xác, đúng người, đúng việc. Có làm được như vậy thì khen thưởng mới có tác dụng động viên, khen thưởng mới thể hiện chức năng "Đòn bẩy" của mình. Khen thưởng là sự công nhận thành tích đạt được, mức độ khen thưởng là thể hiện mức độ của thành tích, của công lao đóng góp của cá nhân và tập thể. Không phải khen thưởng để mà khen thưởng mà vấn đề ở đây là vì cái sắp tới mà khen cái đã làm. Kháng chiến của ta là trường kỳ, toàn dân và toàn diện. Do vậy thi đua cũng phải trường kỳ, toàn dân, toàn diện mà không phải nhất thời trong từng việc, ở từng đợt. Người viết "Ta phải thi đua để kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành công" [38, tr.658], và " Tất cả mọi việc ích lợi cho dân sinh quốc kế, quan hệ với kháng chiến kiến quốc, ta đều phải thi đua. Thi đua phải là toàn dân toàn diện" [38, tr.659- 660]. Hồ Chí Minh quan niệm về thi đua yêu nước không phải bó hẹp trong một cơ quan, một địa phương, một ngành, một nước mà còn mở rộng ra trên phạm vi quốc tế và mang tinh thần quốc tế. Người viết "Thi đua chẳng những bồi dưỡng tinh thần đoàn kết và tinh thần yêu nước của dân tộc ta, mà lại làm cho nhân dân đoàn kết với nhân dân lao động thế giới" [39, tr.474]. Hồ Chí Minh còn chỉ rõ rằng trong thi đua chúng ta tiêu diệt nhiều sinh lực đế quốc Pháp và Mỹ, tức là ta thiết thực góp phần vào công việc giữ gìn hòa bình và dân chủ thế giới. Nhằm không ngừng đẩy mạnh, phát triển phong trào thi đua rộng khắp hơn nữa, Người luôn căn dặn "Chúng ta phải chống bệnh quan liêu, chống nạn tham ô, lãng phí. Vì bệnh quan liêu sẽ ngăn trở phong trào thi đua, làm nó chậm tiến, và nạn tham ô, lãng phí sẽ làm giảm bớt những phong trào thi đua" [39, tr.475] và "Phải gắn liền tinh thần thi đua với tinh thần yêu nước và tinh thần quốc tế. Tuyệt đối chớ tự kiêu, tự mãn chớ xa rời quần chúng. Phải luôn nhớ rằng thành tích là thành tích tập thể, chứ không phải thành tích và anh hùng cá nhân. Đó là vinh dự chung của dân tộc, chứ không phải là vinh dự riêng của từng cá nhân" [39, tr.476]. Hồ Chí Minh chỉ rõ thi đua là nhằm mục đích "Dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc, và tiến lên chủ nghĩa xã hội". Thi đua yêu nước không ngừng tạo ra khí thế và tinh thần dân tộc cao trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước mà còn đẩy cao tầm vị thế của đất nước và niềm tự hào của dân tộc giữa cộng đồng thế giới. Phong trào thi đua mà Hồ Chí Minh phát động và lãnh đạo là biểu hiện tập trung của ý thức yêu nước thâm nhập vào quần chúng biến thành sức mạnh của dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là biểu hiện rực rỡ của chủ nghĩa anh hùng cách mạng của toàn thể dân tộc trong thời đại Hồ Chí Minh. Ngày nay trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng và nhà nước ta chủ trương nhân rộng phong trào thi đua yêu nước hơn nữa trong toàn dân nhằm tạo ra nguồn động lực mới thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Như vậy, có thể khẳng định rằng những thành quả to lớn của cách mạng Việt Nam trong thời gian vừa qua cũng như trong công cuộc đổi mới hiện nay gắn liền với việc tổ chức thực hiện có hiệu quả phong trào thi đua yêu nước trên phạm vi cả nước. Việc thi đua xây dựng và bảo vệ Tổ quốc tốt đã nhân lên gấp bội sức mạnh tinh thần của dân tộc ta, trở thành lực lượng vật chất mạnh mẽ góp phần đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, làm thất bại mọi âm mưu và hành động "diễn biến hoà bình" và hoạt động lật đổ của các thế lực thù địch. Thi đua yêu nước đã góp phần động viên các tầng lớp nhân dân phát huy tài năng, sáng kiến, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Từ những điều trình bày ở chương 1, ta thấy: chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin đã có bước nhảy vọt về chất trở thành chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh là chủ nghĩa yêu nước xuất hiện trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam bằng con đường cách mạng vô sản và xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh theo con đường xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh thực sự là tài sản tinh thần to lớn mà Người đã để lại cho toàn Đảng và toàn dân ta. Ngày nay chúng ta đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phấn đấu vì mục tiêu dân giầu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. Phát huy chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh trong giai đoạn cách mạng hiện nay là nhiệm vụ rất quan trọng, cấp thiết cần được các ngành các cấp đặc biệt quan tâm, trong đó giáo dục chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh cho thanh niên phải được ưu tiên hàng đầu vì đây là lực lượng đông đảo nhất kế thừa sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Chương 2 Giáo dục chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh cho thanh niên tỉnh Thanh Hoá trong thời kỳ hiện nay 2.1. Vai trò của thanh niên trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay 2.1.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh và Đảng ta về vai trò thanh niên trong xây dựng đất nước 2.1.1.1. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao vai trò, vị trí của thanh niên trong tiến trình cách mạng Từ xưa đến nay, trong lịch sử đấu tranh dân tộc và giai cấp, lực lượng nào muốn giành thắng lợi, đều phải ra sức giành giật thanh niên, kẻ nào lôi kéo được thanh niên, người đó chiến thắng. Sở dĩ Napôlêông Bônnapáctơ bóp chết được cách mạng Pháp là do đã lợi dụng được sức mạnh của lớp trẻ. Chính vì biết mua chuộc lớp sỹ quan trẻ, lôi cuốn được lớp binh sĩ trẻ mà Napôlêông đã có thể tiến hành chiế

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf135_8338.pdf