Luận văn Giải pháp thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa

Tài liệu Luận văn Giải pháp thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa: LUẬN VĂN: Giải pháp thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Vốn là một yếu tố đầu vào không thể thiếu trong nền kinh tế của mỗi quốc gia. Một quốc gia muốn phát triển phải tận dụng và khai thác triệt để nguồn lực quý giá đó. Đối với Việt Nam, đất nước mà 80% dân số nằm trong khu vực kinh tế nông nghiệp, nông thôn, đang trong giai đoạn tiến hành công nghiệp hóa - hiện đại hóa, huy động vốn đầu tư phát triển kinh tế nói chung và vốn đầu tư phát triển nông nghiệp nói riêng là vấn đề đặc biệt quan trọng cần được quan tâm giải quyết. Thanh Hóa là tỉnh có nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Nhiều dự án lớn về nông nghiệp đã và đang góp phần thay đổi, cải thiện đáng kể đời sống của nhân dân trong tỉnh. Thực tế cho thấy, việc thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay đã có những dấu hiệu tích cực, lượng vốn đầu tư vào nông nghiệp ngày càng tăng, chất lượng vốn ngày càng được cải...

pdf101 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1030 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Giải pháp thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Giải pháp thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Vốn là một yếu tố đầu vào không thể thiếu trong nền kinh tế của mỗi quốc gia. Một quốc gia muốn phát triển phải tận dụng và khai thác triệt để nguồn lực quý giá đó. Đối với Việt Nam, đất nước mà 80% dân số nằm trong khu vực kinh tế nông nghiệp, nông thôn, đang trong giai đoạn tiến hành công nghiệp hóa - hiện đại hóa, huy động vốn đầu tư phát triển kinh tế nói chung và vốn đầu tư phát triển nông nghiệp nói riêng là vấn đề đặc biệt quan trọng cần được quan tâm giải quyết. Thanh Hóa là tỉnh có nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Nhiều dự án lớn về nông nghiệp đã và đang góp phần thay đổi, cải thiện đáng kể đời sống của nhân dân trong tỉnh. Thực tế cho thấy, việc thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay đã có những dấu hiệu tích cực, lượng vốn đầu tư vào nông nghiệp ngày càng tăng, chất lượng vốn ngày càng được cải thiện... Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đó công tác này còn bộc lộ rất nhiều hạn chế và khó khăn cần được tháo gỡ. Đó là cơ chế quản lý chưa thật sự thông thoáng, thủ tục đầu tư còn rườm rà gây trở ngại cho các nhà đầu tư, việc thực hiện các chính sách thu hút vốn còn kém hiệu quả và phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của các địa phương khác trong thu hút vốn… Do vậy, việc nghiên cứu và đề xuất giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp trên địa bàn Thanh Hóa trong giai đoạn mới là vấn đề có ý nghĩa cấp bách cả về lý luận và thực tiễn. Với lý do đó, tác giả lựa chọn đề tài ‘’Giải pháp thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa’’ làm luận văn Thạc sĩ chuyên ngành quản lý kinh tế. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Thu hút vốn đầu tư phát triển kinh tế nói chung, phát triển nông nghiệp nói riêng đã được nhiều tác giả nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. ở nước ta có một số công trình nghiên cứu liên quan đáng chú ý sau: - Nguyễn Đức Quyền (2007), Hoàn thiện chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Hà Nội. - Hồ Ngọc Hà (2006), Giải pháp thu hút vốn đầu tư phát triển công nghiệp ở tỉnh Hưng Yên hiện nay, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Hà Nội. - Nguyễn Văn Tuấn (2005), Đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát triển kinh tế ở Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội. - Nguyễn Đẩu (2005), Huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển kinh tế thành phố Đà Nẵng - thực trạng và giải pháp, Luận án tiến sĩ kinh tế, Hà Nội. - Đỗ Đức Quân (2001), Thị trường vốn Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Luận án tiến sĩ kinh tế, Hà Nội. - Nguyễn Xuân Kiên (1999), Tích tụ và tập trung vốn trong nước để phát triển công nghiệp ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ kinh tế. - Nguyễn Công Nghiệp, Lê Hải Mơ, Vũ Đình ánh (1998), Tiếp tục đổi mới chính sách tài chính phục vụ mục tiêu tăng trưởng, Nxb Tài chính, Hà Nội. - Phạm Hảo (1998), Khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn cho công nghiệp hóa - hiện đại hóa miền Trung. - Nguyễn Văn Phúc (1996), Huy động vốn trong nước phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Hà Nội. - Nguyễn Chu Lai (1996), Những giải pháp chủ yếu nhằm huy động vốn trong nước phục vụ phát triển kinh tế Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Hà Nội. Trong các công trình nghiên cứu trên, ở khía cạnh này hay khía cạnh khác, các tác giả đã đề cập đến những vấn đề cần thiết để thu hút vốn đầu tư phát triển kinh tế. Tuy nhiên, do góc độ tiếp cận và quan điểm khác nhau nên các tác giả đều có hướng đi riêng của mình nhằm đạt được mục đích nghiên cứu. Có công trình nghiên cứu hướng về thu hút vốn đầu tư trong tổng thể nền kinh tế trên bình diện quốc gia; có công trình nghiên cứu về một khía cạnh trong thu hút vốn đầu tư tại một địa phương, một khu vực hay trên toàn đất nước; có công trình lại đi sâu nghiên cứu vốn đầu tư phát triển một ngành như công nghiệp, nông nghiệp... Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu việc thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp một cách cơ bản, có hệ thống, phù hợp với điều kiện cụ thể của tỉnh Thanh Hóa. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu: Đề xuất phương hướng và giải pháp đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa trong điều kiện hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện mục đích nghiên cứu nói trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ chủ yếu sau: - Phân tích và làm rõ khái niệm, các đặc trưng của vốn đầu tư, các nguồn vốn đầu tư, vai trò của vốn đầu tư phát triển nông nghiệp và tác động của quản lý nhà nước cấp tỉnh đối với việc thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp trên địa bàn. - Nghiên cứu kinh nghiệm của một số tỉnh trong nước và một số nước trên thế giới về thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp. - Đánh giá tình hình phát triển nông nghiệp và thực trạng thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn vừa qua. Từ đó chỉ ra những mặt thành công, hạn chế và nguyên nhân. - Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa trong những năm tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến vốn đầu tư; cơ chế, chính sách của cơ quan quản lý nhà nước cấp tỉnh nhằm thu hút có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư phát triển nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu được giới hạn trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, thời gian khảo sát thực trạng chủ yếu từ năm 2001 đến năm 2007, các giải pháp được đề xuất thuộc phạm vi quản lý nhà nước cấp tỉnh đến năm 2010 và 2020. 5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề ra, luận văn sử dụng tổng hợp một số phương pháp như: phân tích, thống kê, so sánh, các phương pháp điều tra trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay. Ngoài ra, luận văn cũng kế thừa có chọn lọc các công trình nghiên cứu có liên quan đã được công bố của một số tác giả về thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp ở một số địa phương trong nước và ở một số nước trên thế giới. 6. Đóng góp mới về khoa học và thực tiễn của luận văn Luận văn có những đóng góp sau đây: - Luận văn góp phần hệ thống hóa và làm sáng tỏ thêm những vấn đề cơ bản về bản chất và vai trò của vốn đầu tư đối với phát triển kinh tế nói chung, phát triển nông nghiệp nói riêng. - Tổng thuật kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp ở một số tỉnh trong nước và trên thế giới, từ đó rút ra những bài học vận dụng vào điều kiện tỉnh Thanh Hóa. - Đánh giá đúng thực tiễn phát triển nông nghiệp và thực trạng thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa trong thời gian qua, chỉ ra những mặt tích cực, hạn chế và nguyên nhân. - Đề xuất được phương hướng và một số giải pháp đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa trong thời gian tới. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của luận văn được kết cấu thành 3 chương, 8 tiết. Chương 1 Một số vấn đề cơ bản về vốn đầu tư và Thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp 1.1. vốn đầu tư phát triển nông nghiệp 1.1.1. Khái niệm và những đặc trưng của vốn đầu tư phát triển nông nghiệp Vốn là yếu tố quan trọng, quyết định sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của các quốc gia trên thế giới. Đối với các nước đang phát triển, đặc biệt là Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, vai trò của vốn càng được phát huy tối đa. Cho đến nay, đã có rất nhiều khái niệm về vốn được nhìn nhận dưới góc độ phân loại thành vốn cố định, vốn lưu động, vốn đầu tư tài chính... Tuy nhiên, chưa có một định nghĩa bằng văn bản chính thức của Nhà nước về vốn. Để đưa ra một khái niệm mang tính chất tổng hợp về vốn đầu tư, cần đi sâu phân tích những đặc trưng cơ bản của vốn đầu tư sau đây: 1/ Vốn được biểu hiện bằng giá trị. Vốn phải đại diện cho một lượng giá trị có thực của tài sản (tài sản hữu hình và tài sản vô hình). Tài sản hữu hình là những tài sản có hình thái vật chất cụ thể (nhà xưởng, máy móc, thiết bị, hàng hóa, nguyên vật liệu…). Tài sản vô hình là những tài sản không có hình thái vật chất cụ thể (bằng phát minh sáng chế, bí quyết kỹ thuật, bí quyết kinh doanh, nhãn hiệu hàng hóa, quyền sử dụng đất, uy tín trên thị trường…). Có thể thấy, trong nền kinh tế thị trường, các hình thái của vốn rất phong phú, đa dạng, từ đó khái niệm về vốn cũng được mở rộng về phạm vi. Do vậy, cần nhận thức đầy đủ các khía cạnh xung quanh vấn đề vốn đầu tư để khai thác triệt để nguồn lực này, nhằm đóng góp tích cực cho sự phát triển của nền kinh tế. 2/ Vốn luôn được vận động nhằm mục đích sinh lời. Vốn được biểu hiện bằng tiền nhưng không phải tất cả mọi nguồn tiền đều là vốn. Tiền chỉ biến thành vốn khi chúng sử dụng vào mục đích đầu tư kinh doanh. Nói cách khác, tiền chỉ là vốn ở dạng tiềm năng. Tiền là phương tiện để trao đổi, lưu thông hàng hóa còn vốn là để sinh lời, nó luôn chu chuyển và tuần hoàn. Tiền tiêu dùng hàng ngày, tiền dự trữ không có khả năng sinh lời không phải là vốn. Tùy thuộc vào phương thức đầu tư kinh doanh mà cách vận động và phương thức vận động của tiền vốn cũng khác nhau. Trường hợp đầu tư vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, tiền được sử dụng để mua hàng hóa (H) bao gồm TLSX và SLĐ, hàng hóa sau quá trình sản xuất trở thành H’ và từ đó T’ là lượng tiền mới được tạo ra. Có thể mô phỏng theo sơ đồ sau: T - H … SX … H’- T’ Trường hợp đầu tư vào lĩnh vực thương mại, quá trình T→ T’ được thông qua việc mua bán hàng hóa. T - H - T’ Trường hợp đầu tư theo hình thức góp vốn kinh doanh, mua cổ phiếu, trái phiếu…, sơ đồ được mô phỏng đơn giản như sau: T- T’ 3/ Trong nền kinh tế thị trường vốn là một loại hàng hóa đặc biệt vì nó mang đầy đủ hai đặc trưng cơ bản của hàng hóa thông thường là giá trị, giá trị sử dụng và đặc biệt ở chỗ người bán vốn không mất đi quyền sở hữu mà chỉ bán quyền sử dụng nó. Giá trị sử dụng của vốn là để sinh lời. Giá cả của vốn gọi là lãi suất. Người mua nhận được quyền sử dụng vốn trong một khoảng thời gian nhất định và phải trả cho người bán một tỷ lệ nhất định tính trên số vốn đó, gọi là lãi suất. Cũng như mọi hàng hóa thông thường khác, vốn bao giờ cũng gắn với một chủ sở hữu nhất định. Tùy theo hình thức đầu tư mà chủ sở hữu có thể đồng nhất hoặc không đồng nhất với người sử dụng vốn. Sở dĩ gọi vốn là hàng hóa đặc biệt bởi vì người bán vốn không mất quyền sở hữu mà chỉ bán quyền sử dụng vốn. Chính sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn đã làm cho vốn có khả năng lưu thông và sinh lời. Sự lưu thông của vốn đã từng bước tạo lập và hình thành thị trường vốn - một bộ phận cấu tạo nên thị trường tài chính. Vấn đề đặt ra là khi nào người chủ sở hữu vốn mới bán quyền sử dụng vốn của mình? Câu trả lời là chỉ khi người chủ sở hữu vốn có được lợi tức thỏa đáng - đây được xem như một nguyên tắc cần chú ý khi thu hút, huy động vốn trong nền kinh tế thị trường. 4/ Vốn không chỉ biểu hiện bằng tiền mà còn biểu hiện dưới dạng tiềm năng và lợi thế vô hình. Ví dụ: vị trí địa lý, lợi thế thương mại, uy tín thị trường, bí quyết kinh doanh, kinh nghiệm lâu năm…Việc “giá trị hóa” được những tiềm năng và lợi thế vô hình đó góp phần quan trọng trong việc phát huy triệt để vai trò vốn đầu tư nhằm phát triển kinh tế. 5/ Tích tụ và tập trung vốn: Tích tụ vốn là sự tăng thêm quy mô vốn cá biệt của từng doanh nghiệp, từng nhà sản xuất. Tập trung vốn là sự tăng thêm quy mô của vốn cá biệt bằng cách hợp nhất nhiều nguồn vốn cá biệt sẵn có thành một nguồn vốn cá biệt khác lớn hơn. Tích tụ và tập trung vốn quan hệ mật thiết với nhau, thúc đẩy nhau phát triển. Tích tụ vốn làm tăng quy mô và sức mạnh của vốn, do đó tập trung mạnh hơn. Tập trung vốn lại tạo điều kiện thuận lợi đẩy mạnh tích tụ, ảnh hưởng qua lại của tích tụ và tập trung vốn làm cho nguồn vốn đầu tư của toàn xã hội ngày càng tăng. Tích tụ và tập trung vốn dẫn đến tích tụ sản xuất. Thiếu vốn cho phát triển kinh tế nói chúng và phát triển nông nghiệp nói riêng ở Việt Nam là tình trạng phổ biến. Vì vậy, khắc phục khó khăn này, không còn cách nào khác là phải tăng cường thu hút, huy động vốn, khơi thông các dòng chảy của vốn và hướng chúng vào đầu tư phát triển nông nghiệp. 6/ Vốn có giá trị về mặt thời gian. Nói cách khác, ở các thời điểm khác nhau giá trị của vốn cũng khác nhau. Thời gian càng dài, giá trị và độ an toàn của đồng tiền càng giảm. Vì vậy, khi tính toán, phân tích hiệu quả đầu tư cần phải hiện tại hóa hoặc tương lai hóa giá trị của vốn. Từ các đặc trưng cơ bản trên về vốn, có thể tổng hợp lại để đưa ra một khái niệm mang tính tóm lược về vốn đầu tư phát triển nông nghiệp như sau: Vốn đầu tư phát triển nông nghiệp là một bộ phận của nguồn lực biểu hiện dưới dạng giá trị, được thể hiện bằng các tài sản hữu hình và vô hình, sử dụng vào mục đích đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp để sinh lời. 1.1.2. Các nguồn vốn đầu tư phát triển nông nghiệp Vốn đầu tư được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau và có thể dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau để phân loại. Tuy nhiên, chúng đều được hình thành trên cơ sở huy động các nguồn lực trong và ngoài nước, do vậy để thuận tiện trong quá trình phân tích, tìm hiểu, có thể phân nguồn vốn đầu tư thành nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài. Nguồn vốn trong nước gồm: nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước, nguồn vốn tín dụng, nguồn vốn đầu tư từ các tổ chức kinh tế và dân cư. Nguồn vốn nước ngoài: nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, nguồn vốn vay, viện trợ và các nguồn vốn khác. 1.1.2.1. Nguồn vốn trong nước  Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đó được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Nó phản ánh các quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và các chủ thể khác trong xã hội phát sinh khi Nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài chính quốc gia theo nguyên tắc chủ yếu là không hoàn trả trực tiếp. Nguồn vốn NSNN được hình thành từ nguồn tích lũy của ngân sách và nguồn vốn tín dụng của Nhà nước. - Vốn tích lũy của NSNN là phần chênh lệch giữa thu và chi NSNN. Thu NSNN bao gồm các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí; các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước; các khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân; các khoản viện trợ, các khoản thu khác theo quy định của pháp luật. Chi NSNN bao gồm: chi cho đầu tư phát triển, chi thường xuyên cho quản lý hành chính, an ninh quốc phòng, sự nghiệp văn hóa, y tế, giáo dục và đào tạo, nghiên cứu khoa học, thể dục thể thao… ở phần lớn các nước đang phát triển, thường xuyên xảy ra tình trạng thâm hụt ngân sách do nhu cầu chi tiêu thường xuyên rất cao, trong khi nguồn thu lại rất hạn chế nên ngân sách nhà nước không phải là nguồn vốn đầu tư chủ yếu. Như vậy, vấn đề đặt ra là Nhà nước cần lựa chọn những lĩnh vực thật sự cần thiết để tập trung vốn đầu tư phát triển. Muốn tăng tích lũy của NSNN, cần áp dụng chính sách tăng thu và tiết kiệm chi. Cần phải tích lũy NSNN ngày càng tăng mới góp phần nâng cao tỷ trọng vốn đầu tư từ NSNN cho phát triển kinh tế - xã hội. - Nguồn vốn tín dụng nhà nước: là hình thức vay nợ của Nhà nước thông qua kho bạc, được thực hiện chủ yếu bằng phát hành trái phiếu Chính phủ. Trái phiếu Chính phủ là chứng chỉ vay nợ của Nhà nước do bộ Tài Chính phát hành, có mệnh giá, lãi suất, thời hạn, xác nhận nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ đối với người sở hữu trái phiếu. Theo “Quy chế phát hành trái phiếu Chính phủ” Nghị định số 01 - 2000/NĐ ban hành ngày 13/10/2000, trái phiếu Chính phủ có các hình thức sau: trái phiếu kho bạc, tín phiếu kho bạc, trái phiếu đầu tư. Tín phiếu kho bạc: là loại trái phiếu Chính phủ có thời hạn dưới một năm, được phát hành với mục đích bù đắp thiếu hụt tạm thời của ngân sách nhà nước, đồng thời tạo thêm công cụ cho thị trường tiền tệ. Trái phiếu kho bạc: là loại trái phiếu có thời hạn từ một năm trở lên, được phát hành với mục đích huy động vốn theo kế hoạch ngân sách nhà nước hàng năm đã được Quốc hội phê duyệt. Trái phiếu đầu tư: là loại trái phiếu Chính phủ có thời hạn từ một năm trở lên, bao gồm: Trái phiếu huy động vốn cho từng công trình cụ thể thuộc diện ngân sách đầu tư, nằm trong kế hoạch đầu tư đã được Chính phủ phê duyệt nhưng chưa được bố trí vốn ngân sách trong năm kế hoạch và Trái phiếu huy động vốn để hỗ trợ đầu tư phát triển theo kế hoạch hàng năm được Chính phủ phê duyệt. Hình thức tín dụng nhà nước tuy lãi suất thấp hơn so với các hình thức tín dụng khác, nhưng độ an toàn cao do có sự đảm bảo của Nhà nước nên rất dễ huy động vốn. Do đó, nếu vận dụng tốt sẽ tạo ra nguồn vốn đầu tư quan trọng phục vụ cho phát triển nông nghiệp.  Nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước: Khu vực kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, định hướng phát triển kinh tế. Tham gia vào những ngành, lĩnh vực then chốt, mũi nhọn để tạo đột phá trong phát triển kinh tế. Ngoài ra, doanh nghiệp nhà nước - một bộ phận quan trọng của kinh tế nhà nước - kinh doanh ở lĩnh vực mà tư nhân không đủ vốn, không muốn kinh doanh vì lợi nhuận thấp, rủi ro cao, nhất là ở lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng như giao thông, thủy lợi,... Vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước được hình thành từ nhiều kênh khác nhau như: nguồn vốn do ngân sách nhà nước cấp khi thành lập doanh nghiệp (nguồn vốn này có xu hướng giảm), nguồn vốn huy động thông qua trái phiếu; lợi nhuận được phép để lại doanh nghiệp; tiền khấu hao tài sản cố định,... Ngoài việc hỗ trợ đầu tư trực tiếp từ ngân sách nhà nước thì vốn của doanh nghiệp nhà nước cũng là kênh quan trọng cần huy động để phát triển kết cấu hạ tầng, dịch vụ nông nghiệp.  Nguồn vốn từ tín dụng ngân hàng và các tổ chức tài chính trung gian Vốn đầu tư cho phát triển được huy động qua các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính trung gian khác như công ty tài chính, quỹ tín dụng nhân dân, công ty bảo hiểm… chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư của xã hội. Các tổ chức tín dụng với chức năng trung gian huy động vốn từ nơi cung ứng đến nơi có nhu cầu đầu tư để giải quyết quan hệ cung cầu về vốn đầu tư trong phạm vi toàn xã hội và là trung tâm thanh toán trong toàn bộ nền kinh tế, sẽ góp phần đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung vốn cho đầu tư phát triển kinh tế. Ưu điểm của các tổ chức này là có thể thỏa mãn được mọi nhu cầu về vốn của các pháp nhân và các thể nhân trong nền kinh tế, nếu những đối tượng vay vốn chấp nhận đầy đủ quy chế tín dụng. Các hình thức huy động phong phú, đa dạng; thời gian cho vay rất linh hoạt đáp ứng nhu cầu khác nhau của người đi vay; lĩnh vực cho vay rất rộng, liên quan đến các chủ thể và các lĩnh vực khác nhau trong nền kinh tế… là những lợi thế của hình thức tín dụng này. Những ưu thế đó khiến các tổ chức này có thể thu hút, huy động nguồn vốn bằng tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế với khối lượng lớn. Do vậy, huy động vốn qua tín dụng ngân hàng và các tổ chức tín dụng trung gian có ý nghĩa rất quan trọng trong việc huy động vốn đầu tư phát triển nông nghiệp.  Nguồn vốn đầu tư từ các tổ chức kinh tế và các tầng lớp dân cư Theo xu hướng phát triển hiện nay, nguồn vốn từ các tổ chức kinh tế có chiều hướng gia tăng và ngày càng khẳng định vị trí của nó trong tổng vốn đầu tư phát triển kinh tế. Doanh nghiệp là tế bào của nền kinh tế, là nơi cần phải tăng cường tích tụ và tập trung vốn để đổi mới, mở rộng sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh và tạo vị thế trên trường quốc tế. Song phần tích tụ của từng doanh nghiệp tăng lên không đủ để đáp ứng nhu cầu đầu tư đổi mới công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất. Do đó, các doanh nghiệp phải huy động vốn bằng các hình thức như vay tín dụng ngân hàng, phát hành cổ phiếu, trái phiếu, vay lẫn nhau giữa các doanh nghiệp có vốn tạm thời nhàn rỗi, vay thông qua mua hàng trả chậm, vay thương mại… Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (công ty cổ phần, công ty TNHH, doanh nghiệp tư nhân…) lợi nhuận sau thuế được chia làm hai phần: một phần chia cho các thành viên của công ty, một phần để lại cho doanh nghiệp. Khoản lợi nhuận không chia này là khoản tiết kiệm của các doanh nghiệp để hình thành nên vốn đầu tư. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp này để tiến hành đầu tư còn sử dụng thêm cả phần trích từ khấu hao tài sản cố định. ở nước ta hiện nay, ngày càng có nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh ra đời với nhiều hình thức, quy mô và lĩnh vực hoạt động khác nhau. Các doanh nghiệp này thường có quy mô vừa và nhỏ, tuy nhiên hoạt động rất linh hoạt, có hiệu quả và đóng góp đáng kể trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Một nguồn huy động vốn đầu tư không thể không kể đến là nguồn huy động từ các tầng lớp dân cư. Nguồn vốn được hình thành từ tiết kiệm của dân cư phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu của mỗi hộ gia đình. Phần tiết kiệm là chênh lệch giữa thu nhập và chi tiêu. Thu nhập nếu nhỏ hơn mức chi tiêu sẽ không có tiết kiệm, thu nhập bằng chi tiêu thì tiết kiệm bằng không. Nếu thu nhập lớn hơn mức chi tiêu thì sẽ có tiết kiệm, đây chính là điều kiện để hình thành nên nguồn vốn đầu tư từ tầng lớp dân cư. Tiết kiệm ở các nước phát triển có xu hướng nhiều hơn ở các nước đang và kém phát triển, các hộ gia đình có thu nhập cao hơn thường tiết kiệm nhiều hơn, tiết kiệm ở thành thị thường nhiều hơn nông thôn. Đối với nước ta hiện nay, do thu nhập của dân cư còn ở mức thấp nên mức tiết kiệm của dân cư rất thấp, dẫn đến nguồn vốn đầu tư từ tầng lớp dân cư chưa nhiều. Tuy nhiên theo đà phát triển chung của đất nước, thu nhập của dân cư ngày càng tăng, nguồn vốn này sẽ có xu hướng tăng lên. Trong điều kiện điểm xuất phát và khả năng tích lũy từ nội bộ nền kinh tế còn thấp, gây khó khăn cho việc khai thác các nguồn vốn trong nước như ở nước ta hiện nay, thì nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài là hết sức quan trọng. 1.1.2.2. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài Đầu tư nước ngoài là việc các nhà đầu tư (pháp nhân hoặc cá nhân) đưa vốn hoặc bất kì hình thức giá trị nào khác vào nước tiếp nhận đầu tư để thực hiện các hoạt động sản xuất - kinh doanh nhằm thu lợi nhuận hoặc đạt các hiệu quả xã hội. Tóm lại, đây là hình thức đầu tư có sự di chuyển vốn qua biên giới một quốc gia. Việt Nam trong giai đoạn hiện nay mặc dù đã có sự phát triển vượt bậc so với trước đây song mức thu nhập vẫn còn thấp, do đó khả năng tiêu dùng cũng như khả năng tích lũy chưa cao. Trong khi đó nhu cầu vốn đầu tư để hoàn chỉnh kết cấu hạ tầng và xây dựng các công trình quan trọng nhằm phát triển kinh tế rất lớn. Mặt khác, hàng hóa xuất khẩu chủ yếu là hàng nông sản và công nghiệp tiêu dùng có giá trị chưa cao, hàng hóa nhập khẩu là những máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ hiện đại có giá trị cao, nên tình trạng cán cân thanh toán bị thâm hụt, dẫn đến thiếu hụt ngoại tệ là vấn đề mà nước ta đang phải đối mặt. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giải quyết vấn đề nan giải trên. Nguồn vốn nước ngoài thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; mở ra nhiều ngành nghề, nhiều sản phẩm mới đa dạng, phong phú, đẩy mạnh xuất khẩu tạo nguồn dự trữ ngoại tệ cho nhà nước; đồng thời dẫn nhập những công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến vào việc phát triển kinh tế, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động… Vì vậy, thu hút vốn đầu tư nước ngoài và sử dụng nó một cách hiệu quả là vấn đề hết sức cần thiết và quan trọng đối với các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài ở nước ta hiện nay gồm các nguồn chủ yếu sau:  Hỗ trợ phát triển chính thức (Official Development Assistance - ODA) Theo Báo cáo nghiên cứu chính sách của Ngân hàng Thế giới (WB) xuất bản tháng 06/1999, ODA được định nghĩa như sau: “ODA là một phần của tài trợ phát triển chính thức ODF, trong đó các yếu tố viện trợ không hoàn lại cộng với cho vay ưu đãi và phải chiếm ít nhất 25% trong tổng viện trợ”. Trong đó, tài trợ phát triển chính thức (Offcial Development Finance, viết tắt là ODF) là tất cả các nguồn tài chính mà chính phủ các nước phát triển và các tổ chức đa phương dành cho các nước đang phát triển. ODA là nguồn vốn được vay có lãi suất thấp, thời gian cho vay dài, có thời gian ân hạn (chỉ trả lãi, chưa phải trả gốc), giá trị cho vay lớn. Lĩnh vực đầu tư của ODA chủ yếu là các lĩnh vực không hoặc ít sinh lợi nhuận, đó là các công trình công cộng mang tính chất phúc lợi xã hội như các dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng, các công trình giao thông vận tải, giáo dục y tế… Ví dụ: dự án nâng cấp quốc lộ 1A, dự án cấp nước sạch 112 triệu USD của WB cho Việt Nam… Theo nhận định của các chuyên gia, mặc dù nguồn cung cấp ODA trên thế giới vẫn còn hạn chế, nhưng nguồn vốn ODA giành cho Việt Nam trong giai đoạn tới sẽ vẫn tăng trưởng mạnh. Năm 2008 Việt Nam đạt mức cam kết ODA kỷ lục 5,426 tỷ USD, so với năm 2007, mức cam kết này tăng 1 tỷ USD, xấp xỉ 20%. ODA là khoản vay có tính chất ưu đãi, có lợi về mặt kinh tế - xã hội cho các nước nhận đầu tư, là nguồn vốn có vai trò quan trọng đối với các nước đang và chậm phát triển. ODA giúp các nước nghèo tiếp nhận những thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại và phát triển nguồn nhân lực. Đồng thời ODA giúp các nước nhận đầu tư điều chỉnh cơ cấu kinh tế, góp phần tăng khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và tạo điều kiện để mở rộng đầu tư phát triển trong nước. Do tác dụng to lớn của nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức nên cần tận dụng nguồn vốn này, kết hợp với sử dụng hiệu quả để đầu tư phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, cần tránh lạm dụng, biến khoản vay nợ này thành gánh nặng nợ nần, từ sự bị ràng buộc về kinh tế dẫn đến bị các nước tài trợ ràng buộc về chính trị.  Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (Foreign Direct Investment - FDI) Theo khái niệm của tổ chức Hợp tác kinh tế và Phát triển (OECD): Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hoạt động đầu tư được thực hiện nhằm thiết lập các mối quan hệ kinh tế lâu dài với các doanh nghiệp đặc biệt là những khoản đầu tư mang lại khả năng tạo ảnh hưởng đối với việc quản lý doanh nghiệp nói trên bằng cách: thành lập hoặc mở rộng một doanh nghiệp hoặc một chi nhánh thuộc toàn quyền quản lý của chủ đầu tư; mua lại toàn bộ doanh nghiệp đã có; tham gia vào một doanh nghiệp mới, cấp tín dụng dài hạn (> 5 năm); hoặc có quyền kiểm soát nắm từ 10% cổ phiếu thường hoặc quyền biểu quyết trở lên. FDI chủ yếu là đầu tư tư nhân với mục đích hàng đầu là tìm kiếm lợi nhuận, các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một tỷ lệ vốn tối thiểu trong vốn pháp định hoặc vốn điều lệ tùy theo quy định của luật pháp từng nước để dành quyền kiểm soát hoặc tham gia kiểm soát doanh nghiệp nhận đầu tư. Do chủ đầu tư trực tiếp sử dụng vốn, thu nhập của chủ đầu tư phụ thuộc vào kết quả kinh doanh, hơn nữa trong trường hợp nhận thấy sự bất ổn của nền kinh tế nước nhận đầu tư, nhà đầu tư không dễ dàng rút vốn để chuyển sang hình thức đầu tư khác nên đối với các nước nhận đầu tư FDI có ưu điểm là tính ổn định, hiệu quả sử dụng cao hơn các hình thức khác. Một mặt, cũng giống như nguồn vốn ODA, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo điều kiện cho nước sở tại có thể thu hút được kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm quản lý kinh doanh của nước ngoài. Mặt khác, nguồn vốn FDI còn góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả các nguồn vốn trong nước do các doanh nghiệp trong nước phải tăng cường đầu tư và chú trọng đến hiệu quả đầu tư trong điều kiện phải cạnh tranh với các doanh nghiệp có vốn FDI, quan trọng hơn FDI không làm tăng gánh nặng nợ nước ngoài. Vì vậy, đây là nguồn vốn có ý nghĩa quan trọng, cần có những chính sách phù hợp để thu hút, huy động phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế. Tùy theo từng nước, đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng có những hình thức khác nhau. ở Việt Nam, theo điều 21 Luật đầu tư năm 2005, có các hình thức FDI sau đây: - Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài; - Thành lập tổ chức kinh tế liên doanh giữa các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài; - Đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC), hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT), hợp đồng xây dựng- chuyển giao - kinh doanh (BTO), hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT); - Đầu tư phát triển kinh doanh; - Mua cổ phần hoặc góp vốn để tham gia quản lý hoạt động đầu tư; - Đầu tư thực hiện việc sát nhập hoặc mua lại doanh nghiệp; - Các hình thức đầu tư trực tiếp khác. Sau khi gia nhập WTO, thu hút FDI ở Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc. Theo bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến đầu năm 2008 đã có trên 8.590 dự án của 81 nước và vùng lãnh thổ đang hoạt động có tổng vốn đầu tư trên 83,1 tỷ USD, trong đó vốn thực hiện đạt 29,2 tỷ USD. Vốn FDI chiếm tỷ trọng 18% tổng vốn đầu tư xã hội, đóng góp 16,2% GDP; chiếm 19,78% kim ngạch xuất khẩu (chưa kể dầu thô) và 37% giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước. Hoạt động thu hút FDI tại Việt Nam thời gian qua đã đóng góp tích cực vào việc thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. FDI là nguồn vốn rất quan trọng bổ sung cho vốn đầu tư phát triển, góp phần đáng kể vào tốc độ tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, việc huy động FDI cho phát triển nông nghiệp còn hết sức hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng và thế mạnh của Việt Nam trong lĩnh vực này. Vì vậy, cần có những chính sách ưu đãi đầu tư hợp lý để thu hút nguồn vốn FDI vào phát triển nông nghiệp. Ngoài ra, nguồn vốn đầu tư nước ngoài còn được bổ sung bằng nguồn viện trợ của các tổ chức phi chính phủ (NGO), vốn của Việt Kiều, của những người Việt Nam sống ở nước ngoài... Đó là những nguồn vốn rất tốt cho đầu tư phát triển kinh tế nếu được khơi nguồn đúng cách. 1.1.3. Vai trò của vốn đầu tư phát triển nông nghiệp Một là, góp phần giải quyết tình trạng thiếu vốn cho đầu tư phát triển nông nghiệp. Đối với các nước đang phát triển, vốn đầu tư đóng vai trò như một “cú hích ban đầu”, tạo đà cho sự cất cánh của nền kinh tế. Thiếu vốn là căn bệnh kinh niên của nền kinh tế các quốc gia này. Để điều trị căn bệnh đó không có cách nào tốt hơn là phải tăng cường thu hút, huy động vốn, khơi thông các dòng chảy của vốn và hướng chúng vào đầu tư phát triển kinh tế. Giáo sư Paul. A. Samuelson đã chỉ ra vòng đói nghèo luẩn quẩn mà nền kinh tế các nước đang phát triển gặp phải. Thu nhập thấp là nguyên nhân dẫn đến tiết kiệm thấp, đầu tư thấp; tiết kiệm và đầu tư thấp sẽ cản trở quá trình phát triển của vốn, làm cho tỉ lệ tích lũy vốn thấp, không đủ vốn cho hoạt động đầu tư; vốn đầu tư không đủ cho nhu cầu sản xuất sẽ dẫn đến năng lực sản xuất giảm, từ đó đưa đến một kết quả là thu nhập bình quân thấp. Chu trình ấy lặp đi lặp lại cho đến khi các quốc gia này tìm ra cách phá vỡ một trong các mắt xích của nó. Một trong những khâu quan trọng trong vòng tròn luẩn quẩn đó chính là vốn dành cho đầu tư phát triển. Như vậy, huy động tối đa các nguồn lực trong và ngoài nước, tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế được xem như một biện pháp ưu việt nhất tạo nên bước đột phá nhằm tạo đà cho tăng trưởng kinh tế, nâng cao thu nhập, từ đó phá vỡ cấu trúc của vòng đói nghèo luẩn quẩn. Hai là, vốn đầu tư phát triển nông nghiệp góp phần quan trọng thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Sự phân bố phát triển không đồng đều giữa các vùng trên lãnh thổ quốc gia, chênh lệch giàu nghèo là vấn đề luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm. Vốn đầu tư có tác dụng giải quyết những mặt mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo. Đồng thời, nó cũng giúp các khu vực kém phát triển này phát huy được lợi thế, khơi dậy tiềm năng để phát triển nhanh hơn, toàn diện hơn, nhằm thu hẹp khoảng cách giữa các vùng, tạo nên sự tiến bộ chung cho cả đất nước. Ba là, vốn đầu tư phát triển nông nghiệp thúc đẩy đầu tư thay thế nông cụ thô sơ truyền thống, đổi mới máy móc thiết bị, công nghệ, kỹ thuật, nâng cao chất lượng, sản lượng nông phẩm và tăng sức cạnh tranh trên trường quốc tế. Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hóa và đầu tư là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ. Để có một nền công nghệ cao có 2 con đường cơ bản: một là tự nghiên cứu phát minh ra công nghệ, hai là nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù thực hiện theo con đường nào vốn đầu tư cũng là yếu tố quan trọng không thể thiếu. Vốn đầu tư giúp người nông dân đầu tư thay thế nông cụ thô sơ, đổi mới máy móc thiết bị, áp dụng công nghệ tiên tiến trong quá trình sản xuất. Từ đó, vốn đầu tư là điều kiện cần thiết để mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao chất lượng và tăng sản lượng nông phẩm. Trong nền kinh tế thị trường với sức ép cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay, một quốc gia nếu không áp dụng các thành tựu tiến bộ của khoa học công nghệ, không hiện đại hóa, thay thế các máy móc, nông cụ thô sơ, sản phẩm sẽ không thể giành được vị thế và sức cạnh tranh lớn trên trường quốc tế. Bốn là, vốn đầu tư phát triển nông nghiệp góp phần phát triển nguồn nhân lực, tạo thêm nhiều việc làm mới cho nền kinh tế và nâng cao thu nhập cho người lao động. Con người là yếu tố trung tâm, cũng là mục tiêu của mọi sự phát triển. Theo các nhà kinh tế, chi cho giáo dục (vốn đầu tư vào sự nghiệp giáo dục) cũng là một dạng đầu tư. “Không có đầu tư nào mang lại nguồn lợi lớn hơn như đầu tư vào nguồn nhân lực, đặc biệt là đầu tư cho giáo dục” (Garry Becker). Trình độ, năng lực và kỹ năng của người lao động có đóng góp không nhỏ vào tốc độ tăng trưởng của một quốc gia. Con người được trang bị kiến thức tốt hơn thì hiệu quả làm việc sẽ tốt hơn, năng suất lao động cao hơn. Đặc biệt, trong môi trường làm việc đa phần sử dụng các máy móc thiết bị hiện đại, áp dụng công nghệ kỹ thuật cao như hiện nay, lao động cần có chất lượng cao là điều kiện tất yếu. Hơn nữa, chi phí thuê lao động nước ngoài thường cao hơn rất nhiều so với lao động trong nước. Do vậy, việc đào tạo lao động ở các địa phương cả về kỹ năng và trình độ là hết sức cần thiết. Vốn đầu tư sẽ giúp giải quyết vấn đề phát triển nguồn nhân lực này. Mặt khác, các nhà đầu tư luôn mong muốn đầu tư vào những quốc gia mà người lao động có chuyên môn cao để tiết kiệm chi phí cho việc đào tạo. Vì thế, trong điều kiện hiện nay, chất lượng và trình độ lao động của các nước là một tiêu chí quan trọng để thu hút các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tiến hành đầu tư. Do vậy, để thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài, Chính phủ các nước cần có kế hoạch dành ra một quỹ ngân sách nhất định cho đào tạo phát triển nguồn nhân lực trong nước. Đầu tư tạo ra tăng trưởng kinh tế và bản thân tăng trưởng kinh tế tác động trực tiếp đến việc góp phần giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội như: thất nghiệp, lạm phát, xóa đói giảm nghèo, giảm khoảng cách thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, thực hiện đền ơn đáp nghĩa, bảo hiểm xã hội và các hoạt động từ thiện… do đó có thể cải thiện môi trường sống của xã hội. Vốn đầu tư góp phần mở rộng quy mô sản xuất, tạo ra nhiều cơ sở kinh doanh, trực tiếp thu hút một số lượng lớn lao động tham gia, từ đó nâng cao thu nhập cho người dân. Như vậy, vốn đầu tư phát triển ngoài phát triển nguồn nhân lực còn tạo thêm nhiều việc làm mới cho nền kinh tế và cải thiện cuộc sống của người lao động. Giải quyết tốt các vấn đề xã hội chính là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo ra sự phát triển bền vững trong tương lai. 1.2. Thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp 1.2.1. Quan điểm về thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp Ngay từ Đại hội III của Đảng đến nay, Đảng ta luôn luôn xác định công nghiệp hóa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ. Đến Đại hội VIII, nhất trí nhận định đất nước ta đã chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đã đề ra 6 quan điểm, 5 nhiệm vụ của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đại hội IX, X đã cụ thể và bổ sung một số nội dung mới, trong đó coi nhiệm vụ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu. Do vậy, nhiệm vụ huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước cho phát triển nông nghiệp, nông thôn hết sức quan trọng. Đối với thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tại Đại hội X đã đề cập một cách triệt để và toàn diện, đó là tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài, mở rộng lĩnh vực, địa bàn và hình thức thu hút FDI, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về số lượng và chất lượng nguồn vốn FDI; tranh thủ nguồn vốn ODA đi đôi với việc đẩy nhanh tốc độ giải ngân, nâng cao hiệu quả sử dụng và có kế hoạch đảm bảo trả nợ. Quan điểm này đốc thúc Nhà nước phải nhanh chóng cải thiện môi trường đầu tư trong nước nhằm thu hút tối đa vốn đầu tư nước ngoài để phát triển nông nghiệp. Đối với thu hút vốn đầu tư trong nước, cần khơi dậy mọi nguồn nội lực cho phát triển nông nghiệp, đặc biệt huy động nguồn lực to lớn từ khu vực tư nhân. Trước năm 1979, với quan điểm xây dựng nền kinh tế XHCN dựa trên công hữu thuần khiết. Đảng ta không thừa nhận kinh tế tư nhân là lực lượng cấu thành của nền kinh tế mà là đối tượng cần cải tạo để chuyển thành công hữu. Chỉ đến Hội nghị Trung ương 6 (khóa IV) Đảng ta mới lần đầu tiên đưa ra quan điểm thừa nhận và cho phép đầu tư tư nhân trong nước tồn tại và phát triển. Từ đó đến Đại hội X, quan điểm khuyến khích đầu tư tư nhân trong nước đạt tới mức độ cao khi Đảng ta chính thức cho phép đảng viên được làm kinh tế tư nhân. Sự cho phép này có ý nghĩa quan trọng cho giới doanh nhân Việt Nam trong lĩnh vực đầu tư phát triển nói chung và đầu tư phát triển nông nghiệp nói riêng. 1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp Một là, tiềm năng, lợi thế về vị trí địa lý, nguồn tài nguyên, nguồn lao động. Đối với một quốc gia nói chung, vị trí địa lý, nguồn tài nguyên khoáng sản và nguồn lực lao động đều có tác động to lớn đến vốn đầu tư. Thực tế cho thấy những nước có đầy đủ tiềm năng như vị trí địa lý thuận lợi cho hoạt động sản xuất - kinh doanh, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng, lao động chất lượng cao, được đào tạo cơ bản về kỹ năng, trình độ thì thu hút vốn đầu tư sẽ thuận lợi hơn các nước có ít hoặc không có các tiềm năng và lợi thế nói trên. Vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên, nguồn lao động có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả sản xuất - kinh doanh. Vị trí địa lý thuận lợi khiến cho việc giao lưu các luồng hàng hóa giữa các vùng, miền trong nước và các nước trên thế giới diễn ra dễ dàng, đồng thời với sự lưu chuyển hàng hóa là lưu chuyển công cụ, máy móc, công nghệ hiện đại... Tài nguyên thiên nhiên phong phú, nguồn lao động dồi dào giúp giảm chi phí tối đa cho các hoạt động sản xuất, nâng cao lợi nhuận kinh doanh, đó là những điều kiện quan trọng tạo sức hấp dẫn thu hút vốn đầu tư. Đặc biệt đối với việc thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp - ngành chịu chi phối không ít bởi điều kiện tự nhiên và yêu cầu số lượng nhân công lớn, các yếu tố kể trên càng có tác động mạnh mẽ hơn. Nước ta có một vị trí địa lý rất thuận lợi trong hoạt động kinh doanh. Việt Nam nằm trong khu vực châu á - Thái Bình Dương, là một trong những khu vực phát triển năng động trong khu vực, trên các tuyến giao thông quốc tế quan trọng, có nhiều cửa ngõ thông ra biển, là điều kiện rất tốt cho hoạt động ngoại thương phát triển. Bên cạnh đó, nước ta có nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú và đa dạng, được phân bố đều khắp trên lãnh thổ quốc gia. Mặt khác, nguồn lao động nước ta dồi dào, tỷ lệ lao động trong độ tuổi lao động lớn cũng là những yếu tố tạo nên sức hấp dẫn để các nhà đầu tư trong và ngoài nước bỏ vốn vào kinh doanh. Đội ngũ cán bộ quản lý hành chính cũng tác động trực tiếp đến kết quả thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp. Bởi chính họ là những người trực tiếp xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, cơ chế quản lý đầu tư. Vì vậy, để việc thu hút vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp đạt kết quả cao thì đội ngũ cán bộ này phải được đào tạo để có đủ năng lực đáp ứng được yêu cầu công việc trong lĩnh vực mình phụ trách. Hai là, năng lực vốn nội tại của địa phương. Một yếu tố không kém phần quan trọng ảnh hưởng đến thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp là năng lực vốn nội tại của địa phương. Vốn đầu tư được huy động tại địa phương bao gồm 3 nguồn chính: vốn nhà nước, vốn của các doanh nghiệp, vốn trong dân. Nguồn vốn nước ngoài có vai trò rất lớn trong phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia, song đó chỉ là nguồn vốn bổ sung. Bởi vì suy cho cùng, vốn đầu tư nước ngoài là một khoản nợ, bao giờ cũng đi kèm với các ràng buộc về kinh tế, chính trị hoặc bị giám sát, quản lý. Nguồn vốn được huy động từ năng lực nội tại của địa phương là nguồn chính đóng góp vào tổng vốn đầu tư của nền kinh tế. Việt Nam trong những năm gần đây đã có sự phát triển vượt bậc về mọi mặt, nhưng do xuất phát điểm của nền kinh tế thấp, mức tích lũy từ nội bộ nền kinh tế còn ít, dẫn đến nguồn vốn có được từ năng lực nội tại của địa phương chưa thể chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn phát triển. Tuy nhiên, theo xu hướng phát triển chung của đất nước, nguồn ngân sách nhà nước đang tiếp tục được mở rộng, tích lũy của doanh nghiệp, của tầng lớp dân cư có chiều hướng tăng tích cực. Ba là, sự hấp dẫn của môi trường đầu tư. Môi trường đầu tư là tập hợp những yếu tố đặc thù địa phương đang định hình cho các cơ hội và động lực để doanh nghiệp đầu tư có hiệu quả, tạo việc làm và mở rộng sản xuất. Đây là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên sức hút đầu tư của các quốc gia. Các nhà đầu tư trước khi bỏ vốn vào một thị trường nào đó, bao giờ họ cũng quan tâm đến các chính sách đầu tư, môi trường pháp lý, môi trường chính trị, môi trường tâm lý xã hội, thủ tục hành chính, thực trạng kết cấu hạ tầng, thị trường… những nhân tố cấu thành nên môi trường đầu tư. Muốn tạo nên môi trường đầu tư hấp dẫn, không thể bỏ qua vai trò hoạch định các chính sách mang tầm vĩ mô của Nhà nước. Chính sách thu hút vốn đầu tư là một bộ phận cấu thành của chính sách tài chính quốc gia, gắn liền với chính sách tài chính - tiền tệ của Nhà nước, có mục tiêu cơ bản là thu hút tối đa các nguồn vốn trong và ngoài nước phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Chính sách đầu tư tạo điều kiện gia tăng khả năng cạnh tranh của quốc gia trên thị trường thế giới và cải thiện điều kiện thương mại quốc tế của các quốc gia, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. Mặt khác, chính sách đầu tư tốt sẽ tạo điều kiện thuận lợi để thu hút và sử dụng vốn đầu tư, công nghệ nước ngoài vào quá trình công nghiệp hóa; đồng thời, nâng cao được kinh nghiệm quản lý cho các nhà hoạch định chính sách và các nhà đầu tư trong hoạt động đầu tư. Môi trường pháp lý, môi trường tâm lý xã hội, tình hình chính trị ổn định... tạo tâm lý an toàn cho các nhà đầu tư khi bỏ vốn vào một thị trường mới. Thủ tục hành chính nhanh chóng, đơn giản, kết cấu hạ tầng tương đối tốt giúp các nhà đầu tư tiết kiệm thời gian và chi phí, tăng lợi nhuận kinh doanh. Thị trường tiêu thụ dồi dào tạo sự yên tâm cho các nhà đầu tư về đầu ra các sản phẩm, do đó cũng là một yếu tố không kém phần quan trọng làm tăng sức hấp dẫn của môi trường đầu tư. Cùng với quá trình đổi mới kinh tế, chính sách thu hút vốn đầu tư của nước ta trong những năm qua đã góp phần tích cực vào việc ổn định và phát triển kinh tế, tạo môi trường đầu tư tốt nhằm kêu gọi đầu tư nước ngoài. Tuy còn nhiều hạn chế, song những năm gần đây, đặc biệt sau khi Việt Nam gia nhập WTO cùng với một loạt thay đổi trong chính sách quản lý, cải cách thủ tục hành chính, hoàn thiện hệ thống pháp luật… môi trường đầu tư nước ta có những chuyển biến rõ rệt, tạo thêm niềm tin cho các nhà đầu tư. Môi trường pháp lý cho kinh doanh đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng, hệ thống thủ tục hành chính ngày càng đơn giản, gọn nhẹ, cơ sở hạ tầng đang từng bước được cải thiện, thị trường tiêu thụ dồi dào cùng với sự ổn định về chính trị, Việt Nam đang là điểm đến an toàn, lý tưởng cho các nhà đầu tư. Bốn là, bối cảnh quốc tế. Đặc trưng của bối cảnh quốc tế hiện nay tác động trực tiếp đến sự phát triển và khả năng thu hút vốn đầu tư của các quốc gia trên thế giới. Quá trình toàn cầu hóa, sự bùng nổ của công nghệ thông tin, các chính sách mở cửa được áp dụng rộng rãi ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, quá trình điều chỉnh cơ cấu thương mại và đầu tư của các thành viên WTO theo hướng tự do hóa, phi thuế quan... sẽ là động lực cho sự phát triển, gia tăng tốc độ lưu chuyển hàng hóa, dịch vụ và các luồng vốn trên thế giới. Đây là cơ hội cho các quốc gia tận dụng nguồn vốn từ bên ngoài bổ sung nguồn vốn tự có để phát triển kinh tế, xã hội. Tuy nhiên, sự cạnh tranh ngày càng gay gắt là thách thức lớn mà các quốc gia hiện nay đang gặp phải trong quá trình thu hút vốn đầu tư. Bối cảnh quốc tế cũng tác động không nhỏ đến kết quả thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Trong thời kỳ hội nhập kinh tế toàn cầu, là thành viên của tổ chức Thương mại thế giới WTO, nước ta có nhiều thời cơ nhưng cũng không ít thách thức. Quan hệ song phương, đa phương giữa các quốc gia ngày càng sâu rộng, các công ty xuyên quốc gia tiếp tục cấu trúc lại, hình thành các tập đoàn khổng lồ chi phối nhiều lĩnh vực kinh tế. Toàn cầu hóa kinh tế dẫn đến xu hướng ngày càng nhiều các nhà đầu tư muốn tìm kiếm lợi nhuận ở nước ngoài. Đây là cơ hội tốt để Việt Nam tranh thủ thu hút nguồn vốn nước ngoài bổ sung cho nguồn vốn trong nước còn rất hạn hẹp. Đi kèm với vận hội là những thách thức Việt Nam gặp phải trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Một trong những thách thức đó là sự cạnh tranh gay gắt của các quốc gia lớn mạnh có nhiều kinh nghiệm trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài như Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia… Do vậy, trong thời gian tới, nước ta cần có những biện pháp hiệu quả hơn nữa trong việc tạo lập, cải thiện môi trường đầu tư, học hỏi kinh nghiệm các nước khác để nâng cao khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài cho phát triển công nghiệp. 1.2.3. Tác động của quản lý nhà nước cấp tỉnh đối với việc thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp trên địa bàn Quản lý nhà nước cấp tỉnh có thể tác động đến việc thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp trên địa bàn trên các phương diện sau: Một là, thông qua việc hoạch định chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển nông nghiệp. Việc thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp chịu sự tác động và chi phối của việc hoạch định chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển nông nghiệp. Mục tiêu của việc hoạch định chiến lược là đạt tới các mục tiêu nhất định và tìm ra hướng đi tối ưu cho quá trình phát triển đó. Chiến lược bao giờ cũng được xây dựng trên cơ sở tiềm năng và lợi thế của địa phương cho phù hợp với thực tiễn của đất nước và xu hướng phát triển của khu vực. Việc xác định đúng đắn chiến lược phát triển cho phép khai thác, phân bổ và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài đảm bảo cho sự phát triển nhanh và bền vững của một địa phương, một quốc gia. Quy hoạch là một công cụ quản lý và phát triển đất nước, vùng, ngành, là cầu nối giữa chiến lược với kế hoạch và quản lý việc thực hiện chiến lược trong thực tế. Nó cụ thể hóa mục tiêu và giải pháp của chiến lược. Quy hoạch thể hiện tầm nhìn, bố trí chiến lược về thời gian và không gian, lãnh thổ để chủ động hướng tới mục tiêu, đạt hiệu quả cao, phát triển nhanh và bền vững. Quy hoạch phát triển nông nghiệp làm cơ sở cho các kế hoạch, chương trình và các dự án đầu tư phát triển của các chủ thể kinh tế; đặc biệt là làm căn cứ cho việc hoạch định, ban hành cơ chế chính sách thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp. Hai là, thông qua việc ban hành cơ chế, chính sách thuộc thẩm quyền để thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp. Cơ chế chính sách là một trong những nhân tố tác động trực tiếp đến quá trình khai thác, phân bổ và sử dụng các nguồn lực để tạo nên sự tăng trưởng và phát triển của một quốc gia, vùng, địa phương. Xét ở góc độ thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp thì chính sách đầu tư là chính sách tác động trực tiếp đến việc huy động nội lực và thu hút ngoại lực để bổ sung cho các nguồn lực còn thiếu cho phát triển nông nghiệp. Thực tiễn đã chứng minh rằng: Sự phát triển nông nghiệp phụ thuộc vào chính sách đầu tư nhiều hơn là vào bản thân các nguồn lực. Chính sách đầu tư đúng đắn và phát huy hiệu quả có những tác dụng sau: đảm bảo khả năng khai thác các nguồn lực; tạo điều kiện gia tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường; đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung, cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp nói riêng; làm tăng nguồn vốn đầu tư vào quá trình phát triển nông nghiệp. Ba là, xác định cơ cấu vốn đầu tư và lĩnh vực ưu tiên thu hút vốn đầu tư. Cơ cấu đầu tư là cơ cấu các yếu tố cấu thành đầu tư như cơ cấu về vốn, nguồn vốn, cơ cấu huy động và sử dụng vốn... chúng quan hệ hữu cơ, tương tác qua lại giữa các bộ phận trong không gian và thời gian, vận động theo hướng hình thành một cơ cấu hợp lý để tạo ra những tiềm lực lớn hơn về mọi mặt kinh tế - xã hội. Cơ cấu đầu tư phát triển nông nghiệp là cơ cấu thực hiện đầu tư cho từng tiểu ngành trong nông nghiệp, thể hiện việc thực hiện chính sách ưu tiên phát triển, chính sách đầu tư đối với từng tiểu ngành trong một thời kỳ nhất định. Cơ cấu đầu tư luôn thay đổi trong từng giai đoạn phù hợp với sự phát triển nông nghiệp. Nó chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố, có nhân tố nội tại, có nhân tố tác động từ bên ngoài, có những nhân tố tích cực thúc đẩy phát triển, song cũng có nhân tố kìm hãm, hạn chế sự phát triển. Sự thay đổi của cơ cấu đầu tư từ mức độ này sang mức độ khác phù hợp với môi trường và mục tiêu phát triển gọi là chuyển dịch cơ cấu đầu tư. Sự thay đổi không chỉ bao gồm thay đổi về vị trí ưu tiên mà còn là sự thay đổi về chất trong nội bộ cơ cấu và các chính sách áp dụng. Thực chất, chuyển dịch cơ cấu đầu tư phát triển nông nghiệp là điều chỉnh cơ cấu vốn, nguồn vốn đầu tư, điều chỉnh cơ cấu thu hút và sử dụng các nguồn vốn phù hợp với mục tiêu phát triển nông nghiệp trong từng thời kỳ. Cơ cấu đầu tư phát triển nông nghiệp được xem xét theo hai lĩnh vực: sản xuất nông nghiệp và kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn. Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp phải đi trước một bước, nhưng cần có tỷ lệ hợp lý vì nếu quá tập trung đầu tư cho lĩnh vực này mà không chú ý đúng mức cho đầu tư sản xuất nông nghiệp thì sẽ không có tăng trưởng. Do vậy, Nhà nước cấp tỉnh cần phải cân đối các nguồn vốn để ưu tiên đầu tư thích đáng cho phát triển nông, lâm nghiệp và thủy sản và điều chỉnh cơ cấu đầu tư hợp lý, hài hũa giữa sản xuất nông nghiệp và xây dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn. Đối với lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, cần chỳ trọng phỏt triển nụng nghiệp hàng húa, hỡnh thành cỏc vựng nụng nghiệp sạch, cụng nghệ cao, chăn nuôi đại gia súc, phát triển nuôi trồng thủy sản bền vững gắn với bảo vệ môi trường; ưu tiêu thu hút đầu tư các dự án sản xuất nông nghiệp có sử dụng công nghệ sinh học, dự án bảo quản, chế biến nông sản sau thu hoạch, sản xuất giống chất lượng cao. Đối với xây dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp, cần tập trung ưu tiên đầu tư các công trỡnh thủy lợi, đê điều, cảng cá, khu neo đậu tránh bóo để nâng cao năng lực tưới, tiêu và phũng chống bóo lụt; xõy dựng hạ tầng nuụi trồng thủy sản. Bốn là, gắn kết giữa thu hút và sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả. Thu hút và sử dụng vốn đầu tư phát triển nông nghiệp luôn gắn kết mật thiết với nhau. Lượng vốn thu hút được đóng vai trò quyết định trong việc đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn đầu tư; ngược lại, nhu cầu sử dụng vốn là căn cứ để xác định tổng mức vốn đầu tư cần huy động. Vốn đầu tư được sử dụng hiệu quả dẫn đến tăng thu nhập, tăng tích lũy của nền kinh tế và khi đó quy mô các nguồn vốn trong nước có thể thu hút sẽ được cải thiện. Đồng thời, vốn đầu tư được sử dụng có hiệu quả thì cũng làm tăng khả năng thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài cho phát triển nông nghiệp. Để thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn đầu tư phát triển nông nghiệp, với chức năng và nhiệm vụ của mình, các cấp, các ngành cần thực hiện các nguyên tắc sau: - Đảm bảo cân đối giữa thu hút và sử dụng vốn: Nếu lượng vốn thu hút vượt quá nhu cầu sử dụng sẽ gây lãng phí và tốn kém. Ngược lại, lượng vốn thu hút quá ít không đủ đáp ứng nhu cầu sử dụng sẽ không đảm bảo tốc độ tăng trưởng. Do vậy, vấn đề quan trọng trong đầu tư phát triển nông nghiệp là phải đảm bảo sự cân đối giữa thu hút và sử dụng vốn thông qua công cụ kế hoạch hóa. Kế hoạch vốn đầu tư phát triển gồm 2 phần: Vốn huy động và vốn sử dụng hàng năm và 5 năm. - Chuyển hóa nhanh chóng, kịp thời vốn thu hút thành vốn đầu tư phát triển nông nghiệp: Vốn thu hút cần được chuyển hóa nhanh chóng thành vốn đầu tư để tạo ra giá trị gia tăng trong nông nghiệp. Để điều tiết quá trình này, Nhà nước cần sử dụng các công cụ như: lãi suất, thuế, quy chế đầu tư, cơ chế thanh toán, cấp phát vốn đầu tư,... - Hình thức thu hút vốn phải gắn với mục đích sử dụng vốn: Giá của vốn là lãi suất nên khi đầu tư phải đảm bảo tỷ suất lợi nhuận trên vốn tối thiểu bằng lãi suất thực vay. Do đó, khi lĩnh vực đầu tư có lợi nhuận thấp thì cần thu hút nguồn vốn có lãi suất thấp và ngược lại. Mỗi loại dự án cần chọn ít nhất một hình thức thu hút vốn tối ưu. Đối với ngành nông nghiệp, có các loại dự án với các hình thức thu hút vốn đầu tư phù hợp sau: Đầu tư kết cấu hạ tầng nông nghiệp (trạm, trại, thủy lợi, nước sạch, đê điều, hạ tầng nuôi trồng thủy sản, cảng cá, khu neo đậu tránh trú bão,...) thường sử dụng các hình thức huy động từ vốn ngân sách nhà nước, ODA, trái phiếu chính phủ, NGO. Sản xuất nông nghiệp (sản xuất lương thực, trồng rừng, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, sản xuất giống,...) sử dụng vốn tự có của nông dân và vay tín dụng thương mại. Năm là, tạo lập môi trường đầu tư thuận lợi. Bằng quyền lực và sức mạnh tổ chức của mình, các cơ quan nhà nước cấp tỉnh đảm bảo một môi trường đầu tư thuận lợi, bao gồm môi trường pháp lý, môi trường tâm lý xã hội, tình hình chính trị, thủ tục hành chính, kết cấu hạ tầng,... Đây là những điều kiện cần thiết để nhà đầu tư yên tâm đầu tư sản xuất - kinh doanh, góp phần phát triển nông nghiệp của địa phương. Với vai trò như một ‘’bà đỡ’’ giúp các đơn vị sản xuất - kinh doanh phát triển, các cơ quan quản lý nhà nước phải đảm bảo các điều kiện tự do, bình đẳng trong sản xuất - kinh doanh. Muốn tạo lập môi trường đầu tư thuận lợi, cần phải có bàn tay của cơ quan quản lý nhà nước các cấp. Đối với chính quyền cấp tỉnh, trước hết cần nâng cao chất lượng công tác quy hoạch ngành, sản phẩm nông nghiệp chủ yếu; tạo lập môi trường pháp lý (trong phạm vi thẩm quyền), môi trường tâm lý xã hội thuận lợi, đảm bảo tình hình chính trị, xã hội trên địa bàn ổn định, an toàn để các nhà đầu tư yên tâm khi bỏ vốn vào một thị trường mới; cải cách thủ tục hành chính theo hướng nhanh chóng, đơn giản; xây dựng kết cấu hạ tầng phù hợp để các nhà đầu tư tiết kiệm thời gian và chi phí, tăng lợi nhuận kinh doanh. Sáu là, xúc tiến đầu tư. Xúc tiến đầu tư là tổng thể các biện pháp mà một địa phương áp dụng nhằm thu hút các nguồn vốn đầu tư phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội nhất định ở địa phương mình. Bao gồm các biện pháp chủ yếu như: Xây dựng chiến lược, chương trình hành động nhằm thu hút các nguồn vốn đầu tư; cung cấp, phổ biển thông tin, xây dựng hình ảnh; tạo cơ hội, xây dựng các quan hệ đối tác; cung cấp các dịch vụ cho nhà đầu tư. Hoạt động xúc tiến đầu tư có vai trò quan trọng trong việc đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước cho phát triển kinh tế. Để xúc tiến đầu tư có hiệu quả, các cơ quan quản lý nhà nước cấp tỉnh cần phải có cơ chế, chính sách thu hút đầu tư phát triển nông nghiệp thông thoáng, minh bạch; kịp thời điều chỉnh, bổ sung và ban hành danh mục dự án gọi vốn đầu tư phù hợp với tình hình thực tế; tích cực tuyên truyền, tiếp thị, quảng bá hình ảnh và cơ hội đầu tư phát triển nông nghiệp ở địa phương; tổ chức, tham gia các hội nghị, hội thảo xúc tiến, vận động đầu tư; tổ chức đào tạo, nâng cao nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư. 1.3. Kinh nghiệm của một số địa phương trong nước và một số nước trong khu vực về thu hút vốn đầu tư Phát triển nông nghiệp Việc nghiên cứu những kinh nghiệm về thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp ở một số địa phương và một số nước trong khu vực có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc đề ra các giải pháp để thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp của tỉnh Thanh Hóa hiện nay. 1.3.1. Kinh nghiệm của một số nước trong khu vực * Kinh nghiệm của Trung Quốc: Là một nước có quy mô dân số lớn nhất trên thế giới và đang trong quá trỡnh phát triển. Do vậy, Trung Quốc rất quan tâm đến phát triển kinh tế nông nghiệp. Trước cải cách, Trung Quốc là một nước có nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu kém phát triển, sản xuất không đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước, nhưng gần 30 năm sau Trung Quốc đó đạt nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế nông nghiệp, không chỉ đáp ứng cho các nhu cầu tiêu dùng và chế biến trong nước, nông sản của Trung Quốc đó tràn ngập trờn cỏc thị trường thế giới. Có được kết quả khả quan đó, một trong những lý do quan trọng là Trung Quốc đó quan tõm đến việc xây dựng và thực hiện thành công chính sách thu hút vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp. Cụ thể là: - Mở rộng địa bàn thu hút vốn và tạo môi trường kinh doanh thuận lợi: Là một quốc gia rộng lớn, mọi vùng đều thiếu vốn đầu tư, Trung Quốc không thể cùng một lúc mở cửa mọi miền. Các khu vực ven biển nói chung có nhiều thuận lợi hơn về giao thông, cơ sở hạ tầng… nên được chọn mở trước, trong đó các tỉnh Quảng Đông và Phúc Kiều giàu có tiềm năng được chọn là nơi để Trung Quốc thành lập các đặc khu kinh tế. Từ các đặc khu này, Trung Quốc mở rộng thành tuyến mở cửa với 14 thành phố mở ven biển, sau đó mở cửa cả khu vực đồng bằng và châu thổ các con sông, tạo thành cục diện mở cửa từ Nam đến Bắc, từ Đông sang Tây. Đồng thời với việc mở rộng địa bàn thu hút đầu tư, Trung Quốc còn áp dụng nhiều chính sách tạo dựng môi trường đầu tư thuận lợi như: dùng vốn vay kết hợp huy động các nguồn lực trong nước xây dựng, cải tạo kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn và cấp tín dụng cho sản xuất nụng nghiệp nhất là về thủy lợi và quản lý nhà nước. Bên cạnh đó, Trung Quốc rất coi trọng việc hoàn thiện môi trường pháp lý để tiếp nhận FDI. - Các chính sách ưu đãi đầu tư: Để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, Trung Quốc đã áp dụng nhiều chính sách ưu đãi, đặc biệt là về thuế. Trong thời kỳ đầu mở cửa, các cơ sở mới thành lập với thời gian liên doanh trên 10 năm được hưởng chế độ miễn thuế thu nhập trong một năm đầu làm ra lãi và được giảm 50% thuế thu nhập trong 2 năm tiếp theo, trong khi các doanh nghiệp nội địa vẫn phải chịu mức thuế là 33% trên tổng lợi nhuận. Về sau, thời gian miễn thuế và giảm thuế tăng lên là 2 năm miễn thuế và 3 năm giảm thuế. Nhờ vậy, gần 2 thập kỷ qua Trung Quốc đã thu hút được gần 700 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài. Gần đây, theo luật thuế mới để tạo sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp, các công ty nước ngoài sẽ chịu mức thuế suất ngang bằng với các công ty nội địa. Tuy nhiên, chi phí nhân công rẻ và thị trường tiêu thụ 1,3 triệu dân vẫn là sức hút tiềm ẩn kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài đến Trung Quốc trong thời gian tới. - Đa dạng hóa các hình thức đầu tư và chủ đầu tư: Cho đến nay ở Trung Quốc vẫn có 3 hình thức chính, đó là: doanh nghiệp chung vốn kinh doanh, doanh nghiệp hợp tác kinh doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Bên cạnh các hình thức trên, Trung Quốc còn chủ động khuyến khích các loại hình đầu tư khác thông qua các luồng lưu thông vốn quốc tế như: gây quỹ đầu tư, quỹ bảo hiểm, các hình thức mua bán chứng khoán, lưu thông vốn cổ phần… những hình thức này gián tiếp làm tăng vốn đầu tư cho quốc gia này. Trung Quốc tiếp tục đưa ra những quy định khuyến khích, mời gọi đầu tư của các Hoa Kiều ở Hồng Kông, Đài Loan, Ma Cao và khu vực Đông Nam á. Đây là nguồn vốn khổng lồ, đầy tiềm năng góp phần đáng kể trong những thành công về phát triển kinh tế Trung Quốc trong thời gian qua. * Kinh nghiệm của các nước NICs: - Nâng cao tỷ lệ tiết kiệm, tăng nguồn vốn đầu tư: Các nước NICs sử dụng các biện pháp khuyến khích thu hút vốn đầu tư cho sản xuất chủ yếu từ tiết kiệm. Đài Loan đã thực hiện chính sách lãi suất thực dương, trước năm 1962 lãi suất tiết kiệm thực tế của Đài Loan luôn ở mức trên 10%. Do vậy, vốn huy động thông qua huy động tiền gửi ngày càng tăng, dẫn đến số vốn tích lũy từ nước ngoài có xu hướng giảm xuống. Trước khi nền kinh tế cất cánh, vốn nước ngoài chiếm khoảng 40%, đến năm 1965 giảm xuống còn 16,8%, đến năm 1970 còn 5%; từ năm 1971 đến thập kỷ 80 vận động theo chiều ngược lại, xuất vốn ra nước ngoài. Đây là bài học quan trọng để khắc phục khó khăn về vốn trong quá trình cất cánh của Đài Loan. Ngoài ra, các nước NICs cũng luôn chú trọng đến nâng cao tỷ lệ tiết kiệm thông qua cắt giảm chi tiêu công. Từ năm 1970 - 1988, chi tiêu công của các nước này luôn ở mức dưới 15% GDP, thấp hơn nhiều so với các nước khác. - Hình thành chính sách thuế hấp dẫn cho đầu tư và khuyến khích xuất khẩu: Từ năm 1970, thuế nhập khẩu vào Đài Loan đã giảm dần, đặc biệt các yếu tố đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu. Thực hiện chế độ tín dụng, thuế đặc biệt cho các ngành được Chính phủ coi là chiến lược. - Thực hiện chính sách khuyến khích thúc đẩy đầu tư của khu vực tư nhân: Ngay từ năm 1973, Hàn Quốc đã thành lập quỹ đầu tư quốc gia với nguồn vốn được đóng góp từ các tổ chức tài chính tư nhân để hỗ trợ đầu tư, ưu đãi dài hạn cho các ngành then chốt. Chính phủ cũng quan tâm đến phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua chính sách ưu tiên vay vốn ngân hàng. Đài Loan cũng thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng để hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. - Thu hút và sử dụng vốn vay nước ngoài có hiệu quả để đảm bảo khả năng trả nợ: Hàn Quốc phụ thuộc nhiều vào các nguồn lực bên ngoài để phát triển, là một trong những quốc gia vay nợ nhiều nhất trên thị trường tài chính quốc tế (đến năm 2000, nợ nước ngoài là 142 tỷ USD), đứng thứ 3 ở Châu á và thứ 6 trên thế giới, trong khi lượng vốn đầu tư nước ngoài thu hút được là khá nhỏ so với các nền kinh tế khác trong khu vực. Mặc dù vậy, Hàn Quốc không bị sa lầy do nợ nước ngoài như một số nước khác, mà trở thành một nước điển hình trên thế giới vay nợ nước ngoài nhiều nhưng lại thành công trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế. Hiện nay, nhờ kinh tế lớn mạnh mà Hàn Quốc đã giành được uy tín tốt đẹp trên thị trường tiền tệ quốc tế, do vậy ngày càng được hưởng nhiều sự ưu tiên vay vốn và củng cố thêm chiến lược vay nợ nước ngoài để phát triển kinh tế. Đạt được kết quả trên là do Chính phủ biết cách sử dụng vốn nước ngoài vào việc hoàn chỉnh kết cấu hạ tầng, mua thiết bị kỹ thuật phát triển doanh nghiệp trong nước, thành lập bộ máy quản lý vốn quản lý chặt chẽ dự án đầu tư khi sử dụng vốn vay nước ngoài và sử dụng nguồn vốn này để đầu tư vào những nơi phát huy hiệu quả kinh tế lớn nhất. - ổn định tỷ giá và phát triển thị trường tài chính để tạo ra động lực thúc đẩy xuất khẩu và thúc đẩy quá trình luân chuyển vốn: Đài Loan và Hàn Quốc đều áp dụng tỷ giá đồng đô la hoàn toàn thả nổi theo quan hệ cung cầu để đáp ứng nhu cầu vốn và nhu cầu thương mại quốc tế. Các nước NICs đã tập trung vào 2 vấn đề chính: Thứ nhất, nhà nước dần dần chú trọng việc thành lập và nâng cấp các thị trường trái phiếu, cổ phiếu để thu hút và phân bổ các nguồn vốn trong nền kinh tế cho đầu tư phát triển. Thứ hai, thành lập các ngân hàng phát triển để giảm bớt căng thẳng về nhu cầu vốn dài hạn và là thể chế chuyên cung cấp vốn cho khu vực nông nghiệp, các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 1.3.2. Kinh nghiệm của một số địa phương trong nước  Kinh nghiệm của tỉnh Vĩnh Phúc: - Về tiền thuê đất: Các dự án đầu tư vào lĩnh vực sản xuất tại địa bàn huyện Lập Thạch và các xã miền núi của các huyện Tam Dương, Mê Linh, Bình Xuyên được miễn tiền thuê đất thêm 8 năm; các dự án đầu tư vào lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, thực phẩm sử dụng trên 30% nguồn nguyên liệu tại Vĩnh Phú được miễn 100% tiền thuê đất. - Hỗ trợ tiền đền bù, giải phóng mặt bằng: Dự án sử dụng công nghệ cao, có vốn đầu tư từ 10 tỷ đồng trở lên và sử dụng từ 50 lao động trở lên được hỗ trợ 10% tiền đền bù giải phóng mặt bằng; Các dự án chế biến nông sản thực phẩm sử dụng trên 30% nguồn nguyên liệu của tỉnh Vĩnh Phú và sử dụng từ 50 lao động trở lên được hỗ trợ 15% tiền đền bù giải phóng mặt bằng; đầu tư sản xuất ở huyện Lập Thạch, các xã miền núi của huyện Tam Dương, Bình Xuyên được hỗ trợ 100% tiền đền bù giải phóng mặt bằng. - Hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng: Dự án đầu tư vào các địa bàn ngoài khu công nghiệp theo yêu cầu của tỉnh gắn với vùng nguyên liệu được hỗ trợ 30% kinh phí xây dựng đường giao thông, đường cấp nước ngoài hàng rào khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt dự toán.  Kinh nghiệm của tỉnh Đồng Nai Đồng Nai là một trong những điển hình thu hút vốn đầu tư nước ngoài thành công nhất trong cả nước. Sau năm 1986, nhờ thu hút hiệu quả các nguồn vốn đầu tư nước ngoài đặc biệt là thu hút FDI, bộ mặt kinh tế - xã hội của tỉnh Đồng Nai đã hoàn toàn thay đổi. Trong suốt 20 năm kể từ tháng 12/1987 khi Quốc hội thông qua Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đến nay, Đồng Nai luôn ổn định với vị trí thứ 3 về thu hút vốn đầu tư nước ngoài sau thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Tính đến cuối năm 2007, tổng số giấy phép còn hiệu lực của tỉnh là 884 dự án, với vốn đăng ký 11,6 tỷ USD, tổng vốn đã thực hiện khoảng 6,5 tỷ USD, đạt 55,7% tổng vốn đăng ký. Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Đồng Nai là bài học quý báu cho các địa phương khác trong cả nước, đặc biệt là Thanh Hóa. Thành công của tỉnh Đồng Nai được đúc kết thành những kinh nghiệm về thu hút vốn đầu tư nước ngoài như sau: - Sự năng động và sáng tạo của chính quyền tỉnh Đồng Nai Đây là yếu tố quan trọng quyết định đến khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài của tỉnh. Ngay từ những năm 1989 - 1990, trong khi cơ chế chính sách cả nước chưa thực sự mở cửa, tỉnh Đồng Nai đã cử đoàn cấp cao do Bí thư Tỉnh ủy dẫn đầu đi nghiên cứu khu công nghiệp ở Đài Loan. Đây được coi là bước đi tiên phong, làm cơ sở cho việc thu hút mạnh đầu tư nước ngoài từ năm 1991 cho đến nay. Từ năm 1988, khi chưa có cơ chế chính sách về khu công nghiệp, tỉnh đã quy hoạch các khu công nghiệp tập trung đáp ứng nhu cầu bố trí dự án đầu tư và đã thu hút được các dự án vào các khu công nghiệp. Đảng, chính quyền, đoàn thể và nhân dân đồng tâm nhất trí tìm các biện pháp hợp lý nhất để thu hút vốn FDI trong khuôn khổ quy định của pháp luật. Trong công tác quản lý nhà nước, các cơ quan đã thực hiện thành công quy chế quản lý một cửa, điển hình là năm 2003 đã lập kỷ lục về thời gian cấp phép cho DN nước ngoài (Công ty Mainetti Vietnam 100% vốn Singapore) chỉ mất 3 giờ để được vào khu công nghiệp Amata. - Phát huy tối đa nội lực trong tỉnh Tỉnh luôn xác định quan điểm cần huy động tối đa các nguồn nội lực cho đầu tư phát triển song hành với thu hút FDI. Tích cực huy động các nguồn vốn trong xã hội để đầu tư cải thiện kết cấu hạ tầng phục vụ trực tiếp và gián tiếp cho các nhà đầu tư. Trong giai đoạn 2000 - 2003, Đồng Nai đã thu hút khoảng 2.580 DN đầu tư trong nước với vốn đăng ký 8.000 tỷ đồng. - Chú trọng công tác xúc tiến đầu tư Tỉnh đã cho phép công ty phát triển cơ sở hạ tầng đàm phán thỏa thuận với nhà đầu tư ứng trước phí sử dụng hạ tầng, nhờ đó đã tạo được nguồn vốn rất quan trọng để xây dựng cơ sở hạ tầng ban đầu của các khu công nghiệp. Tỉnh rất chú trọng công tác xúc tiến đầu tư như: in ấn tài liệu giới thiệu về Đồng Nai, duy trì quan hệ với các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, thường xuyên tiếp xúc gặp gỡ các nhà đầu tư, làm cầu nối giữa các DN và các bộ ngành Trung ương... - Hoàn thiện môi trường đầu tư, chú trọng công tác đào tạo lao động Xây dựng môi trường kinh doanh thuận lợi. Hệ thống giao thông thủy - bộ khá phát triển. Bên cạnh đó, các yếu tố khác như: môi trường pháp lý, chính sách đầu tư... cũng rất thông thoáng, tạo sức hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Chú trọng công tác đào tạo nghề, hướng nghiệp cho người lao động. Người lao động được các trung tâm xúc tiến việc làm bồi dưỡng, phổ biến các quy định của Bộ luật lao động trước khi giới thiệu đến DN tuyển dụng.  Kinh nghiệm của tỉnh Bình Định: Bình Định tổ chức nhiều đoàn công tác gồm lãnh đạo tỉnh và các sở, ban ngành liên quan trực tiếp đến những nước và vùng lãnh thổ có thể thu hút vốn đầu tư vào Bình Định. Tổ chức những chiến dịch xúc tiến đầu tư rầm rộ từ trong Nam ra ngoài Bắc, hỗ trợ doanh nghiệp tham gia hội chợ triển lãm quốc tế, giới thiệu hình ảnh của địa phương ra nước ngoài. 1.3.3. Một số bài học kinh nghiệm đối với tỉnh Thanh Hóa Qua nghiên cứu kinh nghiệm thu hút vốn phát triển kinh tế như trên, có thể rút ra một số bài học về thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp cho Thanh Hóa như sau: Một là, Thanh Hóa về cơ bản là một tỉnh nông nghiệp, do vậy để phát triển kinh tế phải tăng cường thu hút vốn cho phát triển nông nghiệp. Hai là, cần nắm bắt thời cơ, thuận lợi, thấy rõ những khó khăn, thách thức của địa phương để đề ra chủ trương, chính sách đúng đắn, kịp thời, tập trung nguồn lực giải quyết dứt điểm. Công tác chỉ đạo, điều hành phải thông suốt, thống nhất, có nề nếp, kỷ cương trong nội bộ chính quyền, tạo được niềm tin và độ tin cậy đối với nhà đầu tư. Phải luôn hướng về nhà đầu tư và doanh nghiệp để nhanh chóng tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư. Mọi thủ tục hành chính phục vụ cho hoạt động đầu tư phải gọn nhẹ, không làm tăng chi phí, gây phiền hà, sách nhiễu cho nhà đầu tư. Ba là, chính sách khuyến khích đầu tư phát triển nông nghiệp phải rõ ràng, rành mạch, cụ thể, chú ý điều kiện cụ thể ở địa phương và phù hợp với pháp luật. Đặc biệt, cần xác định rõ các nguồn vốn để tập trung thu hút. Để phát triển nông nghiệp, quan trọng nhất là phải khai thác triệt để mọi nguồn vốn trong tỉnh, trên cơ sở thúc đẩy thực hành tiết kiệm triệt để và sử dụng tiết kiệm cho phát triển nông nghiệp; khuyến khích mọi người dân bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất - kinh doanh, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn thông qua việc tạo môi trường sản xuất - kinh doanh thuận lợi bằng cơ chế chính sách; đa dạng hóa các hình thức huy động vốn; Đổi mới việc huy động nguồn vốn của nước ngoài. Theo đó, cần phải kết hợp cả hai hình thức thu hút vốn, vốn đầu tư trực tiếp và vốn đầu tư gián tiếp, trong đó ưu tiên thu hút vốn đầu tư trực tiếp. Thực hiện đa dạng hóa các hình thức đầu tư nhằm giải quyết các mục tiêu chiến lược như thu hút vốn để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, để xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp. Cải thiện môi trường đầu tư tạo sự hấp dẫn cho việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, gồm: hoàn thiện hệ thống chính sách, đơn giản hóa các thủ tục hành chính, nâng cấp cơ sở hạ tầng, bảo vệ quyền lợi người đầu tư, đảm bảo sự bình đẳng trong cạnh tranh, giữ vững ổn định chính trị, kinh tế, xã hội. Vay vốn nước ngoài phải có tính toán đến khả năng trả nợ gốc và lãi, không vay tín dụng thương mại để phát triển. Bốn là, kịp thời điều chỉnh, bổ sung và ban hành danh mục dự án kêu gọi đầu tư phù hợp với tình hình thực tế. Căn cứ mục tiêu, chiến lược, quy hoạch phát triển nông nghiệp đến 2020, thường xuyên điều chỉnh, bổ sung danh mục dự án kêu gọi vốn đầu tư, đồng thời lựa chọn một số dự án trọng điểm trình Thủ tướng Chính phủ đưa vào danh mục quốc gia gọi vốn đầu tư nước ngoài. Năm là, có bộ máy, đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý trong lĩnh vực đầu tư tinh thông về nghiệp vụ, trong sạch về phẩm chất, đạo đức. Vì đây chính là cầu nối quan trọng giữa nhà đầu tư với địa phương, là nguyên nhân của mọi nguyên nhân thành công hay thất bại. Chương 2 Thực trạng thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa 2.1. Khái quát về tình hình phát triển nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa 2.1.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên và xã hội tỉnh Thanh Hóa 2.1.1.1. Vị trí địa lý Tỉnh Thanh Hóa nằm ở cực Bắc Trung Bộ Việt Nam, cách thủ đô Hà Nội 150 km về phía Nam, cách thành phố Hồ Chí Minh 1.560 km. Thanh Hóa nằm trong vùng ảnh hưởng của những tác động từ vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và những tác động của các vùng kinh tế trọng điểm Trung bộ, Nam bộ. Vị trí địa lý của tỉnh có những thuận lợi như sau: - Đường sắt và quốc lộ 1A chạy qua vùng đồng bằng và ven biển tỉnh Thanh Hóa, tạo điều kiện thuận lợi trong giao lưu với các tỉnh và thành phố khác trong nước. Đường chiến lược 15A, đường Hồ Chí Minh xuyên suốt vùng trung du và miền núi trong nội bộ tỉnh và các miền trong cả nước. - Hệ thống sông ngòi của tỉnh Thanh Hóa phân bố khá đều với 4 hệ thống sông chính, 5 cửa lạch thông ra biển và cảng Lễ Môn. Đặc biệt, việc xây dựng cảng nước sâu Nghi Sơn có khả năng tiếp nhận tàu có tải trọng 5 vạn DWT được xem như bước đột phá làm thay đổi các luồng vận tải hàng hóa xuất khẩu trong toàn quốc. - Sân bay Sao Vàng có khả năng mở rộng kết hợp dịch vụ dân dụng và sân bay quốc tế đang được dự kiến mở thêm sát biển phục vụ cho Khu kinh tế Nghi Sơn và khách du lịch. Toàn bộ đặc điểm vị trí địa lý nêu trên trong bối cảnh phát triển dài hạn có tác động hết sức mạnh mẽ đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Thanh Hóa xét trên các mặt: - Tạo ra cơ hội và động lực quan trọng để phát triển trên cơ sở tận dụng mạng lưới kết cấu hạ tầng phát triển, sự hỗ trợ về đào tạo và chuyển giao công nghệ từ các thành phố lớn. - Tạo thuận lợi trong việc tiếp cận các thị trường tiêu thụ lớn, đặc biệt là thị trường tiêu thụ nông sản, thực phẩm, các sản phẩm công nghiệp… Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi đó, Thanh Hóa cũng phải đối mặt với thách thức lớn, đó là sự cạnh tranh mạnh mẽ của các địa phương vốn có nền kinh tế phát triển hơn như Hà Nội, Đà Nẵng… Với những đặc điểm đó, để có thể hội nhập nhanh vào nền kinh tế trong vùng và cả nước, Thanh Hóa phải phát triển nhanh trên cơ sở phát huy cao độ những giá trị truyền thống và tiềm năng sẵn có của tỉnh cùng với sự nỗ lực cao của toàn thể cán bộ và nhân dân trong tỉnh. 2.1.1.2. Tài nguyên thiên nhiên - Tài nguyên đất: Thanh Hóa có diện tích tự nhiên 1.112.033 ha, gồm 10 nhóm đất chính với 28 loại đất khác nhau. Theo số liệu thống kê năm 2007, diện tích đất đã sử dụng của Thanh Hóa là 958.513 ha, chiếm 86,19% diện tích tự nhiên, trong đó đất đã sử dụng vào sản xuất nông nghiệp là 245.367 ha; đất sản xuất lâm nghiệp 553.999 ha; đất nuôi trồng thủy sản 10.157 ha; đất chưa sử dụng 153.520 ha, chiếm 13,81% tổng diện tích đất tự nhiên, với các nhóm đất thích hợp cho phát triển cây lương thực, cây lâm nghiệp, cây công nghiệp và cây ăn quả. Hiện nay, đất nông nghiệp chưa sử dụng còn nhiều. Đây là tiềm năng để phát triển sản xuất nông nghiệp trên cơ sở cải tạo đất và giống để tăng năng suất cây trồng. Khai thác triệt để nguồn tài nguyên này là điều kiện quan trọng để Thanh Hóa phát huy được thế mạnh nông nghiệp, qua đó góp phần tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn. - Tài nguyên rừng: Thanh Hóa là một trong những tỉnh có tài nguyên rừng lớn với diện tích đất có rừng 484.246 ha, trữ lượng khoảng 16,64 triệu m3 gỗ, hàng năm có thể khai thác 50.000 - 60.000 m3. Rừng Thanh Hóa có nhiều loại gỗ quý hiếm như lát, sa mu, lim xanh, táu, sến, vàng tâm, dổi, de, chò chỉ... Diện tích luồng, tre, nứa lớn nhất trong cả nước với diện tích trên 50.000 ha, trữ lượng trên 1 tỷ cây, riêng luồng là 60 triệu cây. - Tài nguyên biển: Thanh Hóa có 102 km bờ biển hình cánh cung, chạy dài từ cửa Đáy (tỉnh Ninh Bình) đến Đông Hồi (huyện Tỉnh Gia) và vùng lãnh hải rộng lớn diện tích 1,7 vạn km2, có trữ lượng khoảng 100.000 - 120.000 tấn hải sản, với nhiều loại hải sản có giá trị kinh tế cao. Dọc bờ biển có 7 cửa lạch lớn nhỏ, trong đó có 5 cửa lạch chính là: lạch Sung, lạch Trường, lạch Bạng, lạch Hới và lạch Ghép, tạo điều kiện thuận lợi cho giao thông thủy, cho tàu thuyền đánh cá ra vào, là bến đậu, là nơi tụ điểm giao lưu kinh tế, đã và đang trở thành những cụm điểm, những trung tâm nghề cá của tỉnh. ở vùng cửa lạch là những bãi bồi bùn cát rộng hàng ngàn ha để nuôi trồng hải sản, trồng cói, trồng cây chắn sóng và sản xuất muối. Diện tích nước mặn ở vùng biển đảo Mê, Biện Sơn có thể nuôi cá song, trai ngọc, tôm hùm và hàng chục ngàn ha nước mặn ven bờ để nuôi nhuyễn thể vỏ cứng (ngao, sò…). Đây là sự ưu đãi lớn của tạo hóa giành cho Thanh Hóa, cần phát huy triệt để thế mạnh tự nhiên để phát triển kinh tế. - Tài nguyên nước ngọt: Thanh Hóa có nguồn tài nguyên nước phong phú. Nguồn nước mặt do bốn hệ thống sông chính (sông Mã, sông Bạng, sông Yên, sông Hoạt) tạo ra với tổng diện tích lưu vực là 39.756 km2, tổng lượng nước trung bình hàng năm 19,52 tỉ m3. Nước ngầm ở Thanh Hóa cũng rất phong phú về trữ lượng và chủng loại bởi có đầy đủ các loại đá trầm tích, biến chất, mac ma và phun trào. Trữ lượng nước ngầm cấp khoảng 400.000m3/ ngày. Nhìn chung, nguồn nước ngọt ở tỉnh Thanh Hóa dồi dào, cả tiềm năng nước mặt và nước ngầm, có thể đáp ứng được nhu cầu phát triển công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải và đời sống nhân dân. - Tài nguyên khoáng sản: Thanh Hóa là một trong số ít các tỉnh ở Việt Nam có nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú và đa dạng, nhiều loại có trữ lượng lớn, chất lượng tốt như đá vôi làm xi măng (trên 370 triệu tấn), sét làm xi măng (85 triệu tấn), crôm (khoảng 21 triệu tấn), quặng sắt (2 triệu tấn), secpentin (15 triệu tấn), đôlômit (4,7 triệu tấn)… Nguồn tài nguyên tự nhiên này là điều kiện rất tốt tạo nên sức hấp dẫn thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước để phát triển kinh tế. 2.1.1.3. Những đặc điểm xã hội và nhân văn - Nguồn nhân lực: Dân số trong độ tuổi lao động có khoảng 2,16 triệu người (theo số liệu năm 2006), chiếm tỷ lệ 58,8% dân số toàn tỉnh. Nguồn lao động của Thanh Hóa tương đối trẻ, có trình độ văn hóa. Tính đến năm 2007 lực lượng lao động đã qua đào tạo trên địa bàn tỉnh chiếm 31% dân số toàn tỉnh, tăng đáng kể so với tỷ lệ này năm 2001 (19,6%). Tỷ lệ lao động hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp khá cao, năm 2007 tỷ lệ này chiếm 67% trong tổng dân số, tương đương với 2.495.750 người. Số lao động chưa có việc làm còn nhiều, tỷ lệ thất nghiệp thành thị năm 2007 là 4,75%, tương đương với 176.937 người. Nếu tỉnh có chính sách đào tạo tốt, đây sẽ là nguồn bổ sung nhân lực quan trọng của tỉnh trong tương lai. Có thể nói, nguồn nhân lực của tỉnh Thanh Hóa rất dồi dào, cần tăng cường đào tạo và khai thác tốt để phát huy thế mạnh phục vụ cho phát triển nông nghiệp. - Truyền thống văn hóa, xã hội: Thanh Hóa là vùng đất địa linh nhân kiệt, có truyền thống lịch sử và văn hóa lâu đời. Trải qua biết bao biến động, thăng trầm cùng đất nước, vùng đất này xưa hào hùng, quật cường trong kháng chiến, nay lại đang khẳng định vị thế của mình, đóng góp vào sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Con người Thanh Hóa có truyền thống lao động cần cù, sáng tạo, chinh phục và cải tạo thiên nhiên để phát triển sản xuất; có truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo, ý chí vượt khó thành tài. Đó là những phẩm chất, truyền thống quý báu của người Thanh Hóa xưa và nay. Nhìn chung, Thanh Hóa có nhiều thuận lợi để thu hút đầu tư phát triển nông nghiệp, song cũng còn không ít những thách thức, khó khăn. Đó là: Diện tích miền núi rộng, địa hình hiểm trở, thời tiết khí hậu diễn biến thất thường, lụt bão, lốc xoáy, nắng hạn và rét hại thường xuyên xảy ra. Sự khác biệt giữa các mùa cao, tính chất thời vụ hết sức khắt khe, gây khó khăn lớn cho sản xuất nông nghiệp; Kết cấu hạ tầng còn yếu kém, trình độ phát triển kinh tế còn lạc hậu, điểm xuất phát thấp, sức hấp dẫn để thu hút đầu tư còn hạn chế; Dân số đông, lao động dồi dào nhưng kỹ năng, kỹ xảo còn thấp. Tư tưởng phong kiến của một bộ phận dân cư còn nặng nên năng lực tiếp cận cơ chế thị trường không cao. Tập quán tự túc, bảo thủ, ỷ lại, mặc cảm, tự ti,... còn diễn ra không ít. [27], [29]. 2.1.2. Tình hình phát triển nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa giai đoạn từ 2001 đến nay 2.1.2.1. Những mặt tích cực Thực hiện Nghị quyết Đại hội Tỉnh Đảng bộ lần thứ XV, lần thứ XVI, những năm qua tỉnh Thanh Hóa đó ban hành và triển khai thực hiện nhiều chủ trương, chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Nhờ vậy, nông nghiệp đó đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng, thể hiện một số mặt sau: Thứ nhất, mặc dự gặp nhiều thiờn tai (hạn hỏn, bóo, lũ) dịch bệnh, sản xuất, nụng, lõm, ngư nghiệp vẫn liên tục phát triển, góp phần vào tăng trưởng kinh tế chung và giữ vững ổn định kinh tế - xó hội, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia; cơ cấu sản xuất có sự chuyển dịch theo hướng tích cực. Giá trị sản xuất ngành nông, lâm, ngư nghiệp từ năm 2001 – 2007 tăng bỡnh quõn khoảng 5,61% năm, trong đó: ngành nông nghiệp tăng 5,18% (trồng trọt: 3,23%, chăn nuôi: 11,76%); ngành thuỷ sản tăng 10,25%; ngành lâm nghiệp tăng 3,78%/năm. Mức tăng trưởng GDP toàn ngành đạt bỡnh quõn khoảng 3,79% năm. Bảng 2.1: Tỷ trọng giá trị sản xuất, giá trị gia tăng nông nghiệp Đơn vị tính: Tỷ đồng Chỉ tiêu Thực hiện 2001 Thực hiện 2002 Thực hiện 2003 Thực hiện 2004 Thực hiện 2005 Thực hiện 2006 Thực hiện 2007 Nhịp độ tăng bình quân 2001 - 2007 I. Tổng giá trị sản xuất (theo giá CĐ), trong đó: 14963 16915 19231 20631 22791 26502 30348 12,51 Nông, lâm, ngư nghiệp 4596.5 4876.8 5243.9 5500.2 5757.5 5843.6 6379.1 5.61 - Nông nghiệp 3828.7 4040 4336.2 4534.6 4719.7 5100.2 5183.1 5.18 + Trồng trọt 3056.2 3255.3 3346.6 3472.5 3411 3661 3699.4 3.23 + Chăn nuôi 689.8 703.7 903.2 970.9 1219 1303.4 1343.9 11.76 +Dịch vụ 82.7 81 86.4 91.2 89.7 135.8 139.8 9.14 - Lâm nghiệp 334.5 347.3 348.7 348.9 361.6 393.87 418 3.78 - Thủy sản 433.3 489.5 559 616.7 676.2 730 778 10.25 II. Tổng giá trị gia tăng (theo giá 8332,1 9115,1 999810949,9 11910 13124,6 14497 CĐ), trong đó: 9,67 Nông, lâm, ngư nghiệp 3067.3 3222.5 3387.3 3571.3 3633 3833.2 3834 3.79 - Nông nghiệp 2538.8 2649 2767.6 2922 2947 3094.8 3070 3.22 - Lâm nghiệp 257.7 268.8 280.1 279.8 296 327.0 341.0 4.78 - Thủy sản 270.8 304.7 339.6 369.5 390 411.2 423 7.72 * Tỷ trọng GDP NN/ GDP tỉnh (%) 36,8 35,3 33,9 32,6 30,5 29,3 26,4 Nguồn: 11, 12, 13. Sản xuất nông, lâm, thuỷ sản tiếp tục phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá gắn với việc khai thác tiềm năng thế mạnh của từng vùng. Chuyển dịch cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp theo hướng tích cực. Tỷ trọng GDP của ngành nông, lâm, ngư nghiệp trong nền kinh tế tiếp tục giảm, từ 36,8% năm 2001 xuống cũn 21% năm 2007. Trong nội bộ ngành, sự chuyển dịch cơ cấu ngày càng rừ nột, tăng tỷ trọng những ngành có lợi thế so sánh, những loại hàng hoá có giá trị và hiệu quả cao. Ngành chăn nuôi tiếp tục phát triển, giá trị sản xuất trong cơ cấu toàn ngành tăng từ 15% năm 2001 lên 21% năm 2007. Ngành thuỷ sản có bước phát triển mạnh mẽ, giá trị sản xuất trong cơ cấu toàn ngành năm 2001 là 9,4%, năm 2005 là 11,7% và năm 2007 là 12,2%. Trong ngành trồng trọt, cũng có sự chuyển dịch theo hướng đa dạng hoá cây trồng, xoá dần tính độc canh cây lúa, cây lương thực để tăng hiệu quả sử dụng đất. Nhiều vùng sản xuất nông sản hàng hoá tập trung gắn với công nghiệp chế biến được hỡnh thành, sản phẩm đa dạng hơn. Chương trỡnh sản xuất lương thực đạt kết quả khá toàn diện, an ninh lương thực được đảm bảo vững chắc. Năng suất lúa năm 2007 đạt 52 tạ/ha, tăng 5,8 tạ/ha so với năm 2001, sản lượng lương thực năm 2007 đạt trên 1,5 triệu tấn, tăng 1,18 lần so với năm 2001. Đạt được kết quả trên là do các cấp, các ngành đã tập trung chỉ đạo đẩy mạnh thâm canh, chuyển dịch cơ cấu mùa vụ và ứng dụng tiến bộ về giống lúa lai, ngô lai có năng suất cao vào sản xuất. Diện tích gieo cấy bằng giống lúa lai tăng nhanh, từ 28,8% năm 2001 lên 41,7% năm 2007. Việc chỉ đạo chuyển dịch cơ cấu mùa vụ được đẩy mạnh, chuyển một phần diện tích gieo cấy lúa mùa sang mùa sớm để chủ động quỹ đất gieo trồng vụ đông. Vụ đông được mở rộng và đã trở thành vụ sản xuất chính ở nhiều địa phương, diện tích vụ đông năm 2007 đạt 58.816 ha tăng 10.531 ha so với năm 2001, trong đó diện tích ngô đông đạt trên 29.000 ha, sản lượng lương thực vụ đông tăng 65% so với năm 2001. Chương trình phát triển vùng nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến, đặc biệt là cây mía, đã được quan tâm chỉ đạo, sự phối kết hợp giữa nhà máy với chính quyền các huyện, xã khá tốt, vì vậy đã cơ bản đáp ứng đủ nguyên liệu cho 2 nhà máy chế biến đường Lam Sơn và Nông Cống. Đã hình thành các vùng nguyên liệu mía phía Bắc, dứa, sắn, cây ăn quả, góp phần chuyển đổi cơ cấu cây trồng và cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở vùng trung du miền núi. Đến năm 2007, diện tích và sản lượng một số cây công nghiệp tăng khá so với năm 2001: cây mía 32.940 ha, tăng 18,4% so với năm 2001; cây lạc 16.776 ha, tăng 3,7% so với năm 2001; đậu tương 5.293 ha, tăng 13% so với năm 2001; cao su 7.956 ha, tăng 3,2% so với năm 2001. Chăn nuôi phát triển mạnh, quy mô và chất lượng đàn gia súc, gia cầm đều phát triển so với 2001, đàn bò tăng bình quân hàng năm 10,78%, đàn lợn tăng 1,05%. Công tác thú y được quan tâm, phát hiện và kịp thời khoanh vùng, dập tắt các ổ dịch gia súc, gia cầm không để lây lan ra diện rộng. Nghề rừng tiếp tục được tổ chức lại theo hướng lâm nghiệp xã hội hóa, tập trung cho công tác trồng rừng, khoanh nuôi, chăm sóc và bảo vệ rừng, kết hợp trồng rừng phòng hộ với phát triển rừng kinh tế. Đã xây dựng được chiến lược phát triển lâm nghiệp đến năm 2010, quy hoạch trồng rừng ven đường Hồ Chí Minh và đang tổ chức triển khai phát triển rừng nguyên liệu giấy. Ngành thủy sản được quan tâm và có bước phát triển khá toàn diện trên tất cả các lĩnh vực: khai thác, nuôi trồng, chế biến và dịch vụ hậu cần nghề cá; Một số cơ sở vật chất kỹ thuật nghề cá bước đầu được đầu tư nâng cấp như cảng cá Lạch Bạng, Lạch Hới... góp phần nâng cao năng suất và chất lượng đánh bắt hải sản. Thứ hai, quan hệ sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn được củng cố, nhiều HTX kiểu mới ra đời. Quan hệ sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn được củng cố, nhiều HTX kiểu mới ra đời. Đến 2007, toàn tỉnh có 987 hợp tác xã, trong đó có 485 HTX dịch vụ nông nghiệp, 81 HTX tiểu thủ công nghiệp, 299 HTX dịch vụ điện năng, 32 HTX tín dụng. Việc thực hiện liên kết 4 nhà và Quyết định 80/TTg của Thủ tướng Chính phủ về khuyến khích mua nông sản hàng hóa thông qua hợp đồng được mở rộng, đến nay có trên 40.000 hộ nông dân đã ký hợp đồng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm với các nhà máy. Kinh tế trang trại đã hình thành và phát triển nhanh, đến nay toàn tỉnh có 3.385 trang trại, tăng 1.807 trang trại so với năm 2001. Loại hình trang trại khá đa dạng, trong đó: 1.337 trang trại trồng cây hàng năm, 187 trang trại trồng cây lâu năm và cây ăn quả, 714 trang trại chăn nuôi, 352 trang trại lâm nghiệp, 550 trang trại nuôi trồng thủy sản và 244 trang trại nông, lâm, thủy sản kết hợp. Một số mô hình trang trại đạt hiệu quả kinh tế cao như ở Quảng Thành (TP Thanh Hóa), Quý Lộc, Yên Lâm (Yên Định), Thọ Xương (Thọ Xuân), Hoằng Châu (Hoằng Hóa), Thọ Bình (Triệu Sơn),... Thứ ba, hệ thống kết cấu hạ tầng nông nghiệp được xây dựng mới, nâng cấp, và cải thiện, nhất là hệ thống thuỷ lợi. Đến cuối năm 2007, các công trỡnh thủy lợi đó đảm bảo năng lực tưới 253.300 ha/254.380 ha lúa, 52.177 ha rau màu, cây công nghiệp; tiêu úng cho 193.032 ha cây trồng, trong đó: tiêu tự chảy 150.650 ha, tiêu bằng động lực 42.382 ha. 2.1.2.2. Những mặt hạn chế Bên cạnh những kết quả đạt được, sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn vẫn cũn nhiều hạn chế, yếu kộm. Về tổng thể, nổi lên 3 vấn đề lớn như sau: Một là, tăng trưởng GDP toàn ngành thấp; chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn cũn chậm, tỷ trọng giỏ trị sản xuất ngành nụng, lõm, ngư nghiệp trong cơ cấu kinh tế nông thôn vẫn cao, chiếm hơn 70%; giá trị sản xuất trên một đơn vị diện tích (ha) mới đạt 23 triệu đồng, tỷ lệ lao động trong nông nghiệp vẫn chiếm 67% lao động toàn tỉnh; kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn cũn nhiều yếu kộm. Hai là, năng suất, chất lượng nhiều nông sản phẩm thấp, khả năng cạnh tranh không cao; chưa chủ động bảo đảm giống tốt cõy trồng, vật nuụi; ứng dụng tiến bộ khoa học – cụng nghệ cũn hạn chế trờn nhiều lĩnh vực, trỡnh độ chế biến sau thu hoạch rất thấp; tiêu thụ nông sản phẩm vẫn là vấn đề lớn hiện nay. Ba là, nhiều vấn đề bức xúc chưa được giải quyết cơ bản như lao động thiếu việc làm; sản xuất và đời sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng miền núi cũn nhiều khú khăn; khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng, giữa các tầng lớp dân cư có xu hướng tăng; môi trường tiếp tục ô nhiễm, suy thoái; các nguồn tài nguyên nhanh chóng cạn kiệt. 2.2. Thực trạng thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2001 - 2007 Trong những năm qua, nguồn vốn đầu tư phát triển nông nghiệp ngày càng tăng, góp phần quan trọng vào việc thực hiện đạt kết quả khá các mục tiêu: phát triển kết cấu hạ tầng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng ngành nông nghiệp, tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo, cải thiện và từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nông dân. 2.2.1. Kết quả thực hiện các nguồn vốn đầu tư phát triển nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa Nguồn vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp trong thời gian qua ở tỉnh Thanh Hóa đã được mở rộng và đa dạng hóa, số lượng vốn được tăng lên đáng kể. Tổng vốn đầu tư phát triển nông nghiệp giai đoạn 2001 - 2005 đạt 2.449,8 tỷ đồng, bình quân mỗi năm thực hiện được 490 tỷ đồng, chiếm 11% trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội; đặc biệt đến năm 2007 vốn đầu tư phát triển nông nghiệp tăng vượt bậc, ước đạt 1.687,1 tỷ đồng, chiếm 16% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, bằng 69% tổng vốn phát triển nông nghiệp của cả giai đoạn 2001-2005 và tăng gấp 2,2 lần so với năm 2006. Kết quả cụ thể được thể hiện thông qua bảng sau: Bảng 2.2: Cơ cấu vốn đầu tư phát triển ngành nông nghiệp tỉnh Thanh Hóa Đơn vị: Tỷ đồng TT Chỉ tiêu TH giai đoạn 2001 - 2005 TH 2006 TH 2007 Ước thực hiện 2008 Tổng số Tỷ lệ so với tổng vốn đầu tư (%) Tổng số Tỷ lệ so với tổng vốn đầu tư (%) Tổng số Tỷ lệ so với tổng vốn đầu tư (%) Tổng số Tỷ lệ so với tổng vốn đầu tư (%) Tổng vốn đầu tư toàn xã hội, trong đó: 22270,8 100 7701 100 10600 100 14500 100 * Nông - Lâm - Thuỷ sản 2449.8 11 767,7 10 1687,1 16 1,927,937 13,296 a, Phân theo nguồn vốn 2449.8 100 767,7 100 1687,1 100 1,927,937 100 - Vốn NS Trung ương đầu tư trên địa bàn 951,.2 39 146,9 19 874,2 52 877,841 46 - Vốn NS do địa phương quản lý (bao gồm cả vốn TƯ hỗ trợ) 585,5 24 247.9 32 325.5 19 387,890 20 - Vốn tín dụng đầu tư 86,9 3,5 45.0 6 50.0 3 35,000 2 - Vốn nước ngoài 14 0,2 15.2 2.0 31.4 1.9 170,206 9 - Vốn đầu tư của 19,5 1 12.8 2 6.1 0.4 7,000 0.4 DNNN - Vốn khu vực dân cư và các thành phần kinh tế 792,7 32,3 300.0 39 400.0 24 450,000 23 b, Phân theo các ngành, lĩnh vực 2449,8 100.0 767.7 100.0 1,687.1 100.0 1,927.9 100.0 - Nông nghiệp (trạm, trại) 448.1 18.3 185.7 24.2 292.0 17.3 258.0 13.4 - Thuỷ lợi 1531.5 62.5 403.9 52.6 1,136.8 67.4 1,302.4 67.6 - Nước sạch 45.9 1.9 8.0 1.0 8.5 0.5 78.5 4.1 - Lâm nghiệp 219.6 9.0 90.1 11.7 116.9 6.9 158.6 8.2 - Thuỷ sản 204.7 8.4 80.0 10.4 133.0 7.9 130.4 6.8 Nguồn: 12, 51, 62 * Nếu xét theo nguồn vốn đầu tư, kết quả thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp trên địa bàn tỉnh những năm qua cụ thể là: 2.2.1.1. Nguồn vốn trong nước Thanh Hóa luôn xác định vốn trong nước là nguồn vốn quyết định trong phát triển kinh tế nói chung và kinh tế nông nghiệp nói riêng. Thực tế những năm qua, nguồn vốn này vẫn giữ vị trí rất quan trọng, là nguồn vốn chủ yếu để duy trì và phát triển kinh tế. Tỷ trọng nguồn vốn này trong tổng vốn đầu tư phát triển nông nghiệp có xu hướng tăng, giai đoạn 2001 - 2005 là 96%, đến năm 2006, 2007 là 98%.  Thu hút vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước: - Cân đối ngân sách do địa phương quản lý: Trong giai đoạn 2001 - 2007, tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân hàng năm khá cao, đạt 9,6%, cao hơn mức bình quân chung cả nước (tốc độ tăng trưởng GDP cả nước giai đoạn 2001 - 2005 là 7,5%). Nhờ vậy mà thu ngân sách nhà nước tăng nhanh tạo điều kiện tập trung nguồn vốn cho đầu tư phát triển nông nghiệp. Giai đoạn 2001 - 2005, tổng chi ngân sách cho đầu tư phát triển nông nghiệp đạt 585,5 tỷ đồng, chiếm 17,6% tổng chi ngân sách cho đầu tư phát triển và chiếm 24% tổng vốn đầu tư toàn xã hội cho phát triển nông nghiệp trong giai đoạn này; đến năm 2007, ngân sách cho phát triển nông nghiệp đạt 325,5 tỷ đồng, bằng 55,6% tổng chi của cả giai đoạn 2001 - 2005. Theo số liệu thống kê, kết quả thu, chi ngân sách nhà nước hàng năm của tỉnh trong mấy năm gần đây được thể hiện như sau: Bảng 2.3: Thu, chi ngân sách nhà nước trên địa bàn ĐVT: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Ước năm 2007 I. Tổng thu NSNN 2.766.55 4 2.842.28 5 3.763.17 4 5.049.74 6 6.295.24 0 7.995.30 0 9.955.50 0 1. Thu nội địa 597.374 634.656 1.096.49 8 1.176.73 7 1.497.89 1 1.806.50 0 2.389.32 0 Tỷ trọng (%) 21,6 22,3 29,1 23,3 23,8 22,6 24 2. Thu khác 2.169.18 0 2.207.62 9 2.666.67 6 3.873.00 9 4.797.34 9 6.188.80 0 7.566.18 0 Tỷ trọng (%) 78,4 77,7 70,9 76,7 76,2 77,4 76,0 II. Tổng chi NSNN 2.515.77 5 2.588.70 8 3.240.25 3 4.879.92 7 5.740.79 2 7.068.90 0 9.156.50 0 1. Chi đầu tư phát triển 495.877 414.387 613.125 1.208.93 6 1.042.25 3 1.112.50 0 1.394.52 0 Trong đó: chi cho phát triển nông nghiệp 63.472,3 55.942,2 89.638,9 197.056, 6 179.410, 0 247.900, 0 325500 Tỷ trọng (%) 12,8 13,5 14,6 16,3 17,2 22,3 23,3 2. Chi khác 2.019.89 8 2.174.32 1 2.627.12 8 3.670.99 1 4.698.53 9 5.956.40 0 7.761.98 0 Tỷ trọng (%) 80,29 83,99 81,08 75,23 81,84 84,26 84,77 III. Các khoản thu được để lại để chi quản lý qua NSNN 250.779 253.577 522.921 169.819 554.448 926.400 799.000 Nguồn: 11, 12, 13. Qua biểu trên ta thấy, tỷ trọng vốn đầu tư phát triển nông nghiệp trong tổng chi đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước có xu hướng tăng lên cùng với việc tăng nguồn thu. Năm 2007, vốn chi đầu tư phát triển nông nghiệp ước đạt 325.500 triệu đồng, chiếm 23,3% tổng chi ngân sách cho đầu tư phát triển, gấp hơn 5 lần so với năm 2001. Tuy nhiên, mức chi ngân sách cho đầu tư phát triển nông nghiệp còn thấp so với nhu cầu vốn. Do vậy, để đạt mục tiêu tăng trưởng đề ra của ngành nông nghiệp thì cần phải kết hợp huy động từ nhiều nguồn vốn khác, đặc biệt là nguồn vốn hỗ trợ từ ngân sách trung ương. - Vốn ngân sách Trung ương đầu tư trên địa bàn: Vốn ngân sách trung ương đầu tư cho phát triển nông nghiệp trên địa bàn tỉnh những năm vừa qua đóng vai trò rất quan trọng, liên tục tăng mạnh qua các năm. Tổng vốn đầu tư giai đoạn 2001 - 2005 đạt 951,2 tỷ đồng, chiếm 39% vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp, đến năm 2007 đạt 874,2 tỷ đồng gần bằng 92% vốn đầu tư phát triển nông nghiệp của giai đoạn 2001 - 2005. Nguồn vốn này chủ yếu tập trung vào đầu tư xây dựng các công trình thủy lợi lớn, đê trung ương,... và đầu tư vào các lĩnh vực mũi nhọn như: lâm nghiệp, thủy sản,.. để tạo ra động lực thúc đẩy nông nghiệp phát triển.  Thu hút vốn đầu tư từ tín dụng ngân hàng: Huy động vốn tín dụng cho đầu tư phát triển có tốc độ tăng trưởng khá, giai đoạn 2001- 2005 đạt bình quân 18,1%/năm, tỷ trọng nguồn vốn này trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng từ 7,7% giai đoạn 1996 - 2000 lên 12,8% trong giai đoạn 2001 - 2005. Trong nguồn vốn tín dụng thì tỷ trọng cũng đã chuyển dịch theo chiều hướng tích cực đó là vốn tín dụng ưu đãi có xu hướng giảm dần qua các năm. Riêng vốn tín dụng ngân hàng cho đầu tư phát triển nông nghiệp giai đoạn 2001 - 2005 đạt 86,9 tỷ đồng, chỉ chiếm 3% vốn tín dụng cho đầu tư phát triển, chiếm 4% trên tổng vốn đầu tư phát triển nông nghiệp; năm 2006 đạt 45 tỷ đồng, chiếm 6% vốn đầu tư phát triển nông nghiệp; tương tự, năm 2007 đạt 50 tỷ đồng, chiếm 3%; ước 2008 chỉ đạt 35 tỷ đồng, chiếm 2%. Ngoài ra, hoạt động của hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân ở các xã, phường, thị trấn cũng đáp ứng được một phần đáng kể nhu cầu gửi tiền tiết kiệm và vay vốn của nhân dân ở các địa phương, đặc biệt phù hợp với người nông dân.  Nguồn vốn tự có của các doanh nghiệp nhà nước: Doanh nghiệp nhà nước trong ngành nông nghiệp (nông, lâm trường, thủy nông, công ty chế biến thủy sản...) trên địa bàn tỉnh giảm nhanh chóng trong những năm vừa qua nên huy động vốn cho đầu tư phát triển từ khu vực này rất hạn chế. Giai đoạn 2001 - 2005 đạt 19,5 tỷ, chiếm 1% vốn đầu tư phát triển nông nghiệp; năm 2006 đạt 12,8 tỷ đồng, chiếm 2%; năm 2007 đạt 6,1 tỷ đồng, chiếm 0,4% và ước năm 2008 đạt 7 tỷ đồng, chiếm 0,4%. Nguồn vốn này chủ yếu đầu tư sửa chữa nâng cấp các công trình thủy lợi, sản xuất giống, nuôi trồng thủy sản,...  Thu hút vốn đầu tư từ các khu vực dân cư và các thành phần kinh tế: Ngoài các nguồn vốn trên, các địa phương trong tỉnh cũng chú trọng huy động nguồn vốn đóng góp của nhân dân và các thành phần kinh tế cho đầu tư phát triển nông nghiệp. Do các doanh nghiệp tham gia sản xuất - kinh doanh trong ngành nông nghiệp được thành lập ngày càng nhiều và mức sống của người dân được tăng dần lên, theo đó tỷ lệ tiết kiệm cũng tăng lên nên nguồn vốn thu hút từ các tổ chức kinh tế và các tầng lớp dân cư ngày càng tăng và là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư phát triển nông nghiệp của tỉnh. Tổng vốn huy động khu vực dân cư và các thành phần kinh tế cho phát triển nông nghiệp giai đoạn 2001 - 2005 đạt 703,3 tỷ đồng, chiếm 29% tổng vốn đầu tư phát triển nông nghiệp; năm 2006 đạt 300 tỷ đồng, chiếm 39%; năm 2007 đạt 400 tỷ đồng, chiếm 24% và ước thực hiện 2008 đạt 450 tỷ đồng, chiếm 23%. 2.2.1.2. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài Mặc dù có nhiều lợi thế về tự nhiên và nguồn lực nhưng tính đến trước năm 1994 trên địa bàn tỉnh chưa thu hút được nguồn vốn đầu tư nước ngoài cho phát triển nông nghiệp. Đến giữa năm 1994, nhờ công tác thu hút các nguồn vốn nước ngoài bắt đầu được chú trọng nên đến hết năm 2007 toàn tỉnh có 27 dự án đầu tư nước ngoài được cấp phép đầu tư, trong đó ngành nông nghiệp có 14 dự án (13 dự án vốn ODA, 1 dự án FDI).

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Giải pháp thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa.pdf
Tài liệu liên quan