Luận văn Giải quyết việc làm trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Kiên Giang

Tài liệu Luận văn Giải quyết việc làm trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Kiên Giang: LUẬN VĂN: Giải quyết việc làm trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Kiên Giang PHầN Mở ĐầU 1. Tính cấp bách của đề tài Nguồn nhân lực là một trong hai nhân tố cơ bản của quá trình sản xuất của cải vật chất của mọi xã hội, nếu nguồn nhân lực được quan tâm phát triển đúng mức sẽ là nguồn tài nguyên vô giá, song nếu nguồn nhân lực đó không được sử dụng tốt, việc làm không được giải quyết, nạn thất nghiệp gia tăng, trở thành một gánh nặng, một sức ép về kinh tế, nảy sinh tiêu cực xã hội, thậm chí gây chấn động đất nước. Chính vì vậy mà các nhà kinh tế tư sản điển hình như John Maynard Keynes, đưa ra "lý thuyết về việc làm" và coi việc làm là một vấn đề trung tâm của xã hội tư sản hiện đại. Ngày nay, việc làm là một trong những vấn đề kinh tế - xã hội có tính chất toàn cầu, là mối quan tâm của mọi quốc gia, liên quan đến đời sống hàng tỷ người trên hành tinh chúng ta. Theo sự đánh giá của tổ chức lao động quốc tế (ILO), thế giới đang diễn ra cuộc khủ...

pdf91 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 922 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Giải quyết việc làm trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Kiên Giang, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Giải quyết việc làm trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Kiên Giang PHầN Mở ĐầU 1. Tính cấp bách của đề tài Nguồn nhân lực là một trong hai nhân tố cơ bản của quá trình sản xuất của cải vật chất của mọi xã hội, nếu nguồn nhân lực được quan tâm phát triển đúng mức sẽ là nguồn tài nguyên vô giá, song nếu nguồn nhân lực đó không được sử dụng tốt, việc làm không được giải quyết, nạn thất nghiệp gia tăng, trở thành một gánh nặng, một sức ép về kinh tế, nảy sinh tiêu cực xã hội, thậm chí gây chấn động đất nước. Chính vì vậy mà các nhà kinh tế tư sản điển hình như John Maynard Keynes, đưa ra "lý thuyết về việc làm" và coi việc làm là một vấn đề trung tâm của xã hội tư sản hiện đại. Ngày nay, việc làm là một trong những vấn đề kinh tế - xã hội có tính chất toàn cầu, là mối quan tâm của mọi quốc gia, liên quan đến đời sống hàng tỷ người trên hành tinh chúng ta. Theo sự đánh giá của tổ chức lao động quốc tế (ILO), thế giới đang diễn ra cuộc khủng hoảng toàn cầu về việc làm (Global Employment Crisis) [13,22], kể cả ở các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển, ở nông thôn cũng như thành thị, trong khu vực Nhà nước cũng như khu vực tư nhân. Tình hình việc làm ở nước ta cũng gay gắt, trở thành vấn đề kinh tế - xã hội nóng bỏng, đòi hỏi Đảng và Nhà nước cần có những chủ trương đúng đắn, biện pháp hiệu quả để giải quyết việc làm cho người lao động trong tình hình mới. Hơn 10 năm đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành các chính sách kinh tế phù hợp, nhờ đó đất nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và đã đạt những thành tựu bước đầu rất quan trọng, trở thành một nước có nền kinh tế năng động và phát triển tương đối nhanh trong khu vực. Song, bên cạnh những thành tựu về kinh tế, những vấn đề xã hội cũng nổi lên gay gắt do hậu quả của chiến tranh và chế độ thực dân mới, do mặt trái của kinh tế thị trường gây ra như nạn thất nghiệp, phân hóa giàu nghèo, tệ nạn xã hội... Trong các vấn đề ấy thì vấn đề lao động, việc làm, giải quyết nạn thất nghiệp là một trong những vấn đề vừa có tính cấp bách trước mắt, vừa có tính cơ bản lâu dài ở nước ta. Giải quyết việc làm cần được hiểu theo nội dung mới là không chỉ đơn thuần trong phạm vi chính sách xã hội và cũng không chỉ đơn thuần là thanh toán nạn thất nghiệp. Giải quyết việc làm bao gồm cả một hệ thống vấn đề: tạo điều kiện cho công dân được giáo dục đào tạo và chuẩn bị tốt hơn để bước vào lập thân, lập nghiệp, được hưởng quyền lợi làm việc, tự do lao động, sáng tạo và hưởng thụ thành quả chính đáng, được bảo vệ về quyền sở hữu trí tuệ và vật chất do mình làm ra theo đúng pháp luật, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống, mưu cầu hạnh phúc cho bản thân và cống hiến cho cộng đồng. Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ta hiện nay, hơn lúc nào hết, nguồn nhân lực được đặt vào vị trí xứng đáng - là nguồn lực cơ bản nhất, quyết định nhất đối với các nguồn lực khác (vốn, khoa học - công nghệ, tài nguyên...) Có thể nói, vấn đề khó khăn nhất hiện nay là muốn thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải áp dụng khoa học công nghệ vào nền sản xuất xã hội, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Song, điều đó đang đứng trước thách thức lớn về việc làm. Vì vậy, vấn đề việc làm cho người lao động được đặt ra không chỉ là một yêu cầu cấp bách, mà còn là chiến lược an toàn việc làm cho thập niên đầu thế kỷ 21, không chỉ về kinh tế mà còn là vấn đề chính trị - xã hội, là một vấn đề trong tổng thể các vấn đề chiến lược con người của Đảng và Nhà nước ta, như Bác Hồ đã dạy: "Con người là nguồn lực quan trọng nhất, là mục tiêu, là động lực của mọi cuộc cách mạng" [32,11]. Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng ta đã nhấn mạnh "Bảo đảm công ăn, việc làm cho dân là mục tiêu xã hội hàng đầu, không để thất nghiệp trở thành bệnh kinh niên. Nhà nước chú trọng đầu tư tạo việc làm, đồng thời tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế và người lao động tạo thêm chỗ làm việc và tự tạo việc làm; khuyến khích các tổ chức và cá nhân cùng Nhà nước tổ chức tốt dịch vụ giới thiệu việc làm, đào tạo nghề nghiệp" [41,99]. Tỉnh Kiên Giang là miền đất có dân số trẻ, tỷ lệ người trong tuổi lao động cao - đây là một nguồn nhân lực hết sức quý giá của tỉnh. Song Kiên Giang đang đứng trước thách thức là: Tốc độ tăng dân số còn cao (2,4%) nên bình quân mỗi năm cần giải quyết việc làm trên 30.000 lao động, số người thất nghiệp còn lớn: 198.965 người, trong đó 88,34% ở nông thôn, 11,65% ở thành thị, đặc biệt số người thất nghiệp trong độ tuổi từ 15 - 34 chiếm gần 70 %, trong đó lao động ở độ tuổi từ 15 - 24 chiếm 35,35% [42]. Những năm qua, Đảng, chính quyền và các tổ chức xã hội của tỉnh bằng nhiều biện pháp tích cực nhằm khai thác, phát huy và tạo mọi điều kiện thuận lợi để giải quyết nguồn lao động quan trọng này, từ đó đã góp phần thực hiện có kết quả các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, từng bước nâng cao đời sống cho người lao động, giảm đáng kể tỷ lệ đói nghèo trong nhân dân. Tuy nhiên, vấn đề lao động việc làm của tỉnh vẫn là một trong những vấn đề kinh tế - xã hội phức tạp, khó khăn, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu một cách công phu, đầu tư thích đáng để tìm ra phương hướng giải quyết cơ bản, lâu dài, có hiệu quả mới mong khắc phục một phần khó khăn này. Đó là lý do tôi chọn đề tài "Giải quyết việc làm trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Kiên Giang" làm đề tài luận văn tốt nghiệp. 2. Tình hình nghiên cứu Vấn đề giải quyết việc làm luôn là vấn đề mang tính cấp bách, thời sự, do vậy, đã có nhiều công trình của nhiều tác giả trong nước và ngoài nước nghiên cứu và công bố, đồng thời cũng có rất nhiều cuộc hội thảo về vấn đề này. Chẳng hạn như các công trình của Viện khoa học lao động thuộc Bộ Lao động - Thương binh và xã hội; các cuộc hội thảo về lao động việc làm do Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương tổ chức. ở Kiên Giang cũng có một số công trình như: "Dự án dân số, lao động - việc làm tỉnh Kiên Giang thời kỳ 1996 - 2010" và đề tài "Đào tạo nghề, tạo việc làm cho thanh niên giai đoạn 1997 - 2005 của Sở Lao động - thương binh và xã hội tỉnh thực hiện. Tuy nhiên dưới góc độ kinh tế chính trị thì chưa có đề tài nào trùng tên với đề tài luận án này. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn - Mục đích: Trên cơ sở phân tích đặc điểm và thực trạng về việc làm ở Kiên Giang, đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm giải quyết có hiệu quả về việc làm nhằm ổn định phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. - Nhiệm vụ: Để thực hiện mục đích trên, luận án thực hiện các nhiệm vụ Hệ thống lại những vấn đề lý luận cơ bản xung quanh lao động, việc làm, thất nghiệp. Phân tích thực trạng và những vấn đề bức xúc đặt ra đối với vấn đề giải quyết việc làm ở Kiên Giang. Trên cơ sở phân tích, đề xuất phương hướng, giải pháp để giải quyết có hiệu quả vấn đề việc làm của tỉnh. 4. Đối tượng, giới hạn Luận án nghiên cứu vấn đề việc làm trong một số ngành kinh tế - dịch vụ cơ bản, trong độ tuổi lao động của tỉnh Kiên Giang, chủ yếu trong thời kỳ đổi mới kinh tế đất nước. 5. Phương pháp nghiên cứu Việc sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp kinh tế chính trị, phương pháp thống kê, sơ đồ, so sánh, khái quát để phân tích làm rõ nội dung chủ đề định ra; Đồng thời khảo sát thực tế, sưu tập tư liệu, số liệu, tình hình về lao động việc làm từ các cơ quan nghiên cứu, quản lý như: UBND, Sở Lao động - thương binh và xã hội, Cục thống kê, tỉnh Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Công an tỉnh... kết hợp tranh thủ ý kiến của các "chuyên gia" trong lĩnh vực này. 6. Kết cấu luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương Phần Nội DUNG Chương 1 Việc Làm Và Các NHÂN Tố ảnh Hưởng Đến Việc Làm ở KIÊN GIANG 1.1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về lao động việc làm Lao động, việc làm, thất nghiệp ngày càng không còn giới hạn của mỗi nước mà là vấn đề kinh tế - xã hội nổi cộm hiện nay của các nước. Bởi lẽ một nước mà lao động thiếu việc làm, thất nghiệp không chỉ gây ảnh hưởng tiêu cực cho nước đó, mà còn gây ảnh hưởng tiêu cực đến nhiều nước khác. Thế giới cho rằng vấn đề dân số, lao động, việc làm là một trong những vấn đề kinh tế xã hội phức tạp và gay gắt trên phạm vi toàn thế giới. Vì nó vừa là nền tảng, và là chủ thể, vừa là lực lượng sản xuất hàng đầu của xã hội, vừa là người tiêu dùng của cải vật chất do lao động làm ra. Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới cho thấy: dân số, lao động và việc làm là một trong những tiêu chuẩn cơ bản để xây dựng mô hình kinh tế - xã hội, là nhân tố quan trọng cho sự ổn định kinh tế - chính trị - xã hội, bản thân nó vừa là vấn đề xã hội, vừa là vấn đề kinh tế, vừa là vấn đề chính trị - văn hóa. Một trong những nguyên nhân cơ bản trực tiếp của những hiện tượng tiêu cực đang lan tràn trong đời sống kinh tế - xã hội hiện nay ở các nước trên thế giới là tình trạng thất nghiệp đang trầm trọng. Những người thất nghiệp đó họ không có nguồn thu nhập chính đáng bằng lao động của mình nên tự phát tham gia vào quá trình "phân phối lại" số của cải vật chất của xã hội bằng mọi con đường, dưới mọi hình thức, thậm chí có một bộ phận bị tha hóa nghiêm trọng, họ rơi vào tận đáy xã hội - đó là số tội phạm, gái mãi dâm... Chính vì vậy, không thể nói đến yếu tố con người là vấn đề quý nhất của xã hội một cách trừu tượng, siêu thực, mà con người là vốn quý nhất - xét cả về phương diện sản xuất, chỉ trong sự phù hợp với những nhu cầu về nó của sự phát triển nền kinh tế. Sự mất cân đối giữa số cung và cầu về lao động tới một giới hạn nào đó là sự nguy hại cho sự phát triển bình thường của một quốc gia dân tộc. Theo đánh giá của tổ chức lao động quốc tế (ILO), thế giới ngày nay đang ở trong tình trạng khủng hoảng thị trường lao động trầm trọng nhất kể từ những năm 30 đến nay. Năm 1994 trên thế giới có trên 120 triệu người thất nghiệp. Song trên thực tế hiện nay con số đó có thể còn cao hơn nhiều. Tỷ lệ thất nghiệp ở các nước Mỹ, Anh, Pháp, Cộng hòa Liên bang Đức, Italia trong những năm 80 - 90 mắc từ 7 - 12%, ở Nhật khoảng 2%, những năm gần đây đã lên trên 3%, Thái Lan 6%, Malayxia 3,5% [30]. Ước tính, nếu các nước tư bản chủ nghĩa phát triển hiện nay giảm thời gian lao động xuống còn 30 giờ/tuần, trong đó 10% dùng để đào tạo liên tục, thì có thể đủ việc làm cho mọi người trong độ tuổi lao động. Nhưng một khi quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa còn giữ địa vị thống trị, sản xuất giá trị thặng dư cho nhà tư bản vẫn là động lực cơ bản của sản xuất, thì điều đó không thể xảy ra được. Tại Hội nghị toàn thể lần thứ 81 của ILO tháng 6/1994 đã nêu: giải quyết việc làm, chống đói nghèo, phát triển nguồn nhân lực là nội dung chủ yếu của chương trình hành động của ILO trong thập kỷ từ nay đến năm 2000 [30]. Đồng thời, trong Hội nghị thượng đỉnh về phát triển xã hội tại Copenhagen (Đan Mạch) vào tháng 3/1995 đã nêu 3 vấn đề được tập trung thảo luận là chống đói nghèo, mở rộng việc làm và hòa nhập xã hội. Hội nghị đã tuyên bố: Chúng tôi cam kết thúc đẩy việc thực hiện mục tiêu có đủ việc làm như một ưu tiên cơ bản của chính sách kinh tế và xã hội của mình và làm cho mọi người nam cũng như nữ có một cuộc sống bảo đảm và bền vững thông qua tự do lựa chọn công ăn việc làm. Hội nghị cũng khẳng định ở cấp quốc gia của các nước cần phải có các giải pháp vĩ mô về việc làm [30]. 1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về lao động việc làm Vấn đề con người trong đó có việc làm nằm ở vị trí trung tâm của nhiều hệ thống quan điểm chính trị - xã hội từ trước đến nay. Bởi vì hơn bao giờ hết, vấn đề nhân tố con người và khai thác tiềm năng của con người trong quá trình phát triển của xã hội có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng như ngày nay. Chủ nghĩa Mác - Lênin trong khi làm sâu sắc thêm nhận thức của mình về chủ nghĩa xã hội đều khẳng định vị trí cao nhất và bao trùm của vấn đề con người; chiến lược con người được khẳng định như chiến lược của mọi chiến lược. Nhân tố con người được phát huy và khai thác đầy đủ hơn nhằm tạo ra động lực để tiến hành công cuộc đổi mới xã hội, đồng thời sự nghiệp giải phóng con người được coi như là mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội. Ăngghen đã từng khẳng định: “ xã hội cộng sản là xã hội mỗi thành viên của nó có thể phát triển hoàn toàn tự do và phát huy tiềm năng, sức lực của mình, đồng thời không xâm phạm đến những điều kiện cơ bản của xã hội" [27,354]. Mác - Ăngghen nhấn mạnh: Thay thế cho xã hội tư bản với những gai cấp và đối kháng giai cấp sẽ là một liên hiệp mới mà trong đó "Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của mọi người" [27,260]. Lý luận Chủ nghĩa Mác - Lênin về con người, đã được những thành tựu mới của các nhà khoa học, trong nhiều công trình lý luận xuất hiện những năm gần đây đã làm sáng tỏ ra các khía cạnh chủ yếu sau đây: con người là một thực thể xã hội mang bản chất xã hội, nhưng đồng thời là một thực thể tự nhiên, một cấu trúc sinh vật học. Do đó, con người có nhu cầu vật chất và nhu cầu đó cần được thỏa mãn bên cạnh những nhu cầu về tinh thần, có lợi ích vật chất cùng với lợi ích tinh thần chi phối lý trí, tình cảm và hành động, một trong những nhu cầu đó chính là lao động, việc làm. Lao động là một phạm trù vĩnh viễn, nó ra đời, tồn tại và phát triển cùng với sự xuất hiện, tồn tại và phát triển của loài người. Nói đến vai trò quan trọng của lao động, nhà kinh tế học thuộc phái cổ điển Anh - William Pelty - đã nói: "Lao động là cha, đất là mẹ của mọi của cải". Theo C. Mác, lao động, đó là sự kết hợp giữa sức lao động của con người (yếu tố hàng đầu cơ bản nhất của lực lượng sản xuất) với đối tượng lao động, là hoạt động có mục đích của con người nhằm cải tạo tự nhiên. Phát minh vĩ đại của Mác - Ăngghen đó là: hai ông đã khẳng định sản xuất vật chất là cơ sở cho sự phát triển của xã hội loài người. Sản xuất vật chất càng tiến bộ thì càng nâng cao ý nghĩa nhân tố con người trong hoạt động và phát triển sản xuất. Cách mạng khoa học kỹ thuật (và ngày nay là cách mạng khoa học - công nghệ) không những không dẫn đến giảm vai trò của con người, mà còn càng nâng cao chức năng sáng tạo của con người, đề ra cho lao động những yêu cầu mới cao hơn. Nói đến lao động là nói đến sự hoạt động có mục đích, có ý thức của con người tác động vào đối tượng lao động để tạo ra của cải, sản phẩm hàng hóa. Do đó không có lao động chung chung, trừu tượng - lao động thể hiện ở việc làm. Càng nhiều người lao động khác nhau, có chuyên môn nghề nghiệp khác nhau càng làm cho cơ cấu lao động cụ thể, việc làm đa tầng, đa dạng hơn. Lao động là phương tiện để sinh sống, là nguồn gốc chân chính của những thu nhập đảm bảo cho sự tồn tại, phát triển của mọi thành viên và của toàn xã hội. Không có cá nhân nào lại có quyền trút cho người khác cái nghĩa vụ lao động của mình vốn là điều kiện tự nhiên của sự sống còn của loài người. Nhưng lao động và việc làm gắn chặt với hình thái kinh tế - xã hội, chính hình thái kinh tế - xã hội lại chi phối tính chất, cơ chế sử dụng lao động và việc làm. ở các hình thái kinh tế - xã hội trước, như chế độ chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, thì người lao động bị bóc lột dưới hình thức này hoặc hình thức khác, lao động không được quý trọng và vì thế trong nhiều trường hợp người ta coi thứ lao động là sự bắt buộc, là cái tất yếu để kiếm sống. Còn trong chủ nghĩa xã hội phải làm sao cho lao động trở thành "nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta" [32,12], lao động trở thành sự hứng thú, là phương tiện tự biểu hiện, tự khẳng định của con người. Lao động, việc làm gắn chặt với nhau trong bản chất, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội như Bác Hồ đã nói "Không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thỏa mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa" [31,38] và "Chủ nghĩa xã hội làm cho dân giàu nước mạnh, dân có giàu thì nước mới mạnh" [31,44]. Đó là vấn đề đặt ra cho nền kinh tế nước ta trong hiện tại và tương lai. 1.1.2. Quan điểm của Đảng ta về vấn đề lao động, việc làm Ngày nay, nhân dân ta đang bước vào một cuộc chiến đấu mới vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc, vì công bằng xã hội. Thời cơ lịch sử của sự phát triển của đất nước đã đến. Công cuộc đổi mới đang diễn ra nhanh chóng và vững chắc. Chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đang từng bước định hình và khẳng định vai trò của nó trong xã hội mới. Sự phát triển năng động của khu vực Châu á Thái Bình Dương, môi trường hòa bình và ổn định trong khu vực, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ và đa phương hóa các quan hệ quốc tế của Đảng và Nhà nước ta đã mở ra khả năng to lớn để Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Nhân dân ta giàu lòng yêu nước, có ý thức tự lực, tự cường, thông minh, sáng tạo, luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng tạo nên nguồn lực to lớn để xây dựng đất nước. Đó là thời cơ lớn. Nhưng 4 nguy cơ mà Đảng ta nêu lên cho đến nay vẫn là những thách thức lớn, trong đó nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực là nguy cơ nổi cộm lên rất gay gắt, do điểm xuất phát của ta quá thấp, kéo theo hậu quả xấu về công ăn việc làm, đời sống và các vấn đề xã hội khác. Bởi vậy, Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định chăm lo nhiều hơn nữa sự nghiệp văn hóa - xã hội, coi đó là động lực và mục tiêu của kinh tế, gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng và tiến bộ xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển đất nước. Trong đó lao động, việc làm được coi là một trong những vấn đề xã hội gốc rễ, căn bản nhất. Giải quyết đủ việc làm có hiệu quả, chính là giải quyết tận gốc những căn nguyên sâu xa nhất của các vấn đề xã hội gay cấn, bảo đảm giữ gìn trật tự kỷ cương và an toàn xã hội. Đây là một vấn đề hết sức quan trọng và khó khăn. Nguồn lực con người là một tập hợp các chỉ số phát triển về con người, là một thứ vốn cùng với vốn tài chính tạo nên dòng chủ đạo của sự phát triển kinh tế - xã hội. Nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười đã xác định "Nguồn lực đó chính là người lao động có trí tuệ cao, có tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp được đào tạo và bồi dưỡng, phát huy bởi một nền giáo dục tiên tiến gắn liền với một nền khoa học, công nghệ hiện đại" [8,11]. Vai trò quyết định của nguồn lực con người đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã được Đảng ta xác định là nguồn lực "quý báu nhất, có vai trò quyết định đặc biệt đối với nước ta, khi nguồn lực tài chính và nguồn lực vật chất còn hạn hẹp". Các nguồn lực khác như vốn, khoa học công nghệ, tài nguyên thiên nhiên - dù có nhiều bao nhiêu cũng là hữu hạn, nó không có sức mạnh tự thân và sẽ mất đi trong quá trình khai thác của loài người. Hơn thế, chúng chỉ phát huy tác dụng và có hiệu quả khi có ý thức của con người. Cho nên, chỉ có con người với trí tuệ và tài năng là tài nguyên vô tận không bao giờ cạn kiệt, có khả năng phục hồi và tự tái sinh nếu chúng ta biết nuôi dưỡng, thúc đẩy nó phát triển. Thông qua quá trình đó, năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người được phát triển. Đó cũng chính là quan điểm cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin; xem con người là điểm khởi đầu và điểm kết thúc của mọi quá trình biến đổi lịch sử và cũng đúng với quan điểm của Bác Hồ và của Đảng ta xem con người là "vốn quý nhất". Quan điểm trên được thể hiện trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000, Đảng ta xác định. " Giải quyết việc làm, sử dụng tối đa năng lực lao động xã hội là mục tiêu quan trọng hàng đầu của chiến lược, một tiêu chuẩn để định hướng cơ cấu kinh tế và lựa chọn công nghệ " [9,35]. Gần đây, trong mục những chủ trương chính sách lớn của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành trung ương Đảng có ghi: "Tích cực giải quyết vấn đề lao động việc làm. Kết hợp chương trình quốc gia giải quyết việc làm với từng chương trình, dự án lớn phát triển kinh tế để tạo ra nhiều chỗ làm mới, đặc biệt là dự án đầu tư bằng vốn ngân sách và đầu tư của nước ngoài. Khuyến khích phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, các làng nghề truyền thống, phát triển các ngành nghề mới ở nông thôn để giải quyết việc làm tại chỗ, hoàn thiện cơ chế quản lý và tăng cường quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm" [45,80]. 1.2. Khái niệm về lao động, việc làm và thất nghiệp 1.2.1. Khái niệm về lao động ở mọi quốc gia đều có sự phân biệt quan niệm về nguồn lao động và nguồn nhân lực nhằm mục đích để có chính sách và biện pháp hữu hiệu huy động nguồn nhân lực và nguồn lao động. Nguồn nhân lực của một quốc gia là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định có khả năng tham gia lao động. Như vậy, số lượng nguồn nhân lực vừa phụ thuộc vào khả năng tham gia lao động của từng cá nhân, vừa phụ thuộc vào quy định độ tuổi lao động ở từng quốc gia. Nguồn lao động bao gồm tất cả những người trong độ tuổi lao động đang tham gia làm việc hoặc đang tích cực tìm việc và những người ngoài độ tuổi quy định nhưng thực tế đang làm việc hoặc đang tích cực làm việc. 1.2.2. Khái niệm về việc làm Có nhiều cách diễn đạt khái niệm việc làm, chẳng hạn xét về mặt lý luận khoa học Giăng Mutê, phó cố vấn kinh tế văn phòng lao động quốc tế cho rằng: "Việc làm có thể định nghĩa như một thực trạng, trong đó có sự trả công bằng tiền hoặc hiện vật do có sự tham gia tích cực, có tính chất cá nhân và trực tiếp vào nỗ lực sản xuất". Guy Hântơ, chuyên gia Viện phát triển hải ngoại Luân Đôn định nghĩa "Việc làm theo nghĩa rộng là toàn bộ các hoạt động kinh tế của một xã hội, nghĩa là tất cả những gì quan hệ đến cách thức kiếm sống của con người, kể cả các quan hệ xã hội và tiêu chuẩn hành vi tạo thành khuôn khổ của quá trình kinh tế". Trong Bộ Luật lao động nước ta, định nghĩa việc làm được ghi trong điều 13 "Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm. Giải quyết việc làm đảm bảo cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm là trách nhiệm của Nhà nước, của các doanh nghiệp và toàn xã hội”. Khái niệm việc làm nói trên có 2 ý nghĩa cơ bản. Trước hết nó giải tỏa quan niệm cũ cho rằng có việc làm trong khu vực Nhà nước mới được coi là có việc làm, bởi vì lao động tạo ra nguồn thu nhập không chỉ trong khu vực Nhà nước mà cả trong khu vực tư nhân, cá thể, ngoài quốc doanh, hộ gia đình... Như vậy sẽ mở rộng hiểu biết của khái niệm và đa dạng hóa thị trường lao động, xây dựng quan hệ mới về giá trị xã hội. Mặt khác khái niệm nêu trên còn làm nổi rõ một đặc trưng của Nhà nước Pháp quyền, thể hiện ở chỗ cho phép công dân Việt Nam được làm những việc mà pháp luật không cấm, quy định như vậy là sát thực tế hơn vì trong khi chưa có được ngay một lúc danh mục toàn bộ, hoàn chỉnh những ngành nghề và công việc được phép làm, còn danh mục những ngành nghề và công việc cấm làm thì đã có cụ thể và sẽ được bổ sung dần. Ví dụ: mại dâm, mua bán ma túy, sản xuất và buôn bán pháo nổ... không phải là việc làm vì bị cấm chính thức theo Nghị quyết 05/CP và 06/CP (năm 1993), nó không phải là nghề mà là một tệ nạn xã hội. Ngược lại việc làm của những người giúp việc gia đình trước đây chưa được xã hội tôn trọng, thì nay trở thành việc làm đáng khuyến khích mở rộng và được pháp luật bảo vệ (điều 139 Bộ Luật lao động) 1.2.3. Khái niệm về thất nghiệp Theo A. Samuelson: Thất nghiệp là những người không có việc làm nhưng đang chờ để trở lại làm việc hoặc đang tích cực đi xin việc [2, 235]. - Những người có việc làm hoặc không có việc làm đều nằm trong lực lượng lao động. Những người đang đi học, trông coi nhà cửa, về hưu, quá đau ốm không đi làm được hoặc thôi đi làm việc nữa, đó là người nằm ngoài lực lượng lao động. Từ phân tích trên, A. Samuelson kết luận: Người có việc làm là người đi làm, người không có việc làm là người thất nghiệp. Những người không có việc làm, nhưng không tìm được việc làm là những người ngoài lực lượng lao động. Cùng với khái niệm thất nghiệp, Samuelson cũng đưa ra các loại hình thất nghiệp: thất nghiệp tự nguyện, thất nghiệp không tự nguyện, thất nghiệp tạm thời, thất nghiệp cơ cấu, thất nghiệp chu kỳ. Từ khái niệm việc làm, thất nghiệp, các loại thất nghiệp trên có thể khái quát: Người có việc làm là người đang làm việc trong các lĩnh vực, ngành nghề, hoạt động có ích, không bị pháp luật ngăn cấm, đem lại thu nhập để nuôi sống bản thân và gia đình, đồng thời đóng góp một phần cho xã hội. Còn người thất nghiệp được hiểu là những người không có việc làm đang tích cực tìm việc làm hoặc đang chờ được trở lại làm việc. Thiếu việc làm cũng có thể hiểu là trạng thái trung gian giữa có việc làm đầy đủ và thất nghiệp. Đó là tình trạng có việc làm, nhưng do nguyên nhân khách quan, ngoài ý muốn của người lao động, họ phải làm việc không hết thời gian do luật định hoặc làm những công việc có thu nhập thấp, không đủ sống, muốn tìm thêm việc làm bổ sung. Khi phân tích việc làm, thất nghiệp và thiếu việc làm người ta thường chỉ tính đến đối tượng nằm trong lực lượng lao động và trong độ tuổi lao động. Song, do đặc điểm của Việt Nam, người có nhu cầu làm việc ngoài độ tuổi lao động rất lớn. Vì vậy việc hoạch định chính sách về việc làm nhất thiết phải nghiên cứu đề cập đến đối tượng hưu trí, lao động vị thành niên, người già, thương bệnh binh, người tàn tật, khuyết tật để đưa họ hòa nhập cộng đồng, lao động để đảm bảo đời sống của bản thân và gia đình. 1.2.4. Tác động của thất nghiệp Trong nền kinh tế thị trường, thất nghiệp được xem là một trong những thước đo thành tựu kinh tế ở tầm vĩ mô và là vấn đề trung tâm trong nền kinh tế được toàn xã hội đặc biệt quan tâm. Khi thất nghiệp cao, về mặt kinh tế tài nguyên bị lãng phí, thu nhập nhân dân bị giảm sút, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thực tế thấp hơn mức tiềm năng của nó. Mức thất nghiệp cao làm giảm sản lượng nền kinh tế, một phần sản lượng bị bỏ đi hoặc không được sản xuất. Về mặt xã hội, thất nghiệp tác động mạnh đến xã hội và tâm lý, nhiều hiện tượng tiêu cực, tệ nạn xã hội phát triển. Qua các công trình nghiên cứu cho thấy hậu quả của thất nghiệp tác động đến mọi mặt kinh tế và xã hội: - Về kinh tế: Thất nghiệp gây lãng phí về sức lao động không những tư liệu sản xuất không được kết hợp với sức lao động tạo ra của cải vật chất mà xã hội còn phải chi một phần ngân sách để phụ cấp. Thất nghiệp làm cho tổng sản phẩm xã hội giảm. Theo Arthao Okun (quy luật Okun) thì: Khi GDP giảm 2% so với GDP tiềm năng thì mức thất nghiệp tăng 1%. Trong điều kiện nước ta GDP còn thấp, GDP bình quân đầu người thua xa nhiều nước, thì đây là một thách thức lớn. - Về xã hội: Hậu quả về mặt kinh tế do thất nghiệp gây ra rất to lớn. Song về mặt xã hội tác động đó còn lớn hơn nhiều. Những cuộc nghiên cứu gần đây cho thấy nạn thất nghiệp dẫn đến sự suy sút cả về thể chất và tâm lý, nghiện rượu, tự tử, các tệ nạn xã hội khác nhiều hơn. Người nghiên cứu hàng đầu là bác sĩ H. Brenner cho biết hậu quả thất nghiệp ảnh hưởng rất lớn về mặt xã hội, Ông đã ước tính rằng nếu tăng 1% tỷ lệ thất nghiệp trong thời kỳ 6 năm thì sẽ làm cho 37.000 người chết sớm [40, 160]. Những công trình nghiên cứu trên chứng minh rằng: thất nghiệp gây ra tổn thất nặng nề về kinh tế, về người, xã hội và tâm lý rất lớn. ở Kiên Giang, theo báo cáo của công an tỉnh từ năm 1990 đến năm 1998, trên địa bàn đã giải quyết và thụ lý 9.284 vụ án thuộc các tội phạm hình sự, kinh tế, ma túy, tệ nạn xã hội. Trong đó tội phạm hình sự chiếm 67 % tổng số vụ án, có xu hướng ngày càng tăng và tăng bình quân mỗi năm 5,8 %, thành phần tội phạm có trên 60 % là phạm tội lần đầu, trong đó có trên 30 % đối tượng không có việc làm ổn định [5, 2]. 1.3. Đặc điểm kinh tế-xã hội và các nhân tố ảnh hưởng đến việc làm ở Kiên Giang 1.3.1. Khái quát đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội tác động đến lao động việc làm 1.3.1.1. Vị trí địa lý Tỉnh Kiên Giang là một tỉnh lớn nằm ở tận cùng phía Tây Nam Tổ quốc thuộc vùng đồng bằng Sông Cửu Long, phía Bắc giáp tỉnh bạn Cam Pốt Campuchia có đường biên giới dài 56 km, phía Đông và Đông Bắc giáp hai tỉnh Cần Thơ và An Giang, phía Nam giáp tỉnh Cà Mau Bạc Liêu, phía Tây là vùng biển giáp Vịnh Thái Lan, có diện tích tự nhiên 6.222km2 với hơn 200km bờ biển, có 608 km hải đảo (chưa kể các hòn khô, vùng nội thủy, thềm lục địa). Địa hình ở Kiên Giang đa dạng và phức tạp, có đủ đồng bằng, biển đảo và rừng núi (Nhiều người ví Kiên Giang như một Việt Nam thu nhỏ), phần đất liền tương đối bằng phẳng, với độ cao nhất trung bình 0,8 - 1,2m và độ thấp nhất trung bình 0,2 - 0,4m, so với mặt biển. Hệ thống sông rạch chằng chịt rất tốt cho việc xây dựng thủy lợi nội đồng, thâm canh tăng vụ; tuy nhiên sẽ ảnh hưởng xấu cho việc thoát úng vào mùa mưa, nước mặn thâm nhập sâu vào mùa khô và bất lợi cho xây dựng cơ sở hạ tầng vùng nông thôn. 1.3.1.2. Tài nguyên thiên nhiên 1.3.1.2.1. Tài nguyên đất Kiên Giang có tổng diện tích đất tự nhiên là 622.230ha (chiếm 15,6% vùng đất đồng bằng sông Cửu Long), trong đó đất nông nghiệp 350.393 ha chiếm 56,3% đất tự nhiên; riêng đất trồng lúa 267.995ha chiếm 76,5% đất nông nghiệp. Đất lâm nghiệp 108.966ha chiếm 17,51% diện tích đất tự nhiên. Nhìn chung đất đai ở Kiên Giang rất phù hợp cho việc phát triển nông nghiệp, tuy nhiên hiện vẫn còn gần 117.000ha quỹ đất chưa sử dụng, trong đó đất có khả năng trồng lúa là 45.000 ha. 1.3.1.2.2. Tài nguyên thủy sản Kiên Giang là tỉnh có nguồn thủy lợi sản đa dạng, phong phú. Với 200 km bờ biển và 105 hòn đảo lớn nhỏ, vùng biển Kiên Giang có đến 315 loài động vật biển của 149 giống thuộc 83 họ, bao gồm tôm cá các loại và các đặc sản quý như: đồi mồi, sò huyết, nghêu lụa, ngọc trai...; Vùng biển tây nam (bao gồm cả Minh Hải và Kiên Giang) với diện tích 63.290 km2 là ngư trường khai thác hải sản rất thuận lợi. Trữ lượng tôm cá ước tính 464.660 tấn, khả năng khai thác cho phép bằng 44% trữ lượng (204.450 tấn), ngoài ra tỉnh đang thực hiện dự án đánh bắt xa bờ tại vùng biển Đông Nam Bộ có trữ lượng khoảng 611.154 tấn với sản lượng khai thác cho phép là 244.462 tấn (bằng 40% trữ lượng). Nguồn lợi thủy sản nội địa với diện tích nuôi cá 50.800 ha, cho sản lượng hàng năm gần 30.000 tấn, trong đó nuôi kết hợp với mô hình lúa - cá khoảng 16.000 ha và nuôi kết hợp rừng tràm 34.000 ha. 1.3.1.2.3. Tài nguyên khoáng sản Kiên Giang là tỉnh duy nhất ở đồng bằng Sông Cửu Long có nhiều nguồn lợi về khoáng sản và trữ lượng lớn rất có giá trị như: đá vôi, đất sét (làm xi măng, gạch ngói), đá xây dựng, cát (làm thủy tinh), than bùn. Ngoài ra ở Phú Quốc còn có đá huyền, Hà Tiên có thạch anh để làm đồ trang sức mỹ nghệ... 1.3.1.2.4. Tiềm năng du lịch Bên cạnh tiềm năng tài nguyên, Kiên Giang còn có điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch do có nhiều địa danh thắng cảnh và di tích lịch sử nổi tiếng như: Hòn Chông, Hòn Trẹm, Hòn Phụ Tử, Núi Moso, Mũi Nai, Thạch Động, Lăng Mạc Cửu, Đông Hồ, U Minh, Phú Quốc... với nhiều bãi tắm hấp dẫn khách du lịch trong và ngoài nước. Đáng lưu ý Kiên Giang còn có nền văn hóa óc Eo một thời đã là trung tâm giao lưu với bên ngoài. Ngoài ra du lịch lễ hội cũng là một thế mạnh, hàng năm lễ hội Nguyễn Trung Trực vào cuối tháng 8 âm lịch cũng thu hút trên 100.000 lượt người. 1.3.1.2.5. Tiềm năng về nhân lực Năm 1998 dân số Kiên Giang là 1.476.550 người, trong đó nữ 752.612 người, chiếm 50,9%, gồm 3 dân tộc chủ yếu: dân tộc Kinh chiếm 85,60%; Khơmer 12,19%; dân tộc Hoa chiếm 2,16%; các dân tộc khác chiếm 0,5 %, trong đó dân số nông thôn chiếm 77,67%, thành thị chiếm 22,33%. 1998, Nguồn lao động (lao động trong độ tuổi) khoảng 851.223 người chiếm 57,6% dân số, trong đó khoảng 84% số lao động đang làm việc trong nền kinh tế quốc dân (711.262); lao động kỹ thuật chiếm 3,5% trong tổng số nguồn lao động. Đó là những thuận lợi cơ bản về tiềm năng thiên nhiên và những thành quả đạt được của nền kinh tế. Kiên Giang còn có một yếu tố vật chất vô cùng đặc biệt quan trọng và phức tạp đã tác động mật thiết với cuộc sống hiện tại và tương lai, đó là lực lượng lao động, là lực lượng sản xuất cơ bản đầu tiên quyết định sự tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế. 1.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc làm đối với nước ta Đối với Việt Nam, sự phát triển dân số và lao động là những vấn đề kinh tế - xã hội gay gắt chẳng những trong giai đoạn hiện nay, mà còn trong nhiều năm tới. Dân số Việt Nam theo cuộc điều tra dân số 1/4/1989 là 64.411.000 người, năm 1993 là 70.982.000 người và năm 1999 là 76.324.753 người. Như vậy kể từ tổng điều tra dân số 1/4/1989 tới 1/4/1999 mỗi năm dân số tăng tuyệt đối 1,2 triệu người [18]. Dân số và kinh tế - xã hội là những yếu tố vận động theo những quy luật khác nhau. Trong dân số có lực lượng lao động - yếu tố quyết định của sản xuất. Đồng thời dân số lại là lực lượng tiêu dùng chủ yếu mọi của cải và tinh thần của xã hội. Mối quan hệ này, ngày nay đã được cụ thể hóa thành quan hệ giữa dân số và phát triển, là một nội dung quan trọng trong công tác hoạch định chiến lược kinh tế - xã hội của nhiều nước. Nguồn lao động nước ta tăng nhanh trong bối cảnh nền kinh tế đang gặp không ít khó khăn gay gắt do công nghệ lạc hậu, ảnh hưởng trực tiếp của cuộc khủng hoảng tiền tệ khu vực (1997), thiên tai (hạn và lụt nặng nề ở miền Trung) đã sinh ra mâu thuẫn giữa khả năng tạo việc làm còn hạn chế với nhu cầu giải quyết việc làm ngày càng tăng, tất yếu sẽ dẫn đến tới tình hình một bộ phận chưa có việc làm. Theo số liệu thống kê, hàng năm nước ta gồm 2 triệu người không có việc làm [13]. Dân số trong độ tuổi lao động nước ta vẫn có xu hướng ngày càng tăng, năm 2000 chiếm khoảng 55%, dự kiến đến năm 2005 chiếm khoảng 59,1%. Tốc độ tăng nguồn lao động còn ở mức cao, đến năm 2000, bình quân mỗi năm tăng nguồn lao động khoảng 2,95% làm cho sức ép việc làm trở nên gay gắt. Đặc biệt là thừa nhiều lao động giản đơn chưa qua đào tạo và thiếu nghiêm trọng lao động trình độ cao, tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 1998 mới chiếm 17,8%, phần lớn là làm việc ở cơ quan trung ương (94,4%). Riêng nông thôn chỉ có 10% lao động qua đào tạo, trong đó đào tạo nghề chỉ có 0,44%. Cơ cấu đào tạo giữa đại học, cao đẳng, trung học và công nhân kỹ thuật rất bất hợp lý. Hiện nay là 1/1,6/3,6 (các nước khác là 1/4/10) Đào tạo không gắn với yêu cầu và thị trường lao động dẫn đến hàm lượng chất xám trong sản phẩm thấp, làm cho sức cạnh tranh các sản phẩm không cao trên thị trường trong nước và quốc tế [13]. Chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra chậm chạp. Tỷ trọng GDP các ngành Nông nghiệp, Công nghiệp xây dựng, Dịch vụ trong năm 1995 tương ứng là 27,8 - 28,76 - 44,06% đến năm 1998 là 25,7% - 32,59 - 41,66%. Điều này hạn chế lớn đến giải quyết việc làm trong kinh tế thị trường và hòa nhập quốc tế trong xu thế toàn cầu hóa [13]. Do tác động mạnh của cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ khu vực và trên thế giới, dẫn đến phát triển kinh tế nước ta bị chững lại. GDP có xu hướng suy giảm làm cho tình hình thất nghiệp khu vực thành thị ở nước ta còn ở mức cao và đang có xu hướng tăng lên. Tỷ lệ thất nghiệp thành thị từ năm 1994 đến 1996 có xu hướng giảm bình quân mỗi năm 0,4% nhưng năm 1997 so với năm 1996 lại tăng thêm 0,13%, năm 1998 so với năm 1997 tăng thêm 0,55% (1996 tỷ lệ thất nghiệp thành thị là 5,88%, 1997: 6,01%, năm 1998: 6,85%, 1999: 7,4%) [13]. Về cơ bản, nông thôn vẫn là khu vực tạo việc làm cho phần lớn lao động xã hội (gần 70%). Tuy nhiên, trong nông thôn nạn thiếu việc làm rất nghiêm trọng. Số người thiếu việc làm tập trung nhiều nhất ở lứa tuổi 15 - 24 (chiếm 32,79%, tiếp đến là nhóm tuổi từ 25 - 34 (29,39%) và nhóm tuổi 35 - 44 (21,29%) [13]. Tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn chủ yếu là do diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu người rất thấp, chi phí sản xuất lại tăng, hiệu quả sản xuất giảm, trong khi đó chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động nông thôn diễn ra chậm chạp. Kinh tế nông thôn vẫn nặng về nông nghiệp (chiếm 70%), trong nông nghiệp vẫn nghiêng về trồng trọt (78%), chủ yếu cây lương thực (56%). Hiện nay cả nước có 8,1 triệu ha đất nông nghiệp, bình quân 0,68ha/hộ nông nghiệp, bình quân 1 hộ nông nghiệp chỉ có 0,27 ha (đặc biệt vùng đồng bằng sông Hồng bình quân 1 lao động nông nghiệp chỉ 600m2) thì nhu cầu lao động ở nông thôn cho nông nghiệp tối đa chỉ 19 triệu người. Nếu không phát triển mạnh việc làm phi nông nghiệp, sẽ dư thừa tương đối lao động rất lớn, khoảng 10 triệu [13]. Sự phát triển không đều giữa các vùng đặc biệt là giữa nông thôn và thành phố lớn, khu công nghiệp tập trung (Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa Vũng Tàu, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ,...) dẫn đến dòng người di dân tự phát từ nông thôn vào thành phố lớn với quy mô và tốc độ ngày càng tăng, nhất là thành phố Hồ Chí Minh thường xuyên có 7 vạn lao động từ các tỉnh đến tìm việc làm, Hà Nội khoảng 2 vạn... Số này vào thành phố chủ yếu là tìm kiếm việc làm có thu nhập cao hơn nông thôn (phần lớn là lao động phổ thông, nặng nhọc), nhưng cũng gây nên những phức tạp rất lớn về quản lý đô thị, làm quá tải các dịch vụ hạ tầng xã hội (giao thông, y tế, trường học, cấp nước...). Đặc biệt có một bộ phận sa vào ma túy, mại dâm hoặc trẻ em lang thang kiếm sống trên đường phố. 1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc làm ở Kiên Giang Những nhân tố ảnh hưởng đến việc làm của cả nước, cũng là những nhân tố tác động đến việc làm của Kiên Giang. 1.3.3.1. Nhân tố dân số Dân số, trong đó có nguồn lao động biểu hiện tính chất hai mặt trong quá trình tái sản xuất xã hội. Trước nhất, dân số với ý nghĩa là những chủ thể tiêu dùng sản phẩm vật chất và dịch vụ phản ánh nhu cầu xã hội.7 Mặt khác, trong dân số có nguồn lao động là yếu tố quan trọng nhất của lực lượng sản xuất, là chủ thể sáng tạo ra sản phẩm hữu hình và dịch vụ, phản ánh lượng cung của xã hội. Những năm qua, dân số Kiên Giang không ngừng tăng lên. Năm 1991 với dân số là 1.265.000 người, đến năm 1999 là 1.518.000 người, tức đã tăng lên một lượng 253 ngàn người, với tốc độ tăng dân số ở mức khá cao: năm 1991 là 2,43%, năm 1992 là 2,45%, năm 1993 là 2,78%, năm 1994 là 2,70%, năm 1995 là 2,27%, năm 1996 là 2,22%, năm 1997 là 2,17%, năm 1998 là 2,05%, năm 1999 là 1,81%. Biểu số 1: Dân số Kiên Giang qua các năm Đơn vị: 1.000 người 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 Dân số 1.265 1.296 1.332 1.368 1.399 1.430 1.461 1.491 1.518 Tỷ lệ sinh (%) 3,05 2,82 2,73 2,68 2,61 2,51 2,44 2,37 2,28 Tỷ lệ chết (%) 0,66 0,48 0,45 0,48 0,48 0,46 0,46 0,48 0,48 Tỷ lệ tăng tự nhiên (%) 2,39 2,34 2,48 2,20 2,13 2,05 1,98 1,89 1,8 Tốc độ tăng dân số (%) 2,43 2,45 2,78 2,70 2,27 2,22 2,17 2,05 1,81 Nguồn: Sở Lao động - Thương binh và xã hội tỉnh Kiên Giang Dân số tỉnh Kiên Giang tăng nhanh chủ yếu là do tăng dân số tự nhiên, đây chính là nguyên nhân chủ yếu đưa đến nguồn lao động ở tỉnh mỗi năm tăng lên. 1.3.3.2. Nhân tố cơ cấu độ tuổi Cơ cấu độ tuổi cũng ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành nguồn lao động, có ý nghĩa quan trọng trong nghiên cứu và từ đó tác động đến số việc làm hiện nay cũng như số lao động đang dự trữ trong nền kinh tế quốc dân. Đồng thời việc phân tích về cơ cấu tuổi tác cho phép ta dự đoán khả năng thu hút lao động và đang xác định nguyên nhân ảnh hưởng đến việc làm và thất nghiệp. Biểu số 2: Cơ cấu độ tuổi và giới tính của dân số tỉnh Kiên Giang[35] Đơn vị: người Độ tuổi 1995 1996 1997 Nam Trong đó nữ Nam Trong đó nữ Nam Trong đó nữ 0 - 4 187.490 91.701 190.222 93.304 194.312 95.427 5 - 9 184.272 89.630 183.356 89.386 180.432 87.690 10 - 14 199.383 98.256 201.950 99.400 197.964 97.200 15 - 59 744.362 401.457 773.043 414.426 805.591 431.526 60 trở lên 83.670 44.847 81.667 44.371 82.691 45.403 Tổng cộng 1.399177 725.891 1.430.23 8 740.887 1.460.99 0 757.246 Nguồn: Sở Lao động - Thương binh và xã hội tỉnh Kiên Giang Với số liệu trên cho thấy, dân số ở độ tuổi từ 15 trở xuống chiếm hơn 1/3 tổng thể dân số (39,2%). Đây là nguyên nhân chủ yếu làm tăng nhanh nguồn lao động và là gánh nặng đối với công tác giải quyết việc làm cũng như các nhu cầu khác. Biểu số 3: Nguồn lao động đang làm việc trong nền kinh tế quốc dân và lao động chưa có việc làm (1994 - 1998) [35] (Theo số liệu thống kê) 1994 1995 1996 1997 1998 A. Lao động 762.85 788.67 841.92 875.31 892.95 5 6 8 7 1 1. Số người trong độ tuổi lao động 734.33 5 755.38 6 805.68 0 834.41 3 851.22 3 Trong đó: - Mất sức lao động 30.401 31.257 32.425 35.522 34.048 - Có khả năng lao động 703.93 4 724.12 9 773.25 5 798.89 1 817.17 5 2. Ngoài tuổi có tham gia lao động 28.520 33.290 36.248 40.904 41.728 - Trên tuổi lao động 14.320 16.890 18.298 20.654 21.070 - Dưới tuổi lao động 14.200 16.400 17.950 20.250 20.658 B. Phân phối lao động 732.45 4 757.41 9 809.50 3 839.79 5 858.90 3 I. Số lao động đang làm việc 606.01 8 620.95 5 669.28 9 687.43 2 711.26 2 1. Nông, lâm nghiệp 449.66 2 458.72 5 493.50 0 510.68 4 518.81 7 2. Thủy sản 32.537 33.339 35.710 33.326 48.078 3. Công nghiệp 34.251 35.096 37.592 34.463 34.168 4. Xây dựng 7.557 8.072 5.621 8.249 7.227 5.Thương nghiệp,khách sạn, nhà hàng 53.998 55.329 63.447 59.805 59.030 6. Vận tải thông tin 7.652 8.082 10.127 12.689 14.226 7. Quản lý nhà nước, ANQP, Đảng, đoàn thể, các tổ chức quốc tế 3.858 4.727 4.743 5.175 5.256 8. Giáo dục và đào tạo 9.291 10.122 10.196 12.549 12.873 9. Y tế và cứu trợ 2.270 2.399 2.928 3.159 3.148 10. Khác 4.942 5.064 5.425 7.333 8.439 II. Học sinh đang đi học 59.481 62.515 65.954 68.922 70.308 III. Nội trợ và chưa có việc làm 66.955 73.949 74.260 83.441 77.333 a. Nội trợ 31.972 39.642 42.561 48.396 42.195 b. Chưa có việc làm 34.938 34.307 31.699 35.045 35.138 Nguồn: Sở Lao động - Thương binh và xã hội tỉnh Kiên Giang Theo quy định của Bộ Luật lao động, độ tuổi lao động từ 15 - 55 đối với nữ và 15 - 60 đối với nam. Nhưng thực tế nguồn lao động theo số liệu năm 98 bao gồm: Những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động (817.174) và những người trên và dưới độ tuổi vẫn tham gia lao động là 41.728 người. Đến năm 1998, tổng lao động đang làm việc của Kiên Giang là 858.903 người, so với năm 1994 tăng 126.449 người, chiếm 14,7%, bình quân hàng năm tăng 3% nguồn lao động. Như vậy, với số liệu trên cho thấy nguồn lao động trong các năm 1994 - 1998 tăng với tỷ lệ cao. Nguyên nhân chủ yếu là do dân số bước vào độ tuổi lao động cao, nguyên nhân thứ hai là do tỷ lệ biến động cơ học do số lao động tỉnh ngoài đến Kiên Giang làm ăn sinh sống (nhất là huyện đảo), vì vậy dẫn đến nguồn lao động các năm qua tăng nhanh. Riêng lao động trong độ tuổi có khả năng lao động năm 1995 tăng 20.195 người so với năm 1994; năm 1996 tăng 49.126 người so với năm 1995; năm 1997 tăng 25.636 người so với năm 1996. Nguyên nhân chính tăng số người có khả năng lao động ở năm 1996 cao là số lao động tỉnh ngoài đến Kiên Giang làm ăn sinh sống, tính riêng huyện đảo Phú Quốc theo kết quả điều tra có 9.446 lao động ngoài tỉnh đang ổn định làm ăn. 1.3.3.3. Thời gian nông nhàn Về cơ cấu việc làm trong nền kinh tế, ngành nông lâm nghiệp là ngành sử dụng nhiều lao động nhất, chiếm tỷ lệ cao so với tổng số. Từ năm 1994 - 1998 tăng 69.155 lao động, bình quân hàng năm tăng trên 14.000 lao động. Thế nhưng lao động làm việc trong ngành nông lâm nghiệp lại chiếm tỷ lệ thời gian thấp hơn so với ngành khác. Theo kết quả điều tra lao động - việc làm năm 1997 do Sở lao động - thương binh và xã hội và Cục Thống kê phối kết hợp, được Trung tâm thông tin - Thống kê lao động và xã hội xử lý số liệu cho thấy: Biểu số 4: Tỷ lệ thời gian lao động vùng nông thôn có hoạt động kinh tế theo nhóm tuổi và giới tính Đơn vị: % Tổng số Nữ Chia theo nhóm tuổi Trong độ tuổi lao động Trên độ tuổi lao động Tổng số Nữ Tổng số Nữ 1 2 3 4 5 6 69,61 69,48 69,68 69,52 67,58 68,45 Với tỷ lệ thời gian làm việc thuộc ngành, vùng này chỉ chiếm 69,61% tổng thời gian làm việc, số thời gian còn lại là nông nhàn, từ đó dễ phát sinh các tiêu cực xã hội, đồng thời làm chậm quá trình tích lũy tổng sản phẩm xã hội. Vì vậy, việc định hướng đào tạo nghề, thâm canh tăng vụ, xen canh... để giải quyết việc làm thuộc vùng nông thôn là vấn đề bức bách. Nguồn lao động thanh niên: Theo số liệu thống kê độ tuổi thanh niên trên địa bàn tỉnh năm 1997 như sau: Biểu số 5 Đơn vị: Người Nhó m tuổi Tổng số Thành thị Nông thôn Tổng số Nam Nữ Tổng số Nam Nữ Tổng số Nam Nữ 15 - 27 385.5 57 183.1 26 202.4 31 82.091 38.774 43.317 303.4 66 144.3 52 159.1 14 Tỷ lệ nguồn lao động trong độ tuổi thanh niên chiếm 26,4% so với tổng dân số. Điều nghịch lý là ở độ tuổi này tỷ lệ nữ lại chiếm nhiều hơn nam giới, điều này phần nào đã gây ra những trở ngại trong việc thu hút lao động ở các ngành công nghiệp nặng, khai thác vật liệu xây dựng, hải sản... là những mũi nhọn của tỉnh. Đồng thời, tỷ lệ giới tính thấp còn phản ánh quy mô dân số tăng nhiều trong tương lai. Chương 2 Thực Trạng Việc Làm, Giải Quyết Việc Làm Và Những Bức Xúc ĐANG Đặt RA ở KIÊN GIANG 2.1. Thực trạng việc làm và giải quyết việc làm thời gian qua ở Kiên Giang 2.1.1. Lao động đang làm việc trong nền kinh tế 2.1.1.1. Theo ngành kinh tế Năm 1998 tổng số lao động đang làm việc trong tất cả các ngành kinh tế của tỉnh Kiên Giang là 711.262 người. Nhưng thực tế số lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế để tạo ra giá trị tổng sản phẩm của tỉnh trong năm 1998 là 693.997 người và đã tạo ra được số lượng giá trị tổng sản phẩm (GDP) là 6.556,6 tỷ đồng; có nghĩa là để tạo ra 1 tỷ đồng GDP thì trung bình phải cần số lao động 106 người. Xét về quy mô và cơ cấu ngành kinh tế, Kiên Giang cũng có những đặc điểm về kinh tế kỹ thuật của từng ngành và sự phân bố lao động xã hội đang làm việc trên địa bàn cũng có những khác biệt đáng chú ý. 2.1.1.1.1. Ngành lâm - nông nghiệp vẫn là ngành chiếm một tỷ trọng cao nhất ở Kiên Giang, chiếm 41,16% GDP (tương đương 2.698 tỷ đồng) và đồng thời sử dụng một lượng lao động lớn nhất với số lượng là 518.817 người với tỷ trọng chiếm đến 74,76% trong tổng số lao động đang làm việc. Như vậy là để tạo ra 1 tỷ đồng GDP trong ngành nông - lâm nghiệp thì phải cần 192 lao động. 2.1.1.1.2. Ngành công nghiệp tạo ra được 1.391 tỷ đồng GDP, chiếm tỷ trọng là 21,22% sử dụng một lực lượng lao động là 34.168 (chiếm 4,92% trong tổng số lao động đang làm việc). Để tạo ra 1 tỷ GDP trong ngành công nghiệp thì chỉ cần 25 người tức là số lượng lao động sử dụng thấp hơn 7,6 lần so với ngành nông nghiệp. Hiển nhiên là lao động làm việc trong ngành công nghiệp vẫn có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao hơn so với lao động của ngành nông nghiệp. 2.1.1.1.3. Ngành thương nghiệp, dịch vụ cũng tạo ra một lượng GDP khá lớn: 1.034 tỷ đồng, chiếm 15,77% trong GDP thu hút được 59.030 lao động, chiếm 5,5% trong tổng lao động xã hội đang làm việc. 2.1.1.1.4. Tiếp theo đó là các ngành: giao thông vận tải, bưu điện và một số dịch vụ khác cũng tạo ra được GDP là 319 tỷ đồng (chiếm tỷ trọng 4,87%) và đồng thời thu hút được 18.238 lao động, chiếm 2,63% trong tổng số lao động đang làm việc. Biểu số 6: Lao động và GDP chia theo ngành trên địa bàn tỉnh Kiên Giang năm 1997 - 1998 (Theo giá thực tế) Ngành Tổng sản phẩm GDP Lao động LĐ tính cho 1 tỷ GDP 1997 1998 1997 1998 1997 1998 SL (tỷ đồng ) Cơ cấu % SL (tỷ đồng ) Cơ cấu % SL (ngư ời) Cơ cấu % SL (ngư ời) Cơ cấu % Ngư ời ngườ i 1. Nông, lâm, thủy sản 2.63 8 47,8 8 3.32 4 50,7 0 544.0 10 80,9 5 566.8 95 81,6 9 206 171 - Nông, lâm nghiệp 2.20 9 37,9 3 2.69 7 41,1 6 510.6 84 75,9 9 518.8 17 74,7 6 244 192 - Thủy sản 548 9,95 626 9,55 33.3 26 4,96 48.0 78 6,93 61 77 2. Công nghiệp 1.23 4 22,3 9 1.39 1 21,2 2 35.9 55 5,35 34.1 68 4,92 29 25 - Công nghiệp chế biến 1.20 6 21,8 9 1.36 1 20,7 5 35.0 96 5,22 33.2 76 4,79 29 24 - Công nghiệp S.Xuất 11 0,20 11,3 0,17 582 0,09 598 0,09 53 54 - Công nghiệp khai thác 17 0,30 18,6 0,28 277 0,04 294 0,04 17 15 3. Xây dựng 231 4,20 228 3,49 8.24 9 1,23 7.22 7 1,04 36 32 4.TN,kh.sạ n, nhà hàng 947 17,1 9 1.03 4 15,7 7 59.8 05 8,90 59.0 30 8,51 63 57 - Thương nghiệp 727 13,2 0 790 12,0 5 39.8 71 5,93 38.5 23 5,55 55 49 - Nhà hàng, khách sạn 220 3,99 244 3,73 19.9 34 2,97 20.5 07 2,95 91 84 5. Các ngành dịch vụ 275 4,99 319 4,87 16.7 01 2,49 18.2 38 2,63 61 57 - Vận tải, kho, bưu điện 150 2,73 193 2,95 12.6 89 1,98 14.2 26 2,05 85 74 - Tài chính tín dụng 97 1,76 95 1,45 1.09 1 0,16 1.09 1 0,16 11 11 - Giáo dục & đào tạo 44 1,00 50 1,10 10.1 22 1,63 10.1 96 1,52 230 204 - Khoa học công nghệ 0,03 7 0,00 0,53 8 0,01 46 0,01 46 0,01 1.24 3 86 - KD tài sản và tư vấn 28 0,51 31 0,47 2.87 5 0,43 2.87 5 0,41 103 93 6. Ngành khác 184 3,34 295 3,95 7.33 3 1,09 8.43 9 1,22 40 33 Cộng 5.51 0 100 6.55 7 100 672.0 53 100 693.9 97 100 122 106 Có thể nói, do đặc điểm về mức độ sử dụng kỹ thuật công nghệ, cơ giới, cũng như đặc điểm về mức độ tiêu hao vật chất trong quá trình sản xuất ra sản phẩm mà mức độ sử dụng lao động của từng ngành có khác. Đứng trên giác độ đóng góp vào tổng sản phẩm toàn tỉnh (GDP) cũng như tạo ra việc làm cho người lao động thì rõ ràng nông lâm nghiệp (kể cả khai thác, đánh bắt thủy sản), công nghiệp, kế tiếp là các ngành thương nghiệp - dịch vụ, xây dựng là những ngành chủ chốt, giữ vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế, tạo ra giá trị hàng hóa cao đồng thời cũng là những ngành góp phần giải quyết việc làm cho người lao động trên địa bàn tỉnh. Phát triển nhanh quy mô và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của những ngành này tạo ra nhiều chỗ làm việc mới là một biện pháp quan trọng để giải quyết việc làm cho người lao động. Biểu số 7: Phân bổ lao động xã hội đang làm việc trong nền KTQD theo khu vực và theo ngành năm 1998 Ngành Tổng số Khu vực công Khu vực tư - Năm 1995 620.955 28.210 592.745 - Năm 1996 669.289 29.159 640.130 - Năm 1997 687.432 31.660 655.772 - Năm 1998 711.262 33.400 677.862 Năm 1998 phân theo ngành KTQD 711.262 33.400 677.862 1. Nông, lâm nghiệp 518.817 854 517.963 2. Thủy sản 48.078 780 47.298 3. Công nghiệp khai thác 294 158 136 4. Công nghiệp chế biến 33.276 5.141 28.135 5. SX, phân phối điện, nước 598 444 154 6. Xây dựng 7.227 1.315 5.912 7. Thương nghiệp, sửa chữa xe 38.523 1.019 37.504 8. Khách sạn nhà hàng 20.507 388 20.119 9. Vận tải, thông tin liên lạc 14.226 1.270 12.956 10.Tài chính - tín dụng 1.091 631 460 11. Hoạt động khoa học công nghệ 46 46 12. Kinh doanh tài sản, DV tư vấn 2.875 270 2.605 13. Quản lý NN, ANQP 3.802 3.802 14. Giáo dục đào tạo 12.873 12.803 70 15. Y tế và cứu trợ XH 3.148 2.598 550 16. Hoạt động VH thể thao 1.610 310 1.300 17. H.động Đảng, đoàn thể, hiệp hội 1.454 1.454 18. H.động phục vụ cá nhân c.đồng 2.117 117 2.000 19. H.động làm thuê C.Việc g.đình 700 700 20. H. động của các t/chức và đoàn thể quốc tế 2.1.1.2. Theo khu vực Nếu chúng ta chia tất cả những ngành của nền kinh tế trong tỉnh ra thành khu vực công và khu vực tư thì giữa hai khu vực (thành phần) này cũng có sự khác biệt rất lớn về quy mô sử dụng lao động và giải quyết việc làm đối với lao động xã hội trong tỉnh. 2.1.1.2.1. Khu vực công: Quy mô rất nhỏ bé so với cục diện chung toàn tỉnh, trong những năm 1991 - 1992 lực lượng lao động làm việc trong khu vực này rất thấp và có xu hướng giảm dần do quá trình sắp xếp lại lao động trong các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ theo quyết định 315/HĐBT và do tinh giảm biên chế hành chính sự nghiệp theo quyết định 111/HĐBT. Nhưng đến năm 1993, 1994, 1995 thì khu vực công đi vào thế ổn định, các doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả hơn, có nhiều doanh nghiệp mở rộng quy mô nên đã thu hút được một lượng lao động mới vào làm việc, từ đó tỷ lệ lao động ở khu vực công được nâng dần, mặc dù con số này còn quá khiêm tốn. Cụ thể là năm 1993 có 26.681 lao động, chiếm 4,76%; năm 1994 có 29.069 lao động chiếm 4,96%, năm 1995 có 28.210 lao động, chiếm 4,54%, năm 1996 có 29.159 lao động chiếm 4,36%, năm 1997 có 31.660 lao động chiếm 4,6%, năm 1998 có 34.400 lao động chiếm 4,7% trong tổng số lao động đang làm việc trong toàn bộ các ngành kinh tế của tỉnh. 2.1.1.2.2. Khu vực tư: Trong những năm qua kể từ khi Đảng và Nhà nước có chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần thì khu vực tư đóng góp một vai trò hết sức quan trọng trong việc mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo ra nhiều chỗ làm việc mới thu hút nhiều lao động, góp phần giải quyết việc làm cho lao động xã hội. Năm 1993 có 533.319 lao động, chiếm 95,23%; năm 1994 có 556.931 lao động, chiếm 95,04%; năm 1995 có 592.745 lao động, chiếm 95,46%; năm 1996 có 640.130 lao động, chiếm 95,6%; năm 1997 có 655.772 lao động, chiếm 95,4%; năm 1998 có 677.862 lao động, chiếm 95,3% tổng số lao động đang làm việc trong toàn bộ các ngành kinh tế của tỉnh, bình quân hàng năm khu vực này thu hút trên 16 ngàn lao động. Như vậy, rõ ràng khu vực tư vẫn là khu vực chủ yếu trong việc thu hút lao động trong những năm qua và tiếp tục trong những năm tới. Do vậy, chủ trương chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường với cơ cấu nhiều thành phần, đa dạng và phù hợp nhằm tạo ra động lực mới trong sản xuất kinh doanh là hoàn toàn đúng và bước đầu đã phát huy được hiệu quả, trước hết là trong lĩnh vực lao động việc làm. 2.1.1.3. Theo lãnh thổ Mỗi đơn vị hành chính lãnh thổ có các điều kiện tự nhiên, các đặc điểm về nhân khẩu học, đặc biệt về kinh tế xã hội, số lượng, cơ cấu ngành kinh tế... khác nhau nên số lượng lao động được sử dụng cũng rất khác nhau. Điều đó được minh họa ở biểu sau: Biểu số 8: Lao động đang làm việc phân theo lãnh thổ trên địa bàn tỉnh Kiên Giang năm 1995 Huyện, thị Lao động Trong độ tuổi (người) Lao động đang làm việc Số lượng (người) So với LĐ trong độ tuổi (người) Tỷ trọng trong tổng số (%) Thị xã Rạch Giá 85.246 73.886 86,67 11,93 Huyện Hà Tiên 44.445 38.638 86,93 6,24 Huyện Hòn Đất 56.103 50.569 90,13 8,16 Huyện Châu Thành 60.820 54.240 89,20 8,76 Huyện Tân Hiệp 69.820 62.894 90,08 10,15 Huyện Giồng Riềng 95.375 85.419 89,56 13,79 Huyện Gò Quao 70.817 64.033 90,42 10,34 Huyện An Biên 70.017 62.815 89,71 10,14 Huyện An Minh 53.533 47.527 88,78 7,67 Huyện Vĩnh Thuận 60.948 53.940 88,50 8,71 Huyện Phú Quốc 23.216 20.176 87,24 3,26 Huyện Kiên Hải 5.964 5.363 89,92 0,87 Tổng số 696.200 619.500 88,92 100 Trong tổng số 619.500 lao động đang làm việc trên địa bàn tỉnh Kiên Giang, thì huyện Giồng Riềng có 85.419 lao động chiếm 13,79% lao động đang làm việc trên toàn tỉnh; kế đến là thị xã Rạch Giá có 73.886 lao động chiếm tỷ trọng 11,93%. Gò Quao có 64.899 lao động chiếm tỷ trọng 10,48%; Tân Hiệp có 62.894 lao động chiếm 10,15%; An Biên có 62.815 lao động chiếm 10,14%... thấp nhất là huyện Kiên Hải có 5.363 lao động đang làm việc chiếm 0,86% trong tổng số. Nguyên nhân chủ yếu gây nên việc sử dụng lao động có sự khác nhau ở các huyện, thị, trước hết là do sự khác biệt về cơ cấu ngành trên địa bàn huyện thị, sau nữa là do sự khác biệt về số lao động trong độ tuổi lao động Các huyện thị có số lượng lao động được sử dụng lớn như: Thị xã Rạch Giá (11,93%), Tân Hiệp (10,15%), Giồng Riềng (13,79%), Gò Quao (10,48%), An Biên (10,14%)... đều là những địa bàn có số lượng lao động trong độ tuổi lớn hơn, thị xã Rạch Giá 85.246, Tân Hiệp 69.820, Giồng Riềng 95.375, Gò Quao 70.817, An Biên 70.017... Ngoài ra số lượng lao động sử dụng còn phụ thuộc vào cơ cấu ngành. Thống kê lao động cho thấy các ngành nông - lâm nghiệp, công nghiệp - đánh bắt hải sản, thương nghiệp - dịch vụ có mức sử dụng lao động rất cao. Do vậy, nếu các huyện thị có cơ cấu các ngành nghề chiếm tỷ trọng cao đều có số lượng lao động sử dụng lớn, đông đảo. Kết quả này muốn nhấn mạnh một điều là giải quyết việc làm, đào tạo hướng nghiệp cho người lao động sắp tới cần chú ý đúng mức đến cơ cấu ngành đang hoạt động và phát triển ở từng huyện thị. Xu hướng chung về phân bố lao động ở Kiên Giang hiện nay là các vùng nông thôn nông nghiệp có số lao động đang làm việc trong độ tuổi cao hơn ở các vùng mang tính chất công nghiệp, thành thị. Những huyện nào có nhiều lao động làm việc trong nông - lâm - ngư nghiệp thì tình trạng khiếm dụng lao động sẽ phát sinh lớn. Do đặc điểm quan trọng của lao động nông nghiệp là còn nhiều thời gian nhàn rỗi và cơ cấu kinh tế của nhiều huyện nặng nề nông - lâm - ngư nghiệp nên lao động không sử dụng hết quỹ thời gian làm việc, thường xảy ra hiện tượng khiếm dụng lao động trong nông nghiệp. 2.1.2. Lao động chưa có việc làm 2.1.2.1. Tình hình thất nghiệp trên địa bàn tỉnh Kiên Giang Biểu số 9: Cân đối lao động trên địa bàn Tỉnh Kiên Giang Đv: 1.000 người 1991 1992 1993 1994 1995 A. Nguồn lao động: A = (1b+2) 604,5 624,5 646 667 688,6 1. Lao động trong độ tuổi 608 628 650 674 696,2 a) Có khả năng lao động 596 616 638 661 682 b) Có nhu cầu việc làm 575 594 615 635 655 2. Số người trên và dưới tuổi LĐ thực tế tham gia lao động 29,8 30,5 31 32 33,6 B. Cầu lao động 540 556 573 601 619,5 1. Đang làm việc trong nền 529 440 560 586 602,5 kinh tế quốc dân 2. Lao động đang đi học và lực lượng vũ trang 11 12 13 15 17 C. Cân đối (A1b - B) 35,6 38 42 34 36 Tỷ lệ thất nghiệp 6,2 6,4 6,82 5,35 5,49 Như vậy với tình hình cung cầu lao động như trên hàng năm tỷ lệ thất nghiệp bình quân ở Kiên Giang dao động từ 5,35 - 6,82%, và bình quân khoảng 36.000 người cần giải quyết việc làm. Cụ thể năm 1991 là 6,20%; năm 1992 là 6,10%; năm 1993 tăng vọt lên đến 6,82%; năm 1994 được coi là năm giải quyết việc làm có hiệu quả nên tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống còn 5,35% và năm 1995 tỷ lệ này lại nhích lên đến 5,49%. Nếu tính cả những người ngoài độ tuổi lao động (trên tuổi lao động và dưới tuổi lao động) thì số này toàn tỉnh có khoảng 200 ngàn người. Nếu chúng ta đặt một phép toán đơn giản với một tỷ lệ khiêm tốn là 15% số người này thực tế có nhu cầu làm việc, thì xã hội phải làm sao để tạo ra được khoảng 30 ngàn chỗ làm việc đáp ứng về nhu cầu việc làm cho lao động ngoài độ tuổi lao động. Cộng cả số người trong độ tuổi lao động chưa có việc làm và số người ngoài độ tuổi lao động thực tế có nhu cầu việc làm thì hàng năm toàn tỉnh còn thiếu trên 60 ngàn chỗ làm việc. Đây là một vấn đề bức bách mà Đảng, chính quyền các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị, đoàn thể xã hội trong tỉnh luôn quan tâm tìm ra giải pháp cho những năm tới.. 2.1.2.2. Tình hình thất nghiệp theo lãnh thổ hành chính Bắt nguồn từ việc phân bổ không đều về lực lượng cũng như khả năng phát triển kinh tế, cơ cấu ngành kinh tế của từng địa phương trong tỉnh Kiên Giang mà ở mỗi huyện thị có thực trạng khác nhau về cung cầu lao động trong độ tuổi. Biểu số 10: Cân đối lao động thuộc Kiên Giang năm 1995 Đơn vị: người Cung lao động Cầu lao động Cân đối Số lượng Tỷ trọng (%) Thị xã Rạch Giá 78.925 73.886 +5.039 6,38 Huyện Hà Tiên 41.375 38.638 +2.737 6,61 Huyện Hòn Đất 52.970 50.569 +2.401 4,53 Huyện Châu Thành 56.970 54.240 +2.730 4,79 Huyện Tân Hiệp 66.827 62.894 +3.933 5,88 Huyện Giồng Riềng 89.650 85.419 +4.231 4,72 Huyện Gò Quao 66.996 64.033 +2.963 4,42 Huyện An Biên 65.957 62.815 +3.142 4,76 Huyện An Minh 51.077 47.527 +3.550 6,95 Huyện Vĩnh Thuận 57.350 53.940 +3.410 5,94 Huyện Phú Quốc 21.598 20.176 +1.422 6,58 Huyện Kiên Hải 5.805 5.363 +442 7,61 Tổng số 655.500 619.500 +36.000 5,49 Khi so sánh thực trạng giữa cung cầu lao động theo lãnh thổ, hầu hết các huyện thị đều ở trong tình trạng dư thừa lao động, đặc biệt là các vùng thành thị và các vùng đông dân cư khác. Chẳng hạn số người thất nghiệp ở thị xã Rạch Giá khá cao lên đến 5.039 người chiếm 6,38% trong tổng số lao động trong độ tuổi; kế đến là huyện Giồng Riềng có 4.231 người chiếm 4,72%; sau đó là huyện Tân Hiệp có 3.933 người chiếm 5,88%, huyện An Minh có 3.550 người chiếm 6,95%; thấp nhất là huyện Kiên Hải chỉ có 442 người nhưng tỷ lệ thất nghiệp lại cao, lên đến 7,01% trong tổng số lao động trong độ tuổi. Lượng lao động thất nghiệp ở các huyện, thị sở dĩ có sự chênh lệch lớn như vậy chủ yếu là do các nguyên nhân sau: Có sự chênh lệch lớn về nguồn cung lao động hoặc có sự chênh lệch lớn về tỷ trọng các ngành thu hút lao động như nông - lâm nghiệp, đánh bắt hải sản... trên địa bàn huyện, thị trên. Như vậy, mặc dù ở các vùng thành thị nguồn cung lao động trong tổng số lao động không lớn như ở các vùng nông thôn nhưng do cơ cấu ngành không thuận lợi cho vấn đề tạo việc làm, thêm vào đó nhu cầu về lao động ở các thị trường lao động thành thị thường đòi hỏi chất lượng cao, đã làm tỷ lệ thất nghiệp ở các vùng thành thị lớn hơn nông thôn. Trong khi đó, giữa các vùng nông thôn với nhau ở vùng nào có tỷ lệ tăng tự nhiên dân số cao làm cho số lượng lao động trong độ tuổi ngày càng cao cũng gây ra áp lực nặng nề về việc tăng cao số người thất nghiệp. Mặc dù hiện nay Kiên Giang vẫn đang tồn tại một tỷ lệ thất nghiệp cao nhưng vẫn xảy ra hiện tượng thiếu hụt lao động trong thị trường lao động chất lượng cao (như chuyên viên điện tử tin học, kỹ sư trưởng chỉ đạo các dây chuyền sản xuất công nghiệp, chuyên viên tư vấn và quản lý, thợ có tay nghề giỏi...) Đây là hiện tượng khiếm khuyết về chất lượng lao động đáng chú ý trong quá trình giải quyết việc làm tại Kiên Giang trong tương lai. Tóm lại, Kiên giang là một tỉnh giàu tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên, đất đai và lao động. Nguồn lao động ở Kiên Giang có quy mô lớn, tổng số lao động năm 1995 là 619 ngàn lao động và có khả năng phát triển nhanh trong vòng 10 - 15 năm tới. Hàng năm có vào khoảng gần 40 ngàn người bước vào độ tuổi lao động. Nhưng chất lượng lao động thấp, chỉ có khoảng 2,76% lao động có trình độ chuyên môn nghiệp vụ trong tổng số lao động đang làm việc. Tốc độ tăng trưởng kinh tế ở Kiên Giang khá cao, đặc biệt là trong vòng 3 năm trở lại đây, tốc độ tăng trưởng trung bình là 9,4% hàng năm. Nhưng khả năng thu hút lao động và giải quyết việc làm còn thấp, không đủ đáp ứng cho số lao động tăng thêm hàng năm: mỗi năm nền kinh tế chỉ tạo ra được trên 17 ngàn chỗ việc làm. Đặc biệt là khu vực tư nhân, 3 năm qua với tốc độ phát triển nhanh, có nhiều doanh nghiệp, cơ sở kinh tế tư nhân mới ra đời; các doanh nghiệp, cơ sở kinh tế tư nhân đã hoạt động cũng được mở rộng về quy mô sản xuất kinh doanh. Do vậy, 3 năm qua khu vực này tạo ra một khối lượng chỗ làm việc mới khá lớn - khoảng 16 ngàn chỗ làm việc mỗi năm. Trong khi đó số lượng việc làm mới tại các vùng kinh tế mới ở bán đảo Cà Màu, Tứ giác Long Xuyên, Phú Quốc... chiếm tỷ trọng khá cao là 38,69%, phần còn lại là do phát triển các ngành nghề, chủ yếu là tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp, dịch vụ. Hàng năm số lao động thất nghiệp trên địa bàn tỉnh lên tới trên 30.000 lao động, chiếm 5,3% lực lượng lao động, phân bổ không đều ở các huyện thị. ở các vùng thành thị tỷ lệ thất nghiệp cao hơn ở nông thôn, thị trường lao động đang mất cân đối. Thị trường lao động khu vực thành thị có hiện tượng thiếu lao động có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trong khi đó các thị trường lao động nông thôn - vùng biển lại thừa lao động phổ thông dẫn đến tình trạng vừa thừa lại vừa thiếu, thừa lao động phổ thông nhưng lại thiếu trầm trọng lao động có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao. Đây là một thực trạng làm trở ngại cho lĩnh vực giải quyết việc làm của tỉnh. Định hướng những năm tới cần phải tập trung giải quyết vấn đề chất lượng lao động, phải đầu tư cho công tác dạy nghề đúng mức, khuyến khích phát triển công tác dạy nghề đa dạng nhằm bù đắp lỗ hổng chất lượng lao động hiện tại, có như vậy các biện pháp giải quyết việc làm của các năm tới mới có cơ hội thực thi. 2.2. Những vấn đề bức xúc đang đặt ra 2.2.1. Về Mâu thuẫn giữa vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế với thu hút việc làm Kiên Giang là một tỉnh lớn ở đồng bằng Sông Cửu Long, diện tích tự nhiên rộng, dân số đông. Kiên Giang cũng là một tỉnh có tiềm năng lớn về đất đai, vùng biển giàu có về trữ lượng và phong phú về chủng loại khoáng sản. Theo sự đánh giá ban đầu trữ lượng tự nhiên các loại khoáng sản như sau: Đá Granít xây dựng trữ lượng 220 triệu tấn, đá vôi trữ lượng 390 triệu tấn, đá ốp lát trữ lượng 190 triệu tấn, than bùn trữ lượng 100 triệu tấn, sét gạch ngói trữ lượng 8 triệu tấn. Hầu hết các loại khoáng sản này chưa được khai thác tương xứng, tiềm năng còn lớn, chứa đựng khả năng phát triển tiềm tàng của các ngành công nghiệp khai thác và chế biến khoáng sản, ngành xây dựng, thu hút được nhiều lao động ở Kiên Giang. Đặc điểm lao động của ngành này đòi hỏi chất lượng lao động cao, trang bị vốn cố định tính cho một lao động lớn. Sự phát triển thuận lợi của các ngành nông nghiệp đặc biệt là các loại cây công nghiệp, ăn quả, các sản phẩm chăn nuôi, ngành lâm nghiệp, thủy hải sản tạo điều kiện và đặt nền móng vững chắc cho sự phát triển của các ngành công nghiệp chế biến nông sản, thực phẩm, chế biến thủy hải sản, lâm sản... có khả năng tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa, kể cả xuất khẩu nhờ điều kiện thiên nhiên và vị trí thuận lợi. Như vậy với điều kiện thiên nhiên thuận lợi, tài nguyên phong phú, ngành nông nghiệp, công nghiệp đóng vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thu hút nhiều lao động, đòi hỏi chất lượng cao. Ngoài ra còn phải kể đến tiềm năng phát triển ngành dịch vụ, du lịch, thương nghiệp của Kiên Giang trong tương lai. Sự phát triển của các ngành này có khả năng thu hút lao động lớn. Tuy nhiên sự phát triển của các ngành này đòi hỏi sự đầu tư đồng bộ về giao thông vận tải, đường sá, điện nước... cần có sự liên kết và tập trung vốn, lao động có tay nghề cao. Xét về mặt số lượng, Kiên Giang là một tỉnh có tiềm năng lao động rất dồi dào, song xét về chất lượng nhất là về trình độ tay nghề còn rất nhiều hạn chế. Đó là một mâu thuẫn lớn. Mâu thuẫn đó, biểu hiện như sau: 2.2.1.1. Về chất lượng và trình độ lao động hiện nay. Theo kết quả suy rộng từ cuộc điều tra lao động việc làm năm 1997 giữa Sở lao động thương binh và xã hội phối hợp Cục thống kê đã được Trung tâm Thông tin - Thống kê lao động và xã hội xử lý số liệu, theo biểu sau: Biểu 11: Số lao động hoạt động kinh tế thường xuyên đã qua đào tạo (Số liệu chưa suy rộng) Đơn vị: người Công nhân kỹ thuật Trung học chuyên nghiệp Nghề đào tạo và mã Tổng số Nghề đào tạo và mã Tổng số nghề hiện hành Chung Trong độ tuổi LĐ nghề hiện hành Chung Trong độ tuổi LĐ Tổng số 16.070 15.946 Tổng số .275 11.275 Cắt gọt kim loại 964 964 Thăm dò đ.chất, t.sản 218 218 Kỹ thuật sắt 185 185 Cơ khí 123 123 Kỹ thuật nguội 185 185 Kỹ thuật xây dựng 309 309 SC thiết bị chính xác 2.172 2.172 CN l.thực và t.phẩm 218 218 Kỹ thuật điện 494 494 Nông nghiệp 874 874 Vận hành điện 61 61 Y tế 2.333 2.333 Kỹ thuật điện tử 527 527 Ng.vụ quản lý k.tế 712 712 Kỹ thuật xây dựng 589 589 Nghiệp vụ KD cơ sở 61 61 V.hành máy thi công 935 935 Hành chính, pháp lý 465 465 Lái xe ô tô 1.302 1.302 Sư phạm 5.962 5.962 Vận chuyển đưòng 2.391 2.391 May 4.416 4.416 Công nhân kỹ thuật Trung học chuyên nghiệp Nghề đào tạo và mã Tổng số Nghề đào tạo và mã Tổng số nghề hiện hành Chung Trong độ tuổi LĐ nghề hiện hành Chung Trong độ tuổi LĐ Mộc 684 684 Chế biến nông sản 437 437 Mua bán hàng 61 61 Văn phòng 218 218 Phát thanh 218 218 Kỹ thuật ảnh 218 218 SX dụng cụ thể thao 13 13 Cao đẳng và Đại học Trên đại học Toán học, tin học, cơ 61 61 K.học XH & N. văn 61 61 Sinh học, thổ nhưỡng 61 61 Địa lý 437 437 Ngữ văn 716 716 Tiếng nước ngoài 61 61 Lịch sử 218 218 Khoa học xã hội 247 247 Kinh tế 123 123 Điện, điện tử 61 61 CN Dệt, CN cắt 61 61 may Kỹ thuật tài nguyên 61 61 Nông lâm ngư 61 61 Dược học 123 123 Y học 309 309 Thể dục thể thao 185 185 Sư phạm đặc biệt 279 279 Nghệ thuật 11 11 Tổng số 3.075 3.075 Tổng số 61 61 Như vậy, tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật của tỉnh năm 1997 đang làm việc trong nền kinh tế quốc dân so với số dân có việc làm 687.432 là: công nhân kỹ thuật 2,34%; trung học chuyên nghiệp 1,64%; cao đẳng và đại học 0,45% và trên đại học là 0,01%. Kiên Giang là một tỉnh có thế mạnh về lực lượng lao động trẻ, khỏe, hùng hậu. Đây là một lực lượng đã và đang rất cần cho sự nghiệp phát triển kinh tế, cải thiện đời sống xã hội của tỉnh. Nhưng điều đáng nói ở đây là chất lượng của lực lượng lao động của tỉnh đạt chất lượng rất thấp, đây là một điều hết sức quan trọng mà không thể không chú ý vì nó vừa phục vụ cho các nhiệm vụ phát triển hiện nay, vừa làm cơ sở cho việc xây dựng các định hướng tương lai nhằm đạt các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2000 - 2005. Nếu tỉnh có được một đội ngũ lao động với trình độ chuyên môn kỹ thuật cao đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì cơ hội tìm kiếm việc làm của họ càng thuận lợi hơn, góp phần tăng nhanh GDP trên địa bàn tỉnh. Mặt khác, với đội ngũ này, có thể áp dụng những kỹ thuật tiên tiến và công nghệ hiện đại trong việc khai thác tài nguyên trên bộ và dưới biển, trong nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong tương lai. Tuy nhiên nếu lực lượng nguồn lao động này không được đào tạo đầy đủ, tương xứng, nó sẽ tương phản ngược lại: người lao động sẽ khó tìm kiếm việc làm, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng dẫn đến các loại hình tệ nạn xã hội phát triển, nguồn thu ngân sách bị hạn chế, tích lũy GDP không cao. Với số liệu thống kê trình độ chuyên môn kỹ thuật của Kiên Giang, nếu đem so sánh với các tỉnh vùng đồng bằng Sông Cửu Long, cho thấy Kiên Giang đang có nguy cơ tụt hậu về lao động kỹ thuật (Cần Thơ: công nhân kỹ thuật 3,29%; trung cấp 1,71%; cao đẳng, đại học 1,4%; trên đại học 0,02% - Long An: công nhân kỹ thuật 4,11%; trung cấp 1,91%; đại học 1,01%; trên đại học 0,03% - Tiền Giang: công nhân kỹ thuật 3,32%; trung cấp 2,24%; đại học 1,65%; trên đại học 0,04%...) Như vậy Cần Thơ gấp 1,5 lần so với Kiên Giang, Tiền Giang gấp 2,5 lần, Long An gấp 2 lần về lao động kỹ thuật. Thực trạng về chất lượng thấp của lao động ở Kiên Giang rõ ràng là một cản ngại rất lớn cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội, đồng thời nó cũng gây những khó khăn không nhỏ trong vấn đề sắp xếp, giải quyết việc làm cho người lao động. Với thực trạng như vậy, nếu Kiên Giang không muốn bị tụt hậu so với các khu vực khác thì định hướng chung sắp tới cần tập trung đầu tư nhiều hơn vào con người - vốn quý của xã hội. Từng bước đào tạo và đào tạo lại lực lượng lao động, nâng dần chất lượng lao động, bảo đảm sự đồng bộ, tương xứng với xu thế phát triển của tiến bộ khoa học công nghệ, song song với việc kêu gọi đầu tư, đổi mới công nghệ ngày càng cao đã được nêu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Đối với đội ngũ lực lượng lao động là thanh niên, qua cuộc khảo sát các vùng trọng điểm và kết quả điều tra lao động việc làm năm 1998 cho thấy, chất lượng lao động là lực lượng thanh niên có trình độ chuyên môn nghiệp vụ còn ở mức thấp. Vì vậy việc đào tạo cho lực lượng lao động này là một nhiệm vụ hết sức cần thiết và bức bách. Biểu số 12: Lực lượng lao động thanh niên có trình độ chuyên môn kỹ thuật từ cuộc khảo sát và kết quả điều tra lao động việc làm năm 1998 (số liệu chưa suy rộng) Đơn vị: người Tên Huyện Tổng số Khôg có CMKT Sơ cấp CNKT THCN CĐ, ĐH Đang đi học 1. Thị xã Rạch Giá 390 285 23 32 5 5 40 2. Hà Tiên 176 122 7 12 2 0 33 3. Kiên Lương 176 112 10 13 3 4 34 4. Hòn đất 89 81 0 0 1 1 6 5. Tân Hiệp 201 153 2 7 4 2 33 6. Châu Thành 126 107 2 2 4 1 10 7. Giồng Riềng 149 118 2 7 4 1 17 8. Gò Quao 135 114 0 3 4 0 14 9. Phú Quốc 217 130 11 17 5 1 53 10. An Biên 243 214 8 7 1 0 13 11. An Minh 87 73 1 4 2 0 7 12. Vĩnh Thuận 150 139 2 1 0 0 8 Tổng số 2.139 1.648 68 105 35 15 268 Với số liệu thị xã Rạch Giá: có tỷ lệ trình độ cao đẳng và đại học 1,28%, trung cấp 1,28%, công nhân kỹ thuật 8,2%, sơ cấp 5,9%, lao động không chuyên môn kỹ thuật chiếm 73%; Hà Tiên: trung học 1,14%, công nhân kỹ thuật 6,8%, sơ cấp 3,98%, không có chuyên môn kỹ thuật 69,3%; Kiên Lương: cao đẳng, đại học 2,3%, trung cấp 1,7%, công nhân kỹ thuật 7,4%, sơ cấp 5,7%, không có chuyên môn kỹ thuật 63,6%; Hòn Đất: cao đẳng, đại học 1,1%, trung cấp 1,1%, không có chuyên môn kỹ thuật 91%; Tân Hiệp: cao đẳng, đại học 1%, trung cấp 2%, công nhân kỹ thuật 3,5%, sơ cấp 1%, không có chuyên môn kỹ thuật 76%; Châu Thành: cao đẳng, đại học 0,97%, trung cấp 3,2%, công nhân kỹ thuật 1,6%, sơ cấp 1,6%, không có chuyên môn kỹ thuật 85%; Giồng Riềng: cao đẳng, đại học 0,67%, trung cấp 2,7%, công nhân kỹ thuật 4,7%, sơ cấp 1,34%, không có chuyên môn kỹ thuật 79%; Gò Quao: trung cấp 2,96%, công nhân kỹ thuật 2,2%, không có chuyên môn kỹ thuật 84,4% - Phú Quốc: cao đẳng, đại học 0,5%, trung cấp 2,3%, công nhân kỹ thuật 7,8%, sơ cấp 5%, không có chuyên môn kỹ thuật 6%; An Biên: trung cấp 0,4%, công nhân kỹ thuật 2,9%, sơ cấp 3,3%, không có chuyên môn kỹ thuật 88%; An Minh: trung cấp 2,3%, công nhân kỹ thuật 4,6%, sơ cấp 1,15%, không có chuyên môn kỹ thuật 84%; Vĩnh Thuận: công nhân kỹ thuật 0,7%, sơ cấp 1,3%, không có chuyên môn kỹ thuật 93%. 2.2.1.2. Về các cơ sở, trung tâm đào tạo hiện có và tình hình giải quyết việc làm sau đào tạo Kiên Giang nằm ở vị trí cuối cùng phía Tây Nam của Tổ quốc, cách xa trung tâm văn hóa - kinh tế - chính trị, vốn có điểm xuất phát thấp, trong chiến tranh bị tàn phá và thiệt hại nặng nề về cơ sở hạ tầng. Những năm qua cùng với việc phát triển kinh tế của cả nước, Kiên Giang đã từng bước khắc phục và phát triển - tích lũy. Tuy nhiên các trường lớp đào tạo nghề hiện nay vẫn còn thiếu và yếu, toàn tỉnh chỉ có 01 trường trung học kinh tế kỹ thuật, 01 trung tâm dịch vụ việc làm, 05 cơ sở dạy nghề tư nhân có trường lớp và 14 trung tâm hướng nghiệp dạy nghề; về trang thiết bị giảng dạy đã cũ kỹ, lạc hậu, vì vậy chất lượng đào tạo của một số cơ sở chưa đạt yêu cầu, từ đó làm hạn chế người lao động tham gia học. Mặc dù Kiên Giang vẫn đang tồn tại một tỷ lệ thất nghiệp cao (theo kết quả điều tra năm 1998 là 6,78%) nhưng vẫn xảy ra hiện tượng thiếu hụt lao động trong thị trường lao động chất lượng cao (như chuyên viên điện tử tin học, cơ khí, kỹ sư trưởng các dây chuyền sản xuất công nghiệp, chuyên viên tư vấn quản lý, thợ có tay nghề giỏi...) Đây là hiện tượng khiếm khuyết về chất lượng lao động đáng chú ý trong quá trình giải quyết việc làm. Đơn cử việc đăng ký tuyển dụng lao động của Nhà máy xi măng Sao Mai trên 50 lao động là kỹ sư và thợ giỏi, nhưng qua thời gian thông báo giới thiệu, Nhà máy không chấp nhận được người nào, cuối cùng tỉnh phải để cho Nhà máy Sao Mai tuyển lao động ngoài tỉnh. Ngoài ra hàng năm có gần 1.000 lao động đến Trung tâm dịch vụ việc làm đăng ký tìm việc nhưng vẫn không tìm được việc làm do không có chuyên môn kỹ thuật. Năm 1997 số lao động thất nghiệp trên địa bàn tỉnh là 35.045 người, chiếm 5,1% trong lực lượng lao động, phân bổ không đều ở các huyện thị. ở các vùng thành thị tỷ lệ thất nghiệp cao hơn ở nông thôn, thị trường lao động đang mất cân đối. Thị trường lao động khu vực thành thị có hiện tượng thiếu lao động có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trong khi đó thị trường lao động nông thôn - vùng biển lại thừa lao động phổ thông dẫn đến tình trạng vừa thừa, vừa thiếu. Đây là một thực trạng làm trở ngại cho lĩnh vực giải quyết việc làm của tỉnh. Định hướng tới cần tập trung giải quyết vấn đề chất lượng lao động, phải đầu tư cho công tác dạy nghề đúng mức, khuyến khích phát triển công tác dạy nghề đa dạng nhằm bù đắp lỗ hổng chất lượng hiện tại, có như vậy các biện pháp giải quyết việc làm mới có cơ hội thực thi. Qua kết quả khảo sát các trường, trung tâm, cơ sở dạy nghề đang hoạt động trên địa bàn tỉnh cho số liệu minh họa theo biểu sau: Biểu số 13 Đơn vị: người Tên cơ sở Ngày, tháng năm thành lập Số lượng học viên Học viên học nghề có việc làm 1995 1996 1997 1995 1996 1997 Ghi chú Trường TH kinh tế kỹ thuật Kiên Giang 1968 317 456 844 80 100 157 Dạy nghề chính quy Trung tâm Kỹ 1990 1.640 1.681 1.51 1.148 1.176 1.05 Dạy thuật tổng hợp hướng nghiệp dạy nghề Kiên Giang 1 7 nghề ngắn hạn và dài hạn Trung tâm dịch vụ việc làm Kiên Giang 1992 858 527 449 538 603 442 Dạy nghề ngắn hạn Cơ sở tin học ứng dụng ABC 1997 0 0 361 0 0 200 Dạy nghề ngắn hạn Cơ sở tin học E & C 1995 1.960 192 270 90 100 150 Dạy nghề ngắn hạn Cơ sở đào tạo nghề nhà thiếu nhi 1987 538 603 442 484 512 250 Dạy nghề ngắn hạn Cơ sở dạy nghề Hạnh Vi 1997 0 0 18 0 0 3 Dạy nghề ngắn hạn Trung tâm Kỹ thuật tổng hợp hướng nghiệp dạy nghề Hà Tiên 1982 196 87 198 0 0 0 Dạy hướng nghiệp Trung tâm Kỹ 1993 81 21 16 15 16 16 Dạy thuật tổng hợp hướng nghiệp dạy nghề An Biên nghề ngắn hạn Trung tâm Kỹ thuật tổng hợp hướng nghiệp dạy nghề Tân Hiệp 1990 1.055 1.080 1.66 0 307 397 306 Dạy nghề ngắn hạn và hướng nghiệp Trung tâm Kỹ thuật tổng hợp hướng nghiệp dạy nghề Phú Quốc 1991 234 218 351 0 0 0 Dạy hướng nghiệp Cơ sở tin học TMC Rạch Sỏi 1997 0 0 45 0 0 0 Dạy nghề ngắn hạn Trung tâm Kỹ thuật tổng hợp hướng nghiệp dạy nghề An Minh 1996 0 638 321 0 0 0 Dạy hướng nghiệp Trung tâm Kỹ thuật tổng hợp hướng nghiệp dạy nghề Hòn Đất 1993 569 480 904 Dạy hướng nghiệp Trung tâm Kỹ thuật tổng hợp hướng nghiệp dạy nghề Vĩnh Thuận 1997 0 0 150 0 0 0 Dạy hướng nghiệp Trung tâm Kỹ thuật tổng hợp hướng nghiệp dạy nghề Châu Thành 1995 385 1.086 1.53 6 0 0 0 Dạy hướng nghiệp Trung tâm Kỹ thuật tổng hợp hướng nghiệp dạy nghề Gò Quao 1997 0 0 125 0 0 0 Dạy hướng nghiệp Trung tâm Kỹ thuật tổng hợp hướng nghiệp dạy nghề Giồng Riềng 1994 356 447 605 0 0 0 Dạy hướng nghiệp Cộng 6.389 7.516 9.80 6 2.662 2.904 2.58 1 Như vậy theo số liệu khảo sát, thực tế toàn tỉnh chỉ có 01 trường dạy nghề chính quy với thời gian đào tạo từ 2 - 3 năm, tay nghề bậc thợ ra trường là 2/7 và 3/7: 01 trung tâm hướng nghiệp tổng hợp dạy nghề tỉnh khoảng 25% học sinh có thời gian đào tạo 18 tháng (bậc 2), số còn lại là loại đào tạo ngắn hạn, các trung tâm cơ sở còn lại dạy nghề dưới loại hình ngắn hạn từ 6 tháng trở xuống. Riêng các trung tâm hướng nghiệp tổng hợp dạy nghề của các huyện, chủ yếu đào tạo hướng nghiệp cho học sinh phổ thông. Rõ ràng với lực lượng lao động được đào tạo như trên, Kiên Giang không thể cung ứng kịp thời cho các doanh nghiệp đang và sắp mở ra nhằm cân đối thị trường lao động. Mặt khác về chủng loại nghề đào tạo của các trường, trung tâm, cơ sở rất hạn chế; trong khi cơ chế thị trường càng mở ra ngành nghề mới có xu hướng phát triển và nhu cầu tuyển dụng lao động rất lớn nhưng chúng ta không nắm bắt được kịp thời. Điều đó đã làm ảnh hưởng lớn đến công tác giải quyết việc làm, số lao động ngoài tỉnh vào làm việc càng gia tăng, tình hình trật tự xã hội thêm phức tạp. 2.2.2. Mâu thuẫn giữa giải quyết việc làm với việc tăng dân số tự nhiên và cơ học Xuất phát từ đòi hỏi bức bách về thực trạng dân số lao động và việc làm tỉnh Kiên Giang, do tốc độ tăng dân số rất cao, trung bình hàng năm tốc độ tăng dân số là 2,37% (từ năm 1990 trở lại đây). Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số là 2,36%, sau đó tỷ lệ sinh trung bình trong những năm gần đây là 3,02% (tỷ lệ này của đồng bằng Sông Cửu Long là 2,85%). Trung bình mỗi ngày có 107 trẻ em, mỗi năm có gồm 39 ngàn trẻ sơ sinh ra đời, gần bằng dân số huyện Phú Quốc và gần gấp 4 lần dân số huyện Kiên Hải năm 1992. Số người bước vào độ tuổi lao động hàng năm trung bình khoảng 38 ngàn người, số học sinh sau khi tốt nghiệp và số bộ đội sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về khoảng 3 - 4 ngàn người. Thêm vào đó một lượng lớn lao động từ 2 - 3 ngàn người dôi ra do sắp xếp lại lao động trong khu vực nhà nước... Trong khi đó nhu cầu về lao động của nền kinh tế (1991 -1997) chỉ tăng 1,97%, đạt ở mức 640 ngàn người. Như vậy hàng năm có đến 34 ngàn người thất nghiệp trên địa bàn tỉnh Kiên Giang, chiếm tỷ lệ 5,1% trong lực lượng lao động. Chính thực trạng dân số - lao động như vậy đang đặt Kiên Giang đứng trước một sức ép mạnh mẽ trong sử dụng có hiệu quả tiềm năng lao động hiện có để thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế và giải quyết việc làm, đáp ứng các yêu cầu về mặt xã hội. Tình trạng thiếu việc làm cao do tốc độ phát triển quá nhanh của dân số và lao động đã là một trong những nguyên nhân sâu xa gây ra các mặt tiêu cực và tệ nạn xã hội. Vì vậy đẩy mạnh phát triển kinh tế, mở mang ngành nghề để tạo thêm việc làm cho người lao động, thực hiện sinh đẻ có kế hoạch, hạ tỷ lệ tăng dân số tự nhiên xuống, vừa là một biện pháp để giảm căng thẳng về vấn đề việc làm, thất nghiệp, giải quyết mâu thuẫn về thực trạng dân số lao động, vừa để thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của tỉnh. 2.3. Kinh nghiệm giải quyết việc làm ở một số địa phương trong và ngoài nước 2.3.1. Kinh nghiệm giải quyết việc làm ở một số địa phương trong nước 2.3.1.1. Bến Tre khắc phục tình trạng tồn đọng của quỹ quốc gia giải quyết việc làm Những năm đầu, Bến Tre rất lúng túng trong công tác tổ chức điều hành nguồn vốn. Năm 1992, tỉnh chỉ triển khai được 61 triệu đồng trong chỉ tiêu hơn 2 tỷ do trung ương phân bổ. Những năm tiếp theo như năm 1993, 1994, 1995 mặc dù vốn ít nhưng luôn tồn đọng tại Kho bạc rất lớn (trung bình từ 1 đến 2 tỷ đồng). Các ngành chức năng làm nhiều nhưng kết quả không đạt được bao nhiêu. - Dự án nhiều nhưng chất lượng thấp, chủ yếu là để đối phó về mặt thủ tục. Vì vậy khi tiến hành thẩm định không đạt kết quả. Không có dự án khả thi để giải ngân. - Thủ tục rườm rà gây ức chế tâm lý cho người vay. - Công tác khảo sát chọn lọc đối tượng chưa thực hiện tốt, thiếu sự phối hợp giữa chính quyền địa phương với ngành chức năng, cũng như với các Đoàn thể dẫn đến chọn hộ vay trùng lặp, không đúng đối tượng, không đạt mục tiêu chương trình đề ra. - Công tác triển khai vốn chậm, thiếu định hướng, thường được thực hiện vào những tháng cuối năm. - Dự án của các tổ chức đoàn thể sử dụng chỉ tiêu do tỉnh phân bổ thường cho vay nhỏ, lẻ, có nhiều hộ tham gia và rải rác trên nhiều địa bàn. Do đó phải kéo dài thời gian thẩm định, dẫn đến nhiều trường hợp thay đổi nhu cầu do phải chờ lâu. - Vai trò chức năng của ngành trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện chồng chéo, phân nhiệm không rõ ràng. Để khắc phục tình hình này, tỉnh đã thực hiện một số biện pháp: - Tập trung quản lý nguồn vốn theo kênh phân bổ là UBND huyện, thị. Mỗi huyện, thị thành lập một ban chỉ đạo giải quyết việc làm. Thực hiện phân cấp xét duyệt dự án cho cấp huyện. Tăng cường tổ chức tập huấn hàng năm cho các cán bộ cấp huyện thị tham gia chương trình, tổ chức tập huấn cho UBND, đoàn thể xã, phường để cùng tham gia quản lý chương trình. - Ban hành mẫu dự án thống nhất, in ấn và cung cấp miễn phí cho các chủ dự án có phương án vay vốn được chọn. - Sàng lọc đối tượng có nhu cầu vay trước một bước: - Chọn dự án hộ kinh doanh: Thông qua phỏng vấn trực tiếp để chọn các phương án vay phù hợp với yêu cầu của chương trình và định hướng ưu tiên của tỉnh để giải quyết việc làm. - Chọn dự án hộ gia đình: UBND xã, phường chọn hộ gia đình thông qua sự phối hợp các đoàn thể cơ sở nhằm giải quyết nhu cầu vay vốn trong hội viên các đoàn thể, tránh trùng lặp, đầu tư tập trung tạo thuận lợi cho công tác quản lý điều hành vốn. - Ban hành quy chế thực hiện, quy định rõ nhiệm vụ chức năng của các cấp, các ngành để đảm bảo quá trình triển khai được thông suốt và đúng định hướng. - Tăng cường công tác tuyên truyền về chương trình qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua cán bộ làm công tác thẩm định ở cơ sở. Với hàng loạt các giải pháp nói trên, từ năm 1996 trở lại đây, công tác cho vay từ quỹ quốc gia để giải quyết việc làm trên địa bàn về cơ bản đã đi vào nề nếp. Quá trình tổ chức thực hiện được khai thông, công tác phối hợp giữa các cấp, các ngành chặt chẽ, đồng bộ. Chấm dứt tình trạng vốn tồn đọng tại kho bạc trong một thời gian dài và số lượng lớn do không có dự án giải ngân, nhưng đồng thời lại phát sinh tình trạng thiếu vốn để giải quyết cho các dự án khả thi. (Năm 1998 số dự án nằm chờ do không có vốn cấp qua các thời điểm từ 1 đến 2 tỷ đồng), tạo sự bức xúc trong nhân dân. Qua 7 năm thực hiện, với số vốn trên số vốn cho vay của tỉnh đạt khoảng 40 tỷ đồng. Dư nợ giữ ở mức từ 85 đến 90% so với nguồn vốn. Cho vay 944 dự án (trong đó 549 dự án hộ kinh doanh), giải quyết 24.678 lượt lao động có việc làm (trong đó hơn 7.000 lao động có việc làm mới), đầu tư cải tạo trên 3.500 ha vườn cây chuyên canh và trên 10.000 gia súc. Tỷ lệ đầu tư vào trồng trọt là 60%, chăn nuôi 20% sản xuất tiểu thủ công nghiệp 20%. Thông qua nguồn vốn vay từ quỹ quốc gia giải quyết việc làm nhiều ngành nghề truyền thống như dệt chiếu, dệt thảm, sản xuất chỉ sơ dừa, kìm kéo, bánh tráng, bánh phồng, đan giỏ cọng dừa... được kích thích phát triển. Nhưng ngành nghề này tỷ suất đầu tư vốn thấp nhưng có khả năng thu hút và duy trì việc làm cho số lượng lao động, đảm bảo mức thu nhập hàng tháng từ 300.000 đến 400.000 đồng/người, giải quyết được tình trạng nông nhàn ở nông thôn. 2.3.1.2. Đồng Nai đào tạo nghề đáp ứng yêu cầu của phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh Đồng Nai là một tỉnh có tiềm năng kinh tế về nhiều mặt, lại nằm trong vùng trọng điểm phát triển kinh tế của các tỉnh phía Nam, cạnh thành phố Hồ Chí Minh, một trung tâm kinh tế lớn và năng động nhất cả nước. Trong những năm vừa qua, cùng với sự phát triển của đất nước, cơ cấu kinh tế của tỉnh đã có sự chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng công nghiệp, dịch vụ và nông nghiệp. Đặc biệt là công nghiệp đã có sự phát triển nhanh chóng. Hiện nay trên địa bàn tỉnh đã có 9 khu công nghiệp tập trung. Số lượng doanh nghiệp trong tỉnh đã tăng lên rất nhanh, nhất là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài và tư nhân, tập trung chủ yếu vào các ngành như: công nghiệp chế biến nông - lâm - khoáng sản, hóa chất, xây dựng, điện tử, may, giày da, bao bì. Sự tăng nhanh về số lượng doanh nghiệp đã thu hút một lực lượng lớn lao động nông nghiệp chuyển sang lao động công nghiệp. Nếu như năm 1992 trên địa bàn tỉnh có 619 doanh nghiệp với 84.370 lao động thì đến cuối năm 1998 đã có 1140 doanh nghiệp và trên 4100 cơ sở sản xuất nhỏ của tư nhân với 253.000 lao động đang làm việc. Như vậy, chỉ trong khoảng 6 năm (từ 1992 đến 1998) trên địa bàn tỉnh đã tăng 521 doanh nghiệp (trong đó có 140 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chủ yếu hoạt động trong các ngành như dệt - may, sản xuất bao bì, hóa - mỹ phẩm, phân bón, điện tử, chế biến thực phẩm, xây dựng và gốm cao cấp) và 410 cơ sở sản xuất nhỏ của tư nhân thu hút thêm 168.630 lao động (trong đó doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thu hút được 72.230 lao động), bình quân hàng năm thu hút được 28.105 lao động. Với số lượng các doanh nghiệp phát triển rất nhanh, chủ yếu hoạt động trong các ngành công nghiệp và có thiết bị hiện đại, sử dụng công nghệ tiên tiến nên đòi hỏi một số lượng lớn lao động có tay nghề, trong khi ở Đồng Nai hiện nay chỉ có 23 cơ sở dạy nghề, hàng năm đào tạo và dạy nghề, cao nhất cũng chỉ đạt gần 8.000 người (trong đó đào tạo chính quy dài hạn chiếm 25%, còn lại đào tạo ngắn hạn và cấp tốc). Về cơ sở vật chất, thiết bị, phương tiện dạy nghề của các cơ sở dạy nghề phần lớn đã cũ, lỗi thời, không phù hợp với các thiết bị, máy móc hiện đang được sử dụng trong các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Về nội dung, chương trình đào tạo của các trường đều theo các chương trình cũ do Tổng cục dạy nghề ban hành từ năm 1985. Dự báo từ nay đến năm 2010 Đồng Nai sẽ phát triển thêm 5 khu công nghiệp mới và cần khoảng 250.000 lao động để làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và trong các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp, bình quân mỗi năm cần khoảng 20.800 lao động với yêu cầu phải có tay nghề. Vì vậy, công tác đào tạo nghề ở Đồng Nai trong những năm tới cần phải phấn đấu nâng cao chất lượng đào tạo và mở rộng quy mô đào tạo, đào tạo phải gắn liền với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đào tạo gắn với sử dụng và với thị trường lao động. Đi đôi với đào tạo nghề phải gắn bó với giáo dục phẩm chất đạo đức, tác phong công nghiệp, xây dựng đội ngũ giai cấp công nhân có đạo đức nghề nghiệp có tay nghề phục vụ cho nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Với mục tiêu trước mắt là năm 1999 phấn đấu đào tạo từ 20.000 đến 25.000 người gồm đào tạo dài hạn từ 4.000 đến 5.000 người, đào tạo ngắn hạn từ 15.000 đến 20.000 người. Trong đó các cơ sở dạy nghề của nhà nước đào tạo từ 12.000 đến 15.000 người, cơ sở dạy nghề của tư nhân đào tạo từ 3.000 đến 5.000 người, các doanh nghiệp đào tạo từ 8.000 đến 10.000 người. Để đạt được phương hướng và mục tiêu nói trên, Đồng Nai đã tiến hành một số biện pháp như sau: (1) Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục trong nhân dân, nhất là trong thanh niên nhận thức đúng về giá trị nghề nghiệp trong cơ chế thị trường hiện nay. Giỏi nghề là một trong những phẩm chất đạo đức của người lao động, là cơ sở vững chắc để có việc làm và thu nhập ổn định. Thông qua tuyên truyền giáo dục nghề nghiệp tạo thành phong trào mọi người "học nghề để lập nghiệp", học nghề để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. (2) Hoàn thành việc điều tra khảo sát về nhu cầu lao động có kỹ thuật và tay nghề trong các doanh nghiệp nhà nước, tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài từ nay đến năm 2010, làm cơ sở cho xây dựng chương trình mục tiêu đào tạo nghề mới và đào tạo lại, để phục vụ cho nhiệm vụ phát triển kinh tế hiện nay và những năm tiếp theo. (3) Nghiên cứu ban hành một số chính sách nhằm khuyến khích những doanh nghiệp trong nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và những người có khả năng để đầu tư mở các cơ sở dạy nghề, các trường để đào tạo nghề cùng với Nhà nước tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. (4) Tiến hành điều tra khảo sát nắm chắc lại các ngành nghề hiện có và sự phát triển các ngành nghề trong những năm tới, làm cơ sở cho việc quy hoạch hệ thống các trường, các trung tâm, các cơ sở dạy nghề để đào tạo nghề gắn với thị trường lao động. (5) Tiến hành xây dựng quy hoạch hệ thống trường, các trung tâm, các cơ sở dạy nghề trong tỉnh, đồng thời có kế hoạch đầu tư về cơ sở vật chất, thiết bị cho các trường, các trung tâm dạy nghề để đảm bảo được nhiệm vụ đào tạo nghề. Trong lúc nguồn ngân sách còn khó khăn, tổ chức vận động một số doanh nghiệp có kỹ thuật công nghệ cao cùng tham gia đào tạo nghề cho công nhân. 2.3.1.3. Phú Yên xây dựng chương trình dạy nghề và tạo việc làm Tỉnh Phú Yên thuộc vùng Duyên hải Nam Trung Bộ, có số dân 788.291 người, lao động trong độ tuổi là 435.860 người, lao động nông nghiệp chiếm tỷ lệ trên 70%, lao động không có việc làm và thiếu việc làm trên 21.000 người (chiếm tỷ lệ 4,8%). Tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh các năm qua có bước tăng trưởng, song vẫn còn rất nhiều khó khăn: Hàng hóa nông sản chưa tạo được thị trường ổn định, việc đầu tư các cơ sở sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp còn rất nhiều hạn chế, chưa theo kịp tiến độ phát triển của vùng và cả nước. Nguồn tài nguyên khoáng sản chưa có điều kiện khai thác, thủy sản có tiềm năng to lớn, nhiều đặc sản, nhưng thiếu vốn nuôi trồng và đánh bắt. Một số làng nghề truyền thống như sản xuất gỗ mỹ nghệ, đan lát, vật liệu xây dựng, chế biến thủy sản, chưa được khuyến khích thích hợp. Cơ sở còn hạn chế. Hàng năm thiên tai liên tục xảy ra, để lại hậu quả nặng nề, kinh tế dân sinh chủ yếu là nông nghiệp, đời sống dân cư còn ở mức thấp. Đó là những thách thức lớn đối với Phú Yên. Trong bối cảnh đó, Phú Yên nhận thức sâu sắc rằng “Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm đến năm 2000” của Chính phủ, có ý nghĩa rất to lớn đối với địa phương, là điều kiện để vận dụng, tổ chức thực hiện giải quyết việc làm cho người lao động. Do vậy, UBND tỉnh đã quán triệt và chỉ đạo các Ban - Ngành - Đoàn thể, các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh, và người lao động thấy được trách nhiệm của mình về công tác dạy nghề và giải quyết việc làm, đồng thời giao nhiệm vụ cụ thể cho Ban chỉ đạo tỉnh gồm các ngành: Lao động - Thương binh và xã hội, Kế hoạch - Đầu tư, Tài chính - Vật giá, Công nghiệp, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, do một đồng chí phó chủ tịch UBND tỉnh làm trưởng ban, trong đó Sở lao động - thương binh và xã hội là cơ quan thường trực, chủ trì giúp UBND tỉnh xây dựng dự thảo “Chương trình mục tiêu giải quyết việc làm đến năm 2000” theo đề cương hướng dẫn của Bộ lao động - thương binh và xã hội. Sở Lao động - thương binh và xã hội phối hợp với các ngành hữu quan, cử cán bộ có trình độ chuyên môn tốt để tham gia tổ chuyên viên thu thập số liệu về lao động - việc làm, phân tích đánh giá tình hình kinh tế - xã hội trong những năm qua. Sau 3 tháng (từ ngày 20/9 đến 10/12/1998) việc xây dựng dự thảo chương trình mục tiêu giải quyết việc làm đã hoàn chỉnh, với sự tham gia góp ý kiến nhiệt tình của các cấp có thẩm quyền và đã được HĐND tỉnh thông qua vào đầu năm nay với nội dung cơ bản sau đây: (1) HĐND tỉnh tán thành chủ trương, biện pháp thực hiện chương trình mục tiêu giải quyết việc làm của Tỉnh đến năm 2000. (2) Hàng năm, HĐND Tỉnh thống nhất trích một phần số thu ngân sách địa phương, huy động các nguồn quỹ khác, tranh thủ nguồn đầu tư của Trung ương, và tài trợ của các tổ chức nước ngoài để tạo nguồn vốn mỗi năm giải quyết từ 8.000 - 10.000 lao động có việc làm. Đến năm 2000 giảm tỷ lệ thất nghiệp dưới 3%, nâng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn trên 75% và tỷ lệ lao động qua đào tạo 22%. (3) HĐND tỉnh cũng nhấn mạnh một số vấn đề quan trọng: - Giải quyết việc làm có ý nghĩa lớn về kinh tế, chính trị và ổn định xã hội, là vấn đề vừa mang tính cấp bách, vừa mang tính lâu dài trong việc thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”. Đây là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân. - Phát huy nội lực khai thác tối đa tiềm năng của tỉnh phải gắn chương trình mục tiêu giải quyết việc làm theo hướng phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và lồng ghép các chương trình mục tiêu quốc gia. Vận động đông đảo các ban ngành - đoàn thể, các tổ chức và chính bản thân người lao động, cùng tham gia thực hiện chương trình. - Hàng năm cần phải điều tra, tổng hợp số lao động không có việc làm, thiếu việc làm, nhu cầu thị trường lao động, để có kế hoạch, biện pháp giải quyết việc làm thích hợp và hiệu quả. 2.3.1.4. Vĩnh Phúc, tỉnh mới tái lập, xây dựng chương trình việc làm Vĩnh Phúc là tỉnh mới được tái lập, diện tích 1.370,72 km2 có 7 huyện thị với 148 xã, phường, thị trấn; dân số 1.112,7 ngàn người; lao động 575.380 người, số lao động qua đào tạo khoản 12%. Lao động thất nghiệp khu vực thành thị 4,6%. Thời gian lao động ở nông thôn còn nhàn rỗi 28,2%; lao động dôi dư các doanh nghiệp Nhà Nước chiếm 10,2%; lao động có nhu cầu giải quyết việc làm đến năm 2000 còn 56.000 người, chiếm gần 10% tổng số lao động. Tỉnh ủy và UBND tỉnh Vĩnh Phúc luôn coi giải quyết việc làm và tạo chỗ làm việc mới cho người lao động là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu nên đã sớm khẩn trương triển khai quyết định 126 của Chính phủ mà trước hết là thành lập Ban chỉ đạo và Tổ công tác Liên ngành. Ban chỉ đạo gồm 9 thành viên do Phó Chủ tịch làm trưởng Ban, Phó Ban thường trực là Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và xã hội, số còn lại là lãnh đạo: Sở Kế hoạch và đầu tư, Cục Thống kê, Sở Công nghiệp, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Sở Thương mại Du lịch, Sở Tài chính Vật giá. Tổ công tác liên ngành có 8 người, do Trưởng phòng Lao động - Tiền lương - Tiền công Sở Lao động - Thương binh xã hội làm Tổ trưởng, các tổ viên gồm có Trưởng hoặc phó phòng nghiệp vụ của 7 thành viên Ban chỉ đạo. Ban chỉ đạo đã thảo luận và xây dựng quy chế làm việc, xây dựng kế hoạch triển khai chương trình làm việc, phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng người. Chương trình việc làm được soạn thảo dựa trên thực trạng lao động việc làm của địa phương, hướng dẫn của Bộ Lao động - Thương binh và xã hội, kế hoạch phát triển Kinh tế - xã hội của địa phương đến năm 2000, chương trình công tác của Tỉnh ủy, Hội đồng Nhân dân, ủy ban Nhân dân tỉnh... Để xây dựng chương trình được chuẩn xác và kịp thời, Ban chỉ đạo đã thực hiện một số công việc như sau: - Nghiên cứu kỹ hướng dẫn của Trung ương để xây dựng đề cương sơ bộ. - Tìm tài liệu tham khảo; Nghị quyết Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc, Nghị quyết Hội đồng Nhân dân tỉnh, chương trình phát triển Kinh tế - xã hội của tỉnh hàng năm và đến năm 2000 - 2010, các chương trình, đề án, các đề tài nghiên cứu phục vụ cho phát triển Kinh tế - xã hội của tỉnh và từng Ngành. - Lập biểu bản tổng hợp, phân tích số liệu chi tiết. - Viết đề cương chính thức lần thứ nhất. - Họp Ban chỉ đạo và Tổ Công tác thảo luận đề cương. - Tổ công tác sửa đổi đề cương theo ý kiến Ban chỉ đạo. - Họp Ban chỉ đạo lần thứ hai để thông qua đề cương đã sửa đổi. - Tổ chức hội ý lấy ý kiến tham gia của các Sở, Ban, Ngành trong tỉnh. - Tiếp tục sửa đổi bổ sung lần ba. - Họp Ban chỉ đạo lần ba thông qua chương trình. - Trình Thường trực ủy ban nhân dân tỉnh cho ý kiến chỉ đạo. - Tiếp tục sửa đổi bổ sung lần bốn. - Trình Thường trực Tỉnh ủy và tiếp thu ý kiến sửa đổi bổ sung. - Thông qua hội nghị hành chính Tỉnh. ủy ban nhân dân tỉnh gửi chương trình giải quyết việc làm đến lãnh đạo các Sở, Ban, Ngành, Đoàn thể cấp tỉnh, Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện, Thị (80 đại biểu) lấy ý kiến bằng văn bản. Sau khi hoàn thiện, qua ý kiến đóng góp của ủy ban nhân dân tỉnh và Tỉnh ủy, chương trình được trình lên Hội đồng nhân dân tỉnh phê duyệt. Chương trình việc làm của Vĩnh Phúc đến năm 2000 tập trung vào 4 mục tiêu: + Giải quyết việc làm mới cho 36.000 lao động. + Giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị từ 4,6% xuống 4%. + Nâng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn từ 71,2% lên 75%. + Nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo từ 12% đến 18%. Chương trình việc làm của Vĩnh Phúc - một tỉnh mới tái lập chưa lâu, có thể còn cần phải hoàn thiện, song dù sao cũng đã rõ định hướng phải vươn tới và giải pháp phải tiến hành. Được như vậy là do có sự chỉ đạo tập trung, thường xuyên của cấp ủy, sự hỗ trợ của các thành viên Ban chỉ đạo và Tổ giúp việc. Vì vốn là một tỉnh kém phát triển nên Vĩnh Phúc còn nhiều khó khăn khi xâ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Giải quyết việc làm trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Kiên Giang.pdf
Tài liệu liên quan